Sau đây là một bài viết về Trần Văn Trạch của một người biết rất rõ về ông. Mời xem
Trần Văn Trạch,
nhạc sĩ hài hước
của làng tân nhạc Việt Nam (1924-1994)
Viết về cuộc đời của một nghệ sĩ danh tiếng là khó rồi. Viết về một nghệ sĩ « lập dị » đã chinh phục cảm tình của khán giả qua ba thế hệ mà người đó lại là chú ruột của kẻ viết bài này thì lại khó khăn hơn nữa. Làm sao có thể viế một bài phê bình, nói gần nói xa như « mèo khen mèo dài đuôi » ?
Cái khó của tôi là không biết nhiều về ông chú của tôi đứng về mặt gia đình. Có thể nói là suốt thời gian tôi sống ở Việt Nam, tôi chỉ gặp chú tôi tổng cộng độ 10 lần mà thôi, gặp chú ít khi nói chuyện vì lúc đó tôi hãy còn nhỏ quá đi. Tôi chỉ nhớ được xem chú Ba Trạch trình diễn ba lần tại Saigon. Một lần vào khoảng năm 1948 ở tại Dancing Théophile, vùng Dakao. Lúc đó tôi mới có 4 tuổi. Một lần khác chú tôi từ Pháp về năm 1961 hát bài « Chiều mưa biên giới » (nhạc và lời : Nguyễn Văn Đông) với dàn nhạc Pháp thu vào băng sẵn để hát kèm theo kiểu hát playback và được xem chú tôi biểu diễn trò múa rối học được ở Pháp mang về. Lần chót trước khi tôi rời Việt Nam vào khoảng cuối năm 1961 tại một rạp hát ở Phú Nhuận với các màn bắn súng, nhái các thú vật như chú đã thường trình diễn.
Hình ảnh người chú tóc dài, chạy xe Mercedes cũ xì, được báo chí tặng cho danh hiệu « Quái kiệt » vẫn còn in rõ trong trí nhớ của tôi.
Cái khó thứ hai là tôi không ở trong nghề, không biết được bộ mặt thật sự của hậu trường sân khấu, cũng như không có « sống », « nếm mùi » ngọt, bùi, đắng, cay của nghề bán giọng hát đổi lấy chén cơm. Do đó, tôi không có một kỷ niệm nào để kể cho các bạn như đa số các nghệ sĩ Việt Nam mà tôi may mắn được gặp và nghe họ kể những bước thăng trầm của cuộc đời rày đây mai đó trên những đường mòn Việt Nam từ thành thị đến thôn quê...
Vài dòng về thời thơ ấu ở Sầm Giang
Trần Văn Trạch, tên thật là Trần Quang Trạch, sinh năm Giáp Tý (1924), tại làng Đông Hòa, tỉnh Mỹ Tho. Trong gia đình có rất nhiều người biết về nhạc, nhất là nhạc cổ. Ông sơ tôi, Trần Quang Thọ, nhạc sĩ triều đình Huế. Ông cố tôi, Trần Quang Diệm, ngày xưa được gởi ra Huế để học đàn tỳ bà trong thành nội và nổi tiếng về đàn tỳ bà trong Nam cùng với sự chế cách viết bài bản cho đàn tỳ bà. Ông nội tôi, Trần Quang Triều, tự Bảy Triều, nổi tiếng trong giới cổ nhạc qua tiếng đàn kìm lên dây theo kiểu dây Tố Lan do ông nội tôi sáng chế ra. Dây Tố Lan của đàn kìm khác với cách lên dây thường của đàn kìm. Bình thường đàn kìm có hai dây được lên dây cách nhau một quãng 5 (do – sol). Còn lên dây Tố Lan thì hai dây phải cách nhau một quãng 7 thứ (do – sib). Gia đình bên phía ông nội tôi còn có bà cô Ba tên là Trần Ngọc Viện, người đã thành lập gánh hát Đồng Nữ vào khoảng năm 1927 với một điểm đặc biệt là tất cả các diễn viên trong gánh hát Đồng Nữ, một hiện tượng duy nhứt trong lịch sử hát cải lương miền Nam.
Bên phía bà nội tôi thì có ông Cậu Năm tên là Nguyễn Tri Khương (cháu nội của ông Nguyễn Tri Phương, một vị quan nổi tiếng dưới thới triều Nguyễn), từ trần vào năm 1962, là một nhạc sĩ chuyên về sáo, lại thông hiểu về lý thuyết nhạc cổ, đã giúp cho Ba tôi là GS Trần Văn Khê khi viết luận án tiền sĩ về nhạc Việt. Ông Nguyễn Tri Khương còn là thầy tuồng của gánh hát Đồng Nữ và là tác giả của những bài hát mới mà ngày nay rất ít người biết như các bài « Thất trĩ bi hùng », « Yến tước tranh ngôn », « Phong xuy trịch liễu », « Bắc Cung Ai », vv… Ông Cậu Tư, anh của ông Nguyễn Tri Khương, có một người con rất giỏi về. Đó là cồ nhạc sĩ Nguyễn My Ca (tên thật là Nguyễn Mỹ Ca) mất vào năm 1944 trong lúc chống Pháp. Bác My Ca là anh em cô cậu với Ba tôi và chú tôi, chỉ được người Việt biết qua nhạc phẩm « Dạ Khúc »
Những dòng trên đây được viết ra với mục đích là giúp cho các bạn hiểu rõ trong bối cảnh nào chú Trần Văn Trạch đã sống và hấp thụ nhiều khía cạnh âm nhạc trong khoảng thời ấu thơ tại làng Vĩnh Kim, làng Đông Hòa, làng Bình Hòa Đông của tỉnh Mỹ Tho miền Nam Việt Nam.
Ông Nội tôi có ba người con. Người con cả là Trần Văn Khê (sinh năm 1921, từng là giáo sư dân tộc nhạc học tại đại học đường Sorbonne, Paris, hưu trí năm 1987, và hiện giờ để hết thì giờ để viết các quyển hồi ký về cuộc đời của mình – đã xuất bản được 6 quyển tại Việt Nam từ năm 1998,sang Pháp năm 1949 và hiện sinh sống tại thành phố Vitry sur Seine, ngoại ô Paris). Kế đến là Trần Văn Trạch, sinh năm 1924, nổi danh là Quái kiệt trong làng tân nhạc Việt, từ trần năm 1994 tại Paris. Người con gái út, tên là Trần Ngọc Sương, sinh năm 1925, từng là ca sĩ nổi tiếng lấy biệt hiệu là Ngọc Sương, sau đổi lại là Thủy Ngọc trong những năm 1948-50, và hiện sống tại Montreal, Canada.
Chú Trạch lúc nhỏ rất có khiếu về nhạc. Học đánh đàn kìm và đàn tỳ bà rất sành. Lại có giọng hát ấm êm, ca « vọng cổ » mùi không thua gì Năm Nghĩa thời thập niên 30. Tuy biết nhiều về cổ nhạc, nhưng lại thích tân nhạc hơn. Lúc khoảng thời đó (1937-39), nhạc sĩ My Ca rất giỏi về đàn violon, và Ba tôi thiên về đàn mandoline. Hai người thường hợp tấu để đàn các bản nhạc Pháp nổi tiếng thời đó như « J’ai deux amours », « Marinella ». Phong trào phát động nhạc mới được giới trẻ theo một cách mạnh mẽ. Chú tôi theo học chữ ở Collège de Mỹ Tho (trường trung học Mỹ Tho) cho tới năm 1942 thì rời ghế nhà trường.
Tuy ở trong gia đình nhạc sĩ, nhưng lại là người thích buôn bán làm ăn, nên chú Trạch mới lập ra lò làm chén ở Vĩnh Kim. Sau một vài năm buôn bán, coi bộ không khá lắm, nên bỏ nghề lên Saigon tìm việc sinh sồng. Khoảng năm 1945, sau khi Nhật đầu hàng, Pháp trở lại Việt Nam, những phòng trà nho nhỏ mở cửa trở lại. Chú tôi mới bắt đầu kiếm được một phòng trà nhỏ (loại salon de thé) ở đường Lagrandière.
Danh từ « Đại Nhạc Hội »xuất hiện
Có lẽ rất ít người biết từ đâu xuất phát danh từ « đại nhạc hội ». Chú Trần Văn Trạch hoạt náo và hát tại dancing Théophile ở vùng Dakao từ năm 1947-48. Các bản nhạc hài hước đầu tiên không phải do Trần Văn Trạch sáng tác mà là do nhạc sĩ Lê Thương (1914-1996) viết ra đầu tiên. Nhạc sĩ Lê Thương được nhiều người biết qua các bản « Thằng Cuội », « Hòn Vọng Phu 1, 2, 3 ». Chính nhạc sĩ Lê Thương đã chính thức khơi mào một loại nhạc hài hước như bản nhạc « Hòa Bình 48 » (Lê Thương, 1948) đã do Ba tôi hát trong dĩa 78 vòng của hãng ORIA thu bên Pháp năm 1949, và Chú tôi hát ở Saigon với những màn bắn súng, máy bay dội bom phát sinh từ đó. Bản nhạc « Liên Hiệp Quốc » (Lê Thương, 1949) cũng được Ba tôi và chú tôi tung ra thị trường với những màn hài hước bắt chước các thứ tiếng Anh, Nga, Tàu, vv… Nhạc sĩ Lê Thương có viết năm 1948 một bản nhạc tựa là « Làng báo Saigon » do Trần Văn Trạch hát vài lần trên sân khấu nhưng bị chánh phủ cấm. Lời bài hát « Làng Báo Saigon » do nhạc sĩ Lê Thương viết như sau :
Báo Sài Thành từ suốt ba năm nay Sống một cuộc đời bất bình, mập mờ cũng hay Nếu mai sau mà anh muốn nói láo Cứ nghe tôi mà anh cứ viết báo Công chúng đang buồn, nghe nói một hồi Như thác nhớ nguồn, nên cũng đành thôi.
Nào xin kính chào này Mừng tân thủ tướng mới Chừng coi gió chiều nào Là xoay đổi hướng ….vv…
Viết lời nhạc có tính cách chính trị, nên sau đó, Lê Thương, Trần Văn Trạch, Phạm Duy, Đức Quỳnh, đã « bị mời » vào bót Catinat mấy ngày. Đến năm 1949, Trần Văn Trạch thấy rằng tân nhạc bắt đầu thịnh hành. Các ca sĩ như Minh Trang, Ngọc Sương, Ngọc Hà, Tâm Vấn góp mặt trên đài phát thanh Pháp Á, trên các sân khấu trình diễn tân nhạc. Trần Văn Trạch mới có ý nghĩ « lăng xê » (từ tiếng Pháp là động từ « lancer ») danh từ « Đại nhạc hội » để chỉ định những buổi hát bao gồm ca, vũ, nhạc, kịch trong một chương trình văn nghệ. Từ đó trở đi, « đại nhạc hội » được thông dụng cho tới ngày nay.
Sau đó, chú Trần Văn Trạch thấy rằng muốn khuếch trương khía cạnh tân nhạc, chỉ có cách là mang tân nhạc xen kẽ với những màn ảo thuật, xiệc, vào những buổi chiếu phim hát bóng vì lúc đó phim hát bóng rất thịnh hành, người đi coi hát bóng rất đông, thuận tiện cho việc phổ biến tân nhạc Việt hãy còn phội thai trong giai đoạn này.
Phụ diễn tân nhạc trên sân khấu
Sau thế chiến thứ hai, cuộc sống trên thế giới trở lại bình thường. Nền kinh tế bắt đầu tìm lại thế quân bình. Dân chúng bắt đầu đi xem hát, nghe nhạc, có nhiều cách giải trí hơn. Lúc bấy giờ, xứ Việt Nam hãy còn là thuộc địa của Pháp. Mà ở xứ Pháp, vào thời buổi đó, bắt đầu có chuyện phụ diễn tân hạc hay những màn hát thuật giữa phim thời sự, quảng cáo, và phim chánh. Trần Văn Trạch thấy hình thức đó hay nên mới tìm cách phổ biến hiện tượng đó tại Saigon. Nhạc sĩ Đức Quỳnh và chú tôi hợp tác với nhau, và lựa rạp hát bóng Nam Việt làm nơi thử thách đầu tiên...
Lúc đó là vào khoảng năm 1951. Được dân chúng thích và đòi hỏi.. Trần Văn Trạch mới lần lượt phổ biến chuyện phụ diễn tân nhạc tới những rạp hát khác và lần lần làm thành « hệ thống dây chuyền ». Tân nhạc thiếu bài mới để hát. Các nhạc sĩ mới đua nhau sáng tác những nhạc phẩm phù hợp với nhu cầu của dân chúng trong thành phố. Các ca sĩ không thể đem lên sân khấu những ca khúc hùng mạnh đầy màu sắc đấu tranh, giặc giã. Nhờ đó mà mới nẩy sanh ra phong trào sáng tác nhạc rất mạnh. Trần Văn Trạch bắt đầu nổi tiếng về tài hài hước và kể chuyện, rồi sang hát một vài bản nhạc diễu để chọc cười khán giả. Bài bản lại thiếu, nên chú tôi bắt buộc phải sáng tác những bản nhạc đúng « ni tấc ». Nhờ đó mà một số bản nhạc « diễu » được ra đời và đi sâu vào lòng dân chúng mãi cho tới ngày hôm nay nhứt là khán giả vào lứa tuổi 50- 80 tuổi.
Những nhạc phẩm hài hước của Trần Văn Trạch
Trần Văn Trạch có một lối hát mộc mạc, đúng giọng miền Nam. Chú tôi là một trong số rất ít ca sĩ chuyên hát với giọng miền Nam, phát âm không màu mè, dùng lời lẽ đơn giản, không cầu kỳ, những tữ ngữ được nghe trong đời sống hàng ngày, nhưng chủ đề lấy từ cuộc sống người dân nghèo nên rất dễ làm xúc động người nghe.
Bài hát hài hước đầu tiên được Chú tôi sáng tác là « Anh phu xích lô » (1951). Về nhạc thì sử dụng âm giai thất cung với những câu nhạc dễ nhớ được lập đi lập lại. Về tiết tấu thì sử dụng nhiều nhịp ngoại, hát mau và phải « giựt » theo kiểu swing để tạo sự vui nhộn. Tôi chỉ nhớ đoạn đầu của bài hát « anh phu xích lô » như sau :
Có ai mà muốn đi tới Chợ Lớn Có ai mà muốn đi tới Chợ Mới Có ai mà muốn đi chóng cho mau tới Ê Tôi xin mời lại đây
Chiếc xe này có bảo kiết thật chắc Bánh xe thì tốt thùng có bọc sắt Nếu khi mà có đụng phải xe jeep Quý ngài chẳng hề hấn gì.
Khi thấy loại nhạc này « hấp dẫn » người nghe, Chú Ba Trạch mới tiếp tục viết thêm một số nhạc phẩm hài hước khác như « Chuyến xe lửa mùng 5 » (1952) kể lại chuyện một anh chàng lấy xe lửa về thăm mẹ. Trên xe lửa, để cho qua thì giờ, ngồi đếm cột đèn mà bị người bên cạnh hỏi tới hỏi lui. Đến khi về nhà mới hay mẹ mình đã từ trần. Câu chuyện lúc đầu thì thấy cười. Nhưng kết cuộc là « cười ra nước mắt ».
Cho tới ngày ký hiệp định Genève ( 1954), Trần Văn Trạch viết khá nhiều bài như « Cái tê – lê – phôn », « Cái đồng hồ tay », « Anh chàng thất nghiệp », « Cây bút máy », « Đừng có lo »
Để cho các bạn biết sơ qua một số bài với âm điệu, tôi xin tạm ghi lại một đoạn nhỏ của một vài bài điển hình như « cái tê – lê – phôn » được bắt đầu như sau :
Từ đâu nạn đưa tới Gắn chi cái tê lê phôn Bởi tôi muốn làm tài khôn Khiến tôi muốn thành ra ma Không vào Chợ Quán cũng đi Biên Hòa
vv…..
Trong năm 1952, tôi muốn nói tới hai bản nhạc của Trần Văn Trạch đã được nhiều người biết tới mà không phải là nhạc hài hước. Đó là bài « Chiến xa Việt Nam » vả một bản nhạc khác mà hầu hết những người Việt miền Nam đều đã có nghe qua rất thường. Đó là bài « Xổ số kiến thiết quốc gia ». Trong vòng 23 năm, từ 1952 tới 1975, mỗi tuần tại rạp Norodom (sau đổi lại thành rạp Thống Nhất), đều có nghe hát bản nhạc này trước khi xổ số.
Tôi ghi lại đây bản nhạc này mà tôi không thấy trong những tập nhạc được xuất bản tại hải ngoại sau 1975.
Kiến thiết quốc gia (nhạc và lời : Trần Văn Trạch, 1952)
Kiến thiết quốc gia Giúp đồng bào ta Xây đắp muôn người Được nên cửa nhà
Tô điểm giang san Qua bao lầm than Ta thề kiến thiết Trong giấc mộng vàng
Triệu phú đến nơi Chỉ mười đồng thôi Mua lấy xe nhà Giàu sang mấy hồi
Mua số quốc gia Giúp đồng bào ta Ấy là thiên chức Của người Việt Nam
Mua số mau lên Xổ số gần đến Mua số mau lên Xổ số gần đến
Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 14/Oct/2009 lúc 1:12pm
|