![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Thơ Văn | |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
Người gởi | Nội dung | |||
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() Gởi ngày: 23/Mar/2010 lúc 11:23pm |
|||
Mời Đối Ẩm - Kết ThâmTình
Xin lên tiếng trước, kẻo bà con đồng hương và thân hữu tưởng lầm mk ... tài giỏi !
![]() "Mời đối ẩm" là mk mời dùm cho anh Nguyễn Thanh Nhàn , anh Cả đồng môn của của mk , khóa 1- CTKD , VĐH Dalat .
( Khi mk hỏi ý , anh Nhàn vui vẻ chịu ngay)
" Phong Kiều Dạ Bạc " , bài viết của anh Nguyễn Thanh Nhàn đã đăng trên forum cựu sinh viên VĐH ĐL ( TNIC ) khá lâu . Sau, anh Nhàn có gửi lên Web Mỏ Cày.
Hôm nay , với đề tài này, anh Nhàn một lần nữa lên tiếng trên TNIC.
KSNS ( Khách Sạn Ngàn Sao ) liền góp tiếng .
'KSNS' là nick của một Thụ Nhân khóa 10, anh chàng này thích ngao du sơn thủy , và may mắn được thỏa ước nguyện. KSNS đi hết 5 châu ( dĩ nhiên gồm cả Châu Phi ) . Bản chất phóng khoáng , thích... "màn trời chiếu đất" nên lấy nick "Khách Sạn Ngàn Sao" . Hiện nay định cư tại Anh Quốc .
Đọc các bài viết trao đổi qua lại về bài "Phong Kiều Dạ Bạc" , mk thấy thích , dù hiểu ... chẳng bao nhiêu( !!! ).
Xin gửi lên DĐ Gò Công , mong Quý Thầy Cô và Quý Anh Chị , những ai yêu thích loại hình văn học này tham gia cho vui.
Trân trọng,
mk
Copy từ TNIC :
( xin đọc bài dưới cùng trước )
Wed, March 24, 2010 8:40:52 AM
From : KSNS <khachsanngansao...>
Subject: Huyền thoại hồ đồ: Phong Kiều Dạ Bạc KSNS đồng ý với anh Nhàn rằng trăng trong thơ Trương Ý Tôn là trăng hạ tuần. tức trăng sau rằm vì quạ kêu là thường đã bước sang canh năm (giờ Dần). Trong khi đó, trăng trong thơ thầy trò vị sư kia là trăng thượng tuần vì rằng sơ tam sơ tứ đây là ngày mồng ba mồng bốn chứ không thể là canh ba canh tư do mảnh trăng thầy trò sư ông này diễn tả là nửa như cái liềm nửa như cánh cung là tượng trăng mùng ba mùng bốn (mùng ba câu liêm, mùng bốn lưỡi liềm) trong khi trăng hạ tuần tương đương (trăng đêm 28 & 29) cũng lưỡi liềm và cánh cung nhưng ngược lại. Vì thế, tích này là tích dỏm như lời anh Nhàn nói là rất hợp lý. Tuy nhiên, cụm từ ' dạ bán chung thanh' có chút không nhất thiết là tiếng chuông nửa đêm mà có lẽ phải hiểu là nửa tiếng chuông đêm (dạ là đêm; bán là một nửa; chung thanh là tếng chuông) vì rằng trong văn phạm chữ Hán, tĩnh từ đứng trước danh từ như trong tiếng Anh (mỹ nữ = beautiful woman) chứ không phải đi sau danh từ như trong tiếng Việt và tiếng Pháp (trời xanh = le ciel bleu). Do vậy, 'dạ bán' không đúng văn phạm Hoa ngữ. KSNS tạm dịch bài thơ Phong Kiều dạ bạc, cả tựa lẫn thơ như sau: Đêm tàn bến cầu phong Trăng tà quạ réo sương đầy trời Sầu ngỏ cùng phong với đèn chài Ngoài thành Cô Tô Hàn Sơn Tự Nửa tiếng chuông đêm vọng thuyền ai. KSNS Danh kha? danh phi thu*o*`ng danh (La~o Tu*?) o kh o phi th ng o Danh kh danh phi th ng danh (Lão T ) From: nhan nguyen <... > Sent: Tue, March 23, 2010 3:21:47 PM Subject: Huyền thoại hồ đồ: Phong Kiều Dạ Bạc
Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 23/Mar/2010 lúc 11:35pm |
||||
mk
|
||||
![]() |
||||
trankimbau
Moderator Group ![]() Tham gia ngày: 02/Jun/2007 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 424 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Một chiếc khăn tơ. Một chiếc khăn tơ. Vậy thôi, lấy gì làm đẹp. Sao không thêu lên ấy có thể là cặp chim, bông hoa, nhành trúc... khăn dễ nhìn hơn?
Văn chương thi phú cũng vậy, cũng cần có những giai thoại cho mặt nước lung linh hơn và cho hậu thế tốn nhiều giấy mực hơn. Không phải chỉ có một "Phong Kiều dạ bac" mà còn biết bao PKDB khác. Thành thử bàn là bàn cho vui, cho có cành mai trên chiếc khăn tơ ấy mà. Chớ chuyện:
"Giang sơn một gánh giữa đồng
Thuyền quyên ứ hự anh hùng nhớ chăng"
của ngài Uy Viễn Tướng Công đó làm sao để xác minh? Mà muốn xác minh chắc cũng hao nhiều giấy mực chớ không phải chơi.
Trở lại chuyện Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế. Bài thơ không có vấn đề. Vấn đề là chỗ Trương Kế có lên chùa vào ngày hôm sau không. Thức gần hết đêm, phải ngủ chớ. Cứ coi như nôn nóng tạ ơn thì gật gà gật gưởng đi lễ Phât cũng được. Ai dè lại gặp Thầy trụ trì cũng không thèm ngủ, hai bên nhiều chuyện mới ra cớ sự nầy.
Trăng của Trương Kế là "nguyệt lạc", là trăng "rụng" và trăng không còn là trăng nữa. "Sương mãn thiên" mà. Ai hỏng biết, gần sáng, trên mặt sông, sương dày dữ lắm. Chỉ cần "giang biên" thôi cũng đủ mờ mịt rồi huống chi "mãn thiên"?
Nhưng lại có Mãn Thiên viết hoa, dịch là ngọn núi Mãn Thiên. Vậy thì sương trên núi Mãn Thiên hay sương đầy trời đây?
Nếu là sương đầy trời thì mặt hồ cũng bị sương phủ mờ mịt che mất vầng trăng rọi bóng xuống, lấy đâu mà hai vị trụ trì thấy nửa vầng trăng mà mần thơ. Sự lẫn lộn nầy mới là vấn đề tranh cãi.
Lại có Ô ĐỀ viết hoa, dịch là thôn Ô ĐỀ.
Nếu là Mãn Thiên và Ô ĐỀ thì thơ Trương Kế có gì hay?
Trăng lặn ở làng Ô Đề, sương trên núi Mãn Thiên. Có thêm thắt, nhưn nhị nầy vì có người không chịu thêu mai trên khăn tơ mà chi muốn thêu trúc.
Giống như "cành lê trắng điểm một vài bông hoa", nhân có chữ "lê" thì chộp đại để chứng minh Nguyễn Du hoài Lê đó mà.
Thời đại thơ Đường thịnh hành, có nhiều người bỗng dưng trở thành thi sĩ, nhưng chắc gì thơ họ còn hay đến hôm nay mặc dù được in thành sách hay đi vào văn học Trung Hoa. Chẳng hạn bài thơ của Giã Đảo, cũng 4 câu mà ngay câu đầu đã lãng xẹt. Vậy mà ông phải suy nghĩ tới 3 năm mới làm được
"Nhất cú tam niên thành"
Một câu làm mất ba năm! Câu gì vậy? Thì là câu nầy. Cai công phu suy nghĩ 3 năm để làm được câu như vậy thì thật là hỡi ơi. Nêu thi sĩ ta bây giờ dám phang ra:
"Ba mươi năm làm câu thứ nhất"
Thử có ai dám ghi vào văn học câu thơ nầy không? Không bị ăn cà chua là may lắm rồi.
Vậy thì cứ xem thơ là khăn tơ. Giai thoại là người muốn thêu hoa gấm trên khăn tơ ấy, ai thêu giống gì cũng được, màu gì cũng xong, thây kệ, mình cứ ngăm khăn tơ cho vui thôi. Được không?
|
||||
kb
|
||||
![]() |
||||
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
|||
'Không được !' anh Báu ơi .
![]() Nếu trả lời 'được' , cuộc đối ẩm chỉ đến đây thôi sao ?
Hãy cho người cơ hội "thêu lên ấy có thể là cặp chim, bông hoa, nhành trúc... khăn dễ nhìn hơn" chứ.
Thây kệ , cũng là cho vui mà thôi nhé .
Chưa kể phần nội dung khác trong bài viết của anh Báu , nhiều thú vị.
mk chờ các vị khác lên tiếng , nhất là anh Nhàn.
Mong anh Nhàn đừng... tâm đắc "Nhất cú tam niên thành" hay "Nhất cú tam thập niên thành" nhé !
Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 27/Apr/2010 lúc 2:20am |
||||
mk
|
||||
![]() |
||||
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Deleted
Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 15/Jul/2010 lúc 8:47pm |
||||
mk
|
||||
![]() |
||||
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Mời cả nhà đọc bài "góp tiếng" về tác phẩm Phong Kiều Dạ Bạc , của Khách Sạn Ngàn Sao ( KSNS )
mk
Bài của GS Báu cũng đồng ý với anh Nhàn rằng giai thoại trùng hợp bối cảnh làm thơ của Trương Kế và thầy trò ông sư là phi lý. Vì thế, cũng chẳng có bất đồng.
Tuy nhiên, GS Báu có nói đề cập Ô Đề và Mãn Thiên là hai danh từ riêng. KSNS đã dùng chữ Hán Ộ Đề Thôn (烏 啼 村) và Mãn Thiên Sơn (滿 天 山) search cả google.com lẫn baidu.com cũng không thấy có nơi nào mang hai tên đó cả. Vì thế, khả năng hai từ này là danh từ riêng rất thấp.
Hơn nữa, sương là gì? Sương (霜) là hơi nước đọng lại thành giọt nhỏ rơi xuống.
Sương mù là do Bạch Đầu Sương (sương trắng) tan thành mù bốc lên.
Sương mai (sượng lộ) hay hạt móc là do nhiệt độ mặt đất về đêm hạ thấp nên hơi nước bám vào cây cỏ đọng lại thành từng hạt quanh cành cậy ngọn cỏ.
Vì thế, nếu là sương trên núi Mãn Thiên thì chắc Trương Kế không thấy được. Trăng hạ tuần sắp lặn không đủ sáng để thấy sương mù trên núi.
Đó là chưa nói thành Cô Tô và Hàn Sơn Tự nằm ở Tô Châu, nằm ở đồng bằng duyên hải ở hạ lưu sông Dương Tử (tỉnh Giang Tô, TQ).
KSNS đã hơn một lần đi du lịch Tô Châu nhưng không nói có núi ở Tô Châu, có hồ nước lớn, có hoa viên mang màu sắc cổ điển rất đẹp.
Lúc đi KSNS có chụp hình Hàn Sơn Tự nhưng lâu quá khó tìm lắm, trên mạng có mấy tấm rất đẹp, KSNS gởi xem cho vui.
Giai thoại là cái người sau dệt nên để cho ra vẻ mình cũng biết chút ít đó mà. Người xưa không còn nữa thì ai ngồi đây mà cãi ? Nhưng giai thoại về Phong Kiều Dạ Bạc là phi lý rành rành.
KSNS
DDa.o kha? dda.o phi thu*o*`ng dda.o Danh kha? danh phi thu*o*`ng danh (La~o Tu*?) o kh o phi th ng o Danh kh danh phi th ng danh (Lão T ) "Lúc đi KSNS có chụp hình Hàn Sơn Tự nhưng lâu quá khó tìm lắm, trên mạng có mấy tấm rất đẹp, KSNS gởi xem cho vui."
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
||||
mk
|
||||
![]() |
||||
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Vị trí Hàn Sơn Tự tại Tô Châu
( KSNS copy từ net )
![]() |
||||
mk
|
||||
![]() |
||||
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Anh Phạm Văn Bân là Thụ Nhân- K7 (bạn cùng lớp với mk ) , đọc bài viết về "Phong Kiều dạ Bạc" của anh Nguyễn Thanh Nhàn ( đã post lên forum của VĐH DaLat, khoảng 2006) , anh Bân tham gia 'góp tiếng' vì đúng sở trường của "chàng' .
mk xin gửi cả nhà cùng đọc , xem như phong phú thêm cho mục "Đối Ẩm" này.
mk
Hi anh Nhàn, Cám ơn anh gửi cho coi bài Phong Kiều Dạ Bạc cùng nỗi buồn rất thành thực của anh. Tuy nhiên, xin giỡn với anh cho vui : anh ôm thơ đường, thơ muối làm gì cho mệt vậy?
![]() Điều mà anh nghĩ là anh nhầm lẫn không phải là vô căn cứ. Có lẽ anh suy nghĩ dựa vào câu dịch của Cụ Trần Trọng San: Mồng ba, mồng bốn, trăng mờ Nửa dường móc bạc nửa như cung trời Một bình ngọc trắng chia hai Nửa chìm đáy nước nửa cài từng không (Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung Bán tự ngân câu bán tự cung Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn Bán trầm thủy để bán phù không) Từ "Mồng ba, mồng bốn, v.v." anh mới suy nghĩ đến các vô lý của bài thơ. Thực ra, do bài thơ quá nổi tiếng nên mọi người tha hồ giả sử, chẳng biết trúng trật ra sao cả! Thí dụ, có người nói Hàn San là tên của vị sư ở chùa Hàn San nên kiêng gọi tên tục (kỵ húy). Tên chùa Hàn San còn có nghĩa là núi lạnh. Nếu chữ lạnh viết hoa thì có thể hiểu đó là danh từ riêng: cái núi có tên là Lạnh, giống như núi Thái, sông Tiền, sông Hậu. Người ta suy diễn lung tung là vì tiếng Hán có quá nhiều tiếng đồng âm, dị nghĩa và vì chữ Hán viết kiểu ô vuông, không có các quy ước chữ hoa và chữ thường như Anh, Pháp. Có một bản dịch ra tiếng Anh: Hàn San được dịch là Cold Mountain (theo quy ước tiếng Anh thì viết hoa như thế để chỉ là danh từ riêng). Trên một tờ báo Việt ngữ xuất bản ở Mỹ, có người vội dựa vào tin tưởng "Hàn San là tên của nhà sư" để chỉ trích bản dịch tiếng Anh sai. Thực ra, bản tiếng Anh không sai nếu đối chiếu với nguyên bản chữ Hán viết: 寒山 寺, tức là hàn san tự, nghĩa là chùa núi lạnh. Ở đây, cần hiểu biết về tập quán, nguyên tắc dịch, chữ Hán, chữ Anh, v.v. Vị nào viết trên báo đó đã quá vội để tán nhảm! Dưới đây là nguyên văn bài thơ: 楓 橋 夜 泊 張 機 月 落 烏 啼 霜 滿 天 江 楓 漁 火 對 愁 眠 姑 蘇 城 外 寒 山 寺 夜半 鐘 聲 到 客 船 Tiếng Hán Việt: Phong Kiều Dạ Bạc Trương Kế nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên giang phong ngư hỏa đối sầu miên cô tô thành ngoại hàn san tự dạ bán chung thanh đáo khách thuyền 1) Bản dịch tiếng Anh của Witter Bynner: A night mooring near Maple Bridge
2) Bản dịch của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu: Trăng tà tiếng quạ kêu sương Quạ kêu, trăng lẩn sương trời 4) Cụ Trần Trọng Kim viết trong cuốn "Đường Thi" như sau:
Kết luận: Đúng như Cụ Trần Trọng Kim nhận xét: "Bài thơ này hay ở âm điệu, ít khi làm được như thế." Về ý thơ, vẫn là một ý thơ tiêu biểu của loại thơ Đường nhưng độc đáo là khi ngâm; mà phải ngâm bằng tiếng Quan thoại mới được. Do đó, các cố gắng dịch ra tiếng Việt, tiếng Anh chỉ có tác dụng giải nghĩa; còn phần hay nhất của bài thơ là âm thì không làm sao mà thay thế được. Dưới đây là phần âm Quan thoại (rất tiếc là tôi không biết cách bỏ ký hiệu dấu cho bốn âm quan thoại; nếu tò mò thì nhờ người Trung quốc đọc bài thơ thì sẽ biết). Pinyin: feng qiao ye bo zhang ji yue luo wu ti shuang man tian jiang feng yu huo dui chou mian gu su cheng wai han shan si ye ban zhong sheng dao ke chuan. Ghi chú thêm: Mặt trăng là thuộc tinh (satellite) duy nhất của trái đất, bắt đầu mọc ở hướng đông và lặn ở hướng tây. Từ trái đất, người ta thấy mặt trăng là vật sáng nhất trong màn đêm dày đặc của vũ trụ; thực ra, mặt trăng không tự phát sáng mà chỉ phản ảnh ánh sáng nhận được từ mặt trời. Mặt trăng quay theo một trục tưởng tượng có chu kỳ 29.5 ngày. Đây là thời gian để mặt trăng hoàn tất một vòng quay quanh mặt trời, gọi là a lunar day. Cách nay khoảng 4,000 năm, lịch pháp của người Trung quốc - bằng cách nào đó - đã nhận biết chính xác chu kỳ này nên gọi một tháng âm lịch là một nguyệt 月. Họ cũng gọi một ngày là một nhật 日 vì trái đất quay quanh mặt trời chỉ mất 24 giờ là hoàn tất một vòng quay. Từ thời xa xưa, áp dụng nguyên tắc ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa và thổ), Trung quốc làm lịch theo sự kết hợp 10 thiên can (giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm và quý) và 12 địa chi (tý, sửu, dần, mẹo, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất và hợi). Cách gọi tên các năm là do kết hợp luân phiên các thiên can và địa chi với nhau. Thí dụ: *Năm 2004: Giáp Thân *Năm 2005: Ất Dậu *Năm 2006: Bính Tuất *Năm 2007: Đinh Hợi (Tết rơi vào ngày 18 tháng 2, 2007 Dương lịch) *Năm 2008: Mậu Tý (Tết rơi vào ngày 7 tháng 2, 2008 Dương lịch) *Năm 2009: Kỷ Sửu (Tết rơi vào ngày 26 tháng 1, 2009 Dương lịch) Thêm một chút "mê tín, dị đoan cho vui: Số lẻ thuộc dương: tý, dần, thìn, ngọ, thân, và tuất. Số chẵn thuộc âm: sửu, mẹo, tỵ, mùi, dậu và hợi. Từ đó, suy ra các tuổi hạp và không hạp như sau: *Hạp: Tý và Sửu, Thìn và Dậu, Tỵ và Thân, Dần và Hợi, Mẹo và Tuất. *Không hạp: Tý và Ngọ, Sửu và Mùi, Dần và Thân, Mẹo và Dậu, Thìn và Tuất, Tỵ và Hợi. (Lưu ý: khác nhau giữa Tàu và Ta: Tàu dùng Thố (con thỏ) và Ta dùng Mẹo (con mèo), có lẽ vì con thỏ phổ biến ở Tàu và con mèo phổ biến ở Ta). Tàu cũng chia một ngày ra 12 khoảng cách bằng nhau. Mỗi khoảng cách vì vậy bằng 2 giờ (double-hour : giờ kép), thay vì 24 giờ như dương lịch. Giờ kép thứ nhất bắt đầu từ 11 giờ đêm trước và lấn sang một giờ đầu tiên của ngày hôm sau. Giờ kép thứ hai từ 1-2 a.m., giờ kép thứ ba từ 3-4 a.m., v.v. Giờ kép không đánh số từ 1 đến 12 mà gọi theo tên của 12 địa chi, gồm có: tý, sửu, dần, mẹo, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất và hợi. Trong chu kỳ 12 năm, họ dùng 12 con vật để tượng trưng: thử (chuột), ngưu (trâu), hổ (cọp), thố (thỏ), long (rồng) , xà (rắn), mã (ngựa), dương (dê), hầu (khỉ), kê (gà), cẩu (chó), và trư (heo). Fan Wen Bin 范 文 彬
|
||||
mk
|
||||
![]() |
||||
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |