Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình
Message Icon Chủ đề: Nhận định về ngày 30 tháng 4 năm 1975 Gởi trả lời Gởi bài mới
Người gởi Nội dung
Hoàng Dũng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 08/Nov/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 592
Quote Hoàng Dũng Replybullet Chủ đề: Nhận định về ngày 30 tháng 4 năm 1975
    Gởi ngày: 09/Apr/2009 lúc 8:38pm
Nhận định về ngày 30 tháng 4 năm 1975

Bùi Tín

(Nhân ngày 30-4, trả lời phỏng vấn một số báo trong và ngoài nước, nhà báo tự do Bùi Tín hiện sống ở Pháp, 33 năm trước từng có mặt tại dinh Độc lập Sàigòn, phát biểu như sau):
 

* Không, không có giải phóng, thống nhất
* Cuộc ăn cắp khổng lồ
* Những ngộ nhận vô duyên
* Chung vui cùng Lịch sử và Thời đại


33 năm đã qua, theo tôi, với khoảng cách thời gian dài để có thể suy ngẫm sâu sắc và nhận ra sự thật lịch sử, mọi người Việt nam, kể cả những người Cộng sản, cần đính chính một nhận thức sai lầm nguy hiểm đã bị những người lãnh đạo cộng sản áp đặt theo kiểu cưỡng hiếp mọi người dân phải thừa nhận. Họ buộc mọi người công nhận rằng việc họ chủ trương đưa quân từ miền Bắc vào miền Nam chiến đấu từ 1960 đến 1975 là chính nghĩa nhằm giải phóng và thống nhất đất nước, và ngày 30-4 là ngày Toàn thắng Vĩ đại.

Hôm nay tôi sẵn sàng nói to cho mọi người nghe rõ : đất nước Việt nam ta sau ngày 30-4-1975 không hề được giải phóng, cũng không hề được thống nhất. Ngày 30-4, đảng cộng sản thắng, toàn dân vẫn thua, vẫn bị thống trị bới độc quyền đảng trị.

Đảng cộng sản đã thực hiện chính sách chiếm đóng và thống trị miền Nam, bỏ tù và quản thúc hàng triệu người dân, tước đoạt của cải của dân qua đổi tiền và cải tạo, thải loại ngay Mặt trận dân tộc giải phóng, gây thảm cảnh hàng triệu thuyền nhân. Như thế mà là giải phóng, là thống nhất ư ?

Sau 30-4-1975, chỉ riêng đảng cộng sản cầm quyền, không cho ai lập hội, không cho một tư nhân nào ra báo, không có tự do ứng cử và bầu cử, thế mà gọi là giải phóng dân tộc ư ? là tự do ư ?

Còn nay thì đảng giàu, giàu sụ, dân nghèo, nghèo rớt. Thống nhất kiểu gì vậy? phát triển kiểu gì vậy?

Một nước ''độc lập'' mà buộc phải ký những hiệp ước bất bình đẳng, để bị mất đất, mất biển hàng trăm, hàng nghìn kilômét vuông, mất đảo, mất vô vàn tài nguyên hải sản; rồi người nước ngoài muốn đuốc của họ đến nước ta, vào lúc nào, ở đâu là do họ quyết định; bộ trưởng ngoại giao của họ lại còn sang thủ đô ta để giao nhiệm vụ cho bộ trưởng ngoại giao, cho thủ tướng và cho chủ tịch quốc hội phải bảo vệ đuốc của họ cho triệt để, và còn cho an ninh vũ trang của họ vào tham gia đàn áp nhân dân nếu có biểu tình ôn hòa......thì thử hỏi nước ấy độc lập ở chỗ nào? có chủ quyền ở chỗ nào ? những người lãnh đạo của ta có còn chút thực quyền, có còn chút tự hào dân tộc gì nữa đâu ! Người Việt chân chính tự trọng không xử sự như thế.

Đây là điều mỗi người Việt ta ở trong hay ngoài nước hãy suy nghĩ cho kỹ nhân ngày 30-4 năm nay.

Tôi mong tuổi trẻ trong nước trau dồi tư duy độc lập, tập suy nghĩ bằng cái đầu tỉnh táo của chính mình, và đọc bài luận văn ngắn của nhà triết học Pháp trứ danh Jean - François REVEL :''************: sự tước đoạt lòng yêu nước ''. Bài luận văn sắc sảo chỉ thẳng ra sự thật phũ phàng, là ông Hồ và đảng CS đã lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân Việt nam để phục vụ cho mưu đồ phe đảng của ông ta, để thỏa mãn mục tiêu thống trí thế giới của Quốc tế Cộng Sản III. Chữ ''détournement' ' theo tiếng Pháp có ý nghĩa khá rộng là ''tước đoạt'', ''lấy trộm, lấy cắp '', '' của người khác xoáy làm của mình'','' chuyển thành, biến thành của mình ''.

Đọc xong, tôi ngấm sâu ý nghĩa của từ ''tước đoạt'', và cảm thấy mình như bị mất cắp, mà mất cắp cái gì quý lắm, vô giá. Cả tuổi trẻ đầy lý tưởng và nghị lực, cả mấy chục năm bị đánh lừa, bị móc túi, bị gạ gẫm, để đến gần cuối đời mới tỉnh ra, mà thương hại, mà tiếc thay cho bao nhiêu người vẫn chưa tỉnh! Giả thử trong cuộc đời thường, một người bị mất cắp chiếc xe máy, chiếc đồng hồ đắt tiền, chiếc nhẫn vàng kỷ niệm ngày cưới ... hẳn là tiếc, tiếc nuối vô cùng, xót xa hàng tháng. Thế mà biết bao người bị lừa cả cuộc đời, có khi mất cả mạng sống, và hàng triệu triệu anh chị em, dòng họ, đồng bào mình cùng bị lừa hàng nửa thế kỷ ! một cuộc ăn cắp, lường gạt khổng lồ. Hãy chỉ cho nhau kịp thấy đi, để mà tiếc, mà xót xa, mà đòi lại quyền sống tự do cho mỗi người, mở ra cuộc đấu tranh mới dành lại độc lập thật sự và thống nhất thật sự cho Tổ quốc.

30-4- năm nay, tôi vui vẻ nhẹ nhàng lắm. Tôi có thêm biết bao bạn quý, từ khi là nhà báo tự do 18 năm nay. Bạn trong nước, ngoài nước, bạn già, bạn trẻ, bạn rất trẻ. Tôi viết không theo lệnh ai, không phải đưa ai duyệt, chỉ có theo lương tâm và trí tuệ, không sùng bái ai, chỉ sùng bái sự thật. Tuổi già tự do thế này thật đáng sống. Khó khăn vật chất mà sướng vô kể.

Tôi bỏ hết danh vọng hão, chức tước phù du, huân chương mai mỉa, tự hổ thẹn từng cao ngạo vô duyên về chuyện vào dinh Độc lập sớm, xế trưa 30-4, vớ vẩn, lạc điệu cả, cá nhân lầm lạc, ngộ nhận hết.

Để làm gì cơ chứ ? để đất nước ra nông nỗi này ư? độc lập, không ! tự do, không ! chủ quyền, không ! về mặt nào cũng đứng dưới 100 nước khác!

30 tháng 4 năm nay, tự thâm tâm, tôi chỉ có một lời kêu gọi với các bè bạn và đông chí cũ của tôi: hãy quý trọng lòng yêu nước thương dân của chính mình, nếu bạn thấy lòng yêu nước ấy đã bị ai đó '' xoáy'' mất để dùng vào mục đích đáng nghi ngờ và đen tối, thi hãy lên tiếng tố cáo và tự tách mình khỏi trò lừa bịp và đánh cắp trắng trợn ấy !

Bạn hãy tự phục hồi lòng yêu nước thương dân trọn vẹn của mình để cùng mọi người Việt nam tỉnh táo và tử tế đấu tranh cho một Tổ quốc Việt nam thật sự độc lập, thật sự tự do, dựa vững vào Lịch sử Dân tộc và Thời Đại.

Bùi Tín 

IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 12/May/2010 lúc 7:06pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ Hoàng Dũng

Nhận định về ngày 30 tháng 4 năm 1975

Bùi Tín

(Nhân ngày 30-4, trả lời phỏng vấn một số báo trong và ngoài nước, nhà báo tự do Bùi Tín hiện sống ở Pháp, 33 năm trước từng có mặt tại dinh Độc lập Sàigòn, phát biểu như sau):
 

* Không, không có giải phóng, thống nhất
* Cuộc ăn cắp khổng lồ
* Những ngộ nhận vô duyên
* Chung vui cùng Lịch sử và Thời đại


33 năm đã qua, theo tôi, với khoảng cách thời gian dài để có thể suy ngẫm sâu sắc và nhận ra sự thật lịch sử, mọi người Việt nam, kể cả những người Cộng sản, cần đính chính một nhận thức sai lầm nguy hiểm đã bị những người lãnh đạo cộng sản áp đặt theo kiểu cưỡng hiếp mọi người dân phải thừa nhận. Họ buộc mọi người công nhận rằng việc họ chủ trương đưa quân từ miền Bắc vào miền Nam chiến đấu từ 1960 đến 1975 là chính nghĩa nhằm giải phóng và thống nhất đất nước, và ngày 30-4 là ngày Toàn thắng Vĩ đại.

Hôm nay tôi sẵn sàng nói to cho mọi người nghe rõ : đất nước Việt nam ta sau ngày 30-4-1975 không hề được giải phóng, cũng không hề được thống nhất. Ngày 30-4, đảng cộng sản thắng, toàn dân vẫn thua, vẫn bị thống trị bới độc quyền đảng trị.

Đảng cộng sản đã thực hiện chính sách chiếm đóng và thống trị miền Nam, bỏ tù và quản thúc hàng triệu người dân, tước đoạt của cải của dân qua đổi tiền và cải tạo, thải loại ngay Mặt trận dân tộc giải phóng, gây thảm cảnh hàng triệu thuyền nhân. Như thế mà là giải phóng, là thống nhất ư ?

Sau 30-4-1975, chỉ riêng đảng cộng sản cầm quyền, không cho ai lập hội, không cho một tư nhân nào ra báo, không có tự do ứng cử và bầu cử, thế mà gọi là giải phóng dân tộc ư ? là tự do ư ?

Còn nay thì đảng giàu, giàu sụ, dân nghèo, nghèo rớt. Thống nhất kiểu gì vậy? phát triển kiểu gì vậy?

Một nước ''độc lập'' mà buộc phải ký những hiệp ước bất bình đẳng, để bị mất đất, mất biển hàng trăm, hàng nghìn kilômét vuông, mất đảo, mất vô vàn tài nguyên hải sản; rồi người nước ngoài muốn đuốc của họ đến nước ta, vào lúc nào, ở đâu là do họ quyết định; bộ trưởng ngoại giao của họ lại còn sang thủ đô ta để giao nhiệm vụ cho bộ trưởng ngoại giao, cho thủ tướng và cho chủ tịch quốc hội phải bảo vệ đuốc của họ cho triệt để, và còn cho an ninh vũ trang của họ vào tham gia đàn áp nhân dân nếu có biểu tình ôn hòa......thì thử hỏi nước ấy độc lập ở chỗ nào? có chủ quyền ở chỗ nào ? những người lãnh đạo của ta có còn chút thực quyền, có còn chút tự hào dân tộc gì nữa đâu ! Người Việt chân chính tự trọng không xử sự như thế.

Đây là điều mỗi người Việt ta ở trong hay ngoài nước hãy suy nghĩ cho kỹ nhân ngày 30-4 năm nay.

Tôi mong tuổi trẻ trong nước trau dồi tư duy độc lập, tập suy nghĩ bằng cái đầu tỉnh táo của chính mình, và đọc bài luận văn ngắn của nhà triết học Pháp trứ danh Jean - François REVEL :''************: sự tước đoạt lòng yêu nước ''. Bài luận văn sắc sảo chỉ thẳng ra sự thật phũ phàng, là ông Hồ và đảng CS đã lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân Việt nam để phục vụ cho mưu đồ phe đảng của ông ta, để thỏa mãn mục tiêu thống trí thế giới của Quốc tế Cộng Sản III. Chữ ''détournement' ' theo tiếng Pháp có ý nghĩa khá rộng là ''tước đoạt'', ''lấy trộm, lấy cắp '', '' của người khác xoáy làm của mình'','' chuyển thành, biến thành của mình ''.

Đọc xong, tôi ngấm sâu ý nghĩa của từ ''tước đoạt'', và cảm thấy mình như bị mất cắp, mà mất cắp cái gì quý lắm, vô giá. Cả tuổi trẻ đầy lý tưởng và nghị lực, cả mấy chục năm bị đánh lừa, bị móc túi, bị gạ gẫm, để đến gần cuối đời mới tỉnh ra, mà thương hại, mà tiếc thay cho bao nhiêu người vẫn chưa tỉnh! Giả thử trong cuộc đời thường, một người bị mất cắp chiếc xe máy, chiếc đồng hồ đắt tiền, chiếc nhẫn vàng kỷ niệm ngày cưới ... hẳn là tiếc, tiếc nuối vô cùng, xót xa hàng tháng. Thế mà biết bao người bị lừa cả cuộc đời, có khi mất cả mạng sống, và hàng triệu triệu anh chị em, dòng họ, đồng bào mình cùng bị lừa hàng nửa thế kỷ ! một cuộc ăn cắp, lường gạt khổng lồ. Hãy chỉ cho nhau kịp thấy đi, để mà tiếc, mà xót xa, mà đòi lại quyền sống tự do cho mỗi người, mở ra cuộc đấu tranh mới dành lại độc lập thật sự và thống nhất thật sự cho Tổ quốc.

30-4- năm nay, tôi vui vẻ nhẹ nhàng lắm. Tôi có thêm biết bao bạn quý, từ khi là nhà báo tự do 18 năm nay. Bạn trong nước, ngoài nước, bạn già, bạn trẻ, bạn rất trẻ. Tôi viết không theo lệnh ai, không phải đưa ai duyệt, chỉ có theo lương tâm và trí tuệ, không sùng bái ai, chỉ sùng bái sự thật. Tuổi già tự do thế này thật đáng sống. Khó khăn vật chất mà sướng vô kể.

Tôi bỏ hết danh vọng hão, chức tước phù du, huân chương mai mỉa, tự hổ thẹn từng cao ngạo vô duyên về chuyện vào dinh Độc lập sớm, xế trưa 30-4, vớ vẩn, lạc điệu cả, cá nhân lầm lạc, ngộ nhận hết.

Để làm gì cơ chứ ? để đất nước ra nông nỗi này ư? độc lập, không ! tự do, không ! chủ quyền, không ! về mặt nào cũng đứng dưới 100 nước khác!

30 tháng 4 năm nay, tự thâm tâm, tôi chỉ có một lời kêu gọi với các bè bạn và đông chí cũ của tôi: hãy quý trọng lòng yêu nước thương dân của chính mình, nếu bạn thấy lòng yêu nước ấy đã bị ai đó '' xoáy'' mất để dùng vào mục đích đáng nghi ngờ và đen tối, thi hãy lên tiếng tố cáo và tự tách mình khỏi trò lừa bịp và đánh cắp trắng trợn ấy !

Bạn hãy tự phục hồi lòng yêu nước thương dân trọn vẹn của mình để cùng mọi người Việt nam tỉnh táo và tử tế đấu tranh cho một Tổ quốc Việt nam thật sự độc lập, thật sự tự do, dựa vững vào Lịch sử Dân tộc và Thời Đại.

Bùi Tín 

 
 
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 12/May/2010 lúc 9:12pm
 
"tự phục hồi lòng yêu nước thương dân trọn vẹn của mình để cùng mọi người Việt nam tỉnh táo và tử tế (xxx) cho một Tổ quốc Việt nam thật sự độc lập, thật sự tự do, dựa vững vào Lịch sử Dân tộc và Thời Đại.
Bùi Tín  "

 
mk trích lại nguyên bài viết "Nhận định về ngày 30 tháng 4 năm 1975"của Bùi Tín và tô màu vài dòng ( bài trước)
mk trích lại câu cuối của bài "Nhận định về ngày 30 tháng 4 năm 1975" của Bùi Tín (trong bài này)
không nhằm thể hiện sự "chung lòng, chung ý" vói ông, một nhà báo "tầm cở" của miền Bắc trước kia . Dù giờ đây ông đã "ly khai" , đã là "nhà báo tự do 18 năm nay" (2009) , đang sống tại Pháp.
 
Để hiểu và đồng hướng với một người không phải chỉ đọc qua một vài bài báo của họ.
 
Tuy nhiên, bắt gặp vài dòng trong bài viết của Bùi Tín , có thể truyền đạt điều mk muốn gửi đến DĐ một cách ngắn gọn và súc tích , sau khi mk đọc bài "Phỏng vấn TS Nguyễn Tiến Hưng về 'Tâm Tư TT Thiệu' " của Ðinh Quang Anh Thái  : Với Mỹ, cần hiểu 'không có bạn trường cửu'( bên dưới ).
 
 
Chúng ta là người Việt, dù là Kiều Bào nơi đất khách , hay những người còn ở lại quê hương VN , mk tin , chúng ta luôn yêu Quê Hương mình . Quê Hương của một nước nhược tiểu, nhiều đau khổ vì chiến tranh , giặc giả !
Nhớ ngày còn đi học, trong giới SVHS thường hát  " 1000 năm nô lệ giặc Tàu, 100 năm đô hộ giặc Tây, 20 năm nội chiến từng ngày..." , nghe tội nghiệp quá.
 
Thời Đệ Nhất Cộng Hòa bị Mỹ lật đổ cùng cái chết thê thảm của Tổng Thống Ngô Đình Diệm  và người em trai Cố Vấn Ngô Đình Nhu.
 
Thời Đệ Nhị Cộng Hòa , lại bị Mỹ bỏ rơi , kéo theo rất nhiều... rất nhiều cái chết thương tâm của biết bao Chiến Sĩ và người dân vô tội ( trên đất và biển cả ) ! Mọc lên biết bao trại tù từ Nam chí  Bắc. Và còn biết bao hệ lụy khác tồn tại đến ngày nay !.
 
Chính trị bao giờ cũng tàn nhẫn. Họ thường lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện.
Vì thế, cuộc chiến VN vô cùng tang thương , khi chấm dứt càng tang thương hơn... "tang thương của cuộc chiến" !
 
Mời cả nhà đọc chơi bài Nhận định về ngày 30 tháng 4 năm 1975 ( HoàngDũng đã post lên DĐ) và bài mới  Với Mỹ, cần hiểu 'không có bạn trường cửu'
 
mk
 
 
**************************************
 
 
 

Với Mỹ, cần hiểu 'không có bạn trường cửu'
Tuesday, May 11, 2010

 

 

 

 

 


Phỏng vấn TS Nguyễn Tiến Hưng về 'Tâm Tư TT Thiệu'

Ðinh Quang Anh Thái/Người Việt

 

Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng. (Hình: Triết Trần/Người Việt)

Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng nguyên là Tổng trưởng Kế Hoạch của Việt Nam Cộng Hòa và cũng là cố vấn cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Ông là tác giả hai cuốn sách “Hồ Sơ Mật Dinh Ðộc Lập” và “Khi Ðồng Minh Tháo Chạy,” được dư luận quốc tế và Việt Nam chú ý. Ngày 16 tháng 5 tới, lúc 1 giờ chiều tại Westminster Civic Center thuộc thành phố Westminster, Tiến Sĩ Hưng sẽ cho ra tác phẩm mới “Tâm Tư Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu” nói về một giai đoạn lịch sử đầy uẩn khúc trước khi miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng Sản ngày 30 tháng 4, 1975. Trước ngày ra mắt sách, Tiến Sĩ Hưng đến thăm tòa soạn Người Việt và trả lời cuộc phỏng vấn sau đây do Ðinh Quang Anh Thái thực hiện.

- ÐQAThái: Thưa tiến sĩ, hành động “phủi tay” của chính phủ Hoa Kỳ đối với Việt Nam Cộng Hòa dẫn tới sự sụp đổ của miền Nam; hiện nay Hoa Kỳ đang tham chiến tại Afghanistan và Iraq, liệu những quốc gia như vậy có thể học được kinh nghiệm nào của Việt Nam Cộng Hòa?

- Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng: So sánh Việt Nam với Iraq và Afganistan, hai hoàn cảnh khác hẳn nhau, hai mục đích Hoa Kỳ tham chiến cũng khác nhau; nhưng dù sao các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ đối với Afghanistan và Iraq cũng như tự thân hai quốc gia này cũng học được rất nhiều bài học về cuộc chiến Việt Nam.

Tôi cho rằng những nước hợp tác với Hoa Kỳ trước hết phải hiểu thể chế chính trị của Hoa Kỳ, hiểu cách tổ chức phân quyền của Hoa Kỳ. Thí dụ, Tổng thống có tuyên chiến mà Quốc Hội cắt tiền thì Tổng thống cũng chả làm gì được. Ngoài ra, đồng minh của Mỹ phải hiểu quan niệm bạn-thù của Hoa Kỳ, như câu nói của một Thủ tướng nước Anh, rằng “chẳng bao giờ có bạn trường cửu mà chỉ có quyền lợi trường cửu.”

Trong cuốn “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu,” tôi nhận định rằng, rút kinh nghiệm của Việt Nam Cộng Hòa, khi cộng tác với đồng minh, thì lúc nào cũng sửa soạn cho lúc hạ màn; vì thế tôi nghĩ rằng Tổng Thống Karzai của Afganistan sẽ học được rất nhiều bài học. Tôi có kết luận trong cuốn sách là “càng nhìn Kabul và Baghdad, tôi càng nhớ Sài Gòn, càng nhìn ông Karzai và ông Maliki tôi càng nhớ ông Nguyễn Văn Thiệu.”

- ÐQAThái: Thưa tiến sĩ, lý do nào không phải là một mà ít nhất là hai hoặc ba nhà lãnh đạo trên thế giới như là thủ tướng cuối cùng của Cambodia, đã thốt ra những lời hết sức cay đắng rằng “làm kẻ thù của Mỹ còn được người Mỹ tôn trọng chứ làm bạn với người Mỹ thì rất nguy hiểm.” Tiến sĩ nghĩ sao?

- Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng: Cũng một câu giống như vậy tôi có ghi trong cuốn “Khi Ðồng Minh Tháo Chạy” và trong cuốn “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu,” rằng chính Tiến Sĩ Kissinger cũng đã phải nói câu đó. Ông Kissinger có viết trong sách của ông năm 1968 thuật lại việc chính phủ Johnson muốn trả thù ông Thiệu vì ông Thiệu đã giúp cho Nixon thắng cử, thành ra Tổng Thống Johnson rất bất mãn và có tin đồn là họ tính lật đổ ông Thiệu; ông Kissinger nghe tin đó bèn lên tiếng cứu ông Thiệu, và nói rằng nếu ông Thiệu chịu chung một số phận như ông Diệm thì cả thế giới này sẽ thấy rằng rất khó làm kẻ thù của Mỹ nhưng làm bạn của Mỹ thế nào cũng chết. Tóm lại, một tiểu quốc đi với một cường quốc cũng phải nghĩ rằng đối với mình khi đồng minh tháo chạy thì đau đớn lắm, còn đối với một đại cường quốc thì đó là chuyện dĩ nhiên.

- ÐQAThái: Rất nhiều người nêu một câu hỏi là tại sao Tổng Thống Thiệu không công bố những lá thư Tổng Thống Nixon đã viết cho ông Thiệu cam kết Hoa Kỳ sẽ đổ quân vào Việt Nam nếu cộng sản Bắc Việt xé bản Hiệp Ðịnh Paris để xâm chiếm miền Nam; tại sao ông Thiệu lại giữ thái độ im lặng cho tới ngày vĩnh viễn ra đi mà không nói một câu nào cả?

- Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng: Ðó là vấn đề riêng cá nhân chúng tôi rất trăn trở và đã hỏi Tổng Thống Thiệu rất nhiều lần câu đó. Chúng tôi cũng phải nhắc lại lịch sử của lá thư đó, là ngày 23 tháng 3 năm 1975 sau khi đã rút khỏi Pleiku, lúc bấy giờ tình hình bi thảm lắm, ông Thiệu mới gọi tôi vào Dinh Ðộc Lập ăn sáng và đưa cho tôi mấy lá thư của ông Nixon gửi ông Thiệu để tôi xem. Tôi bàng hoàng quá, tôi không ngờ chuyện như thế. Tôi bàng hoàng quá mà không hiểu sao ông tổng thống lại giữ kỹ quá thế này, không tiết lộ cho ai biết.

Lúc đó, tôi thưa tổng thống là phải tiết lộ ra; hoặc ông tiết lộ hoặc là tôi tiết lộ hoặc là cho Quốc Hội tiết lộ để chúng tôi sắp xếp đài NBC phỏng vấn tổng thống, để tổng thống nói chứ mình còn cái phao nào đâu mà bám. Tôi đã dùng rõ ràng chữ đó. Buổi chiều hôm đó ông cho họp ngay, có Chủ Tịch Thượng Viện Trần Văn Lắm, Chủ Tịch Hạ Viện Nguyễn Bá Cẩn, Bộ Trưởng Ngoại Giao Vương Văn Bắc và tôi; hình như có Thủ Tướng Khiêm nữa tôi không nhớ. Ông ấy hỏi đã tới chỗ cạn tàu ráo máng chưa, tổng thống đã phải la lối lên chưa.

Tôi rất buồn phải nói lại, kiến chung là “chưa đến lúc” tổng thống phải la lối lên, chưa đến lúc cạn tàu ráo máng, làm như vậy là vi phạm, can thiệp vào nội bộ Hoa Kỳ, không nên, chỉ nên riêng tư mà năn nỉ họ và bề ngoài cũng nói một cách gián tiếp thôi. Cá nhân tôi chả biết nói sao nữa.

Sau cùng chính tôi đã tiết lộ các lá thư này vào ngày 30 tháng 4 tại Washington.

- ÐQAThái: Lý do nào Tổng Thống Thiệu lại không đi Mỹ mà lại chọn Anh Quốc để lưu vong, thưa tiến sĩ?

- Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng: Lúc tổng thống sang đến Ðài Loan thì ông Tổng Thống Ford - mà tôi cho là ông Kissinger đứng đằng sau - cử một đặc sứ sang để nói với ông Tổng Thống Thiệu rằng, ông không nên sang Mỹ tại vì phong trào phản chiến còn mạnh lắm, ông sang sợ bị phiền phức, thôi thì tổng thống đi một nước khác và bất cứ nước nào thì Hoa Kỳ sẽ sắp xếp cho tổng thống.

Ông Thiệu đau đớn lắm, ông bảo lúc bấy giờ đâu còn phản chiến, biểu tình gì mà họ nói như vậy thì ông cũng chả thèm sang Mỹ nữa, và ông quyết định sang nước Anh. Tôi nghĩ vì ông có một hai cháu đang học bên đó, nên ông quyết định sang nước Anh. Cách đây vài ba năm chính đài BBC cũng có bình luận chuyện tại sao Tổng Thống Thiệu chọn nước Anh. Tôi nghĩ rằng ông buồn lắm vì chuyện Mỹ không có tha thiết với ổng, vừa mới xong là phủi tay ngay. Ðến năm 1986 có lẽ Tổng Thống Reagan rất quý mến ông, và phải đến nhiệm kỳ thứ hai, khi ông Reagan ngồi chắc trên “lưng voi” rồi thì ông mới dọn sang Mỹ.

- ÐQAThái: Trong suốt mấy chục năm lưu vong như vậy đời sống vật chất của Tổng Thống Thiệu ra sao, thưa tiến sĩ?

- Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng: Tôi cũng không biết nhiều, tôi có ở với ông cả tuần lễ và thấy đời sống của ông rất khiêm nhường; ông có một ngôi nhà nho nhỏ ở ngoại ô Luân Ðôn, nhà cũng nhỏ thôi, trong nhà thấy rất là đơn sơ, ăn uống thì bà Thiệu cứ canh chua cá kho tộ rồi hủ tiếu, bà bảo ông cứ đòi ăn canh chua cá kho tộ, bà bảo phải có lá me gì ở ngoài Phan Rang nhưng tìm đâu ra lá me non ở Luân Ðôn mà nấu cho ông ăn được. Tóm lại, ông sống tương đối đơn giản. Còn chuyện tiền bạc của ông như thế nào thì tôi không được biết. Tôi thấy ông ấy sống rất đơn sơ, và ngôi nhà của ông ở bên Luân Ðôn không có máy heat, rất đơn sơ.

- ÐQAThái: Cám ơn tiến sĩ đã đến thăm và trả lời phỏng vấn của Người Việt.

 

 http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=112783&z=196 



Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 12/May/2010 lúc 9:19pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 01/Jun/2010 lúc 12:49am
 
 
 

Dù câu chuyện dưới đây được đăng từ năm 2006 . Nhưng , lại  là "chuyện không cũ" cho nhiều trường hợp tương tự hiện nay.

Xin chuyển đến DĐ câu chuyện cảm động nhân ngày "MEMORIAL DAY"(Hoa Kỳ) .

 

Mong, mk  xếp (tạm) bài viết vào mục này không đến nỗi... lạc điệu !

 

 

 

 GIAO-DUHOC-1.jpg

Hình chụp Trung Úy Nguyễn Văn Nô,

vào giai đoạn 1956-1959,
lúc sang Hoa Kỳ du học về quân sự.
(Hình: Nguyễn Thị Bích Thảo cung cấp)

 

 

31 năm sau, người lính ấy về với gia đình...
Thursday, September 07, 2006 

 


 

GIAO-BIA-MO-1.jpg

Tấm bia mộ cố Thiếu Tá Nguyễn Văn Nô, đồi Cây Khế, xã Việt Cường, thị xã Yên Bái, tỉnh Hoàng Liên Sơn. (Hình: Nguyễn Thị Bích Thảo cung cấp)

GIAO-BANDO-1.jpg

Tấm bản đồ chỉ đường đến mộ cố Thiếu Tá Nguyễn Văn Nô, do cựu Trung Tá Lê Chu vẽ cho cô Nguyễn Thị Bích Thảo, tại Arlington, Texas, ngày 24 Tháng Ba, 2006

GIAO-gamen-1.jpg

Chiếc gà mên được chôn theo người quá cố, trên nắp khắc chữ N và một chữ O bao quanh chữ N. Dưới đít gà mên, một chiếc bông mai và dòng chữ: “3/5/1975 CT, 26/6/76 YB - HLS.”

GIAO-NIADAO-1.jpg

Bộ đồ dùng cá nhân, gồm muỗng, nĩa, và dao, khắc các chữ “N,” “V,” và “O,” là dấu hiệu khẳng định danh tánh người quá cố

GIAO-LECHU-1.jpg

Cựu Trung Tá Lê Chu, người đã tình cờ gặp lại và vẽ bản đồ chỉ đường con gái cố Thiếu Tá Nguyễn Văn Nô đến mộ cha

GIAO-DUHOC-1.jpg

Hình chụp Trung Úy Nguyễn Văn Nô, vào giai đoạn 1956-1959, lúc sang Hoa Kỳ du học về quân sự. (Hình: Nguyễn Thị Bích Thảo cung cấp)

GIAO-VN-1.jpg

Thiếu Tá Nguyễn Văn Nô và vợ, Nguyễn Thị Bạch Tuyết, cùng con gái Nguyễn Thị Bích Thảo. Hình chụp năm 1971 tại Cần Thơ, khi cô Thảo mới tròn 4 tuổi

GIAO-BICHTHAO-1.jpg

Nguyễn Thị Bích Thảo, con gái “cưng” của cố Thiếu Tá Nguyễn Văn Nô, đang cầm trên tay chiếc bình sành đựng tro cốt của thân phụ. Hình chụp tại nhà Thảo, Wichita, Kansas

 

Thiện Giao

Nguyễn Thị Bích Thảo:

“Gia đình nhận giấy báo tử năm 1980, nhưng không biết ba được chôn ở đâu.”

“Ba cháu tên Nô. Thiếu Tá Nguyễn Văn Nô.”

Trung Tá Lê Chu:

“Chính bác đã chôn ba cháu năm 1977, trên đồi Cây Khế, xã Việt Cường, thị xã Yên Bái, tỉnh Hoàng Liên Sơn.”

31 năm sau, người thiếu nữ ấy đã tìm lại được cha mình!

Cô không ôm choàng lấy cha, “cao lớn, ngăm đen,” như ký ức cô vẫn nhớ về ông.

Cô ôm lấy chiếc bình sứ, hình hoa sen, bên trong đựng tro cốt cha. Cuối cùng, từ Hoa Kỳ, cô đã tìm lại được cha mình mãi tận Hoàng Liên Sơn xa xôi.

Cô tìm lại cha trong một tình cờ của cuộc sống. Cô khóc: “Cuối cùng, cha đã về lại với chúng tôi!”

 

 

Texas, một ngày Mùa Xuân...

Người thiếu nữ ấy có tên Nguyễn Thị Bích Thảo. Cô nhớ như in một ngày cuối Tháng Ba, 2006. Từ Kansas, Thảo dắt hai con trai, 16 và 6 tuổi, về Arlington, Texas, thăm bà ngoại và gia đình người em gái. Sau khi thăm gia đình, Thảo chuẩn bị về lại Kansas. Tai nạn xe, Thảo phải đưa con trai đến một bác sĩ Việt Nam tại thành phố Arlington.

Trong lúc ngồi đợi tại phòng khám. Thảo lân la bắt chuyện cùng một người đàn ông “trạc tuổi cha mình,” đang đưa vợ đi khám bệnh.

Thảo không bao giờ nghĩ rằng câu chuyện bâng quơ ấy, cuối cùng, sẽ đóng lại nỗi dằn vặt trong lòng mình.

“Bác ở đây?”

“Cháu ở Kansas.”

“Cháu qua Mỹ năm 1993.”

“Dạ, trước đây ba cháu cũng ở trong quân đội.”

“Ba cháu cũng ở tù Hoàng Liên Sơn.”

“Gia đình nhận giấy báo tử năm 1980, nhưng không biết cha được chôn ở đâu.”

“Ba cháu tên là Nguyễn Văn Nô. Thiếu Tá Nguyễn Văn Nô.”

Im lặng giây lát, người đàn ông đang ngồi trước mặt Thảo, điềm đạm: “Chính bác đã chôn ba cháu. Trên đồi Cây Khế, xã Việt Cường, thị xã Yên Bái, tỉnh Hoàng Liên Sơn.”

Thảo không tin hẳn. Làm sao có sự tình cờ như thế. Làm sao, trong cái phòng bác sĩ nhỏ bé của thành phố Arlington này, lại có một người khẳng định đã chôn cất cha mình trong một Mùa Ðông gần 30 năm trước.

Nhưng người đàn ông ấy khẳng định như vậy. Và ông vẽ vội một bản đồ chỉ đường đi đến đồi Cây Khế!

Kỷ vật người quá cố

Quả thật, có một ngọn đồi mang tên “Cây Khế” tại Hoàng Liên Sơn!

Từ Hoa Kỳ, Thảo gởi $500 cho người anh rể của chồng mình, đang sinh sống tại Cần Thơ. Người anh rể sẽ đi tìm ngôi mộ của “Thiếu Tá Nguyễn Văn Nô, chôn trên đồi Cây Khế, xã Việt Cường, thị xã Yên Bái, tỉnh Hoàng Liên Sơn.”

“Mọi chuyện đều suông sẽ, chắc có cha phù hộ.” Thảo cho biết. Từ Cần Thơ, người anh rể đi Sài Gòn. Từ Sài Gòn, anh ra Hà Nội. Và từ Hà Nội, anh đi xe lửa lên Hoàng Liên Sơn. “Anh đến được ngay cái nhà vẽ trên giấy. Anh gặp chủ nhà, một người đàn ông tốt bụng, đã giữ gìn toàn bộ mồ mả của những tù nhân đã chết, được chôn tại đây.”

Một giờ sáng tại Hoa Kỳ, Thảo nhận điện thoại của người anh: “Ðã tìm được mộ cha!”

Thảo vẫn chưa tin. Không thể đơn giản như thế được; gần 30 năm rồi còn gì!

Dưới nấm mộ nông kia, vài mảnh xương của người quá cố được chôn cùng một đôi dép râu, một đôi dép nhựa vá chằng chịt bằng dây chì, một gà mên, muỗng, nĩa, dao, bàn chải đánh răng, chiếc lược, và ba cây viết.

Chắc hẳn người ta đã dùng đầu đinh để khắc dấu trên các vật dụng...

Trên chiếc muỗng có chữ N.

Trên cái nĩa có chữ V.

Trên con dao có chữ O.

N, V, O? Nguyễn Văn Nô?

Còn chiếc gà mên? Trên nắp gà mên, người quá cố khắc chữ N; và một chữ O bao quanh chữ N. Dưới đít gà mên, một chiếc bông mai và dòng chữ:

“3/5/1975 CT

26/6/76 YB - HLS”

Không còn nghi ngờ gì nữa! Ðúng là ba! Những ký hiệu ít ỏi ấy đã tiết lộ đầy đủ danh tánh và hành trình của người tù cải tạo.

“Thiếu Tá Nguyễn Văn Nô, vào tù Cần Thơ ngày 3 Tháng Năm, 1975; chuyển sang trại thị xã Yên Bái, Hoàng Liên Sơn ngày 26 Tháng Sáu, 1976.”

Chỉ một dòng chữ ông không kịp ghi lại: Mùa Ðông năm 1977.

Mùa Ðông năm 1977, Thiếu Tá Nguyễn Văn Nô qua đời sau một đêm đau đớn, trúng độc vì uống nước luộc sắn.

Người đàn ông vẽ bản đồ

Giọng nói nhỏ nhẹ, cực kỳ nhỏ nhẹ, ông Lê Chu cho biết ông và Thiếu Tá Nguyễn Văn Nô “cùng ở trong đội trồng rau xanh” hồi còn ở Hoàng Liên Sơn. “Hồi đó đói lắm. Không có rau mà ăn, nên phải ăn sắn. Người tù phải lấy đọt sắn luộc lên ăn thay rau.”

Ông Chu kể rằng có một lần, tù chính trị luộc vỏ sắn cho heo ăn, mấy con heo lăn ra chết. Thế là cả đội bị quản giáo nghi làm... CIA. “Sắn có chất độc. Ăn ít thì không sao. Hôm ấy, anh Nô đã uống cả nước luộc sắn.” Khuya, trại nghe lục đục cả đêm. Một ai đó phải đi trạm xá.

Sáng hôm sau, ông Chu biết tin có 2 người đã chết tối hôm qua. Một trong hai người này là Thiếu Tá Nguyễn Văn Nô.

Một ngày sau, ông Chu mang xác bạn đi chôn.

“Tôi không nhớ rõ ngày, chỉ nhớ lúc ấy lạnh lắm; chắc là Mùa Ðông. Mùa Ðông thì tù ăn sắn lưu niên.”

Ông Chu chôn bạn trên đồi Cây Khế, xã Việt Cường, thị xã Yên Bái, tỉnh Hoàng Liên Sơn.

Và ông nhớ như in những nấm mồ ấy, để rồi gần 30 năm sau, trên nước Mỹ gần 300 triệu người này, ông lại tình cờ gặp đúng con gái của người bạn xấu số kia.

“Về sau, trại cho được vài bao xi măng. Chúng tôi làm cho bạn tấm bia.”

Ông Chu, cựu trung tá, đã từng phục vụ tại Liên Ðoàn Truyền Tin Quân Ðoàn Bốn, tốt nghiệp khóa 3, Thủ Ðức, hiện sinh sống cùng vợ và bảy người con tại Arlington, Texas.

Ông đã về hưu, sau một thời gian làm nhiều nghề, kể cả nghề mộc.

Nơi an nghỉ cuối cùng...

Cứ nhắc đến cha, Thảo lại khóc. Thảo gặp cha lần cuối cùng vào năm 1975.

Cứ nhắc đến mẹ, Thảo lại khóc. Mẹ của Thảo đã “ở vậy từ ngày cha vào tù.” Mẹ Thảo ở góa, làm nghề may vá nuôi sáu người con; 5 gái, 1 trai.

Thảo khóc vì thương cha, và vì “được cha thương nhất trong tất cả anh chị em.”

“Ngày xưa, mỗi lần đi xa về, cha luôn có đồ chơi cho các con.” Thảo kể trong nước mắt.

Từ ngày vào tù, cha vẫn có đồ chơi cho con, cho mỗi đứa con.

Mỗi lần mẹ vào tù thăm, cha lại gởi về 6 con vật nặn bằng đất sét.

Phần Thảo là con vịt; một con vịt bằng đất sét.

Ngày xác định được mộ cha, cả nhà không biết đưa cốt đi đâu. “Chỉ còn vài khúc xương.” Ba chồng Thảo kiên quyết: “Phải đem cốt vô nhà. Ðể tôi rước anh sui vô nhà.”

Thảo chạy ra sau vườn chôm chôm, khóc rấm rức. “Ở nhà bảo đừng khóc. Khóc làm người quá cố không thanh thản.”

Gia đình mang cốt ông đi thiêu, để xin giấy phép sang Hoa Kỳ.

Thảo lại khóc: “Thiêu là chết thêm một lần nữa.”

Thảo nói trong nước mắt: “Em khóc vì gặp lại cha. Khóc mà mừng, đau mà vui.”

Thảo kể: “Bàn chải chôn theo cha mòn hết, chỉ còn mấy sợi. Trên mấy cây viết, cây nào cũng có chữ N.”

Thiếu Tá Nguyễn Văn Nô chào đời năm 1937, tại Bạc Liêu.

Ông gia nhập quân đội. Học khóa 13, Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt. Sang Hoa Kỳ tu nghiệp từ năm 1956 đến 1959.

Ông lập gia đình năm 1962.

Năm 1975, ông vào tù và “ở lại đấy” cho đến 31 năm sau.

Bây giờ, cả gia đình đã đoàn tụ; tại Hoa Kỳ.

Thiếu Tá Nô sẽ bắt đầu lần an nghỉ cuối cùng; trong một chiếc bình sành hình hoa sen.

Thiếu Tá Nô sẽ an nghỉ vĩnh viễn tại chùa Liên Hoa, thành phố Arlington, Texas, nơi ông sẽ được nghe kinh kệ mỗi sáng, mỗi trưa, và mỗi chiều.

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=48423&z=1
 

 



Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 01/Jun/2010 lúc 1:00am
mk
IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.156 seconds.