![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Lịch Sử - Nhân Văn | |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 4 |
Người gởi | Nội dung | |||||||||||||||||||||||||||||
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||||||||||||||||||||||||
Xem Trong Toàn Quái Mà Có Quẻ Sinh Thể (thì tốt xấu thế nào?) Quẻ Càn: Sinh Thể thì các việc công môn có sự vui mừng; hoặc công danh hiển đạt, hoặc làm quan có tài, hoặc việc thưa kiện thắng lý. Hoặc có lợi về kim báu, hoặc có người già tuổi tiến tiền của, hoặc có quý nhân tôn trưởng gia ân, hoặc có việc mừng về quan sự. Quẻ Khôn: Sinh Thể chủ sự vui mừng về ruộng đất, hoặc do điền thổ mà có tài, hoặc có người ở cùng làng đem đến sự lợi ích, hoặc có đàn bà làm lợi cho mình, hoặc có lợi về hoa quả mùa màng, hoặc có lợi về vải lụa. Quẻ Chấn: Sinh Thể chủ lợi về sơn lâm sản, hoặc do sơn lâm mà phát tài, hoặc có sự vui mừng trong sư hoạt động, hoặc có tài về hướng Đông, hoặc buôn bán về loại mộc có lợi, hoặc có người họ, tên mang bộ thảo mộc làm lợi cho mình. Quẻ Tốn: Sinh Thể chủ lợi về sơn lâm sản, hoặc do sơn lâm mà có tài, hoặc có tài lợi về hướng Đông Nam, hoặc nhân có người có họ, tên mang bộ thảo mộc làm lợi cho mình, hoặc lợi về quả, trà, hoặc có người biếu tặng trà, quả, rau ráng. Nói tóm lại là tất cả có lợi về loài Thảo Mộc. Quẻ Khảm: Sinh Thể có sự vui mừng về phương Bắc đem tới, hợac có tài về hướng Bắc, hoặc có người ở gần sông nước đem tới, hoặc buôn bán về nghề cá, muối, rượu, văn thơ giao dịch mà có lợi, hoặc có người cho rượu, cá, muối. Nói tóm lại là tất cả có lợi về loài bộ Thủy. Quẻ Ly: Sinh thể chủ có tài về hướng Nam, hoặc có người ở hướng Nam làm tài lợi cho mình, hoặc có sự vui mừng về văn thơ, hoặc có lợi về các xưởng đúc, các lò đúc đồ sắt, hoặc có người mang tên bộ Hỏa làm lợi cho mình. Nói tóm lại tất cả có lợi về loại thuộc Hỏa. Quẻ Cấn: Sinh Thể chủ có tài về hướng Đông Bắc, hoặc có người ở hướng Đông Bắc đem tài lợi, hoặc có tài về sơn lâm điền thổ, hoặc có người có họ tên mang bộ Thổ hay người mang tiếng cung(1) (tức là tiếng cung trong ngũ âm) đem tài lời cho mình, mọi sự đều yên ổn, mọi sự đều có thủy có chung. Quẻ Đoài: Sinh Thể chủ có tài lợi về hướng Tây, hoặc do người ở hướng Tây đem tài lợi đến, hoặc có sự vui tươi, hoặc được ăn uống, hoặc được lợi về buôn bán vàng ngọc, hoặc có người tên họ mang bộ Khẩu làm lợi cho mình, hoặc chủ khách có việc vui mừng, bè bạn kết tập mua vui, hoặc có người có tiếng thương(2) (tức là tiếng thương trong ngũ âm) làm lợi cho mình. Ghi chú: (1) Tiếng Cung, như ta nói người nói giọng Thổ. (2) Tiếng Thương, như ta nói người nói giọng Kim. Những Quẻ Khắc Thể (thì tốt xấu thế nào?) Quẻ Càn: Khắc Thể, là triệu có sự lo lắng về công môn, hoặc có sự lo buồn trong gia trạch, hoặc mất của, hoặc hao tổn về ngũ cốc, hoặc oán giận cùng tôn trưởng hoặc bị tội với cấp trên. Quẻ Khôn: Khắc Thể, chủ có sự lo lắng về điền thổ, hoặc vì điền thổ mà tổn hại, hoặc bị tiểu nhân làm hại, hoặc bị đàn bà lấn hiếp, hoặc bị mất của về vải sợi, hoặc thất chí lổ lả về ngũ cốc. Quẻ Chấn: Khắc Thể, chủ bị sợ hãi rối loạn thường thường nơm nớp hoặc trong lòng chẳng được yên, hoặc trong gia trạch có tai biến, hoặc có người họ tên mang bộ Thảo mộc xâm lăng, hoặc bị thất thoát về sơn lâm. Quẻ Tốn: Khắc Thể, chủ sự lo lắng, hoặc mưu sự gì về sơn lâm, mưu sự thất bại, hoặc có người tên họ mang bộ Thảo mộc làm hại, hoặc người ở Đông Nam mưu sự, kỵ giao tranh, sinh sự với đàn bà. Quẻ Khảm: Khắc Thể, chủ có sự hiểm họa, hoặc bị cướp bóc hoặc có oán thù với người ở ven nước, hoặc bị tai nạn sau khi rượu chè, hoặc bị hãm hại trong lúc ăn uống, hoặc cùng với người phương Bắc gây họa. Quẻ Ly: Khắc Thể, chủ bị văn thư quấy rối, hoặc kinh sợ về hỏa hoạn, hoặc có nhiều âu lo từ phương Nam tới, hoặc có người mang tên họ bộ Hỏa gây rối loạn. Quẻ Cấn: Khắc Thể, mọi việc liên lụy, trăm việc trở ngại, hoặc bị hao tổn về sơn lâm, hoặc có người tên họ mang bộ Thổ gây loạn, đề phòng họa do phương Đông Bắc tới, hoặc ưu lo về mộ phần bất yên. Quẻ Đoài: Khắc Thể, chẳng lợi về hướng Tây, chủ khẩu thiệt nhiều sự rối ren, hoặc có người mang tên họ bộ Khẩu gây rối loạn, hoặc bị thương què gãy, hoặc do ăn uống mà sinh ưu sầu. Nếu không có quẻ sinh Thể hay khắc Thể thì tùy theo bổn quẻ mà đoán. |
||||||||||||||||||||||||||||||
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
||||||||||||||||||||||||||||||
![]() |
||||||||||||||||||||||||||||||
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||||||||||||||||||||||||
I.- Chiêm Về Thời Tiết Phàm chiêm về thời tiết chẳng cần phân Thể Dụng, chỉ xem toàn quái lấy ngũ hành hợp lại mà suy như: nhiều Ly thì trời tạnh; nhiều Khảm thì trời mưa; nhiều Khôn thì trời âm u. Càn chủ tạnh ráo; nhiều Chấn ở vào mùa Xuân, Hạ thì có tiếng vang; nhiều Tốn thì gió dữ; nhiều Cấn thì mưa lâu rồi sẽ tạnh; nhiều Đoài trời chẳng âm u cũng thì có mưa. Mùa Hạ mà chiêm được nhiều quẻ Ly mà không có Khảm thì trời nắng hạn chang chang; mùa Đông mà thấy nhiều Khảm mà không có Ly thì trời vần vũ tuyết ủ ê. Xem toàn quái nên gồm cả Hổ quái, Biến quái, còn ngũ hành là: Ly thuộc Hỏa chủ trời tạnh; Khảm thuộc Thủy chủ trời mưa; Khôn thuộc Thổ là khí đất chủ u ám; Càn là trời chủ tạnh ráo; Chấn là sấm; Tốn là gió. Mùa thu và mùa Đông có nhiều Chấn tuy không phải thời tiết, nhưng cũng có sấm lạ thường; nếu có Tốn giúp thêm thì gió lớn làm chấn động kinh hồn. Cấn là khí của sơn vân, nên mưa lâu mà gặp Cấn thì trời tạnh. Cấn là thôi (dứt) lại có nghĩa là Thổ khắc Thủy vậy. Đoài tượng trưng cho cái hồ, cái đầm, nên nếu không mưa thì trời cũng u ám. Ôi! Biệt luật của Tạo hóa rất khó giải; Lý số cũng phải dựa vào cái lý cho thật kỳ diệu; Càn tượng trưng cho Trời, bốn mùa tạnh ráo; Khôn tượng trưng cho đất, là một khí tiết bi đát. Càn Khôn lưỡng đồng, tạnh mưa biến đổi; Khôn Cấn gồm đôi, nhâm tối bất thường. Quái số có âm có dương, Tượng số(1) có chẳn có lẽ. Âm thời mưa, Dương thời tạnh, chẳn lẽ chồng chất bí ẩn (kín ngầm) huyền vi. Khôn là ngôi lão mẫu, tạnh lâu ắt phải mưa, âm khí nặng nề, mưa lâu ắt phải tạnh. Nếu gặp Trùng Khảm (hai quẻ Khảm), Trung Ly (hai quẻ Ly) khi mưa khi tạnh. Khảm là Thủy thì phải mưa; Ly là Hỏa thì phải tạnh. Càn Đoài là Kim, về mùa Thu thì tạnh ráo; mùa Đông tuyết sa lạnh buốt; Khôn cấn thuộc Thổ, về mùa Xuân thì mưa thấm nhuần, mùa Hạ lại nắng gắt. Dịch viết: Vân tòng long, Phong tòng Hổ và, Cấn vi vân, Tốn vi Phong. Cấn Tốn trùng phùng thì gió mây giao hiệp, cát bay đá dậy khuất che mặt trời, tối tăm rừng núi, bất chấp thời tiết cả hai chẳng nài. Khảm trên Cấn dưới (quẻ Khảm nằm trên quẻ Cấn) bủa giăng mây mù; nếu Khảm nằm trên Đoài, sương động thành tuyết; Càn Đoài là tuyết sa, mưa đá; Ly là Hỏa biểu hiệu chớp, cầu vồng; Ly là điện, Tốn là Lôi cả hai giao hợp thì sấm chớp vang rền. Khảm là vũ, Tốn là phong bỗng nhiên tương ngộ, thì gió mưa nổi trận lôi đình; Quẻ Chần mà trùng phùng thì sấm vang ngàn dậm; hai Khảm chồng nhau thì mưa nhuận thấm muôn trùng. Ấy là cái nguyên nhân của quái thể trùng phùng, nay lại suy tường Hậu tượng mà quyết đoán. Thiên Địa Thái, Thủy Thiên Nhu là tượng mưa dây dưa, hôn ám. Thiên Địa Bỉ, Thủy Dịa Tỷ là hình dáng tối tăm mịt mù. Nếu Thuần Ly (hai quẻ Ly), về mùa Hạ thì hạn hán; tứ quý đến tạnh ráo Thuần Khảm (hai quẻ Khảm), về mùa Đông thì rét lạnh, mưa dầm dề, khó bề tạnh ráo; gặp Cấn thì mưa dứt ngay, nắng luôn luôn trương nhựt, cơ ấy là như vậy. Lại như Thủy Hỏa Ký Tế, Thủy Hỏa Vị tế, thì phong vân biến cố bất thần; Phong Trạch Trung Phu, Trạch Phong Đại quá, ba tháng mùa Đông mưa sa tuyết rụng; Thủy Sơn Kiển, Sơn Thủy Mông, đi đâu phải lo sấm lấy dù; Địa phong Thăng, Phong Địa Quan, không nên đi thuyền đề phòng tai biến. Ly nằm trên Cấn: sáng mưa chiều tạnh; Ly Hổ thành Cấn: sáng tạnh chiều mưa. Tốn Khảm Hổ Ly tất thấy ráng, cầu vồng; Tốn Ly Hổ Khảm cũng chung một cuộc. Cần nên dò xét kỹ càng, không chấp nê một lý. Chấn Ly có chớp, sấm, ứng vào mùa Hạ. Càn Đoài có sương tuyết, thiết nghiệm với mùa Đông. Tạo Hóa chi lý, rộng vậy thay, Số Lý chi diệu, rất sâu, rất kín, hiểu thấu đạo thánh hiền xưa truyền để lại, ta đáng cung, đáng kính mà thọ báu truyền |
||||||||||||||||||||||||||||||
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
||||||||||||||||||||||||||||||
![]() |
||||||||||||||||||||||||||||||
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||||||||||||||||||||||||
II.- Chiêm Nhân Sự Chiêm nhân sự cần xét Thể, Dụng. Thể quái là chủ, Dụng quái là khách. Dụng khắc Thể chẳng nên, Thể khắc Dụng lại tốt. Dụng sinh Thể có sự vui mừng. Thể sinh Dụng thường xảy ra tổn thất. Thể Dụng hòa đồng (tỵ hòa) mưu sự có lợi. Cần xét thêm Hổ quái và Biến quái để đoán cát hung, nghiên cứu thịnh suy để tường tai hại. Chiêm về nhân sự thì dùng toàn chương Thể Dụng Tổng Quyết, để định cát hung. Nếu có quái sinh Thể quái, nên xem chương Bát Quái ở trước Quái sinh Thể có những gì tốt, khắc Thể có những gì xấu. Nếu không thấy có sinh Thể, khắc Thể thì lấy bổn quái mà suy. III.- Chiêm Gia Trạch Phàm chiêm gia trạch lấy Thể làm chủ Dụng làm gia trạch. Thể khắc Dụng thì gia trạch vững vàng. Dụng khắc Thể thì gia trạch bất an. Thể sinh Dụng: nhiều việc tổn hao, ly tán phòng đạo tặc. Dụng sinh Thể được nhiều lợi ích, hoặc được của người dâng biếu. Thể Dụng tỵ hòa: gia trạch yên ninh. Nếu có Quái sinh Thể thì xem lại chương chiêm Nhân sự mà đoán. IV.- Chiêm Ốc Xá Chiêm vụ này phải dùng thời gian sáng tạo. Phàm chiêm ốc xá, lấy thể làm chủ, Dụng làm ốc xá. Thể khắc Dụng: chỗ ở vừa ý. Dụng khắc Thể: thì gia trạch bất ân. Thể sinh Dụng: chủ tư tài suy thối. Dụng sinh Thể: gia môn hưng thịnh. Thể Dụng tỵ hòa: tự nhiên yên ổn. |
||||||||||||||||||||||||||||||
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
||||||||||||||||||||||||||||||
![]() |
||||||||||||||||||||||||||||||
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||||||||||||||||||||||||
V.- Chiêm Hôn nhân Xen hôn nhân lấy Thể làm chủ, Dụng làm sự hôn nhân. Dụng sinh Thể: việc hôn nhân thành, hoặc nhân sự hôn nhân có lợi. Thế sinh Dụng: việc hôn nhân không thành, hoặc vì hôn nhân mà có hại. Thể khắc Dụng: hôn nhân thành nhưng phải chậm trễ. Dụng khắc Thể: bất thành, nếu thành cũng có hại. Thể Dụng tỵ hòa rất tốt. Phàm xem hôn nhân lấy Thể làm mình, làm chủ, mà Dụng tượng trưng cho nhà thông gia. Thể quái mà vượng thì nhà mình được gia môn ưu thắng. Dụng quái mà vượng nhà thông gia có địa vị thuận lợi. Dụng sinh Thể có tài lợi về sự hôn nhân, hoặc nhà thông gia chiều chuộng theo ý ta. Thể sinh Dụng thì không hộp bỏ quả hoặc mình phải thối sự cầu hôn. Nếu Thể Dụng tỵ hòa: hai bên tương tụ, lương phối nhàn du. Càn thì đoan chính mà giỏi, mạnh bạo. Khảm là dâm, háo sắc, hay ghen quá độ. Cấn sắc hoàng, đa xảo (khéo giỏi). Chấn dáng mặt đẹp mà rắn rỏi. Tốn tóc ít mà thưa hình xấu, tâm tham. Ly đoản, xích sắc, tính khí bất thường, thấp lùn. Khôn thì xấu bụng to mà vàng. Đoài cao và giỏi, nói năng vui vẻ, sắc trắng. VI.- Chiêm Sinh Sản Chiêm sinh sản lấy Thể là mẹ, Dụng là sự sinh. Thể Dụng cả hai nên thừa vượng, chẳng nên thừa suy, nên tương sinh, không nên tương khắc. Thể khắc Dụng không lợi cho con. Dụng khắc Thể chẳng lợi cho mẹ. Thể khắc Dụng mà Dụng quái lại suy, chắc con chẳng toàn. Dụng khắc Thể mà Thể quái lại suy, ắt nguy cho mẹ. Dụng sinh Thể thì lợi cho mẹ. Thể sinh Dụng thì mẹ dễ sinh. Thể Dụng tỵ hòa thì mẹ tròn con vuông. Nếu muốn biết sinh nam hay nữ, nên dùng Bát quái trước đây mà suy. Dương quái mà dương hào nhiều hơn: sinh nam; Âm quái mà âm hào nhiều hơn: sinh nữ. Âm Dương quái hào tương đồng((2) thì xem số người có mặt lúc chiêm, số chẳn lẽ, đó là lý ngẫu nhiên chứng nghiệm. Như muốn biết ứng kỳ ngày giờ, thì lấy Khí quái số của quẻ Dụng là quẻ gì, rồi tra nơi mục Thời tự của Bát Quái Vạn Vật trước đây mà đoán. Ghi chú: (1) Tượng số là hình vẽ Bát quái, có hào 2 vạch là chẳn, có hào 1 vạch là lẽ. (2) Âm Dương quái hào tương đồng là đều nhau, bằng nhau. |
||||||||||||||||||||||||||||||
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
||||||||||||||||||||||||||||||
![]() |
||||||||||||||||||||||||||||||
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||||||||||||||||||||||||
Thiên Tựa Tam Yếu Linh Ứng Vả chăng! Dịch là bản chất thuộc Tinh lý hoc, bản chất của Tinh lý ấy hoàn toàn do ở Tâm của ta vậy. Cái Tâm ấy là bản chất của một Tâm linh sáng suốt, trong sạch, chẳng bị một tơ hào nào xúc phạm, chẳng có một bụi trần nào làm hoen ố được. Tinh lý đây đủ là Dịch thể hiện hoàn toàn ở Tâm ta, ấy là Dịch, ấy là Tiên Thiên Dịch vậy. Chí như mối lo tư, tự nhiên bắt đầu bộc phát, ngoại vật gắn liền với tâm, như mây che không trung, như bụi làm lu mờ kiếng, chìm đắm mịt mù không rõ ràng. Mà trong vào Dịch thể hiện nơi Tâm của ta, há để xen lẫn được như thế sao? Cho nên cái nguyên nhân kỳ diệu của Tam yếu, nó xoay vần ở Nhĩ (tai), Mục (mắt), Tâm (cái tâm tư), ba yếu tố hư linh ấy thể hiện vào sự vật. Tai thì thông, Mắt thì sáng, Tâm thì thật trong sạch sáng suốt. Vì sự căn là do nơi Tâm, mà Tâm thì chủ trị lấy sự căn. Song le sự căn chưa phát động, thì quỷ thần chưa rõ được cái nguyên nhân, cát hung, họa phước không nơi thâm nhập. Cho nên Tiên sư dạy rằng: Tư lự chưa phát động, Quỷ Thần chưa hay, chẳng phải do nơi ta, thì do tại ai? Nếu sự căn mà dấy động ở Tâm ta, ắt là quỷ thần thấu hiểu, sự cát hung hối lận tất phải có số, thì tất nhiên ta đã có sẵn một lẽ gì đó rồi, ắt phải cầu đến Tâm Dịch của ta vậy. Như vậy im lặng, không tiếng, không động, yên lặng mà lo nghĩ, mà xét đoán cho chân thành, chú ý xem sự thay đổi, ngẫm ngợi xét tìm, quay vần trong Tam yếu, ắt hẳn ta thấy, mà thấy rõ ràng, nghe không rõ, ta nghe rõ ràng, như thấy rõ hình ảnh, như nghe âm thanh báo hiệu, ta xem xét rõ ràng, thì biết Dịch là đạo chiêm bốc, chính Dịch là ở nơi Tâm ta vậy. Tam yếu chẳng phải là sự hư không, mà sự huyền diệu linh ứng rất cao xa, ấy là đạo vậy. Xét lý cho chí tình, chí thần, trăm họ hàng ngày thường dùng mà chẳng hay. Làm sao được, để biết cho đầy đủ cái ảo diệu chân tình để luận bàn ấy chỉ có tiên sinh Lưu. Tiên sinh người ở Giang Hạ, hiệu Trạm Nhiên Tử, được Vương Ốc Sơn nhhân, Cao Xử sĩ Vân Thạch trao truyền. Bảo Khánh năm thứ 4, sau rằm tháng Trọng hạ, Thanh Linh Tử Chu Hư, bái thủ tự. |
||||||||||||||||||||||||||||||
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
||||||||||||||||||||||||||||||
![]() |
||||||||||||||||||||||||||||||
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||||||||||||||||||||||||
Trong cuốn "Thế Giới Tâm Linh" của Đoàn-văn-Thông có đề cập một đoạn như sau: " Một số lớn nhà khoa học ngày nay khi nghiên cứu sâu xa về Kinh Dịch đã không ngờ rằng: Hầu như mọi lý thuyết trong khoa học đều quy về cả trong bộ Dịch Kinh. Vũ trụ và con người là một 'Vạn vật đồng nhất thể' là đó. Chính vì khám phá được nguyên lý khở đầu đó mà một số lớn nhà khoa học đã đổ xô đi vào lãnh vực tìm hiểu Kinh Dịch. Hiện nay tại Hoa-Kỳ có đến gần 200 tác phẩm biên khảo về Kinh Dịch (I-Ching) dưới nhiềi lãnh vực như Thiên-văn, Địa-lý, Địa-chất, Toán-học, Vật-lý, Hóa-học, Điện-học, Di-truyền.v.v.. Kinh Dịch là bộ sách lý giải những vấn đề huyền vi của vũ-trụ, tự nhiên và con người qua thuyết Âm-Dương. Từ ngàn xưa các nhà bói toán đã dựa vào Kinh Dịch để suy đoán mọi sự việc của quá khứ, hiện tại và tương lai. Cái cơ bản khoa học trong phép giải đoán là thời điểm và động hào mà Thiệu-Khang-Tiết là người đã áp dụng lý thuyết của Dịch-Kinh vào khoa bói toán rất khoa học và kết qủa vô cùng chính xác. Phương pháp này được gọi là phép độn Mai-Hoa. Theo tài liệu mới được công bố của học gỉa Francis X. King trong tác phẩm "Mind and Magic" xuất bản tại Luân-Đôn (nhà xuất bản Crescent Books - 1991) thì để quyết định thực hiện hay không trong trận tấn công quyết tử Trân Châu Cảng (năm 1941), bộ tham mưu chiến lược Nhật-bản đã bí mật tổ chức một buổi Bói Dịch ngay dưới hầm sâu của bộ tham mưu. Kết qủa quẻ Dịch cho biết là thành công tốt đẹp. Trong giai đoạn khủng hoảng về nguy cơ của cuộc chiến tranh biên giới có thể xảy ra giữa Ấn-Độ và Trung-Quốc trong thập niên 1970 cũng đã có sự thăm dò ý kiến một số nhà Dịch học tại Ấn-Độ. John Blofeld là một nhà khoa học chuyên nghiên cứu về cuộc Bói Dịch này đề hỏi về tình huống của vấn đề biên giới. Kết qủa, quẻ Dịch cho biết điều đe dọa sẽ không xảy ra. Đoán Quẻ Theo Ngũ Hành Của Quẻ Thí dụ 1: Năm 1985, tháng 12, ngày 28, lúc 3 giờ 35 phút chiều có người đến hỏi: " 7 giờ rưỡi tối nay đội bóng chuyền nữ Trung Quốc đấu với Liên đội nữ sao thế giới ở Bắc Kinh, ai thắng, ai thua?" Theo âm lịch là năm ất sửu, tháng 11, ngày 17, giờ thân. Cách tính quẻ như sau: - Thượng quái : 2 + 11 + 17 = 30; 30 : 8 dư 6. Số 6 là Thủy Khảm. - Hạ quái : 30 + 9 (giờ thân) = 39; 39 : 8 dư 7. Số 7 là Sơn Cấn. - Hào động : 39 : 6 dư 3 tức hào 3 động. Theo trang quái khí vượng suy, tháng 11 thuộc mùa Đông là mùa Thủy vượng nên đội nữ Trung Quốc có lực mạnh. Đội nữ thế giới ở ngôi Thổ, đất bị hưu tù vô lực nên không thể thắng Thủy vượng được. Do đó, đội nữ Trung Quốc nhất định thắng. Thí dụ 2: Trận chung kết bóng đá của Việt nam năm 1999, đội Công an Hà nội gặp đội Sông Lam Nghệ An tại sân vận động Hà Nội. Câu hỏi: "Kết qủa của trận đấu như thế nào, ai thắng, ai thua?" (Chú thích: Quẻ nầy được gieo tại văn phòng Khoa Triết học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội.) Thời gian: 16 giờ 30 ngày 11 tháng 4 năm 1999, tức là giờ thân, ngày 25 tháng 2 năm Kỷ Mão đội Công an Hà Nội gặp đội Sông Lam Nghệ An. Cách tính quẻ như sau: - Thượng quái : 25 + 2 + 4 = 31; 31 : 8 dư 7. Số 7 là quẻ Sơn Cấn. - Hạ quái : 31 + 9 (giờ thân) = 40; 40 : 8 --> chia chẵn, không có số dư. Lấy số 8 làm quẻ hạ tức Khôn Địa. - Hào động : 40 : 6 dư 4. Hào 4 động. NGŨ HÀNH TỨ THỜI VƯỢNG, TƯỚNG, ƯU, TÙ
Nói ý theo chánh tượng: Tượng quẻ là Sơn Địa Bác : quẻ thượng là Cấn thuộc thổ tượng trưng cho đội Sông Lam Nghệ An; quẻ hạ là Khôn thuộc thổ tượng trưng cho đội Công An Hà Nội. Hai đội đều thuộc thổ, cho nên thế lực ngang nhau, trận đấu diễn ra ngang nhau, hòa. * Nói ý theo biến tượng: Từ quẻ chủ "Sơn Địa Bác", động hào 4, cho nên có quẻ biến là "Hỏa Địa Tấn". Quẻ thượng là Ly thuộc hỏa. Theo bảng NGŨ HÀNH TỨ THỜI VƯỢNG, TƯỚNG, ƯU, TÙ của trang quái khí vượng suy, tháng 2 thuộc về mùa Xuân và hành Hỏa thuộc về Tướng nên đội Sông Lam Nghệ An có lực mạnh. Đội Công An Hà Nội ở ngôi thổ là ngôi tù, vô lực, cho nên không thắng được hỏa tướng. Kết qủa trong cuộc đá luân lưu 11m, đội Sông Lam Nghệ An sẽ thắng. * Đoán Quẻ Hậu Thiên : Thí dụ 3: Thời Nam Bắc Triều có Triệu Phụ Hòa nổi tiếng về xem bói Dịch. Một hôm có một người con trai buồn phiền vì cha mình ốm mời Triệu Phụ Hòa đến xem bói. Kết qủa gieo được là quẻ Địa Thiên Thái. Tuy quẻ Thái là một quẻ tốt nhưng trong trường hợp này không thể đoán là người cha sẽ khỏi bệnh vì hình ảnh quẻ kiền mang ý nghĩa là người cha lại đang nằm dưới đất (thổ) nên lại quẻ xấu tức người cha sẽ chết. * Đoán Quẻ về Các Trận Bóng Đá theo Thể Dụng : (Hào động ở đâu thì đơn tượng đó là dụng) Thí dụ 4: Trong trận đấu bóng đá dành cúp Tiger giữa Việt-Nam và Iran vào lúc 19 giờ 45 phút ngày 17 tháng 12 năm Mậu Dần. Ta tính quẻ như sau; - Thượng quái : 17 + 12 + 3 = 32; 32 : 8 dư 0. Số 8 là quẻ khôn. - Hạ quái : 32 + 11 (giờ tuất) = 43 ; 43 : 8 --> dư 3. Lấy số 3 làm quẻ hạ tức Ly. - Hào động : 43 : 6 dư 1. Hào 1 động. Giải Thích: Theo tượng quẻ thì khôn là chủ (đội bóng đá Việt-Nam). ly là khách (đội bóng đá Iran); với quy luật ngũ hành thì hỏa sinh thổ tức là dụng sinh thể hay là bổn mạng của khách sinh sôi, nẩy nở cho bổn mạng của chủ. Nếu ta dừng tại đây thì ta sẽ kết luận đội Việt-Nam là đội chủ nhà ắt thắng. Tuy nhiên, nếu lý luận xa hơn thì ta thấy rằng : Tháng 12 là tháng của mùa Đông --> Đội Iran ở ngôi hỏa (tù) nhưng sau đó động hào thành ra thổ. Khách và chủ cùng hành thổ nên tỵ hòa, không ai thắng ai. Biến tượng là kết quả của sự việc. Thí dụ 5: Trong trận bán kết đội bóng đá Việt-Nam gặp đội bóng đá Trung Quốc vào giờ thân ngày 20 tháng 12 năm mậu dần. Ta tính quẻ như sau: - Thượng quái : 20 + 12 + 3 = 35; 35 : 8 dư 3. Số 3 là quẻ Ly. - Hạ quái : 35 + 9 (giờ thân) = 44 ; 44 : 8 --> dư 4. Lấy số 4 làm quẻ hạ tức Chấn. - Hào động : 44 : 6 dư 2. Hào 2 động. Giải Thích: Ta có chánh tượng là Hỏa Lôi Phệ Hạp động hào 2 thành biến tượng là Hỏa Trạch Khuể. Xét theo ngũ hành sinh khắc của chánh tượng thì mộc sinh hỏa tức dụng sinh thể vậy là đội bóng Trung Quốc sinh sôi, nẩy nở cho đội chủ nhà là đội bóng Việt-Nam nên bổn mạng của chủ được tốt. Tuy nhiên trận đấu xảy ra ngày 20 tháng 12 năm mậu dần thì ngày 19 trở đi đã bước sang ngày lập Xuân. Xét theo bảng Ngũ Hành Tứ Thời ở trên thì hành Mộc tốt hơn hành Hỏa vào mùa Xuân. Như vậy đội bóng Trung Quốc trở nên mạnh mẽ hơn vào mùa Xuân. Hơn nữa, xét thêm Biến Tượng là Hỏa Trạch Khuể; ta thấy quẻ Ly thuộc hỏa thuộc đội Việt-Nam khắc được quẻ Đoài thuộc Kim (Hỏa khắc Kim) thì ta có thể nghĩ hy vọng vào đội bóng Việt-Nam có cơ hội thắng được đội bóng Trung-Quốc, nhưng xét về tượng quẻ thì hỏa lại nằm trên đầm (lửa nằm trên mặt hồ). Do đó, lửa không thể bốc cháy được trong nước mà trái lại còn bị tắt ngấm nữa. Cuối cùng, đội bóng chủ nhà Việt-Nam bị thua. Thí dụ 6: Trong trận chung kết cup Tiger giữa hai đội bóng đá Việt-Nam và Singapore tại sân Hà-Nội vào giờ tuất ngày 15 tháng 7 năm mậu dần. (Dương lịch: Ngày 5 tháng 9 năm 1998 lúc 19 giờ) Ta tính quẻ như sau: - Thượng quái : 15 + 7 + 3 = 25; 25 : 8 dư 1. Số 3 là quẻ Kiền. - Hạ quái : 25 + 11 (giờ tuất) = 36 ; 36 : 8 --> dư 4. Lấy số 4 làm quẻ hạ tức Chấn. - Hào động : 36 : 6 dư 0. Hào 6 động. Giải Thích: Tron g cả hai trường hợp của Chánh và Biến quái, ta thấy chủ bị khắc chế tức bị người ngoài áp đảo. Xét thêm về thời thì tháng 7 thuộc về mùa Thu. Theo bảng Ngũ hành Tứ thời thì hành Kim của đội bóng Singapore lại vượng vào mùa thu còn hành Mộc của đội bóng Việt-Nam bị tù. Kết qủa đội bóng Việt-Nam ắt phải bị thua. Thí dụ 7: Trong trận chung kết bóng đá Sea game 20 giữa hai đội Việt-Nam và Thái Lan vào lúc 19 giờ ngày 14 tháng 8 năm 1999 tức nhằm ngày 4 tháng 7 năm Kỷ mão giờ tuất. Chúng ta có quẻ như sau: - Thượng quái : 4 + 7 + 4 = 15; 15 : 8 dư 7. Số 7 là quẻ Cấn. - Hạ quái : 15 + 11 (giờ tuất) = 26 ; 26 : 8 --> dư 2. Lấy số 2 làm quẻ hạ tức Đoài. - Hào động : 26 : 6 dư 2. Hào 2 động. Giải Thích: Xét theo Chánh Tượng thì đội bóng chủ là đội bóng Việt-Nam có hành Thổ bị xấu (hưu) vào mùa Thu (tháng 7 trong qủe) còn đội bóng khách Thái Lan có hành Kim lại tốt (vượng) vào mùa Thu. Hơn nữa luận về thể và dụng thì đội bóng Việt-Nam cũng bị hao tổn cả về Chánh Tượng cũng như Biến Tượng nên kết qủa cuối cùng Đội bóng Việt-Nam bị thua. Source: kienthuc.tripod HH sưu tầm |
||||||||||||||||||||||||||||||
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
||||||||||||||||||||||||||||||
![]() |
||||||||||||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||||||||||||||||||||||||
mk
|
||||||||||||||||||||||||||||||
![]() |
||||||||||||||||||||||||||||||
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||||||||||||||||||||||||
Cám ơn mykieu đã đưa lên thêm 5 bộ sách rất có giá trị cho việc nghiên cứu các bộ môn khoa học Huyền bí ...
Thân mến .Hoa Hạ |
||||||||||||||||||||||||||||||
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
||||||||||||||||||||||||||||||
![]() |
||||||||||||||||||||||||||||||
<< phần trước Trang of 4 |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |