Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Lịch Sử - Nhân Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Lịch Sử - Nhân Văn
Message Icon Chủ đề: CHUYỆN THẦY TRÒ Gởi trả lời Gởi bài mới
Người gởi Nội dung
hoangngochung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 27/Nov/2010
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 513
Quote hoangngochung Replybullet Chủ đề: CHUYỆN THẦY TRÒ
    Gởi ngày: 27/Jul/2011 lúc 11:52pm

Thay_giao.jpg%20%28133591%20bytes%29

HỌC TRÒ ĐỐI VỚI THẦY GIÁO XƯA VÀ NAY


Hà thúc Giảng



I/ Nhập đề :

Học sinh kính trọng thầy giáo là điều tự nhiên . Thầy giáo là người đem lương tâm nghề nghiệp dạy kiến thức cho học sinh tuy theo môn học và chương trình.

Theo Nho giáo ngày xưa, học sinh qúy trọng thầy giáo theo thứ bậc: ‘’Quân, Sư, Phụ ‘’, nghiã là học sinh phải kính trọng thầy giáo hơn cả cha mẹ, chỉ sau vua là người thay Trời trị vì thiên hạ. Quá khứ đã cho thấy người Nho học thi hành quan niệm ‘’ Quân, Sư, Phụ ‘’ một cách chính đáng .

Ngày nay, nhắc đến câu này, nhiều người khó hiểu được cách suy tư và hành động của người xưa . 
Muốn hiểu được quan niệm này, ta cần hiểu cách tổ chức học vấn ngày xưa . Tiếp theo, ta tìm hiểu sự tổ chức học vấn ngày nay, so sánh sự khác biệt của hai nền giáo dục xưa và nay . Sau cùng, ta suy xét học sinh ngày nay cần tôn trọng thầy giáo ở mức độ nào cho hợp lẽ.



I I / Nền giáo dục và cách tổ chức học vấn ngày xưa :

Việt Nam bị Trung Hoa đô hộ cả ngàn năm . Người Trung Hoa đem chữ Hán và Nho giáo sang truyền tụng ở nước ta . Do đó, văn hóa Viện Nam bị văn hóa Trung quốc ảnh hưởng rất nhiều.

Thời gian Trung Quốc đô hộ bắt đầu từ khi nhà Triệu cuả Việt Nam mất nước Nam Việt vào tay vua Vũ Đế nhà Hán của Trung Hoa vào năm 111 trước Công Nguyên (tr. C. N. ) cho đến năm 939, khi Ngô Quyền thắng quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng đem lại nền tự chủ cho dân Việt. Chữ Hán, và triết lý Nho giáo cuả Khổng Tử có từ hơn hai ngàn năm trước, được các quan đô hộ Trung Hoa đem sang dạy và truyền tụng trong dân gian .

Tiếp đến trong một ngàn năm tự chủ từ thời nhà Ngô, năm 939, trãi qua các đời vua Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn ( Quang Trung) và Nguyễn (Gia Long), cho đến khi nước Việt Nam bị Pháp đô hộ, 1884, chữ Hán là văn tự hành chánh chính thức được xữ dụng và Nho giáo được qúy trọng và dạy dỗ trong nước Việt Nam.

Nền giáo dục xưa có cách tổ chức về thầy giáo, trường học, học sinh, rất tự do và phổ thông ,chương trình học đồng nhất và cách thi cử rất trang nghiêm. Do đó, trên căn bản qua một ngàn năm tự chủ nền giáo dục không có gì thay đổi sâu sắc ngoại trừ một vài cải tổ nhỏ cho thích hợp với ý vua . 

Sau đâu là những nét chính của nền giáo dục xưa :

Thầy giáo:

Thầy giáo là người tinh thông chữ Hán và Nho học, tự mở trường dạy học sinh về chữ Nho và triết lý Khổng Tử. Thầy giáo, ngày xưa gọi là thầy Đồ, có thể là người không đổ đạt như thầy Khóa, hay ngừơi có đổ đạt như Thầy Tú, ông Cử, cho đến ông Tiến Sĩ, Phó Bảng, Trạng Nguyên, yêu thích dạy học, mở trường thâu nhận học sinh truyền tụng đạo đức Thánh Hiền và làm kế sinh nhai. Một thầy giáo dạy học sinh đủ mọi trình độ. Thầy giáo là người có cuộc sống gương mẫu đạo đức được học sinh và dân chúng địa phương kính trọng .

Những vị thầy giáo thông thái xưa được lưu danh muôn thuở như Chu văn An đời nhà Trần, Lê qúy Đôn, Nguyễn bỉnh Khiêm, Phùng khắc Khoan đời nhà Lê, Võ trường Toản, Nhữ bá Siển đời nhà Nguyễn v. . .v... .

Thay_giao.jpg%20%28133591%20bytes%29

 

Trường học :

Trường học được xây dựng trong khuôn viên vườn của Thầy giáo . Thông thường, trường là một ngôi nhà lớn, bề ngang độ chín, mười thước , bề dọc độ ba bốn mươi thước . Trong nhà được đặt những phản gỗ hay giường tre cao khoản bốn, năm tấc, sắp xếp gần nhau để học sinh cùng một lớp ngồi cạnh nhau học bài hoặc tập viết. Một trường có từ ba, bốn mươi cho đến trên trăm học sinh . 

Trường được chia ra các lớp Ấu học, Sơ học, Trung học, Cao học .

Học sinh các lớp Ấu và Sơ học, học một ngày hai buổi . Học sinh các lớp Trung học, học một ngày một hoặc hai buổi . Học sinh Cao học, chỉ đến trường để nhận giảng Kinh Sách, trả bài luận văn và nhận lời phê bình chỉ giáo cuả thầy .

Thay_do.jpg%20%2896880%20bytes%29

 

Học sinh :

Theo phong tục ngày xưa, cha mẹ cho con đi học là học chữ Thánh Hiền, học lễ nghĩa, và đạo đức làm người . Trước khi cho con đi học với Thầy Đồ, người học sinh cúng lễ trước bàn thờ tổ tiên, cha mẹ cầu nguyện tổ tiên phù hộ cho con thông minh, học giỏi . Khi đến trường, tùy theo gia đình, cha mẹ người học sinh mới đem lễ vật , cau, trầu, rượu, hương , đèn, xôi, gà, đến nhà thầy để thầy làm lễ trước bàn thờ Thánh, tức là Đức Khổng Tử, cáo lạy từ nay ngài có thêm môn sinh mới, theo học lễ nghiã Nho giáo .

Học sinh từ sáu bảy tuổi, học chữ nghĩa căn bản, lên đến mười lăm, mừời tám tuổi, học chữ , nghĩa thâm sâu hơn, học văn , thơ , đạo đức, cho đến lớp cao hơn, học làm thơ, phú, giảng giải kinh, sách, điển, sớ, sẵn sàn đựơc qua kỳ tuyển chọn làm Khóa Sinh đi dự thi Hương . Người học sinh học với thầy gọi là môn đệ. Học sinh theo học cùng một thầy, một trường gọi là đồng môn .

Trưởng tràng là người lớn tuổi có địa vị trong xã hội được thầy chỉ định hoặc đồng môn bầu để lo sinh hoạt của môn sinh. Giám tràng phụ giúp trưởng tràng. Thầy giáo chỉ định đôi, ba Cán tràng giúp đở trưởng và giám tràng trong việc chung của trường. Các đồng môn có trách nhiệm giúp đở thầy và gia đình thầy được hưng thịnh, an lành, theo đúng cung cách lễ nghĩa. Môn đệ tổ chức Tết lễ thầy vào những dịp lễ theo phong tục . Thầy giáo qua đời môn đệ theo phong tục phải để tang, lo đám tang, chôn cất, đến nơi an nghỉ cuối cùng . Thời gian môn đệ để tang thầy là ba năm, gọi là tâm tang . Trưởng tràng phải kêu gọIimôn sinh đóng góp cúng kỵ, tu bổ nhà thầy, và có khi tậu ruộng đất lập hương hỏa để lo hương khói vĩnh viễn cho thầy . 

Chương trình học:

Chữ Hán được dung để dạy học . Trường dạy học sinh lễ nghĩa , triết lý Khổng giáo, đạo đức ngươì quân tử trung quân, aí quốc, bình thiên hạ, tam cương, đạo vua tôi, nghĩa vợ chồng, hiếu kính cha mẹ và ngủ thường, nhân, nghiã, lễ, trí, tín .

Sách học được lưu truyền từ đời này qua đời khác, từ Sơ học với sách Tam Thiên Tự ( thiên trời, điạ đất , cử cất, tồn còn, tam ba, lục sáu, v..,v...), Tam Tự Kinh ( Nhân chi sơ, tánh bổn thiện, tánh tương cận, tập tương viễn , ... nhân bất học, bất tri lý, ấu bất học, lão hà vi, v..., v...), Sơ học vấn tân,Ấu học ngủ ngôn thi , Dương tiết và Minh tâm bảo giám cho đến lớp cao hơn với văn bài , triết lý và luận lý từ thời Khổng Tử như Tứ Thư , Ngủ Kinh .

Tứ Thư :Tứ Thư gồm các sách : Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử .

Đại Học : Đại Học dạy đạo người quân tử. Sách do Tăng Tử, học trò Đức Khổng Tử ( 551-479 tr. C. N. ) viết . Sách có hai phần, phần đầu gọi là Kinh, chép lời Đức Khổng Tử , phần sau gọi là Truyện, là lời giảng giải của Tăng tử .

Trung Dung: Trung dung là đạo người quân tử ăn ở vừa phải, không thái quá , không bất cập . Sách Tung Dung do Tử Tư, cháu đích tôn Đức Khổng Tử sưu chép những lời tâm pháp của ngài do học trò ngài truyền lại. Trung dung nói đạo thánh nhân căn bản là ở Trời rồi diễn ra mọi lẽ khiến người ta phải giữ mình cho kính cẩn trong khi hành động , suy tư cho ra lẽ phải, trái , làm cho đúng để tiến đến chân, thiện, mỹ .

Luận Ngữ :Luận ngữ là sách do các môn đệ của đức Khổng Tử sưu chép lời Đức KhổngTử khuyên dạy học trò về những câu chuyện ngài nói với ngưiI đương thời để học sinh thấu hiểu về những vấn đề luân lý, triết lý, chánh trị, học thuật. Sách Luận ngữ dạy’’ đạo làm người quân tử một cách thực tiển và mô tả tính tình cử chỉ, đức độ của đức Khổng Tử như phác họa ra cái mức hoạt động cho người đời sau theo’’. 

Mạnh Tử : Mạnh Tử là sách do Mạnh Tử ( 372-289 tr.C. N.), học trò Tử Tư là là cháu đích tôn Đức Khổng tử dạy về thuyết Tính Thiện , dưỡng tính, tồn tâm, trí chi, dưỡng khí, (giữ lấy thiện tính, lòng lành, giử lấy chí hướng, khí phách cho mạnh). Mạnh Tử cho rằng con người ta sinh ra tự nhiên có đức tính tốt.

Ngũ Kinh: Ngũ kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Xuân Thu, Kinh Dịch, Kinh Lễ .

Kinh Thi: Kinh thi do đức Khổng Tử sưu tập và lựa chọn gồm 305 bài thơ . Kinh thi là tập ca dao cổ cuả người Tàu , ghi lại những bài ca-dao ở thôn quê và nhạc chương ở nơi triều miếu. Kinh thi mô tả niềm tín ngưỡng của các vị thánh vương nhà Châu, ghi lại những phong tục và nếp sống thường nhật, lòng tin tưởng và đạo đức cuả dân Trung Hoa từ thời Hậu Tắc cho đến thời Khổng Tử . Hậu Tắc hay Khí là em ruột của vua Nghiêu ( 2356-2255 tr. C. N.).

Kinh Thư: Thư nghĩa là ghi chép . Kinh thư do đức Khổng Tử sưu tập.Kinh thư mô tả các gương tích vua tôi Trung Hoa đời xưa từ vua Nghiêu ( 2356-2255 tr. C.N.) cho đến vua Bình Vương (770-719 tr. C. N.) dạy về quan niệm thiên trị Trung Hoa thời cổ, dạy tam cương , ngủ thường, nhân , nghĩa, lễ, trí, tín .

Kinh Xuân Thu : Đức Khổng Tử viết kinh Xuân Thu . Kinh Xuân Thu là một bộ sử có niên hiệu mạch lạc , ghi các công chuyện từ đời Lỗ Công nguyên niên (năm 721 tr. C. N) cho đến hết năm thứ 14 đời vua Lỗ Ai Công ( năm 481 tr. C. N.) làm cho sáng tỏ quan miệm ‘’ Thiên nhân tương dữ ‘’, nghĩa là Trời và Người có quan hệ mật thiết với nhau .

Kinh Dịch: Dịch nghĩa là thay đổi . Nguyên vua Phục Hy ( 4480-4365 tr. C. N.) đặt ra Bát quái , tám hình vẽ, 8 quẻ ấy lần lược đặt chồng lên nhau thành ra 64 trùng quái (quẻ kép) , mỗi trùng quái có sáu vạch ( 3 vạch liền biểu thị lẽ dương và ba vạch đứt đoạn biểu thị âm ), gọi là hào . Có cả thảy 384 hào . Đức Khổng Tử giải nghĩa các quái, các trùng quái và các hào . Kinh dịch giúp ta tìm cho ra căn để của con người và vạn vật, gốc gác của vũ trụ, những định luật chi phối mọi sự biến thiên của trời đất, cũng như viễn đích, cùng lý cuả quần sinh và nhân loại. Dân gian ngày nay dùng dịch để xem bói toán .

Kinh Lễ : Kinh lễ là sách nói về thuần phong mỹ thuật con người sống trong cuộc đời và trong xã hộ . Đức Khổng Tử san định lại bộ kinh lễ do Chu Công soạn ra . Có ba bộ Kinh Lễ :
- Lễ Ký do Chu Công soạn ra nói về tổ chức hành chánh, chính trị, xã hội thời Chu .
- Nghi Lễ quy định về quan, hôn, tang, tế , bổn phận con người đối vớI trời đất, tổ tiên . Bộ Nghi Lễ xuất hiện thời Hán sơ .
- Lễ Ký là ký sự của môn đệ đức Khổng tử về nghi lễ, phong tục.

Tứ Thư, Ngủ Kinh là sách căn bản cuả Nho giáo , và sách đầu giường cuả học sinh thời xưa học và sống theo triết lý đó .

 

Thi cử:

Thi cử là cách thức quan vua thời xưa dùng để tuyển dụng nhân tài, đem sở học ra giúp nước, an dân .
Việc thi cử ở Việt Nam được tổ chức có quy cũ từ đời Lý Nhân Tôn (1072-1270) .Năm Ât Mão, 1075, triều đình mở khoa thi tam trường để lấy người văn học ra làm quan .

Đến đời Lê Thánh Tôn (1460-1497), định lại phép thi Hương , thi Hội, thi Đình và đặt lệ ba năm một khóa thi . Chương trình thi hương gồm tam trường, trường nhất thi năm đoạn kinh nghiã, trường nhì thi chiếu, chế, biểu, dùng tứ lục cổ thể, trường ba thi thơ dùng luật Đường, phú dùng cổ thể và văn tao tuyển,là một thể vận văn ở đời Lục triều .

Từ triều Lê, ở mỗi huyện có quan Huấn Đạo, ở mỗi phủ có quan Giáo Thụ dạy tứ thư, ngủ kinh và bắc sử cho học sinh khá, ở mỗi tỉnh có quan Đốc Học dạy các sinh đồ cao đẳng. Kỳ thi hương chấm đậu tú tài, cử nhân . Thi hội, thi đình tuyển lấy tiến sĩ .

examen-1897.jpg%20%28123188%20bytes%29

Trường thi tổ chức ở các tỉnh lớn. Trường thi là một bãi đất rộng hàng trăm mẫu, bằng phẳng . Chung quanh được rào kỹ bởi hàng rào tre có lính canh gác cẩn mật .Trường thi có 9 cữa cho thí sinh ra vào . Giữa có nhà thập đạo và nhà các quan chấm trường . Thí sinh được tuyển chọn từ các huyện đến qua các kỳ sát hạch , người được kết quả qua kỳ sát hạch gọi là Khóa Sinh , được phép dự kỳ thi Hương . Quan trường do vua bổ đến gồm chánh chủ khảo, phó chủ khảo, nhân viên khảo thí . Kỳ thi hương kéo dài hơn cả tháng . Thí sinh đem theo lều làm bằng sườn tre, chỏng cũng bằng tre để tự dựng lên tạm che mưa che nắng, và giường viết trong lúc làm bài thi . Thí sinh tự mua giấy bản đóng thành bốn quyển tập, mỗi tập dày khoảng mười tờ, ghi tên, tuổi, ngày nơi sinh, tên cha mẹ , quê quán, đem nạp cho quan Đốc Học tỉnh cả tháng trước ngày thi để quan Đốc Học đóng thùng gởi đến trường thi . Khi vào trường thi, khóa sinh được nhận lại các quyển cuả mình để làm bài thi. Bài làm xong được nạp cho ban giám khảo .

nghe-ket-qua1.jpg%20%28282369%20bytes%29

 

Sau đây là cảnh kỳ thi hương năm Giáp Ngọ (1894) tại trường thi Nam Định, do nhà văn Nguyễn Tuân dịch từ cuốn sách ’’ Bắc Kỳ cố sự’’ bằng tiếng Pháp cuả Buaranh:

‘’Trường thi Nam Định năm 1894 đông như kiến cỏ . Năm 1891, Nam Định chỉ có 9.000 sĩ tử, năm 1894 con số người đi thi lên tới 11 ngàn. Từ giữa trường thi, chỗ đường thập đạo trông ra,trùng trùng, điệp điệp những những mu rùa bằng tre, những tấm mui luyện nhà đồ ( ý nói những thi cụ lều chõng). Kỳ đệ nhất vào ngày 25-10-1894, kỳ đệ nhị, ngày 15-11. Kỳ đệ tam ngày 25-11. Và kỳ phúc hạch đệ tứ là ngày 2-12-1894 .

Ngày 8-12-1894 là lễ xướng danh những người đổ.Tiếng loa ran lên, ồm ồm lanh lảnh. Tiếng í - ới gọi nhau lạc đường của người nhà các thầy khóa, của tiểu đồng lảo bộc quản gia nhổ lều đội chõng ra về trong đêm tối lập lòe ánh đuốc. Đám đông lên tới hai mươi nhăm ngàn người .

Lễ xướng danh từ sớm cho đến chiều. Ghế bành của các quan chấm trường dự lễ tại ghế cao đến bốn thước mét . Quan Toàn quyền bận không đến, có quan cai trị Moren thay mặt dự lễ . Cứ xong mỗi tên ông tân khoa xướng lên là mất năm phút- tính từ lúc cất tiếng loa gọi tên, xoáy sang phía phải xoáy sang phía trái, cho tới lúc người trúng thi thích cánh lách được lên chỗ đệ trình căn cước . Khoa thi 1894 lấy 60 cử nhân và 200 tú tài ( lệ triều đình đặt ra là cứ nhất cử tam tú, cứ chấm lấy một cử nhân thì lấy được ba tú tài). 

Xướng xong tên 60 ông cử tân khoa, mất ba tiếng đồng hồ, thì quan sứ Moen về . Các ông tân khoa phục xuống lạy . Ở tỉnh đường quan Tổng Đốc, quan Kinh lược Bắc Kỳ ban mủ, ban áo tấc xanh, ban ô, ban tráp sơn, nó là những huân hiệu cụ thể của người men chân lên cái than hoạn lộ . Vân vân . ‘’

Khóa thi Giáp Nhọ (1894) này , thi sĩ Trần kế Xương đã may mắn đổ Tú Tài, và sau đó Tú Xương thi 4 lần nữa trong 12 năm đều không đậu cử nhân, cho đến khi ông mất năm1907, thọ 37 tuổi .

Sự đổ đạt định đoạt đời sống vinh hạnh của một đời người . Người đậu cử nhân được vua bổ dụng làm quan, là một vinh dự lớn lao cho gia đình, cha mẹ, họ hàng, làng xã , huyện, phủ .

Quan trọng đến nỗi Tú Xương đã nói :’’ Ngày mai tớ hỏng tớ đi ngay, cúng giổ từ nay nhớ lấy ngày’’ .
Nền học vấn xưa ấy đã đào tạo không biết bao nhân tài, đem sở học của mình xây dựng đất nước .
Sau đây là đơn cử một số nhân vật lừng danh .

Học sinh Nguyễn quang Bình khi còn nhỏ ở ăn hoc tại nhà Thầy giáo Hiển ở ấp Phú Lạc, quận Bình Khê, tỉnh Bình Định, và sau này là Vua Quang Trung Nguyễn Huệ .

Nguyễn công Trứ đến 49 tuổi mới đậu cử nhân,được bổ ra làm quan.

Trần Kế Xương thi cho đến trước khi mất vẫn chưa đậu cử nhân, và suốt đời sống nhờ vợ buôn bán, làm ăn.

Ong Phan Khôi, đậu Tú Tài Hán học năm 1915, lúc 29 tuổi, là học trò Ong Trần Qúy Cáp, đổ Tiến Sĩ khoa Giáp Thân, năm 1904 .

Có không biết bao nhiêu là thầy Khóa , cứ ba năm một lần, mang lều chõng đi thi, nhưng đi không lại về không, suốt đời theo thầy học hỏi lễ giáo và văn chương, chữ nghĩa .

Việc trọng kính thầy học đã bám gốc rễ sâu vào nhân gian qua triết lý Nho giáo . Các câu ca dao ,’’ Muốn sang thì bắt cầu kiều, Muốn con hay chữ phải yêu mến thầy , Trọng thầy thì được làm thầy, Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy, Không thầy đố mầy làm nên ‘’, nói lên quan niệm kính trọng thầy giáo ngày xưa .
Ong Nguyền Trường Tộ, là môn đệ Hán học của Ông Huyện Điạ Linh ở xã Tân Lộc , tỉnh Nghệ An, tuy không dự khoa thi Hương nào, nhưng rất kính trọng thầy dạy Nho học. Ong đã cùng các đồng môn dự lễ đoạn tang thầy, lúc trở về nhà thì lâm bệnh và qua đời năm 1871, dưới triều vua Tự Đức .

Cứ ba năm triều đình mở khoa thi Hương ở các tỉnh lớn như Hà- nội, Nam định, Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên, Bình Định và Sài-gòn.

Nền học giáo dục xưa, trọng văn chương , Nho học và khoa cử, đã tào tạo rất nhiều bậc danh tài cho đất nước như Ngô sĩ Liên, Nguyễn Trãi, Lê văn Hưu,Trần Hưng Đạo , Hàn Thuyên, Lê Qúy Đôn, Nguyễn Thiệp, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn thị Điễm, Nguyễn Công Trứ, Trần Kế Xương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu, Hùynh thúc Khán, Phan bộI Châu, Ngô đình Diệm v.... v.. ..

Nói tóm lại, nền giáo dục xưa có những điểm đặc biệt chính như sau:

-Thầy giáo là người dạy học sinh từ nhỏ cho đến khi thành tài, thường chỉ là một thầy giáo .
- Thầy giảng dạy đạo đức kinh sữ, triết lý của Nho giáo làm cho học trò biết hiếu, để , trọng nhân, nghiã, lễ, trí , tín .
- Trường học là nhà tư của thầy giáo .
- Bài thi chỉ dùng thơ, phú . văn bài, luận lý đạo đức người quân tử. 
- Thầy giáo là người có lương tâm, đạo đức gương mẫu, và thông thường là người đổ đạt cao được học sinh tôn kính, dân chúng trọng nể
-  Người xưa coi chữ Nho là một biểu tượng thiên liêng cần quý trọng
- Xã hội ngày xưa tôn trọng đạo đức và chữ nghĩa thánh hiền hơn cả mọi thứ, kể cả tiền tài, của cải vật chất .
- Học hành chữ Nho và Nho giáo để thi cử đậu đạt làm quan là con đường duy nhất và vinh dự nhất của con người trong xã hội để tiến thân .
- Người thi cử chưa đậu đạt thì cứ học và thi hoài cho đến già vẫn còn học chừng đó kinh sách để đi thi .

Những đặc tính của nền học vấn ngày xưa đã đưa đến quan niệm học trò qúy trọng, kính nể thầy giáo hơn qúy trọng, kính nể cha mẹ cũng là một điều tự nhiên.



I I I / Quan niệm học sinh đối vớI thầy giáo vào thời tân học :

Ta gọi là thời tân học là kể từ khi nền học vấn Nho học, chương trình học và cách thi cử ngày xưa là thi Hương, thi Hội, thi Đình ,được chấm dứt để thay thế nền học vấn Pháp-Việt trở về sau.

Từ khi Việt Nam bị Pháp xâm chiếm thì nền Nho học bị tàn lụi . Chính quyền bảo hộ Pháp muốn bãi bỏ nền học vấn Nho học cũ vì rất nhiều lý do . Pháp một mặt sợ sự chống đối của nhà Nho, không muốn giới nhà Nho đông đảo và vững mạnh tiếp tục thể thức học hành thi cử xưa. Măt khác, chúng muốn cải tổ học vấn căn bản theo cách thức học vấn Pháp, phù hợp vớc chính quyền bảo hộ để có một lớp người mới , chịu ảnh hưởng nền giáo dục Pháp có thể giúp việc cho các cơ quan hành chánh Pháp .
Do đó, ở Nam Việt, từ khi Pháp chiếm trọn 6 tỉnh Nam Kỳ năm 1867 thì việc học hành thi cử theo cũ không còn nữa. Chính Phủ thuộc địa cải cách học vấn theo chương trình Pháp- Việt . Năm 1915 ở Bắc Việt bãi bỏ thi Hương và tiếp theo, năm 1918 ở Trung Việt cũng bãi bỏ thi Hương . Việc thi cữ theo chương trình Hán học, chữ Nho hoàn toàn chấm dứt từ đó .

Ngày 21 tháng 12 năm 1917, Nha Học Chánh Đông Dương ban hành học quy theo chế độ giáo dục Pháp - Việt.

Nền giáo dục mới này là một sự cải tổ toàn diện, từ chữ làm chuyển ngừ là chữ Quốc ngữ và chừ Pháp, cho đến cách tổ chức học vấn, chương trình học và cách thi cử . 

Thầy giáo :

Thầy giáo là một người chọn nghề dạy học sinh, được đào tạo, để có đủ khả năng dạy theo chương trình của lớp học phụ trách . Thầy giáo được chính phủ tuyển dụng và bổ đến trường và lớp học cần thầy giáo dạy dỗ . Thầy giáo hưởng lương bổng của chính quyền . Thầy giáo dạy học sinh trong một niên khóa, trong phạm vi lớp học do thầy giáo phụ trách . Niên khóa sau, thấy giáo đón nhận lớp học sinh kế tiếp .Trong giai đoạn đầu chương trình giáo dục Pháp-Việt chỉ có trường công lập.

Trường học : 

Trường học là cơ sở công lập. Trường được chia ra nhiều phòng học . Mỗi phòng học được trang bị bàn, ghế, bản đen, chỗ ngồi cho khoản ba , bốn mươi học sinh cùng một lớp . Trường công lập Pháp-Việt có từ cấp thấp ở thôn , xã , gọi là trường Sơ Học, rồi đến trường công lập huyện dạy lớp cao hơn , gọi là trường Tiểu Học, và trường công lập cấp tỉnh mở cho học sinh lớp cao hơn nữa, gọi là trường Cao Đẳng Tiểu Học và trường Trung Học . Trường học có hiệu trưởng, giám thị và thầy giáo được chính quyền bổđến dạy học sinh, trông coi sinh hoạt học đường.

Học sinh :

Học sinh là những thanh . thiếu niên, được trường thâu nhận dạy văn hóa theo đơn xin của phụ huynh . Học sinh được thâu nhận vào các lớp khác nhau tùy theo từng hạn tuổi và sức học quy định . Học sinh học lớp đầu tiên từ 6 tuổi đến 8 tuổi, và từ đó, cứ học mỗi niên khóa là một lớp học, nếu học sinh học có kết quả tốt . Theo nguyên tắc, cứ mỗi năm học một lớp . Học sinh từ khi vào học lớp đầu tiên cở sáu tuổi cho đến lúc học xong trung học vào tuổi mười tám, hai mươi .



Hệ thống giáo dục và chương trình học :

Hệ thống giáo dục Pháp-Việt được chia làm nhiều cấp, mỗi cấp gồm nhiều lớp .

Muốn lên lớp trên học sinh phải học xong lớp dưới, trong một niên khóa là 9 tháng học và 3 tháng nghỉ hè. Học sinh cấp dưới muốn lên cấp trên cần phải thi đậu các kỳ thi . Đây là hệ thống giáo dục 13 năm ( sau này đổi thành 12 năm ), gồm 4 cấp ( sau này đổI thành 3 cấp ), với chương trình học rất ăn khớp nhưng rất nặng nề, bắt buộc học sinh phải dùng rất nhiều thì giờ để học và thi cho có kết quả.

Cấp Sơ Học:

Cấp Sơ Học gồm có 3 lớp, lớp Đồng Ấu hay lớp Năm (lớp1), lớp Dự Bị hay lớp Tư (lớp 2), lớp Sơ Đẳng hay lớp Ba(lớp 3) . Trường Sơ Đẳng thường được mở ở làng . Cấp sơ học dạy chữ Quốc Ngữ . Baì học gồm có tập đọc , tập viết, tập đặt câu bằng chữ Quốc Ngữ, và làm toán cọng trừ nhân chia , cách trí, vệ sinh, đức dục. Lớp Sơ Đẳng bắt đầu dạy thêm một ít chữ Pháp .

Học xong lớp Sơ Đẳng học sinh thi bằng Sơ Học Yếu Lược để lên cấp kế tiếp .

Cấp Tiểu Học:

Cấp tiểu học gồm lớp Nhì Nhất Niên ( lớp 4 năm thứ nhất), Lớp Nhì Nhị Niên ( lớp 4 năm thứ hai ) , và lớp Nhất (lớp 5) . Trường tiểu học công lập được mở tại các Quận . Chữ Pháp là chữ chính được được dạy ở cấp này . Các môn học có thêm Điạ dư, Sử ký, Cách trí, toán đố, quy tắc tam xuất, luận văn .

Học xong lớp Nhất học sinh thi Bằng Sơ Đẳng Tiểu Học . Đậu xong bằng tiểu học thì học sinh được thi tuyển theo học cấp tiếp theo .

Cấp Cao Đẳng Tiểu Học:

Cấp Cao Đẳng Tiểu Học, nay là Trung Học Đệ Nhất Cấp gồm 4 lớp, lớp Đệ nhất niên hay Đệ thất ( lớp 6), lớp Đệ nhị niên hay Đệ lục ( lớp 7 ), Đệ tam niên hay Đệ ngủ (lớp8), Đệ tứ niên hay Đệ tứ ( lớp 9) .
Cấp cao đẳng tiểu học chuyển ngữ được dung chữ Pháp . Các môn học gồm khoa học căn bản, vật lý điện học, hóa học vô cơ, vạn vật động vật học, toán trung cấp gồm đại số, hình học phẳng, sử ký thế giới và Việt Nam , điạ lý thế giới và Việt Nam , văn chương Pháp và Việt Nam , Họa, Nhạc, v... v .. Cấp này có thêm ngọai ngữ gồm Anh văn, Hán văn.

Từ cấp này,trong một niên khóa, học sinh được học với nhiều thầy, mỗi thầy dạy mỗt môn theo một số giờ được ấn định trong thời khóa biểu .Một lớp học cấp này, học sinh có khoản mười thầy giáo .
Học sinh phải thi đậu bằng Cao -Tiểu hay Thành Chung (Trung Học Đệ Nhất Cấp) mới được lên học Trung học ( Trung học đệ nhị cấp) .

Trong những thập niên đầu thế kỷ XX, trường Cao Đẳng Tiểu học chỉ có ở các nơi như Hà - Nội có trường Bảo - Hộ, hay trường Bưởi, sau này là trường Chu văn An cho nam sinh, trường Trưng Vương cho nữ sinh, Huế có trường Quốc Học cho nam sinh, trường Đồng Khánh cho nữ sinh, Sài-gòn có trường Petrus Ký cho nam sinh , trường Gia Long cho nữ sinh. Tại Mỹ- Tho có trường Le Myre de Vilers sau nà là trường Nguyễn đình Chiểu.

Cấp Trung Học:

Câp Trung Học nay là trung học đệ nhị cấp, gồm 3 lớp : lớp Đệ Tam ( lớp 10 ), lớp Đệ Nhị (lớp 11), lớp Đệ Nhất (lớp 12 ) .

Chuyễn ngữ chữ Pháp tiếp tục được dùng điêu luyện hơn bởi học sinh cấp cấp cao đẳng tiểu học và cấp trung học. Trong những năm đầu trường trung học Pháp- Việt được học tiếp ba năm thì thi Tú Tài gọi là Tú Tài Bản Xứ ( Baccalaureat Local) . Về sau, khoản từ cuối thập niên 1920 mới có thi bằng Tú Tài Một và Tú Tài Hai. Học sinh phải thi đậu Tú Tài Một mớI được học và thi Tú Tài Hai . Năm cuối cùng cấp trung học thời đó được chia ra thành ba Ban khác nhau : Ban Khoa học Thực Nghiệm, Ban Toán và Ban Triết .

Chương trình tú tài mộtgồm có toán lượng giác, hình học không gian, hóa học vô cơ, hữu cơ , vật lý chuyển động , vạn vật động vật học, Sữ ký và địa lý thế giới và Việt Nam. 

Chương trình Tú Tài Hai Ban Toán và Vạn Vât có thêm Triết học , luận lý học, đạo đức học, ban Triết học có tâm lý học, siêu hình học . Toán học có giải tích, đạo hàm, nguyên hàm, hình học họa hình. Vật lý học cơ thể con người, Văn chương hiện đại.

Sau khi tốt nghiệp Tú Tài Hai, học sinh mớI được thâu nhận vào các trường Đại Học.

Việc học tổ chức căn bản là như thế, nhưng thi cử rất khó khăn khiến cho nhiều người học chưa xong trung học thì tuổi đã lớn cho nên đành bỏ học . Đó cũng là mục tiêu hạn chê người có học vấn cao của chính quyền thuộc địa .

Sau năm 1945, nước Việt Nam độc lập đã cải tổ học vấn dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ, cho nên sự học được mở sâu rộng trong quần chúng . Từ tiểu học đến trung học Việt ngữ được dung làm chuyển ngữ. Pháp văn , Anh văn được dạy như ngoại ngữ .

Chương trình trung học đệ nhất cấp và đệ nhị cấp được đem ra dạy học sinh bây giờ quen gọi là chương trình Hoàng xuân Hãn, được ban hành lúc Ong Hoàng xuân Hãn là Bộ Trưởng Giáo Dục chính Phủ Trần Trọng Kim vào năm 1945. 

Theo chương trình Hoàng xuân Hãn thì cấp trung học đệ nhị cấp kể từ lớp đệ tam ( lớp 10) trở lên đã bắt đầu chia ra các ban khác nhau , ban Khoa học thực nghiệm ( Khoa học A ) học nhiều về sinh vật học, ban Toán ( Khoa học B )học nhiều về khoa học thuần lý, toán, vật lý , ban Sinh ngữ ( ban C) , học nhiều về ngoại ngữ và triết học, ban cổ ngữ ( ban D ) học nhiều về chữ Hán .

Thi Cử :

Sự thi cử được tổ chức theo quy mô trung ương . Trung ương bổ nhiệm chánh, phó chủ khảo và giám khảo cho các kỳ thi trung học và tú tài . Bài thi do trung ương ra được niêm khằn kín đáo và gởi đến chánh chủ khảo đem đến trường thi . Sự thi hạch được tổ chức rất công bằng và vô tư .
Nền giáo dục mới này đã gây dựng nên bao nhiêu nhân tài cho xã hộI, đất nước như các Ong Dương Quảng Hàm, Phạm duy Khiêm, Bữu hộI, Nguyễn đạt Xường, Nguyễn mạnh Tường, Trần đức Thảo, Nguyễn tường Tam, Nguyễn xuân Vinh, v..v.



IV/ Những khác biệt căn bản của nền giáo dục cũ và mới :

Những khác biệt chính của nền học vấn cũ và mới là : 

Ngày xưa thầy giáo là chủ ngôi trường do tự mình tạo nên. trường được lập ở ngay nhà thầy .và chỉ có một thầy gíáo dạy cho tất cả các lớp . Ngày nay trường là một cơ sở đựơc xữ dụng có tính cách công cộng, phần nhiều là công lập, được xây dựng ở một khu riêng biệt thích nghi vớI nhu cầu học tập văn hóa và thể dục của học sinh .

Trường học gồm có Hiệu Trưởng và Giám Thị và nhiều thầy giáo được Nha Giáo Dục bổ tớI để lo việc học của trường , không có Trưởng Tráng, Gíám Tràng như trước .

Một học sinh, học cho xong Trung Học phải được ít nhất cũng vài chục thầy giáo giảng dạy .

Chữ đồng môn nay hiểu là cùng một trường chứ không phải cùng một thầy . Trưởng tràng nay phải phân chia làm hai nhân vật là Trưởng Ban Tổ Chức sinh hoạt học sinh trong trường và chủ tịch cuả hội ái hữu 

Cựu học sinh, sinh viên .

Chương trình giáo dục ngày xưa chú trọng đạo đức, lễ nghĩa Nho giáo, và văn chương. Chương trình giáo dục ngày nay trọng khoa học nhiều hơn .

Ngày nay, sự liên hệ thầy trò không còn sâu đậm và tôn qúy như thời của nền học vấn chữ Nho .

Do đó, quan niệm địa vị của thầy giáo đối với học sinh cao hơn địa vị của cha mẹ không còn hợp lý nữa đối vớI nền giáo dục mới.

Điều này cũng làm thay đổi nấc thang tôn kính thầy giáo trong xã hộI Việt Nam, nghiã là sự tôn kính thầy chỉ đến mức bằng tôn kính cha mẹ mà thôi . ‘’Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy, và Mồng một ở nhà mẹ cha, mùng hai nhà vợ, mùng ba nhà thầy’’, là những câu tục ngữ xuất hiện ở thờI kỳ sau này .

Mặc dầu thời gian và tổ chức giáo dục ngày nay hoàn tòan thay đổi khác hẳn tổ chức giáo dục ngày xưa, nhưng với truyền thống trọng văn hóa, giáo dục từ mấy ngàn năm qua của người Việt Nam, thầy giáo bao gời cũng được học sinh kính trọng như kính trọng cha mẹ mình .

Ngày nay, học sinh đối vớI thầy giáo tuy không ở thứ bậc ‘’Quân,sư ,phụ’’ nữa. nhưng phải ở trong mức độ ‘ trọng thầy mới được làm thầy’’.



V/ Tương quan hợp lý cuả học sinh đối vớI thầy giáo :

Thầy giáo là người chọn nghề dạy học, một nghề cao qúy và thanh đạm .

Nguồn vui trong sáng của thầy giáo là truyền đạt được điều hiểu biết của mình đến những thế hệ con em một cách vô tư . Miềm hảnh diện của thầy giáo là đưa đẩy sự hiểu biết về môn học của học sinh lên cao hơn để về sau thế hệ mới có thể tiến bộ hơn thế hệ đã qua . Hiểu biết theo tình nghiã gia đình , con hơn cha là nhà có phúc, thì về sau trò học hành tiến bộ cao hơn thầy cũng là niềm hãnh diện của thầy . Thật là một vinh dự cho thầy giáo khi học trò cũ cuả mình nên danh nên phận, giúp ích được cho xã hội, đất nước , nhân loại .

Một con người, khi tự túc được đời sống trong xã hộI, đã chịu ân biết bao nhiêu người, nhất là cha mẹ, và thầy giáo, kể từ thầy dạy vở lòng, cho đến thầy trung học, đại học .

Do đó, học sinh lúc nào cũng kính mến thầy giáo như kính mến cha mẹ . 

Khi nghĩ rằng một thầy giáo làm điều không tốt đối với học sinh là một điều hoàn toàn sai lầm như ta nghĩ cha mẹ làm điều không tốt đối vớI con cái . Do đó, học sinh lúc nào cũng phải kính trọng thầy giáo, kể từ thầy dạy lớp mẫu giáo .

Muốn thể hiện lòng kính mến của học sinh đối với thầy giáo thì ta nên :
- Nghĩ đến và thăm hỏi thầy giáo khi có thì giờ .
- Viếng thăm thầy giáo khi có dịp đến nơi thầy giáo ở .
- Giúp đở thầy giáo trong một nhu cầu nào đó khi thầy giáo cần .
- Liên lạc với thầy giáo để bày tỏ hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp để thầy chia vui hay giúp đở tâm lý trong đời sống xã hội phức tạp khó ngày nay.
- Thành thật xem thầy giáo như cha mẹ là người luôn nghĩ đến an sinh của con cái để nhận những khuyên lơn hữu ích .
- Ta đừng hỏi thầy còn nhớ con không , mà tự giới thiệu với thầy , con là học trò cũ của thầy .
- Luôn luôn kính mến thầy là tập quán phong tục của người Việt Nam .
Ta cũng khẳn định lại câu : Làm con phải hiếu để với cha mẹ và kính mến thầy giáo vì cha mẹ là người sinh thành ra ta và nuôi ta khôn lớn, thầy giáo là người dạy dỗ ta hiểu biết các điều khoa học và nghĩa lý ở đời mà ta chưa hiểu biết.- Câu tục ngữ : ‘’Không thầy đố mầy làm nên’’ là một ý niệm nói lên, nhờ có công dạy dỗ cuả thầy giáo ta mớI có thể có địa vị của ta hiện tại. 
- Ngày nay, cựu học sinh của trường cần tổ chức những Hội Cựu Học Sinh, và cần tham gia hội họp thường kỳ để có dịp gặo gở nhau , ôn lại những kỷ niệm xưa, trao đổi kiến thức và kinh nghiệm đời sống cũng như giup đở nhau từ kể cả vật chất lẫn tinh thần. Trong các buổi họp mặt lớn cần mời thầy giáo cũ tham dự, để có cơ hội học hỏi thêm về kinh nghiệm nghề nghiệp, kinh nghiệm cuộc sống, nhận lảnh thêm về những lờI khuyên răn hữu ích.
- Học sinh đối với thầy giáo cũ cần cởi mở, vui vẻ, nhưng cần phải có một khoản cách nào đó về tôn ti thầy trò .

 

VI/ Kết Luận :

Trải mấy ngàn năm lịch sử, dẫu quan niệm của con người về cuộc sống có thể thay đổi, vấn đề học vấn có thể thay đổi cho hợp với sự tiến hóa của xã hội , khoa học, văn minh của thời đại mới, nhưng chức năng của người thầy giáo không bao giờ thay đổi, đó là đem học thức, hiểu biết của mình đã học hỏi được truyền tụng lại cho lớp người trẻ của thế hệ nối tiếp. Học sinh là người được ân huệ nhận thức kiến thức từ thầy giáo . Cho nên, học sinh phải luôn luôn yêu mến, tôn kính, vâng lời và biết ơn thầy giáo . Đó là điều tự nhiên và hợp lý ở bất kỳ thời đại nào . Ngày nay ta phải hiểu câu ‘’ Quân,sư, phụ’’ theo một ý niệm tượng trưng là học sinh phải kính mến thầy giáo và không nhất thiết phải theo thứ bậc như ngày xưa . Học sinh phải kính trọng thầy giáo như kính trọng cha mẹ mới phải đạo làm người .



Hà Thúc Giảng
2/1/2004


Sách tham khảo :
1/ Việt Nam Văn Hóa Sử Cương. Đào duy Anh
2/ Việt Nam Sử Lược . Trần trọng Kim
3/ Thời và Thơ Tú Xương . Nguyễn Tuân
4/ Chân Dung Khổng Tử Bác Sĩ Nguyễn vănThọ
5/ Việt Nam Danh Nhân Từ Điển . Nguyễn Huyền Anh
6/ Nguyễn trường Tộ Nhà tư Tưởng Cách Tân . Hoàng thanh Đạm
7/ Việt Nam Văn Học Sử Yếu . Dương Quảng Hàm
8/ Nguyễn trường Tộ, nhà tư tưởng cách tân Hoàng thanh Đạm
9/ Nếp cũ, Tín ngưỡng Việt Nam Toan Ánh

hung0989077120@ahoo.com
IP IP Logged
hoangngochung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 27/Nov/2010
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 513
Quote hoangngochung Replybullet Gởi ngày: 28/Jul/2011 lúc 12:05am

TẢN MẠN CHUYỆN TRƯỞNG TRÀNG

 

 

 

 

1.     TÍCH CÓP CÁC Ý KIẾN GIẢI THÍCH:

 

1).  doyen des élèves d'une école (hiệu trưởng một trường học).

2).  Trưởng tràng là người đứng đầu một nhóm học trò thời phong kiến

3).  Ở trường thầy đồ ngày xưa, trưởng tràng là người học trò lớn vào bậc đàn anh được thầy giáo cho cai quản các đàn em.

4).  Trưởng tràng là người lớn tuổi có địa vị trong xã hội được thầy cử hoặc đồng môn bầu để lo sinh hoạt của môn sinh.

5). Lớp trưởng, khóa trưởng

...

 

2.     MINH HỌA VỀ  CÁCH DÙNG TỪ "TRƯỞNG TRÀNG":

 

1).  Lớp ở làng:

 

Anh Trần Ất, một người bạn dạy chữ Quốc ngữ buổi tối với tôi từ năm 1938 ở chùa Hộ Quốc làng Thanh Nhàn cho biết: Anh Lê Trọng Tố (sau là đại tướng Lê Trọng Tấn) là con cụ Đồ Lê, người đã từng tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Khi phong trào bị đàn áp, cụ về làng Thanh Nhàn mở lớp dạy chữ Nho, anh Trần Ất là trưởng tràng (lớp trưởng).

 

2).  Võ phái:

 

Võ sư Nhật Đăng hiện đang tu tập tại chùa Trúc Lâm - Huế, pháp tự Thích Tâm Chiếu. Sau gần 20 năm miệt mài luyện võ, Thích Tâm Chiếu trở thành trưởng tràng (đại sư huynh) của Võ kinh Vạn An phái

 
 
VS Nhật Chiêu

 

3).  Trường đại học:

 

KTS Nguyễn Hữu Đống (sinh năm 1937) quê ở làng Dã Lê Chánh (Thủy Vân, Hương Thủy, Thừa Thiên), sinh trưởng và lớn lên ở làng ngọai kế cận Vân Thê. Năm 14 tuổi ông ra vùng kháng chiến học, không thành, trở lại học ở thành phố tạm chiếm và đỗ Tú Tài tại trường Quốc Học Huế. Sau đó ông vào Sài Gòn học Đại học Kiến trúc, là một sinh viên xuất sắc và họat động xã hội giỏi nên được sinh viên kiến trúc bầu làm trưởng tràng.

 
 
KTS Nguyễn Hữu Đống (trái)

 

4).  Câu đối treo chuồng heo:

 

Có chú học giỏi được thầy, bạn quý nhưng cậu lại bị anh trưởng tràng học kém hơn ganh ghét. Anh ta bày trò bắt cậu làm câu đối “dán chuồng lợn” để giễu cợt (vì có ai làm câu đối để dán chuồng lợn bao giờ!?). Cậu đã làm ngay đôi câu đối để trả đũa anh trưởng tràng, vì vậy hai vế chỉ dùng có… hai chữ “trưởng tràng” như sau:

 

Trưởng trưởng, tràng tràng, tràng trưởng trưởng

Tràng tràng, trưởng trưởng, trưởng tràng tràng.

 

(Nghĩa là: Lớn lớn, dài dài, dài lớn lớn Dài dài, lớn lớn, lớn dài dài). Câu đối dán chuồng lợn là để cầu cho lợn chóng lớn, thiết tưởng không còn câu nào hay hơn thế, nhưng đã cho anh trưởng tràng một vố thật sâu cay, nhớ đời.

 

5).  Võ đường Hiệp khí đạo:

 

Theo thông lệ ngày 01 đầu năm Dương lịch (2008) Võ sư Bùi Thế Cần lên sân cùng môn sinh mừng năm mới. Năm nay với sự tham dự của hai phụ tá Nguyễn Văn Cao và Nguyễn Văn Bảy, Võ sư Bùi Thế Cần, sau phần khởi động bằng Aikitaiso đã trình diện với Tổ sư, môn sinh Lê Minh Thành, đai nâu đầu tiên của Đạo đường Thiên Long. Nhân cơ hội này Võ sư Bùi Thế Cần cũng giao trách nhiệm làm trưởng tràng cho môn sinh Lê Minh Thành.

 
 
Lê Minh Thành- trưởng tràng Aikido Thiên Long
 

 

6).  Võ phái Linh trường Không thủ đạo Suzucho Karatedo:

 

Môn quy - Điều 8:

 

Hệ phái Suzucho Karatedo kế thừa truyền thống tổ chức của Cố chưởng môn đời thứ I (Choji Suzuki). Hoạt động dưới sự chỉ đạo của Chưởng môn hiện hành thông qua một Ban Chấp hành Trung ương. Riêng tại Việt Nam còn được sự bảo trợ của Ủy ban Thể dục Thể thao Việt Nam .

 
Chưởng môn chỉ định Trưởng tràng - Xét đề xuất của Trưởng tràng, Chưởng môn nghiên cứu đề ra quyết định thành lập Ban Chấp hành & Ban Thường vụ - Ban Kỹ chiến thuật truyền thống Suzucho - Ban Kỹ chiến thuật thi đấu thể thao tranh giải - Ban Tổ chức thi đấu, thi đai, tập huấn trọng tài - Ban Tài chính - Ban Y tế - Các Khu vực trưởng và Ban Cố vấn.
 
Chưởng môn thường xuyên theo dõi kết quả làm việc của Trưởng tràng và Ban Chấp hành. Nếu không hiệu quả, Chưởng môn sẽ chỉ định cao đồ khác thay thế và trở thành Đời tiếp theo. Chưởng môn xem xét, nghiên cứu cụ thể báo cáo của Ban Chấp hành để ra quyết định thay thế, bổ sung những thành viên trong Ban Chấp hành Hệ phái.

 

Trưởng tràng (võ phái Suzucho Karatedo) là chức danh mang tính truyền thống. Là người chịu trách nhiệm trực tiếp với Chưởng môn. Là người phụ trách điều hành mọi hoạt động của Hệ phái.

 
Trước 1995 và sau 2006, Trưởng tràng do Chưởng môn chỉ định.
 
Từ 1995 đến 2006, Trưởng tràng do Đại hội Hệ phái bầu, được Chưởng môn xét duyệt và ra Quyết định bổ nhiệm. Qua gần 50 năm hình thành và phát triển, Hệ phái có tất cả 14 đời Trưởng tràng, theo thứ tự:
 
Nguyễn Nhuận (1966), Khương Công Thêm (1967), Nguyễn Xuân Dũng (1968 - 1970), Hạ Quốc Huy (1970), Trần Đình Tùng (1971), Hoàng Như Bôn (1972), Nguyễn Bá Kiều (1973), Lê Văn Thạnh (1973 - 1986), Ngô Văn Thanh (1986 - 1987), Lê Văn Thạnh (1987 - 1989), Hoàng Như Bôn (1989 - 1990), Khương Công Thêm (1990 - 1994), Nguyễn Văn Dũng (1995 - 2006), Lê Văn Thạnh (2006 - nay).
 
 

Nguyễn Nhuận, trưởng tràng đời thứ I  (trái), võ phái SuzuchoKraratedo  

luyện tập với VS chưởng môn Suzuki

                        

 

7).  Cộng đồng làng:

 

Quảng Xá - Làng dạy học ở Quảng Bình. Làng Quảng Xá (Quảng Bình) nổi tiếng với truyền thống dạy học gần 100 năm nay. Ngôi làng nhỏ bé này hiện có tới hơn 500 giáo viên. Đời sống dân làng chủ yếu dựa vào ruộng nhưng đất ít, để thoát nghèo học là đắc đạo nhất.

 
Con cháu Quảng Xá vẫn chọn ngành đại học đầu tiên để thi là đại học sư phạm. Dạy học đã là nề nếp hàng thế kỷ nay của làng. Làng có sáu nhạc sĩ cũng mang họ Dương trong đó Giáo sư - nhạc sĩ - nhà giáo ưu tú Dương Viết Á là trưởng tràng không chỉ trong làng mà cũng trưởng tràng trong nước.
 
 
GS. Dương Viết Á (ảnh: bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh)

 

8).  Bao nhiêu trưởng tràng ?

 

Trên lớp, thầy ngồi trên chiếu hoa, xung quanh là tráp, bút, nghiên, điếu. Học trò ngồi đối diện với thầy trên những chiếc chiếu nhỏ hơn, trò bé ngồi hàng trước. Tuổi tác học trò trường làng rất chênh lệch, từ trò nhỏ cho tới những anh chàng có vợ, chuẩn bị thi hương. Thầy giảng xong nhóm này thì quay sang giảng cho nhóm kia.

 
Ở những lớp học đông, thầy sẽ cử hai anh trưởng tràng để giúp thầy coi sóc mọi việc, anh trưởng tràng nội thì lo những việc trong phạm vi trường lớp, anh trưởng tràng ngoại thì lo những việc bên ngoài.

 

          Mỗi khi người thân trong nhà thầy mất, các trò quyên ''tiền đồng môn'' giúp thầy. Anh trưởng tràng nội chuẩn bị một bản ghi số tiền mỗi trò, cả trò cũ lẫn trò đang học, phải đóng góp, căn cứ vào hoàn cảnh từng người, rồi nộp cho anh trưởng tràng ngoại để anh này đi thu.

 
Ngày xưa hành vi trốn thuế triều đình còn có thể được dư luận châm chước, chứ hành vi trốn đóng góp ''tiền đồng môn'' thì bị coi là một sự trốn tránh nghĩa vụ mang tính đạo đức.         

 

9).  Trưởng tràng, Giám tràng, Cán tràng.

 

Trưởng tràng là người lớn tuổi có địa vị trong xã hội được thầy chỉ định hoặc đồng môn bầu để lo sinh hoạt của môn sinh.

 
Giám tràng phụ giúp trưởng tràng. Thầy giáo chỉ định đôi, ba Cán tràng giúp đở trưởng và giám tràng trong việc chung của trường.
 
Các đồng môn có trách nhiệm giúp đỡ thầy và gia đình thầy được hưng thịnh, an lành, theo đúng cung cách lễ nghĩa. Môn đệ tổ chức Tết lễ thầy vào những dịp lễ theo phong tục .
 
Thầy giáo qua đời môn đệ theo phong tục phải để tang, lo đám tang, chôn cất, đến nơi an nghỉ cuối cùng . Thời gian môn đệ để tang thầy là ba năm, gọi là tâm tang . Trưởng tràng phải kêu gọi môn sinh đóng góp cúng kỵ, tu bổ nhà thầy, và có khi tậu ruộng đất lập hương hỏa để lo hương khói vĩnh viễn cho thầy .

 

10).     Phật tử trong đạo tràng

 

Đạo tràng không quá 20 người. Ngài Ấn Quang khuyên là khoảng 20 đồng tu, cộng với một vị trưởng tràng là 21 người là tốt nhất, thanh tịnh nhất để chuyên lòng niệm Phật. Đây là tiêu chuẩn lý tưởng theo lời Ngài khuyên, chứ không phải là quy luật cố định.

 

11).   Trưởng tràng nhỏ tuổi:

 

Lúc ấy, tuy là thị giả nhỏ tuổi, nhưng Ngài đã tỏ rõ tư cách đạo phong khả kính, được cử làm trưởng tràng trong số huynh đệ môn sinh, và được Hòa thượng Phổ Huệ ban cho pháp hiệu là Huệ Phước (Hòa thượng Thích Trí Đức, pháp danh Hồng Phương, pháp hiệu Huệ Phước, pháp húy Chơn Bảo, nối dòng Lâm Tế đời thứ 40, thế danh là Nguyễn Thuần Nam, sinh năm Ất Mão (1915) tại Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, sau dời về xã Vĩnh Hưng, nay thuộc huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Thuần Hậu, thân mẫu là cụ bà Lê Thị Thanh).

 
 
Hòa thượng Thích Trí Đức

 

 

12).  Trưởng tràng của Chúa Cứu thế Giê xu:

 

Nói theo ngôn ngữ của võ thuật thì trong 12 sứ đồ là đệ tử đời thứ nhất của Chúa Cứu thế Giêsu thì Phêrô (Phierơ) là trưởng tràng. (Tiếng Hy Lạp: Πέτρος , Pétros “Đá”, Kephas hoặc thỉnh thoảng là Cephas) là tông đồ trưởng trong số mười hai thánh tông đồ của Chúa Giêsu. Thánh Phêrô được Chúa trao cho quyền cai quản Hội Thánh.

 
Trưởng tràng Phierơ là người làm đời sau xao xuyến đến nhói tim khi thốt lên câu "Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai" (Ga 6,68).
 

Tập%20tin:Pope-peter%20pprubens.jpg
Trưởng tràng Phierơ (vẽ theo tưởng tượng)

 

13).                      Truyện ngắn

ANH TRƯỞNG TRÀNG
(Tác giả: Tô Hoài)

 

Có năm xu cuả thầy tôi cho để ăn quà dần trong mấy hôm, chúng nó đã bắt nạt tôi lấy mất. Tôi đi về, một tay ôm sách, còn một tay ôm quần . Nghĩ tấm tức cả đêm. Tuy sợ chúng lắm, nhưng sáng hôm sau tôi vẫn phải cặp sách đi học. Và đã khá liều lĩnh, tôi đút vào trong mép sách một chiếc đuã, vót nhọn hai đầu, thành một cái dùi rất sắc. Tôi quyết can đảm một phen nếu chúng còn trêu tôi. Coi chừng cả nút ! mỗi đứa ăn một dùi cuả "ông" là bỏ đời.

 

Nhưng đi sang đến trường học thì bao nhiêu tính liều lĩnh tôi đã nuôi được từ nhà đều biến sạch. Tôi lại sợ,ừ - tôi có một cái dùi; song ngộ cả cái bọn ngót một chục đứa thù cuả tôi, mỗi đưá cũng có một cái dùi thì sao ! Mỗi đưá sẽ chỉ cho tôi nưả nhát thì còn gì là tôi ! . Tôi đâm ra sợ cả cái dùi cuả tôi. Ngần ngừ một lát, tôi rút dùi, vứt tõm xuống ao.

 

Thầy đồ chưa ra dạy. Học trò mỗi anh làm một việc, anh quét nhà, anh đun nước, anh mài son, anh đứng xúm lại nói chuyện. Những đưá hôm qua bắt nạt tôi đã đến. Chúng nhìn tôi rồi nháy nhau, cười khúc khích. Tôi đỏ mặt, im lặng cúi xuống mở sách ra học lại những câu đã học hôm qua.

 

“Anh Lại phú Cang !” .

 

Dạ .

 

Tôi giật mình ngẩng đầu lên. Lại sắp sinh sự gì đây chắc ? Một anh lớn hơn tôi độ ba bốn tuổi, trạc mười lăm, mười bốn gọi và lừ lừ tiến đến bên tôi. Hắn nói dõng dạc :

 

Tôi là trưởng tràng. Trưởng tràng là người đứng trùm tất cả các anh. Sau thầy thì đến tôi. Tôi dạy các anh tập viết, tập đọc, tập kể nghiã để đỡ mệt cho thầy. Tôi nghe nói hôm qua bọn thằng Má, thằng Sinh đánh anh phải không ?

 

Dạ, thưa anh, chúng nó định lột quần, lột áo em. Chúng nó lấy mất cuả em năm xu.

 

Những thằng láo thật. Chúng nó cậy ma cũ bắt nạt ma mới đấy, nhưng thôi, từ giờ sẽ không đưá nàm dám o oe gì với anh nưã. Đã có tôi.

 

Tôi sung sướng cảm động :

 

                   Vâng .

 

Tôi làm chức trưởng tràng, nghiã là chức tôi to lắm, khó nhọc lắm, mà tôi lại phải che chở cho anh khỏi chúng nó đánh, như thế, riêng với anh, anh phải chiụ ơn tôi rất nhiều.

 

                   Vâng, em biết ạ.

 

                    Tốt lắm. Thế thì tôi bảo anh điều này.

 

Mỗi tháng anh phải đóng cho tôi ba xu. Ba xu là vào ba việc. Chức trưởng tràng cuả tôi một xu. Công tôi phải bảo anh học, một xu. Một xu nưã thì vào cái tiền tôi che chở cho anh. Anh nghe rõ chưa ?

 

Tôi còn ngần ngừ chưa biết trả lời sao, hắn đã nói tiếp :

 

Tôi phải nói rõ để anh biết rằng trong tất cả lớp này, mỗi tháng ai cũng phải góp cho tôi hai xu. Không phải riêng gì mình anh. Anh chỉ phải nặng hơn họ một xu. Mất có mỗi một xu mà khỏi bị chúng nó đánh, chúng nó lột, là còn rẻ chán. Anh đã hiểu như thế chưa ?

 

Tôi ngẩn ngơ, làm bộ như chẳng hiểu gì hết, thì hắn lại truyền cho tôi một cái lệnh rất chắc chắn :

 

Sáng mai anh phải nộp ngay cho tôi ba xu .

 

Thưa anh, nhưng . . .

 

Hắn xẵng giọng :

 

Nhưng gì ? Tôi hỏi thật anh muốn hay không muốn thế ? Chỉ nói cho "đây" biết một tiếng thôi .

 

                   Không dám ngần ngừ gì nưã, tôi buông luôn một câu : Vâng .

 

Hắn nhe răng ra cười hì hì. Và lại xoa cái núm hoa roi cuả tôi :

 

Có thế chứ. Tốt. Tốt lắm. Mai nhé !

 

Tôi hậm hực mà vâng lời. Sánh hôm sau tôi phải đem "cống" hắn đủ cả ba xu - để hắn chi tiêu vào những ba việc !

 

Nhưng cũng nhờ thế, từ đấy tôi được yên dạ mà học hành. Lũ "đầu trâu mặt ngưạ" kia không dám đụng chạm, hạnh hoẹ gì tôi nưã. Coi ra các cu cậu sợ anh trưởng tràng cuả tôi lắm. Chẳng biết sợ về những nỗi gì nhưng cứ cái sự hắn lớn hơn, cao hơn, khoẻ hơn cùng đủ kinh rồi !

 

Mỗi ngày tôi chỉ phải đi học buổi sáng. Buổi chiều ở nhà học bài. Tôi học rộn cả nhà. Và cả nhà tôi, ai cũng có ý vưà sợ vưà quý tôi hơn trước. Tôi đã đi học rồi mà ! Thỉnh thoảng những người quen thuộc đến nhà tôi chơi thường hỏi :

 

Cậu cả Canh học được mấy thúng chữ rồi ?

 

                   Cậu cả ? Ấy đấy, nhờ có sự đi học mà tôi được lên chức to đến thế. Còn hỏi học được mấy thúng chữ, thì nào tôi biết làm sao được mấy thúng ! Nhưng u tôi đã vui vẻ trả lời người ta :

 

Cháu nó đã được độ ba mẹt rồi đấy .

 

À ra tôi đã học được độ ba mẹt chữ. U tôi biết cả. Tài thực, và từ hôm đó, hễ ai hỏi tôi đã học được bao nhiêu chữ, tôi cứ liệu mà nói nhân dần hai cái mẹt chữ cuả tôi lên .

 

                   Cháu đã học được ba mẹt ạ !

 

                   Cháu đã học được bốn mẹt rưỡi ạ !

 

                   Ai cũng cười, tôi cũng cười nốt, hai má tôi bừng đỏ lên tận tai. Bỡi vì tôi chắc rằng họ cười để khen mình học giỏi.

 

 

 

 

________________________

Hoàng Ngọc Hùng (tổng hợp)

 



Chỉnh sửa lại bởi hoangngochung - 28/Jul/2011 lúc 3:39am
hung0989077120@ahoo.com
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 18/Mar/2012 lúc 7:32pm

Nhớ Thầy Cung Giũ Nguyên


http://vietsciences.free.fr/nhipcaubandoc/tinvuibuon/cunggiunguyen-nhothaycgn.htm

 

  Chân dung




Nhớ Thầy Cung Giũ Nguyên

Nguyễn Thành Thống


Tôi không phải là học trò của thầy. Nhưng tôi vẫn gọi “thầy” xưng “con” với thầy vì sự uyên bác và tuổi tác của thầy. Tôi đã từng nghe danh của thầy từ rất lâu, nhưng mãi đến năm 1987 tên của tôi mới được vinh dự đặt bên cạnh tên của thầy khi tôi dịch cuốn “Autour de la Lune” (Bay quanh mặt trăng) của Jules Verne, in ở Nhà xuất bản Tổng Hợp Phú Khánh. (Tôi là người dịch và thầy là người hiệu đính.) Thế rồi mãi đến những năm đầu của thập niên 90 tôi mới được gặp thầy. Câu chuyện như thế này.

 

Đầu năm 1990, lúc đó tôi đang là biên tập viên của Nhà xuất bản Khánh Hòa, tôi được phân công biên tập một cuốn sách dịch của tác giả Cung Giũ Nguyên. Đó là cuốn “Le Fils de la Baleine”, người dịch là Nguyễn Văn Hùng, tức Cung Giũ Hốt, em ruột của tác giả Cung Giũ Nguyên. Tôi đã đọc nguyên bản tiếng Pháp trước, sau mới đọc đến bản dịch. Tôi thấy khoảng cách giữa nguyên bản với bản dịch quá xa, nên tôi đã yêu cầu người dịch dịch lại, nhưng người dịch không đồng ý và đã rút bản thảo về. Một tuần sau tôi có dịp đến làm việc với một cộng tác viên rất nổi tiếng của Nhà xuất bản Khánh Hòa. Đó là Thầy Cung Giũ Nguyên. Tôi còn nhớ rất rõ. Khi tôi gõ cửa nhà số 60 Hoàng Văn Thụ Nha Trang, một ông cụ trông rất khỏe mạnh, ở trần, mặt quần pijama, chân mang vớ. Tôi nghĩ trong đầu: “cây cổ thụ” là đây, nhưng tôi thắc mắc vì sao ở trần mà lại mang vớ. Về sau ông cụ mới cho biết: ở trần là để cho mát, nhưng phải mang vớ là để khỏi bị muỗi cắn chân khi ngồi làm việc. Ngay từ đầu tôi đã thoáng thấy cái nét hài hước của ông cụ, một đặc điểm mà ít người nhận ra - có lẽ trừ anh em Hướng Đạo - vì khi nói đến Cung Giũ Nguyên thì thường người ta nghĩ ngay đến một ông trưởng giả khó tính “hút píp xách ba-tông đi giày tây”. Ông cụ hỏi tôi: “Cái gì vậy?” Thưa: “Con ở bên Nhà xuất bản muốn gặp thầy.”  Ông cụ nhìn bộ dạng của tôi rồi phán: “Năm phút thôi!” Đúng là cao đạo. Nhưng không phải thế. Hôm đó tôi đã được hầu chuyện ông cụ gần hai tiếng đồng hồ. Cuối buổi ông cụ cho tôi biết sở dĩ có cái lệnh “năm phút thôi” kia là vì ông cụ thấy rằng quỹ thời gian của mình còn ít quá, chứ không rỗi rãi như tôi. Khi biết được danh tính của tôi, ông cụ hỏi: “Có phải anh là người đã chê bản dịch của Nguyễn Văn Hùng không?” Thưa: “Dạ phải.” Hỏi tiếp: “Chê người khác mà mình có làm được không?” Tôi biết mình đã “nhảy lên lưng cọp” rồi. Vốn có “máu hung hăng của bọn trẻ” tôi thưa ngay: “Dạ thưa, nếu thầy đồng ý thì để con làm thử”. Lệnh tiếp: “Thế thì về làm đi!” Đến lúc này thì tôi mới thấy mình đã “lỡ dại” rồi. Thì giờ đâu? Cả ngày tôi làm việc và ở lại luôn tại Nhà xuất bản, chiều mới đạp xe đạp mười cây số về Trường Trung Học Phổ Thông Hoàng Hoa Thám Diên Khánh, nơi tôi tạm trú cùng với vợ con tôi; ở đó lúc bấy giờ ban đêm điện đóm không ổn định chút nào. Thế nhưng tôi đã cố gắng tốc hành trong vòng một tháng để dịch cho xong cuốn sách của ông cụ.

 

Và tôi đã dịch tựa sách “Le Fils de la Baleine” thành “Kẻ Thừa Tự của Ông Nam Hải” thay vì dịch sát chữ là “Người Con Trai của Cá Ông”. Tôi rất hài lòng về cái tên mới này của bản dịch. Ngoài ra tôi cũng rất khổ công nhưng hài lòng khi chuyển được những câu ca dao miền Trung cũng như những phần trích bài ca bả trạo, mà cụ đã lược dịch sang tiếng Pháp, trở lại tiếng Việt đúng với nguyên bản. Khi đến trình cho cụ bản dịch, cụ bảo hai tuần nữa quay trở lại. Nhưng một tuần sau tôi lại có dịp đến làm việc với cụ. Cụ bảo: “Xem xong rồi.” Thưa: “Có được không ạ?” Trả lời: “Được.” Thưa: “In được không ạ?” Trả lời: “Được chớ.” Thế là tôi về lo thủ tục xuất bản. Đối với Nhà xuất bản của chúng tôi thì không có gì khó khăn. Nhưng khi trình lên Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, thì tôi được biết qua Trưởng phòng biên tập, “…hay dở không cần biết sách của Cung Giũ Nguyên không được in ở Nhà xuất bản Khánh Hòa.” Tôi vốn tánh “liều mạng” nên gửi bản thảo thẳng ra Nhà xuất bản Văn Học Hà Nội.

 

Giám đốc Nhà Xuất bản Văn Học lúc bấy giờ, nhà thơ Lữ Huy Nguyên, không những đã đồng ý cho phép xuất bản mà còn viết lời giới thiệu. Còn một việc hy hữu khác nữa là ở trang bìa 3 tôi có ghi ở đầu trang: VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. Bên dưới hàng tít này tôi ghi: CUNG GIŨ NGUYÊN. Giám đốc Nhà xuất bản Văn Học vẫn duyệt. Thế có nghĩa là CUNG GIŨ NGUYÊN được công nhận là nhà văn Việt Nam và tác phẩm “Kẻ Thừa Tự của Ông Nam Hải” được thừa nhận là Văn Học Hiện Đại Việt Nam. Một kết quả ngoài dự định của cụ, vì sau 1975 cụ không được công nhận là nhà văn Việt Nam, trong khi thế giới vẫn công nhận cụ là một nhà văn học giả Việt Nam. Còn một mắc mứu khác đó là phần lớn các tác phẩm của cụ được viết bằng tiếng Pháp cho nên nhiều người cho rằng những tác phẩm đó không được xem là thuộc Văn Học Việt Nam. Tôi có đem việc này hỏi ý kiến của cụ thì cụ cho biết tiếng Pháp chỉ là một phương tiện diễn đạt còn nội dung vẫn là bản chất và bản sắc Việt Nam.

 

Phần tôi thì tôi cho rằng nếu sách của cụ mà viết bằng tiếng Anh thì có lẽ Việt Nam ta đã đoạt giải Nobel về Văn Học từ lâu rồi. Tuy đã có giấy phép xuất bản từ năm 1991 nhưng mãi đến năm 1995 cuốn sách mới được in và phát hành. Lý do là vì lúc bấy giờ các cơ sở hợp tác xuất bản, mà bây giờ được gọi là các công ty văn hóa, không biết Cung Giũ Nguyên là ai cả; người ta lại còn thấy ngại một cuốn tiểu thuyết do một người Việt viết bằng tiếng Pháp lại được dịch trở ngược lại sang tiếng Việt. Một chuyện thấy sao lạ đời, mà lạ đời thì không ai dám mạo hiểm; ôm vào chắc là khó bán ra. Ít ai biết được rằng tác phẩm “Le Fils de la Baleine” suýt được giải Goncourt của Pháp nếu không có cuộc ganh đua của các Nhà xuất bản ở Pháp. Và học giả nổi tiếng người Pháp Daniel Rops đã từng ca ngợi tác phẩm này. Phần cụ, thật là bất ngờ đối với tôi, trên trang đầu bản thảo dịch (viết tay)  cuốn “Kẻ Thừa Tự của Ông Nam Hải” cụ có ghi như thế này: “Cám ơn anh Nguyễn Thành Thống đã chịu khó đọc lại một tác phẩm hình như đã mờ trong dĩ  vãng.” Rồi về sau này ở trang đầu bản photocopy cuốn “Câu chuyện ngành Tráng” cụ tặng tôi, cụ ghi như thế này: “Mến gởi Nguyễn Thành Thống, người có công dịch Le Fils de la Baleine và nhờ đó đã giúp cho Kẻ Thừa Tự Ông Nam Hải (Mỗ) sau mấy mươi năm lưu lạc ở Pháp và Canada đã trở về được quê hương.” Đâu có ai biết, đâu có ai ngờ một học giả nổi tiếng như thế lại có những lời lẽ “dễ thương” đến thế.

 

Sau khi bản dịch có mặt để độc giả Việt Nam có thể đọc và biết thêm một tí về tác giả Cung Giũ Nguyên thì thầy tin tưởng khả năng của tôi hơn và thầy đã dành cho tôi một tình cảm đặc biệt. Tôi đã từng nói chuyện với thầy hàng giờ về nhiều vấn đề, từ văn học, triết học, tôn giáo, khoa học, siêu tâm lý (parapsychology),… cho đến Hướng Đạo. Càng được nói chuyện với thầy tôi càng thấy thầy “đa hệ”. “Hệ” nào ra “hệ” đó, sâu sắc, rõ ràng. Nghe tôi nói  tôi đang tìm đọc cuốn “Finnegans Wake” của James Joyce, cụ lại ngay tủ sách rút ngay cuốn sách cho tôi mượn. Đó là một cuốn sách do một cô bạn người Anh biếu cho thầy. Ai dám mượn sách của thầy? Tôi được đặc ân đó. Khi đọc tôi khám phá ra cuốn sách có một tép bị xếp lộn. Tôi đã trình với thầy. Chính vì thế về sau khi thầy đánh máy xong cuốn “Le Boujoum”, hình như tôi là người được đọc trước nhất. Và từ đó tôi có thể lục tung tủ sách của thầy, một việc có lẽ không ai được phép làm ngoài tôi. Tôi cũng đã từng ngồi hàng giờ nghe thầy nói những suy nghĩ, những công việc thầy đã làm đang làm và sẽ làm. Tôi mới vỡ lẽ ra rằng thầy còn đang toan tính quá nhiều việc, vì thế mới có cái lệnh “năm phút thôi” nói ở trên. Thầy cũng muốn tôi dịch cuốn “Le Fils de la Baleine” sang tiếng Anh. Tôi có thưa rằng tôi vốn là người cầu toàn cho nên tác phẩm đó phải do chính một dịch giả người Mỹ hoặc người Anh biết tiếng Pháp dịch thì tốt hơn. Gần đây yêu cầu đó đã được đáp ứng. Tôi đã giới thiệu với thầy anh bạn của tôi cũng là thầy dạy Aikido của tôi, Âu Dương Di, một Việt kiều Mỹ biết tiếng Pháp đã từng sống ở Mỹ 30 năm rất quen thuộc với việc viết lách dịch thuật; ngoài ra Âu Dương Di còn là học trò cũ của thầy. Bản dịch đã hoàn thành. Nhưng rất tiếc bản dịch tài hoa và chính xác này chưa được xuất bản trước khi thầy mất. Cũng xin nói thêm tác phẩm “Le Fils de la Baleine” đã được dịch sang tiếng Đức từ rất sớm.

 

Theo tôi, công trình trước tác của Thầy Cung Giũ Nguyên thật đặc sắc và đa dạng. “Le Fils de la Baleine” chỉ là một tác phẩm đã được xuất bản, cho nên có ưu thế được nhiều độc giả biết tiếng Pháp thưởng thức. Có thể nói đó là một tác phẩm “dễ đọc”. Thầy còn có những cuốn tiểu thuyết “rất Việt Nam” và “dễ đọc” khác nhưng tiếc là chưa được chuyển sang tiếng Việt. Một cuốn khảo luận đã được xuất bản và rất nổi tiếng nhưng độc giả Việt Nam chưa có dịp đọc, đó là cuốn  “Volontés  d’existence”. Những năm sau 1975 thầy đã tốn rất nhiều thời giờ và công sức để nhập vào máy vi tính của mình những trước tác trước đây của thầy. Ngoài ra thầy vẫn tiếp tục sáng tác. Chúng ta hãy tưởng tượng một cụ già trên chín mươi vẫn cặm cụi ngày đêm bên máy vi tính thì mới thấy được sức làm việc và gương làm việc của thầy. Đa số những tác phẩm viết sau 1975 là những trước tác viết bằng tiếng Việt, nhưng chưa được xuất bản. Có một số người đã có dịp đọc những tác phẩm này qua hình thức in photocopy “lưu hành nội bộ”. Nhân đây tôi cũng xin lưu ý. Có thể nói, đại tác phẩm của thầy là cuốn “Le Boujoum”. Theo thiển ý của tôi thì đây mới là đỉnh cao sự nghiệp của thầy. Đó là một cuốn tiểu thuyết dày hơn bảy trăm trang viết bằng tiếng Pháp sau 1975. Ban đầu thầy đã nhờ một người Pháp đánh máy, nhưng sau mấy mươi trang thì người này đã bỏ cuộc vì đọc không hiểu gì. Sau đó thầy đã tự đánh máy, khi đánh máy xong thầy đã gửi cho tôi một bản với ý muốn nhờ tôi sửa lỗi chính tả và thực tế thầy đã nhờ tôi chuyển sang tiếng Việt. Nhưng rất tiếc vì quá bận công việc, tôi đã không làm được việc này. Về sau chính thầy đã chuyển sang tiếng Việt và tác phẩm có tên là “Thái Huyền” đã được xuất bản ở Mỹ, nhưng chỉ được một phần. Có lẽ vì không bán được nên việc xuất bản phần hai phải dừng lại. Nguyên bản tiếng Pháp “Le Boujoum” đã được Cung Giũ Nguyên Center ở Mỹ xuất bản nhưng theo tôi vẫn dưới hình thức “lưu hành nội bộ”. Tôi đã có lần thổ lộ với thầy không biết mươi năm nữa người ta có thể đọc hiểu cuốn sách của thầy không. Tôi có đề nghị với thầy làm một cuốn cẩm nang skeleton để giúp độc giả, thầy bảo cứ để như thế ai muốn hiểu sao thì hiểu. Tôi thấy thầy rất sáng suốt. Một tác phẩm nghệ thuật càng hàm hồ (ambiguous) càng tốt. Nói lên điều đó tôi muốn liên tưởng đến hai tác phẩm “Ulysses” và “Finnegans Wake” của James Joyce, một thần tượng văn học của tôi. Thực tế thì lối viết của James Joyce và của Thầy Cung Giũ Nguyên rất giống nhau. Đương nhiên một bên là mộng một bên là thực có khác nhau nhưng cái thực của thầy được viết như thể là mộng. Thầy đã cho tôi biết thầy đã bắt đầu viết một cuốn tiểu thuyết khác cũng tầm cỡ và đồ sộ như vậy tựa đề là “La Tache de Vermillon”. Tôi chắc là chưa xong. Tiếc lắm thay!

 

“ Thưa thầy, con vẫn tin rằng bây giờ thầy vẫn có thể đọc được những hàng chữ này của con. Hơn hai năm nay con đã quyết tâm giảm bớt lui tới nhà thầy để rồi một năm nay con đã ngưng hẳn việc lui tới nhà thầy. Con đã nói với thầy quyết tâm này rồi. Con là một mẫu người sentimental. Con sẽ rất đau khổ khi đi ngang nhà thầy mà không còn thầy ở đó. Thế nên con phải giảm bớt đi chuyện lui tới này để may ra tình cảm của con đối với thầy sẽ “xuống thang” từ từ và phần nào, ngõ hầu khi thầy không còn ở nhà số 60 Hoàng Văn Thụ Nha Trang đó nữa thì con bớt đau khổ hơn. Hôm nay quả thực con đã thấy suy nghĩ và quyết định của con là đúng. Bài viết hôm nay chỉ có tính chất thời sự chưa phải điều con đã từng hứa với thầy là con sẽ viết  một cuốn sách dày về thầy để cho người ta thấy tính chất uyên bác, nhân văn, nhân bản, sâu sắc, tài hoa, và nhất là… hài hước trong tác phẩm và trong con người của thầy. Con biết người ta ngộ nhận về thầy nhiều lắm. Thầy cũng biết rằng có rất nhiều tác giả văn học tài ba đã không nhận được giải Nobel Văn Học.”

 

Bây giờ thì CCC (Chim Cánh Cụt, tên Rừng của thầy, mà thầy thường đùa là Chưa Chịu Chết) đã chịu chết. Lần này thì thầy đã đi thật rồi! Requiescat in Pace.

 

(Nha Trang ngày 8/11/2008. Sau cơn mưa trời lại sáng.)

Nguyễn Thành Thống

Ngày đăng: 12.11.2008



http://vietsciences.free.fr/nhipcaubandoc/tinvuibuon/cunggiunguyen-nhothaycgn.htm






Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 18/Mar/2012 lúc 7:36pm
mk
IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.145 seconds.