Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Quê Hương Gò Công
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Quê Hương Gò Công
Message Icon Chủ đề: mênh mông tình người Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 2
Người gởi Nội dung
hoangngochung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 27/Nov/2010
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 513
Quote hoangngochung Replybullet Gởi ngày: 07/May/2012 lúc 3:26am




hung0989077120@ahoo.com
IP IP Logged
hoangngochung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 27/Nov/2010
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 513
Quote hoangngochung Replybullet Gởi ngày: 09/May/2012 lúc 9:46pm
Tìm Về Xứ Kiểng Nam Bộ
 



.
.
Kiểng cổ là một loại hình nghệ thuật có từ ngàn xưa với nhiều kiểu tạo hình đa dạng. Trong đó, kiểng cổ Gò Công là đại diện tiêu biểu với rất nhiều tác phẩm được uốn dáng theo lối “chiếc chi nghị diện” Tam Cang Ngũ Thường hay Tam Tòng Tứ Đức.

Nói kiểng cổ là nói về cách uốn theo kiểu truyền thống chứ không phải là nói về tuổi thọ của cây, nhưng sở dĩ gọi là kiểng cổ vì để phân biệt với bonsai.

Vùng đất lành của nghệ thuật kiểng cỔ

Hiện nay vẫn chưa có bất cứ tài liệu nào cho biết chính xác về nguồn gốc kiểng cổ Nam Bộ. Nhưng theo nhiều nghệ nhân thì chúng có từ thời Vua Tự Đức (1829 – 1883) và khởi nguồn từ vùng đất Gò Công. Dù vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều, nhưng dựa trên những đặc điểm của kiểng cổ Nam Bộ thì hầu hết các nghệ nhân đều đồng tình với quan điểm trên. Thứ nhất, xét về dáng thế, đó là thế Tam Cang Ngũ Thường và Tam Tòng Tứ Đức, cả hai đều là dáng thế cơ bản của kiểng cổ Nam Bộ và kiểng cổ Gò Công.

Theo đó, thế Tam Cang Ngũ Thường tiêu biểu cho đạo làm người của phái nam. Tam Cang gồm quân thần cang, phu thê cang và phụ tử cang. Ngũ Thường gồm: nhân - nghĩa - lễ - trí - tín. Những đức tính trên được lấy từ hình tượng của vua Tự Đức – một vị vua anh minh và là người con hiếu thảo được người dân Gò Công tôn thờ. Riêng đối với cây kiểng theo lối Tam Tòng Tứ Đức, các nghệ nhân xưa phỏng theo hình tượng của Hoàng hậu Từ Dũ (mẹ vua Tự Đức) – một bậc mẫu nghi thiên hạ với phẩm hạnh cao quý thời phong kiến. Đặc biệt, vùng đất Gò Công còn có Lăng Hoàng Gia đời vua Thiệu Trị và Hoàng hậu Từ Dũ đã yên nghỉ nơi này.

Nguyên nhân thứ hai mà các nghệ nhân cho rằng kiểng cổ Nam Bộ xuất phát từ vùng đất Gò Công là cây mai nu. Muốn kiểng cổ Nam Bộ đẹp và ra dáng thì phải chơi bằng cây mai nu. Điều đặc biệt là chúng chỉ trồng được ở vùng đất Gò Công, cụ thể là ấp Thạnh Lạc Đông, xã Thanh Nhựt, huyện Gò Công Tây (Tiền Giang). Nếu mang cây mai nu sang các địa phương khác thì cây sẽ không ra nu hoặc nếu có ra cũng rất ít. Ở ấp Thạnh Lạc Đông, chúng có mặt ở khắp nơi và hầu như nhà nào cũng trồng vài cây kiểng cổ.

Theo nghệ nhân Trương Thành Tấn thì cây mai nu xuất phát từ gia đình ông Hai Đại vào thế kỷ 18. Khi ông Đại mất đi, vườn cây từ đó cũng hoang tàn. Sau này, người dân mang cây về trồng và dần lan truyền ra khắp xứ Gò Công. Sau năm 1975, vùng đất Gò Công vẫn còn những cặp kiểng cổ mai nu trên 100 năm. Đây cũng chính là một trong những yếu tố để các nghệ nhân tin rằng vùng vùng đất này là đại diện tiêu biểu và là nơi xuất phát của kiểng cổ Nam Bộ.

Kiểng cổ - đậm đà triết lý sống

Kiểng cổ là bộ môn nghệ thuật độc đáo có thể thưởng ngoạn qua mọi thời đại. Nó có dụng ý nhắc nhở con người rèn luyện đạo đức và góp phần giáo dưỡng con cháu mai sau. Mỗi thành phần trong cây đều tìm ẩn triết lý sống và có riêng một giá trị nhất định. Kiểng cổ được sửa nắn cành nhánh rất công phu, số tàng và nhánh theo đúng quy định, không thiếu cũng không thừa. Các tác phẩm đều lấy 3 – 5 làm căn bản do xuất phát từ nguyên lý “âm dương ngũ hành”, chuộng số lẻ hơn số chẵn.

 

Xét về cấu trúc của cây siêu phong Tam Cương Ngũ Thường, phần gốc được uốn 45 độ so với mặt đất, thân uốn cong vào trục chính tâm, riêng phần ngọn uốn lượn nhẹ và cũng được đưa về phần chính tâm của gốc. Cây tử (cây con) xuất phát từ gốc cha và hợp thành một góc khoảng 90 độ, chiều cao của cây con không được vượt quá tàng thứ 2 của cây cha và uốn hơi cong theo chiều ngược lại của cây cha. Tuy vậy, hình dáng ngày nay cũng đã có chút thay đổi so với trước kia. Cây Tam Cang Ngũ Thường ngày xưa cả cây mẫu và cây tử đều thẳng vì theo quan niệm của ông cha ta thì làm trai phải ngay thẳng, cương trực, chứ không có hình dáng cong như ngày nay.

Cây cha (cây mẫu) có 5 cấu trúc tàng và được gọi tên lần lượt từ dưới lên là: phủ địa – nghinh sương – yểm tâm – nghinh phong và nghinh thiên. Tàng thứ nhất uốn về phía phải, tàng thứ 2 cũng nằm cùng phía tàng thứ nhất vì nếu tàng thứ 2 uốn về bên trái thì sẽ gần ngọn cây con, che khuất và làm cây con thấp lùn. Tàng thứ 3 được uốn vào phía bên trái để che chở cho cây con. Tàng thứ 4 tiếp tục bên phải theo chiều đối xứng. Đoạn thân trên cùng thẳng đứng theo trục tâm và tàng ngọn được hình thành. Theo các nghệ nhân, để hoàn thành một tác phẩm như vậy thì ít nhất phải mất 25 năm.

Cây con (cây tử) cấu trúc có 3 phần: tàng thứ nhất uốn về phía bên trái tạo nét cân bằng với cây cha; tàng thứ 2 uốn về phía bên phải theo lối chiếc chi và tàng thứ 3 là tàng ngọn. Cành ở cây kiểng cổ được uốn theo lối “chiếc chi nghị diện” tức là có văn có võ hài hòa, cành được xếp đặt ở phần lồi của thân và được uốn theo kiểu đối nhau. Tàng lá được cắt tỉa thành những dĩa mỏng hình tròn hay hình trái tim. Nếu là cây kiểng Tam Tòng Tứ Đức thì trước kia tàng cây mẹ cắt hình tròn, tàng cây con cắt hình vuông thể hiện “mẹ tròn con vuông”, nhưng ngày nay hầu như tất cả các tàng đều được cắt hình tròn, ngọn lá phần cao nhất của cây được tính là tàng ngọn.

 Kiểng cổ Nam Bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng lão giáo. Qua quá trình tạo dáng cây kiểng cổ, các nghệ nhân luôn muốn gửi gắm tinh thần của mình vào từng chậu cây và tán lá nhằm mục đích sửa mình và giáo dưỡng con cháu. Cây có ngọn quy cán (hồi đầu  - ngoái đầu nhìn lại) thể hiện sự không quên nguồn cội, còn kiểu Tam Cang Ngũ Thường hay Tam Tòng Tứ Đức thể hiện đạo làm người ở nam và nữ thật rõ ràng.


Du lịch.

 
hung0989077120@ahoo.com
IP IP Logged
hoangngochung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 27/Nov/2010
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 513
Quote hoangngochung Replybullet Gởi ngày: 09/May/2012 lúc 9:47pm
hung0989077120@ahoo.com
IP IP Logged
hoangngochung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 27/Nov/2010
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 513
Quote hoangngochung Replybullet Gởi ngày: 23/May/2012 lúc 1:50am
Tấm bia ghi công và 140 năm lưu lạc

Trước mộ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng (ấp Lăng Hoàng Gia, xã Long Hưng, TX. Gò Công) được dựng 2 tấm bia để ghi nhận công lao của ngài do chính đức vua ban tặng. Một tấm được dựng ngay sau khi xây lăng mộ, còn 1 tấm phải mất 140 năm mới được đặt đúng vào khu lăng mộ này. Nếu đi từ bên ngoài vào, tấm bia bên tả chính là tấm bia đã chứng kiến nhiều giai thoại rất ly kỳ trong suốt chặng đường 140 năm lưu lạc.

Ông Phan Văn Dũng bên tấm bia bị thất lạc 140 năm.

Ông Phan Văn Dũng, người trông nom khu Lăng Hoàng Gia dẫn chúng tôi tham quan khu lăng mộ Đức Quốc Công và giới thiệu về những giai thoại ly kỳ của tấm bia mà vua đã ban tặng. Đó là tấm bia được tạc bằng đá trắng xứ Quảng Nam (có kích thước 160 x 120 x 15 cm), do vua Tự Đức ban tặng để chuyển vào Gò Công đặt tại lăng mộ Hoàng Gia, nơi thờ tự Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng.

Theo tài liệu ghi lại, bia văn trên bia đá, do Phan Thanh Giản và Trương Quốc Dụng soạn vào năm Tự Đức thứ 10 (1858), nhằm ca ngợi công đức của Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng. Vua Tự Đức sai chở bằng thuyền từ Huế vào Gò Công cùng với tặng tượng Phật A Di Đà bằng gỗ mít, sơn son thếp vàng. Nhưng khi tàu thủy chở vào đến cửa Ô Cấp - Vũng Tàu (cửa biển Cần Giờ ngày nay) bị quân Pháp bắt giữ, tịch thu toàn bộ, được đưa về chùa Khải Tường (hiện nay là Bảo tàng Chứng tích chiến tranh ở Sài Gòn) cất giữ. Tấm bia triều Nguyễn bắt đầu số phận lưu lạc đúng 140 năm sau mới về đến Lăng Hoàng Gia, tại TX. Gò Công.

Nhìn thoáng mặt bên ngoài, tấm bia được viết bằng tiếng Pháp, bên trên khắc dấu Thánh giá và tên viên sĩ quan Pháp Barbé, là người đã cướp tấm bia từ cảng Ô Cấp - Vũng Tàu mang về đồn Pháp ngay tại chùa Khải Tường, nhưng nhìn kỹ ẩn sau hàng chữ tiếng Pháp là bia văn viết bằng chữ Hán ghi công Đức Quốc Công do vua Tự Đức ban tặng. Sau khi viên đại úy Barbé chết, các sĩ quan mang tấm bia đặt trước mộ Barbé trong nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (công viên Lê Văn Tám ngày nay), để là nơi an nghỉ của đại úy Barbé, thủy quân lục chiến, tháng 12/1860. Mặt trước của bia vào trong, bên ngoài (mặt sau bia) ghi tên họ, mộ chí đại úy Barbé. Bên trên dùng sơn màu đen khắc vẽ hình cây Thánh Giá. Ngày nay trên bia vẫn còn dấu khắc chạm và màu sơn khá rõ.

Liên quan đến tấm bia ghi công và viên đại úy Barbé là câu chuyện về nàng Hai Bến Nghé, mà sau này được dựng thành vở cải lương nổi tiếng ở Nam bộ là "Nàng Hai Bến Nghé". Trong tác phẩm "Scènes de la vie Annamite" (NXB P.Ollendorff Paris 1884) của hai tác giả Le Vardier và De Maubryan có kể lại chuyện tình éo của viên đại úy Barbé với cô gái Bến Nghé tên Thị Ba (còn gọi là nàng Hai Bến Nghé), người đã theo quân Trương Định dụ dỗ tên Barbé từ đồn chùa Khải Tường đến đồn chùa Ô Ma (Pagode des Mares-Thị Nghè).

Hôm đó là ngày 7/12/1860, trời vừa sập tối, nàng Hai chưng diện rất lộng lẫy, xinh đẹp đến đồn trú chùa Khải Tường, xin lính canh vào báo quan chỉ huy Barbé biết nàng Hai đang đợi ngoài cổng đồn để dạo mát tâm sự. Nghe lính canh vào báo, Barbé mừng rỡ, vội vàng thay quân phục, không cần lính theo hầu, một mình phóng ngựa ra đón mỹ nhân. Khi Barbé còn cách nàng Hai chừng mười thước, nghĩa quân Trương Định mai phục bất ngờ hai bên đường ào ra kết liễu đời tên xâm lược. Đây cũng là một trong những chiến công đầu tiên của nghĩa quân Trương Định.

Mãi đến tháng 5/1983, khi Sài Gòn quyết định di dời nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi để xây dựng công viên văn hóa Lê Văn Tám, sau khi bốc cốt đại úy Barbé đưa về Pháp, các công nhân dọn dẹp san lấp mặt bằng phát hiện một tấm bia đá khổng lồ mà không biết đó là báu vật của vua ban lưu lạc trên 140 năm. Về sau, các nhà khảo cổ phát hiện ẩn bên trong hình cây Thánh giá là chi chít chữ Hán khắc chạm rất công phu, tinh xảo, đọc được đó chính là bia văn do vua Tự Đức ban gởi về Gò Công. Cho đến tháng 7/1998, đúng 140 năm tấm bia vua Tự Đức ban đã lưu lạc mới được đưa về ấp Lăng Hoàng Gia, xã Long Hưng, TX. Gò Công đặt bên trái mộ phần Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng đến ngày nay.

Lăng Hoàng Gia được xây trên gò Sơn Quy (có hình con rùa nên dân gian gọi là Gò Rùa, sau được vua Tự Đức đổi thành Sơn Quy) vào năm 1826. Khu lăng được xây dựng trong nhiều năm liền trên diện tích gần 3.000 m2, nằm cách TX. Gò Công khoảng 2 km và cách TP. Mỹ Tho khoảng 30 km.

Dòng họ Phạm đã sống lâu đời và nổi tiếng ở đất Gò Công. Ông Phạm Đăng Khoa là người khai hoang lập nghiệp, Phạm Đăng Hưng là hậu duệ đời thứ tư. Vì là ông ngoại vua Tự Đức, cha của Hoàng thái Hậu Từ Dũ, tước Đức Quốc Công, nên sau khi Phạm Đăng Hưng mất (1825), triều đình nhà Nguyễn cho xây dựng tại đây nhà thờ và lăng mộ dòng họ Phạm Đăng đúng theo kiến trúc dành cho lăng tẩm vua quan lúc bấy giờ và được người đời gọi là Lăng Hoàng Gia.

Phạm Đăng Hưng là một vị quan thanh liêm, văn võ song toàn, nổi tiếng liêm khiết nên rất được triều đình và nhà vua trọng dụng được triệu về Kinh giữ chức "Lễ Bộ Thượng thư". Ngày nay, Lăng Hoàng Gia là một trong những điểm tham quan, du lịch của TX. Gò Công.

Mai Anh


Chỉnh sửa lại bởi hoangngochung - 23/May/2012 lúc 1:56am
hung0989077120@ahoo.com
IP IP Logged
hoangngochung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 27/Nov/2010
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 513
Quote hoangngochung Replybullet Gởi ngày: 23/May/2012 lúc 1:53am

Ông Phan Văn Dũng bên tấm bia bị thất lạc 140 năm
hung0989077120@ahoo.com
IP IP Logged
hoangngochung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 27/Nov/2010
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 513
Quote hoangngochung Replybullet Gởi ngày: 20/Jun/2012 lúc 2:34am

GIAI THOẠI VỀ VÕ SƯ GÒ CÔNG ĐIỄN TRAI

Không chỉ nổi danh với các chiêu thức võ thuật, võ sư Hồng Long còn có hàng trăm người đẹp “xin chết”.

Giờ đây, người dân xứ võ Gò Công không còn thấy người võ sĩ bách chiến bách thắng ngày nào với khuôn mặt ưa nhìn, thanh tú nữa. Cơn tai biến bất ngờ ập đến khiến ông chẳng thể đi lại, nói năng. Từ đó, vị võ sư vang danh một thời này quyết định “đóng cửa” với cuộc đời. Nhưng, những mảnh ghép quá khứ oai hùng về người võ sĩ thanh sắc, mưu lược toàn tài ấy vẫn luôn được các môn đồ truyền tụng....

Người mà chúng tôi muốn nhắc đến ở đây là võ sư Hồng Long. Được biết, vị võ sư này góp phần rất lớn vào việc “phát dương quang đại” cho hệ phái võ kinh xứ Gò Công.

Hình ảnh hiếm hoi của Hồng Long thời trai trẻ mà môn sinh của ông còn gìn giữ

Bách chiến bách thắng

Hồng Long tên thật là Phạm Văn Thời, con trai thứ bảy của võ sư Phạm Văn Chí, người sáng lập ra võ đường Triệu Tử Long. Nơi ông cất tiếng khóc chào đời chính là cái nôi của nhiều võ sĩ một thời danh chấn miền lục tỉnh. Từ thuở nhỏ, cậu bé Bảy Thời đã nức tiếng thông minh. Hằng ngày được sống bên cạnh người cha, cũng là người thầy tinh thông võ học, Bảy Thời đã sớm am tường và say mê các chiêu thức võ cổ truyền bấy giờ.

Từ thuở niên thiếu đến lúc trưởng thành, Bảy Thời theo học và làm việc tại Sài Gòn - Gia Định (cũ). Năm 1972, cha của ông, võ sư Phạm Văn Chí không may bị mất trong một tai nạn giao thông nghiêm trọng. Nhận được tin dữ, Bảy Thời tức tốc khăn gói về Tiền Giang. Tuy nhiên, khi ông chưa về đến nhà thì bố đã nhắm mắt xuôi tay. Ông yên nghỉ lúc 61 tuổi. Sự ra đi của vị võ sư Gò Công tài ba khiến giới võ học miền Tây không khỏi bàng hoàng thương tiếc.

Vốn tính kiên cường, ngay sau đó Bảy Thời nén lại nỗi đau để dồn tâm luyện võ. Ông từ bỏ công việc ở Sài Gòn, tiếp quản võ đường Triệu Tử Long để thực hiện tâm nguyện của người cha quá cố. Cái tên hiệu Hồng Long thuở xưa do người cha đặt bấy giờ mới được vang danh. Năm ấy Hồng Long vừa tròn 27 tuổi.

Việc xây dựng Võ đường Triệu Tử Long và phát triển bộ môn võ kinh cổ truyền chính là tâm huyết một đời của người cha oanh liệt. Ý thức được điều đó, Hồng Long đã dồn hết tâm sức để gây dựng nên danh tiếng của võ đường và hệ phái võ kinh xứ Gò Công.

Hàng trăm cô gái đi tập võ để gặp Hồng Long

Một buổi chiều Gò Công nắng vàng trên Trường Đua lấp loáng, tôi may mắn có cơ duyên được ngồi với các võ sĩ từng làm nên tiếng tăm của võ đường Triệu Tử Long. Trong lúc cao hứng, võ sĩ Trần Bình Long, người học trò ưu tú của võ sư Hồng Long đã kể những chuyện kỳ thú về dung mạo và tài ăn nói của thầy mình. Được biết, thuở trước, Hồng Long rất hiếm khi thượng đài. Nhưng một khi ông lên sới thì hàng trăm, hàng nghìn cô gái chen chúc đi mua vé. Trước đó, nơi đấu võ đường như chỉ có cánh đàn ông quan tâm, nhưng khi có Hồng Long thì khác. “Nhan sắc” của ông đã khiến không ít cô gái cũng tập tành đến khán đài hay vào võ đường của ông để luyện tập.

Ngày ấy, thầy trò Hồng Long đánh đâu thắng đó nên chẳng mấy chốc tên tuổi đã vang danh từ Nam ra Bắc. Chưa muốn dừng lại, với học vấn và tài thương thảo, Hồng Long không ít lần thuyết phục được Tổng cục võ thuật cho học trò của mình đấu với các võ sĩ nước ngoài. Ông muốn giới thiệu võ thuật cổ truyền Việt Nam với bạn bè quốc tế.

Sau giải phóng, võ đường Triệu Tử Long do Hồng Long tiếp quản liên tục phát triển, mang tầm ảnh hưởng không nhỏ đối với nền võ thuật miền Tây Nam Bộ. Với sự thông minh trời phú, Hồng Long không ngừng học hỏi, tìm hiểu kiến thức võ thuật của nhiều môn phái khác nhau. Từ đó, dựa trên cái nền của võ Gò Công mà sáng tạo, cải tạo nên những chiêu thức vô cùng ảo diệu.

Năm 30 tuổi, Hồng Long được mời về làm huấn luyện viên võ thuật cho Sở Thể Dục - Thể thao tỉnh Tiền Giang (nay là Sở VH, TT&DL). Lớp vận động viên dưới tay Hồng Long “thiện chiến” vô cùng. Chẳng mấy chốc võ thuật Tiền Giang được bạn đồng môn trên khắp dải đất hình chữ S nghe danh thán phục. Đây được đánh giá là giai đoạn đỉnh cao nhất của võ thuật cổ truyền tỉnh Tiền Giang. Võ đường Triệu Tử Long dưới “bàn tay” của vị chưởng môn Hồng Long “thanh sắc, thao lược toàn tài” chính là trang vàng son, rực rỡ nhất của lịch sử võ kinh xứ Gò Công.

Hồng Long (phải) trên võ đài

Nổi danh “người đẹp Gò Công”

Người ta biết đến Hồng Long không chỉ vì tài năng mà còn ông nổi tiếng thanh sắc hơn người. Để tìm hiểu thực hư về cái danh truyền tụng “người đẹp Gò Công”, chúng tôi đã tìm về xứ võ kinh đất Tiền Giang, nơi Hồng Long sinh ra và lớn lên. Không quá khó để hỏi về Hồng Long vì người dân quanh đây hầu như ai cũng từng nghe danh tiếng.

Theo lời thầy giáo Nguyễn Văn Chính, giáo viên trường THPT Bình Long (huyện Gò Công Tây), người từng là môn đồ của Hồng Long thì: Thời còn trẻ Hồng Long cao gần 1m80, da trắng, mắt sáng, sống mũi cao thanh tú, khuôn miệng hay cười. Tuy ngày đêm luyện võ nhưng lạ là sắc vóc, cốt cách Hồng Long không hề “gân guốc” như những võ sĩ khác. Ông viết chữ đẹp, nói chuyện hay, khiến cho người đối diện rất dễ sinh lòng cảm mến. Các học trò của Hồng Long giờ vẫn còn lưu giữ “bút tích” do ông ký tặng.

Ông Lê Minh Trang, môn sinh của Hồng Long cho biết: “Với thanh sắc và tài mạo như Hồng Long mà theo nghiệp võ thì quả thật xưa nay hiếm”. Và cũng chính Lê Minh Trang đã từng tuyên bố rằng: “Với tài mạo, cách ăn nói của mình, Hồng Long hoàn toàn có thể “điều khiển” được hơn 40.000 khán giả tại sân vận động Cộng Hòa (nay là SVĐ Thống Nhất). Khi ông thượng đài, mọi chiêu thức, câu nói của ông mọi người đều chăm chú nghe”. Vì thế, chẳng ngẫu nhiên mà đại hội Thể Dục - Thể Thao năm ấy, Hồng Long được chọn là người cầm cờ dẫn đầu đoàn diễu hành trong lễ khai mạc.

Nhưng với người tài hoa, số phận thường rất truân chuyên. Đến năm 2001 khi đang tập tenis cùng bạn bè thì võ sư Hồng Long đột ngột ngã quỵ do cơn tai biến. Tai nạn này đã khiến ông bị liệt toàn thân nhưng đầu óc vẫn còn rất minh mẫn, sáng suốt. Có điều, từ đó người ta không còn được gặp Hồng Long nữa. Cửa nhà ông luôn đóng im ỉm, kể cả những người thời xưa từng là học trò của Hồng Long cũng họa hoằn lắm mới được gặp mặt hỏi han.

Chúng tôi ghé ngôi nhà nhỏ của ông cạnh Ao Trường Đua, nhưng chỉ nhận được cái lắc đầu buồn bã của người thân võ sư Hồng Long. Nhìn căn nhà cửa khép, vắng lặng như tờ bỗng miên man buồn khi nhớ lại lúc Bình Long kết thúc câu chuyện. Ông thở dài, cám cảnh cho thầy mà than: “Còn đâu thời oanh liệt”.

Môn phái danh chấn võ lâm

Được biết, ở Gò Công có hệ phái Lâm Sơn phát nguồn từ lực lượng kháng chiến của Trương Định. Sau nhiều thế hệ, hệ phái này  phân mảnh thành nhiều chi phái, trong đó có hệ phái võ Gò Công. Sư tổ của hệ phái võ này là võ sư Triệu Tử Long (tên thật là Phạm Văn Chí, bố của Hồng Long). Tương truyền rằng, ông là người đi học võ từ nghĩa quân của Trương Định. Sau khi nghĩa quân thất bại, Tử Long về mai danh ẩn tích tại vùng Gò Công. Ngoài ra, ông còn đi học nhiều thầy võ khác để cuối cùng chọn lọc, sáng tạo ra bài quyền, thế đánh riêng cho hệ phái võ Gò Công sau này. Nhiều võ sư đã thành danh từ võ đường Gò Công như võ sư Hồng Long, võ sư Sơn Long (tên thật Phạm Văn Chơi), võ sư Hồng Yên (tên thật Nguyễn Văn Yên), võ sư Hồng Cầm (tên thật Nguyễn Thanh Hồng), võ sư Trần Bình Long (tên thật Nguyễn Văn Mừng), võ sư Hắc Long, võ sư Ngọc Long, võ sư Huỳnh Long...

Vân Thiên

hung0989077120@ahoo.com
IP IP Logged
hoangngochung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 27/Nov/2010
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 513
Quote hoangngochung Replybullet Gởi ngày: 02/Aug/2012 lúc 3:55am

TRẦN THÀNH MỸ

 

DÂN QUÊ MÌNH

 

Gái quê tôi không tô son điểm phấn,

Nhưng mặn mà tình nghĩa thủy chung.

Da sẫm màu vì gồng gánh tam tùng,

Tay khéo léo quyết tâm khâu tứ đức.


Trai quê tôi đậm đà tri thức,

Hai chữ hiếu trung giữ vẹn cương thường.

So với người tuy chẳng để phô trương,

Giữ truyền thống đôi vai luôn gánh vác.


Quê tôi nắng cháy da mưa dầm tang tác,

Vừa trưởng thành thường quảy gánh ra đi.

Lập nghiệp xa cho thoả chí nam nhi,

Có xa xứ tình quê là tất cả.


Con cái quê tôi sao mà thân thương lạ,

Đất khô cằn vẫn bám lấy không quên.

Mồ cha ông chứng tích dấu ơn trên,

Gương sử sách ấp ủ hồn dân tộc.


Dân quê tôi không sang vì bổng lộc,

Không màng chi « gió độc » miệng đời.

Cứ « gồng co » vì tình nghĩa thế thời,

Nêu chí khí giống Tiên Rồng đất Việt.


Tổ tiên mình bậc anh hùng nữ kiệt,

Từng đứng lên khơi ngọn lửa đấu tranh.

Con cháu quê ta thức thời đức hạnh,

Luôn chung lòng theo vết bước cha ông.

 

10 - 07   
hung0989077120@ahoo.com
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 2
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.119 seconds.