Người gởi |
Nội dung |
Nhân Kiệt
Newbie
Tham gia ngày: 23/Mar/2013
Thành viên: OffLine
Số bài: 32
|
 Gởi ngày: 28/Mar/2013 lúc 5:34am |
3 tỉ đồng trùng tu ngôi đình cổ trong lòng cây bồ đề
SƠN LÂM - TR.GIANG | 22/03/2013 09:53 (GMT + 7)
TT - Ngôi đình cổ trong lòng cây bồ
đề (Tuổi Trẻ ngày 22-2) ở xã Tân Đông, huyện Gò Công Đông (Tiền Giang) sẽ được
trùng tu vào cuối năm 2013 bằng ngân sách tỉnh.
Đình
Tân Đông vẫn tồn tại nhờ vào rễ của hai cây bồ đề - Ảnh: S.Lâm
Tin
bài liên quan
Ông Trần Thanh Phúc, phó giám đốc Sở
Văn hóa - thể thao và du lịch tỉnh Tiền Giang, cho biết sở đã khảo sát ngôi
đình và giao cho đơn vị tư vấn lập dự án, bản vẽ trùng tu ngôi đình độc đáo
này. Việc trùng tu sẽ tiến hành cuối năm nay.
Theo ông Phúc, trước mắt phải gia cố
để giữ nguyên hiện trạng do một số cây gỗ rường cột đã quá mục nát. Tinh thần
chung là sẽ trùng tu nguyên trạng ngôi đình, cả phần võ ca và hậu hiền, xây
dựng lại cổng và cả hàng rào bao quanh. Toàn bộ mặt tường chính của chánh điện
và phần rễ của hai cây bồ đề đang bám vào mặt tường này sẽ được giữ nguyên hiện
trạng để giữ được giá trị lịch sử của ngôi đình.
Dự kiến nếu trùng tu toàn bộ ngôi
đình này sẽ mất khoảng 10 tỉ đồng, nhưng do kinh phí có hạn nên sẽ sử dụng vật
liệu thay thế những thứ hiện không thể tìm được. Khi đó kinh phí trùng tu ngôi
đình dự kiến còn khoảng 3 tỉ đồng
( Theo Tuổi trẻ )
|
IP Logged |
|
Nhân Kiệt
Newbie
Tham gia ngày: 23/Mar/2013
Thành viên: OffLine
Số bài: 32
|
 Gởi ngày: 28/Mar/2013 lúc 7:10pm |
Đình Đồng Thạnh - di tích lịch sử, văn hóa cấp quốc gia
 |
Chánh tẩm, Ảnh: KTN | Đình
Đồng Thạnh tọa lạc tại ấp Lợi An, xã Đồng Thạnh, huyện Gò Công Tây
(Tiền Giang). Đình Đồng Thạnh trước đây có tên là đình Rạch Lá, tên chữ
là Đồng Sơn đình Trung. Tên gọi Đồng Sơn đình Trung kéo dài đến năm
1975. Năm 1979, xã Đồng Thạnh được thành lập do sáp nhập từ một phần xã
Đồng Sơn và một phần xã Thạnh Trị và tên đình cũng được đổi thành đình
Đồng Thạnh cho đến ngày nay. Đình được xây dựng vào cuối thế kỷ thứ XIX.
Đây là tác phẩm văn hóa -nghệ thuật của người Gò Công. Sơ khai đình
được xây dựng bằng tre lá đơn sơ. Vào những năm đầu thế kỷ XX, trước làn
sóng văn hóa phương Tây, người dân đã phản ứng bằng cách trùng tu, tái
thiết các các cơ sở tôn giáo tín ngưỡng truyền thống nhằm bảo tồn di sản
văn hóa của cha ông. Việc trùng tu được hoàn thành vào năm 1914. Đây là
ngôi đình với lối kiến trúc kết hợp độc đáo phong cách Đông - Tây, mang
đậm bản sắc văn hóa vùng miền và địa phương. Theo các vị cao niên trong
khánh tiết đình, làng Đồng Sơn trước năm 1945 có 3 sắc thần (Sắc Bổn
Cảnh Thành Hoàng chi thần; Sắc Bạch Mã Tôn thần; Sắc Đại Càn Quốc Gia
Nam Hải Tứ vị thần) do vua Thiệu Trị và Tự Đức phong. Tuy nhiên do chiến
tranh, nhiều lần phải di dời nên các sắc thần đã bị cháy. Căn cứ vào
bài điếu văn hàng năm, đình Đồng Thạnh thờ Đại Càn Tứ vị Nương vương
(thờ bốn vị thần phù hộ người đi biển) và thờ Thần Nông. Ngoài ra, nhân
dân còn thờ những người có nhiều công đức trong làng, xã.
Khởi thủy, đình được xây dựng trên nền đất cao 80 cm, lót gạch tàu,
vách tường, 20 cột làm bằng gỗ căm xe, 18 cột gạch; mái lợp ngói âm
dương và ngói ống. Tổng diện tích ngôi đình khoảng 476 m2. Về
tổng thể, đình được xây dựng theo lối kiến trúc chữ Tam, bao gồm: Võ ca
(nơi hát bội vào dịp Kỳ yên), Chánh tẩm (nơi thờ thần) và nhà khách
(nơi làng đến bàn việc) nối liền nhau. Nét đặc sắc của ngôi đình này là
nghệ thuật chạm khắc, trang trí hoa văn, tranh đắp nổi trên tường và
tượng gốm trang trí cả trong và bên ngoài đình. Đặc biệt với những hoa
văn, họa tiết trang trí ở đình được rút ra từ những triết lý của "tam
giáo" (Nho, Phật, Lão giáo) được hình tượng hóa qua tứ linh, tứ quí, bát
tiên, cá hóa long, các loại trái cây, sản vật ở địa phương và các biểu
tượng hàm ý sự giàu sang, phú quí, mong cho hạnh phúc tràn đầy, mưa
thuận, gió hòa... Với đôi bàn tay tài hoa, các nghệ nhân xưa đã bố cục
và thể hiện hài hòa các đề tài truyền thống trong nghệ thuật điêu khắc
Việt Nam. Bằng những đường nét tinh tế, uyển chuyển rất sinh động, mang
tính triết lý nhân sinh sâu sắc, hàm chứa ước mơ thịnh vượng, tốt lành
cho muôn đời sau, các nghệ nhân thời ấy đã "thổi hồn" vào những thân gỗ,
xi măng tạo thành những mảng trang trí nhẹ nhàng, thanh thoát, những
bức tranh sống động, góp phần tăng thêm giá trị của di tích đã tồn tại
từ hơn trăm năm qua.
 |
Kiến trúc còn lại của nhà khách, Ảnh: KTN |
Nét riêng độc đáo của đình Đồng Thạnh là yếu tố văn hóa Phật giáo
được đưa vào đình thông qua hình ảnh các vị La Hán được đắp nổi. Đời
sống văn hóa đương đại của người xưa được đưa vào kiến trúc của đình là
nét mới lạ, tạo thêm sự đặc sắc của đình. Trên tường bao bọc Võ ca được
trang trí 13 bức tranh đắp nổi bằng ô dước tả cảnh sinh hoạt trên đường
phố, cảnh tàu thuyền ra vào cửa sông tấp nập hồi đầu thế kỷ XX.
Những bậc cao niên trong Ban phụng tự đình cho biết: "Mỗi lệ cúng
đình vào ngày 16, 17-3 và 16-11 âm lịch, dân đến cúng đông đúc, nhộn
nhịp. Ngày xưa, đình còn sung túc lắm, xung quanh bao lam, các bàn hương
án, liễn... được chạm trổ tinh vi và được sơn son thiếp vàng lộng lẫy.
Hiện nay, đình chỉ còn lại phần Võ ca, chánh tẩm và một phần nhà tiệc;
riêng nhà khách không còn. Chánh tẩm bây giờ được lợp bằng tôn xi măng,
do trận hỏa hoạn năm 1963 đã làm hư hết phần mái ngói. Chiến tranh và
thời gian làm ngôi đình hư hao nặng. Bây giờ vách nứt, mái dột, cửa nẻo
tạm bợ. Những đồ xưa đình còn giữ được là 4 bàn thờ, mặt trước có bức
long án chạm tứ linh, hoa lá sơn son thiếp vàng; 9 bài vị; 6 bộ chân đèn
bằng gỗ; 1 đôi hạc gỗ đứng trên qui; 1 bộ binh khí bằng gỗ; 1 đôi long
trụ; 2 bộ bao lam thanh võng với 36 khuôn chạm các đề tài hoa lá, tứ
linh, tứ quí và 13 bức tranh đắp nổi mô tả cảnh sinh hoạt của dân trong
vùng hồi đầu thế kỷ XX...". Đây là công trình kiến trúc, văn hóa nghệ
thuật đặc sắc của quê hương Gò Công Tây. Chiến tranh, thời gian và sự
tác động của con người đã làm đình hư hại nặng nề. Giữ gìn và tôn tạo
ngôi đình đang là nhu cầu cấp thiết để bảo tồn các giá trị lịch sử, văn
hóa; phát huy di sản văn hóa của đình tạo thành cụm tour du lịch của
tỉnh thiết nghĩ không chỉ là nguyện vọng riêng của nhân dân Gò Công
Tây... Ông Đặng Văn Phước, Trưởng Phòng Văn hóa - Thông tin huyện cho
biết, năm 2009, Bộ Văn hóa -Thể thao và Du lịch vừa công nhận đình Đồng
Thạnh là di tích lịch sử, văn hóa cấp quốc gia và nhà nước cũng đã có kế
hoạch chuẩn bị trùng tu lại ngôi đình cổ kính này.
Kiều Tước Nguyên
( Đăng lại từ www.tiengiang.gov.vn
Chỉnh sửa lại bởi Nhân Kiệt - 28/Mar/2013 lúc 7:11pm
|
IP Logged |
|
Nhân Kiệt
Newbie
Tham gia ngày: 23/Mar/2013
Thành viên: OffLine
Số bài: 32
|
 Gởi ngày: 31/Mar/2013 lúc 5:19am |
Phóng sự ảnh:
Đi chợ đêm ở phố cổ Gò Công
Qua bao thăng trầm của lịch sử và
nhiều lần trùng tu, xây dựng và mở rộng, chợ Gò Công vẫn là nơi giao
thương hàng hóa nông sản lớn nhất khu vực Gò Công.
Bắt đầu họp chợ từ lúc nửa đêm, những chủ vựa, bà con tiểu thương,
nhà vườn đã tất bật trong sương sớm để sáng mai kịp mang đến tay người
tiêu dùng những mặt hàng nông sản tươi rói…Dưới đây là những hình ảnh
ghi nhận được tại chợ Gò Công trong đêm của một ngày bình thường trong
năm.
* Khu vực tập trung thịt heo và phân phối cho các đại lý
* Gian hàng bún, bánh hỏi và bánh bò sẵn sàng chờ người mua
* Nhiều người dân đi chợ sớm để mua rau, quả tươi
PHÙNG LONG
(thực hiện) ( Đăng lại từ Apbac oline )
|
IP Logged |
|
Nhân Kiệt
Newbie
Tham gia ngày: 23/Mar/2013
Thành viên: OffLine
Số bài: 32
|
 Gởi ngày: 31/Mar/2013 lúc 5:21am |
Con tôm đất oanh liệt
Ngay cái tên của nó - tôm bạc đất
- cũng đã nói lên gốc gác hạng bét, khó có thể sánh với những loại tôm
khác. Ấy thế mà từ con tôm sống ở các trảng nước lợ, những người dân xứ
Gò Công đã làm nên món vừa sơn hào vừa hải vị phi thường: mắm tôm chà.
Người có công đưa nó vào hàng “khanh tướng”, làm cho người ta quên
gốc gác lọ lem của nó là người con gái Phạm Thị Hằng của Quốc công Phạm
Đăng Hưng ở xứ Gò Công. Nàng được tiến cung ra Huế từ năm 14 tuổi, làm
phi cho vua Thiệu Trị.
Mà, có nỗi thương nhớ quê nhà nào lại thoát ra khỏi thương nhớ món ăn
đồng quê gốc gác, nhất là mắm! Thế là nàng lệnh cho đưa mắm tôm chà quê
nhà ra kinh thành Huế cao sang quyền quý, bất chấp nguồn gốc của món
mắm hết sức lọ lem.
Không biết món mắm tôm chà ở Gò Công chính xác có từ bao giờ nhưng tuổi đời của nó được ước tính khoảng trên 200 năm.
Ông Năm Hổ, chủ cơ sở mắm tôm chà Kim Sa nổi tiếng trên đất Gò Công kể
lại “sự tích” của món mắm này: “Hồi xưa ở Gò Công ruộng lúa phì nhiêu,
con tôm bạc đất nhiều ăn không hết nên người ta chế ra món mắm tôm chà
để ăn lâu dài hoặc biếu bà con nhân dịp lễ tết”.
Mắm tôm chà Gò Công được làm từ tôm bạc đất, tôm bạc biển, tôm bạc nghệ
đều được nhưng nhất thiết phải là tôm thật tươi, sống trong môi trường
thiên nhiên. Theo ông Năm Hổ, làm mắm bằng con tôm nuôi thì mắm sẽ bị
hôi.
Chế biến món mắm tôm chà cần sự công phu, kỹ lưỡng và sạch sẽ. Sơ sẩy
một chút hoặc chế biến không hợp vệ sinh là mắm sẽ hư ngay. Trước tiên,
con tôm tươi được “bơi lội” trong rượu nếp khoảng 15 phút cho say mèm.
Vớt tôm ra, cắt mắt tôm bỏ, phơi nắng, cho vào cối đá quết nhừ với tỏi,
ớt, muối rồi phơi nắng khoảng sáu, bảy ngày.
Sau đó lấy cảo tre chà lấy tinh bột rồi phơi khoảng 15 nắng. Hiện
nay, cối đá đã được thay bằng máy xay môtơ điện, cảo tre thay bằng máy
chà để giảm bớt sức lao động nhưng phần phơi nắng vẫn phải dựa vào thiên
nhiên để có hương vị mắm như xưa.
Mắm tôm chà xứng danh là món “đặc sản của đặc sản” do kết hợp đặc sản ở
các địa phương khác. Bởi lẽ, phải là tỏi Phan Rang nổi tiếng thơm, ớt Đà
Lạt thịt nhiều, màu sắc đẹp, cùng con tôm tươi Gò Công quyện vào nhau,
phơi dưới nắng tự nhiên mà cho ra đời một món mắm thơm ngon đến như vậy.
(Theo sgtt.vn)
|
IP Logged |
|
Nhân Kiệt
Newbie
Tham gia ngày: 23/Mar/2013
Thành viên: OffLine
Số bài: 32
|
 Gởi ngày: 31/Mar/2013 lúc 5:24am |
Bãi biển Tân Thành rồi sẽ biến mất?
Bãi biển Tân Thành, một trong
những thắng cảnh của tỉnh nhà, là vùng đất thấp ven biển Gò Công, đang
bị ảnh hưởng nặng nề nhất do biến đổi khí hậu.
Nước biển dâng cao đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hạ tầng cơ sở như
rừng, nhà, đất, đường và đời sống người dân trong khu vực bãi biển Tân
Thành.
 |
Công trình đê chắn
sóng ở bãi biển Tân Thành được xây dựng với kinh phí hàng trăm triệu
đồng đã bị sóng đánh sập và ngập chìm trong nước biển. |
 |
Sức tàn phá của sóng biển đã làm mất đi vẻ đẹp của bãi biển Tân Thành là nơi du lịch biển duy nhất của tỉnh Tiền Giang. |
 |
Biến đổi khí hậu gây sạt lở nghiêm trọng rừng phòng hộ thuộc 2 xã Tân Thành và Tân Điền (Gò Công Đông). |
 |
Cây bần và cây mắm là những cây giữ đất tốt nhất, cũng đành trơ gốc bởi sức tàn phá của sóng biển. |
NHẤT AN ( Đăng lại từ Apbac Online )
|
IP Logged |
|
Nhân Kiệt
Newbie
Tham gia ngày: 23/Mar/2013
Thành viên: OffLine
Số bài: 32
|
 Gởi ngày: 31/Mar/2013 lúc 5:29am |
Mực bò Rạch Bùn - đặc sản ngư trường Gò Công
Ảnh chỉ mang tính minh họa. (Nguồn: Internet)
Vùng Tân Điền thuộc ngư trường Gò Công
(Tiền Giang), phong phú với các loại thủy sản, trong đó nổi tiếng nhất
phải nhắc tới là loài mực bò Rạch Bùn.
Mực bò về hình
dáng giống như bạch tuộc, dân sở tại quen gọi là mực bò, lâu dần thành
tên. Mực bò sống ven bờ, đào hang để trú ngụ và sinh sản. Hang mực bò
không sâu, chỉ chừng 3-5 tấc nhưng có nhiều ngách để thoát thân khi có
sự biến. Mực bò ngon nhất chỉ có ở vùng Tân Điền, Gò Công.
Chừng tháng
10 âm lịch năm trước đến tháng 2 âm lịch năm sau, khi gió chướng đang
lồng lộng thổi cũng là mùa mực bò ôm trứng, chuẩn bị sinh sản. Đó là lúc
mực ngon và ngọt nhất.
Người dân Rạch Bùn bắt mực
bò bằng tay. Mỗi ngày, khi con nước xuống, bỏ bãi bồi là lúc bà con rộn
rịp đi bắt mực bò. Người ta nhìn bãi, tìm hang, phát hiện nơi mực trú ẩn
và bắt chúng. Thông thường, miệng hang mực bò có dấu bùn đùn lên xung
quanh, dân địa phương quen gọi là “mà” mực.
Bắt mực bò là cả một nghệ
thuật. Sau khi phát hiện được “mà” mực, người ta chặn các ngóc ngách để
mực bò không có lối thoát.
Theo anh Mười Toàn, chủ cơ sở chuyên thu mua
hải sản tươi sống tại Rạch Bùn, trước đây ở vùng này rất nhiều mực bò.
Đến khi nước ròng, bà con ra bãi bắt mực bò, trung bình mỗi người sau
5-6 giờ lao động có thể bắt được vài kg mực, khoảng 20-30 con.
Anh Lê
Thành Lâm ở ấp Trung, Tân Điền được bà con gọi là kiện tướng bởi trong
vòng một con nước ròng (khoảng 6 giờ), anh bắt được trên 10kg mực,
khoảng 110 con.
Thời trước, bắt mực bò là nghề tay
trái của bà con, chủ yếu nhằm cải thiện bữa ăn, dư dả một chút thì mang
ra chợ bán. Ngày nay, nguồn lợi ít đi, mực bò trở thành món cao cấp được
các thực khách ưa thích. Giá bán cũng vì thế mà tăng vọt, từ
100.000-130.000 đồng/kg, nhưng mỗi ngày sản lượng khai thác chỉ được
5-7kg.
Mực bò Rạch Bùn luộc dấm, luộc lá me... là những món ngon không thể
nào quên. Được thưởng thức mực bò luộc lá me ngay tại Rạch Bùn, nhìn ra
một bên là biển Đông với núi Lớn, núi Nhỏ của Vũng Tàu in trên nền trời
phía xa xa, một bên là những cánh đồng lúa, đồng tôm ngút mắt của duyên
hải Gò Công thì còn gì bằng.
Tân Điền liền kề với Tân
Thành có khu du lịch biển, có bãi nghêu vài ngàn ha, gần các di tích
văn hóa-lịch sử Gò Công xưa: đám lá tối trời cùng lăng và mộ Anh hùng
dân tộc Trương Định, lăng Hoàng gia có mộ thân sinh bà Từ Dũ Thái hậu,
lũy Pháo Đài (Tân Phú Đông)... sẽ trở thành điểm đến hấp dẫn của các
tour du lịch sinh thái biển Gò Công.
Hy vọng rằng không lâu nữa, du
khách khắp nơi sẽ biết đến một địa chỉ du lịch mới vô cùng hấp dẫn với
món mực bò không thể nào quên, tạo thêm sinh khí cho ngành công nghiệp
không khói của tỉnh Tiền Giang trong tương lai./.
Minh Trí (TTXVN/Vietnam+)
|
IP Logged |
|
mykieu
Senior Member
Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
|
 Gởi ngày: 06/May/2013 lúc 9:39pm |
Thuở ấu thơ
Phước Trung (cựu nữ sinh trường Trung Học Công Lập Gò Công) Ba tôi mất khi tôi chưa tròn 6 tuổi, em kế vừa 4 tuổi và em út thì
mới 20 tháng. Má tôi một nách 3 con, không được sự trợ giúp gì từ bên nội dù chỉ
một xu. Gia đình nội tôi- dòng họ Lâm- giàu có nhất nhì ở tỉnh Gò Công thời bấy
giờ với nhiều bất động sản và ruộng đất. Bên nội di dân từ Tàu sang vào những
năm 1900.Vì là người Tàu nên họ rất trọng con trai mà má tôi chỉ sanh được 3 cô
con gái. Má tôi kể có một lần bà Tư chị của ông Nội hỏi má tôi : - Con
được bao nhiêu đứa con? - Dạ được 3 đứa con gái. - Vậy là mầy mậu lúi
rồi. Đúng là mậu lúi thật. Sau khi ba tôi mất, má tôi ráng núm níu ở lại với
bà Nội một thời gian ( ông Nội mất trước ba một năm ), một căn phố trong dãy phố
đâu lưng với lò bánh mì Yến Phi. Má tôi có hỏi xin Nội một bàn máy may để má tôi
may mướn kiếm chút đỉnh tiền bỏ túi. Bà tôi không đồng ý. Sau một thời gian
má tôi xin Nội cho về quê ngoại ở Phước Trung với hai bàn tay trắng, không có
một chút vốn liếng gì để sinh nhai. Ông ngoại tôi là một nhà nho, nhà thơ và
thầy thuốc Đông y, sống bằng nghề nông. Bà ngoại tôi mất khi má tôi mới 11 tuổi.
Ông ngoại lấy vợ kế nên chúng tôi không thể ở chung, chúng tôi tá túc nhà của
cậu Út, kế bên nhà ông ngoại. Lúc này cậu đã lấy vợ và có 3 cô con gái nhỏ hơn
tôi. Sáu chị em gái chúng tôi sống bên nhau rất là vui vẻ, hể một đứa bị ho
gà là cả đám còn lại “sủa” theo. Hể một đứa bị trái rạ là năm đứa con lại gải
tiếp. Chúng tôi thương yêu và nhường nhịn nhau, mợ tôi rất hiền nên chị chồng em
dâu không có gì đáng tiếc xảy ra. Trong số mấy anh chị em của má, dì Tư
thương má nhất, có lẽ vì cảnh goá bụa của má tôi. Dì đã mua lại miếng đất của
cậu Sáu tôi kế bên nhà ông Ngoại. Dì xây cho chúng tôi một căn nhà ngói, vách
ván bổ kho, cho bộ trường kỹ, tủ thờ cẩn xa cừ và bộ ván bằng gổ cẩm lai, nằm
mát ơi là mát. Công ơn của dì đối với chúng tôi thật bao la và ấm áp, tiếc là
sau 75 dì theo các con qua Canada định cư và mất bên ấy. Chúng tôi chưa có dịp
đền đáp ơn dì. Ở trên trời cao dì có linh thiêng hãy chứng giám cho lòng thành
của chúng con. Cuộc đời thơ ấu của tôi trôi êm đềm bên cạnh mẹ và hai em.
Buổi tối má tôi may vá (bàn máy may cũng là của dì Tư mua cho), chúng tôi chơi
trên bộ ván, bày mền gối, tập vở ra để bán hàng. Ban ngày ngoài giờ học, tôi
tham gia trò chơi bắn thun, bắn kè (bi), nhảy cò cò, đánh tên, bá quang, nhảy
dây, hay thả diều vào mùa khô. Tôi bắt chước đám con trai chẻ tre làm khung
diều, lấy giấy báo làm thân diều và lấy chỉ may của má làm dây thả diều. Dù diều
của tôi không đẹp, không bay cao như những con diều khác nhưng ba chị em tôi vẫn
thích và chơi đùa với nhau. Thỉnh thoảng tôi cũng tham gia đánh trận giả với
đám con trai cùng xóm, bắn súng bằng tay chuối tươi hay bắn ống thụt ( một loại
trúc có thân rổng và dài. Chặt một khúc không có mắt, dùng phần còn lại có mắt
khoảng hai lóng tay, nhét vào đó một khúc cây ngắn hơn thân trúc đã chặt vừa đủ
để xuyên qua thân trúc. Dùng đoạn cây đó thụt một bông keo chưa nở từ đầu nầy
của thân trúc xuyên qua đầu kia ). Nếu bị bắn trúng ở tầm gẩn thì cũng rất
đau. Rồi mùa mưa đến, tôi đi thọt ổ kiến vàng, lấy trứng kiến xào chung với
sáp để câu cá rô khi mùa luá trổ đồng đồng. Bị kiến vàng cắn đau lắm, nhứt là
khi bị nước tiểu?? của nó văng vô mắt, mắt bị cay xè đau thấu mấy ông trời,
nhưng khi nghĩ tới những con cá rô béo ngậy thì các cơn đau giảm đi rất
nhiều. Tôi hay qua Tăng Hòa, la cà ở bến xe ngựa để xin lông đuôi ngựa về câu
cá bóng kèo. Cá kèo không ở nước sâu mà nước chỉ hơi xấp xấp khỏi mặt ruộng một
chút. Tôi dùng lông đuôi ngựa, một đầu cột vào cần trúc, đầu còn lại thắt dây
thòng lọng. Khi đầu cá kèo ngóc khỏi mặt nưóc, tôi dùng dây thòng lọng tròng vào
đầu cá và giựt lên. Nói thì dễ nhưng làm thì rất khó nhất là những lần đầu.
Làm riết rồi quen cộng thêm chút kiên nhẩn tôi câu cũng không tệ. Tuổi thơ
của tôi là vậy đó, vui chơi hồn nhiên với bạn bè, với đồng ruộng, với sông nước,
với cỏ cây. Việc học của tôi không có vấn đề gì, mỗi năm đều lên lớp cho đến lớp
Năm thì tôi bị khựng lại vì môn Toán của tôi có vấn đề. Toán chẳng phải là cộng
trừ nhân chia gì nửa mà còn phải tìm câu trả lời, giải bài toán và tìm đáp
số. Cạnh nhà tôi là nhà của dì Ba tôi, chồng dì là thầy giáo dạy trường Tăng
Hòa nơi tôi đang theo học. Dì dượng có cô con gái bằng tuổi tôi, học chung một
lớp với tôi. Chị ấy học rất giỏi, năm nào cũng lảnh thưởng hạng nhứt từ lớp Năm
cho tới lớp đệ Nhất. Tôi rất ngưỡng mộ chị và cũng rất ghen tị khi nhận ra rằng
tôi không có Ba để được Ba dạy dỗ như chị. Tôi thường ngồi núp bên ngoài cửa
sổ bàn học của chị hy vọng có thể nghe lén tiếng giảng bài của dượng, tiếng la
rầy của dượng với chị mà thấy lòng xót xa và tủi thân quá mức. Có lúc tôi ra
ngoài vườn ngồi khóc một mình vì không ai giúp tôi giải bài toán hay những thắc
mắc của tôi về bài luận văn. Tôi không dám hỏi dượng Ba vì ông ấy rất nghiêm
khắc và xa cách. Má tôi thì bận rộn với mưu sinh, mà có lẻ với những bài văn bài
toán tôi không hiểu, má tôi cũng chẳng giúp được gì. Dì Tư tôi cũng là cô
giáo dạy ở trường tôi, nhà dì ở xã Tăng Hoà. Dì thương chúng tôi nhưng dì cũng
bận rộn với cuộc sống của dì vả lại dượng của tôi cũng thật là nghiêm khắc, hồi
nhỏ tôi rất ít khi dám lại gần hay nhìn dượng khi thấy cặp chân mày của dượng
cau lại. Từ cái không biết nầy đưa tới cái không biết khác. Môn Toán của tôi
bị tuột hậu. Thầy giáo lớp Nhất của tôi lúc đó là thầy Thoại. Lớp học với gần 50
học sinh, thầy không có thời giờ để hỏi han từng đứa, mà tôi lại cũng không dám
hỏi thầy. Bây giờ nghĩ lại thấy mình thật là ngu. Tại sao lại không dám
hỏi??? Lúc bấy giờ là năm 1963, du kích đánh phá khắp nơi. Có một lần họ bắn
vào trường học làm cả đám học sinh chúng tôi chạy tán loạn như bầy ong vở tổ.
Hên là không có đứa nào bị thương. Bệnh xá cạnh trường học có dì Hai lao công bị
thương ở chân, sau nầy bị tật cả đời chân đi cà thọt. Rồi trường học đóng
cửa. Chị tôi và tôi cùng một số bạn khác đi học tư ở Gò Công bằng xe ngựa. Năm
đó tôi thi rớt Đệ Thất. Tôi còn nhớ rất rõ đề thi của bài luận văn: Em hãy bình
giảng câu:” Dùng hàng nội hóa là yêu nước”. Tôi chẳng hiểu mô tê hàng nội hoá là
hàng gì và tại sao dùng nó là yêu nước??? Nếu đề văn ghi: Dùng hàng sản xuất
trong nước là yêu nước thì có lẻ tôi viết được vài dòng. Tôi bỏ giấy trắng. Còn
về đề toán thì là toán động tử, xe chạy ngược chiều với thời gian là 9 giờ kém
10. Tôi cũng chẳng hiểu mô tê 9 giờ kém 10 là mấy giờ??? Bỏ giấy trắng
luôn. Tôi ở lại lớp Nhất thêm một năm nửa, nhưng không đến trường học vì
trường vẩn còn đóng cửa. Tôi cùng một số bạn đi bộ đến Gò Công để học tư vì
đường sá bị du kích đấp mô luôn. Tuyết, Ngọc Sương và tôi chia nhau đứa thì mang
tập vở của cả ba; đứa thì mang nước uống và trái cây, khi thì chùm ruột, khi thì
me, khế ổi và muối ớt, toàn là cây nhà lá vườn, ngon ơi là ngon; đứa thì
mang cơm. Bọn con trai thì có Thành, Phước, Trần văn Năm, La văn Năm ( lai Tây
đen, sau 75 đã định cư ở Pháp), Văn, Võ ( hai anh em sinh đôi)... cùng nhau lội
bộ vừa đi vừa về 14 cây số mỗi ngày để học tư. Chỗ chúng tôi học là nhà mà
thầy Tiển mướn để dạy chúng tôi. Lớp học đa số là đám chúng tôi từ Tăng Hòa, một
số ở xóm Chốn và Giồng Nâu...Ngôi nhà ở bên tay trái và bên này cầu Long Chiến
nếu đi từ hướng Thị xã, bên kia lộ từ lớp học nhìn ra là Bệnh viện cũ. Tôi
không biết thầy Tiển của chúng tôi có phải là anh của anh Phan văn Tiên vừa mới
mất không? Nếu là thầy thì bây giờ thầy ở đâu? Thầy khỏe không? Em vẫn nhớ ơn
thầy rất nhiều vì nếu không có thầy dạy thêm cho em khi chiến tranh xảy ra, thầy
đã khai thông đầu óc mù mịt của em lúc bấy giờ để em biết 9giờ kém 10 là mấy
giờ, để em làm được những bài văn hay với những kiến thức về văn bình giảng, thì
không biết cuộc đời em đã đi vào ngã rẻ nào rồi. Cám ơn thầy rất nhiều. Năm
học đó tôi thi đệ Thất với dề luận văn : Em hảy bình giảng câu “ Một con ngựa
đau cả tàu không ăn cỏ”. Vậy là trúng tủ rồi. Đề toán thì vòi nưóc chảy vô hồ
với lổ mọi rỉ ra. Tôi làm được tuốt luôn. Tôi đậu hạng 51. Cũng không tệ. Má
tôi vui mừng khôn xiết, khen tôi hết lời. Má nấu nồi chè tàu thưng để thưởng
tôi. Vị ngọt của đường, vị béo của nước cốt dừa, của đậu xanh, đậu phọng, phổ
tai và mùi thơm của lá dứa như vẩn còn đọng lại ở đầu lưỡi tôi mỗi khi nhớ
lại. Tôi nhìn má mà lòng xôn xao xúc động và thương má vô cùng. Trong ký ức
của tôi, lúc bấy giờ mỗi khi, tôi gặp khó khăn tôi mới thấy mất cha là một
điều mất mát lớn, nhất là mất cha khi tuổi đời còn quá nhỏ. Nhưng bù lại chúng
tôi đã có được một bà mẹ tuyệt vời,suốt cuộc đời thưong yêu và hy sinh cho con
cái. Má tôi muôn năm.
Phước Trung
|
mk
|
IP Logged |
|
Phanthuy
Senior Member
Tham gia ngày: 01/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 960
|
 Gởi ngày: 07/May/2013 lúc 11:33pm |
Bạn Nhân Kiệt mến,
Rất cám ơn bạn đã post bài: Đình Đồng Thạnh, di tích lịch sử cấp Quốc gia
PT đọc say mê và thấy rất hay vì đó là làng quê của PT. Từ nhà của PT đi tới cái đình đó chỉ chừng 200 mét. Đứng ở trước nhà nhìn qua bên mặt là thấy ngôi đình cổ kính và đồ sộ này. Nơi đó giữ biết bao là kỷ niệm thân yêu của PT thời ấu thơ với tất cả người thân trong gia đình.
Dạo ấy vào mỗi kỳ lễ cúng đình thì cả làng Đồng Sơn đều rộn rịp , và trong ngoài ngôi đình thì vô cùng tưng bừng đông vui. Thôi thì hầu như tất cả dân làng đều tề tựu ở đó , mỗi người mỗi việc , ai nấy tất tả , bận rộn, náo nhiệt làm sao. PT còn nhớ đám con nít cỡ tuổi PT đánh đeo bên ngoài để xem nấu nướng , bày cỗ, dâng lễ cúng với trống chiêng rộn ràng và thích thú coi các ông hương ông cả mặc áo đẹp thì thụp dứng lên ngồi xuống làm lễ... Tối đến thì đèn măng sông đốt sáng cả đình và tiếng kèn trống của gánh hát khua rầm rĩ vang động cả ngôi làng ngày thường vô cùng bình yên và vắng ngắt. Bây giờ ngôi đình ấy đã điêu tàn và gần như đỗ nát đâu còn gì bên trong và những hoa văn , điêu khắc độc đáo đã hư nát hết còn đâu... Đọc bài này xong tự dưng lòng hoài hương nổi lên dồn dập , nhớ quê quá xá. Lần nữa vô cùng cảm ơn bạn Nhân Kiệt. Day la hinh ngoi dinh` lang`Dong Son
Chỉnh sửa lại bởi Phanthuy - 21/May/2013 lúc 8:31pm
|
PhanThuy-CA
|
IP Logged |
|
hoangngochung
Senior Member
Tham gia ngày: 27/Nov/2010
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 513
|
 Gởi ngày: 25/Sep/2013 lúc 4:17am |
|
hung0989077120@ahoo.com
|
IP Logged |
|
hoangngochung
Senior Member
Tham gia ngày: 27/Nov/2010
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 513
|
 Gởi ngày: 25/Sep/2013 lúc 4:18am |
|
hung0989077120@ahoo.com
|
IP Logged |
|