Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 200 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23694
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 24/Feb/2015 lúc 2:52am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 25/Feb/2015 lúc 12:07pm

Làm Thinh


Cái làng nhỏ đó nằm gần biển Manche, cách thành phố Etretat (miền bắc nước Pháp) độ 10 km. Trong làng có chừng năm chục nóc gia nằm chùm nhum lại thành một khu, trừ một cái nhà nằm rời xa một mình về phía biển. Người trong làng gọi cái nhà đó là " nhà ông Lê ".
         Cách đây mấy năm, ông Lê -người Việt Nam độ 40 tuổi- từ Paris ra đây mua lại cái nhà đó để làm nhà nghỉ mát. Mùa hè và các ngày lễ lớn, ông đưa vợ con -vợ người Pháp và hai con trai chín mười tuổi- ra đây đổi gió và lâu lâu ông cho bạn bè mượn năm bảy hôm. Ông có mướn một người trong làng -tên Jean Marie- trông nom nhà cửa và cắt tỉa vườn tược cây trái.
         Mới đầu, người trong làng cứ tưởng ông Lê là người Tàu. Cho nên, họ hơi dè dặt. Chừng biết ổng là người Việt Nam, họ cởi mở hơn, thân thiện hơn. Làm như, đối với họ, người Tàu là người ngoại quốc xa lạ, còn người Việt Nam thì ít nhiều gì cũng đã từng được xem là người trong nhà ! Họ càng có cảm tình với ông Lê khi biết rằng ổng qua Pháp học từ hồi mười lăm tuổi, rằng ổng tốt nghiệp trường Arts et Métiers, rằng ổng làm chức lớn trong cơ quan Nhà Nước v.v... Họ hay nói với nhau: "Vợ chồng ông Lê thật dễ thương".
         Vùng này cao hơn mặt biển hai ba chục thước mà cuộc đất lại không lài lài xuống lần khi ra gần biển như ở những nơi khác, nên không có bãi. Ở đây, biển đâm thẳng vô bờ, loại bờ đá dựng thiên nhiên sừng sững như một bức tường cao thật cao. Những ngày biển động, sóng đập vào chân tường đá nghe ầm ầm. Vì nhà ông Lê nằm cách bờ đá dựng không xa, nên vào những ngày đó, từ trong nhà nghe âm vang tiếng sóng giống như những tiếng thở dài.
         Hè năm đó, ông Lê và gia đình ra đây nghỉ mát chỉ có ba tuần thay vì một tháng như thường lệ. Ông nói với ông Jean Marie -người quản gia- rằng phải trở về Paris để đón cha mẹ từ Việt Nam qua. Ông Jean Marie hỏi ông có định đưa ông bà cụ ra đây chơi không thì ông Lê trả lời rằng không, bởi vì ông bà cụ mới xuất ngoại lần đầu tiên nên phải đợi một thời gian cho quen với khí hậu phong thổ.
         Vậy mà chỉ mươi ngày sau, thấy ông Lê chở ra đây một ông già tóc trắng với hai va-ly hành trang. Người quản gia nghĩ: "Chắc định ở lâu nên mới mang hành trang nhiều như vậy ". Ông Lê giới thiệu: " Đây là cha tôi. Còn đây là Jean Marie, quản gia". Sau đó, ông nói: "Trong thời gian cha tôi ở đây, tôi xin nhờ bà Jean Marie lo dùm việc nấu nướng giặt giũ giống như những lúc gia đình tôi ra đây nghỉ mát. Có điều là cha tôi không thể đi chợ ở Etretat như chúng tôi vẫn làm lâu nay, nên tôi nhờ ông bà lo giùm luôn vụ này. Đổi lại, tôi sẽ tăng tiền thù lao của hai ông bà lên mười phần trăm. Tôi xin ông bà chấp nhận cho".
         Sau khi gọi điện thoại về nhà bàn tính với vợ, ông Jean Marie bằng lòng. Tiếp theo đó, ông Lê trao cho ông Jean Marie một số tiền và nói: "Đây, tôi gởi ông bà một tháng tiền chợ. Tôi dự trù dư dả phòng khi cha tôi cần mua những gì khác, nhưng nếu thấy thiếu thì điện thoại cho tôi hay để tôi gởi ra thêm. Mỗi cuối tháng, tôi sẽ gởi tiền để gối đầu cho tháng kế tiếp, ông bà yên tâm". Ông Jean Marie hỏi: "Còn bà cụ đâu ? Sao không cùng ra đây với ông cụ ?". Ông Lê trả lời như không trả lời: "Mẹ tôi ở Paris". Rồi sau khi nói mấy lời cám ơn ông Jean Marie, ông bắt tay từ giả người quản gia và ông già tóc trắng để trở về Paris, vội vã như không muốn vấn vương gì nữa ! Thấy ông Lê đối xử với ông già tóc bạc như là một người quen thường, ông Jean Marie vừa ngạc nhiên vừa bất nhẫn, bởi vì ông nhận thấy rõ ràng ông già tóc bạc đó và ông Lê thật sự giống nhau như hai cha con.
         Ông già ở trong nhà ông Lê như một cái bóng. Ông không xem tê-lê, không nghe ra-đi-ô. Ông cứ ngồi ở xa long hút thuốc liên miên, mắt nhìn thẳng ra cửa kiếng hướng về phía biển, giống như đang coi một cái gì ở ngoài đó. Ở ngoài đó không có  gì hết ! Không có một cái cây, không có một lùm bụi. Cỏ dại cũng không mọc cao. Mặt đất trống trơn chạy thẳng ra bờ đá dựng. Từ chỗ ông ngồi, nhìn ra chỉ thấy đất và trời. Lâu lâu, vài con hải âu bay phớt ngang, và lâu lâu trên nền trời trong xanh của mùa hè, một sợi mây đi lạc. Chỉ có bao nhiêu đó, vậy mà ông cứ ngồi nhìn, nhìn đăm đăm.
         Mới đầu, ông bà Jean Marie cứ tưởng rằng ông già không biết nói tiếng Pháp. Nhưng sau mấy lần hỏi han thấy ông trả lời trôi chảy mạch lạc, ông bà mới yên tâm. Có điều là hỏi thì ông mới trả lời chớ không thấy bao giờ tự ông gợi chuyện. Suốt ngày, ông làm thinh. Cần dùng gì thì ông viết ít chữ rồi gắn trên mặt tủ lạnh. Ông bà Jean Marie thấy vậy cũng ráng giữ ý không làm tiếng động khi quét dọn hay đi ra đi vào. Nhiều khi, họ có cảm tưởng như trong nhà không có ai hết ! Chỉ có mùi khói thuốc là nhắc đến sự hiện diện của ông già.
         Ông già đó tên Lê Tư. Hồi thời trước -cái thời mà miền nam Việt Nam chưa biết mùi cộng sản- ông Tư là một nhà thầu xây cất rất có bề thế ở Sàigòn. Ông giao du rộng, lại "biết cách giao du", thêm giỏi tính toán sắp xếp nên ông trúng thầu nhiều công trình lớn của Nhà Nuớc và của các công ty ngoại quốc. Do đó, càng ngày ông càng nổi tiếng và sự nghiệp thì cứ nhân lên gấp năm gấp mười. Dù vậy, ông không bao giờ chối bỏ cái gốc hàn vi của ông và rất tự hào đã bắt đầu bằng hai bàn tay trắng.
         Ông thường nói: "Hồi tôi từ Đà Nẳng vô Sàigòn, tôi chỉ có một chiếc xe đạp cũ và cái nghề thợ hồ. Ban ngày đạp xe đi làm, ban đêm đạp xe đi học thêm ở Trung Tâm Văn Hoá Pháp và hội Việt Mỹ. Hồi thời đó, quanh năm suốt tháng, tôi chỉ biết có thắt lưng buộc bụng, ăn uống kham khổ, để dành tiền gởi về cho cha mẹ ở Đà Nẳng và để đóng các học phí. Vậy mà tôi vẫn không ngã lòng. Lúc nào trong đầu tôi cũng nghĩ rằng phải cố gắng vương lên, bởi vì không ai giúp mình bằng mình hết. Nhờ vậy mà bảy tám năm sau, tôi đã có một cơ sở vững chắc để cạnh tranh với các nhà thầu khác. Rồi thì xây cất hết công trình này đến công trình khác, có khi hai ba công trình cùng một lúc, cơ sở cứ lớn lần lớn lần để trở thành bề thế như ngày hôm nay. Nghe tôi nói tôi bắt đầu sự nghiệp bằng con số không chẳng có mấy ai tin hết ".
         Khi đã khá giả, ông mới cưới vợ. Ông hay nói đùa : "Tình phải có tiền đi theo nó mới vững. Giống như bê-tông phải có cốt sắt nó mới bền !".
         Ông bà Lê Tư chỉ sanh có một người con trai đặt tên Lê Tuấn. Năm Tuấn được mười lăm tuổi, ông gởi con qua Pháp học. Ông muốn nó học ngành kiều lộ để sau này trở về nối nghiệp ông. Ông nói : "Việt Nam mình cạnh tranh không nổi với hãng thầu ngoại quốc bởi vì mình có binh mà thiếu tướng". Và ông hy vọng trong tương lai, con ông sẽ thực hiện những công trình vĩ đại, vượt trội hẳn những gì ông đã làm. Để cho ông được nở mặt.
         Cái tương lai đó bỗng tắt ngúm chỉ trong một thời gian ngắn sau ngày 30 tháng tư, 1975.
         Trước cái ngày đen tối đó, một người như ông Lê Tư dư sức để di tản dễ dàng. Vậy mà không thấy ông nhúc nhích. Ông cứ điềm nhiên hút thuốc, uống trà, xem truyền hình, nghe ra-đi-ô. Giống như một kẻ bàng quan. Bà Lê Tư thì cứ đi ra đi vô, hết gọi điện thoại cho bà bạn này đến gọi cho bà bạn khác. Rồi thúc giục ông đi di tản. Bà nói :
         - Trời ơi ! Mấy bả đi hết rồi kìa !
         Ông cười :
         - Thì ai sợ cứ đi. Bà yên tâm. Tôi bảo đảm không có sao hết. Nói thiệt với bà, "họ" đã liên lạc với tôi cách đây hơn tháng, nói rõ rằng họ cần dùng những người như tôi để xây dựng lại đất nước. Cho nên, bà thấy tôi không ? Tôi bình chân như vại !
         Điều mà ông không nói cho bà biết là từ bao lâu nay, ông vẫn đều đặn gởi tiền giúp cách mạng qua ngả thằng cháu -cũng gốc liên khu năm như ông- đang hoạt động ở mấy tỉnh miền Đông. Chính người cháu đó đã cho người về gặp ông để giải thích rõ ràng chủ trương đường lối của cách mạng. Nhờ vậy, ông mới vững tâm tin tưởng.
         Đâu dè, sau khi cách mạng "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", cách mạng quay về đánh tư sản. Ông Lê Tư cũng "bị" mời đi "làm việc" như mọi người. Ông có xuất trình giấy chứng minh của Liên khu bảy, là vùng ông đã giúp đỡ, nhưng "lá bùa" đó không linh ! Ông cũng nghĩ đến thằng cháu cách mạng, nhưng bây giờ ông không biết nó ở đâu để gọi nó đến làm chứng. Vì vậy, ông vẫn bị mời tới mời lui để  "làm việc". Mỗi lần làm việc, họ quay ông như con dế ! Đến nỗi về sau, mệt mỏi quá, chán chường quá, thấy nói gì cũng vô ích, nên ông bèn làm thinh, mặc cho họ muốn nói gì thì nói, hỏi gì thì hỏi. Rồi đến lần "làm việc" cuối cùng, ông cũng làm thinh ký tên trên xấp giấy tờ họ đưa ra, ông ký mà không thèm đọc qua một chữ ! Lần đó, ông bước ra khỏi cơ quan, có cảm tưởng như đang sống trong một thế giới khác, một thế giới lộn ngược ! Ông không còn khái niệm không gian thời gian. Ông chỉ biết rằng sau cái phút ký tên đó, ông trắng tay. Và ông còn nghe trong đầu câu nói ơn nghĩa "nhờ ông đã sớm giác ngộ cách mạng nên không phải đi cải tạo". Ông lái xe về nhà như một người máy. Ông đâu biết rằng trong cuộc "đổi đời vĩ đại" này, con người đâu còn sống bằng lý trí : con người chỉ sống bằng bản năng thôi !
         Về đến trước cổng nhà, bỗng nhiên ông Lê Tư nhận thức rằng tất cả những gì trực thuộc về ông  bây giờ chỉ còn lại người vợ đang đợi ông ở nhà.
         Xưa nay, mọi việc trong gia đình đều do ông quyết định. Bà Lê Tư luôn luôn làm theo ý của ông, không bao giờ thắc mắc. Bởi vì bà hoàn toàn tin tưởng vào người chồng mà lúc nào bà cũng cảm phục như một thần tượng. Bà nói : "Từ bàn tay trắng dựng nên sự nghiệp đồ sộ như vầy, không phải ai làm cũng được !". Và bà thường ví chồng bà như một cây cau vững chắc để bà bám vào đó như một giây trầu. Vậy mà bây giờ bây giờ Ông Lê Tư không biết ví mình như cái gì nữa. Cách mạng mà ông đã giúp từ ngày ông dựng nghiệp, hôm nay nhân danh gì gì đó, đã biến ông thành con số không. Dễ dàng như người ta cầm nùi giẻ bôi hết những hàng chữ phấn trên một bảng đen, bôi mà không cần biết những hàng chữ đó viết những gì ! Chỉ trong có một khoảnh khắc, ông chẳng còn gì hết và bản thân ông cũng không là gì hết ! Ông đã trở thành một "thứ gì" đó không có tên, một sản phẩm của cách mạng mà sách vở xưa nay chưa thấy có định nghĩa !
         Ông bước vào nhà mà cảm thấy mình lêu bêu như bọt nước, không làm chủ được gì hết, kể cả làm chủ chính bản thân mình ! Cái biệt thự có hồ tắm vườn hoa, có năm ngăn bảy nắp, mà ngày xưa ông đã xây cất cho tương xứng với địa vị xã hội của ông bây giờ bỗng trở nên ngạo nghễ, vô duyên.
         Nhà vắng teo. Một số gia nhân đã xin nghỉ việc từ những ngày sôi động, số còn lại đã được cho nghỉ ngay sau ngày 30 tháng tư. Bà Lê Tư chắc đang làm gì ở dải nhà sau nên ông không nghe tiếng động. Ông đốt điếu thuốc rồi ngồi xuống phô-tơi nhìn thẳng ra vườn. Ông nhìn mà không thấy gì hết ! Yên lặng.
         Tiếng bà Lê Tư làm ông giựt mình :
         - Sao ông ? Họ đòi gì nữa vậy ?
         - Họ đâu có đòi. Họ lấy.
         - Lấy gì ?
         - Lấy hết tài sản của mình.
         Giọng bà bỗng cao lên một nấc :
         - Lấy hết tài sản ?
         Ông nhìn bà rồi trả lời bằng cái gật đầu. Giọng của bà lại cao thêm một nấc :
         - Gì lạ vậy ? Tự nhiên rồi đòi lấy tài sản của người ta. Đó là ăn cướp chớ đâu phải lấy ! Rồi ông trả lời làm sao ?
         Ông thở mấy hơi thuốc, rồi mới nói :
         - Thì tôi giao hết lại cho họ chớ còn làm sao ?
         Bà chỉ kêu được một tiếng "Trời !" rồi ngồi phịch xuống ghế, mắt nhìn thẳng ra vườn. Bà nhìn mà cũng không thấy gì hết ! Yên lặng. Một lúc sau, ông nói, giọng thật trầm tĩnh :
         - Bà nghĩ coi. Bây giờ họ là kẻ chiến thắng. Quyền sanh sát nằm hết trong tay, họ muốn nói gì làm gì mà không được.
         - Còn luật pháp để đâu ?
         - Luật pháp của ai ?
         Bà làm thinh. Một lúc sau, bà nói :
         - Hôm trước ông nói họ đã móc nối với ông để ông ở lại giúp họ xây dựng gì gì đó. Sao bây giờ họ lột hết của ông vậy ?
         Ông làm thinh. Khói thuốc trong miệng bỗng trở nên thật đắng. Ông nghe thèm một hớp trà hay một hớp nước lạnh, hay bất cứ một chất lỏng nào cũng được để ông nuốt xuống "cái gì đó" đang nghẹn ngang ở cổ. Ông dụi điếu thuốc rồi đi lại bar ở góc xa-long rót một ly nhỏ Porto uống ực một cái, giống như người ta bị mắc xương. Xong ông trở lại phô-tơi ngồi xuống, đốt điếu thuốc. Chất rượu đang nồng trên mũi, nhưng sao khói thuốc vẫn còn nghe thật đắng !
         Giọng bà Lê Tư có vẻ trách móc :
         - Chớ phải ông nghe lời tôi đi di tản như thiên hạ thì đâu có sao.
         - Đi di tản cũng mất hết chớ hơn gì.
         - Sao mất hết được ? Ông quen lớn nhiều mà không hốt được một mớ đem đi theo à ? Có nhiều người còn gởi được bàn ghế và vô số đồ cổ nữa. Như anh X., như anh T., như ông tướng Z toàn là bạn thân của ông không.
         Ông làm thinh. Bà vẫn nói, càng nói giọng càng gay gắt :
         - Thà rằng mình đi, cái gì không đem theo được là mình bỏ. Tụi nó có lấy, cũng là lấy những gì mình bỏ. Chớ còn bây giờ, tụi nó bóp họng ông để lấy, bộ ông không thấy tức sao ?
         Ông làm thinh. Ngừng một lúc như để suy nghĩ, rồi bà nói một câu giống như bà đóng sập cánh cửa sắt để nhốt ông trong một nhà tù :
         - Chẳng bằng ông muốn ở lại để giúp cách mạng chớ gì ? Phải không ?
         Ông nuốt nước miếng mấy lần, rồi tiếp tục làm thinh. Bây giờ, ông thật sự thấy mình như bọt nước trôi lêu bêu, không bám được vào đâu hết?
         Chiều bữa đó, cách mạng đưa đến mười mấy thanh niên trai gái và một toán bảo vệ cầm súng để làm công tác kiểm kê. Họ bắt mở hết các hộc, các kệ, các tủ để họ đem ra đếm từng món, không bỏ sót một nơi nào hết, một món nào hết. Đêm, họ ngủ lại trong nhà ông Lê Tư để sáng sớm hôm sau họ tiếp tục. Xong công tác kiểm kê, người cán bộ chỉ huy chỉ định một nhóm bốn người ở lại để canh giữ những gì đã kiểm kê, sợ ông bà Lê Tư ăn cắp mang đi ! Gã còn nói như ra lịnh :
         - Từ hôm nay trở đi, anh chị phải dọn ra nhà sau để ở, không được bước lên đây nữa. Anh chị cũng không được quyền sử dụng chiếc ô-tô bây giờ thuộc diện quản lý của Nhà Nước. Khi ra vào nhà, anh chị phải dùng cái cổng hậu, không được đi bằng cổng chánh. Rõ chớ ?
         Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư cũng làm thinh. Nhưng hai sự làm thinh đó không cùng một ý nghĩa : ông làm thinh vì biết rằng có nói gì cũng vô ích còn bà làm thinh là vì bà hận ông vô cùng !
         Từ ngày dọn xuống ở trong một nhà phụ -có ba dải nhà phụ trước đây dùng cho gia nhân- và từ ngày biết rằng văn phòng, các kho vật liệu, kho dụng cụ cơ giới, biệt thự ở Núi Lớn Vũng Tàu, các chương mục ở ngân hàng?v.v. đã hoàn toàn nằm trong tay Nhà Nước, bà Lê Tư ít nói chuyện với ông. Nhưng hầu như ngày nào bà cũng ngồi nói một mình, nói trổng, cố tình nói lớn tiếng để cho ông "phải" nghe. Bà cứ lải nhải với giọng trách móc chanh chua, hết chuyện tin lời cách mạng, đến chuyện mất hết của cải, rồi bắt qua chuyện di tản, chuyện ở "chui rút" trong nhà của bếp của bồi. Còn ông thì cứ làm thinh ngồi nghe, nghe riết mà tóc của ông càng ngày càng bạc trắng !
         Thời gian đi qua. Một hôm bà bỗng nói với ông :
         - Tôi đã nhờ người quen trong toà đại sứ liên lạc được với thằng Tuấn ở Paris. Nó sẽ lo giấy tờ cho mình qua bển.
         Bây giờ, mọi sự đều do bà quyết định, ông chỉ làm thinh đi theo. Bây giờ, người chồng "thần tượng" của thời trước chỉ còn là một cái bóng ! Bây giờ, bà mới là thân cây cau, còn ông, ông chỉ là một thứ giây trầu... Đúng là một sự "đổi đời vĩ đại" !
         Ít lâu sau, chính bà đã chạy chọt đút lót để có xuất cảnh cho hai vợ chồng bay qua Paris, vào giữa mùa hè năm đó.
         ?Ông Lê, người con trai của ông bà Lê Tư, đến đoón ông bà ở phi trường Charles De Gaulle. Gặp lại nhau, mừng mừng tủi tủi. Ông Lê Tư có cảm tưởng như mình vừa sống lại. Ông ôm con siết mạnh, rồi buông ra để nhìn. Lòng tràn sung sướng, ông vừa cung tay đấm nhẹ lên vai con, vừa chửi đổng : "Cha mày !". Rồi tiếp : "Ba tưởng không còn gặp lại con nữa chớ !" Trong một khoảnh khắc, ông tìm lại được lời nói và cử chỉ của một con người bình thường, con người của thời trước tháng tư 1975.
         Trên đường về nhà, ông Lê vừa lái xe vừa hỏi về những chuyện đã xảy ra ở Việt Nam trong những ngày sôi động của tháng tư, nhứt là ở đoạn "mấy thằng Mỹ kéo nhau chạy sút quần". Nghe lời nói và giọng điệu của con, ông Lê Tư cảm thấy có "cái gì không ổn", nhưng ông nghĩ : "Có lẽ tại nó ở bên nây lâu quá nên nó nói tiếng Việt không biết chọn lời". Rồi ông kể lại những gì mắt thấy tai nghe. Người con lâu lâu khoái chí, vỗ tay lên tay lái, gục gặc đầu "cho tụi nó chết".
         Bổng người con hỏi :
         - Còn mấy thằng tướng nguỵ ?
         Câu hỏi đó như ánh sáng bật lên trong bóng tối để ông nhìn thấy rõ sự thật: không phải con ông không nói rành tiếng Việt mà là con ông nghiêng về phía bên kia, cái phía đã lật lọng, ăn cháo đá bát, cái phía đã lấy hết tài sản của ông một cách ngang nhiên trắng trợn ! Trời đất chung quanh bỗng như sụp xuống ! Tuy nhiên ông vẫn trả lời:
         - Mấy người đó thì ba không biết.
         - Tụi nó chạy ra đảo Guam hết. Thằng chủ chạy thì thằng tớ phải chạy theo chớ dám ở lại đâu. Tưởng ba biết gì kể lại nghe chơi chớ ở bên nây báo chí tê-lê nói đầy đủ. Trên tê-lê thấy nhiều thằng tướng ngơ ngác như bầy gà nuốt giây thun !
         Người con nói xong cười lên khoái trá. Ông Lê Tư nghe giận phừng lên mặt ! Ông đưa tay định xáng cho thằng con một cái, nhưng ông kềm lại kịp. Ông bỏ tay xuống mà nghe ngực mình tức ran. Tự nhiên, ông ứa nước mắt. Từ phút đó, ông làm thinh. Thấy như vậy, tưởng cha bị mệt vì cuộc hành trình quá dài nên ông Lê cũng không hỏi tiếp.
         Bà Lê Tư ngồi ở băng sau, không chen vô một lời. Bà cảm thấy rồi đây sẽ không thể nào ở chung với một thằng con như vậy được. Bà đã tưởng đi ra khỏi xứ để khỏi phải thấy hằng ngày những chuyện trái tai gai mắt, nào ngờ qua đây gặp thằng con không biết học ở đâu mà ăn nói giống "tụi nó" y chang ! Nhưng không sao. Rồi bà sẽ mua nhà ở riêng. Bà dư sức. Với số hột xoàn mà bà đã cất giấu sau 1975 và bây giờ đang nằm an toàn trong cái giỏ mây hai đáy bà ôm trong lòng, bà dư sức. Cho dù bà phải cưu mang suốt phần đời còn lại ông chồng mà bà đã không còn  coi là thần tượng nữa, từ lâu.
         Về đến nhà -ở Neuilly Sur Seine, khu nhà giàu- ông Lê giới thiệu vợ con rồi đưa cha mẹ lên phòng trên lầu, nói :
         - Ba má nghỉ một chút rồi xuống ăn trưa.
         Bữa ăn được dọn lên từng món theo phong cách tây phương. Vợ ông Lê hỏi han lễ độ và kín đáo chăm sóc ông bà Lê Tư. Hai thằng con ông Lê -giống mẹ hơn giống cha nên ít thấy lai Việt- không biết một tiếng Việt. Chúng ăn nhanh nhanh. Xong món thứ nhì, chúng không đợi món kế tiếp, vội vã rút lên phòng. Suốt bữa ăn, câu chuyện chỉ vây quanh mấy món ăn nấu theo tây, bởi vì ông Lê khoe có bà bếp giỏi. Bà bếp, người Pháp, có bước ra chào ông bà Lê Tư.
         Nhờ vậy, không khí trong bữa ăn không đến nỗi nào tẻ lạnh.
         Sau bữa ăn, vợ ông Lê vì tế nhị, muốn để cho chồng và cha mẹ nói chuyện riêng với nhau, nên xin phép lên lầu. Bà dặn chồng :
         - Anh không nên nói chuyện nhiều. Ba má chắc cần phải ngủ vì sai giờ giấc. Mình còn nhiều thì giờ mà.
         Khi bước qua xa long để uống cà phê, ông Lê hỏi :
         - Ba má định qua đây ở chơi bao lâu ?
         Ông Lê Tư châu mày, nhìn bà. Bà trả lời :
         - Ba má định qua ở luôn chớ đâu phải ở chơi.
         Người con ngạc nhiên :
         - Ủa ? Sao lại ở luôn ? Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng nào ngồi trên đầu trên cổ mình hết. Tất cả đều thuộc về mình, không còn sợ thằng ác ôn nào cướp giựt nữa. Như vậy mà ba má định bỏ xứ qua đây ở luôn. Thiệt là vô lý !
         Hồi nãy, trên xe về đây, ông Lê Tư còn nghĩ rằng thằng con ông chỉ nghiêng về phía bên kia. Bây giờ thì quá rõ ràng : nó đã đứng hẳn về phía bên đó. Ông nghe lòng quặn thắt : chẳng những cách mạng đã cướp hết tài sản của ông, mà tụi nó còn cướp luôn thằng con duy nhứt của ông, cướp từ hồi nào rồi.
         Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư hơi mất bình tĩnh :
         - Tại con không biết. Tụi nó lấy hết tài sản của ba má rồi còn đuổi xuống ở căn nhà của bồi, rồi lại bắt không được đi cổng chánh phải đi cổng hậu. Bây giờ tụi nó sợ mình không chấp hành chỉ thị nên kéo kẽm gai cô lập căn nhà ba má ở. Con nghĩ coi sống làm sao ?
         - Buổi đầu lúc nào chẳng có chuyện sai sót. Rồi cách mạng sẽ trả lại hết cho ba má, yên tâm đi ! Điều mà con muốn nói là chưa chi mà ba má đã muốn bỏ xứ ra đi giống như bè lũ đĩ điếm trộm cắp tháo chạy mấy ngày trước giải phóng làm con thấy không hãnh diện chút nào hết !
         Câu nói chưa dứt, ông Lê Tư đã đứng phắt dậy, làm thinh đi thẳng lên lầu. Bà Lê Tư cũng nối gót, nhưng bước chân bà nặng chình chịch. Đứa con máu mủ mà bà mới ôm hun thắm thiết hồi nãy trên phi trường, bây giờ bỗng giống như người xa lạ. Bà cảm thấy hụt hẫng đến độ bà không biết phải làm gì, nói gì. Đến giữa cầu thang, kềm không được, bà ôm mặt khóc tức tưởi.
         Suốt buổi chiều, ông Lê Tư ngồi trong phòng làm thinh hút thuốc. Ông không nghe buồn ngủ, ông chỉ nghe mệt - thật mệt - và chán chường - thật chán chường. Ông bắt gặp lại tâm trạng của ông vào những ngày cuối cùng của thời ông bị cách mạng quay hằng bữa để ông kê khai tài sản một cách "đầy đủ và trung thực" !
         Bà Lê Tư cũng không ngủ. Bà điện thoại để liên lạc mấy bà bạn đã định cư ở Pháp, nhứt là ở vùng phụ cận Paris. Rồi bà hẹn hò. Sung sướng như thấy chân trời đang mở rộng.
         Sau bữa ăn tối, đợi bà Lê và hai con lên lầu, bà Lê Tư nói :
         - Chị bác sĩ A sáng mai lại rước má về nhà chỉ chơi vài bữa. Sau đó, có lẽ sẽ qua nhà bà dược sĩ L. Ở đây, má có nhiều bạn bè lắm, con đừng lo cho má. Con chỉ cần lo cho ba thôi.
         Ông Lê Tư nhìn thẳng mặt con, giọng nghiêm trang :
         - Ba nói thật : ba với con không hạp nhau. Ba không thể ở chung với con được. Ba xin con cho ba ở một nơi nào khác, ở một mình cũng không sao.
         Ông nói "xin con cho ba", đó là sự thật. Bởi vì bây giờ ông hoàn toàn trắng tay. Xưa nay, tiền dư ra, ông cho bà một phần để mua hột xoàn, còn bao nhiêu ông chuyển hết qua chương mục của người con.
         Ông Lê ngồi làm thinh, không biết ông đang nghĩ gì. Cũng là làm thinh, nhưng sự làm thinh của ông khó hiểu hơn sự làm thinh của ông bà Lê Tư !
         Vậy rồi sáng hôm sau, bà bác sĩ A lái xe lại rước bà Lê Tư. Tiếp theo là ông Lê chở người cha ra ở cái nhà nghỉ mát ở gần bờ đá dựng. Suốt cuộc hành trình dài mấy tiếng đồng hồ, hai cha con không nói với nhau một lời !
         Từ ngày ra đây ở, ông Lê Tư cảm thấy cuộc đời mình như đang đi vào một ngõ bí. Không sống được với cách mạng, đã đành. Còn lại bà vợ thì bây giờ bả coi mình như cục bứu trên lưng. Rồi đến thằng con, đối với mình, nó còn lạ hơn người xa lạ ! Cứ nghĩ quẩn nghĩ quanh như vậy hết ngày này qua ngày khác mà con người ông sa sút thấy rõ. Bây giờ, ông ốm nhom. Đi đứng đã phải chống ba-toon và đêm đêm cứ phải nằm trằng trọc tới khuya lơ mới dỗ được giấc ngủ. Thấy tội nghiệp, ông bà Jean Marie hay thừa dịp đưa nước trà hay cà phê để ngồi lại gợi chuyện vẩn vơ. Họ cũng ngạc nhiên tự hỏi sao không thấy ai gọi điện thoại hỏi thăm ông già này hết. Làm như ông không có mặt trong cuộc đời này. Cho nên họ tận tình chăm sóc ông từng chút. Đến nỗi, về đêm, bà Jean Marie thường đợi ông lên giường nằm đàng hoàng mới tắt đèn đóng cửa đi về nhà ! Ông Lê Tư rất cảm kích nên lâu lâu ông phá lệ làm thinh để nói hai tiếng "cám ơn", nhẹ như hơi thở.
         Một hôm, ông Lê Tư bỗng thèm nhìn mặt biển, cái biển mà từ hôm ra đây -đã gần hai tháng- ông chỉ nghe tiếng của nó rì rào ngoài kia thôi. Ông bèn chống ba-toon bước từng bước run run đi lần ra hướng đó. Cứ đi vài bước là ông phải dừng lại một lúc để thở, nhưng ông vẫn cố bước đi.
         Bây giờ thì ông đã đứng trên mép bờ đá dựng. Dưới chân ông, rất sâu phía dưới, là biển. Biển xanh dờn, kéo dài ra chân trời. Trời nước mênh mông. Gió muối và mùi thơm thơm của rong rêu nhắc ông nhớ cái biệt thự ở mỏm núi lớn Vũng Tàu. Ông đã xây cất biệt thự đó để làm nơi tiếp tân nên có một sân gạch thật rộng hướng về phía biển. Ông hay đứng ở đó nhìn chân trời như ông đang đứng nhìn chân trời bây giờ. Cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang. Hồi đó, lúc nào ông cũng thấy chân trời đang mở rộng cho ông, cái hồi mà ông làm chuyện gì cũng thành đạt. Bây giờ, cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang nhưng sao ông không thấy nó mở rộng cho ông một chút nào hết ! Ông chỉ thấy toàn là bế tắt. Chân trời là đường chấm dứt một cái gì : trời cao nghiêng xuống đến đó là hết, biển rộng vươn dài đến đó cũng là hết ! Giống như cuộc đời của ông bây giờ. Của cải: hết ! Vợ con: hết ! Sức khoẻ của ông rồi cũng sẽ hết ! Hết ! Hết !
         Bỗng, ông Lê Tư liệng mạnh cây ba-toon xuống biển, giống như ông dứt khoát không cần dùng đến nó nữa. Rồi ông hít một hơi dài, nhắm mắt bước thẳng vào khoảng không trước mặt, giống như bước qua một lằn ranh tưởng tượng.
         Từ bây giờ, ông Lê Tư làm thinh vĩnh viễn.
         Chiều hôm đó, ông Jean Marie gọi điện thoại về Paris. Không có người bắt máy, nhưng có máy nhắn tin nên ông nhắn : "A lô ! Tôi là Jean Marie. Tôi xin báo tin buồn : ông cụ đã từ trần. Ông đi dạo gần tường đá dựng chẳng may rơi xuống biển. Nhà chức trách đã vớt được xác đem về nhà xác bịnh viện Etretat. Yêu cầu ông bà ra gấp. Vợ chồng tôi xin chia buồn. Thành thật chia buồn".

Tiểu Tử
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 26/Feb/2015 lúc 11:42am

Người Bỏ Báo 


Đồng hồ báo thức lúc ba giờ sáng, Phong tốc mền rời khỏi giường, tập vài động tác thể thao cho tỉnh táo rồi vào toa-lét làm vệ sinh. Xong phần thủ tục sơ sài buổi sáng, Phong khoác chiếc áo lạnh vội vàng lên xe chạy một mạch đến nhà kho nhận báo đi bỏ cho khách hàng.

Trời California được tiếng là ấm áp, nhưng cái rét của mùa Giáng sinh cũng đủ làm tê cóng cả tay chân. Phong mới qua Mỹ chưa đầy một năm, dành dụm tiền trợ cấp mua được chiếc xe Ford Mustang đời 80, chạy bốc, cứng cáp nhưng khổ nỗi, xe tám máy uống xăng thần sầu.

Phong vào lớp ESL ban ngày, ghi tên học thêm ban đêm lớp Anh ngữ đàm thoại chờ đủ một năm chàng sẽ xin vào Đại Học Cộng Đồng. Tiền trợ cấp vừa hết, là được hãng báo San Jose Mercury News gọi đến nhận một route báo 200 tờ bỏ buổi sáng mà Phong đã ghi tên xin việc từ tuần trước. Vùng thung lũng điện tử này gặp thời điểm kinh tế Hoa kỳ đang hồi trì trệ, việc làm ***embly chỉ ưu tiên cho người có kinh nghiệm. Riêng nghề bỏ báo chẳng cần kinh nghiệm, chẳng cần huấn nghệ. Một vài lần lái xe quan sát địa chỉ khách hàng trong danh sách là thực hiện được ngay. Nghề bỏ báo thuê lại có thời gian thuậân lợi để cắp sách đến trường.

Phong được route báo sớm sủa cũng nhờ ông thầy cũ qua Mỹ đã mười hai năm, mà thâm niên nghề bỏ báo đến mười một năm. Ông quen thân hầu hết các ông quản lý nhà kho chứa báo. Hàng năm, vào ngày lễ Giáng sinh, ông chở một xe quà tặng cho tất cả “ giới chức” trong văn phòng. Người hộp bánh, kẻ chai rượu kèm theo thiệp chúc Giáng sinh và Năm Mới rất trịnh trọng. Nhờ cái cảm tình đặc biệt đó mà vợ chồng ông có route báo sát nhà gần bốn trăm tờ buổi sáng.

 Ông có lối so sánh rất thực tế: “Muốn tập thể dục tại các club phải mua thẻ hội viên và trả tiền hàng tháng. Nghề bỏ báo có khác gì chạy bộ thể dục mỗi buổi sáng đâu, lại được người ta trả tiền. Tôi chạy bộ đã mười một năm nay chẳng hề lo áp huyết cao, áp huyết thấp. Bà xã của tôi trông còm cõi như thế mà khỏe đáo để, cũng chỉ vì bả dành phần chạy bộ nhiều hơn tôi”. Ông thầy cũ của Phong trở thành “Cai thầu bất đắc dĩ”. Route báo nào carrier bỏ ngang xương, route nào bị đuổi việc đều được quản lý thông báo cho ông. Nhờ vậy mà các gia đình Việt Nam mới đến định cư được mau chóng gia nhập vào lực lượng bỏ báo càng ngày càng đông đảo.

Phong tấp xe vào bãi đậu xe, nhanh chân vào phòng đẩy chiếc xe cart đến xếp hàng. Carrier gồm nhiều sắc dân, đủ loại tuổi tác. Riêng người Mễ Tây Cơ và Việt Nam chiếm đa số. Nhận báo xong, Phong đẩy xe đến khu xếp báo, nơi đặt nhiều dãy bàn.

Hôm nay thời tiết lạnh nhưng khô ráo nên không cần bỏ báo vào túi nylon. Những dãy bàn cách nhau khá rộng đủ cho hai chiếc xe đẩy. Người đứng bên kia, kẻ đứng bên này, tay làm, miệng trò chuyện với nhau đủ các loại đề tài, đủ các loại ngôn ngữ. Ở Việt Nam, mấy ông phó hù (thợ hớt tóc) là nổi tiếng biết nhiều chuyện. Ngồi hớt tóc mà nghe ông kể chuyện từ đông sang tây như ông đã từng đi chu du khắp đó đây. Bây giờ ở Mỹ mấy ông bỏ báo có thua gì ông phó cạo đâu. Ông nào cũng thông thái cả. Gặp đợt bầu cử, kẻ bênh đảng Dân Chủ, người bênh Cộng Hòa cãi chí chóe rồi sừng sộ, ném báo vào nhau.

Đứng đối diện với Phong là một ông người Mễ lớn tuổi cùng cô vợ rất trẻ, có lẽ bằng nửa tuổi ông ta. Nghe đâu ông về Mexico cưới cô nàng. Nghề nghịêp chính của ông là làm công nhân xây dựng, route báo là phần phụ trội kiếm cho vợ. Ông cố gắng huấn luyện cho vợ thành thạo cái “nghề” bỏ báo này, dần dần cô sẽ thay ông đảm trách một mình. Ông chỉ giúp nàng vào ngày cuối tuần. Nhà cửa có sẵn, nàng chỉ phụ thêm tiền trả nợ ngân hàng.

Bà vợ trước bỗng dưng bỏ đi để ông sống cô đơn trong căn nhà ba phòng, phải cày hai job mới đủ trả nợ. Giờ thì lão khôn ra. Căn nhà, cho người ta thuê lại hai phòng nên nhẹ gánh tiền bill hàng tháng. Rút kinh nghiệm, lần nầy lão về nước tìm cô vợ tận vùng quê nơi mà phụ nữ có cuộc sống đơn giản chẳng có mơ ước cao xa. Ông tâm sự: Người đàn bà Mễ mà có gốc gác chắc chắn ở cái xứ tự do này, họ trở chứng như ngựa không cương.

Trước đây, lão loay hoay xếp báo một mình, giờ có hai người nên lão có vẻ thảnh thơi. Chồng lái xe, vợ mang báo bỏ tận hiên nhà cho khách hàng rất thuận lợi. Nay thì đã quen việc, nàng cũng không thua gì chồng về kỹ thuật quăng báo qua cửa xe.

Dãy bàn phía bên kia, một thanh niên Mễ cao ráo vừa xếp báo vừa huýt sáo theo điệu nhạc đồng quê, chốc chốc liếc mắt nhìn trộm cô vợ trẻ đứng bên ông chồng già. Mái tóc nâu hớt cao rất hợp với màu da trắng hồng, lại thêm hàng ria mép duyên dáng, đôi lông mày dài đen kịt làm tăng thêm vẻ khỏe mạnh, hào hoa của người nghệ sĩ.

Buổi liên hoan mừng Chúa Giáng Sinh vừa qua do hãng báo tổ chức, anh chàng đã trổ tài với ngón đàn guitare thật điêu luyện. Cô vợ trẻ thỉnh thoảng phóng ánh mắt về phía có tiếng đàn réo rắt nhưng cũng không quên đưa ánh mắt đa tình nhìn chồng nở nụ cười rạng rỡ, khoe đôi hàm răng óng ánh như hàng ngọc dưới những dãy đèn điện sáng choang. Đôi rèm mi dài cong không che được ánh mắt đầy rạo rực tình yêu của cô nàng.

Đẩy xe đầy báo đến chiếc Ford, Phong mở nắp thùng sau sắp báo vào cốp, số còn lại bỏ vào ghế trước. Trả xe cart về chỗ cũ, chàng lên xe lái về hướng khu khách hàng của mình. Một tay điều khiển vô-lăng, tay kia ném báo qua cửa xe, Phong cử động như một Rô-bô. Thông thường, địa điểm lý tưởng gởi báo cho thân chủ là nằm ngay cửa garage, trong hàng rào hoặc trên hiên nhà. Những khách hàng nào có yêu cầu bỏ báo trước cửa chính được ghi trong danh sách thì carrier mới xuống xe chạy bộ vô nhà. Những route báo tốn thời gian nhiều nhất là khu apartment, và những chung cư nhiều tầng. Riêng route báo của Phong cũng không khó khăn lắm. Một tiếng đồng hồ lái xe loanh quanh khu vực single-house, và khu mobile-home là số báo trên xe hết sạch. Chàng có thể thảnh thơi ghé vào tiệm Mc Donald “to go” cái bánh ăn sáng với ly cà-phê về nhà nhâm nhi.

Sáng hôm nay, cơn bão cấp hai được loan báo sẽ thổi vào vùng Vịnh. Ngoài trời, mưa đã bắt đầu nặng hạt. Phong thức dậy với thân thể mỏi nhừ. Nếu nghỉ dễ dàng có lẽ Phong sẽ nằm vùi trong đống chăn ấm. Nghề bỏ báo, một tháng ba mươi ngày, không được nghỉ ngày nào và cũng chẳng được một quyền lợi nào dành cho carrier. Dần dà cơ thể con người thích hợp với khí hậu dù nắng hay mưa. Sự mỏi mệt cũng sẽ tan biến khi những cuộn báo đầu tiên theo cánh tay vung ra.

Phong lái xe vòng vòng trong khu đậu xe tìm chỗ, bất chợt một phụ nữ đội áo mưa băng qua trước mũi xe chàng rồi chui vào chiếc xe màu trắng có người bên trong mở cửa đợi. Người đàn bà bỏ áo mưa ra, Phong mới nhận ra là cô vợ trẻ. Bên trong nhà kho, ông Mễ già khệ nệ bưng những chồng báo nặng nề bỏ vào xe đẩy. Một chốc sau, cô vợ trẻ hổn hển chạy vào phòng đến đứng bên chồng làm cái công việc hàng ngày. Khuôn mặt tròn trịa, ánh mắt đa tình, mơ màng hơn mọi khi. Anh chàng Mễ nghệ sĩ từ ngoài sân đi vào, miệng không ngừng huýt sáo, trông chàng hân hoan lắm.

Ngoài trời, từng cơn gió giật nổi lên liên hồi mang theo tiếng hú, tiếng gầm rùng rợn như con vật khổng lồ vô hình đang trườn mình trên những ngọn cây ngã rạp, quằn quại dưới bầu trời mây đen vần vũ.

Người quản lý đi từng bàn nhắc nhở carrier bỏ báo vào túi nylon cột dây cao su thật chặt. Với cơn mưa như trút nước này, báo vất giữa trời dễ bị thấm ướt, khách hàng sẽ khiếu nại, hãng báo mất thân chủ, người bỏ báo sẽ bị trừ tiền.

Gió gầm thét, mưa ào ào, carrier vẫn lên xe như đoàn quân xông trận tỏa đi tứ hướng. Phong lượn xe theo từng con đường đầy ngập lá, cành cây gẫy rơi vãi trên lối đi. Với tốc độ cẩn trọng, chàng cố gắng liệng cuộn báo sát hiên nhà hoặc bao lơn. Gặp ngày mưa gió thế này, carrier phải tốn gấp đôi thời gian cho route báo của mình. Nghề nào cũng gặp cái khó của nó. Tiền công bỏ một tờ báo chỉ có mấy cent, nhưng rũi ro ném bể kính cửa sổ nhà của khách hàng là phải đền cả trăm bạc. Chưa tính đến lúc sửa xe, thay lốp... quả là cái nghề “ăn cám trả vàng”.

Vợ chồng kỹ sư Trung đã có công việc chuyên môn đúng ngành nghề tại hãng điện tử IBM, đã mua được hai căn nhà còn lãnh thêm route báo 300 tờ nữa. Phong ngạc nhiên lắm. Nhân lúc đứng xếp báo, Phong nêu thắc mắc với chàng kỹ sư điện tử ấy và được giải đáp như sau:

- Tiền lương chính của vợ chồng mình vừa đủ trả các loại bill và dành dụm hàng năm lấy vacation cho gia đình đi chơi mươi ngày, nửa tháng. Riêng việc bỏ báo này, chúng tôi kiếm thêm tiền để viện trợ cho gia đình hai bên còn ở lại Việt Nam.

Bên nhà, ông bà nội, ông bà ngoại cứ khoe với bà con láng giềng là con rể, con dâu đều là kỹ sư điện tử ở Hoa kỳ. Lương hàng năm của chúng nó đến cả tỷ đồng Việt Nam chứ ít đâu. Nay chúng nó đã tậu được hai căn nhà, mà nhà ở Mỹ giá đến mấy trăm ngàn Mỹ kim. Gớm, tiền nhiều đến thế, làm sao chúng xài cho hết. Vì vậy, cha mẹ, cô chú bác, anh em không ngừng gởi thơ xin tiền, viện đủ lý do. Đến cả đau đầu cũng gởi thơ nhắc đừng quên gởi thuốc Tylenol. Mình có viết thư giải thích cái nhà là của ngân hàng. Nhưng nào ai tin, cứ cho mình là kẻ khiêm tốn, không muốn khoe khoang. Sau cùng anh kỹ sư Trung phán một câu: “Người tỵ nạn của chúng mình mang kiếp lưu đày, nay trở thành kiếp trâu cày”!

Qua câu chuyện của kỹ sư Trung kể đã tác động tình cảm của Phong không ít. Chàng có bà mẹ già đang sống lam lũ với người em trai tại một thị trấn nghèo nàn nửa chợ nửa quê. Hơn một năm nay Phong chưa dám nghĩ đến chuyện gởi tiền về cho mẹ bởi chàng còn gặp nhiều khó khăn. Nằm ở đảo gần hai năm, nhờ cái giấy chứng nhận cô nhi quả phụ của mẹ chàng gởi qua nên Phong được Cao ủy tỵ nạn cho đi Hoa kỳ. Cùng chuyến vượt biển muộn màng với chàng, đa phần bị cưỡng bức quay về Việt Nam vì thiếu giấy tờ chứng minh.

 Cha Phong hy sinh ngoài mặt trận lúc thằng em còn trong bụng mẹ.. Người đã sống khép mình, tảo tần nuôi hai đứa con trưởng thành. Trước hoàn cảnh bi đát của gia đình, Phong đã liều chết trốn vào thuyền vượt biển. May mà thoát được, nếu còn ở lại Việt Nam, diện của gia đình Phong chỉ còn chết gí tại hợp tác xã hoặc ở các công trường, không cách nào ngẩng cao đầu được.. Phong đã ghi tên vào trường Mission College và xin được cái job Work Study. Hy vọng đơn xin trợ cấp được chấp nhận, bấy giờ chàng sẽ dành chút đỉnh tiền gởi về cho mẹ và em.

Hàng ngày, Phong bỏ xong route báo về nhà nghỉ được một giờ rồi phóng xe tới trường. Sau giờ học, chàng ở lại trường thêm một giờ nữa để làm công việc của một trợ giáo hoặc vào thư viện.

Báo ngày Chủ Nhật có rất nhiều phụ bản quảng cáo, carrier cần nhiều thời gian để xếp báo, ngoài ra tờ báo cuối tuần rất nặng, không thể ngồi trong xe quăng báo qua cửa xe như báo ngày thường. Vì thế vào ngày này nhà kho mở cửa trước 12 giờ khuya cho mọi người đến nhận báo.

Ngày Tết Nguyên Đán đã gần kề, Phong nhớ đến mẹ và em ở quê nhà. Thằng Thủy hiện là công nhân trồng cây lâm trường, tiền lương vừa đủ nuôi thân. Còn mẹ chàng, đặt tủ thuốc bên lề đường thị trấn, bán từng điếu Hoa Mai, Điện Biên. Họa hoằn mới có người hỏi mua vài điếu thuốc ngoại nhập. Phải nhìn trước nhìn sau tránh bọn thuế vụ luôn luôn rình rập.

Phong vừa nhận được tiền trợ cấp. Sau khi trừ tiền sách cũng còn dư chút ít, nên chàng quyết định gởi về cho Mẹ 200 Mỹ kim để tiêu Tết.

Mẹ Phong nhận được tiền từ Mỹ gởi về, mừng lắm. Bà sai Thủy viết thư tin cho anh rõ: “Nhờ tiền anh gởi về mà mẹ có được bộ bà ba mới bằng vải ka-tê, em sắm bộ sơ mi quần tây để ăn Tết, cũng nở mày nở mặt với bà con láng giềng.” Từ đó, thành thông lệ, đến ngày Tết, ngày chạp, và đặc biệt là ngày giỗ cha, Phong gởi tiền về cho mẹ mua sắm rộng rãi..

Một hôm chàng nhận được thư của Mẹ gởi:

Phong, con yêu quý của mẹ,

Như con biết đó thằng Thủy em con làm công nhân lâm trường cực khổ lắm, dãi nắng dầm mưa mà tiền lương không đủ tiêu. Nay nhân dịp có người bạn của nó là thằng Hanh cùng với mấy người có thế lực trong huyện mở một công ty sản xuất bia có tiêu chuẩn quốc tế. Người ta cho em con được hùn vốn mà gia đình ta nghèo quá. Em con thì muốn thoát ra cảnh khổ của đời công nhân, nên mẹ biên thư này mong con thương mẹ, thương em gởi về cho em con mượn 10.000 đô la. Sau này mẹ sẽ nhờ vào số tiền lời của công ty chia hàng tháng mà an hưởng tuổi già. Mẹ biết hiện giờ con còn phải bận rộn việc học hành, nhưng đằng nào con cũng có khả năng kiếm tiền hơn mẹ và em con. Con chớ nên chậm trễ để cơ hội qua đi. Mẹ mong tin con từng ngày ở quê nhà.

Mẹ của con.

Bức thư của mẹ làm Phong nhức đầu mấy ngày. Đào tiền đâu ra mười ngàn đô. Cái route báo 200 tờ, tiền trợ cấp, tiền làm thêm trong trường cộng lại chỉ hơn ngàn rưỡi bạc. Trả tiền thuê phòng, tiền bảo hiểm xe, tiền sửa xe, tiền đổ xăng và tiền ăn...chẳng có dư bao nhiêu. Mười ngàn đô gởi về trọn gói quả thực vượt ngoài tầm tay đối với chàng.

Phong thương mẹ thương em muốn cho gia đình thoát ra cảnh nghèo túng. Đây là cơ hội cho em mình kinh doanh, có công việc làm tương đối nhàn hạ lại có tiền cung cấp cho mẹ hàng tháng. Phong nghĩ tới ông thầy cũ, đến anh kỹ sư có hai nhà mà còn đi bỏ báo kiếm thêm tiền gởi về cho gia đình. Đó là một tấm gương tốt.

Trong thư mẹ dặn chớ nên chậm trễ để lỡ cơ hội. Vì vậy, chàng quyết định tận dụng Credit card, mượn ông thầy cũ, vợ chồng anh kỹ sư Trung mỗi người 2000 đô cộng thêm tiền dành dụm bao lâu nay là đủ số tiền theo yêu cầu của mẹ. Chàng sẽ xin thêm một route báo nữa để có tiền trả nợ dần. Phong tự an ủi: “Mình bỏ bớt giờ nghỉ, dậy sớm hơn và về trễ hơn. Người ta bảo: “Giúp ngặt không ai giúp nghèo.” Tiền gởi về chia làm 3 đợt được thông suốt. Mẹ chàng viết thư bảo rằng: “ Trong đời mẹ chưa bao giờ thấy được số tiền lớn như thế. Mẹ đã chảy nước mắt khi ôm túi tiền một trăm bốn mươi triệu bạc Việt Nam vừa mới được đổi ra.”

Ngày nhận được thư mẹ cũng là ngày ông quản lý cho thêm route báo 100 tờ. Như vậy là Phong phải bỏ 300 tờ báo cho khách hàng mỗi ngày. Tuy khổ cực nhiều nhưng Phong rất thỏa mãn mỗi khi nghĩ đến mẹ và thằng em có công việc làm vững chắc, có lợi tức thu vào hàng tháng để mẹ chàng khỏi phải phơi nắng ngồi bán từng điếu thuốc hút.

Hôm nay thứ Bảy, bỏ xong báo đến tám giờ sáng, Phong ghé tiệm cà-phê mua ổ bánh mỳ xa-xíu, ly cà-phê đá rồi lái xe thẳng đến nhà kho để nhận hàng quảng cáo, loại thuốc gội đầu của hãng sản suất H.E. Phải bỏ hàng vào loại bao đặc biệt của hãng cung cấp kèm theo mấy tờ coupons giảm giá.

Phong đến trễ hơn mọi người nên phải đậu xe tận ngoài xa. Bãi đậu xe nơi đây vắng vẻ sát bờ suối có tàn cây che mát. Chàng ngồi trong xe gặm ổ bánh mỳ và ly cà phê đá. Bất chợt, Phong trông thấy chiếc xe màu trắng đậu dãy ngoài cùng đang lắc lư, nhún nhẩy như người lên đồng. Chàng nghi ngờ, biết đâu có kẻ bị bắt cóc vứt vào thùng xe, giờ đang vùng vẫy kêu cứu. Phong hấp tấp mở cửa xe phóng người đến chiếc xe đang đánh nhịp.

 Nhìn qua cửa kiếng, Chúa ôi, Phong đưa tay bịt miệng, quay đầu chạy một mạch về lại xe mình đóng sầm cửa lại. Một cảnh tượng đập vào mắt khiến Phong có cảm tưởng mình vừa bị lừa. Cặp nam nữ trần truồng đang hì hục làm tình trên băng ghế sau. Phong xấu hổ ngồi đờ đẫn trong xe.

Phần ổ bánh mỳ còn lại chàng vứt vào bao giấy, chỉ uống cạn ly cà-phê. Độ năm phút sau, cánh cửa sau xe màu trắng bật ra, cô vợ trẻ vừa bước xuống xe vừa cài hột nút áo cuối cùng, nhoẻn miệng cười rất tươi với người bên trong rồi thoăn thoắt đi về hướng nhà kho. Phong vẫn ngồi yên chờ đợi xem người còn lại là ai. Khi cô bé đi đã khá xa, người chủ chiếc xe xuất hiện, không ngoài sự dự đoán của Phong, đó là chàng thanh niên Mễ có ngón đàn guitare gợi cảm.

Trong nhà kho không khí nhộn nhịp. Những chiếc thùng các tông rỗng đựng mẫu shampoo quảng cáo vất tứ tung. Cô vợ trẻ đang giúp chồng bỏ hàng vào túi nhựa. Bất chợt, người chồng phát hiện áo cô vợ gài lệch khuy khiến tà áo so le, ông nói nhỏ vào tai vợ, cả hai cùng cười. Cô nàng ngồi thụp xuống bên dưới bàn để gài lại nút áo, khi đứng lên, nàng bẽn lẽn véo yêu vào cánh tay chồng. Ông Mễ già nhìn cô vợ trẻ với ánh mắt chan chứa tình yêu và tràn ngập niềm tin. Đột nhiên, tâm hồn Phong chùng xuống. Chàng thương hại người chồng đã dồn tình yêu không đúng chỗ. Phong thấy áy náy trong lòng vì đã không làm được điều mình muốn làm cho người chồng đang bị vợ cắm sừng. Ông ta quên rằng khi con ngựa đã rõ đường đi lối về thì ngựa đâu cần đến dây cương. Khi tình yêu đến với người đàn bà sẽ không còn sức mạnh nào ràng buộc được họ ngoài sức quyến rũ của người tình. Khi phát giác ra điều này, ông già sẽ đau khổ biết chừng nào.

Phong đã lấy xong bằng AS sau ba năm học miệt mài tại Misson College và đã ghi tên tại Đại học SJSU theo ngành kỹ sư điện. Trong ba tháng hè, Phong dự tính dành ba tuần lễ về Việt Nam thăm gia đình. Nhân thể xem công việc hùn hạp làm ăn của Thủy như thế nào. Chàng đã nhờ hai người bạn học bỏ hộ 2 route báo trong thời gian vắng mặt. Muốn tạo sự ngạc nhiên cho mọi người, Phong không báo tin cho gia đình biết trước.

Từ phi trường Tân Sơn Nhất, Phong lên taxi đến thẳng bến xe đò liên tỉnh. Trên đường về quê, chàng nghĩ đến giờ gặp mẹ gặp em khiến lòng chàng nôn nao. Chàng sẽ kể chuyện về quê người, về những tháng năm lo âu trên đảo và những hiểm nguy của đoạn đường vượt biển.

Trước khi xe vào thị trấn, Phong xuống xe ghé thăm người cậu ruột đã mười năm chưa gặp mặt. Nhà cậu ở gần quốc lộ nên chàng tìm đến chẳng khó khăn gì. Gặp Phong, cậu ôm chàng rưng rưng nước mắt. Cậu nghẹn ngào nhắc lại kỷ niệm ngày xưa mà cậu và cha chàng đã cùng nhau chiến đấu chung một chiến hào.. Ông cậu bảo Phong:

- Mẹ con thật có phước, nhờ tiền con gởi về mà đời sống khấm khá hẳn lên. Ngôi nhà cũ được sửa sang lại. Thằng Thủy em con sắm được chiếc xe Dream đời mới. Chị Ba bây giờ trông có da có thịt khác hẳn với những ngày trước kia.
Phong khiêm nhường:

- Tiền con gởi về chẳng là bao nhưng nhờ em Thủy có kế hoạch làm ăn nên mới mau khấm khá như thế.

- Thằng Thủy làm ăn gì? Bà mợ xen vào:

- Em nó hùn vốn trong công ty sản xuất bia mợ à. Phong phấn chấn trả lời.
Bà mợ trố mắt nhìn Phong, lắc đầu:

- Công ty Bia ôm thì có!

Phong không hiểu ý của bà mợ, nhưng cách trả lời của mợ có vẻ xẵng giọng và ánh mắt ái ngại của cậu liếc nhìn Phong khiến chàng cảm thấy nỗi nghi ngại bắt đầu nhen nhúm trong lòng.

- Thế, thế... Phong định hỏi, thế có nghĩa là thế nào hở mợ, nhưng cổ họng chàng nghẹn lại. Rồi chàng tự nhủ: “ Không thể nào, không thể nào”.

Phong đứng lên, lấy ra 100 Mỹ kim đặt lên bàn:

- Thưa cậu mợ, đây là chút quà mọn con kính biếu cậu mợ để bồi dưỡng, giờ con xin được kiếu từ. Phong chạy ra đường lộ gọi xe thồ cấp tốc về nhà mẹ.
Căn nhà cũ khá sáng sủa, trông lạ hẳn. Chàng đẩy cửa bước vào. Trên chiếc chiếu hoa trải giữa sàn xi-măng, mẹ chàng cùng ba người đàn bà ngồi quanh một cái đĩa đựng những con bài tứ sắc. Mẹ chàng trực nhìn lên thấy con trai, kêu lên:

- Phong, con về hồi nào, sao không tin cho mẹ biết trước.

Miệng nói nhưng mắt mẹ vẫn nhìn đăm đăm vào những con bài cầm trên tay, bà tiếp:

- Bà Tám có không, tôi có đôi đấy - Con vào thay đồ tắm rửa, mẹ đánh xong ván bài nầy rồi tính.

- Vào căn phòng của Thủy, Phong ngồi thừ người chán nản. Chẳng lẽ mẹ mê những con bài tứ sắc hơn con mình từ xa về sao? Khi ngồi trên máy bay, Phong tưởng tượng mẹ chàng sẽ để rơi những giọt nước mắt vui mừng khi thấy con trai từ Mỹ về thăm sau bao năm trời xa cách. Chàng thay bộ áo quần sạch, nhét bộ đồ bẩn vào chiếc xách rồi vội vàng đi ra. Mẹ chàng hỏi:

- Con đi đâu đó Phong, áo quần dơ để mẹ đem ra tiệm giặt ủi, nhớ về ăn cơm nghe con. Mẹ chàng vừa dặn dò Phong vừa xoa đống bài trên chiếu.

Phong cúi đầu chào mẹ và mọi người rồi gọi xe ôm chở chàng đến nhà của Hanh ở xóm trên. Hắn là bạn thân của Thủy, người đã rủ em chàng góp vốn đầu tư vào công ty sản xuất bia. Căn nhà gạch ngày xưa nay không có gì thay đổi. Cha mẹ của Hanh trước 1975 thuộc hạng giàu có nhất nhì thị trấn. Ông có đại bài gạo và tiệm buôn xe gắn máy. Khi chính quyền “cách mạng” mở chiến dịch đánh tư sản mại bản, tài sản của ông hoàn toàn mất sạch. Mấy năm sau, ông bà buồn khổ lần lượt từ bỏ cõi trần.

Hanh đón tiếp khá vui vẻ. Phong nóng lòng hỏi ngay:

- Hanh à, cái công ty sản xuất bia của em đến nay như thế nào rồi?

- Bia bọt gì đâu anh, làm sao cạnh tranh nổi với người ngoại quốc đến đây đầu tư. Em có bao giờ dám nghĩ đến cái chuyện phiêu lưu đó đâu. Mình không có thế thần lại chẳng tài cán. Thôi thì sống an phận, nhận mấy trăm thước vuông ruộng, ôm cái vườn nhà làm thêm chút rau quả, trước cho cả nhà ăn, dư đem ra chợ bán kiếm tiền mua mắm. Thằng Thủy em anh có phước có phần, được Việt kiều ở Mỹ chu cấp tiền đô đều đều, sáng cà phê, chiều bia rượu.

- Nghe Hanh nói đến đây, Phong rùng mình hiểu hết ngọn ngành. Chàng lấy tiền cho đứa con Hanh rồi cáo từ.

Trời nhá nhem tối, cảnh vật quanh chàng nhập nhòe dưới ánh mắt không còn thần lực. Phong bước đi lảo đảo như người mắc bịnh quáng gà. Tâm trạng hụt hẫng cùng nỗi uất ức tràn ngập trong lòng, bất giác Phong vẫy chiếc xe ôm bảo chở chàng đến quán bia ôm.

Anh xe ôm liến thoắng:

- Ở cái thị trấn nầy có nhiều quán cà-phê ôm, bia ôm lắm. Anh muốn đến quán Trăng Vàng nổi tiếng có nhiều em thơm mà chiều khách không chê vào đâu được. Hay đến quán Mộng Huyền có mấy em chân dài từ Hà Nội vào đây phục vụ?

Phong bực mình trước cái lối quảng cáo lố lăng của anh xe ôm, chàng xẵng giọng:

- Muốn chở đi đâu tùy anh.

Anh xe ôm chạy quanh co trên con đường đất rộng nhưng cũng khá nhiều ổ gà. Quán nằm trên địa điểm thơ mộng thuộc vùng vườn cây ăn trái. Nơi đây, ngày còn chiến tranh, du kích về [.. ] thường đêm.

Phong kéo chiếc mũ lưỡi trai hơi sụp xuống che một phần khuôn mặt. Chàng vào quán tìm chiếc bàn ở một góc tối mà có thể quan sát hầu khắp. Chàng kêu một chai bia 33. Các cô gái xăng xái đến ngồi chung bàn phục vụ nhưng chàng xin lỗi từ chối. Một khắc sau, một tốp thanh niên bốn tên ồn ào vào quán. Phong nhận ra ngay thằng Thủy em mình dẫn đầu đám ăn theo. Người tiếp viên đẹp nhất ở đây vồn vã ôm Thủy hôn rất sống sượng rồi dìu hắn ngồi vào chiếc ghế xa-lông. Có lẽ đây là vị thế tốt nhất của hắn đã chọn từ trước.

- Uống gì đây, thưa quý vị? bà chủ quán hỏi.

- Xin mời thủ trưởng lên tiếng, một đàn em nhìn Thủy chờ đợi.

- Cho tụi bay kêu tự do, Thủy vung tay.

- Thủ trưởng có tiền đô từ Mỹ chi viện đều đều lại vừa trúng cá độ trận banh quốc tế đấy.

Cô tiếp viên, phần trên mặc chiếc yếm để hở tấm lưng trần, phần dưới là cái váy cũn cỡn, khoe cặp đùi và đôi chân nõn nà. Cô bưng một khay bia ngoại nhập hiệu Heineken đặt trên bàn Thủy ngồi. Ả khui bia rót vào ly rồi nâng lên kề sát miệng khách như “ái phi” phục vụ “quân vương”. Hắn uống một hơi hết nửa ly, phần còn lại cô tiếp viên uống sạch và lau miệng hắn bằng chính môi nàng. Để khen thưởng cái cử chỉ đẹp đó, Thủy cầm tờ bạc 50 chục ngàn nhét vào váy của cô bé. Sẵn đà, hắn thọc tay sâu vào bên dưới. Cô gái trân mình gục đầu vào vai hắn...

Phong vô cùng đau khổ. Chàng không ngờ em trai của mình lại lâm vào cảnh hư đốn đến như thế. Muốn đứng lên giáng vào mặt Thủy mấy bạt tai cảnh cáo, nhưng chàng cố trấn tĩnh, lặïng lẽ đến quầy trả tiền rồi lên xe thồ chạy thẳng ra thị xã.

Buổi sáng, khi trời còn mờ sương, trên con đường hẹp, Phong lội bộ băng qua cánh đồng hướng về khu đồi nghĩa địa. Chàng đến trước mộ cha, đặt một bình hoa và đốt nắm hương cắm vào chân bia. Nhìn ngôi mộ xây đã trải qua hai mươi lăm năm mưa nắng xói mòn, lòng Phong quặn thắt. Hình ảnh người cha kính yêu hiện về mờ nhạt trong trí nhớ của chàng thuở vừa lên năm. Nước mắt Phong tuôn tràn, nước mắt của khổ đau và thất vọng. Chàng khấn giữa thinh không, dù rất nhỏ nhưng tiếng vọng vang xa, lung linh cả núi đồi:

“Xin Ba tha thứ cho con. Trước hoàn cảnh này con hoàn toàn bất lực. Một xã hội mà con người có thể nhẫn tâm lừa lọc đến cả người thân yêu của mình, có thể vui hưởng trên cả mồ hôi, máu và nước mắt của ruột thịt mình. Con xin từ biệt Ba, ngày mai này con lên đường trở lại Hoa Kỳ, một đất nước xa lạ nhưng đã cho con nhiều cơ hội thành một con người lương thiện./
 
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 27/Feb/2015 lúc 9:50am

Philippo, ông hàng xóm



Khu town house nhà ông Nam có chín units nằm trên một con đường rộng rãi, mát mẻ và yên tịnh gần một ngôi trường tiểu học công lập. Đó là những căn nhà phố hai tầng lọai trung bình, khá khang trang vừa mới xây xong đang lên list bán trên mạng. Trừ hai căn mà hai anh em người chủ đất chiếm lên trước để ở, Ông Nam là người thứ ba tới coi nhà và chọn căn số bảy, một unit chót nhứt ở dãy phía sau mà muốn vào tới phải chạy đến hết cái driveway của complex. Tuy nằm trong tận cùng nhưng nhà ông Nam lại ở địa điểm ‘’ngon’’ nhứt trong chín căn với double garage, hành lang bên hông nhà và sân sau biệt lập khá lớn đối với một cái town house standard. Sau khi ông Nam dọn vào không bao lâu, mấy căn còn lại cũng dần dần có người chiếu cố mua hết, đăc biệt là ai cũng mua để ở chớ không phải cho mướn đầu tư. Duy chỉ còn lại căn số 6, vì nó nằm sát ngay cái cua quẹo trên driveway và phòng ốc trên lầu quá chật hẹp nên ai tới coi cũng đều lắc đầu đi luôn không trả giá. Cuối cùng, gần cả năm trời sau, bỗng đâu có một ông già người Ý xuất hiện, xem sơ qua một lần rồi deposit, không biết có phải vì bị băng đảng Mafia ruợt đuổi hay không hay là vì chủ nhà để lâu quá bán không được đã hạ giá tối đa nên ông chụp cơ hội mua ngay không cần so đo cân nhắc.
Đó là ông Philippo, một ông già độc thủ tuổi bảy mươi nhưng trông còn rất ‘’ngầu’’ và lanh lợi họat bát. Cánh tay phải của ông vì một lý do nào đó đã bỏ lại ở quê hương Ý Đại Lợi vùng Sicily, cái nôi đầu đời của trùm Mafia khét tiếng thế giới. Thuở còn trai tráng chắc ông cũng tung hòanh ngang dọc một thời nhưng giờ đây ở tuổi thất thập gần đất xa trời với một cánh tay trái còn lại, muốn ‘’quậy’’ cũng không ‘’tới bến’’ theo ý mình nên đành rút khỏi giang hồ gác kiếm an phận về hưu.
Ông có bà vợ chấp nối người Philippine tên Maria, vừa già vừa cục mịch lam lủ không mấy xứng với ông (hình như đa số đàn ông Âu châu nào lấy vợ Á châu mắt cũng đều có vấn đề, thấy Thị Nở ra Hằng Nga). Nói vậy chớ duyện nợ do trời, biết sao mà tránh, dù có là ‘’bố già’’ cũng chạy trời không khỏi. Vợ thì vậy nhưng đồ đạc giuờng tủ bàn ghế trong nhà, Philippo rất chịu chơi, sắm tòan là đồ xịn, nguyên series từ bên Ý nhập cảng qua tốn hết năm chục ngàn bày biện đầy căn nhà mới ông mới mãn nguyện hài lòng (mục này thì ông có thể chọn lựa theo ý mình đựơc). Căn town house của ông cũng hai tầng như tất cả những căn kia nhưng ông chỉ xử dụng có tầng dưới bởi vì gia đình ông chỉ có hai vợ chồng, nội tầng dưới cũng đã đầy đủ tiện nghi như một căn nhà trệt gồm có nhà bếp, nhà giặt, nhà tắm, phòng khách phòng ngủ, garage. Hèn gì mà ông không care phòng trên lớn nhỏ, rộng hẹp ra sao.
Đầu tiên khi mới dọn vô, Philippo biết thân mình là ma mới, là kẻ đến sau lại không giống ai nên lân la đi khắp xóm chào hỏi làm quen với mọi người khiến ai cũng nảy sinh thiện cảm niềm nỡ welcome ông. Sau đó ông tổ chức barbecue party mời hết cả xóm tới nhà ông dự, trước là ăn tân gia, sau là để tỏ tình thân thiện lối xóm có nhau. Cái hôm làm barbecue, bà con bên vợ của ông tới rất đông, đông hơn cả xóm gọp lại, mỗi người đem một món, ông thì nướng đủ lọai thịt, cung cấp bia rượu nước ngọt, champagne, ai thích gì dùng nấy, thức ăn la liệt, rượu thịt ê hề hơn cả hòang triều La Mã xa xưa làm cả xóm vui vẻ hả hê nể mặt ông một tay vô cùng, nhứt là khi thấy tòan bộ furniture made in Italy sang trọng chóang ngộp phòng khách phòng ăn.
Tuy chỉ có một cánh tay trái nhưng Philippo rất năng động. Ông cũng lái xe nhuyễn nhừ chạy phon phon ngòai đường như ai và cũng đi làm lai rai nếu cần. Nghề tự do của ông là thợ sơn, thỉnh thỏang ông cũng hợp tác với một người bạn lãnh sơn nhà cho thiên hạ cho vui chớ tuổi của ông lãnh trợ cấp tiền pension và disability cũng dư ăn dư xài. Từ khi dọn về khu town house này, ông thường tìm coi có việc gì giúp được cho bà con hàng xóm thì đều tình nguyện làm giúp, chẳng hạn như mé những nhánh cây chóang driveway, thay bóng đèn chết hay quét lá chung quanh common area những khi chưa tới ngày có người tới dọn dẹp. Và mỗi tuần tới ngày council lấy rác thì ông kéo thùng rác và thùng recycle ra lề đường giùm cho những ai trong xóm bận đi làm.
Philippo thích và nể nhứt là ông Nam vì ông Nam là công chức về hưu, con người rất có nguyên tắc, đâu ra đó nhưng tính tình hiền lương ngay thẳng tốt bụng, lại thuộc hạng lão làng cho nên mặc nhiên ai cũng coi ông Nam như là tổ trưởng trong complex . Có chuyện gì cần thỏa hiệp hay thắc mắc về điều lệ strata, ai cũng tín nhiệm gỏ cửa nhà ông Nam nhờ giải quyết phân xử . Họặc có ai mua đồ tới ngày giao mà không thể ở nhà chờ thì gởi chìa khóa cho ông Nam nhờ ký nhận. Nhứt nhứt chuyện gì cũng kiếm ông Nam. Do đó Philippo rất ‘’kết’’ ông Nam, thường tìm ông Nam trò chuyện, mời ông Nam qua nhà uống cà phê và thỉnh thỏang biếu chai rượu nhẹ ngọt ngon ‘’Verdi’’ để nhờ lấy thơ và coi chừng nhà giùm khi ông đi holiday một hai tuần hay một hai tháng.
Philippo ở yên trong khu nhà chín căn đó được hai năm thì hai vợ chồng ông xảy ra chuyện bất hòa đưa đến ly dị. Mỗi người đều cho phần phải về mình. Ông thì nói ông đã giúp đỡ gia đình bên vợ ở Philippine rất nhiều nhưng bà cứ tìm cách bòn tiền ông mãi, đến chừng không được nữa thì miệt thị ông là đồ tàn tật phế thải. Còn bà thì cho là ông bủn xỉn keo kiệt không biết nghĩ tới công lao bà đã theo săn sóc phụng dưỡng ông bấy lâu. Thôi thì hết duyên hết nợ đường ai nấy đi, ai phải ai quấy cũng không thể nào hàn gắn lại cuộc vợ chồng chấp nối tạm bợ mà trong đó đồng tiền được coi trọng hơn tình nghĩa. Vậy rồi bà dọn đi, căn nhà chỉ còn lại một mình Philippo.
Nhưng số Philippo đào hoa có thừa, cho dù là độc thủ nhưng là ‘’độc thủ phong lưu khách’’ nên dù không rủ mấy bà cũng tới. Chỉ khỏang hơn tháng sau là ông Nam nghe người trong xóm gossip với nhau rằng Philippo có new girl friend (bồ mới) rồi. Bà này là người cùng xứ sở với ông, dáng dấp cao sang hơn bà Maria nhiều, lại có sẵn nhà cửa ở Five dock sau nhiều năm gầy dựng. Vậy là một lần nữa ông ‘’sang ngang’’ tục huyền theo bà thứ ba về dinh bỏ trống căn nhà với mớ bàn tủ còn mới tinh chưa tì vết. Trước khi đi, ông đến từ giã ông Nam và nhờ ông Nam lấy thơ cất giữ giùm, ông sẽ đi đi về về chờ coi tình hình ăn ở với bà ba này ra sao rồi mới giải quyết căn nhà, hoặc bán hoặc cho mướn hay về ở tiếp trở lại.
Philippo dọn đi khỏang hai tháng thì một hôm ông và thằng con trai con bà vợ đầu tiên (không rõ bà vợ lớn của ông đi ‘’bán muối’’ hay ly dị) trở về với một chiếc xe truck removal. Ông chạy qua kiếm ông Nam nói:
-Bây giờ tôi chở đồ đạc về bên nhà vợ ba, còn căn nhà này thì tôi sẽ kêu agent cho mướn. Ông qua coi có muốn mua lại bộ dining table hay lounge gì không, tôi để lại với giá rẻ cho. Đồ rất tốt.
Từ đầu khi qua nhà Philippo uống cà phê trò chuyện, ông Nam đã ưng ý bộ bàn ăn của Philippo lắm rồi nhưng vì ông cũng mới mua tòan bộ furniture khi dọn về đây, tuy không xuất sắc đắt tiền gì cho lắm nhưng món nào món nấy xứng đào xứng kép với nhau. Vì vậy ông Nam nói:
-Tôi rất thích bộ bàn ăn của ông, rất đẹp rất sang, màu sắc lại phù hợp với màu sơn nhà nhưng tôi đã sắm đủ hết rồi, bây giờ đem về cũng không biết để đâu. Thôi ông chở nó theo ông đi. Những đồ đạc này ông ưa thích lắm mà.
Thế là từ đó Philippo đi luôn, thỉnh thỏang lắm mới tình cờ gặp ông và bà ba đi shopping ở Bankstown square. Căn nhà để trống khỏang ba tháng sau thì có người vô mướn. Philippo chưa muốn bán có lẽ vì lo xa biết đâu một ngày nào đó lại chia tay bà vợ thứ ba thì phải có chỗ để về. ‘’Que sera sera!’’ Chuyện đời làm sao mà lường trước cho được, tốt nhứt là phải thủ cho mình kẻo một khi sa cơ thất thế bị đá ra thì không nơi nương tựa. Vợ chồng đồng cam cộng khổ con cái đùm đề còn chưa chắc ăn đời ở kiếp với nhau huống chi nhân tình nhân ngãi tình nghĩa như con chuồn chuồn, khi vui thì đậu khi buồn thì bay.
Sau hai năm để nhà cho mướn, hết người này dọn đến người kia dọn đi, một ngày nọ Philippo thình lình trở về với thân xác xanh xao, tiều tụy bệnh họan thấy rõ. Ông qua kiếm ông Nam cho biết:
-Có thể tôi sẽ trở về căn nhà này để sống những ngày còn lại. Hiện tôi đang bị ung thư thời kỳ thứ ba. Vài hôm nữa, con tôi sẽ giúp tôi chở hết đồ đạc trở về.
Ông Nam nhìn Philippo bàng hòang thương xót:
-Lâu quá không gặp ông. Ông khám phá ra bệnh tình từ hồi nào vậy? Lần trước gặp ông ngòai shop thấy ông vẫn khỏe mà. Ông về đây ở một mình hay với ai? Cói ai chăm sóc cho ông không? Hiện giờ ông đang chữa trị chớ?
Philippo gật đầu đáp với giọng chán chường tuyệt vọng :
-Có chữa cũng không dứt hẳn đâu, bệnh này trước sau gì cũng chết. Tôi đã trải qua hết mọi vinh nhục thăng trầm của một kiếp người, giờ cũng không còn tiếc rẽ gì nữa, chết cũng mãn nguyện. Chỉ thấy cay đắng tình đời là phút cuối không có người vợ nào bên cạnh. Chẳng những vậy mà còn muốn chia chác tài sản. Nhưng tôi dứt khóat làm di chúc để lại cho các con ruột của tôi với người vợ đầu tiên.
Ông Nam xúc động ái ngại nói:
-Không ngờ ông mắc phải chứng bệnh quái ác này. Vậy thì ông ở một mình sao được? Con cái ông có bổn phận phải lo cho ông chớ. Nếu không trực tiếp bên ông hằng ngày thì cũng phải sắp xếp cho có người ở với ông mới phải.
Philippo lắc đầu bảo:
-Cả một đời tôi hoang đàng phung phí, chỉ nghĩ nhiều đến bản thân mình hơn cho người thân thì giờ đây bị kết cuộc như vậy cũng đáng. Tôi không hề than trách ai cả. Tôi đến thăm ông và báo cho ông biết là tôi sắp trở về đây sống những ngày còn lại với xóm giềng. Thời gian vui nhứt của tôi là ở nơi này. Xưa nay tôi ở nhà riêng, không cảm nhận được tình lối xóm, từ khi dọn về đây tôi có người trò chuyện chào hỏi nhau hằng ngày thấy rất ấm lòng.
Nhưng Philippo vĩnh viễn không còn cơ hội trở về xóm cũ với láng giềng xưa. Lần gặp gỡ đó là lần sau cùng ông Nam còn nhìn thấy Philippo và những lời tâm sự đó của Philippo cũng là tâm sự cuối cùng của một đời người. Hai hôm sau, người con trai lớn của ông, Lenny chở đồ đạc của ông về nhà đặt vào chỗ cũ nhưng còn ông thì trở bệnh nặng phải vô nhà thương cấp cứu và sau đó về ở tạm nhà ông em để có người săn sóc trông chừng. Không bao lâu sau thì được tin ông qua đời…
Bàng hòang xúc động bỗng trào dâng
Thương người mới đó đã lìa trần
Hình ảnh hôm nào còn trước mắt
Mà người như sương khói biến tan
Philippo chết đi rồi thì các con ông phải bán tài sản để chia của. Lúc còn sinh tiền nghe ông nói ông còn có cái holiday house ở The Entrance và một bất động sản gì ở đâu nữa. Căn town house được đăng bán trước vì nhu cầu mua nhà của làn sóng di dân ngày cao điểm. Nhưng sau mấy tháng trời, nhà Philippo vẫn không bán được vì như đã nói ở trên là phòng trên lầu quá hẹp mà lại không có built-in, chỉ có thể đặt được một cái giường chiếc và cái tủ đựng quần áo nhỏ mà thôi. Cho nên sau đó agent phải đăng auction. Căn nhà được open for inspection hai tiếng đồng hồ, có một số người tới coi nhưng không ai kêu giá. Cuối cùng có một người Việt Nam offer một cái giá tương xứng nên người chủ hiện thời là Lenny con ông Philippo đồng ý ‘’gả’’ đi cho xong một mối.
Bán nhà xong, một hôm, Lenny và người chú, em Philippo tới mở cửa nhà coi lại đồ đạc nhằm lúc ông Nam đi đâu về. Ông Nam ngừng xe lại chào hỏi:
-Hi Lenny and Paul! Hai chú cháu ông tới đây làm gì? Nhà bán được rồi phải không? Chủ mới chừng nào dọn vô vậy?
Lenny chào đáp lễ và nói:
-Chúng tôi tới đây để chụp hình đồ đạc trong nhà đưa lên internet bán. Tôi không hiểu sao ba tôi ham thích những thứ đắt tiền này chi cho mệt, mua thì mắc mà bán lại không dễ gì được giá vì đã thuộc về đồ second hand . Tôi cứ phải chở tới chở lui cho ổng mấy bận rồi. Lần này thì phải bán hết chớ gia đình chúng tôi ai cũng có đủ bộ, đem về không biết làm gì nữa. Khi ổng biết bị bệnh nan y, ổng bảo tôi đem hết về đây cất chờ bán chớ không muốn cho bà ba giữ làm của. Bà nào cũng ham tiền của ba tôi chớ không tình nghĩa gì cả. Ông có cần bộ lounge hay bộ dining table gì không? Dù ba tôi mua đã bảy năm nhưng đồ nào cũng còn nguyên như mới, cứ chưng bày vậy thôi chớ không mấy khi đụng tới.
Nói rồi Lenny đi vào trong làm phận sự. Ông Nam xem xét lại bộ bàn ăn mà từ lúc đầu khi qua nhà Philippo uống cà phê, ông đã có ‘’cảm tình’’ trong bụng và nói với ông Paul:
-Quả thật y như đồ mới, không có chỗ nào chê được nhưng tôi phải hỏi lại bà xã tôi chớ hiện giờ nhà đang có đồ xài, mua về biết để đâu. Với lại tôi cũng phải biết giá khỏang bao nhiêu nữa để nói với bà xã.
Ông Paul vốn cũng quen biết ông Nam, đã gặp mấy lần trước kia khi tới thăm anh mình bỗng bật miệng gợi ý:
-Thì ông cứ offer nó đại 1000 dollars đi. Thế nào nó cũng bán. Nó muốn bán quách cho rồi cho rảnh nợ đó mà.
Bà xã ông Nam, cô Phương tự nãy giờ đứng trên lầu nghe tiếng ông chồng lóang thóang bên nhà số 6 đã chạy lại đứng bên cửa sổ ‘’địa’’’’xuống coi chuyện gì. Nghe xong tự sự, cô vội chạy xuống, ông Nam chưa kịp vô ‘’tấu trình’’ thì cô đã nhào ra ‘’ăn cơm hớt’’. Cô nói:
-Biết hết rồi khỏi nói. Để em qua coi lại cho chắc ăn rồi tính.
Ông Nam bày tỏ ý mình để thuyết phục cô Phương:
-Anh cảm thấy hình như Philippo xui khiến mình mua bộ bàn ăn của ổng. Lúc trước sắp dọn đi theo bà ba, ổng đã có dọ hỏi anh coi muốn mua không nhưng lúc đó mình ngại giá hơi cao. Bây giờ ổng đã mất, tự dưng hôm nay gặp thằng con tới đòi bán, lại cũng hỏi mình muốn mua không, the same story như ông già nó lúc còn sống, anh thấy hơi lạ, có lẽ bộ dining table này có duyên với mình hay nói đúng hơn là ông Philippo ổng muốn ở lại cái xóm này như ước nguyện của ổng trước khi qua đời. Em thấy sao?
Cô Phương gật đầu tán đồng:
-Có lẽ vậy. Nhưng nếu mua thì bộ bàn của mình tính sao? Để từ từ bán lại hay cho ai đây? Thôi bây giờ như vầy. Anh thử trả chín trăm, không phải mình muốn bóc lột ép giá người ta nhưng em muốn thử xác nhận một điều. Nếu quả thật nó có duyên với mình thì thằng con ổng sẽ chịu bán, chừng nó giao hàng xong mình vẫn trả nó một ngàn, còn nó không chịu thì forget it. Cái gì thuộc về mình thì dù mình không muốn, nó cũng tự động tới với mình, còn không là của mình, van cầu cách mấy cũng ngòai tầm tay.
Nghe vợ đề nghị có lý, Ông Nam chạy qua nói chuyện lại với Lenny:
-Chú của anh bảo tôi trả một ngàn cho bộ dining table này nhưng bà xã muốn xin bớt một trăm tức là chín trăm, nếu anh đồng ý thì chúng tôi mua vì cũng muốn giữ lại chút kỷ niệm của ba anh với chúng tôi chớ thật ra bộ bàn ăn nhà chúng tôi còn rất mới, không cần phải đổi.
Lenny tình thật nói:
– Ba tôi có nhắc với tôi về ông, ổng rất thích ông. Nếu đồ này của riêng tôi thì tôi sẽ đồng ý ngay nhưng kẹt cái là có phần chị tôi trong này nữa nên tôi phải hỏi lại bả coi chịu không. Ông cho tôi số phone của ông đi. Tôi hỏi chị tôi rồi sẽ trả lời ông sau. Bả đang du lịch ở Âu châu. Dù sao thì tạm thời đồ đạc này vẫn để ở đây cho tới khi nào chủ mới sắp dọn vào, tôi mới dời chúng đi.
Lenny ra về sau khi hai bên trao đổi số phone với nhau. Rồi tuần qua tuần vẫn không nghe Lenny gọi lại nói gì, ông Nam sắp quên đi chuyện bộ bàn ăn thì bỗng dưng một buổi sáng sớm, mới tám giờ đã nghe điện thọai mobile reo. Ông Nam bữa nay vì không nhằm ngày chở cháu đi học nên dậy hơi muộn, còn chuyển chệ chưa kịp cạo râu rửa mặt. Nghe phone reo ông còn tưởng là con gái kêu ông có chuyện gì nhưng bên kia đầu dây, tiếng người đàn ông rất lạ tự giới thiệu là Lenny, hỏi ông Nam còn ý định mua bộ dining table không, 10 phút nữa anh ta sẽ tới khiêng qua cho ông Nam. Ông Nam nói OK và hỏi bây giờ anh đang ở đâu. Lenny nói là đang đứng trước nhà. Ông Nam vội mở cửa ra gặp Lenny thì anh ta cho biết:
-Người mua nhà tuần sau sẽ dọn vô. Hôm nay tôi mướn xe truck lại chở tất cả đồ đạc về để giao nhà cho người ta. Tôi giữ lời bán cho ông bộ bàn ăn này. Ba tôi chắc sẽ vui lắm khi được ở lại xóm này với ông, làm bạn với ông như lúc còn sống.
Ông Nam vừa mừng vừa xúc động nhớ lại ông hàng xóm cụt tay, người thì đã chết nhưng cái duyên vẫn còn lưu luyến trên đời. Sau khi Lenny giao hàng xong, ông Nam đưa trả Lenny một ngàn đồng và nói:
-Tôi trả giá chín trăm là muốn thử coi có thật là tôi có duyên với bộ bàn ăn này của ba anh hay không. Nếu anh không chịu bán tức là tôi không có phần mua nó. Nhưng hôm nay anh gọi tôi để bán có nghĩa là ba anh muốn về đây với chúng tôi. Tôi vẫn trả anh một ngàn như chú anh đã đề nghị với tôi hôm trước vậy.
Lenny rất cảm kích trước sự rộng rãi của ông Nam, trước khi từ giã ra về Lenny còn nói:
-Cám ơn ông đã cho ba tôi có cơ hội ở lại đây dù chỉ là linh hồn. Cầu xin Chúa ban phúc lành cho gia đình ông. Mãi mãi nhớ ông, một người bạn tốt của ba tôi.
Câu chuyện này cho thấy rằng từ con người có cảm xúc cho tới món đồ vật vô tri, phải chăng tất cả mọi sự trên đời đều có duyên số, một sự ngẫu nhiên tình cờ kỳ diệu do bàn tay vô hình của thượng đế sắp đặt mà không ai có thể tiên liệu được. Cái gì của mình thì tự động nó sẽ đến với mình, nếu không thì hãy cam lòng, đừng mất công tìm kiếm chỉ chuốc khổ vào thân. Điều này đồng nghĩa với câu ‘’If you love something, set it free, if it comes back, it’s yours; if it doesn’t it never was’’.


  Người Phương Nam


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 27/Feb/2015 lúc 9:55am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23694
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/Mar/2015 lúc 5:49am

Chuyện Ngày Chúa Nhựt


Sau một ngày quần quật  chăm sóc sửa sang lại vườn tược, nhổ cỏ dại, quét lá khô, dời mấy chậu bông tàn úa quá mùa vô một góc "dưỡng quân", cắt tỉa cây này, bón phân cây nọ và thay nước mới cho hồ nhân tạo; chiều tối cơm  nước tắm rửa xong xuôi, ngồi đưa cái lưng như tấm thớt nhựa hình chữ nhựt ra cho bà xã cạo gió, ông Nam thỏa thê hỏi vợ :
            - Em biết bữa nay chuyện gì làm cho anh hài lòng nhứt không?
Cô Ngân đang mở nắp lọ dầu gió con cọp, vừa thoa lên lưng ông chồng vừa ơ hờ đáp lấy lệ:
            - Thì mua được mấy chậu lan ưng ý, mấy chậu lan mà hổm rày anh ngắm nghía tròm trèm (chưa quyết định) và thòm thèm đó, còn nếu không phải thì là chuyện anh leo thang, trèo lên cây mulberry của hàng xóm sau nhà tỉa sạch mấy cái nhánh de qua nhà mình chớ gì. Cưa gần trọc cây của người ta rồi mà vẫn chưa vừa ý. Nói anh hòai hà, hơn bảy chục tuổi rồi mà cứ leo cây gần tới trên ngọn, bà hàng xóm kế bên thấy còn giựt mình la lên “ Oh my God! be careful Peter, too dangerous, get down please” mà anh còn cười cười đứng trên đó nói huyên thiên, ai cũng sợ anh té hết. Làm như mình là thanh niên trai tráng còn gân lắm vậy. Gãy xương lọi cổ có ngày đó.
Ông Nam không để ý giọng mát mẻ của vợ lắc đầu nói:
            - Không phải, chuyện mua lan thì có tiền là mua được chớ gì. Còn cưa cây thì thỉnh thỏang anh cũng cưa hòai, cũng thường thôi.
Cô Ngân bắt đầu thấy bực ông chồng bướng bỉnh, mạnh tay  cạo vào lưng làm ông Nam nhảy nhổm kêu lên:
              - Nhẹ tay một chút, làm gì như khảo tù vậy.
           - Ai biểu nói hòai mà không nghe, gìa rồi, nhiều người đi dưới đất còn không vững, còn ông dám xách cưa trèo lên cao chót vót cưa cắt ở trển, nhìn lên thấy muốn đứng tim. Lúc trước tui còn đứng ở dưới theo ông, chờ lôi mấy cái nhánh ông cưa rớt xuống  đem cắt ngắn bỏ vào thùng phụ ông, mỗi lần như vậy tui cứ phải hồi hộp phập phồng cầm canh, năn nỉ ông xuống thì ông nói cưa lần này nữa rồi thôi nhưng mà ông vẫn bổn cũ sọan lại hòai. Bây giờ tui không thèm nói và dòm chừng ông nữa, kệ ông, hễ ông leo lên  cây là tui đi vô nhà, chờ khi nào nghe rớt cái bịch thì tui kêu ambulance thôi. Khỏi mắc công bị  heart attack oan mạng. Người nào mà nghe tui nói vậy chắc nghĩ tui là ác phụ chớ họ đâu có biết ông stubborn tới cở nào. Cuộc đời của tui tòan là bị ông hại không hà. Hồi xưa ông làm tui đau tim vì yêu ông, bây giờ ông làm tui tức chết vì cái tánh ngoan cố khó ưa của ông.
Nghe bà xã bắt đầu bỏ giọng “ông ông, tui tui”, ông Nam vả lả:
            - Anh biết liệu sức mình mà chớ đâu dám ẩu. Không mé nhánh thì tới mùa thu lá chết rụng đầy sân nhà mình, quét hòai mệt quá đi.
Cô Ngân có lẽ “ứa gan” vụ cưa cây của ông xã trong bụng đâu từ hồi đời nào rồi nên sẵn dịp xả luôn một tràng dài :
            - Ông không có tâm hồn thi sĩ chút nào hết. Lá rơi mới là nên thơ, quét hết ba cái lá còn đâu là ý thơ  “mùa thu lá rụng bay vào sân em” như trong bài “Trúc đào”. Ủa mà trúc đào quanh năm suốt tháng có bao giờ thay lá đâu, lại là lọai cây có chất độc số một nữa chớ, ông nào làm bài thơ này không biết có biết cây trúc đào ra sao không nữa. Nghĩ lại nhà thơ xạo thiệt. Còn ông thì thực tế quá. Có cái tàng cây hàng xóm cho mình bóng mát mùa hè,  cho thơ mộng lá rơi mùa thu, cho khắc khỏai mùa đông trơ cành để xuân về lại xanh thắm lá non. Tất cả bốn mùa là ở đó, cứ nhìn cây là biết sắp tới mùa nào. Vậy mà cứ vài tháng thấy nó vừa lú ngọn là ông lại leo lên cưa cụt đầu nó, nhìn cái cây nham nhở thấy mà tôi nghiệp! Tức gì đâu ! Ông nói ông biết liệu sức mình mà bây giờ biểu người ta cạo gió như vầy hay sao? Trời thì lạnh, gió thổi ào ào mà đứng trên cây cả tiếng đồng hồ. Tới chừng tuột xuống rồi thì lại te te chạy qua nhà hàng xóm hái cả trăm trái cam đứng hứng gió nữa chớ, không bệnh cũng uổng.
Ông Nam chận lời bà vợ :
            - Không uổng chút nào, chuyện mà anh khóai nhứt hôm nay là chuyện hái cam bên nhà ông Jeff đó đa. Từ hồi dọn về đây tới bây giờ, mình ở kế bên nhà ổng mà đâu có biết gia cảnh ổng như thế nào, nhà to đất rộng mà thấy ổng ở có một mình với mấy cây cam. Mấy cây cam của ổng mùa hè thì trổ bông trắng xóa thơm lừng cả xóm, mùa đông thì ra trái vàng hực sum suê đầy cành. Có mấy nhánh de qua nhà mình, đếm ra cũng đến mấy chục trái thấy mà ham. Hai bữa rày anh qua kiếm ổng mấy lần mà không gặp ổng ở nhà, anh định hỏi mua cam của ổng mặc dầu  hôm trước ổng có nói nhánh nào thòng qua nhà mình thì cứ hai ăn tự nhiên. Cam của ổng là organic không có xịt thuốc hay phân hóa học như cam bán ngòai chợ, vắt nước cho mấy thằng cháu uống tốt hơn cam chợ nên anh muốn mua một mớ. Vậy mà tới bữa nay mới gặp được ổng.
Duỗi duỗi tay cho đỡ mỏi, cô Ngân lại tiếp tục “thuyết pháp” :
            - Thì cũng chỉ được một hai tuần thôi, mình vẫn phải mua ngòai chợ chớ cam của ổng đâu có trái quanh năm cho mình. Rồi ổng nói sao mà anh rinh về bốn giỏ cam đầy nhóc vậy. Cái tật anh sao hay chứa cho nhiều, Em nói hòai cái gì cũng vậy , ăn tới đâu thì mua tới đó, nhiều quá phải kiếm chỗ cất rồi ăn không kịp nó hư lại phải sọan bỏ. Làm chi cho phiền phức thêm công chuyện. Mà tòan là em “lãnh đủ” không hà, anh mua cho thỏa chí rồi bắt em dẹp. Bỏ nhiều hơn ăn. Anh nghĩ lại coi có phải vậy không?
Ông Nam xuôi xị nói:
            - Ờ thì cũng phải, nhưng mà em nghĩ coi, thấy ham quá mà, hái không muốn ngừng tay, lại nữa vừa hái vừa trò chuyện với ổng nên không để ý là được bao nhiêu rồi, tới một hồi nhớ sực lại đem về không biết để đâu thế nào cũng bị em la mới thôi đó chớ. Anh trả hai chục đồng cho ổng thấy vui, thấy hãnh diện vì cây nhà lá vườn của ổng có người  chiếu cố hỏi mua. Hái cả mấy giỏ mà nhìn lại cây vẫn còn y nguyên không vơi trái nào. Bữa nay mới thấy ổng cười, ổng nói chuyện nhiều lắm. Em biết ổng bao nhiêu tuổi không?
Cô Ngân vẫn đều tay cạo gió đáp bừa:
            - Chắc phải hơn bảy mươi. Thấy ổng già hơn anh, tướng đi lụm cụm quá.
Ông Nam cười:
            - Sai bét, ổng nhỏ hơn anh mười tuổi lận, mới có 63 thôi. Hồi đó tới giờ cứ tưởng ổng gìa lắm chớ, ai dè hồi anh học lớp nhì ở Việt Nam thì bên Úc ổng còn chưa…mặc  quần nữa, nói rõ hơn là ổng còn bận tả. Ổng ở căn nhà này với ba má ổng từ lúc mới sanh cho tới bây giờ đó. Cái trường tiểu học ở đầu đường nhà mình là ngôi trường đầu tiên ổng đi học lúc lên năm tuổi. Cả đời không từng có vợ. Hỏi ổng sao vậy, ổng nói “to much trouble”. Hỏi ổng có bạn gái không. Ổng cười nói “ hồi 7 tuổi tôi có để ý nhỏ bạn học chung lớp, tôi hỏi cô bé chịu lấy tôi không, cô bé chỉ cười cười e thẹn, hồi đó còn con nít mà biết cái gì”. Anh hỏi ở một mình vậy ông có thấy buồn tẻ cô đơn không? Ổng nói “tôi quen rồi, trời sinh tôi ra với phần số như vậy mà. Tôi không thấy cô đơn chút nào cả. Tối nào tôi cũng nói chuyện với má tôi, má tôi thương tôi lắm và tôi cũng rất thương bà”.  

  
Cô Ngân tò mò:
            - Vậy má ổng ở đâu, sao mình chưa hề thấy bà nào trong căn nhà đó hết?
            - Ổng nói má ổng chết lúc ổng mười chín tuổi. Còn ba ổng thì mới qua đời cách đây năm năm. Bây giờ chỉ còn mình ổng. Anh mới hỏi vậy má ông có trả lời ông không? Ổng nói  “có chớ, đêm nào tôi cũng nói cả tiếng đồng hồ với má tôi bằng tâm linh và tôi nghe bà trả lời. Gặp chuyện gì khó khăn tôi cũng hỏi ý bà và bà hướng dẫn cho tôi biết phải làm sao”.
Ông Nam kể tiếp với vợ:
            - Hèn chi mà đêm nào anh đi tản bộ ngòai sau vườn cũng nghe ổng trò chuyện với ai đó, mà nói lớn lắm, anh cứ tưởng ổng có khách dẫn ra sau vườn chơi. Ai dè…
Cô Ngân rùng mình:
            - Thiệt không đó? Nghe phát ớn lạnh nổi da gà. Chắc ổng tưởng tượng vậy cho đỡ cô độc, thấy như má ổng vẫn ở bên cạnh ổng. Em có cảm tưởng ông này giống như anh chàng khù khờ Forrest Gump trong phim Forrest Gump mà mình đã coi hồi năm nào đó. Chỉ nhớ mang máng là chuyện một người đàn ông từ nhỏ đã không có cha, sống với bà mẹ trong một trang trại ở một làng quê hẻo lánh. Ở đó anh ta có rất nhiều kỷ niệm thời niên thiếu với mẹ, với cô bạn gái nhỏ đáng thương sớm mồ côi mẹ, sống với người cha vô trách nhiệm suốt ngày say xỉn. Vì anh ta bị tật bẩm sinh, đi đứng không giống ai nên thường bị chúng bạn chế diễu ngạo cười. Chỉ có cô bạn nhỏ mới chịu chơi chung với anh ta và bênh vực anh ta thành ra hai đứa trở thành mục tiêu cho lũ bạn  chọc ghẹo hiếp đáp. Lớn lên, anh ta nhập ngủ rồi đi đánh trận ở Việt Nam. Nhờ khù khờ, điếc không sợ súng nên ngẫu nhiên anh ta lập được chiến công, cứu ông sĩ quan cấp chỉ huy của mình thóat chết trong đường tơ kẻ tóc. Sau khi giải ngủ, anh ta về lại quê xưa, gặp lại cô bạn cũ và có một đứa con với cô ta mà không hề hay biết. Mãi đến khi cô bạn gái ấy biết mình sắp chết vì căn bệnh nan y, cô ta mới tìm đến anh chàng này để giao lại đứa con. Anh ta  làm đám cưới với cô ấy nhưng không được bao lâu thì vợ anh ta chết.

Chuyện thật cảm động, thật buồn. Từ đầu cho tới cuối phim, anh ta là người kể chuyện, ngồi trên chiếc băng ghế ở trạm xe bus bên đường cầm hộp  chocolate, gặp ai cũng mời ăn. Người đi kẻ đến, mỗi người nghe một đọan, có người chăm chú lắng nghe, có người thờ ơ không hứng thú nhưng anh ta vẫn cứ kể, cuối cùng ráp nối lại thành  chuyện đời anh ta, một cuộc đời lẻ loi cô độc, bất hạnh từ nhỏ cho tới lớn. Nhưng kết cuộc anh ta cũng được an ủi bù đắp bởi còn được mụn con bên mình, món quà vô giá của thượng đế thương  tặng. Thấy thương nhứt là anh ta cứ lập đi lập lại mấy câu nói của bà mẹ khi còn sống “My Mommy always said,  life was like a box of chocolates. You never know what you’re gonna get” (má tôi thường nói cuộc đời giống như một hộp chocolate đủ loại mà mình không hề biết lọai nào ra sao cho tới khi mở ra ăn thử) và một câu khác nữa là “You have to do the best with what God gave to you”(con hãy cố gắng làm tốt nhứt những gì trời đã cho con).

Hôm nay nghe chuyện ông Jeff hàng xóm mình, em nghĩ ông này chắc cũng cần người tâm sự như Forrest Gump ngồi kể chuyện bất cần ai nghe ai hiểu, cứ nói, cứ bộc bạch ra cho nhẹ cỏi lòng, cho thỏai mái tâm tư như là có người chia sẻ. Người câm còn muốn nói, không nói được thì diễn tả bằng thủ ngữ huống chi người không câm. Mình nói cứ nói, ai nghe không nghe thì thôi bởi vì “nói” cũng là một nhu cầu như nhu cầu ăn uống, thở họăc ngủ vậy.  À, rồi sao anh chạy về kêu em đưa máy chụp hình cho anh làm chi vậy?
            - Anh nghĩ chắc ổng không có dịp và cũng chưa từng được ai chụp hình cho hết nên đề nghị chụp cho ổng vài pose hình đứng giữa vườn cam. Ổng mừng lắm chịu liền. Ổng lại nói thêm  về má ổng, nói bảy cây cam này là do má ổng mua về trồng lúc ổng lên mười tuổi. Mỗi năm tới mùa cam chín rộ, má ổng hái xuống làm mứt vô keo cất trong tủ lạnh cho gia đình dùng quanh năm sau khi đã chứa tối đa  trong freezer một số trái để ăn dần dần. Năm nào bà cũng mua cả chục bao cow manure về bón cho tốt cây sai trái. Từ khi má ổng qua đời, ổng rất thương quý mấy cây cam, chăm sóc chúng như phụng dưỡng má ổng vậy. Ổng không biết làm mứt, chỉ chứa trong freezer ăn cho tới mùa cam năm sau. Mỗi chiều ổng ra gốc cam nói chuyện với má ổng  tưởng như bà  còn sống, lẩn quẩn quanh đây. Nghe thật cảm động. Anh nói với ổng vậy tối nay ông hãy nói  với má ông là tôi rất thích cam của bà và đã hỏi mua, nói cám ơn bà đã trồng những cây cam này để giờ đây tôi cũng được hưởng phần nào. Ổng nghe vậy vui lắm nói “I vill, she must be very happy to hear that” (Tôi sẽ nói lại, chắc bà sẽ vui lắm).
Vừa lúc cạo gió xong, cô Ngân kéo áo ông chồng xuống vừa thở dài nói:
            - Tội nghiệp ông này quá hả, cả cuộc đời hẩm hiu quạnh quẽ một mình. Rồi đây càng ngày càng già nua bệnh họan, một mai có chết trong nhà cả tuần chắc cũng không ai hay. Nhà ổng quanh năm suốt tháng cứ đóng cửa im lìm, không hề có ai thăm viếng, cũng không bao giờ nghe nhạc nhiếc party gì hết. Chừng nào anh rửa hình xong, em sẽ mua cái khung để hình ổng vô, đem qua  tặng ổng cho ổng thấy ấm lòng. Như vây thì bữa nay anh đứng ngòai trời bị cảm lạnh cũng đáng và em cạo gió cho anh cũng không uổng. Đổi lại mình có thể chia sẻ  với người ta được chút niềm vui. Chắc từ nay anh nên qua thăm chừng dòm ngó ổng thường xuyên hơn mới được.   
Ông Nam nheo mắt cười trêu vợ:
            - Chà, chạm tới con tim bà xã tui rồi hả? Sao không la nữa đi? Anh làm bao nhiêu chuyện mà không bao giờ thấy em appreciate hết, còn nghe tới chuyện người ngòai thì sốt sắng quan tâm. Bụt nhà không linh chớ gì?
Cô Ngân chống chế phân bua:
            - Không hẳn vậy, nếu anh làm chuyện gì hợp ý em thì em cám ơn anh lắm chớ nhưng đàng này anh chơi khôn, tòan làm theo ý anh không hà, chẳng hạn như anh nói anh trồng hoa làm vườn cho em hưởng em ngắm nhưng anh chỉ trồng những lọai anh thích, còn lọai nào em thích thì anh chê anh ghét không thèm tưới để cho nó chết khô hoặc dời nó vô trong hốc trong  kẹt. Mỗi lần đi mua bông, hễ  em nói thích màu này thì anh nói anh thích màu kia, rốt cuộc chỉ mua những màu anh chọn. Bất mãn thì có chớ appreciate cái nổi gì. Đó chỉ mới là chuyện bông hoa thôi đó, còn biết bao nhiêu chuyện khác trong cuộc sống vợ chồng hằng ngày mà lúc nào mình cũng bất đồng ý kiến, thử hỏi làm sao mà hạnh phúc cho được. Đành rằng vợ chồng nào cũng có những lúc tranh cãi, nhưng nếu suốt cả cuộc đời là cả một cuộc tranh cãi trường kỳ thì chán nãn mệt mỏi quá đi. Tốt hơn là im lặng, xuồng ai nấy chèo, hồn ai nấy giữ cho xong, cho qua kiếp này.
Nhìn vào tình cảnh ông Jeff, người ngoài như mình thấy ái ngại cho ổng nhưng biết đâu ổng là người hạnh phúc,  không ai làm phiền ổng mà ổng  cũng không làm phiền ai, cứ thỏai mái rong chơi một kiếp rồi ung dung ra về, không bận bịu nắm níu chi chi. Lý giải theo thuyết nhà Phật thì có lẽ kiếp trước ổng không mắc nợ ai cả cho nên kiếp này ổng thóat khỏi cái vòng hệ lụy lẩn quẩn lấy vợ gả chồng sinh con đẻ cháu, một mối quan hệ ràng buộc gia đình thật ấm áp thiết thực mà ai cũng phải có  nhưng suy cho đúng ra có lẽ là do nợ nần oan gia từ tiền kiếp,  “to much trouble” như ông Jeff đã nói. Như tụi mình đây chắc chắn là có nợ nhau cho nên  dù xung khắc  vẫn phải chung sống bên nhau tới bây giờ. Anh thấy phải không?
Ông Nam gật gù nói lấy lòng vợ :
            - Thì vậy, nhưng dẫu sao anh thấy sống độc thân là không hợp lẽ trời. Vạn vật trong trời đất cái gì cũng  có âm có dương, có đôi có cặp. Nếu mình đi ngược lại luật thiên nhiên là sai nguyên lý, phản tự nhiên, bất bình thường. Cho dù vợ chồng con cái có là nợ nần hay là oan gia nghiệp báo gì đi nữa thì anh cũng xin nhận lãnh cái nợ đó và ước ao đuợc chung sống mãi với những oan gia nghiệp báo của mình đến ngày cuối của cuộc đời.…

 Người Phương Nam
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 02/Mar/2015 lúc 8:46am

Ba Tôi Đi Bệnh Viện


Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ, một người đi mổ cả họ bệnh lây là hòan cảnh chung của những ai có thân nhân phải nằm bệnh viện, nhứt là người bệnh đó đã ở vào tuổi bát tuần, lại bị trở ngại về ngôn ngữ mặc dù phương tiện và dịch vụ y tế ở những xứ biết quý trọng sinh mạng con người như xứ Úc này rất là chu đáo chặt chẽ và tận tâm.

Bước vào thang máy để lên lầu hai thăm người cha đamg nằm bệnh viện, chị em tôi đã thấy có năm bảy người đứng sẵn trước mình, người nào người nấy đều có vẻ mặt bơ phờ mệt mỏi lo âu không khác chi mình. Ba tôi vào nhà thương mấy ngày trước và sáng hôm kia đã được giải phẩu về bệnh sưng tuyến tiền liệt. Năm nay ông đã 85 tuổi, lứa tuổi tuy đã “hết xài” đối với xã hội nhưng đối với gia đình, ông là người cha, là ông ngọai, ông cố vô vàn kính yêu, hiền lành như bụt, suốt một đời chỉ biết căm cụi chăm chút lo gia đình, thương yêu con cháu, một thâm tình cốt nhục bao la như trời biển mà chúng tôi có bổn phận phải  phụng dưỡng báo hiếu cho đến ngày ông mãn kiếp lìa đời.  

Từ khi qua Úc đòan tụ gia đình cho tới nay đã mười chín năm, một thời gian quá dài đủ cho một thế hệ trưởng thành, quá lâu để ông có thể  thông thạo, hội nhập với xã hội và đời sống ở đây, một xứ sở xa lạ không phải là quê hương nói tiếng mẹ đẻ của mình. Nhưng vì lúc ban đầu ông không chịu học tiếng Anh, cũng không thích tham gia những sinh họat chung trong hội người gìa dù rằng ông là hội viên, lại cũng không có dịp gặp gỡ bạn bè đồng hương cũ. Ai đến thăm ông thì thăm còn không thì nhà ai nấy ở, hồn ai nấy liệu. Ngày ngày ông chỉ quanh quẩn trong nhà với má tôi, lúc còn khỏe thì đưa rước cháu đi học, thỉnh thỏang ra shop hớt tóc và mua chút nhu yếu phẩm gì đó, hoặc đi tản bộ lòng vòng quanh xóm cho có “exercise” rồi thôi. Những gì ông biết được về xã hội bên ngòai chỉ là qua chương trình phát thanh Việt ngữ đài SBS với những tin tức cập nhựt hằng ngày. Vì cách sống cô lập chẳng bao giờ tiếp xúc với ai mà ông mất hẳn niềm tin tự bảo vệ, ông cảm thấy rất hoang mang sợ hãi  mỗi khi gặp phải chuyện gì xảy đến cho bản thân ông.

Cả tuần trước ngày mổ, chị em chúng tôi ba đứa phải cổ động tinh thần, trấn an ông hết lời, nói rằng nhà thương ở đây người ta làm việc rất cẩn thận đàng hòang chớ không phải như nhà thương ở Việt Nam bất kể  mạng người, chết ai nấy chịu. Không cần mình yêu cầu, đòi hỏi hay dặn dò, người ta cũng chữa trị tận tình cho bệnh nhân theo đúng nguyên tắc và phương pháp của mỗi bệnh trạng. Tôi đem mớ kinh nghiệm những lần đi mổ nằm nhà thương nói lại cặn kẻ cho ông nghe chẳng hạn như trước khi vào phòng mổ, người ta sẽ kiểm tra lại tên tuổi, ngày sinh và bệnh trạng của mình. Sau đó bác sĩ sẽ gây mê bằng cách tiêm một mũi thuốc vào mạch máu hoặc chụp thuốc  mê lên mũi. Lập tức mình sẽ ngủ mê ngay và khi tỉnh lại thì bệnh của mình đã được giải quyết xong hòan tòan. Có thể mình sẽ bị nôn mữa vài lần do ảnh hưởng của thuốc mê. Sau đó, nếu không có biến chứng gì, mình sẽ được đưa về  phòng nằm tịnh dưỡng. Tối đến, nhân viên y tá sẽ thay phiên thăm chừng, đến đo nhiệt độ và huyết áp mỗi hai tiếng đồng hồ họăc cho mình uống thuốc nếu cần.

Nhưng ông vẫn cứ nơm nớp lo sợ, tinh thần ông suy nhược trầm trọng.  Ông lo lắng đủ điều, sợ đau không biết làm sao nói, sợ xảy ra chuyện gì hay cần gì không biết làm sao diễn tả với nhân viên bệnh viện v v... Biết vậy cho nên trước khi ông nhập viện, cậu em tôi đã viết sẵn  vào một  tập giấy bằng song ngữ Việt và Anh những điều cần thiết mà có thể ông cần y tá giúp đỡ nửa đêm nửa hôm hoặc những lúc con cháu chưa kịp vào với  ông.

Nhưng khổ nổi, tối hôm qua không biết ông lẩn thẩn thế nào, quên là mình mới mổ ngày hôm trước và còn đang nằm nhà thương, ông quờ quạng ngồi dậy định xuống giường. Nhưng vì ba cái dây nhợ chuyền nước biển và bọc chứa nước tiểu  vướng vít chằng chịt làm ông lúng ta lúng túng vấp ngã, chừng đứng lên được thì cây kim ghim vào mạch máu chuyền nước biển bật sút ra làm máu me tuôn lai láng. Ông khụyu xuống sàn nhà bò lê bò lết quơ được cái khăn tắm quấn tạm lại cánh tay . Vừa lúc ấy may sao tới giờ y tá trực đến thăm bệnh thấy vậy vội vã đỡ ông lên rồi kêu người tới phụ băng bó. Từ đó ông không ngủ lại được, nằm trằn trọc cho tới sáng. Vừa hừng sáng ông đã gọi phone về nhà cho hay tự sự làm ba chị em tôi sốt vó cuống cuồng lên.

Đây đâu phải là lần đầu tiên ba tôi gọi về làm chúng tôi hết hồn như vậy. Trong đêm trước ngày mổ, vì quá lo sợ, ông bị khủng hỏang tinh thần gần như lảng trí. Ông không ngủ được mặc dù đã được uống thuốc ngủ lúc đầu hôm. Ông cứ tưởng mình đang ở nhà, ngồi dậy đi tới đi lui rồi ra thẳng cửa phòng lần dò định đi xuống cầu thang. Các y tá thấy vậy sợ ông đi lạc mới dẫn ông trở vào phòng bắt ông lên giường nằm và kéo hai song giường lên chận giữ ông lại. Ông vùng vẫy kêu la khiến y tá không biết ông muốn gì phải gọi phone về cho cậu em tôi. Lúc đó là đã gần 12 giờ khuya. Cậu em sắp sửa đi ngủ thì nghe điện thọai reo vang. Bên kia đầu giây ông khóc ròng nói không biết là họ muốn làm gì mà quấn ông chặt cứng  và nhốt lại trong giường không nhúc nhích cục cựa gì được hết. Ông nói ông thấy lạnh quá và muốn đi xả bọc nước tiểu mà người ta không cho đi. Cậu em phải giải thích với y tá rồi nói chuyện lại với ông già,  nói ông hãy bình tỉnh, đừng lo sợ gì hết. Cứ kể như mình bị điếc. Mà điếc thì còn sợ súng gì nữa. Nếu ngủ không được thì  cứ nằm nhắm mắt dưỡng thần dưỡng sức để ngày mai còn giải phẩu. Sáng mai cậu ta và nhỏ cháu sẽ vào sớm cho ông yên lòng trước khi vào phòng mổ và hai đứa sẽ ở lại cho tới khi phẩu thuật hòan tất xong xuôi.

Và lần thứ hai là ngay cái đêm vừa mới mổ xong. Gần nửa đêm, ông thức giấc vì vết mổ hành đau nhức, ông bấm chuông gọi y tá và lật sẵn trang giấy có viết câu “Tôi bị đau” rồi nằm chờ  nhưng rủi thay cái chốt điện của cái buzzer không biết lỏng lẻo trục trặc thế nào mà các y tá không nhận được cú gọi nào của ông.  Ông bấm liên tục mấy chục lần nữa vẫn không có ai tới cho nên ông lại kêu về nhà. Cậu em nghe ông già nói vậy mới nóng ruột nổi xung thiên gọi cho y tá trưởng  hỏi sao ba tôi bấm chuông  mấy chục lần mà không ai tới coi ông cả. Lúc đó mấy thầy cô y tá mới hớt hãi chạy lại phòng ông xem xét lại cái buzzer thì mới hay là nó bị lỏng chốt điện. Họ rối rít nói xin lỗi với cậu em và ông già.      

Từ hôm ông nhập viện cho tới hôm nay là đã năm ngày, ngày nào chị em chúng tôi cũng chia phiên nhau có mặt ở bệnh viện với ông gần như suốt. Mỗi sáng sau khi đưa hai cháu ngọai đến trường, trên đường đi tới bệnh viện, vợ chồng chúng tôi ghé lại nhà cô em gái chở cô đi theo để cô ở lại chăm sóc ông. Ba tôi sống chung nhà với cô em gái cho nên cô rất hiểu rành tánh ý,  thói quen của ông, có thể nuôi bệnh ông chu đáo hợp ý ông hơn là các cô y tá. Ông không ăn được đồ ăn của bệnh viện, nói chỉ nghe mùi thôi đã thấy muốn nhợn rồi. Vì vậy tôi có bổn phận lo thức ăn cho ông, ngày nào vào thăm cũng đều mang theo vài món coi ông ăn được món gì thì ăn. Buổi trưa khỏang gần 12 giờ thì hai vợ chồng chúng tôi đi về vì xế chiều còn phải rước cháu và lo nấu ăn. Tội nghiệp em gái tôi là cực nhứt, cô phải ở lại với ông cho tới chiều, cậu em đi làm về ăn cơm xong mới cùng vợ nó vào ở tới 9 giờ đêm. Công viêc nuôi người bệnh là một công việc cực kỳ nhàm chán uể ỏai và mất sức không thể tưởng. Nếu không vì muốn chia sẻ, an ủi tinh thần cho người thân của mình thì chắc không ai có kiên nhẫn chịu đựng ngày này qua ngày nọ trừ phi đó là nghề nghiệp do mình tự chọn. Người bệnh bất đắc dĩ phải nằm một chỗ đã đành chớ người không bệnh cứ phải xớ rớ theo  bệnh nhân và lẩn quẩn trong phòng bệnh cả ngày không làm gì được tất nhiên sẽ cuồng tay cuồng chân, đờ đẩn từ thể xác đến tinh thần phát bệnh luôn. (Tôi đã có kinh nhgiệm này vài phen với ông xã và ngược lại ông xã cũng đã vất vả bao lần vì tôi mặc dù tôi nói không cần).

Và hôm nay cũng vậy. Lên đến phòng bệnh, thấy ba tôi đang ngồi dựa ở chiếc ghế bành, mặt mày nhợt nhạt, mắt lõm sâu thâm quầng, thần sắc mệt mỏi, tôi chạy lại  bên ông hỏi:
            - Hồi sáng này ba ăn được không? Con có nấu nouille (paste) với soup và cơm trắng thịt kho tiêu đem lại cho ba ăn nè. Ba muốn ăn liền một chút không, còn ấm ấm đây.
Lan, cô em tôi chen vào:
            - Nếu không thì để trưa con hâm nóng lại cho ba ăn trưa luôn thể. Hồi tối ba làm sao mà  cây kim văng ra vậy? Rồi chảy máu nhiều lắm hả ba? Để chút nữa anh Hai lên con nhờ ảnh hỏi bác sĩ trực coi như vậy thì có cần tiếp máu thêm cho ba không. Nhà thương tư gì mà làm việc bất cẩn quá. Hồi sáng con Dung (con gái tôi) nó nghe nói lại chuyện tối hôm qua ba liên lạc với y tá không được và thêm vụ chảy máu hồi khuya này, nó đùng đùng nói sẽ gọi điện thọai hoặc trực tiếp khiếu nại với ban giám đốc về sự lơ là tắc trách của nhân viên ở đây cho họ biết.
Ba tôi yếu ớt bảo:
            - Tụi con nói với con Dung làm chi vậy. Con nhỏ đó nó nóng tánh quá đi. Tại mình xui xẻo chớ cũng không phải tại người ta hết đâu. Chuyện qua rồi thôi. Đừng làm lớn chuyện, gây xích mích làm gì, mìmh đâu có ở đời nơi này đâu.
 Vừa lúc ấy, ông xã tôi cũng đã lên tới sau khi quần tới quần lui mấy vòng tìm chỗ đậu xe. Ông xã tôi chào ông già vợ:
            - Chào ba, bữa nay ba thấy đở chút nào chưa? Hồi tối qua ba lại mất ngủ nữa hả?
Ba tôi lắc đầu:
            - Đêm nào cũng xảy ra chuyện làm không ngủ được. Mình không biết tiếng nói của người ta  thiệt khổ quá anh nó ơi. Có miệng mà  cũng như câm, không hỏi không nói gì được với ai hết. Cứ phải chờ con cái vô. Không biết chừng nào tôi mới được về nhà nữa đây. Ở trong này một ngày nó lâu như một tháng. Ngồi đi anh nó. Làm phiền anh phải chở tới chở lui chị em nó mỗi ngày, tôi  thấy ngại quá.
Ông xã tôi cười khóat tay :
            - Có gì đâu ba. Chuyện đó là bổn phận của con mà. Ba yên tâm đi. Bệnh này là bệnh thông thường ở người lớn tuổi. Bác sĩ nói ca mổ thành công lắm, tối đa là ở nhà thương thêm ba bữa nữa để người ta theo dõi coi mình  bài tiết nước tiểu bình thường lại thì sẽ cho về. Hôm nay là thứ sáu, con nghĩ chắc qua thứ hai tuần sau ba sẽ  được về. Mà muốn vậy thì ba phải rán ăn uống  và ngủ nghê nhiều hơn cho mau lại sức.
Lan như sực nhớ điều gì ái ngại nói:
            - À, mấy bữa nay ba mình có vẻ như lẫn vậy đó anh Hai. Nhà tắm, toilet ở ngay trong phòng  mà mỗi lần muốn đi vệ sinh là ba cứ đi thẳng ra cửa như đang ở nhà. Còn nữa, y tá căn dặn ba phải uống nước thật nhiều để thải hết chất độc trong bọng đái ra thì ba nói với Lan, “nếu vậy ba phải đi nấu nước chứa thêm mới được”. Rồi ba ngồi dậy tính đi nấu nước. Lan mới nhắc ba là mình đang ở  nhà thương thì lấy cái gì mà nấu. Người ta có sẵn nước lọc cho mình rồi. Chừng đó ba mới nhớ ra hỏi lại “Vậy hả? ”     
Ông già có vẻ bất bình lớn giọng: 
            - Ba đâu có lẫn, muốn kêu điện thọai cho ai ba cũng nhớ số bấm liền cái một, không cần coi sổ gì hết.
Tôi phân giải:
            - Ba nói phải đó. Chắc tại thình lình bị vô nhà thương, ba chưa thích nghi hòan cảnh  nên hơi xà bát lộn xộn đầu óc một chút vậy mà. Mà cũng không cần quen làm gì. Vài bữa nữa về nhà rồi mọi thứ sẽ bình thường như cũ thôi. Không có sao đâu.
Ông già gật đầu :
            - Chị Hai con nói phải đó, để ba kể chuyện đời xưa cho tụi con nghe rồi sẽ biết là ba có lẫn hay không. Mấy đêm nay ngủ không được, nằm một mình trong này, ba ôn lại cuộc đời của ba từ nhỏ cho tới bây giờ, hết chuyện này tới chuyện nọ, giống như  mình coi phim tập vậy đó. Nhớ hồi ba còn nhỏ, ông bà nội con rất nghèo, ba có bốn anh em. Bà nội thì ở nhà lo chuyện nhà và con cái. Ông nội làm “tổng khậu” nấu ăn cho một nhà máy xay lúa rất nhiều nhân công. Tiền lương ông nội chỉ đủ nuôi ăn cho vợ con, ngòai ra nếu bệnh họan hay có chuyện gí xảy ra thình lình thì phải đi vay mượn hay tìm cách nào đó. Tương lai rất bấp bênh. Vì vậy  mỗi ngày đi học về mấy anh em ba phải đi làm mướn  linh tinh chẳng hạn như lãnh bột về se bánh tằm hay tới lò bún phụ người ta chuyện lặt vặt. Chuyện gì vừa sức mình ba đều nhận lãnh thậm chí mấy thằng bạn con nhà giàu trong lớp mướn ba làm thủ công góp cho thầy, ba cũng làm luôn để kiếm thêm chút tiền phụ giúp gia đình.

Lớn lên, nhờ biết chữ, ba được giao cho công việc quản lý một nhà máy lúa gạo, hằng ngày chỉ cai quản công nhân, trông coi sổ sách chớ không cần phải lao động chân tay nặng nhọc. Có một lần thấy người ta đánh bạc thắng lớn, ba cũng nóng lòng làm giàu, tưởng dễ ăn, ba đem hết 2000 đồng dành dụm được nướng sạch vô sòng bài. Con biết không, thời đó  tiền giấy có in hình bộ lư 100 đồng trị giá lớn lắm, một căn nhà xòang xòang ở được chỉ khỏang năm sáu trăm đồng thôi. Vậy mà ba thua tới hai chục tờ giấy bộ lư. Nghĩ lại thiệt tức mình sao ngu quá. Ba tiếc hùi hụi cả tháng trời mà không dám nói với  bà nội con.
Ba tôi ngừng lại nghỉ mệt. Lan bưng ly nước cho ba uống và nói :
            - Hồi con lớn khôn tới giờ con đâu có thấy ba đánh bài cờ bạc gì đâu. Ba sống đàng hòang mẫu mực lắm mà. Hàng xóm ai cũng quý mến  nể trọng ba, coi ba như thánh sống vậy.
Ba tôi thở ra nói tiếp :
            - Thì sau lần đó ba quyết chí bỏ hẳn. Cờ bạc là bác thằng bần, mà bần cùng thì sẽ sinh đạo tặc mấy hồi. Cũng may nhờ trời thương cho ba tỉnh táo, biết suy nghĩ thiệt hơn nên sau đó ba  chí thú làm ăn trở lại và để dành tiền cưới vợ. Lập gia đình rồi thì ba càng có trách nhiệm nên càng không dám  rớ tới con bài vì sợ rủi ro sẽ làm khổ cả nhà. Chỉ có vào dịp tết mới chơi vui một vài ván với bạn bè mà thôi.  Ba còn nhớ hồi đó ngày hai mươi chín, ba mươi tết đối với ba nó rất là háo hức vì đó là ngày tính sổ cuối năm. Sau khi kết tóan sổ sách, biết năm đó công ty lời nhiều thì càng mừng vui hơn vì biết chắc rằng nhân viên sẽ được thưởng cho nhiều tiền. Thường thì ngày ba mươi tết ba chỉ đi làm nửa ngày.  Làm xong ba vội vã  về nhà tắm rửa rồi qua nhà ông chủ ăn bữa tất niên với gia đình chủ. Sau đó ông chủ duyệt lại sổ sách rồi chia tiền thưởng cho các nhân viên. Với số tiền hoa hồng đó, mọi người mới xúm nhau gài sòng đánh vài bàn lấy hên năm mới. Chuyện đó cho tới bây giờ là đã gần bốn  mươi năm rồi và mặc dầu đang sống ở xứ Úc nhưng mỗi lần nghe cái bài hát “Câu chuyện đầu năm” là ba lại thấy nao nao nhớ tới những cái tết thời vàng son Việt Nam cộng hòa. Kiếp này đâu còn kiếm lại được. 
Ba tôi lại ngừng kể. Ông xã góp ý :
            - Chuyện mấy chục năm mà ba còn nhớ từng chi tiết như vậy  thì nói ba lẫn sao được mà lẫn. Vậy ba còn nhớ chuyện đi đòi nợ không? Hai cha con mình cứ thỉnh thỏang chở nhau đi  đòi nợ mà có bao giờ đòi được đồng xu cắc bạc nào đâu hả ba.
Ba tôi hớp thêm miếng nước rồi gật đầu:
            - Nhớ chớ, làm sao quên được. Vừa thấy mặt mình là họ đã than con đau vợ bệnh thành ra mình đành ngậm miệng làm thinh. Họ cứ nói thông cảm cho họ, chờ một hai tháng nữa gặt lúa xong rồi sẽ thanh tóan cả vốn lẫn lời nhưng rốt cuộc thì lời không có mà vốn cũng mất luôn. Cũng bởi vì tôi xuất thân từ gia đình nghèo khó cho nên rất thông cảm với hòan cảnh những người thiếu hụt phải đi vay mượn. Tôi không phải là người chuyên môn cho vay ăn lời cắt họng người ta mà chỉ nghĩ làm phước. Ai biết trả thì tốt còn giựt luôn thì mình cứ kể như là mình thiếu nợ người ta kiếp trước, kiếp này người ta lấy lại thôi. Từ nhỏ có lẽ vì là con nhà nghèo cho nên tôi rất biết thân, lúc nào cũng nhún nhường hạ mình với người chung quanh, nhún nhường thôi chớ không phải là khiếp nhược. Dù về sau tôi làm ăn được. có cuộc sống khá giả hơn, tôi vẫn giữ bản tánh nhường nhịn hòa nhã, luôn đem chữ “nhẫn” và chữ “hòa” ra đối đãi với mọi người. Cái gì bỏ qua được thì nên bỏ, đừng quá cố chấp. Cố chấp thì người thiệt hại trước tiên là mình chớ không phải đối phương. Nghĩ kỹ lại thì hình như tới tuổi này tôi chưa hề gây thù kết óan với ai. Còn kiếp trước thì tôi không chắc.

Ba tôi nói đến đây thì một cô y tá bước vào thăm bệnh, lấy nhiệt độ và đo huyết áp. Cô chào mọi người và nói với ba tôi:
            - You are so lucky handsome old man! You have your children all the time. (Ông cụ đẹp lão, ông có phước quá, luôn có con cái bên cạnh).
Ông xã tôi cười nói :
            - Truyền thống người Á châu chúng tôi là vậy đó. Con cái có bổn phận chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ già nhứt là khi ốm đau bệnh họan. Chúng tôi ai cũng cố sắp xếp thời giờ thay phiên nhau có mặt bên ông thường xuyên cho ông  vui và yên lòng dưỡng bệnh.
            - Tinh thần gia đình người Á châu các ông thật đáng phục. Nếu dân Âu Mỹ được phần nào như người Á châu thì những ông bà cha mẹ già đỡ vất vưởng  cô đơn  biết bao. Tôi biết có nhiều bệnh nhân lớn tuổi ở đây, suốt từ khi nhập viện cho tới xuất viện chẳng hề có một người thân nào thăm viếng. Suốt ngày họ nằm chèo queo rất tội nghiệp . Ông cụ đây thật là may mắn. Thôi không làm phiền quý vị nữa, hãy tự nhiên trò chuyện tiếp  đi. Xin chào.
Cô y tá đi ra. Ba tôi quay qua vợ chồng tôi bảo:
            - Thôi tụi con đi về đi. Chiều còn đi rước hai thằng nhỏ nữa. Có con Lan ở đây với ba được rồi. Ờ mà nhớ cản con Dung, kêu nó đừng có thưa gởi gì hết đó nghe. Bây giờ ba đã không có sao, nó đi sinh sự thưa gởi mấy người y tá làm họ bị quở trách họặc bị đuổi việc thì mình không yên ổn lương tâm đâu. Ai cũng phải nhờ vào công việc để kiếm sống, nếu mình báo hại người ta mất chén cơm thì nặng tội lắm đó. Đừng vì ích kỷ muốn hả hơi mà làm chuyện bất nhân như vậy. Con về nói phải quấy cho nó nghe. Đời còn dài, còn gặp biết bao nhiêu chuyện bất mãn hơn. Đâu phải lúc nào mình cũng suông sẻ thắng thế đâu. Hôm nay mình bỏ qua cho người ta thì ngày mai người ta xí xóa cho mình. Khi người khi ta là vậy đó.
Tôi trấn an ba tôi:
            - Ba đừng lo,  để con nói lại với nó. Con rất hiểu đạo lý  ở đời . Tụi nhỏ lớn lên ở xứ này không có được sự suy nghĩ như mình bởi vì bọn nó ít có dịp chịu khổ chịu cực và cũng vì ảnh hưởng tính khí bộc trực của dân Úc cho nên rất háo thắng, đụng đụng một chút là muốn làm cho ra lẽ, chuyện gì cũng muốn sòng phẳng thẳng thừng. Ngày mai thứ bảy, nó nói xế chiều sẽ vô thăm ba. Hay là ba dạy nó giùm con một chút đi. Dù gì nó cũng kính nể ông ngọai hơn con là má của nó.     
Và quay sang cô em, tôi nói:
            - Vậy anh chị về trước nghe. Bây giờ cũng sắp tới giờ ăn trưa rồi. Lát nữa người ta đem đồ lại, nếu có món nào ba thấy được thì nói ba rán ăn đi, tuy nó không hợp gout mình nhưng đủ dinh dưỡng hơn thức ăn mình nấu. Hộp paste này nhiều lắm. Có phần cho Lan ăn trưa luôn đó. Lan hãy sớt một nửa ra mà ăn. Đừng có ăn ba cái biscuits và chips hòai, bệnh chết.
Lan gật đầu:
            - Dạ, anh chị về đi. Sáng mai hai vợ chồng Lan vô buổi sáng, anh chị cứ đi chợ cho xong rồi trưa vào thế cho Lan. Còn chiều tối thì tới phiên hai vợ chồng thằng Tony. Cầu cho ba  mình mau bình phục về nhà. Hổm rày Lan phải nhờ hàng xóm đưa rước hai đứa nhỏ đi học giùm, cũng phiền người ta lắm.
Ra khỏi phòng ông xã tôi nói:
            - Bữa nay ông già nói chuyện nhiều quá, khác hẳn mọi lần, hồi nào tới giờ ba ít nói lắm mà, nhứt là nói chuyện tâm tình với con cái.
            - Bởi vậy em thấy hơi lo. Khi một người có biểu hiện  khác thường thì mình phải nghĩ  tới đó là dấu hiệu báo trước chuyện gì đó sắp xảy đến cho họ. Nhưng mong rằng em nghĩ sai. Chắc tại ông già muốn chứng minh là ổng không bị lãng trí nên mới nói huyên thiên như vậy. Dù sao mình cũng phải chuẩn bị tinh thần lỡ như ba có chuyện chẳng lành. Đâu có ai lột da sống đời mãi. Mình đây còn chưa biết lúc nào ngã xuống, lúc nào ngủ luôn không thức dậy huống chi ba đã sống thọ tới tuổi này. Không biết ba còn được bao lâu nữa với mình…

Nói tới đây, tôi thấy nghèn nghẹn, mắt cay cay. Tôi vội cắm đầu đi trước dấu đi hai hàng nước mắt sắp trào ra. Đối với tôi, nỗi lo sợ lớn nhứt là mất mát, nhứt là mất mát người thân. Tôi rất sợ cảnh sinh ly tử biệt. Nhưng trên đời này có ai tránh khỏi quy luật đi, về,  sinh ký tử quy?! Có sinh thì ắt có tử!

Kiếp  người sinh tử, tử sinh
Tử sinh sẵn định lúc sinh ra đời
Mỗi người một vé khứ hồi
Ta đi đã mỏi đành thôi phải về
Đường trần quá đổi nhiêu khê
Một lần xe cuối xin  về thiên thu…

 Người Phương Nam   
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 06/Mar/2015 lúc 11:41am
THẰNG ĂN HẠI



 


Hồi nhỏ tôi không thích ăn xôi. Đơn giản vì mẹ tôi bán xôi, mỗi khi bán ế, bà thường “mời” tôi ăn. Con nít ăn hoài một thứ ngán. Đôi khi tôi làm eo không ăn, bà chẳng nói gì.

Rồi cũng có cách “gỡ” lại. Tôi giả vờ ốm, không ăn cơm. Ốm đau ai lại gợi ý ăn uống này nọ. Tôi cũng hiểu thế. Bà hỏi tôi ăn cháo, tôi lắc đầu. Bà hỏi tôi ăn phở, tôi nín lặng. Thế là tôi có phở. Một tô phở thì chẳng nhằm nhò gì với thằng nhóc đang tuổi nghịch ngợm. Tôi lén bà xuống bếp xúc thêm cơm ăn với nước phở.

Mẹ tôi cưng nhưng không chiều. Tính tôi quậy phá, có bị nọc xuống phết vài roi cũng chẳng lấy gì oan ức. Tôi lỳ đòn. Ba tôi ít đánh, nhưng đánh đau, tôi gồng mình chịu, không kêu khóc. Với mẹ tôi thì khác, roi chưa chạm đến mông tôi đã gào lên thảm thiết.

Những trò chơi giả ốm ăn phở, già họng né đòn thường tỏ ra đắt giá và hiệu nghiệm. Tôi tự hào về mấy trò mánh mung này. Sau này có con, tôi mới hiểu đó là những trò rẻ tiền. Áo mặc sao qua khỏi đầu.

Nghề bán xôi coi vậy mà cực. Mẹ tôi phải thức dậy sớm từ ba giờ sáng để nấu xôi. Thức sớm hơn, bà không dám ngủ lại, sợ ngủ quên, lỡ buổi bán. Hồi đó giờ Sài gòn chạy sớm hơn giờ bây giờ một tiếng. Bà rời nhà với thúng xôi khi trời chưa sáng, và về nhà lúc tám giờ dù bán hết hay không. Khách hàng là học sinh, người lao động, quá giờ đó thì bán cho ai, vả lại xôi cũng nguội rồi, bà bảo thế.






Hồi thức khuya học thi, bà thường mang lên tôi cho tôi ly cà phê nóng, và trước khi quẩy thúng xôi đi, bà lại đem lên cho tôi khi thì tô mì gói, khi thì đĩa xôi nóng. Thức cả đêm, dồn hết năng lượng vào mấy bài tập toán-lý-hóa, thì món xôi nóng lúc đó dù phải ăn triền miên cũng không phải là điều quá tệ.

Mẹ tôi mù chữ (thứ thiệt), nhưng tính nhẩm thì…thầy chạy. Ba tôi mất sớm, nên chuyện cúp cua, lêu lỏng, kể cả nhái chữ ký trong học bạ, tôi qua mặt bà thoải mái. Không quản lý nổi việc học của thằng con, bà dồn tất cả sự quan tâm vào chuyện ăn uống, sức khỏe và niềm vui của tôi. Chợ búa, bếp núc, giặt dũ,… là những việc hầu như chẳng bao giờ tôi rớ tới. Sau này, xa nhà kẹt quá phải đi chợ, tôi chẳng bao giờ chuốc lấy phiền muộn vào cuộc chơi trả giá, ngay cả việc xách bó rau ra khỏi chợ vẫn còn ngường ngượng.

Có hôm tôi dở chứng ngoan ngoãn quét nhà, bà cười mỉm. Lát sau thấy bà lặng lẽ quét lại. Giặt giũ cũng thế, quần áo ngâm chưa kịp giặt, bà chờ tôi đi, rồi vò lại cổ áo, gấu quần. Nấu nướng thì, bà luôn miệng nhắc nhở : “chờ mỡ sôi, rồi mới đập trứng vào”… Đại loại là thế. Dưới con mắt của bà, việc nhà tôi chẳng làm được gì đến nơi đến chốn cả, chỉ nên ăn, học và…chơi (khoản sau cùng là tôi suy đoán). Nói theo cách mà bà vẫn thường “mắng” tôi là… thằng ăn hại. Tôi cũng chẳng vừa: “Con thấy mẹ vui khi “hầu” thằng ăn hại”. Bà cười, đập tay tôi: “ Tôi đẻ ra anh, mà lại không biết anh muốn gì à!”. Tôi cười thầm“ Con từ trong bụng mẹ chui ra, sao lại không biết mẹ nghĩ gì!”. Dĩ nhiên bà chẳng bao giờ nghe được những lời nói thầm đó.



%5bIMG%5d


Thật ra tôi cũng đâu đến nỗi vô tích sự như thế. Tết Đoan Ngọ nào mẹ tôi cũng làm cơm rượu bằng nếp vàng. Cơm rượu bà làm thì ngon tuyệt, thơm, ngọt và hạt nếp mềm nhưng vẫn còn độ dẻo. Hồi 6, 7 tuổi tôi vẫn lén ăn vụng cơm rượu khi nó chưa kịp ngấu, say xỉn đến nỗi bỏ cả học. Dạo sau bà than phiền, sao rượu mau chua quá. Tôi hứa sẽ giải quyết được. Bà nhìn tôi ngờ vực. Sự cố rượu hóa chua là vấn đề nan giải ở thời Louis Pasteur, chứ thời nay, với thằng có nghề như tôi đâu có gì là khó. Đó là lần duy nhất trong đời tôi đã dùng sở học của mình để giải quyết “việc nhà” cho bà. Nhưng “thành tích” này vẫn không đủ để bà thay đổi cái nhìn về tôi. Trong con mắt của bà, tôi chỉ là đứa con chưa trưởng thành. Dù các con tôi đã lớn, đã tốt nghiệp và đi làm, nhưng thằng cha chúng vẫn bị bà nội đưa vào diện cần quan tâm đặc biệt, ra ngoài vẫn bị nhắc nhở quên nón, mang theo áo mưa…




Hồi cuối thập niên 70, buồn tình tôi mượn xe xích lô của người bạn, cảo lai rai kiếm tiền xài vặt. Bà nắm tay tôi than thở, “ Công lao mẹ nuôi con ăn học, học cho cố vào, bây giờ lại ra nông nỗi này, sao thể hở con?…”. Tôi cười gượng,: “Con chỉ đạp chơi cho biết mùi đời thôi, còn ban ngày con vẫn làm ở phòng thí nghiệm mà”. Bà thở dài …


Những năm cuối đời, mẹ tôi đi lại khó khăn, xe lăn không chịu ngồi, nhưng được cái bà con chòm xóm hay tới chơi, giã trầu đưa chuyện với bà. Có lần vào siêu thị, thấy bày bán mấy chai nước mắm nhỏ cỡ 30 ml, đạm cao, giá đắt, chắc là hàng chất lượng cao. Tôi mua 5-6 chai nhét túi quần mang về biếu bà. Quê mẹ tôi ở ven sông Hồng, ngoài đê, chỉ trồng bắp, không trồng lúa được, nên bà qúy hạt gạo lắm. Bà bảo, ăn cơm với rau bí chấm nước mắm ngon còn hơn ăn thịt.

Thấy thằng con trịnh trọng moi túi quần ra mấy chai nước mắm, bà nhìn tôi khâm phục. Tôi thì thầm: “Nước mắm thượng hạng đấy, để chấm với rau bí. Mẹ đừng dùng nêm nếm”. Bà giữ kỹ mấy chai nhỏ xíu đó lắm, mỗi ngày dùng một ít, và không quên khoe với mấy bà hàng xóm nước mắm thượng hạng thằng con bà mua biếu.

Bẵng đi một vài tuần, tôi cao hứng nếm thử nước mắm. Trời đất như muốn sụp, tôi biết ngay mình bị bợm. Với cái đầu nghề nghiệp, tôi có thể đoán ngay ra nhà sản xuất đã giở những chiêu phép gì. Tôi phạm vào sai lầm hết sức sơ đẳng là đã không nếm thử trước khi đưa bà. Tôi như phát cuồng. Ăn học làm gì, bằng cấp làm gì mà mua chai nước mắm cho mẹ cũng không nên thân. Vậy mà cũng bày đặt đi dạy, viết sách, viết báo về an toàn thực phẩm, khuyên người ta thế này thế nọ. Trời ơi! Sao mặt đất không nứt ra để tôi vùi cái bản mặt mình xuống cho rồi. Tôi nài nỉ bà đổi loại khác ngon hơn. Bà gạt đi, “ Nước mắm này ngon, anh biết gì mà cứ rộn lên”. Bà vẫn tiếp tục dùng mỗi ngày thứ nước mắm chết tiệt đó, vẫn tiếp tục khoe với mấy bà hàng xóm, mà không bao giờ mời họ nếm thử. Tiêu chuẩn chất lượng nước mắm của bà khác với đời thường.

***

Dạo này tôi mất ngủ, đúng hơn là ngủ ít. Hai ba giờ sáng đã tỉnh dậy, không sao ngủ lại được. Tôi bước ra bàn thờ thắp nén nhang, đun nước pha ly cà phê, rồi thả người xuống ghế sa lông đọc sách. Nửa đêm về sáng thế này, đôi lúc thèm ăn vặt một thứ gì đó, một gói xôi nóng hay một tô mì gói, nhưng cái tật lười biếng quen thói đã giữ chân tôi lại. Có khi tôi chột dạ, tưởng như bắt gặp ánh mắt vừa chế diễu, vừa trách móc của mẹ tôi từ di ảnh trên bàn thờ.




Đà Lạt mùa này mưa lạnh, mưa rả rích cả đêm. Nén nhang trên bàn thờ đã tàn quá nửa. Vậy là mẹ tôi mất cũng hơn 3 năm rồi. Có lẽ giờ này bà đã bước vào cảnh giới nào đó, làm gì còn luẩn quẩn ở cõi ta bà này để trách móc thằng con ăn hại, nuôi mãi không lớn của bà.

Tóc tôi đã bạc quá nửa. Cũng sắp đến ngày phải ra đi. Không biết ở cảnh giới khác, hai mẹ con có gặp nhau không? Gặp nhau mà có nhận ra nhau không? Tôi chắc mẹ tôi sẽ nhận ra tôi, bà nhận ra tôi bằng trái tim muôn kiếp của người mẹ. Còn tôi, tôi cũng sẽ nhận ra mẹ tôi, tôi nhận ra bà từ bản năng của thằng ăn hại.





Vũ Thế Thành

loneliness,%20a%20lonely%20man%20on%20the%20beach


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 06/Mar/2015 lúc 1:32pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23694
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 08/Mar/2015 lúc 12:54am

Cô Lành Về Quảng Nam


Cô Lành ở Mỹ về Việt Nam tìm thăm bạn cũ. Xuống máy bay ở Sài Gòn, cô đón xe ra Ðà Nẵng, mấy hôm sau, cô đi Vĩnh Ðiện, một thị trấn nhỏ, cách Ðà Nẵng vài chục cây số. Thực ra, trước đó vài ngày, cô có vô Vĩnh Ðiện, hỏi han vài người ở bến xe điều gì đó rồi cô lại về Ðà Nẵng. Lần nầy, cô đi Vĩnh Ðiện sớm. Trời còn lất phất mưa nên cô Lành phải mặc áo đi mưa trước khi xuống xe. Khi xe vừa ngừng thì những người chạy xe ôm vây quanh mời mọc. Họ nhao nhao lên với cô: "Ði mô cô? Tui đưa cô về nghe! Mời lên xe". Cô Lành nói: "Tôi là khách quen của anh Hai Tí. Thấy ảnh đâu không?" Mọi người dãn ra: "Phải Tí Kế Xuyên không? Hắn ngồi quán đằng kia kìa"

Chữ "Kế Xuyên" dùng để chỉ những người nhà quê, bảo thủ, nhất là có giọng nói rặc Quảng Nam, giống như ta dùng chữ "Sịa" để chỉ dân Huế nhà quê. Tuy là Việt kiều nhưng cô Lành trông rất xập xụi. Cô mặc một bộ bà ba cũ, ngoài khoác áo đi mưa, mang đôi dép lẹp xẹp, tay cầm giỏ lác nhẹ tênh, giống các bà nội trợ, đi chợ buổi sáng về nấu ăn cho gia đình. Cô Lành theo hướng người xe thồ chỉ, đến một cái quán nhỏ, giống bất cứ quán nào ở bến xe thị trấn nghèo và vắng vẻ. Trước hiên quán là một chiếc bàn cũ với hai chiếc ghế dài. Một bình tích với bốn cái ly thủy tinh không được sạch lắm. Ngay bên trong là một cái kệ bày mấy thứ kẹo, bánh, chuối, ổi... Một người đàn ông, ngồi dựa lưng vào vách, tay cầm chiếc bánh ú, miệng nhóp nhép nhai, mắt nhìn tận đâu như đang suy nghĩ điều gì nên không thấy cô Lành bước vào.

Anh ta khoảng trên 40, người cao, ốm nhưng rắn chắc, da đen thùi, xương gò má nhô cao, hai mắt sáng trưng thụt vào hốc mắt như mắt con khỉ. Anh mặc bộ đồ nhà binh của lính Cộng Hòa cũ, đã phai thành màu xám mốc. Một chiếc xe đạp thồ tựa vào vách quán. Cô Lành hỏi: "Anh chạy xe thồ phải không?" "Dạ. Cô đi mô?" "Tôi đi nhiều chỗ lắm. Anh biết Thanh Quít không?" "Nhà tui ở đó. Răng không biết?" "Thanh Quít, nhưng vô tuốt trong xa. Anh đi nổi không?" "Ăn thua chi! Lên Di Xiên tui cũng đi tới. Cô chờ cho chút nghe. Tui en xong cái bánh ni là đi liền"

Anh xe thồ nhét phần còn lại của chiếc bánh ú vào mồm, trẹo trạo nhai rồi trợn mắt nuốt. Anh lấy cái bình tích rót một thứ nước vàng vàng vào ly, bưng uống cạn rồi lấy tay quẹt ngang miệng, coi như làm vệ sinh sau bữa ăn. Anh nói vọng vào trong quán: "Chập nữa quay lại tính tiền luôn nghe, chị Tư"

Anh đẩy xe ra, lấy chiếc áo đi mưa gài ở yên sau mặc vào. Áo đi mưa màu xám tro, dày súc, giống như áo của lính cứu hỏa. Anh mặc ngược để tránh gió lùa vào áo. Anh lấy miếng giẻ nhét dưới yên xe lau cái yên sau cho hết nước mưa. Yên sau là một miếng gỗ lớn, có bọc nệm, làm thủ công nên trông thô kịch nhưng chắc chắn. "Mời cô lên xe. Chừ đi mô đây?" Cô Lành ngồi lên yên sau: "Anh cho tôi vô chợ Vĩnh Ðiện, mua ít quà cho người quen". "Cô ngồi rứa không được mô. Phải bỏ hai chưn hai bên, ôm tui cho chẹt. Ðường đất khó chạy lắm, ngồi rứa té bể đầu, tui mang họa". "Ôm anh, vợ anh có ghen không?" "Vợ con chi tui. Mà có vợ, hén cũng không ghen được, chiện lồm en. Ghen tương, đúa trơ mỏ"

Anh xe thồ đạp ra đường cái một đoạn rồi rẽ xuống đường làng. Ðường tráng xi măng nhưng hẹp lại có người đi nên xe phải lách qua, lách lại như làm xiếc. Cô Lành thò tay vào trong áo mưa, vòng ra trước ôm bụng anh xe thồ. Chiếc xe đạp, vì bơm bánh cứng ngắt nên cứ nẩy lên từng lúc. Thỉnh thoảng xe thắng thình lình khiến ngực cô Lành ép sát vào lưng anh xe thồ. Ngực cô căng cứng. Anh xe thồ phải chạy chậm lại.

Xe ngừng ở đầu chợ. Cô Lành bước xuống: "Anh chờ tôi ít phút. Anh biết chỗ nào bán cam, sữa hộp không?" Vì bị cô Lành ép ngực vào lưng mình nên anh xe thồ cố ý nhìn mặt cô Lành, nhưng cô trùm mũ áo mưa sùm sụp, chỉ thấy được hai con mắt ướt rượt, đuôi mắt kéo dài ra, rõ ràng cô đang cười bằng mắt với anh ta. "Trong ni không có cam, quít chi mô. Sữa bò hợp ở quán tê tề"

***

Chợ Vĩnh Ðiện, gần Tết nên rộn rịp người mua, kẻ bán. Nông sản từ các làng lân cận đem đến. Khoai củ, gà vịt, rau quả. Ðặc biệt là rau và hoa, thứ hoa bình dân như vạn thọ, mào gà, phượng ta, cúc... khiến cho chợ rực rỡ, tươi mát, thơm tho. Có cả những cành mai của những nông dân đứng lóng ngóng đầu chợ, gặp ai cũng mời mua. Gà vịt cũng nhiều. Mấy chị đàn bà ngồi chò hỏ với mấy con gà, con vịt bị trói chân, nằm ngóc mỏ nhìn thiên hạ, vừa an phận vừa tuyệt vọng. Ai cũng đem hàng ra chợ để có chút tiền sắm Tết. Ðông khách nhất là mấy sạp vải, áo quần. Các bà, các cô lựa chọn, trả giá những mảnh vải nhiều màu sắc, những áo quần trẻ con đủ kiểu, lòe loẹt với hình những con thú, hoa lá... Cô Lành vào một tiệm tạp hóa mua mấy hộp sữa đặc. Cô tìm hàng cam, nho nhưng không thấy. Chợ nhà quê không có những hàng xa xỉ đó. Một lúc sau, cô Lành đi ra. Anh xe thồ đã trở đầu xe. Cô ngồi lên. "Chừ đi mô đây?" "Xong rồi. Anh đưa giùm tôi qua Thanh Quít"

Ðạp một lúc, anh xe thồ ngừng lại: "Hết mưa rồi. Ðể tui cởi áo mưa. Ðộp một chập nóng thố mồ hôi, hôi rình, cô chịu chi thấu". "Anh chở bồ, đổ mồ hôi, cô bồ có than hôi rình không?" "Bồ bịch chi mô. Chỉ có khách chịu trận thôi. Họ không núa nhưng tui biết". "Bộ thời đi học anh không chở bồ đi chơi sao? Ði ăn quà rong, đi về nhà hái ổi, hái me..." "Chiện xưa rồi cô ơi, nhớ lồm chi cho mệt óc". "Nhưng cô bồ của anh đâu có than hôi. Cô đó còn khen thơm nữa. Cô ta ngồi sau, hít hít cái lưng rồi khen, Thơm quá! Ðúng không?" "Cô tưởng tượng nghe cũng hay, giống tiểu thiết boa xu. Thôi, đi cho mau. Cô chỉ đường cho tôi". "Thì anh cứ chạy dọc bờ sông..." "Rồi tới mô?" "Gần hai chục năm, tôi cũng không nhớ rõ, nhưng trước nhà có cái máy bơm nước vô ruộng, có cái máng nước băng qua đường". "Năm bảy cái máy bơm nước, biết cái mô? Hễ thấy nhà, cô núa tui ngừng lại nghe! Cô đi thăm ai? Cô núa tên là tui biết liền. Tui sống ở đó từ nhỏ tới lớn. Ai tui không biết!" "Nói ra, sợ vừa đến là anh kêu rầm lên, Có khách đến thăm! thì đổ bể hết. Tôi muốn cho những người đó bất ngờ... cho vui"

Xe băng qua đường cái, đổ dốc, vào đường làng. Ðường đã được tráng xi măng. Một bên là sông, với hàng tre giữ bờ, một bên là đồng ruộng, đôi chỗ cất nhà, có cả nhà ngói, có quán bán lặt vặt, vừa là tiệm tạp hóa vừa làm quán ăn. Người đi đường cũng nhiều, không giống như trước đây, chỉ thấy ruộng và cây cối hoang tàn, nhà cửa xụp xệ. Chiến tranh đã chấm dứt, người dân không còn sợ bom đạn tàn phá nên đã chú tâm vào việc dựng lại nhà cửa cho khang trang. Anh Tí chăm chỉ đạp một lúc, không biết cô Lành muốn đến đâu nên nghi ngờ: "Không chỉ chỗ mô, tui đạp miết, cô phải trỏa nhiều tiền, thiệt hại cô thôi". "Ôm anh kiểu nầy, anh không thấy thích sao? Nghề của anh, khi chở các cô, coi bộ anh khoái lắm. Phải không?" "Tội nghiệp tui, cô ơi! Ðộp mệt thấy mẹ, sướng ích chi? Kiếm mấy đồng sống qua ngày". "Anh sống với ai?" "Có bòa mẹ. Mà nuôi không nổi. Bữa cơm, bữa chố!" "Anh cứ đạp từ từ. Tôi không gấp. Khi chở khách, anh có nói chuyện với khách không?" "Ðộp gần thì cũng núa mấy câu. Ði xa, thở bèng mũi, bèng miệng. Khi lên dốc phải nín thở mà độp, thố mồ hôi hột. Về nhòa chưn tay rõa rời. Có chi vui mô mà chiện trò!" "Bây giờ anh cứ tưởng tượng đang chở cô bồ sau lưng, thong thả đưa người đẹp ngắm cảnh, ăn quà rong... Anh sẽ không thấy mệt"

Anh xe thồ bỗng ngưng xe bên vệ đường, giọng nghiêm trang: "Tui chạy xe thồ kiếm mấy đồng chớ không chở bồ bịch chi hết. Chở bồ thì không lấy tiền công. Mà tui với cô có quen biết chi mô? Cô muốn bồ cô chở khỏi trả tiền thì mời cô xuống đây. Tui ăn cục núa hòn. Thà mất lòng trước được lòng sau. Ði mô cô không núa, lại ôm tui cứng ngắt, còn núa chiện bồ bịch. Lồm như tui ở không chở cô đi chơi..."

Cô Lành không giận còn đập tay lên lưng anh xe thồ một cách thân mật, cô cười mà nước mắt ứa ra, từ từ chảy xuống má. Cô móc khăn ra chùi nước mắt, khịt mũi và nói: "Tôi thuê anh từ giờ nầy đến 4 giờ chiều, anh đưa tôi ra lại bến xe về Ðà Nẵng. Anh tính bao nhiêu, tôi trả tiền trước. Anh yên tâm chưa?" Anh xe thồ dịu giọng: "Cô núa nhòa ai, tui đưa cô tới. Xin lỗi cô. Tính tui không thích núa chiện trai gái. Tui... bậy quá. Núa chộm tự ái cô"

Cô Lành ngồi im, không trả lời. Cô liếc nhìn anh xe thồ rồi ôm mặt khóc. Cô khóc ngon lành như cô bé bị mẹ mắng oan. Anh xe thồ bối rối. Anh không biết phải làm gì, đành vịn chặt chiếc xe cho cô ngồi khóc thoải mái. Cô khóc một lúc thì chùi nước mắt, giọng tỉnh rụi: "Hễ đạp gần đến nhà nào phía trước đường có cái máy bơm nước, dưới đường có máng dẫn nước vô ruộng thì anh nói tên người chủ nhà đó. Bây giờ cảnh vật thay đổi hết rồi. Ruộng nương đã thành nhà cửa... Xin lỗi anh, tôi khóc không phải vì bị anh rầy la mà tôi thương những người thân yêu của tôi quá!"

Anh xe thồ quay nhìn trộm cô Lành. Anh nhíu mày suy nghĩ rồi quả quyết: "Chừ ri. Tui chở cô đi dọc bờ sông. Ðến cuối đường, là chỗ con đường ni quẹo vô xóm trong, cua như hết con đường bờ sông, mà cô không tìm ra nhòa người thân của cô thì tui chở cô về lại bến xe để cô về Ðòa Nẻn. Tiền công thì tui tính như với người khoác. Chẻn thiệt hại tui mà cũng chẻn thiệt hại cô. Cô ngồi vịn cho chẹt nghe!" "Dọc đường anh biết được nhà ai thì nói tên chủ nhà đó. Như vậy tôi sẽ nhớ ra. Biết đâu cái máy bơm nước dời chỗ khác hoặc nhà tôi muốn tìm đã sửa sang, xây cất lại... Anh cứ đạp từ từ"

Anh xe thồ bắt đầu nói tên những nhà nào mà anh biết. Ðộ nửa giờ, khi qua một cái máy bơm nước, anh làm như không biết tên chủ nhà, đạp qua luôn. Nhưng cô Lành đã đập tay lên lưng anh xe thồ: "Anh dừng lại để tôi hỏi thăm. Nhà nầy coi bộ đúng rồi". Cô xuống xe, xăm xăm đi đến một ngôi nhà lợp tôn coi bộ nghèo khổ hơn các nhà khác. Anh xe thồ vội đạp xe chạy ngược lại, dùng chiếc xe làm rào cản, không cho cô Lành bước vào. "Cô biết nhòa ai đây mà cô dốm bước vô? Nhòa công oan. Họ bắt nhốt cô bây chừ!"

Cô Lành nhìn anh xe thồ cười: "Anh dấu em đâu có được. Em thấy là nhận ra ngay. Bộ anh không muốn em đến thăm bác sao?" Vừa lúc một người đàn bà từ trong nhà đi ra, tay cầm cái chổi, có lẽ để quét sân. Bà ta khoảng trên 60 tuổi. Cô Lành đẩy chiếc xe đạp của anh xe thồ qua một bên, bước vào sân và kêu lên: "Thưa bác. Bác còn nhớ con không?" Cô Lành kéo mũ áo đi mưa đang trùm đầu xuống, hai tay vịn lên vai người đàn bà, nhìn bà, miệng cười vui mừng và chờ đợi. Người đàn bà nhìn chăm chăm cô Lành: "Ai ri hè? Cua quen quen". "Con là con Lành đây nè. Bác nhớ ra chưa. Lâu quá! Mấy chục năm rồi..." Người đàn bà sững sờ, miệng mấp máy: "Trời đất! Lành đây hả con? Răng cua khoác quá! Nhưng boác cũng nhớ được. Con vô nhòa!" Bà ta mừng đến độ lúng túng, lập cập: "Vô nhòa, con. Trời đất ơi! Mấy chục năm mới gặp lại con. Răng, hai đứa gặp nhau ở mô mà chở nhau về đây? Ngồi đây con. Ở lại chơi, chiều về, nghe con. Hiện nay con ở mô? Chồng con ra răng? Lồm en có khá không? Núa cho boác mừng" 

Người đàn bà kéo cô Lành ngồi xuống bộ phản cũ sì, sứt mẻ, trầy trụa. Bà nói một hơi rồi nhìn cô Lành: "Choa mi! Gần hai chục năm chớ ít ỏi chi. Con ở mô mà boác bét anh Tí con roa Ðòa Nẻn tìm không thấy!" Cô Lành cúi mặt xuống, giọng giận lẫy: "Ðể đó mà ảnh tìm. Lúc nãy, gặp con ở bến xe, ảnh không thèm nhìn con. Con phải làm bộ thuê ảnh chở đi tìm người quen. Ði ngang qua nhà bác, ảnh chạy luôn. Bác nghĩ, có đáng giận ảnh không? Bác còn nhớ, lúc ảnh bị thương, nằm ở bịnh viện Duy Tân, con vô thăm ảnh, săn sóc ảnh. Vậy mà khi xuất viện về, con về đây thăm ảnh, ảnh nói đừng đến thăm nữa. Tôi sắp cưới vợ rồi. Từ đó con từ ảnh luôn, không đến đây nữa. Bác nghĩ coi. Tình nghĩa chi!"

Người đàn bà gọi "Tí! Dô biểu cua". Anh xe thồ, tên Tí, nãy giờ đứng lóng ngóng trước sân, bèn bước vô, ngồi xuống ghế, không nhìn cô Lành. "Răng con núa có vợ cho em con không đến đây nữa?" Anh Tí ngập ngừng: "Thương phế binh, nuôi cái miệng không đủ, đèo bồng vợ con cho khổ lây. Con núa rứa cho cổ không tới nữa. Mà chắc chi gioa đình cổ chấp nhận thèng thương phế binh. Phải biết thân phận mình chớ"

Cô Lành thút thít khóc: "Ảnh bỏ con đành đoạn. Trước đó ảnh viết thư nói thương con. Ảnh còn hỏi ý kiến con, bảo con thưa với ba má con, ảnh xin về phép, đưa bác ra Ðà Nẵng thăm gia đình con rồi xin làm đám hỏi, đám cưới, con có chịu không? Vậy mà chỉ mấy tháng sau, sau khi bị thương, ảnh bỏ con. Chắc có bồ rồi phản bội con. Bỏ mồi bắt bóng. Rồi bị cô bồ đá cho. Ðáng kiếp!" "Thiệt. Cái thèng! Mà xưa nay hén có bồ bịch, vợ con chi mô? Thôi bỏ qua chiện đó đi. Chừ con ở lại en cơm với gioa đình boác. Tí, ngồi núa chiện với em. Mẹ ra sau bứt mớ rau nấu miếng canh, en cho moát rụt". "Khỏi nấu nướng chi cho tốn công, bác. Lúc nãy ngang qua đằng kia, con thấy có gánh mì Quảng, nhờ anh Tí đạp xe đi mua cho tiện. Con về đây thèm mì Quảng"

Người đàn bà móc túi đưa cho anh Tí mấy tờ bạc: "Con mua boa tô, mượn luôn tô, chập nữa đem trỏa"

Cô Lành lấy mấy hộp sữa đặt trên bàn rồi đưa cái bị cói cho anh Tí đi mua mì. Mẹ anh Tí ngồi nói chuyện với cô Lành một lát thì xuống bếp nấu nước pha trà. Cô Lành ngồi ở nhà trên, vén áo mở cái túi nhỏ đeo trước bụng lấy ra một phong bì, trong đó có một xấp tiền và một lá thư. Cô đọc lá thư, ngẫm nghĩ một lúc, gạch xóa, viết thêm mấy dòng, bỏ lại vào phong bì, cô le lưỡi liếm mép phong bì, dán lại rồi đem xuống bếp, đưa cho mẹ anh Tí: "Ðây là lá thư con gửi anh Tí, khi nào con về rồi bác mới đưa cho ảnh"

Cô ôm mẹ anh Tí và khóc: "Con thấy ảnh khổ con đứt ruột. Lúc nãy ảnh chở con, con ngồi sau, ôm ảnh, thấy xương với da, lại nghe ảnh vừa đạp xe vừa thở dốc, con khóc một trận. Con biểu ảnh đạp chậm chậm, coi như chở bồ đi chơi, cho đỡ mệt, vậy mà ảnh cự con, ảnh nói chở bồ không lấy tiền công. Ảnh chạy xe thồ, chở đi thì phải trả tiền công. Không biết ảnh có nhận ra con không mà không nghe ảnh nói với con được một tiếng dịu dàng. Chắc ảnh không còn thương con, không nhìn mặt con nữa. Phải không bác?"

Mẹ anh Tí vuốt tóc cô Lành, thở dài: "Hén không thương con thì thương ai? Hén thấy mình nghèo khổ quá nên gặp boạn bè, hén cũng giỏa lơ. Con về ghé thăm gioa đình boác rứa là quí rồi. Chừ thì đường ai nấy đi. Con cũng phải lo cho gioa đình con. Con thương hén, nhưng con phải giữ cái đức hạnh của người đàn bòa, phải bổ vệ hạnh phúc gioa đình con..." "Con đâu có chồng con chi. Ðời con, chỉ thương có mình anh Tí. Nay con về tìm thăm ảnh, tưởng ảnh đã lập gia đình rồi, không ngờ ảnh chưa có chi hết, con mừng lắm. Giả dụ như ảnh không còn thương con nữa, con cũng quyết không để ảnh với bác phải khổ đâu. Con nói điều nầy, bác khoan nói cho anh Tí biết, là con hiện ở bên Mỹ, con còn độc thân, con đi làm, không gọi rằng giàu nhưng lương khá lắm. Nếu ảnh tự ái không nhận sự giúp đỡ của con thì con gửi tiền giúp bác. Trường hợp ảnh còn thương con thì nhờ bác nói giùm con với ảnh. Con không lấy chồng vì thương ảnh, nếu ảnh không chịu cưới con thì con nhất định làm gái già chứ không lập gia đình với ai hết. Nhờ bác nói giùm con nghe bác. Hay là bác nói, ảnh không thương con cũng được nhưng phải cưới con để con về phụ với ảnh săn sóc bác, bác đã lớn tuổi rồi, bác cần một người đàn bà săn sóc khi bác ốm đau, bịnh hoạn. Thỉnh thoảng bác nói một câu, lâu ngày ảnh sẽ nghĩ lại"

Mẹ anh Tí đẩy cô Lành ra, nhìn cô và trầm trồ: "Chu choa, con là Việt kiều hả? Reng en mẹc nghèo khổ rứa? Boác cũng không ngờ. Con lồm rứa là con biết ý thèng Tí. Con mà xưng Việt kiều, hén không tiếp con mô". "Bởi vậy con mới ăn mặc như thế nầy. Bác cất lá thư đi, khi con về rồi thì đưa cho ảnh nghe bác. Thấy bác còn mạnh khỏe, con mừng lắm". "Hai boác, anh chị em con, còn ai ở đây không? Hai boác có mạnh khỏe không?" "Dạ, qua hết bên Mỹ rồi. Cám ơn bác, ba mẹ con vẫn khỏe. Ba mẹ con cứ thắc mắc, tại sao, hai đứa con, con với anh Tí, tự nhiên chia tay? Con không biết trả lời sao! Bác dọ ý ảnh, khi nào ảnh xiêu lòng thì bác nói ảnh chuẩn bị cho con một số giấy tờ. Khai sinh, bản sao hộ khẩu, chứng minh nhân dân của ảnh và của bác. Qua Mỹ, con làm giấy tờ gửi về ảnh, biểu ảnh ra dịch vụ cho họ làm giấy tờ hôn thú. Bác cứ nói đại khái. Lần sau con về sẽ lo tiếp". "Nhưng con phải núa trực tiếp với hén..." "Dạ, lát nữa ảnh về con sẽ nói với ảnh"

Hai người đàn bà tâm sự với nhau một lúc thì anh Tí đem mì Quảng về. Ăn uống xong, mẹ anh Tí giành phần dọn dẹp, ra sau bếp rửa chén bát, còn lại cô Lành và anh Tí ngồi ở nhà trên. Anh Tí rót nước trà mời cô Lành: "Mời cô!" Cô Lành chống cằm nhìn anh Tí: "Anh không kêu em được hay sao? Có gì mà coi bộ anh giận em dữ lắm?" Anh Tí ngồi nhìn ra đường: "Lâu quá không gặp, thấy lọa, nên ngại, chứ chẳng có chi giận hờn". "Sao lúc chở em, anh nạt nộ em, làm em sợ anh". "Ðâu biết. Tưởng người lọa. Ðời mô tui nhìn đàn bòa, con gái"

Cô Lành mở to mắt, nhìn sát mặt anh, thì thầm hỏi: "Có phải anh bị thương rồi có chuyện gì xảy ra cho thân thể anh không mà anh không thèm nhìn đàn bà, con gái?" Anh Tí bưng ly nước uống: "Chỉ bị thương cánh tay, bất khiển dụng ở tay, chớ có chi thay đổi mô! Ai cũng thay đổi hết, chỉ mình tui. Ðời ni là rứa đó!" "Vậy là em biết tại sao anh giận em rồi. Anh tưởng em thay lòng đổi dạ. Ðã có chồng hay ít ra cũng bồ bịch tùm lum. Phải không?" "Tui đâu dốm. Ai muốn nghĩ răng thì nghĩ. Có tật giựt mình"

Cô Lành thò tay qua, đăït bàn tay mình lên cánh tay anh Tí, vừa dịu dàng vừa bạo dạn: "Em Lành của anh vẫn lành lặn như xưa. Em sẽ chứng minh cho anh thấy. Em để dành cho riêng anh thôi. Lúc nào anh muốn cũng được"

Anh Tí quay nhìn cô Lành mắt trợn lên kinh ngạc nhưng coi bộ hết giận: "En núa kiểu chi? Học mô roa?" "Bây giờ anh nói thật cho em rõ. Trước đây, vì sao anh nói anh sẽ có vợ, đừng đến nữa? Anh có biết, anh nói câu đó mà em bịnh một tháng, khóc hết nước mắt...?" "Thân trai trỏa xong nợ nước, tàn phế, nuôi thân không xong, lấy chi nuôi vợ con? Cũng may cho cô. Cô lấy tui, sau bảy lăm, làm răng nuôi chồng trong tù, nuôi con, nuôi mẹ? Ngay bây chừ, cô nhìn nhòa tui đây, trống trước, trống sau, gộ không đủ nấu. Cô ở được mấy bữa?"

Cô Lành bóp chặt cánh tay anh Tí: "Chuyện đó để em lo. Em chỉ hỏi anh. Anh còn thương em không? Mà không còn thương em, em cũng chấp nhận nữa. Miễn là anh cho em được thương anh, để em được gần anh, gần mẹ, săn sóc cho mẹ. Khi anh đi lính, em thường đến thăm mẹ. Mẹ coi em như con nên em cũng coi như mẹ ruột. Sau nầy, mẹ sẽ già yếu, anh là con trai, làm sao săn sóc cho mẹ được?" Anh Tí yên lặng, rót nước uống rồi nói: "Thôi được! Nhưng cô chờ cho tuần sau, khi tui xây lại nhòa ni thành nhòa lầu, sắm một cái TV màu, một chiếc Hon đoa mới tinh... rồi tui roa Ðòa Nẻn đón cô về". "Bộ anh hóa phép màu hay sao?" "Phép tét chi! Tui trúng độc đét, chi không có! Tuần ni không trúng thì tuần sau, tuần sau nữa. Cô cứ chờ, chớ tui đâu có phụ rảy chi cô. Chờ tới khi tui già, cô già, rồi chết là xong. Cô núa chiện trên trời! Trừ khi cô là triệu phú thì họa may. Nhưng cô giàu có, thì tui thòa chết còn hơn là nhờ cô". "Anh cũng bị tù cải tạo sao không đi diện HO?" "Tui đi tù. Bịnh sắp chết, chúng cho khiêng về chôn. Không biết răng, tự nhiên hết bịnh. Chưa đủ boa năm". "Bây giờ em lo được giấy tờ để anh và mẹ qua Mỹ. Anh nên vì em, vì mẹ mà đi Mỹ. Nghe anh!" "Lồm giấy tờ giỏa mộ chỉ có đi tù chớ đi Mỹ chi!" "Nhưng em làm giấy tờ hợp pháp, anh có đi không?" "Dại chi không đi. Nhưng tiền bọac, chi phí tính răng?" "Qua Mỹ, anh làm có tiền, trả lại em". "Nhưng có chiện chi, tui không đi tù lần nữa đâu. Tui ngán đi tù rồi". "Bảo đảm với anh không sao đâu. Miễn anh ừ một tiếng thì em lo xong ngay. Ừ đi anh!" "Tui biết cô chẻn lồm được chi mô, nhưng tui cũng ừ cho cô vui lòng". "Nhớ nghe! Hứa là phải giữ lời. Anh nhớ lúc còn đi học, mỗi khi anh và em hứa với nhau điều gì, mình thường ngoéo tay nhau. Bây giờ mình cũng ngoéo tay đi anh". "Thôi thôi, giòa đầu rồi, đừng lồm trò trẻ!"

Anh Tí lại làm nghiêm, cô Lành thì tìm cách sao cho anh ta cười. Cô biết tính anh Tí, nên không lấy đó làm buồn. Cô chợt hỏi: "Con Hạnh còn ở bên nhà không?" "Hén có đi mô! Giờ ni chéc hén về rồi. Hén lồm bánh bông loan bỏ mối ngoài chợ Vĩnh Ðiện và mấy tiệm en, quán nước. Ðể tui qua cua thử"

Khi anh Tí qua nhà cô Hạnh thì cô Lành lại kéo áo mở cái túi đeo trước bụng, móc ra một tờ trăm đô, xếp nhỏ lại bỏ vào túi. Ðây là quà cô dành cho cô bạn tên Hạnh, cũng là hàng xóm của anh Tí. Chỉ 5 phút sau, cô Hạnh theo anh Tí đi vào. Anh Tí hỏi: "Mi biết ai đây không?" Cô Hạnh nhìn cô Lành, tần ngần một lúc rồi nói: "Ai ri hè? Coi giống con Lành! Phải mi là con Lành không mi?" Cô Lành đứng lên cười cười: "Cho nói lại lần nữa. Cố nhớ coi!" Cô Hạnh la to lên: "Tổ cha mi! Mi là con Lành chớ ai vô đây?" Hai cô nhào vô, ôm nhau. Cô Hạnh ứa nước mắt: "Mấy chục năm ni mi đi mô? Tao bắt ông Tí đi tìm mi mà không biết mi đi mô?!" Rồi cô Hạnh cười: "Tính tao hay khóc. Gặp mi tao mừng quá!" "Bộ mi khóc mừng gặp lại tao không đáng mấy giọt nước mắt sao mi tiếc. Ðừng làm như ông Tí. Gặp tao không thèm nhìn, còn nạt nộ tao nữa". "Ông đó tàng tàng. Ðừng thèm để ý. Chừ mi qua nhà tao chơi. Ở lại với tao, mai về được không? Hay là sợ heo kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem mà đòi về sớm?" "Chồng con chi tao! Cầu cho có người đòi tòm tem mà người ta không thèm"

Cô Lành nói với anh Tí: "Anh Tí chờ em qua nhà Hạnh rồi về ngay nghe. Em cần nói với anh chuyện nầy"

Cô Lành qua nhà cô Hạnh. Nhà vắng người. Hai cô ngồi trên giường. Cô Hạnh thò tay bóp bóp đùi cô Lành rồi dòm quanh người cô Lành: "Coi bộ còn năng gớm. Ngực cũng ngon, đùi, mông tròn vo. Mi chưa chồng con là đúng. Mi coi tao, chỗ nào cũng nhão nhẹt!" "Bộ không có ai ở nhà sao mi ăn nói tự do quá vậy?" "Ông xã tao đi làm, hai đứa con đi học. Khỏi lo! Cứ nói cho sướng miệng. Nhớ hồi còn đi học không? Mấy đứa con gái tụi mình, tụm năm, tụm ba ở nhà tao, ăn me, ăn ổi rồi nói tầm bậy tầm bạ... Sướng thiệt! Chừ khổ quá. Bao lâu nay, gặp được mi tao mới có dịp nói bậy". " Bộ có chồng, mi không nói bậy với chồng được hay sao?" "Có nói chớ, nhưng nói chuyện khác. Chờ ổng nói trước, mình nói theo. Mi lấy chồng thì biết liền. Ủa, trước giờ mi đi đâu mà chưa chồng con chi cả? Mi lấy ông Tí đi, ổng cũng còn độc thân. Ngó rứa chớ ổng còn thương mi lắm. Mà mi chịu ổng không? Già rồi mi ơi. Tối ngủ ôm cái gối, sướng ích chi!" "Năm bảy tư, gia đình tao từ Vĩnh Ðiện dời ra Ðà Nẵng, năm bảy lăm, bỏ Ðà Nẵng đi luôn. Tao cũng thương ảnh lắm chớ! Nhưng không biết ảnh nghĩ sao? Ảnh lầm lì với tao từ sáng tới giờ". "Mi biết tính ổng rồi. Ổng cố chấp lắm. Giọng Kế Xuyên quê đặc mà ổng đâu chịu sửa. Ổng muốn làm mặt lạ vì ổng mặc cảm mình đạp xe thồ, mặc cảm nhà nghèo. Mi thấy đó, Tết nhứt đến nơi mà nhà ổng có sắm sửa, chuẩn bị chi đâu! Ổng nghĩ như thời xưa, lấy vợ là phải nuôi vợ con, ổng sợ thêm miệng ăn nữa thì chết! Hơn nữa tao nghĩ, có lẽø ổng nghi mi đã lấy chồng hay bồ bịch gì đó, ổng tức mà không biết nói răng. Nhưng tao biết, ổng thương mi lắm. Mi còn nhớ, khi ổng bị thương về nhà, mi ghé thăm, không biết mi với ổng có chuyện chi mà ổng qua nhà tao ngồi khóc ngon lành. Ổng nói mi bỏ ổng rồi. Coi bộ cứng rắn, lạnh lùng chớ ổng cũng mít ướt như tụi mình chớ chẳng hơn chi". "Mi cố nói giùm tao, sao cho ảnh chịu lấy tao, thì mi có cái đầu heo". "Mi yên tâm, để tao lo chuyện đó, ổng là của mi, chắc ăn như lấy đồ trong túi. Ngó rứa chớ tao nói là ổng nghe lời liền. Ổng coi tao như bạn thân, có gì cũng kể cho tao nghe". "Có khi nào ảnh nhắc đến tao không?" "Tao có hỏi còn nhớ Lành không? Ổng nói. Không nhớ Lành thì nhớ ai? Có lẽ bây chừ Lành đã có chồng, có con rồi"

Cô Lành móc túi lấy tờ bạc đã xếp nhỏ, bỏ vào túi cô Hạnh: "Tao gửi mấy đồng cho hai cháu. Bây giờ tao phải về". Cô Hạnh nghĩ rằng bạn cho mình tờ một tờ bạc Việt Nam nên chỉ nói cám ơn mà không quan tâm". "Ủa. Mi nói sẽ ở lại với tao mà? Ở lại, tối nay nằm nói chuyện với nhau cho đã". "Rồi chồng mi nằm đâu?" "Ðừng lo chuyện đó. Tao tống ổng ra ngoài phản. Hay là mi qua nằm với ông Tí, tâm sự trắng đêm, cho đã thèm bấy lâu nay". "Ðồ quỉ sứ, nói chuyện bậy bạ. Ðể tao về. Ở lại đây, đêm hôm, giấy tờ, trình thưa, tao không muốn phiền mi"

Hai người qua nhà anh Tí. Cô Lành xuống bếp ôm mẹ anh Tí, thì thầm: "Bác nói giùm con, nghe bác. Tuần sau con về lại đây. Bác nhớ lo cho ảnh ăn uống, ảnh ốm quá, con thương ảnh quá!" "Choa mi! Tao cũng đưa xương mà mi chỉ nghĩ đến hén, bét tao lo cho hén"

Cô Lành cười chống chế: "Thì bác cũng thương ảnh, thương con. Bác muốn con với ảnh yên tâm thì bác cũng phải ăn uống cho đầy đủ. Thôi, con về nghe bác"
Cô tựa đầu vào vai bà như cô bé làm nũng với mẹ: "Con muốn kêu bác bằng mẹ mà sợ anh Tí rầy con". "Hén quyền chi mà rầy con?"

***

Anh Tí đã đưa xe đạp ra sân, ý muốn cô Lành về sớm. Cô Lành qua chào từ giã cô Hạnh rồi bước ra, ngồi sau xe, vòng tay ôm bụng anh Tí và nói với cô Hạnh: "Mi thấy, ai đi xe thồ cũng ôm eo ảnh. Tao ôm thì ảnh cự, nói sao ôm cứng ngắc". "Ổng cự mặc kệ ổng. Cứ ôm chặt cho tao. Ôm ngày ôm đêm, ổng cự riết rồi khoái chí, bắt mi ôm nữa". "Con quỉ nói trây! Tao về nghe!" Cô Hạnh vui vẻ la to lên: "Không về thì đứng xuống, khó chi! Ê! Có phải hai anh chị hẹn hò, đưa nhau vô phòng ngủ không?" Hai cô lại cười như bị thọt lét. Cô Lành ngoái cổ lại nói "Mi thành nái xề rồi mi ơi! Nói trây không biết mắc cỡ!"

Anh Tí làm thinh, đạp xe ra đường. Cô Lành ngồi sau, ôm eo, tựa đầu vào lưng anh ta. Anh Tí bực mình: "Ðừng lồm rứa, người ta thấy tề!" "Thời đi học, anh chở em đi chơi, em cũng ôm như thế nầy, sao anh không la em?" "Ði học khoác, đi xe thồ khoác. Hồi trước là quê hương, đất nước mình, lồm chi không được. Chừ, lồm thân mất nước, vui thú chi"

Cô Lành không ôm anh Tí nữa, sụt sùi khóc: "Sao anh khó với em vậy?" Anh Tí yên lặng một lúc rồi thở dài: "Xin lỗi. Tui buồn quá! Mất nước rồi. Buồn suốt đời. Biết ngày nồ mới vui được? Tôi chỉ sống qua ngày để nuôi mẹ giòa, sướng ích chi mà nghĩ đến vợ con. Con cái ngụy lớn lên cũng chỉ để chúng ngồi lên đầu, hành họa, coi như trâu ngựa. Ði học chúng cũng không cho, đi lồm chúng cũng không cho". Cô Lành lại vòng hai tay, ôm bụng anh Tí: "Bây giờ có em, em phụ với anh nuôi mẹ. Anh hãy quên chuyện nước nhà, mà nghĩ đến em. Anh có suy nghĩ, buồn phiền bao nhiêu cũng không làm được gì. Vận nước nó như vậy nhưng cũng sẽ đến ngày tươi sáng. Anh đã chiến đấu, đã bị thương thì coi như nợ nước anh đã trả rồi, nay anh có quyền nghĩ đến tình nhà. Bây giờ em về đây tìm anh. Anh và em, trước đây, có biết bao kỷ niệm. Anh có biết khi anh bảo em về, đừng đến anh nữa vì anh sắp lấy vợ, em khóc hết nước mắt. Em giận anh nhưng quyết làm gái già chứ không thèm để mắt đến ai cả. Anh có thương em không?"

Anh Tí yên lặng, đặt bàn tay trái, bàn tay bất khiển dụng của anh lên hai tay cô Lành đang ôm bụng anh. Anh bóp tay cô Lành, nhưng bàn tay thương tật nên chỉ mấy ngón tay là cử động nhẹ. Cô Lành ép hai bàn tay mình lên bàn tay anh Tí, dụi đầu vào lưng anh Tí: "Bây giờ còn sớm, mình dừng ở quán nước đằng kia. Em nói chuyện nầy anh nghe"

Phạm Thành Châu
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23694
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Mar/2015 lúc 6:47am
Đời Như Ý - <<<<<<
Nguyễn Ngọc Tư.mp3   






Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 10/Mar/2015 lúc 7:13am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23694
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 11/Mar/2015 lúc 11:17am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 200 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.520 seconds.