![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Thơ Văn | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 200 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23694 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Làm Thinh
Cái
làng nhỏ đó nằm gần biển Manche, cách thành phố Etretat (miền bắc nước
Pháp) độ 10 km. Trong làng có chừng năm chục nóc gia nằm chùm nhum lại
thành một khu, trừ một cái nhà nằm rời xa một mình về phía biển. Người
trong làng gọi cái nhà đó là " nhà ông Lê ".
Cách đây mấy năm, ông Lê -người Việt Nam độ 40 tuổi- từ Paris ra đây
mua lại cái nhà đó để làm nhà nghỉ mát. Mùa hè và các ngày lễ lớn, ông
đưa vợ con -vợ người Pháp và hai con trai chín mười tuổi- ra đây đổi gió
và lâu lâu ông cho bạn bè mượn năm bảy hôm. Ông có mướn một người trong
làng -tên Jean Marie- trông nom nhà cửa và cắt tỉa vườn tược cây trái.
Mới đầu, người trong làng cứ tưởng ông Lê là người Tàu. Cho nên, họ hơi
dè dặt. Chừng biết ổng là người Việt Nam, họ cởi mở hơn, thân thiện
hơn. Làm như, đối với họ, người Tàu là người ngoại quốc xa lạ, còn người
Việt Nam thì ít nhiều gì cũng đã từng được xem là người trong nhà ! Họ
càng có cảm tình với ông Lê khi biết rằng ổng qua Pháp học từ hồi mười
lăm tuổi, rằng ổng tốt nghiệp trường Arts et Métiers, rằng ổng làm chức
lớn trong cơ quan Nhà Nước v.v... Họ hay nói với nhau: "Vợ chồng ông Lê
thật dễ thương".
Vùng này cao hơn mặt biển hai ba chục thước mà cuộc đất lại không lài
lài xuống lần khi ra gần biển như ở những nơi khác, nên không có bãi. Ở
đây, biển đâm thẳng vô bờ, loại bờ đá dựng thiên nhiên sừng sững như một
bức tường cao thật cao. Những ngày biển động, sóng đập vào chân tường
đá nghe ầm ầm. Vì nhà ông Lê nằm cách bờ đá dựng không xa, nên vào những
ngày đó, từ trong nhà nghe âm vang tiếng sóng giống như những tiếng thở
dài.
Hè năm đó, ông Lê và gia đình ra đây nghỉ mát chỉ có ba tuần thay vì
một tháng như thường lệ. Ông nói với ông Jean Marie -người quản gia-
rằng phải trở về Paris để đón cha mẹ từ Việt Nam qua. Ông Jean Marie hỏi
ông có định đưa ông bà cụ ra đây chơi không thì ông Lê trả lời rằng
không, bởi vì ông bà cụ mới xuất ngoại lần đầu tiên nên phải đợi một
thời gian cho quen với khí hậu phong thổ.
Vậy mà chỉ mươi ngày sau, thấy ông Lê chở ra đây một ông già tóc trắng
với hai va-ly hành trang. Người quản gia nghĩ: "Chắc định ở lâu nên mới
mang hành trang nhiều như vậy ". Ông Lê giới thiệu: " Đây là cha tôi.
Còn đây là Jean Marie, quản gia". Sau đó, ông nói: "Trong thời gian cha
tôi ở đây, tôi xin nhờ bà Jean Marie lo dùm việc nấu nướng giặt giũ
giống như những lúc gia đình tôi ra đây nghỉ mát. Có điều là cha tôi
không thể đi chợ ở Etretat như chúng tôi vẫn làm lâu nay, nên tôi nhờ
ông bà lo giùm luôn vụ này. Đổi lại, tôi sẽ tăng tiền thù lao của hai
ông bà lên mười phần trăm. Tôi xin ông bà chấp nhận cho".
Sau khi gọi điện thoại về nhà bàn tính với vợ, ông Jean Marie bằng
lòng. Tiếp theo đó, ông Lê trao cho ông Jean Marie một số tiền và nói:
"Đây, tôi gởi ông bà một tháng tiền chợ. Tôi dự trù dư dả phòng khi cha
tôi cần mua những gì khác, nhưng nếu thấy thiếu thì điện thoại cho tôi
hay để tôi gởi ra thêm. Mỗi cuối tháng, tôi sẽ gởi tiền để gối đầu cho
tháng kế tiếp, ông bà yên tâm". Ông Jean Marie hỏi: "Còn bà cụ đâu ? Sao
không cùng ra đây với ông cụ ?". Ông Lê trả lời như không trả lời: "Mẹ
tôi ở Paris". Rồi sau khi nói mấy lời cám ơn ông Jean Marie, ông bắt tay
từ giả người quản gia và ông già tóc trắng để trở về Paris, vội vã như
không muốn vấn vương gì nữa ! Thấy ông Lê đối xử với ông già tóc bạc như
là một người quen thường, ông Jean Marie vừa ngạc nhiên vừa bất nhẫn,
bởi vì ông nhận thấy rõ ràng ông già tóc bạc đó và ông Lê thật sự giống
nhau như hai cha con.
Ông già ở trong nhà ông Lê như một cái bóng. Ông không xem tê-lê, không
nghe ra-đi-ô. Ông cứ ngồi ở xa long hút thuốc liên miên, mắt nhìn thẳng
ra cửa kiếng hướng về phía biển, giống như đang coi một cái gì ở ngoài
đó. Ở ngoài đó không có gì hết ! Không có một cái cây, không có một lùm
bụi. Cỏ dại cũng không mọc cao. Mặt đất trống trơn chạy thẳng ra bờ đá
dựng. Từ chỗ ông ngồi, nhìn ra chỉ thấy đất và trời. Lâu lâu, vài con
hải âu bay phớt ngang, và lâu lâu trên nền trời trong xanh của mùa hè,
một sợi mây đi lạc. Chỉ có bao nhiêu đó, vậy mà ông cứ ngồi nhìn, nhìn
đăm đăm.
Mới đầu, ông bà Jean Marie cứ tưởng rằng ông già không biết nói tiếng
Pháp. Nhưng sau mấy lần hỏi han thấy ông trả lời trôi chảy mạch lạc, ông
bà mới yên tâm. Có điều là hỏi thì ông mới trả lời chớ không thấy bao
giờ tự ông gợi chuyện. Suốt ngày, ông làm thinh. Cần dùng gì thì ông
viết ít chữ rồi gắn trên mặt tủ lạnh. Ông bà Jean Marie thấy vậy cũng
ráng giữ ý không làm tiếng động khi quét dọn hay đi ra đi vào. Nhiều
khi, họ có cảm tưởng như trong nhà không có ai hết ! Chỉ có mùi khói
thuốc là nhắc đến sự hiện diện của ông già.
Ông già đó tên Lê Tư. Hồi thời trước -cái thời mà miền nam Việt Nam
chưa biết mùi cộng sản- ông Tư là một nhà thầu xây cất rất có bề thế ở
Sàigòn. Ông giao du rộng, lại "biết cách giao du", thêm giỏi tính toán
sắp xếp nên ông trúng thầu nhiều công trình lớn của Nhà Nuớc và của các
công ty ngoại quốc. Do đó, càng ngày ông càng nổi tiếng và sự nghiệp thì
cứ nhân lên gấp năm gấp mười. Dù vậy, ông không bao giờ chối bỏ cái gốc
hàn vi của ông và rất tự hào đã bắt đầu bằng hai bàn tay trắng.
Ông thường nói: "Hồi tôi từ Đà Nẳng vô Sàigòn, tôi chỉ có một chiếc xe
đạp cũ và cái nghề thợ hồ. Ban ngày đạp xe đi làm, ban đêm đạp xe đi học
thêm ở Trung Tâm Văn Hoá Pháp và hội Việt Mỹ. Hồi thời đó, quanh năm
suốt tháng, tôi chỉ biết có thắt lưng buộc bụng, ăn uống kham khổ, để
dành tiền gởi về cho cha mẹ ở Đà Nẳng và để đóng các học phí. Vậy mà tôi
vẫn không ngã lòng. Lúc nào trong đầu tôi cũng nghĩ rằng phải cố gắng
vương lên, bởi vì không ai giúp mình bằng mình hết. Nhờ vậy mà bảy tám
năm sau, tôi đã có một cơ sở vững chắc để cạnh tranh với các nhà thầu
khác. Rồi thì xây cất hết công trình này đến công trình khác, có khi hai
ba công trình cùng một lúc, cơ sở cứ lớn lần lớn lần để trở thành bề
thế như ngày hôm nay. Nghe tôi nói tôi bắt đầu sự nghiệp bằng con số
không chẳng có mấy ai tin hết ".
Khi đã khá giả, ông mới cưới vợ. Ông hay nói đùa : "Tình phải có tiền
đi theo nó mới vững. Giống như bê-tông phải có cốt sắt nó mới bền !".
Ông bà Lê Tư chỉ sanh có một người con trai đặt tên Lê Tuấn. Năm Tuấn
được mười lăm tuổi, ông gởi con qua Pháp học. Ông muốn nó học ngành kiều
lộ để sau này trở về nối nghiệp ông. Ông nói : "Việt Nam mình cạnh
tranh không nổi với hãng thầu ngoại quốc bởi vì mình có binh mà thiếu
tướng". Và ông hy vọng trong tương lai, con ông sẽ thực hiện những công
trình vĩ đại, vượt trội hẳn những gì ông đã làm. Để cho ông được nở mặt.
Cái tương lai đó bỗng tắt ngúm chỉ trong một thời gian ngắn sau ngày 30 tháng tư, 1975.
Trước cái ngày đen tối đó, một người như ông Lê Tư dư sức để di tản dễ
dàng. Vậy mà không thấy ông nhúc nhích. Ông cứ điềm nhiên hút thuốc,
uống trà, xem truyền hình, nghe ra-đi-ô. Giống như một kẻ bàng quan. Bà
Lê Tư thì cứ đi ra đi vô, hết gọi điện thoại cho bà bạn này đến gọi cho
bà bạn khác. Rồi thúc giục ông đi di tản. Bà nói :
- Trời ơi ! Mấy bả đi hết rồi kìa !
Ông cười :
- Thì ai sợ cứ đi. Bà yên tâm. Tôi bảo đảm không có sao hết. Nói thiệt
với bà, "họ" đã liên lạc với tôi cách đây hơn tháng, nói rõ rằng họ cần
dùng những người như tôi để xây dựng lại đất nước. Cho nên, bà thấy tôi
không ? Tôi bình chân như vại !
Điều mà ông không nói cho bà biết là từ bao lâu nay, ông vẫn đều đặn
gởi tiền giúp cách mạng qua ngả thằng cháu -cũng gốc liên khu năm như
ông- đang hoạt động ở mấy tỉnh miền Đông. Chính người cháu đó đã cho
người về gặp ông để giải thích rõ ràng chủ trương đường lối của cách
mạng. Nhờ vậy, ông mới vững tâm tin tưởng.
Đâu dè, sau khi cách mạng "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", cách
mạng quay về đánh tư sản. Ông Lê Tư cũng "bị" mời đi "làm việc" như mọi
người. Ông có xuất trình giấy chứng minh của Liên khu bảy, là vùng ông
đã giúp đỡ, nhưng "lá bùa" đó không linh ! Ông cũng nghĩ đến thằng cháu
cách mạng, nhưng bây giờ ông không biết nó ở đâu để gọi nó đến làm
chứng. Vì vậy, ông vẫn bị mời tới mời lui để "làm việc". Mỗi lần làm
việc, họ quay ông như con dế ! Đến nỗi về sau, mệt mỏi quá, chán chường
quá, thấy nói gì cũng vô ích, nên ông bèn làm thinh, mặc cho họ muốn nói
gì thì nói, hỏi gì thì hỏi. Rồi đến lần "làm việc" cuối cùng, ông cũng
làm thinh ký tên trên xấp giấy tờ họ đưa ra, ông ký mà không thèm đọc
qua một chữ ! Lần đó, ông bước ra khỏi cơ quan, có cảm tưởng như đang
sống trong một thế giới khác, một thế giới lộn ngược ! Ông không còn
khái niệm không gian thời gian. Ông chỉ biết rằng sau cái phút ký tên
đó, ông trắng tay. Và ông còn nghe trong đầu câu nói ơn nghĩa "nhờ ông
đã sớm giác ngộ cách mạng nên không phải đi cải tạo". Ông lái xe về nhà
như một người máy. Ông đâu biết rằng trong cuộc "đổi đời vĩ đại" này,
con người đâu còn sống bằng lý trí : con người chỉ sống bằng bản năng
thôi !
Về đến trước cổng nhà, bỗng nhiên ông Lê Tư nhận thức rằng tất cả những
gì trực thuộc về ông bây giờ chỉ còn lại người vợ đang đợi ông ở nhà.
Xưa nay, mọi việc trong gia đình đều do ông quyết định. Bà Lê Tư luôn
luôn làm theo ý của ông, không bao giờ thắc mắc. Bởi vì bà hoàn toàn tin
tưởng vào người chồng mà lúc nào bà cũng cảm phục như một thần tượng.
Bà nói : "Từ bàn tay trắng dựng nên sự nghiệp đồ sộ như vầy, không phải
ai làm cũng được !". Và bà thường ví chồng bà như một cây cau vững chắc
để bà bám vào đó như một giây trầu. Vậy mà bây giờ bây giờ Ông Lê Tư
không biết ví mình như cái gì nữa. Cách mạng mà ông đã giúp từ ngày ông
dựng nghiệp, hôm nay nhân danh gì gì đó, đã biến ông thành con số không.
Dễ dàng như người ta cầm nùi giẻ bôi hết những hàng chữ phấn trên một
bảng đen, bôi mà không cần biết những hàng chữ đó viết những gì ! Chỉ
trong có một khoảnh khắc, ông chẳng còn gì hết và bản thân ông cũng
không là gì hết ! Ông đã trở thành một "thứ gì" đó không có tên, một sản
phẩm của cách mạng mà sách vở xưa nay chưa thấy có định nghĩa !
Ông bước vào nhà mà cảm thấy mình lêu bêu như bọt nước, không làm chủ
được gì hết, kể cả làm chủ chính bản thân mình ! Cái biệt thự có hồ tắm
vườn hoa, có năm ngăn bảy nắp, mà ngày xưa ông đã xây cất cho tương xứng
với địa vị xã hội của ông bây giờ bỗng trở nên ngạo nghễ, vô duyên.
Nhà vắng teo. Một số gia nhân đã xin nghỉ việc từ những ngày sôi động,
số còn lại đã được cho nghỉ ngay sau ngày 30 tháng tư. Bà Lê Tư chắc
đang làm gì ở dải nhà sau nên ông không nghe tiếng động. Ông đốt điếu
thuốc rồi ngồi xuống phô-tơi nhìn thẳng ra vườn. Ông nhìn mà không thấy
gì hết ! Yên lặng.
Tiếng bà Lê Tư làm ông giựt mình :
- Sao ông ? Họ đòi gì nữa vậy ?
- Họ đâu có đòi. Họ lấy.
- Lấy gì ?
- Lấy hết tài sản của mình.
Giọng bà bỗng cao lên một nấc :
- Lấy hết tài sản ?
Ông nhìn bà rồi trả lời bằng cái gật đầu. Giọng của bà lại cao thêm một nấc :
- Gì lạ vậy ? Tự nhiên rồi đòi lấy tài sản của người ta. Đó là ăn cướp chớ đâu phải lấy ! Rồi ông trả lời làm sao ?
Ông thở mấy hơi thuốc, rồi mới nói :
- Thì tôi giao hết lại cho họ chớ còn làm sao ?
Bà chỉ kêu được một tiếng "Trời !" rồi ngồi phịch xuống ghế, mắt nhìn
thẳng ra vườn. Bà nhìn mà cũng không thấy gì hết ! Yên lặng. Một lúc
sau, ông nói, giọng thật trầm tĩnh :
- Bà nghĩ coi. Bây giờ họ là kẻ chiến thắng. Quyền sanh sát nằm hết trong tay, họ muốn nói gì làm gì mà không được.
- Còn luật pháp để đâu ?
- Luật pháp của ai ?
Bà làm thinh. Một lúc sau, bà nói :
- Hôm trước ông nói họ đã móc nối với ông để ông ở lại giúp họ xây dựng gì gì đó. Sao bây giờ họ lột hết của ông vậy ?
Ông làm thinh. Khói thuốc trong miệng bỗng trở nên thật đắng. Ông nghe
thèm một hớp trà hay một hớp nước lạnh, hay bất cứ một chất lỏng nào
cũng được để ông nuốt xuống "cái gì đó" đang nghẹn ngang ở cổ. Ông dụi
điếu thuốc rồi đi lại bar ở góc xa-long rót một ly nhỏ Porto uống ực một
cái, giống như người ta bị mắc xương. Xong ông trở lại phô-tơi ngồi
xuống, đốt điếu thuốc. Chất rượu đang nồng trên mũi, nhưng sao khói
thuốc vẫn còn nghe thật đắng !
Giọng bà Lê Tư có vẻ trách móc :
- Chớ phải ông nghe lời tôi đi di tản như thiên hạ thì đâu có sao.
- Đi di tản cũng mất hết chớ hơn gì.
- Sao mất hết được ? Ông quen lớn nhiều mà không hốt được một mớ
đem đi theo à ? Có nhiều người còn gởi được bàn ghế và vô số đồ cổ nữa.
Như anh X., như anh T., như ông tướng Z toàn là bạn thân của ông không.
Ông làm thinh. Bà vẫn nói, càng nói giọng càng gay gắt :
- Thà rằng mình đi, cái gì không đem theo được là mình bỏ. Tụi nó có
lấy, cũng là lấy những gì mình bỏ. Chớ còn bây giờ, tụi nó bóp họng ông
để lấy, bộ ông không thấy tức sao ?
Ông làm thinh. Ngừng một lúc như để suy nghĩ, rồi bà nói một câu giống
như bà đóng sập cánh cửa sắt để nhốt ông trong một nhà tù :
- Chẳng bằng ông muốn ở lại để giúp cách mạng chớ gì ? Phải không ?
Ông nuốt nước miếng mấy lần, rồi tiếp tục làm thinh. Bây giờ, ông thật
sự thấy mình như bọt nước trôi lêu bêu, không bám được vào đâu hết?
Chiều bữa đó, cách mạng đưa đến mười mấy thanh niên trai gái và một
toán bảo vệ cầm súng để làm công tác kiểm kê. Họ bắt mở hết các hộc, các
kệ, các tủ để họ đem ra đếm từng món, không bỏ sót một nơi nào hết, một
món nào hết. Đêm, họ ngủ lại trong nhà ông Lê Tư để sáng sớm hôm sau họ
tiếp tục. Xong công tác kiểm kê, người cán bộ chỉ huy chỉ định một nhóm
bốn người ở lại để canh giữ những gì đã kiểm kê, sợ ông bà Lê Tư ăn cắp
mang đi ! Gã còn nói như ra lịnh :
- Từ hôm nay trở đi, anh chị phải dọn ra nhà sau để ở, không được bước
lên đây nữa. Anh chị cũng không được quyền sử dụng chiếc ô-tô bây giờ
thuộc diện quản lý của Nhà Nước. Khi ra vào nhà, anh chị phải dùng cái
cổng hậu, không được đi bằng cổng chánh. Rõ chớ ?
Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư cũng làm thinh. Nhưng hai sự làm thinh đó
không cùng một ý nghĩa : ông làm thinh vì biết rằng có nói gì cũng vô
ích còn bà làm thinh là vì bà hận ông vô cùng !
Từ ngày dọn xuống ở trong một nhà phụ -có ba dải nhà phụ trước đây dùng
cho gia nhân- và từ ngày biết rằng văn phòng, các kho vật liệu, kho
dụng cụ cơ giới, biệt thự ở Núi Lớn Vũng Tàu, các chương mục ở ngân
hàng?v.v. đã hoàn toàn nằm trong tay Nhà Nước, bà Lê Tư ít nói chuyện
với ông. Nhưng hầu như ngày nào bà cũng ngồi nói một mình, nói trổng, cố
tình nói lớn tiếng để cho ông "phải" nghe. Bà cứ lải nhải với giọng
trách móc chanh chua, hết chuyện tin lời cách mạng, đến chuyện mất hết
của cải, rồi bắt qua chuyện di tản, chuyện ở "chui rút" trong nhà của
bếp của bồi. Còn ông thì cứ làm thinh ngồi nghe, nghe riết mà tóc của
ông càng ngày càng bạc trắng !
Thời gian đi qua. Một hôm bà bỗng nói với ông :
- Tôi đã nhờ người quen trong toà đại sứ liên lạc được với thằng Tuấn ở Paris. Nó sẽ lo giấy tờ cho mình qua bển.
Bây giờ, mọi sự đều do bà quyết định, ông chỉ làm thinh đi theo. Bây
giờ, người chồng "thần tượng" của thời trước chỉ còn là một cái bóng !
Bây giờ, bà mới là thân cây cau, còn ông, ông chỉ là một thứ giây
trầu... Đúng là một sự "đổi đời vĩ đại" !
Ít lâu sau, chính bà đã chạy chọt đút lót để có xuất cảnh cho hai vợ chồng bay qua Paris, vào giữa mùa hè năm đó.
?Ông Lê, người con trai của ông bà Lê Tư, đến đoón ông bà ở phi trường
Charles De Gaulle. Gặp lại nhau, mừng mừng tủi tủi. Ông Lê Tư có cảm
tưởng như mình vừa sống lại. Ông ôm con siết mạnh, rồi buông ra để nhìn.
Lòng tràn sung sướng, ông vừa cung tay đấm nhẹ lên vai con, vừa chửi
đổng : "Cha mày !". Rồi tiếp : "Ba tưởng không còn gặp lại con nữa chớ
!" Trong một khoảnh khắc, ông tìm lại được lời nói và cử chỉ của một con
người bình thường, con người của thời trước tháng tư 1975.
Trên đường về nhà, ông Lê vừa lái xe vừa hỏi về những chuyện đã xảy ra ở
Việt Nam trong những ngày sôi động của tháng tư, nhứt là ở đoạn "mấy
thằng Mỹ kéo nhau chạy sút quần". Nghe lời nói và giọng điệu của con,
ông Lê Tư cảm thấy có "cái gì không ổn", nhưng ông nghĩ : "Có lẽ tại nó ở
bên nây lâu quá nên nó nói tiếng Việt không biết chọn lời". Rồi ông kể
lại những gì mắt thấy tai nghe. Người con lâu lâu khoái chí, vỗ tay lên
tay lái, gục gặc đầu "cho tụi nó chết".
Bổng người con hỏi :
- Còn mấy thằng tướng nguỵ ?
Câu
hỏi đó như ánh sáng bật lên trong bóng tối để ông nhìn thấy rõ sự thật:
không phải con ông không nói rành tiếng Việt mà là con ông nghiêng về
phía bên kia, cái phía đã lật lọng, ăn cháo đá bát, cái phía đã lấy hết
tài sản của ông một cách ngang nhiên trắng trợn ! Trời đất chung quanh
bỗng như sụp xuống ! Tuy nhiên ông vẫn trả lời:
- Mấy người đó thì ba không biết.
- Tụi nó chạy ra đảo Guam hết. Thằng chủ chạy thì thằng tớ phải chạy
theo chớ dám ở lại đâu. Tưởng ba biết gì kể lại nghe chơi chớ ở bên nây
báo chí tê-lê nói đầy đủ. Trên tê-lê thấy nhiều thằng tướng ngơ ngác như
bầy gà nuốt giây thun !
Người con nói xong cười lên khoái trá. Ông Lê Tư nghe giận phừng lên
mặt ! Ông đưa tay định xáng cho thằng con một cái, nhưng ông kềm lại
kịp. Ông bỏ tay xuống mà nghe ngực mình tức ran. Tự nhiên, ông ứa nước
mắt. Từ phút đó, ông làm thinh. Thấy như vậy, tưởng cha bị mệt vì cuộc
hành trình quá dài nên ông Lê cũng không hỏi tiếp.
Bà Lê Tư ngồi ở băng sau, không chen vô một lời. Bà cảm thấy rồi đây sẽ
không thể nào ở chung với một thằng con như vậy được. Bà đã tưởng đi ra
khỏi xứ để khỏi phải thấy hằng ngày những chuyện trái tai gai mắt, nào
ngờ qua đây gặp thằng con không biết học ở đâu mà ăn nói giống "tụi nó" y
chang ! Nhưng không sao. Rồi bà sẽ mua nhà ở riêng. Bà dư sức. Với số
hột xoàn mà bà đã cất giấu sau 1975 và bây giờ đang nằm an toàn trong
cái giỏ mây hai đáy bà ôm trong lòng, bà dư sức. Cho dù bà phải cưu mang
suốt phần đời còn lại ông chồng mà bà đã không còn coi là thần tượng
nữa, từ lâu.
Về đến nhà -ở Neuilly Sur Seine, khu nhà giàu- ông Lê giới thiệu vợ con rồi đưa cha mẹ lên phòng trên lầu, nói :
- Ba má nghỉ một chút rồi xuống ăn trưa.
Bữa ăn được dọn lên từng món theo phong cách tây phương. Vợ ông Lê hỏi
han lễ độ và kín đáo chăm sóc ông bà Lê Tư. Hai thằng con ông Lê -giống
mẹ hơn giống cha nên ít thấy lai Việt- không biết một tiếng Việt. Chúng
ăn nhanh nhanh. Xong món thứ nhì, chúng không đợi món kế tiếp, vội vã
rút lên phòng. Suốt bữa ăn, câu chuyện chỉ vây quanh mấy món ăn nấu theo
tây, bởi vì ông Lê khoe có bà bếp giỏi. Bà bếp, người Pháp, có bước ra
chào ông bà Lê Tư.
Nhờ vậy, không khí trong bữa ăn không đến nỗi nào tẻ lạnh.
Sau bữa ăn, vợ ông Lê vì tế nhị, muốn để cho chồng và cha mẹ nói chuyện
riêng với nhau, nên xin phép lên lầu. Bà dặn chồng :
- Anh không nên nói chuyện nhiều. Ba má chắc cần phải ngủ vì sai giờ giấc. Mình còn nhiều thì giờ mà.
Khi bước qua xa long để uống cà phê, ông Lê hỏi :
- Ba má định qua đây ở chơi bao lâu ?
Ông Lê Tư châu mày, nhìn bà. Bà trả lời :
- Ba má định qua ở luôn chớ đâu phải ở chơi.
Người con ngạc nhiên :
- Ủa ? Sao lại ở luôn ? Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng
nào ngồi trên đầu trên cổ mình hết. Tất cả đều thuộc về mình, không còn
sợ thằng ác ôn nào cướp giựt nữa. Như vậy mà ba má định bỏ xứ qua đây ở
luôn. Thiệt là vô lý !
Hồi nãy, trên xe về đây, ông Lê Tư còn nghĩ rằng thằng con ông chỉ
nghiêng về phía bên kia. Bây giờ thì quá rõ ràng : nó đã đứng hẳn về
phía bên đó. Ông nghe lòng quặn thắt : chẳng những cách mạng đã cướp hết
tài sản của ông, mà tụi nó còn cướp luôn thằng con duy nhứt của ông,
cướp từ hồi nào rồi.
Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư hơi mất bình tĩnh :
- Tại con không biết. Tụi nó lấy hết tài sản của ba má rồi còn đuổi
xuống ở căn nhà của bồi, rồi lại bắt không được đi cổng chánh phải đi
cổng hậu. Bây giờ tụi nó sợ mình không chấp hành chỉ thị nên kéo kẽm gai
cô lập căn nhà ba má ở. Con nghĩ coi sống làm sao ?
- Buổi đầu lúc nào chẳng có chuyện sai sót. Rồi cách mạng sẽ trả lại
hết cho ba má, yên tâm đi ! Điều mà con muốn nói là chưa chi mà ba má đã
muốn bỏ xứ ra đi giống như bè lũ đĩ điếm trộm cắp tháo chạy mấy ngày
trước giải phóng làm con thấy không hãnh diện chút nào hết !
Câu nói chưa dứt, ông Lê Tư đã đứng phắt dậy, làm thinh đi thẳng lên
lầu. Bà Lê Tư cũng nối gót, nhưng bước chân bà nặng chình chịch. Đứa con
máu mủ mà bà mới ôm hun thắm thiết hồi nãy trên phi trường, bây giờ
bỗng giống như người xa lạ. Bà cảm thấy hụt hẫng đến độ bà không biết
phải làm gì, nói gì. Đến giữa cầu thang, kềm không được, bà ôm mặt khóc
tức tưởi.
Suốt buổi chiều, ông Lê Tư ngồi trong phòng làm thinh hút thuốc. Ông
không nghe buồn ngủ, ông chỉ nghe mệt - thật mệt - và chán chường - thật
chán chường. Ông bắt gặp lại tâm trạng của ông vào những ngày cuối cùng
của thời ông bị cách mạng quay hằng bữa để ông kê khai tài sản một cách
"đầy đủ và trung thực" !
Bà Lê Tư cũng không ngủ. Bà điện thoại để liên lạc mấy bà bạn đã định
cư ở Pháp, nhứt là ở vùng phụ cận Paris. Rồi bà hẹn hò. Sung sướng như
thấy chân trời đang mở rộng.
Sau bữa ăn tối, đợi bà Lê và hai con lên lầu, bà Lê Tư nói :
- Chị bác sĩ A sáng mai lại rước má về nhà chỉ chơi vài bữa. Sau đó, có
lẽ sẽ qua nhà bà dược sĩ L. Ở đây, má có nhiều bạn bè lắm, con đừng lo
cho má. Con chỉ cần lo cho ba thôi.
Ông Lê Tư nhìn thẳng mặt con, giọng nghiêm trang :
- Ba nói thật : ba với con không hạp nhau. Ba không thể ở chung với con
được. Ba xin con cho ba ở một nơi nào khác, ở một mình cũng không sao.
Ông nói "xin con cho ba", đó là sự thật. Bởi vì bây giờ ông hoàn toàn
trắng tay. Xưa nay, tiền dư ra, ông cho bà một phần để mua hột xoàn, còn
bao nhiêu ông chuyển hết qua chương mục của người con.
Ông Lê ngồi làm thinh, không biết ông đang nghĩ gì. Cũng là làm thinh,
nhưng sự làm thinh của ông khó hiểu hơn sự làm thinh của ông bà Lê Tư !
Vậy rồi sáng hôm sau, bà bác sĩ A lái xe lại rước bà Lê Tư. Tiếp theo
là ông Lê chở người cha ra ở cái nhà nghỉ mát ở gần bờ đá dựng. Suốt
cuộc hành trình dài mấy tiếng đồng hồ, hai cha con không nói với nhau
một lời !
Từ ngày ra đây ở, ông Lê Tư cảm thấy cuộc đời mình như đang đi vào một
ngõ bí. Không sống được với cách mạng, đã đành. Còn lại bà vợ thì bây
giờ bả coi mình như cục bứu trên lưng. Rồi đến thằng con, đối với mình,
nó còn lạ hơn người xa lạ ! Cứ nghĩ quẩn nghĩ quanh như vậy hết ngày này
qua ngày khác mà con người ông sa sút thấy rõ. Bây giờ, ông ốm nhom. Đi
đứng đã phải chống ba-toon và đêm đêm cứ phải nằm trằng trọc tới khuya
lơ mới dỗ được giấc ngủ. Thấy tội nghiệp, ông bà Jean Marie hay thừa dịp
đưa nước trà hay cà phê để ngồi lại gợi chuyện vẩn vơ. Họ cũng ngạc
nhiên tự hỏi sao không thấy ai gọi điện thoại hỏi thăm ông già này hết.
Làm như ông không có mặt trong cuộc đời này. Cho nên họ tận tình chăm
sóc ông từng chút. Đến nỗi, về đêm, bà Jean Marie thường đợi ông lên
giường nằm đàng hoàng mới tắt đèn đóng cửa đi về nhà ! Ông Lê Tư rất cảm
kích nên lâu lâu ông phá lệ làm thinh để nói hai tiếng "cám ơn", nhẹ
như hơi thở.
Một hôm, ông Lê Tư bỗng thèm nhìn mặt biển, cái biển mà từ hôm ra đây
-đã gần hai tháng- ông chỉ nghe tiếng của nó rì rào ngoài kia thôi. Ông
bèn chống ba-toon bước từng bước run run đi lần ra hướng đó. Cứ đi vài
bước là ông phải dừng lại một lúc để thở, nhưng ông vẫn cố bước đi.
Bây giờ thì ông đã đứng trên mép bờ đá dựng. Dưới chân ông, rất sâu
phía dưới, là biển. Biển xanh dờn, kéo dài ra chân trời. Trời nước mênh
mông. Gió muối và mùi thơm thơm của rong rêu nhắc ông nhớ cái biệt thự ở
mỏm núi lớn Vũng Tàu. Ông đã xây cất biệt thự đó để làm nơi tiếp tân
nên có một sân gạch thật rộng hướng về phía biển. Ông hay đứng ở đó nhìn
chân trời như ông đang đứng nhìn chân trời bây giờ. Cũng trời, cũng
nước, cũng một đường gạch ngang. Hồi đó, lúc nào ông cũng thấy chân trời
đang mở rộng cho ông, cái hồi mà ông làm chuyện gì cũng thành đạt. Bây
giờ, cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang nhưng sao ông không
thấy nó mở rộng cho ông một chút nào hết ! Ông chỉ thấy toàn là bế tắt.
Chân trời là đường chấm dứt một cái gì : trời cao nghiêng xuống đến đó
là hết, biển rộng vươn dài đến đó cũng là hết ! Giống như cuộc đời của
ông bây giờ. Của cải: hết ! Vợ con: hết ! Sức khoẻ của ông rồi cũng sẽ
hết ! Hết ! Hết !
Bỗng, ông Lê Tư liệng mạnh cây ba-toon xuống biển, giống như ông dứt
khoát không cần dùng đến nó nữa. Rồi ông hít một hơi dài, nhắm mắt bước
thẳng vào khoảng không trước mặt, giống như bước qua một lằn ranh tưởng
tượng.
Từ bây giờ, ông Lê Tư làm thinh vĩnh viễn.
Chiều hôm đó, ông Jean Marie gọi điện thoại về Paris. Không có người
bắt máy, nhưng có máy nhắn tin nên ông nhắn : "A lô ! Tôi là Jean Marie.
Tôi xin báo tin buồn : ông cụ đã từ trần. Ông đi dạo gần tường đá dựng
chẳng may rơi xuống biển. Nhà chức trách đã vớt được xác đem về nhà xác
bịnh viện Etretat. Yêu cầu ông bà ra gấp. Vợ chồng tôi xin chia buồn. Thành thật chia buồn".
Tiểu Tử
|
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Người Bỏ Báo![]()
Đồng
hồ báo thức lúc ba giờ sáng, Phong tốc mền rời khỏi giường, tập vài
động tác thể thao cho tỉnh táo rồi vào toa-lét làm vệ sinh. Xong
phần thủ tục sơ sài buổi sáng, Phong khoác chiếc áo lạnh vội vàng
lên xe chạy một mạch đến nhà kho nhận báo đi bỏ cho khách hàng.
Trời California được tiếng là ấm áp, nhưng cái rét của mùa Giáng
sinh cũng đủ làm tê cóng cả tay chân. Phong mới qua Mỹ chưa đầy
một năm, dành dụm tiền trợ cấp mua được chiếc xe Ford Mustang đời
80, chạy bốc, cứng cáp nhưng khổ nỗi, xe tám máy uống xăng thần
sầu.
Phong vào lớp ESL ban ngày, ghi tên học thêm ban đêm lớp Anh ngữ
đàm thoại chờ đủ một năm chàng sẽ xin vào Đại Học Cộng Đồng. Tiền
trợ cấp vừa hết, là được hãng báo San Jose Mercury News gọi đến
nhận một route báo 200 tờ bỏ buổi sáng mà Phong đã ghi tên xin
việc từ tuần trước. Vùng thung lũng điện tử này gặp thời điểm
kinh tế Hoa kỳ đang hồi trì trệ, việc làm ***embly chỉ ưu tiên cho
người có kinh nghiệm. Riêng nghề bỏ báo chẳng cần kinh nghiệm,
chẳng cần huấn nghệ. Một vài lần lái xe quan sát địa chỉ khách
hàng trong danh sách là thực hiện được ngay. Nghề bỏ báo thuê lại có
thời gian thuậân lợi để cắp sách đến trường.
Phong được route báo sớm sủa cũng nhờ ông thầy cũ qua Mỹ đã mười
hai năm, mà thâm niên nghề bỏ báo đến mười một năm. Ông quen thân
hầu hết các ông quản lý nhà kho chứa báo. Hàng năm, vào ngày lễ
Giáng sinh, ông chở một xe quà tặng cho tất cả “ giới chức” trong
văn phòng. Người hộp bánh, kẻ chai rượu kèm theo thiệp chúc Giáng
sinh và Năm Mới rất trịnh trọng. Nhờ cái cảm tình đặc biệt đó mà
vợ chồng ông có route báo sát nhà gần bốn trăm tờ buổi sáng.
Ông có lối so sánh rất thực tế: “Muốn tập thể dục tại các club
phải mua thẻ hội viên và trả tiền hàng tháng. Nghề bỏ báo có khác
gì chạy bộ thể dục mỗi buổi sáng đâu, lại được người ta trả tiền.
Tôi chạy bộ đã mười một năm nay chẳng hề lo áp huyết cao, áp
huyết thấp. Bà xã của tôi trông còm cõi như thế mà khỏe đáo để,
cũng chỉ vì bả dành phần chạy bộ nhiều hơn tôi”. Ông thầy cũ của
Phong trở thành “Cai thầu bất đắc dĩ”. Route báo nào carrier bỏ
ngang xương, route nào bị đuổi việc đều được quản lý thông báo cho
ông. Nhờ vậy mà các gia đình Việt Nam mới đến định cư được mau chóng
gia nhập vào lực lượng bỏ báo càng ngày càng đông đảo.
Phong tấp xe vào bãi đậu xe, nhanh chân vào phòng đẩy chiếc xe
cart đến xếp hàng. Carrier gồm nhiều sắc dân, đủ loại tuổi tác.
Riêng người Mễ Tây Cơ và Việt Nam chiếm đa số. Nhận báo xong,
Phong đẩy xe đến khu xếp báo, nơi đặt nhiều dãy bàn.
Hôm nay thời tiết lạnh nhưng khô ráo nên không cần bỏ báo vào túi
nylon. Những dãy bàn cách nhau khá rộng đủ cho hai chiếc xe đẩy.
Người đứng bên kia, kẻ đứng bên này, tay làm, miệng trò chuyện với
nhau đủ các loại đề tài, đủ các loại ngôn ngữ. Ở Việt Nam, mấy
ông phó hù (thợ hớt tóc) là nổi tiếng biết nhiều chuyện. Ngồi hớt
tóc mà nghe ông kể chuyện từ đông sang tây như ông đã từng đi chu
du khắp đó đây. Bây giờ ở Mỹ mấy ông bỏ báo có thua gì ông phó cạo
đâu. Ông nào cũng thông thái cả. Gặp đợt bầu cử, kẻ bênh đảng
Dân Chủ, người bênh Cộng Hòa cãi chí chóe rồi sừng sộ, ném báo vào
nhau.
Đứng
đối diện với Phong là một ông người Mễ lớn tuổi cùng cô vợ rất trẻ,
có lẽ bằng nửa tuổi ông ta. Nghe đâu ông về Mexico cưới cô nàng.
Nghề nghịêp chính của ông là làm công nhân xây dựng, route báo là
phần phụ trội kiếm cho vợ. Ông cố gắng huấn luyện cho vợ thành
thạo cái “nghề” bỏ báo này, dần dần cô sẽ thay ông đảm trách một
mình. Ông chỉ giúp nàng vào ngày cuối tuần. Nhà cửa có sẵn, nàng
chỉ phụ thêm tiền trả nợ ngân hàng.
Bà vợ trước bỗng dưng bỏ đi để ông sống cô đơn trong căn nhà ba
phòng, phải cày hai job mới đủ trả nợ. Giờ thì lão khôn ra. Căn
nhà, cho người ta thuê lại hai phòng nên nhẹ gánh tiền bill hàng
tháng. Rút kinh nghiệm, lần nầy lão về nước tìm cô vợ tận vùng quê
nơi mà phụ nữ có cuộc sống đơn giản chẳng có mơ ước cao xa. Ông
tâm sự: Người đàn bà Mễ mà có gốc gác chắc chắn ở cái xứ tự do
này, họ trở chứng như ngựa không cương.
Trước đây, lão loay hoay xếp báo một mình, giờ có hai người nên lão có vẻ thảnh thơi. Chồng lái xe, vợ mang báo bỏ tận hiên nhà cho khách hàng rất thuận lợi. Nay thì đã quen việc, nàng cũng không thua gì chồng về kỹ thuật quăng báo qua cửa xe.
Dãy bàn phía bên kia, một thanh niên Mễ cao ráo vừa xếp báo vừa
huýt sáo theo điệu nhạc đồng quê, chốc chốc liếc mắt nhìn trộm cô
vợ trẻ đứng bên ông chồng già. Mái tóc nâu hớt cao rất hợp với màu
da trắng hồng, lại thêm hàng ria mép duyên dáng, đôi lông mày dài
đen kịt làm tăng thêm vẻ khỏe mạnh, hào hoa của người nghệ sĩ.
Buổi liên hoan mừng Chúa Giáng Sinh vừa qua do hãng báo tổ chức,
anh chàng đã trổ tài với ngón đàn guitare thật điêu luyện. Cô vợ
trẻ thỉnh thoảng phóng ánh mắt về phía có tiếng đàn réo rắt nhưng
cũng không quên đưa ánh mắt đa tình nhìn chồng nở nụ cười rạng rỡ,
khoe đôi hàm răng óng ánh như hàng ngọc dưới những dãy đèn điện
sáng choang. Đôi rèm mi dài cong không che được ánh mắt đầy rạo
rực tình yêu của cô nàng.
Đẩy
xe đầy báo đến chiếc Ford, Phong mở nắp thùng sau sắp báo vào cốp, số
còn lại bỏ vào ghế trước. Trả xe cart về chỗ cũ, chàng lên xe lái
về hướng khu khách hàng của mình. Một tay điều khiển vô-lăng, tay
kia ném báo qua cửa xe, Phong cử động như một Rô-bô. Thông thường,
địa điểm lý tưởng gởi báo cho thân chủ là nằm ngay cửa garage,
trong hàng rào hoặc trên hiên nhà. Những khách hàng nào có yêu cầu
bỏ báo trước cửa chính được ghi trong danh sách thì carrier mới
xuống xe chạy bộ vô nhà. Những route báo tốn thời gian nhiều nhất
là khu apartment, và những chung cư nhiều tầng. Riêng route báo
của Phong cũng không khó khăn lắm. Một tiếng đồng hồ lái xe loanh
quanh khu vực single-house, và khu mobile-home là số báo trên xe hết
sạch. Chàng có thể thảnh thơi ghé vào tiệm Mc Donald “to go” cái bánh
ăn sáng với ly cà-phê về nhà nhâm nhi.
Sáng hôm nay, cơn bão cấp hai được loan báo sẽ thổi vào vùng Vịnh.
Ngoài trời, mưa đã bắt đầu nặng hạt. Phong thức dậy với thân thể
mỏi nhừ. Nếu nghỉ dễ dàng có lẽ Phong sẽ nằm vùi trong đống chăn
ấm. Nghề bỏ báo, một tháng ba mươi ngày, không được nghỉ ngày nào
và cũng chẳng được một quyền lợi nào dành cho carrier. Dần dà cơ
thể con người thích hợp với khí hậu dù nắng hay mưa. Sự mỏi mệt
cũng sẽ tan biến khi những cuộn báo đầu tiên theo cánh tay vung
ra.
Phong lái xe vòng vòng trong khu đậu xe tìm chỗ, bất chợt một phụ
nữ đội áo mưa băng qua trước mũi xe chàng rồi chui vào chiếc xe
màu trắng có người bên trong mở cửa đợi. Người đàn bà bỏ áo mưa
ra, Phong mới nhận ra là cô vợ trẻ. Bên trong nhà kho, ông Mễ già
khệ nệ bưng những chồng báo nặng nề bỏ vào xe đẩy. Một chốc sau,
cô vợ trẻ hổn hển chạy vào phòng đến đứng bên chồng làm cái công
việc hàng ngày. Khuôn mặt tròn trịa, ánh mắt đa tình, mơ màng hơn
mọi khi. Anh chàng Mễ nghệ sĩ từ ngoài sân đi vào, miệng không
ngừng huýt sáo, trông chàng hân hoan lắm.
Ngoài trời, từng cơn gió giật nổi lên liên hồi mang theo tiếng hú,
tiếng gầm rùng rợn như con vật khổng lồ vô hình đang trườn mình
trên những ngọn cây ngã rạp, quằn quại dưới bầu trời mây đen vần
vũ.
Người
quản lý đi từng bàn nhắc nhở carrier bỏ báo vào túi nylon cột dây
cao su thật chặt. Với cơn mưa như trút nước này, báo vất giữa trời dễ
bị thấm ướt, khách hàng sẽ khiếu nại, hãng báo mất thân chủ,
người bỏ báo sẽ bị trừ tiền.
Gió gầm thét, mưa ào ào, carrier vẫn lên xe như đoàn quân xông
trận tỏa đi tứ hướng. Phong lượn xe theo từng con đường đầy ngập
lá, cành cây gẫy rơi vãi trên lối đi. Với tốc độ cẩn trọng, chàng
cố gắng liệng cuộn báo sát hiên nhà hoặc bao lơn. Gặp ngày mưa gió
thế này, carrier phải tốn gấp đôi thời gian cho route báo của
mình. Nghề nào cũng gặp cái khó của nó. Tiền công bỏ một tờ báo
chỉ có mấy cent, nhưng rũi ro ném bể kính cửa sổ nhà của khách
hàng là phải đền cả trăm bạc. Chưa tính đến lúc sửa xe, thay
lốp... quả là cái nghề “ăn cám trả vàng”.
Vợ
chồng kỹ sư Trung đã có công việc chuyên môn đúng ngành nghề tại hãng
điện tử IBM, đã mua được hai căn nhà còn lãnh thêm route báo 300
tờ nữa. Phong ngạc nhiên lắm. Nhân lúc đứng xếp báo, Phong nêu
thắc mắc với chàng kỹ sư điện tử ấy và được giải đáp như sau:
- Tiền lương chính của vợ chồng mình vừa đủ trả các loại bill và
dành dụm hàng năm lấy vacation cho gia đình đi chơi mươi ngày, nửa
tháng. Riêng việc bỏ báo này, chúng tôi kiếm thêm tiền để viện
trợ cho gia đình hai bên còn ở lại Việt Nam.
Bên nhà, ông bà nội, ông bà ngoại cứ khoe với bà con láng giềng là
con rể, con dâu đều là kỹ sư điện tử ở Hoa kỳ. Lương hàng năm
của chúng nó đến cả tỷ đồng Việt Nam chứ ít đâu. Nay chúng nó đã
tậu được hai căn nhà, mà nhà ở Mỹ giá đến mấy trăm ngàn Mỹ kim.
Gớm, tiền nhiều đến thế, làm sao chúng xài cho hết. Vì vậy, cha
mẹ, cô chú bác, anh em không ngừng gởi thơ xin tiền, viện đủ lý
do. Đến cả đau đầu cũng gởi thơ nhắc đừng quên gởi thuốc Tylenol.
Mình có viết thư giải thích cái nhà là của ngân hàng. Nhưng nào ai
tin, cứ cho mình là kẻ khiêm tốn, không muốn khoe khoang. Sau cùng anh
kỹ sư Trung phán một câu: “Người tỵ nạn của chúng mình mang kiếp
lưu đày, nay trở thành kiếp trâu cày”!
Qua
câu chuyện của kỹ sư Trung kể đã tác động tình cảm của Phong không ít.
Chàng có bà mẹ già đang sống lam lũ với người em trai tại một thị
trấn nghèo nàn nửa chợ nửa quê. Hơn một năm nay Phong chưa dám
nghĩ đến chuyện gởi tiền về cho mẹ bởi chàng còn gặp nhiều khó
khăn. Nằm ở đảo gần hai năm, nhờ cái giấy chứng nhận cô nhi quả
phụ của mẹ chàng gởi qua nên Phong được Cao ủy tỵ nạn cho đi Hoa
kỳ. Cùng chuyến vượt biển muộn màng với chàng, đa phần bị cưỡng
bức quay về Việt Nam vì thiếu giấy tờ chứng minh.
Cha Phong hy sinh ngoài mặt trận lúc thằng em còn trong bụng mẹ..
Người đã sống khép mình, tảo tần nuôi hai đứa con trưởng thành.
Trước hoàn cảnh bi đát của gia đình, Phong đã liều chết trốn vào
thuyền vượt biển. May mà thoát được, nếu còn ở lại Việt Nam, diện
của gia đình Phong chỉ còn chết gí tại hợp tác xã hoặc ở các công
trường, không cách nào ngẩng cao đầu được.. Phong đã ghi tên vào
trường Mission College và xin được cái job Work Study. Hy vọng đơn
xin trợ cấp được chấp nhận, bấy giờ chàng sẽ dành chút đỉnh tiền
gởi về cho mẹ và em.
Hàng ngày, Phong bỏ xong route báo về nhà nghỉ được một giờ rồi
phóng xe tới trường. Sau giờ học, chàng ở lại trường thêm một giờ
nữa để làm công việc của một trợ giáo hoặc vào thư viện.
Báo ngày Chủ Nhật có rất nhiều phụ bản quảng cáo, carrier cần
nhiều thời gian để xếp báo, ngoài ra tờ báo cuối tuần rất nặng,
không thể ngồi trong xe quăng báo qua cửa xe như báo ngày thường.
Vì thế vào ngày này nhà kho mở cửa trước 12 giờ khuya cho mọi
người đến nhận báo.
Ngày Tết Nguyên Đán đã gần kề, Phong nhớ đến mẹ và em ở quê nhà.
Thằng Thủy hiện là công nhân trồng cây lâm trường, tiền lương vừa
đủ nuôi thân. Còn mẹ chàng, đặt tủ thuốc bên lề đường thị trấn,
bán từng điếu Hoa Mai, Điện Biên. Họa hoằn mới có người hỏi mua
vài điếu thuốc ngoại nhập. Phải nhìn trước nhìn sau tránh bọn thuế
vụ luôn luôn rình rập.
Phong vừa nhận được tiền trợ cấp. Sau khi trừ tiền sách cũng còn
dư chút ít, nên chàng quyết định gởi về cho Mẹ 200 Mỹ kim để tiêu
Tết.
Mẹ Phong nhận được tiền từ Mỹ gởi về, mừng lắm. Bà sai Thủy viết
thư tin cho anh rõ: “Nhờ tiền anh gởi về mà mẹ có được bộ bà ba
mới bằng vải ka-tê, em sắm bộ sơ mi quần tây để ăn Tết, cũng nở
mày nở mặt với bà con láng giềng.” Từ đó, thành thông lệ, đến ngày
Tết, ngày chạp, và đặc biệt là ngày giỗ cha, Phong gởi tiền về
cho mẹ mua sắm rộng rãi..
Một hôm chàng nhận được thư của Mẹ gởi:
Phong, con yêu quý của mẹ,
Như
con biết đó thằng Thủy em con làm công nhân lâm trường cực khổ lắm,
dãi nắng dầm mưa mà tiền lương không đủ tiêu. Nay nhân dịp có người
bạn của nó là thằng Hanh cùng với mấy người có thế lực trong huyện
mở một công ty sản xuất bia có tiêu chuẩn quốc tế. Người ta cho
em con được hùn vốn mà gia đình ta nghèo quá. Em con thì muốn
thoát ra cảnh khổ của đời công nhân, nên mẹ biên thư này mong con
thương mẹ, thương em gởi về cho em con mượn 10.000 đô la. Sau này
mẹ sẽ nhờ vào số tiền lời của công ty chia hàng tháng mà an hưởng
tuổi già. Mẹ biết hiện giờ con còn phải bận rộn việc học hành,
nhưng đằng nào con cũng có khả năng kiếm tiền hơn mẹ và em con. Con
chớ nên chậm trễ để cơ hội qua đi. Mẹ mong tin con từng ngày ở quê
nhà.
Mẹ của con.
Bức thư của mẹ làm Phong nhức đầu mấy ngày. Đào tiền đâu ra mười
ngàn đô. Cái route báo 200 tờ, tiền trợ cấp, tiền làm thêm trong
trường cộng lại chỉ hơn ngàn rưỡi bạc. Trả tiền thuê phòng, tiền
bảo hiểm xe, tiền sửa xe, tiền đổ xăng và tiền ăn...chẳng có dư
bao nhiêu. Mười ngàn đô gởi về trọn gói quả thực vượt ngoài tầm
tay đối với chàng.
Phong thương mẹ thương em muốn cho gia đình thoát ra cảnh nghèo
túng. Đây là cơ hội cho em mình kinh doanh, có công việc làm tương
đối nhàn hạ lại có tiền cung cấp cho mẹ hàng tháng. Phong nghĩ
tới ông thầy cũ, đến anh kỹ sư có hai nhà mà còn đi bỏ báo kiếm
thêm tiền gởi về cho gia đình. Đó là một tấm gương tốt.
Trong thư mẹ dặn chớ nên chậm trễ để lỡ cơ hội. Vì vậy, chàng
quyết định tận dụng Credit card, mượn ông thầy cũ, vợ chồng anh kỹ
sư Trung mỗi người 2000 đô cộng thêm tiền dành dụm bao lâu nay là
đủ số tiền theo yêu cầu của mẹ. Chàng sẽ xin thêm một route báo
nữa để có tiền trả nợ dần. Phong tự an ủi: “Mình bỏ bớt giờ nghỉ,
dậy sớm hơn và về trễ hơn. Người ta bảo: “Giúp ngặt không ai giúp
nghèo.” Tiền gởi về chia làm 3 đợt được thông suốt. Mẹ chàng
viết thư bảo rằng: “ Trong đời mẹ chưa bao giờ thấy được số tiền lớn
như thế. Mẹ đã chảy nước mắt khi ôm túi tiền một trăm bốn mươi triệu
bạc Việt Nam vừa mới được đổi ra.”
Ngày nhận được thư mẹ cũng là ngày ông quản lý cho thêm route báo
100 tờ. Như vậy là Phong phải bỏ 300 tờ báo cho khách hàng mỗi
ngày. Tuy khổ cực nhiều nhưng Phong rất thỏa mãn mỗi khi nghĩ đến
mẹ và thằng em có công việc làm vững chắc, có lợi tức thu vào hàng
tháng để mẹ chàng khỏi phải phơi nắng ngồi bán từng điếu thuốc
hút.
Hôm nay thứ Bảy, bỏ xong báo đến tám giờ sáng, Phong ghé tiệm
cà-phê mua ổ bánh mỳ xa-xíu, ly cà-phê đá rồi lái xe thẳng đến
nhà kho để nhận hàng quảng cáo, loại thuốc gội đầu của hãng sản
suất H.E. Phải bỏ hàng vào loại bao đặc biệt của hãng cung cấp kèm
theo mấy tờ coupons giảm giá.
Phong đến trễ hơn mọi người nên phải đậu xe tận ngoài xa. Bãi đậu
xe nơi đây vắng vẻ sát bờ suối có tàn cây che mát. Chàng ngồi
trong xe gặm ổ bánh mỳ và ly cà phê đá. Bất chợt, Phong trông thấy
chiếc xe màu trắng đậu dãy ngoài cùng đang lắc lư, nhún nhẩy như
người lên đồng. Chàng nghi ngờ, biết đâu có kẻ bị bắt cóc vứt vào
thùng xe, giờ đang vùng vẫy kêu cứu. Phong hấp tấp mở cửa xe
phóng người đến chiếc xe đang đánh nhịp.
Nhìn qua cửa kiếng, Chúa ôi, Phong đưa tay bịt miệng, quay đầu
chạy một mạch về lại xe mình đóng sầm cửa lại. Một cảnh tượng đập
vào mắt khiến Phong có cảm tưởng mình vừa bị lừa. Cặp nam nữ trần
truồng đang hì hục làm tình trên băng ghế sau. Phong xấu hổ ngồi
đờ đẫn trong xe.
Phần ổ bánh mỳ còn lại chàng vứt vào bao giấy, chỉ uống cạn ly
cà-phê. Độ năm phút sau, cánh cửa sau xe màu trắng bật ra, cô vợ
trẻ vừa bước xuống xe vừa cài hột nút áo cuối cùng, nhoẻn miệng
cười rất tươi với người bên trong rồi thoăn thoắt đi về hướng nhà
kho. Phong vẫn ngồi yên chờ đợi xem người còn lại là ai. Khi cô bé
đi đã khá xa, người chủ chiếc xe xuất hiện, không ngoài sự dự
đoán của Phong, đó là chàng thanh niên Mễ có ngón đàn guitare gợi
cảm.
Trong nhà kho không khí nhộn nhịp. Những chiếc thùng các tông rỗng
đựng mẫu shampoo quảng cáo vất tứ tung. Cô vợ trẻ đang giúp chồng
bỏ hàng vào túi nhựa. Bất chợt, người chồng phát hiện áo cô vợ
gài lệch khuy khiến tà áo so le, ông nói nhỏ vào tai vợ, cả hai
cùng cười. Cô nàng ngồi thụp xuống bên dưới bàn để gài lại nút áo,
khi đứng lên, nàng bẽn lẽn véo yêu vào cánh tay chồng. Ông Mễ già
nhìn cô vợ trẻ với ánh mắt chan chứa tình yêu và tràn ngập niềm
tin. Đột nhiên, tâm hồn Phong chùng xuống. Chàng thương hại người
chồng đã dồn tình yêu không đúng chỗ. Phong thấy áy náy trong lòng
vì đã không làm được điều mình muốn làm cho người chồng đang bị
vợ cắm sừng. Ông ta quên rằng khi con ngựa đã rõ đường đi lối về thì
ngựa đâu cần đến dây cương. Khi tình yêu đến với người đàn bà sẽ
không còn sức mạnh nào ràng buộc được họ ngoài sức quyến rũ của
người tình. Khi phát giác ra điều này, ông già sẽ đau khổ biết
chừng nào.
Phong đã lấy xong bằng AS sau ba năm học miệt mài tại Misson
College và đã ghi tên tại Đại học SJSU theo ngành kỹ sư điện.
Trong ba tháng hè, Phong dự tính dành ba tuần lễ về Việt Nam thăm
gia đình. Nhân thể xem công việc hùn hạp làm ăn của Thủy như thế
nào. Chàng đã nhờ hai người bạn học bỏ hộ 2 route báo trong thời
gian vắng mặt. Muốn tạo sự ngạc nhiên cho mọi người, Phong không
báo tin cho gia đình biết trước.
Từ phi trường Tân Sơn Nhất, Phong lên taxi đến thẳng bến xe đò
liên tỉnh. Trên đường về quê, chàng nghĩ đến giờ gặp mẹ gặp em
khiến lòng chàng nôn nao. Chàng sẽ kể chuyện về quê người, về
những tháng năm lo âu trên đảo và những hiểm nguy của đoạn đường
vượt biển.
Trước khi xe vào thị trấn, Phong xuống xe ghé thăm người cậu ruột
đã mười năm chưa gặp mặt. Nhà cậu ở gần quốc lộ nên chàng tìm đến
chẳng khó khăn gì. Gặp Phong, cậu ôm chàng rưng rưng nước mắt. Cậu
nghẹn ngào nhắc lại kỷ niệm ngày xưa mà cậu và cha chàng đã cùng
nhau chiến đấu chung một chiến hào.. Ông cậu bảo Phong:
- Mẹ con thật có phước, nhờ tiền con gởi về mà đời sống khấm khá
hẳn lên. Ngôi nhà cũ được sửa sang lại. Thằng Thủy em con sắm được
chiếc xe Dream đời mới. Chị Ba bây giờ trông có da có thịt khác
hẳn với những ngày trước kia.
Phong khiêm nhường:
- Tiền con gởi về chẳng là bao nhưng nhờ em Thủy có kế hoạch làm ăn nên mới mau khấm khá như thế.
- Thằng Thủy làm ăn gì? Bà mợ xen vào:
- Em nó hùn vốn trong công ty sản xuất bia mợ à. Phong phấn chấn trả lời.
Bà mợ trố mắt nhìn Phong, lắc đầu:
- Công ty Bia ôm thì có!
Phong không hiểu ý của bà mợ, nhưng cách trả lời của mợ có vẻ xẵng
giọng và ánh mắt ái ngại của cậu liếc nhìn Phong khiến chàng cảm
thấy nỗi nghi ngại bắt đầu nhen nhúm trong lòng.
- Thế, thế... Phong định hỏi, thế có nghĩa là thế nào hở mợ, nhưng
cổ họng chàng nghẹn lại. Rồi chàng tự nhủ: “ Không thể nào, không
thể nào”.
Phong đứng lên, lấy ra 100 Mỹ kim đặt lên bàn:
- Thưa cậu mợ, đây là chút quà mọn con kính biếu cậu mợ để bồi
dưỡng, giờ con xin được kiếu từ. Phong chạy ra đường lộ gọi xe
thồ cấp tốc về nhà mẹ.
Căn
nhà cũ khá sáng sủa, trông lạ hẳn. Chàng đẩy cửa bước vào. Trên chiếc
chiếu hoa trải giữa sàn xi-măng, mẹ chàng cùng ba người đàn bà ngồi
quanh một cái đĩa đựng những con bài tứ sắc. Mẹ chàng trực nhìn
lên thấy con trai, kêu lên:
- Phong, con về hồi nào, sao không tin cho mẹ biết trước.
Miệng nói nhưng mắt mẹ vẫn nhìn đăm đăm vào những con bài cầm trên tay, bà tiếp:
- Bà Tám có không, tôi có đôi đấy - Con vào thay đồ tắm rửa, mẹ đánh xong ván bài nầy rồi tính.
-
Vào căn phòng của Thủy, Phong ngồi thừ người chán nản. Chẳng lẽ mẹ mê
những con bài tứ sắc hơn con mình từ xa về sao? Khi ngồi trên máy
bay, Phong tưởng tượng mẹ chàng sẽ để rơi những giọt nước mắt vui
mừng khi thấy con trai từ Mỹ về thăm sau bao năm trời xa cách.
Chàng thay bộ áo quần sạch, nhét bộ đồ bẩn vào chiếc xách rồi vội
vàng đi ra. Mẹ chàng hỏi:
- Con đi đâu đó Phong, áo quần dơ để mẹ đem ra tiệm giặt ủi, nhớ
về ăn cơm nghe con. Mẹ chàng vừa dặn dò Phong vừa xoa đống bài
trên chiếu.
Phong cúi đầu chào mẹ và mọi người rồi gọi xe ôm chở chàng đến nhà
của Hanh ở xóm trên. Hắn là bạn thân của Thủy, người đã rủ em
chàng góp vốn đầu tư vào công ty sản xuất bia. Căn nhà gạch ngày
xưa nay không có gì thay đổi. Cha mẹ của Hanh trước 1975 thuộc
hạng giàu có nhất nhì thị trấn. Ông có đại bài gạo và tiệm buôn xe
gắn máy. Khi chính quyền “cách mạng” mở chiến dịch đánh tư sản
mại bản, tài sản của ông hoàn toàn mất sạch. Mấy năm sau, ông bà
buồn khổ lần lượt từ bỏ cõi trần.
Hanh đón tiếp khá vui vẻ. Phong nóng lòng hỏi ngay:
- Hanh à, cái công ty sản xuất bia của em đến nay như thế nào rồi?
- Bia bọt gì đâu anh, làm sao cạnh tranh nổi với người ngoại quốc
đến đây đầu tư. Em có bao giờ dám nghĩ đến cái chuyện phiêu lưu
đó đâu. Mình không có thế thần lại chẳng tài cán. Thôi thì sống an
phận, nhận mấy trăm thước vuông ruộng, ôm cái vườn nhà làm thêm
chút rau quả, trước cho cả nhà ăn, dư đem ra chợ bán kiếm tiền mua
mắm. Thằng Thủy em anh có phước có phần, được Việt kiều ở Mỹ chu
cấp tiền đô đều đều, sáng cà phê, chiều bia rượu.
- Nghe Hanh nói đến đây, Phong rùng mình hiểu hết ngọn ngành. Chàng lấy tiền cho đứa con Hanh rồi cáo từ.
Trời
nhá nhem tối, cảnh vật quanh chàng nhập nhòe dưới ánh mắt không còn
thần lực. Phong bước đi lảo đảo như người mắc bịnh quáng gà. Tâm
trạng hụt hẫng cùng nỗi uất ức tràn ngập trong lòng, bất giác
Phong vẫy chiếc xe ôm bảo chở chàng đến quán bia ôm.
Anh xe ôm liến thoắng:
- Ở cái thị trấn nầy có nhiều quán cà-phê ôm, bia ôm lắm. Anh muốn
đến quán Trăng Vàng nổi tiếng có nhiều em thơm mà chiều khách
không chê vào đâu được. Hay đến quán Mộng Huyền có mấy em chân
dài từ Hà Nội vào đây phục vụ?
Phong bực mình trước cái lối quảng cáo lố lăng của anh xe ôm, chàng xẵng giọng:
- Muốn chở đi đâu tùy anh.
Anh xe ôm chạy quanh co trên con đường đất rộng nhưng cũng khá
nhiều ổ gà. Quán nằm trên địa điểm thơ mộng thuộc vùng vườn cây ăn
trái. Nơi đây, ngày còn chiến tranh, du kích về [.. ] thường đêm.
Phong kéo chiếc mũ lưỡi trai hơi sụp xuống che một phần khuôn mặt. Chàng vào quán tìm chiếc bàn ở một góc tối mà có thể quan sát hầu khắp. Chàng kêu một chai bia 33. Các cô gái xăng xái đến ngồi chung bàn phục vụ nhưng chàng xin lỗi từ chối. Một khắc sau, một tốp thanh niên bốn tên ồn ào vào quán. Phong nhận ra ngay thằng Thủy em mình dẫn đầu đám ăn theo. Người tiếp viên đẹp nhất ở đây vồn vã ôm Thủy hôn rất sống sượng rồi dìu hắn ngồi vào chiếc ghế xa-lông. Có lẽ đây là vị thế tốt nhất của hắn đã chọn từ trước.
- Uống gì đây, thưa quý vị? bà chủ quán hỏi.
- Xin mời thủ trưởng lên tiếng, một đàn em nhìn Thủy chờ đợi.
- Cho tụi bay kêu tự do, Thủy vung tay.
- Thủ trưởng có tiền đô từ Mỹ chi viện đều đều lại vừa trúng cá độ trận banh quốc tế đấy.
Cô tiếp viên, phần trên mặc chiếc yếm để hở tấm lưng trần, phần
dưới là cái váy cũn cỡn, khoe cặp đùi và đôi chân nõn nà. Cô bưng
một khay bia ngoại nhập hiệu Heineken đặt trên bàn Thủy ngồi. Ả
khui bia rót vào ly rồi nâng lên kề sát miệng khách như “ái phi”
phục vụ “quân vương”. Hắn uống một hơi hết nửa ly, phần còn lại cô
tiếp viên uống sạch và lau miệng hắn bằng chính môi nàng. Để khen
thưởng cái cử chỉ đẹp đó, Thủy cầm tờ bạc 50 chục ngàn nhét vào
váy của cô bé. Sẵn đà, hắn thọc tay sâu vào bên dưới. Cô gái trân
mình gục đầu vào vai hắn...
Phong vô cùng đau khổ. Chàng không ngờ em trai của mình lại lâm vào cảnh hư đốn đến như thế. Muốn đứng lên giáng vào mặt Thủy mấy bạt tai cảnh cáo, nhưng chàng cố trấn tĩnh, lặïng lẽ đến quầy trả tiền rồi lên xe thồ chạy thẳng ra thị xã.
Buổi sáng, khi trời còn mờ sương, trên con đường hẹp, Phong lội bộ
băng qua cánh đồng hướng về khu đồi nghĩa địa. Chàng đến trước mộ
cha, đặt một bình hoa và đốt nắm hương cắm vào chân bia. Nhìn
ngôi mộ xây đã trải qua hai mươi lăm năm mưa nắng xói mòn, lòng
Phong quặn thắt. Hình ảnh người cha kính yêu hiện về mờ nhạt trong
trí nhớ của chàng thuở vừa lên năm. Nước mắt Phong tuôn tràn,
nước mắt của khổ đau và thất vọng. Chàng khấn giữa thinh không, dù
rất nhỏ nhưng tiếng vọng vang xa, lung linh cả núi đồi:
“Xin
Ba tha thứ cho con. Trước hoàn cảnh này con hoàn toàn bất lực. Một xã
hội mà con người có thể nhẫn tâm lừa lọc đến cả người thân yêu của
mình, có thể vui hưởng trên cả mồ hôi, máu và nước mắt của ruột
thịt mình. Con xin từ biệt Ba, ngày mai này con lên đường trở lại
Hoa Kỳ, một đất nước xa lạ nhưng đã cho con nhiều cơ hội thành một
con người lương thiện./
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
|
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Philippo, ông hàng xóm
|
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23694 |
![]() ![]() ![]() |
Chuyện Ngày Chúa Nhựt
Sau một ngày quần quật chăm sóc sửa sang lại vườn tược, nhổ cỏ dại,
quét lá khô, dời mấy chậu bông tàn úa quá mùa vô một góc "dưỡng quân", cắt tỉa cây này, bón phân
cây nọ và thay nước mới cho hồ nhân tạo; chiều tối cơm nước tắm rửa xong xuôi, ngồi đưa cái lưng như
tấm thớt nhựa hình chữ nhựt ra cho bà xã cạo gió, ông Nam thỏa thê hỏi vợ :
-
Em biết bữa nay chuyện gì làm cho anh hài lòng nhứt không?
Cô Ngân đang mở nắp lọ dầu gió con
cọp, vừa thoa lên lưng ông chồng vừa ơ hờ đáp lấy lệ:
-
Thì mua được mấy chậu lan ưng ý, mấy chậu lan mà hổm rày anh ngắm nghía tròm
trèm (chưa quyết định) và thòm thèm đó, còn nếu không phải thì là chuyện anh leo thang, trèo lên cây mulberry
của hàng xóm sau nhà tỉa sạch mấy cái nhánh de qua nhà mình chớ gì. Cưa gần
trọc cây của người ta rồi mà vẫn chưa vừa ý. Nói anh hòai hà, hơn bảy chục tuổi
rồi mà cứ leo cây gần tới trên ngọn, bà hàng xóm kế bên thấy còn giựt mình la
lên “ Oh my God! be careful Peter, too dangerous, get down please” mà anh còn
cười cười đứng trên đó nói huyên thiên, ai cũng sợ anh té hết. Làm như mình là thanh
niên trai tráng còn gân lắm vậy. Gãy xương lọi cổ có ngày đó.
Ông Nam không để ý giọng mát mẻ của vợ
lắc đầu nói:
-
Không phải, chuyện mua lan thì có tiền là mua được chớ gì. Còn cưa cây thì thỉnh
thỏang anh cũng cưa hòai, cũng thường thôi.
Cô Ngân bắt đầu thấy bực ông chồng
bướng bỉnh, mạnh tay cạo vào lưng làm
ông Nam
nhảy nhổm kêu lên:
-
Nhẹ tay một chút, làm gì như khảo tù vậy.
-
Ai biểu nói hòai mà không nghe, gìa rồi, nhiều người đi dưới đất còn không
vững, còn ông dám xách cưa trèo lên cao chót vót cưa cắt ở trển, nhìn lên thấy
muốn đứng tim. Lúc trước tui còn đứng ở dưới theo ông, chờ lôi mấy cái nhánh
ông cưa rớt xuống đem cắt ngắn bỏ vào
thùng phụ ông, mỗi lần như vậy tui cứ phải hồi hộp phập phồng cầm canh, năn nỉ
ông xuống thì ông nói cưa lần này nữa rồi thôi nhưng mà ông vẫn bổn cũ sọan lại
hòai. Bây giờ tui không thèm nói và dòm chừng ông nữa, kệ ông, hễ ông leo
lên cây là tui đi vô nhà, chờ khi nào
nghe rớt cái bịch thì tui kêu ambulance thôi. Khỏi mắc công bị heart attack oan mạng. Người nào mà nghe tui
nói vậy chắc nghĩ tui là ác phụ chớ họ đâu có biết ông stubborn tới cở nào. Cuộc
đời của tui tòan là bị ông hại không hà. Hồi xưa ông làm tui đau tim vì yêu
ông, bây giờ ông làm tui tức chết vì cái tánh ngoan cố khó ưa của ông.
Nghe bà xã bắt đầu bỏ giọng “ông
ông, tui tui”, ông Nam
vả lả:
-
Anh biết liệu sức mình mà chớ đâu dám ẩu. Không mé nhánh thì tới mùa thu lá
chết rụng đầy sân nhà mình, quét hòai mệt quá đi.
Cô Ngân có lẽ “ứa gan” vụ cưa cây
của ông xã trong bụng đâu từ hồi đời nào rồi nên sẵn dịp xả luôn một tràng dài :
-
Ông không có tâm hồn thi sĩ chút nào hết. Lá rơi mới là nên thơ, quét hết ba
cái lá còn đâu là ý thơ “mùa thu lá rụng
bay vào sân em” như trong bài “Trúc đào”. Ủa mà trúc đào quanh năm suốt tháng
có bao giờ thay lá đâu, lại là lọai cây có chất độc số một nữa chớ, ông nào làm
bài thơ này không biết có biết cây trúc đào ra sao không nữa. Nghĩ lại nhà thơ
xạo thiệt. Còn ông thì thực tế quá. Có cái tàng cây hàng xóm cho mình bóng mát
mùa hè, cho thơ mộng lá rơi mùa thu, cho
khắc khỏai mùa đông trơ cành để xuân về lại xanh thắm lá non. Tất cả bốn mùa là
ở đó, cứ nhìn cây là biết sắp tới mùa nào. Vậy mà cứ vài tháng thấy nó vừa lú ngọn
là ông lại leo lên cưa cụt đầu nó, nhìn cái cây nham nhở thấy mà tôi nghiệp!
Tức gì đâu ! Ông nói ông biết liệu sức mình mà bây giờ biểu người ta cạo gió như
vầy hay sao? Trời thì lạnh, gió thổi ào ào mà đứng trên cây cả tiếng đồng hồ. Tới
chừng tuột xuống rồi thì lại te te chạy qua nhà hàng xóm hái cả trăm trái cam đứng
hứng gió nữa chớ, không bệnh cũng uổng.
Ông Nam chận lời bà vợ :
-
Không uổng chút nào, chuyện mà anh khóai nhứt hôm nay là chuyện hái cam bên nhà
ông Jeff đó đa. Từ hồi dọn về đây tới bây giờ, mình ở kế bên nhà ổng mà đâu có
biết gia cảnh ổng như thế nào, nhà to đất rộng mà thấy ổng ở có một mình với
mấy cây cam. Mấy cây cam của ổng mùa hè thì trổ bông trắng xóa thơm lừng cả
xóm, mùa đông thì ra trái vàng hực sum suê đầy cành. Có mấy nhánh de qua nhà
mình, đếm ra cũng đến mấy chục trái thấy mà ham. Hai bữa rày anh qua kiếm ổng mấy
lần mà không gặp ổng ở nhà, anh định hỏi mua cam của ổng mặc dầu hôm trước ổng có nói nhánh nào thòng qua nhà
mình thì cứ hai ăn tự nhiên. Cam của ổng là
organic không có xịt thuốc hay phân hóa học như cam bán ngòai chợ, vắt nước cho
mấy thằng cháu uống tốt hơn cam chợ nên anh muốn mua một mớ. Vậy mà tới bữa nay
mới gặp được ổng.
Duỗi duỗi tay cho đỡ mỏi, cô Ngân lại
tiếp tục “thuyết pháp” :
-
Thì cũng chỉ được một hai tuần thôi, mình vẫn phải mua ngòai chợ chớ cam của
ổng đâu có trái quanh năm cho mình. Rồi ổng nói sao mà anh rinh về bốn giỏ cam
đầy nhóc vậy. Cái tật anh sao hay chứa cho nhiều, Em nói hòai cái gì cũng vậy ,
ăn tới đâu thì mua tới đó, nhiều quá phải kiếm chỗ cất rồi ăn không kịp nó hư
lại phải sọan bỏ. Làm chi cho phiền phức thêm công chuyện. Mà tòan là em “lãnh
đủ” không hà, anh mua cho thỏa chí rồi bắt em dẹp. Bỏ nhiều hơn ăn. Anh nghĩ
lại coi có phải vậy không?
Ông Nam xuôi xị nói:
-
Ờ thì cũng phải, nhưng mà em nghĩ coi, thấy ham quá mà, hái không muốn ngừng
tay, lại nữa vừa hái vừa trò chuyện với ổng nên không để ý là được bao nhiêu
rồi, tới một hồi nhớ sực lại đem về không biết để đâu thế nào cũng bị em la mới
thôi đó chớ. Anh trả hai chục đồng cho ổng thấy vui, thấy hãnh diện vì cây nhà
lá vườn của ổng có người chiếu cố hỏi
mua. Hái cả mấy giỏ mà nhìn lại cây vẫn còn y nguyên không vơi trái nào. Bữa
nay mới thấy ổng cười, ổng nói chuyện nhiều lắm. Em biết ổng bao nhiêu tuổi
không?
Cô Ngân vẫn đều tay cạo gió đáp bừa:
-
Chắc phải hơn bảy mươi. Thấy ổng già hơn anh, tướng đi lụm cụm quá.
Ông Nam cười:
-
Sai bét, ổng nhỏ hơn anh mười tuổi lận, mới có 63 thôi. Hồi đó tới giờ cứ tưởng
ổng gìa lắm chớ, ai dè hồi anh học lớp nhì ở Việt Nam thì bên Úc ổng còn chưa…mặc quần nữa, nói rõ hơn là ổng còn bận tả. Ổng ở
căn nhà này với ba má ổng từ lúc mới sanh cho tới bây giờ đó. Cái trường tiểu
học ở đầu đường nhà mình là ngôi trường đầu tiên ổng đi học lúc lên năm tuổi.
Cả đời không từng có vợ. Hỏi ổng sao vậy, ổng nói “to much trouble”. Hỏi ổng có bạn gái không. Ổng cười nói “ hồi
7 tuổi tôi có để ý nhỏ bạn học chung lớp, tôi hỏi cô bé chịu lấy tôi không, cô
bé chỉ cười cười e thẹn, hồi đó còn con nít mà biết cái gì”. Anh hỏi ở một
mình vậy ông có thấy buồn tẻ cô đơn không? Ổng nói “tôi quen rồi, trời sinh tôi ra với phần số như vậy mà. Tôi không thấy
cô đơn chút nào cả. Tối nào tôi cũng nói chuyện với má tôi, má tôi thương tôi
lắm và tôi cũng rất thương bà”.
Cô Ngân tò mò:
-
Vậy má ổng ở đâu, sao mình chưa hề thấy bà nào trong căn nhà đó hết?
-
Ổng nói má ổng chết lúc ổng mười chín tuổi. Còn ba ổng thì mới qua đời cách đây
năm năm. Bây giờ chỉ còn mình ổng. Anh mới hỏi vậy má ông có trả lời ông không?
Ổng nói “có chớ, đêm nào tôi cũng nói cả tiếng đồng hồ với má tôi bằng tâm linh
và tôi nghe bà trả lời. Gặp chuyện gì khó khăn tôi cũng hỏi ý bà và bà hướng
dẫn cho tôi biết phải làm sao”.
Ông Nam kể tiếp với vợ:
-
Hèn chi mà đêm nào anh đi tản bộ ngòai sau vườn cũng nghe ổng trò chuyện với ai
đó, mà nói lớn lắm, anh cứ tưởng ổng có khách dẫn ra sau vườn chơi. Ai dè…
Cô Ngân rùng mình:
-
Thiệt không đó? Nghe phát ớn lạnh nổi da gà. Chắc ổng tưởng tượng vậy cho đỡ cô
độc, thấy như má ổng vẫn ở bên cạnh ổng. Em có cảm tưởng ông này giống như anh
chàng khù khờ Forrest Gump trong phim Forrest Gump mà mình đã coi hồi năm nào
đó. Chỉ nhớ mang máng là chuyện một người đàn ông từ nhỏ đã không có cha, sống
với bà mẹ trong một trang trại ở một làng quê hẻo lánh. Ở đó anh ta có rất
nhiều kỷ niệm thời niên thiếu với mẹ, với cô bạn gái nhỏ đáng thương sớm mồ côi
mẹ, sống với người cha vô trách nhiệm suốt ngày say xỉn. Vì anh ta bị tật bẩm
sinh, đi đứng không giống ai nên thường bị chúng bạn chế diễu ngạo cười. Chỉ có
cô bạn nhỏ mới chịu chơi chung với anh ta và bênh vực anh ta thành ra hai đứa
trở thành mục tiêu cho lũ bạn chọc ghẹo
hiếp đáp. Lớn lên, anh ta nhập ngủ rồi đi đánh trận ở Việt Nam. Nhờ khù khờ, điếc không sợ
súng nên ngẫu nhiên anh ta lập được chiến công, cứu ông sĩ quan cấp chỉ huy của
mình thóat chết trong đường tơ kẻ tóc. Sau khi giải ngủ, anh ta về lại quê xưa,
gặp lại cô bạn cũ và có một đứa con với cô ta mà không hề hay biết. Mãi đến khi
cô bạn gái ấy biết mình sắp chết vì căn bệnh nan y, cô ta mới tìm đến anh chàng
này để giao lại đứa con. Anh ta làm đám
cưới với cô ấy nhưng không được bao lâu thì vợ anh ta chết.
Chuyện thật cảm động, thật buồn. Từ
đầu cho tới cuối phim, anh ta là người kể chuyện, ngồi trên chiếc băng ghế ở
trạm xe bus bên đường cầm hộp chocolate,
gặp ai cũng mời ăn. Người đi kẻ đến, mỗi người nghe một đọan, có người chăm chú
lắng nghe, có người thờ ơ không hứng thú nhưng anh ta vẫn cứ kể, cuối cùng ráp
nối lại thành chuyện đời anh ta, một cuộc
đời lẻ loi cô độc, bất hạnh từ nhỏ cho tới lớn. Nhưng kết cuộc anh ta cũng được
an ủi bù đắp bởi còn được mụn con bên mình, món quà vô giá của thượng đế thương
tặng. Thấy thương nhứt là anh ta cứ lập đi
lập lại mấy câu nói của bà mẹ khi còn sống “My
Mommy always said, life was like a box
of chocolates. You never know what you’re gonna get” (má tôi thường nói cuộc
đời giống như một hộp chocolate đủ loại mà mình không hề biết lọai nào ra sao
cho tới khi mở ra ăn thử) và một câu khác nữa là “You have to do the best with
what God gave to you”(con hãy cố gắng làm tốt nhứt những gì trời đã cho con).
Hôm nay nghe chuyện ông Jeff hàng
xóm mình, em nghĩ ông này chắc cũng cần người tâm sự như Forrest Gump ngồi kể
chuyện bất cần ai nghe ai hiểu, cứ nói, cứ bộc bạch ra cho nhẹ cỏi lòng, cho
thỏai mái tâm tư như là có người chia sẻ. Người câm còn muốn nói, không nói được
thì diễn tả bằng thủ ngữ huống chi người không câm. Mình nói cứ nói, ai nghe không
nghe thì thôi bởi vì “nói” cũng là một nhu cầu như nhu cầu ăn uống, thở họăc ngủ
vậy. À, rồi sao anh chạy về kêu em đưa
máy chụp hình cho anh làm chi vậy?
-
Anh nghĩ chắc ổng không có dịp và cũng chưa từng được ai chụp hình cho hết nên
đề nghị chụp cho ổng vài pose hình đứng giữa vườn cam. Ổng mừng lắm chịu liền.
Ổng lại nói thêm về má ổng, nói bảy cây
cam này là do má ổng mua về trồng lúc ổng lên mười tuổi. Mỗi năm tới mùa cam
chín rộ, má ổng hái xuống làm mứt vô keo cất trong tủ lạnh cho gia đình dùng quanh
năm sau khi đã chứa tối đa trong freezer
một số trái để ăn dần dần. Năm nào bà cũng mua cả chục bao cow manure về bón
cho tốt cây sai trái. Từ khi má ổng qua đời, ổng rất thương quý mấy cây cam, chăm
sóc chúng như phụng dưỡng má ổng vậy. Ổng không biết làm mứt, chỉ chứa trong
freezer ăn cho tới mùa cam năm sau. Mỗi chiều ổng ra gốc cam nói chuyện với má
ổng tưởng như bà còn sống, lẩn quẩn quanh đây. Nghe thật cảm
động. Anh nói với ổng vậy tối nay ông hãy nói
với má ông là tôi rất thích cam của bà và đã hỏi mua, nói cám ơn bà đã
trồng những cây cam này để giờ đây tôi cũng được hưởng phần nào. Ổng nghe vậy
vui lắm nói “I vill, she must be very
happy to hear that” (Tôi sẽ nói lại, chắc bà sẽ vui lắm).
Vừa lúc cạo gió xong, cô Ngân kéo áo
ông chồng xuống vừa thở dài nói:
-
Tội nghiệp ông này quá hả, cả cuộc đời hẩm hiu quạnh quẽ một mình. Rồi đây càng
ngày càng già nua bệnh họan, một mai có chết trong nhà cả tuần chắc cũng không
ai hay. Nhà ổng quanh năm suốt tháng cứ đóng cửa im lìm, không hề có ai thăm
viếng, cũng không bao giờ nghe nhạc nhiếc party gì hết. Chừng nào anh rửa hình
xong, em sẽ mua cái khung để hình ổng vô, đem qua tặng ổng cho ổng thấy ấm lòng. Như vây thì bữa
nay anh đứng ngòai trời bị cảm lạnh cũng đáng và em cạo gió cho anh cũng không
uổng. Đổi lại mình có thể chia sẻ với
người ta được chút niềm vui. Chắc từ nay anh nên qua thăm chừng dòm ngó ổng
thường xuyên hơn mới được.
Ông Nam nheo mắt cười trêu vợ:
-
Chà, chạm tới con tim bà xã tui rồi hả? Sao không la nữa đi? Anh làm bao nhiêu
chuyện mà không bao giờ thấy em appreciate hết, còn nghe tới chuyện người ngòai
thì sốt sắng quan tâm. Bụt nhà không linh chớ gì?
Cô Ngân chống chế phân bua:
-
Không hẳn vậy, nếu anh làm chuyện gì hợp ý em thì em cám ơn anh lắm chớ nhưng đàng
này anh chơi khôn, tòan làm theo ý anh không hà, chẳng hạn như anh nói anh
trồng hoa làm vườn cho em hưởng em ngắm nhưng anh chỉ trồng những lọai anh
thích, còn lọai nào em thích thì anh chê anh ghét không thèm tưới để cho nó
chết khô hoặc dời nó vô trong hốc trong
kẹt. Mỗi lần đi mua bông, hễ em
nói thích màu này thì anh nói anh thích màu kia, rốt cuộc chỉ mua những màu anh
chọn. Bất mãn thì có chớ appreciate cái nổi gì. Đó chỉ mới là chuyện bông hoa
thôi đó, còn biết bao nhiêu chuyện khác trong cuộc sống vợ chồng hằng ngày mà
lúc nào mình cũng bất đồng ý kiến, thử hỏi làm sao mà hạnh phúc cho được. Đành
rằng vợ chồng nào cũng có những lúc tranh cãi, nhưng nếu suốt cả cuộc đời là cả
một cuộc tranh cãi trường kỳ thì chán nãn mệt mỏi quá đi. Tốt hơn là im lặng, xuồng
ai nấy chèo, hồn ai nấy giữ cho xong, cho qua kiếp này.
Nhìn
vào tình cảnh ông Jeff, người
ngoài như mình thấy ái ngại cho ổng nhưng biết đâu ổng là người hạnh
phúc, không ai làm phiền ổng mà ổng cũng không làm phiền ai, cứ thỏai
mái rong
chơi một kiếp rồi ung dung ra về, không bận bịu nắm níu chi chi. Lý giải
theo thuyết
nhà Phật thì có lẽ kiếp trước ổng không mắc nợ ai cả cho nên kiếp này
ổng thóat
khỏi cái vòng hệ lụy lẩn quẩn lấy vợ gả chồng sinh con đẻ cháu, một mối
quan hệ
ràng buộc gia đình thật ấm áp thiết thực mà ai cũng phải có nhưng suy
cho đúng ra có lẽ là do nợ nần oan
gia từ tiền kiếp, “to much trouble” như
ông Jeff đã nói. Như tụi mình đây chắc chắn là có nợ nhau cho nên dù
xung khắc vẫn phải chung sống bên nhau tới bây giờ. Anh
thấy phải không?
Ông Nam gật gù nói lấy lòng vợ :
-
Thì vậy, nhưng dẫu sao anh thấy sống độc thân là không hợp lẽ trời. Vạn vật
trong trời đất cái gì cũng có âm có
dương, có đôi có cặp. Nếu mình đi ngược lại luật thiên nhiên là sai nguyên lý, phản
tự nhiên, bất bình thường. Cho dù vợ chồng con cái có là nợ nần hay là oan gia nghiệp
báo gì đi nữa thì anh cũng xin nhận lãnh cái nợ đó và ước ao đuợc chung sống
mãi với những oan gia nghiệp báo của mình đến ngày cuối của cuộc đời.…
![]() |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Ba Tôi Đi Bệnh ViệnMột con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ, một người đi mổ cả họ bệnh lây là hòan cảnh chung của những ai có thân nhân phải nằm bệnh viện, nhứt là người bệnh đó đã ở vào tuổi bát tuần, lại bị trở ngại về ngôn ngữ mặc dù phương tiện và dịch vụ y tế ở những xứ biết quý trọng sinh mạng con người như xứ Úc này rất là chu đáo chặt chẽ và tận tâm.
Bước vào thang máy để lên lầu hai thăm người
cha đamg nằm bệnh viện, chị em tôi đã thấy có năm bảy người đứng sẵn trước mình,
người nào người nấy đều có vẻ mặt bơ phờ mệt mỏi lo âu không khác chi mình. Ba
tôi vào nhà thương mấy ngày trước và sáng hôm kia đã được giải phẩu về bệnh sưng
tuyến tiền liệt. Năm nay ông đã 85 tuổi, lứa tuổi tuy đã “hết xài” đối với xã
hội nhưng đối với gia đình, ông là người cha, là ông ngọai, ông cố vô vàn kính
yêu, hiền lành như bụt, suốt một đời chỉ biết căm cụi chăm chút lo gia đình,
thương yêu con cháu, một thâm tình cốt nhục bao la như trời biển mà chúng tôi
có bổn phận phải phụng dưỡng báo hiếu cho
đến ngày ông mãn kiếp lìa đời.
Từ khi qua Úc đòan tụ gia đình cho tới nay đã
mười chín năm, một thời gian quá dài đủ cho một thế hệ trưởng thành, quá lâu để
ông có thể thông thạo, hội nhập với xã
hội và đời sống ở đây, một xứ sở xa lạ không phải là quê hương nói tiếng mẹ đẻ của
mình. Nhưng vì lúc ban đầu ông không chịu học tiếng Anh, cũng không thích tham
gia những sinh họat chung trong hội người gìa dù rằng ông là hội viên, lại cũng
không có dịp gặp gỡ bạn bè đồng hương cũ. Ai đến thăm ông thì thăm còn không
thì nhà ai nấy ở, hồn ai nấy liệu. Ngày ngày ông chỉ quanh quẩn trong nhà với
má tôi, lúc còn khỏe thì đưa rước cháu đi học, thỉnh thỏang ra shop hớt tóc và mua
chút nhu yếu phẩm gì đó, hoặc đi tản bộ lòng vòng quanh xóm cho có “exercise” rồi
thôi. Những gì ông biết được về xã hội bên ngòai chỉ là qua chương trình phát
thanh Việt ngữ đài SBS với những tin tức cập nhựt hằng ngày. Vì cách sống cô
lập chẳng bao giờ tiếp xúc với ai mà ông mất hẳn niềm tin tự bảo vệ, ông cảm
thấy rất hoang mang sợ hãi mỗi khi gặp
phải chuyện gì xảy đến cho bản thân ông.
Cả tuần trước ngày mổ, chị em chúng tôi ba đứa
phải cổ động tinh thần, trấn an ông hết lời, nói rằng nhà thương ở đây người ta
làm việc rất cẩn thận đàng hòang chớ không phải như nhà thương ở Việt Nam
bất kể mạng người, chết ai nấy chịu. Không
cần mình yêu cầu, đòi hỏi hay dặn dò, người ta cũng chữa trị tận tình cho bệnh
nhân theo đúng nguyên tắc và phương pháp của mỗi bệnh trạng. Tôi đem mớ kinh
nghiệm những lần đi mổ nằm nhà thương nói lại cặn kẻ cho ông nghe chẳng hạn như
trước khi vào phòng mổ, người ta sẽ kiểm tra lại tên tuổi, ngày sinh và bệnh
trạng của mình. Sau đó bác sĩ sẽ gây mê bằng cách tiêm một mũi thuốc vào mạch
máu hoặc chụp thuốc mê lên mũi. Lập tức
mình sẽ ngủ mê ngay và khi tỉnh lại thì bệnh của mình đã được giải quyết xong
hòan tòan. Có thể mình sẽ bị nôn mữa vài lần do ảnh hưởng của thuốc mê. Sau đó,
nếu không có biến chứng gì, mình sẽ được đưa về
phòng nằm tịnh dưỡng. Tối đến, nhân viên y tá sẽ thay phiên thăm chừng,
đến đo nhiệt độ và huyết áp mỗi hai tiếng đồng hồ họăc cho mình uống thuốc nếu
cần.
Nhưng ông vẫn cứ nơm nớp lo sợ, tinh thần ông
suy nhược trầm trọng. Ông lo lắng đủ
điều, sợ đau không biết làm sao nói, sợ xảy ra chuyện gì hay cần gì không biết
làm sao diễn tả với nhân viên bệnh viện v v... Biết vậy cho nên trước khi ông nhập
viện, cậu em tôi đã viết sẵn vào
một tập giấy bằng song ngữ Việt và Anh những
điều cần thiết mà có thể ông cần y tá giúp đỡ nửa đêm nửa hôm hoặc những lúc
con cháu chưa kịp vào với ông.
Nhưng khổ nổi, tối hôm qua không biết ông lẩn thẩn thế nào, quên là mình mới mổ ngày hôm trước và còn đang nằm nhà thương, ông quờ quạng ngồi dậy định xuống giường. Nhưng vì ba cái dây nhợ chuyền nước biển và bọc chứa nước tiểu vướng vít chằng chịt làm ông lúng ta lúng túng vấp ngã, chừng đứng lên được thì cây kim ghim vào mạch máu chuyền nước biển bật sút ra làm máu me tuôn lai láng. Ông khụyu xuống sàn nhà bò lê bò lết quơ được cái khăn tắm quấn tạm lại cánh tay . Vừa lúc ấy may sao tới giờ y tá trực đến thăm bệnh thấy vậy vội vã đỡ ông lên rồi kêu người tới phụ băng bó. Từ đó ông không ngủ lại được, nằm trằn trọc cho tới sáng. Vừa hừng sáng ông đã gọi phone về nhà cho hay tự sự làm ba chị em tôi sốt vó cuống cuồng lên.
Đây đâu phải là lần đầu tiên ba tôi gọi về làm chúng
tôi hết hồn như vậy. Trong đêm trước ngày mổ, vì quá lo sợ, ông bị khủng hỏang
tinh thần gần như lảng trí. Ông không ngủ được mặc dù đã được uống thuốc ngủ
lúc đầu hôm. Ông cứ tưởng mình đang ở nhà, ngồi dậy đi tới đi lui rồi ra thẳng
cửa phòng lần dò định đi xuống cầu thang. Các y tá thấy vậy sợ ông đi lạc mới
dẫn ông trở vào phòng bắt ông lên giường nằm và kéo hai song giường lên chận
giữ ông lại. Ông vùng vẫy kêu la khiến y tá không biết ông muốn gì phải gọi
phone về cho cậu em tôi. Lúc đó là đã gần 12 giờ khuya. Cậu em sắp sửa đi ngủ
thì nghe điện thọai reo vang. Bên kia đầu giây ông khóc ròng nói không biết là họ muốn làm gì mà
quấn ông chặt cứng và nhốt lại trong
giường không nhúc nhích cục cựa gì được hết. Ông nói ông thấy lạnh quá và muốn
đi xả bọc nước tiểu mà người ta không cho đi. Cậu em phải giải thích với y tá
rồi nói chuyện lại với ông già, nói ông hãy
bình tỉnh, đừng lo sợ gì hết. Cứ kể như mình bị điếc. Mà điếc thì còn sợ súng
gì nữa. Nếu ngủ không được thì cứ nằm nhắm
mắt dưỡng thần dưỡng sức để ngày mai còn giải phẩu. Sáng mai cậu ta và nhỏ cháu
sẽ vào sớm cho ông yên lòng trước khi vào phòng mổ và hai đứa sẽ ở lại cho tới
khi phẩu thuật hòan tất xong xuôi.
Và lần thứ hai là ngay cái đêm vừa mới mổ xong.
Gần nửa đêm, ông thức giấc vì vết mổ hành đau nhức, ông bấm chuông gọi y tá và lật
sẵn trang giấy có viết câu “Tôi bị đau” rồi nằm chờ nhưng rủi thay cái chốt điện của cái buzzer không
biết lỏng lẻo trục trặc thế nào mà các y tá không nhận được cú gọi nào của ông.
Ông bấm liên tục mấy chục lần nữa vẫn
không có ai tới cho nên ông lại kêu về nhà. Cậu em nghe ông già nói vậy mới nóng
ruột nổi xung thiên gọi cho y tá trưởng hỏi
sao ba tôi bấm chuông mấy chục lần mà
không ai tới coi ông cả. Lúc đó mấy thầy cô y tá mới hớt hãi chạy lại phòng ông
xem xét lại cái buzzer thì mới hay là nó bị lỏng chốt điện. Họ rối rít nói xin
lỗi với cậu em và ông già.
Từ hôm ông nhập viện cho tới hôm nay là đã năm
ngày, ngày nào chị em chúng tôi cũng chia phiên nhau có mặt ở bệnh viện với ông
gần như suốt. Mỗi sáng sau khi đưa hai cháu ngọai đến trường, trên đường đi tới
bệnh viện, vợ chồng chúng tôi ghé lại nhà cô em gái chở cô đi theo để cô ở lại chăm
sóc ông. Ba tôi sống chung nhà với cô em gái cho nên cô rất hiểu rành tánh ý, thói quen của ông, có thể nuôi bệnh ông chu
đáo hợp ý ông hơn là các cô y tá. Ông không ăn được đồ ăn của bệnh viện, nói
chỉ nghe mùi thôi đã thấy muốn nhợn rồi. Vì vậy tôi có bổn phận lo thức ăn cho
ông, ngày nào vào thăm cũng đều mang theo vài món coi ông ăn được món gì thì
ăn. Buổi trưa khỏang gần 12 giờ thì hai vợ chồng chúng tôi đi về vì xế chiều
còn phải rước cháu và lo nấu ăn. Tội nghiệp em gái tôi là cực nhứt, cô phải ở
lại với ông cho tới chiều, cậu em đi làm về ăn cơm xong mới cùng vợ nó vào ở
tới 9 giờ đêm. Công viêc nuôi người bệnh là một công việc cực kỳ nhàm chán uể
ỏai và mất sức không thể tưởng. Nếu không vì muốn chia sẻ, an ủi tinh thần cho người
thân của mình thì chắc không ai có kiên nhẫn chịu đựng ngày này qua ngày nọ trừ
phi đó là nghề nghiệp do mình tự chọn. Người bệnh bất đắc dĩ phải nằm một chỗ
đã đành chớ người không bệnh cứ phải xớ rớ theo
bệnh nhân và lẩn quẩn trong phòng bệnh cả ngày không làm gì được tất
nhiên sẽ cuồng tay cuồng chân, đờ đẩn từ thể xác đến tinh thần phát bệnh luôn.
(Tôi đã có kinh nhgiệm này vài phen với ông xã và ngược lại ông xã cũng đã vất
vả bao lần vì tôi mặc dù tôi nói không cần).
Và hôm nay cũng vậy. Lên đến phòng bệnh, thấy
ba tôi đang ngồi dựa ở chiếc ghế bành, mặt mày nhợt nhạt, mắt lõm sâu thâm
quầng, thần sắc mệt mỏi, tôi chạy lại
bên ông hỏi:
-
Hồi sáng này ba ăn được không? Con có nấu nouille (paste) với soup và cơm trắng
thịt kho tiêu đem lại cho ba ăn nè. Ba muốn ăn liền một chút không, còn ấm ấm
đây.
Lan, cô em tôi chen vào:
-
Nếu không thì để trưa con hâm nóng lại cho ba ăn trưa luôn thể. Hồi tối ba làm
sao mà cây kim văng ra vậy? Rồi chảy máu
nhiều lắm hả ba? Để chút nữa anh Hai lên con nhờ ảnh hỏi bác sĩ trực coi như
vậy thì có cần tiếp máu thêm cho ba không. Nhà thương tư gì mà làm việc bất cẩn
quá. Hồi sáng con Dung (con gái tôi) nó nghe nói lại chuyện tối hôm qua ba liên
lạc với y tá không được và thêm vụ chảy máu hồi khuya này, nó đùng đùng nói sẽ
gọi điện thọai hoặc trực tiếp khiếu nại với ban giám đốc về sự lơ là tắc trách
của nhân viên ở đây cho họ biết.
Ba tôi yếu ớt bảo:
-
Tụi con nói với con Dung làm chi vậy. Con nhỏ đó nó nóng tánh quá đi. Tại mình
xui xẻo chớ cũng không phải tại người ta hết đâu. Chuyện qua rồi thôi. Đừng làm
lớn chuyện, gây xích mích làm gì, mìmh đâu có ở đời nơi này đâu.
Vừa lúc
ấy, ông xã tôi cũng đã lên tới sau khi quần tới quần lui mấy vòng tìm chỗ đậu
xe. Ông xã tôi chào ông già vợ:
-
Chào ba, bữa nay ba thấy đở chút nào chưa? Hồi tối qua ba lại mất ngủ nữa hả?
Ba tôi lắc đầu:
-
Đêm nào cũng xảy ra chuyện làm không ngủ được. Mình không biết tiếng nói của
người ta thiệt khổ quá anh nó ơi. Có
miệng mà cũng như câm, không hỏi không
nói gì được với ai hết. Cứ phải chờ con cái vô. Không biết chừng nào tôi mới
được về nhà nữa đây. Ở trong này một ngày nó lâu như một tháng. Ngồi đi anh nó.
Làm phiền anh phải chở tới chở lui chị em nó mỗi ngày, tôi thấy ngại quá.
Ông xã tôi cười khóat tay :
-
Có gì đâu ba. Chuyện đó là bổn phận của con mà. Ba yên tâm đi. Bệnh này
là bệnh
thông thường ở người lớn tuổi. Bác sĩ nói ca mổ thành công lắm, tối đa
là ở nhà
thương thêm ba bữa nữa để người ta theo dõi coi mình bài tiết nước tiểu
bình thường lại thì sẽ cho
về. Hôm nay là thứ sáu, con nghĩ chắc qua thứ hai tuần sau ba sẽ được
về. Mà muốn vậy thì ba phải rán ăn uống và ngủ nghê nhiều hơn cho mau
lại sức.
Lan như sực nhớ điều gì ái ngại nói:
-
À, mấy bữa nay ba mình có vẻ như lẫn vậy đó anh Hai. Nhà tắm, toilet ở ngay
trong phòng mà mỗi lần muốn đi vệ sinh
là ba cứ đi thẳng ra cửa như đang ở nhà. Còn nữa, y tá căn dặn ba phải uống
nước thật nhiều để thải hết chất độc trong bọng đái ra thì ba nói với Lan, “nếu
vậy ba phải đi nấu nước chứa thêm mới được”. Rồi ba ngồi dậy tính đi nấu nước.
Lan mới nhắc ba là mình đang ở nhà
thương thì lấy cái gì mà nấu. Người ta có sẵn nước lọc cho mình rồi. Chừng đó
ba mới nhớ ra hỏi lại “Vậy hả? ”
Ông già có vẻ bất bình lớn giọng:
-
Ba đâu có lẫn, muốn kêu điện thọai cho ai ba cũng nhớ số bấm liền cái một,
không cần coi sổ gì hết.
Tôi phân giải:
-
Ba nói phải đó. Chắc tại thình lình bị vô nhà thương, ba chưa thích nghi hòan
cảnh nên hơi xà bát lộn xộn đầu óc một
chút vậy mà. Mà cũng không cần quen làm gì. Vài bữa nữa về nhà rồi mọi thứ sẽ
bình thường như cũ thôi. Không có sao đâu.
Ông già gật đầu :
-
Chị Hai con nói phải đó, để ba kể chuyện đời xưa cho tụi con nghe rồi sẽ biết là
ba có lẫn hay không. Mấy đêm nay ngủ không được, nằm một mình trong này, ba ôn
lại cuộc đời của ba từ nhỏ cho tới bây giờ, hết chuyện này tới chuyện nọ, giống
như mình coi phim tập vậy đó. Nhớ hồi ba
còn nhỏ, ông bà nội con rất nghèo, ba có bốn anh em. Bà nội thì ở nhà lo chuyện
nhà và con cái. Ông nội làm “tổng khậu” nấu ăn cho một nhà máy xay lúa rất
nhiều nhân công. Tiền lương ông nội chỉ đủ nuôi ăn cho vợ con, ngòai ra nếu
bệnh họan hay có chuyện gí xảy ra thình lình thì phải đi vay mượn hay tìm cách
nào đó. Tương lai rất bấp bênh. Vì vậy
mỗi ngày đi học về mấy anh em ba phải đi làm mướn linh tinh chẳng hạn như lãnh bột về se bánh
tằm hay tới lò bún phụ người ta chuyện lặt vặt. Chuyện gì vừa sức mình ba đều nhận lãnh thậm
chí mấy thằng bạn con nhà giàu trong lớp mướn ba làm thủ công góp cho thầy, ba
cũng làm luôn để kiếm thêm chút tiền phụ giúp gia đình.
Lớn lên, nhờ biết chữ, ba được giao cho công việc quản lý một nhà máy lúa gạo, hằng ngày chỉ cai quản công nhân, trông coi sổ sách chớ không cần phải lao động chân tay nặng nhọc. Có một lần thấy người ta đánh bạc thắng lớn, ba cũng nóng lòng làm giàu, tưởng dễ ăn, ba đem hết 2000 đồng dành dụm được nướng sạch vô sòng bài. Con biết không, thời đó tiền giấy có in hình bộ lư 100 đồng trị giá lớn lắm, một căn nhà xòang xòang ở được chỉ khỏang năm sáu trăm đồng thôi. Vậy mà ba thua tới hai chục tờ giấy bộ lư. Nghĩ lại thiệt tức mình sao ngu quá. Ba tiếc hùi hụi cả tháng trời mà không dám nói với bà nội con.
Ba tôi ngừng lại nghỉ mệt. Lan bưng ly nước cho
ba uống và nói :
-
Hồi con lớn khôn tới giờ con đâu có thấy ba đánh bài cờ bạc gì đâu. Ba sống
đàng hòang mẫu mực lắm mà. Hàng xóm ai cũng quý mến nể trọng ba, coi ba như thánh sống vậy.
Ba tôi thở ra nói tiếp :
-
Thì sau lần đó ba quyết chí bỏ hẳn. Cờ bạc là bác thằng bần, mà bần cùng thì sẽ
sinh đạo tặc mấy hồi. Cũng may nhờ trời thương cho ba tỉnh táo, biết suy nghĩ thiệt
hơn nên sau đó ba chí thú làm ăn trở lại
và để dành tiền cưới vợ. Lập gia đình rồi thì ba càng có trách nhiệm nên càng
không dám rớ tới con bài vì sợ rủi ro sẽ
làm khổ cả nhà. Chỉ có vào dịp tết mới chơi vui một vài ván với bạn bè mà thôi.
Ba còn nhớ hồi đó ngày hai mươi chín, ba
mươi tết đối với ba nó rất là háo hức vì đó là ngày tính sổ cuối năm. Sau khi kết
tóan sổ sách, biết năm đó công ty lời nhiều thì càng mừng vui hơn vì biết chắc rằng
nhân viên sẽ được thưởng cho nhiều tiền. Thường thì ngày ba mươi tết ba chỉ đi
làm nửa ngày. Làm xong ba vội vã về nhà tắm rửa rồi qua nhà ông chủ ăn bữa tất
niên với gia đình chủ. Sau đó ông chủ duyệt lại sổ sách rồi chia tiền thưởng cho
các nhân viên. Với số tiền hoa hồng đó, mọi người mới xúm nhau gài sòng đánh
vài bàn lấy hên năm mới. Chuyện đó cho tới bây giờ là đã gần bốn mươi năm rồi và mặc dầu đang sống ở xứ Úc
nhưng mỗi lần nghe cái bài hát “Câu chuyện đầu năm” là ba lại thấy nao nao nhớ
tới những cái tết thời vàng son Việt Nam cộng hòa. Kiếp này đâu còn kiếm lại
được.
Ba tôi lại ngừng kể. Ông xã góp ý :
-
Chuyện mấy chục năm mà ba còn nhớ từng chi tiết như vậy thì nói ba lẫn sao được mà lẫn. Vậy ba còn
nhớ chuyện đi đòi nợ không? Hai cha con mình cứ thỉnh thỏang chở nhau đi đòi nợ mà có bao giờ đòi được đồng xu cắc bạc
nào đâu hả ba.
Ba tôi hớp thêm miếng nước rồi gật đầu:
-
Nhớ chớ, làm sao quên được. Vừa thấy mặt mình là họ đã than con đau vợ bệnh
thành ra mình đành ngậm miệng làm thinh. Họ cứ nói thông cảm cho họ, chờ một
hai tháng nữa gặt lúa xong rồi sẽ thanh tóan cả vốn lẫn lời nhưng rốt cuộc thì lời
không có mà vốn cũng mất luôn. Cũng bởi vì tôi xuất thân từ gia đình nghèo khó cho
nên rất thông cảm với hòan cảnh những người thiếu hụt phải đi vay mượn. Tôi
không phải là người chuyên môn cho vay ăn lời cắt họng người ta mà chỉ nghĩ làm
phước. Ai biết trả thì tốt còn giựt luôn thì mình cứ kể như là mình thiếu nợ
người ta kiếp trước, kiếp này người ta lấy lại thôi. Từ nhỏ có lẽ vì là con nhà
nghèo cho nên tôi rất biết thân, lúc nào cũng nhún nhường hạ mình với người
chung quanh, nhún nhường thôi chớ không phải là khiếp nhược. Dù về sau tôi làm ăn
được. có cuộc sống khá giả hơn, tôi vẫn giữ bản tánh nhường nhịn hòa nhã, luôn đem
chữ “nhẫn” và chữ “hòa” ra đối đãi với mọi người. Cái gì bỏ qua được thì nên
bỏ, đừng quá cố chấp. Cố chấp thì người thiệt hại trước tiên là mình chớ không
phải đối phương. Nghĩ kỹ lại thì hình như tới tuổi này tôi chưa hề gây thù kết
óan với ai. Còn kiếp trước thì tôi không chắc.
Ba tôi nói đến đây thì một cô y tá bước vào thăm bệnh, lấy nhiệt độ và đo huyết áp. Cô chào mọi người và nói với ba tôi:
-
You are so lucky handsome old man! You have your children all the time. (Ông cụ
đẹp lão, ông có phước quá, luôn có con cái bên cạnh).
Ông xã tôi cười nói :
-
Truyền thống người Á châu chúng tôi là vậy đó. Con cái có bổn phận chăm sóc
phụng dưỡng cha mẹ già nhứt là khi ốm đau bệnh họan. Chúng tôi ai cũng cố sắp
xếp thời giờ thay phiên nhau có mặt bên ông thường xuyên cho ông vui và yên lòng dưỡng bệnh.
-
Tinh thần gia đình người Á châu các ông thật đáng phục. Nếu dân Âu Mỹ được phần
nào như người Á châu thì những ông bà cha mẹ già đỡ vất vưởng cô đơn
biết bao. Tôi biết có nhiều bệnh nhân lớn tuổi ở đây, suốt từ khi nhập
viện cho tới xuất viện chẳng hề có một người thân nào thăm viếng. Suốt ngày họ nằm
chèo queo rất tội nghiệp . Ông cụ đây thật là may mắn. Thôi không làm phiền quý
vị nữa, hãy tự nhiên trò chuyện tiếp đi.
Xin chào.
Cô y tá đi ra. Ba tôi quay qua vợ chồng tôi
bảo:
-
Thôi tụi con đi về đi. Chiều còn đi rước hai thằng nhỏ nữa. Có con Lan ở đây
với ba được rồi. Ờ mà nhớ cản con Dung, kêu nó đừng có thưa gởi gì hết đó nghe.
Bây giờ ba đã không có sao, nó đi sinh sự thưa gởi mấy người y tá làm họ bị quở
trách họặc bị đuổi việc thì mình không yên ổn lương tâm đâu. Ai cũng phải nhờ
vào công việc để kiếm sống, nếu mình báo hại người ta mất chén cơm thì nặng tội
lắm đó. Đừng vì ích kỷ muốn hả hơi mà làm chuyện bất nhân như vậy. Con về nói
phải quấy cho nó nghe. Đời còn dài, còn gặp biết bao nhiêu chuyện bất mãn hơn. Đâu
phải lúc nào mình cũng suông sẻ thắng thế đâu. Hôm nay mình bỏ qua cho người ta
thì ngày mai người ta xí xóa cho mình. Khi người khi ta là vậy đó.
Tôi trấn an ba tôi:
-
Ba đừng lo, để con nói lại với nó. Con
rất hiểu đạo lý ở đời . Tụi nhỏ lớn lên
ở xứ này không có được sự suy nghĩ như mình bởi vì bọn nó ít có dịp chịu khổ chịu
cực và cũng vì ảnh hưởng tính khí bộc trực của dân Úc cho nên rất háo thắng, đụng
đụng một chút là muốn làm cho ra lẽ, chuyện gì cũng muốn sòng phẳng thẳng thừng.
Ngày mai thứ bảy, nó nói xế chiều sẽ vô thăm ba. Hay là ba dạy nó giùm con một
chút đi. Dù gì nó cũng kính nể ông ngọai hơn con là má của nó.
Và quay sang cô em, tôi nói:
-
Vậy anh chị về trước nghe. Bây giờ cũng sắp tới giờ ăn trưa rồi. Lát nữa người
ta đem đồ lại, nếu có món nào ba thấy được thì nói ba rán ăn đi, tuy nó không
hợp gout mình nhưng đủ dinh dưỡng hơn thức ăn mình nấu. Hộp paste này nhiều
lắm. Có phần cho Lan ăn trưa luôn đó. Lan hãy sớt một nửa ra mà ăn. Đừng có ăn
ba cái biscuits và chips hòai, bệnh chết.
Lan gật đầu:
-
Dạ, anh chị về đi. Sáng mai hai vợ chồng Lan vô buổi sáng, anh chị cứ đi chợ cho
xong rồi trưa vào thế cho Lan. Còn chiều tối thì tới phiên hai vợ chồng thằng
Tony. Cầu cho ba mình mau bình phục về
nhà. Hổm rày Lan phải nhờ hàng xóm đưa rước hai đứa nhỏ đi học giùm, cũng phiền
người ta lắm.
Ra khỏi phòng ông xã tôi nói:
-
Bữa nay ông già nói chuyện nhiều quá, khác hẳn mọi lần, hồi nào tới giờ ba ít
nói lắm mà, nhứt là nói chuyện tâm tình với con cái.
-
Bởi vậy em thấy hơi lo. Khi một người có biểu hiện khác thường thì mình
phải nghĩ tới đó là dấu hiệu báo trước chuyện gì đó sắp
xảy đến cho họ. Nhưng mong rằng em nghĩ sai. Chắc tại ông già muốn chứng
minh
là ổng không bị lãng trí nên mới nói huyên thiên như vậy. Dù sao mình
cũng phải
chuẩn bị tinh thần lỡ như ba có chuyện chẳng lành. Đâu có ai lột da sống
đời
mãi. Mình đây còn chưa biết lúc nào ngã xuống, lúc nào ngủ luôn không
thức dậy
huống chi ba đã sống thọ tới tuổi này. Không biết ba còn được bao lâu
nữa với
mình…
Nói tới đây, tôi thấy nghèn nghẹn, mắt cay cay.
Tôi vội cắm đầu đi trước dấu đi hai hàng nước mắt sắp trào ra. Đối với tôi, nỗi
lo sợ lớn nhứt là mất mát, nhứt là mất mát người thân. Tôi rất sợ cảnh sinh ly
tử biệt. Nhưng trên đời này có ai tránh khỏi quy luật đi, về, sinh ký tử quy?! Có sinh thì ắt có tử!
Kiếp người sinh tử, tử sinh
Tử sinh sẵn định lúc
sinh ra đời
Mỗi người một vé khứ
hồi
Ta đi đã mỏi đành thôi
phải về
Đường trần quá đổi
nhiêu khê
Một lần xe cuối xin về thiên thu…
![]() |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23694 |
![]() ![]() ![]() |
Cô Lành Về Quảng Nam
![]()
Cô
Lành ở Mỹ về Việt Nam tìm thăm bạn cũ. Xuống máy bay ở Sài Gòn, cô đón
xe ra Ðà Nẵng, mấy hôm sau, cô đi Vĩnh Ðiện, một thị trấn nhỏ, cách Ðà
Nẵng vài chục cây số. Thực ra, trước đó vài ngày, cô có vô Vĩnh Ðiện,
hỏi han vài người ở bến xe điều gì đó rồi cô lại về Ðà Nẵng. Lần nầy, cô
đi Vĩnh Ðiện sớm. Trời còn lất phất mưa nên cô Lành phải mặc áo đi mưa
trước khi xuống xe. Khi xe vừa ngừng thì những người chạy xe ôm vây
quanh mời mọc. Họ nhao nhao lên với cô: "Ði mô cô? Tui đưa cô về nghe!
Mời lên xe". Cô Lành nói: "Tôi là khách quen của anh Hai Tí. Thấy ảnh
đâu không?" Mọi người dãn ra: "Phải Tí Kế Xuyên không? Hắn ngồi quán
đằng kia kìa"
Chữ
"Kế Xuyên" dùng để chỉ những người nhà quê, bảo thủ, nhất là có giọng
nói rặc Quảng Nam, giống như ta dùng chữ "Sịa" để chỉ dân Huế nhà quê.
Tuy là Việt kiều nhưng cô Lành trông rất xập xụi. Cô mặc một bộ bà ba
cũ, ngoài khoác áo đi mưa, mang đôi dép lẹp xẹp, tay cầm giỏ lác nhẹ
tênh, giống các bà nội trợ, đi chợ buổi sáng về nấu ăn cho gia đình. Cô
Lành theo hướng người xe thồ chỉ, đến một cái quán nhỏ, giống bất cứ
quán nào ở bến xe thị trấn nghèo và vắng vẻ. Trước hiên quán là một
chiếc bàn cũ với hai chiếc ghế dài. Một bình tích với bốn cái ly thủy
tinh không được sạch lắm. Ngay bên trong là một cái kệ bày mấy thứ kẹo,
bánh, chuối, ổi... Một người đàn ông, ngồi dựa lưng vào vách, tay cầm
chiếc bánh ú, miệng nhóp nhép nhai, mắt nhìn tận đâu như đang suy nghĩ
điều gì nên không thấy cô Lành bước vào.
Anh
ta khoảng trên 40, người cao, ốm nhưng rắn chắc, da đen thùi, xương gò
má nhô cao, hai mắt sáng trưng thụt vào hốc mắt như mắt con khỉ. Anh
mặc bộ đồ nhà binh của lính Cộng Hòa cũ, đã phai thành màu xám mốc. Một
chiếc xe đạp thồ tựa vào vách quán. Cô Lành hỏi: "Anh chạy xe thồ phải
không?" "Dạ. Cô đi mô?" "Tôi đi nhiều chỗ lắm. Anh biết Thanh Quít
không?" "Nhà tui ở đó. Răng không biết?" "Thanh Quít, nhưng vô tuốt
trong xa. Anh đi nổi không?" "Ăn thua chi! Lên Di Xiên tui cũng đi tới.
Cô chờ cho chút nghe. Tui en xong cái bánh ni là đi liền"
Anh
xe thồ nhét phần còn lại của chiếc bánh ú vào mồm, trẹo trạo nhai rồi
trợn mắt nuốt. Anh lấy cái bình tích rót một thứ nước vàng vàng vào ly,
bưng uống cạn rồi lấy tay quẹt ngang miệng, coi như làm vệ sinh sau bữa
ăn. Anh nói vọng vào trong quán: "Chập nữa quay lại tính tiền luôn
nghe, chị Tư"
Anh
đẩy xe ra, lấy chiếc áo đi mưa gài ở yên sau mặc vào. Áo đi mưa màu
xám tro, dày súc, giống như áo của lính cứu hỏa. Anh mặc ngược để tránh
gió lùa vào áo. Anh lấy miếng giẻ nhét dưới yên xe lau cái yên sau cho
hết nước mưa. Yên sau là một miếng gỗ lớn, có bọc nệm, làm thủ công nên
trông thô kịch nhưng chắc chắn. "Mời cô lên xe. Chừ đi mô đây?" Cô
Lành ngồi lên yên sau: "Anh cho tôi vô chợ Vĩnh Ðiện, mua ít quà cho
người quen". "Cô ngồi rứa không được mô. Phải bỏ hai chưn hai bên, ôm
tui cho chẹt. Ðường đất khó chạy lắm, ngồi rứa té bể đầu, tui mang
họa". "Ôm anh, vợ anh có ghen không?" "Vợ con chi tui. Mà có vợ, hén
cũng không ghen được, chiện lồm en. Ghen tương, đúa trơ mỏ"
Anh
xe thồ đạp ra đường cái một đoạn rồi rẽ xuống đường làng. Ðường tráng
xi măng nhưng hẹp lại có người đi nên xe phải lách qua, lách lại như làm
xiếc. Cô Lành thò tay vào trong áo mưa, vòng ra trước ôm bụng anh xe
thồ. Chiếc xe đạp, vì bơm bánh cứng ngắt nên cứ nẩy lên từng lúc. Thỉnh
thoảng xe thắng thình lình khiến ngực cô Lành ép sát vào lưng anh xe
thồ. Ngực cô căng cứng. Anh xe thồ phải chạy chậm lại.
Xe
ngừng ở đầu chợ. Cô Lành bước xuống: "Anh chờ tôi ít phút. Anh biết chỗ
nào bán cam, sữa hộp không?" Vì bị cô Lành ép ngực vào lưng mình nên
anh xe thồ cố ý nhìn mặt cô Lành, nhưng cô trùm mũ áo mưa sùm sụp, chỉ
thấy được hai con mắt ướt rượt, đuôi mắt kéo dài ra, rõ ràng cô đang
cười bằng mắt với anh ta. "Trong ni không có cam, quít chi mô. Sữa bò
hợp ở quán tê tề"
***
Chợ
Vĩnh Ðiện, gần Tết nên rộn rịp người mua, kẻ bán. Nông sản từ các làng
lân cận đem đến. Khoai củ, gà vịt, rau quả. Ðặc biệt là rau và hoa,
thứ hoa bình dân như vạn thọ, mào gà, phượng ta, cúc... khiến cho chợ
rực rỡ, tươi mát, thơm tho. Có cả những cành mai của những nông dân
đứng lóng ngóng đầu chợ, gặp ai cũng mời mua. Gà vịt cũng nhiều. Mấy
chị đàn bà ngồi chò hỏ với mấy con gà, con vịt bị trói chân, nằm ngóc
mỏ nhìn thiên hạ, vừa an phận vừa tuyệt vọng. Ai cũng đem hàng ra chợ
để có chút tiền sắm Tết. Ðông khách nhất là mấy sạp vải, áo quần. Các
bà, các cô lựa chọn, trả giá những mảnh vải nhiều màu sắc, những áo
quần trẻ con đủ kiểu, lòe loẹt với hình những con thú, hoa lá... Cô
Lành vào một tiệm tạp hóa mua mấy hộp sữa đặc. Cô tìm hàng cam, nho
nhưng không thấy. Chợ nhà quê không có những hàng xa xỉ đó. Một lúc
sau, cô Lành đi ra. Anh xe thồ đã trở đầu xe. Cô ngồi lên. "Chừ đi mô
đây?" "Xong rồi. Anh đưa giùm tôi qua Thanh Quít"
Ðạp
một lúc, anh xe thồ ngừng lại: "Hết mưa rồi. Ðể tui cởi áo mưa. Ðộp một
chập nóng thố mồ hôi, hôi rình, cô chịu chi thấu". "Anh chở bồ, đổ mồ
hôi, cô bồ có than hôi rình không?" "Bồ bịch chi mô. Chỉ có khách chịu
trận thôi. Họ không núa nhưng tui biết". "Bộ thời đi học anh không chở
bồ đi chơi sao? Ði ăn quà rong, đi về nhà hái ổi, hái me..." "Chiện xưa
rồi cô ơi, nhớ lồm chi cho mệt óc". "Nhưng cô bồ của anh đâu có than
hôi. Cô đó còn khen thơm nữa. Cô ta ngồi sau, hít hít cái lưng rồi khen,
Thơm quá! Ðúng không?" "Cô tưởng tượng nghe cũng hay, giống tiểu thiết
boa xu. Thôi, đi cho mau. Cô chỉ đường cho tôi". "Thì anh cứ chạy dọc
bờ sông..." "Rồi tới mô?" "Gần hai chục năm, tôi cũng không nhớ rõ,
nhưng trước nhà có cái máy bơm nước vô ruộng, có cái máng nước băng qua
đường". "Năm bảy cái máy bơm nước, biết cái mô? Hễ thấy nhà, cô núa
tui ngừng lại nghe! Cô đi thăm ai? Cô núa tên là tui biết liền. Tui
sống ở đó từ nhỏ tới lớn. Ai tui không biết!" "Nói ra, sợ vừa đến là
anh kêu rầm lên, Có khách đến thăm! thì đổ bể hết. Tôi muốn cho những
người đó bất ngờ... cho vui"
Xe
băng qua đường cái, đổ dốc, vào đường làng. Ðường đã được tráng xi
măng. Một bên là sông, với hàng tre giữ bờ, một bên là đồng ruộng, đôi
chỗ cất nhà, có cả nhà ngói, có quán bán lặt vặt, vừa là tiệm tạp hóa
vừa làm quán ăn. Người đi đường cũng nhiều, không giống như trước đây,
chỉ thấy ruộng và cây cối hoang tàn, nhà cửa xụp xệ. Chiến tranh đã chấm
dứt, người dân không còn sợ bom đạn tàn phá nên đã chú tâm vào việc
dựng lại nhà cửa cho khang trang. Anh Tí chăm chỉ đạp một lúc, không
biết cô Lành muốn đến đâu nên nghi ngờ: "Không chỉ chỗ mô, tui đạp miết,
cô phải trỏa nhiều tiền, thiệt hại cô thôi". "Ôm anh kiểu nầy, anh
không thấy thích sao? Nghề của anh, khi chở các cô, coi bộ anh khoái
lắm. Phải không?" "Tội nghiệp tui, cô ơi! Ðộp mệt thấy mẹ, sướng ích
chi? Kiếm mấy đồng sống qua ngày". "Anh sống với ai?" "Có bòa mẹ. Mà
nuôi không nổi. Bữa cơm, bữa chố!" "Anh cứ đạp từ từ. Tôi không gấp. Khi
chở khách, anh có nói chuyện với khách không?" "Ðộp gần thì cũng núa
mấy câu. Ði xa, thở bèng mũi, bèng miệng. Khi lên dốc phải nín thở mà
độp, thố mồ hôi hột. Về nhòa chưn tay rõa rời. Có chi vui mô mà chiện
trò!" "Bây giờ anh cứ tưởng tượng đang chở cô bồ sau lưng, thong thả đưa
người đẹp ngắm cảnh, ăn quà rong... Anh sẽ không thấy mệt"
Anh
xe thồ bỗng ngưng xe bên vệ đường, giọng nghiêm trang: "Tui chạy xe thồ
kiếm mấy đồng chớ không chở bồ bịch chi hết. Chở bồ thì không lấy tiền
công. Mà tui với cô có quen biết chi mô? Cô muốn bồ cô chở khỏi trả
tiền thì mời cô xuống đây. Tui ăn cục núa hòn. Thà mất lòng trước được
lòng sau. Ði mô cô không núa, lại ôm tui cứng ngắt, còn núa chiện bồ
bịch. Lồm như tui ở không chở cô đi chơi..."
Cô
Lành không giận còn đập tay lên lưng anh xe thồ một cách thân mật, cô
cười mà nước mắt ứa ra, từ từ chảy xuống má. Cô móc khăn ra chùi nước
mắt, khịt mũi và nói: "Tôi thuê anh từ giờ nầy đến 4 giờ chiều, anh đưa
tôi ra lại bến xe về Ðà Nẵng. Anh tính bao nhiêu, tôi trả tiền trước.
Anh yên tâm chưa?" Anh xe thồ dịu giọng: "Cô núa nhòa ai, tui đưa cô
tới. Xin lỗi cô. Tính tui không thích núa chiện trai gái. Tui... bậy
quá. Núa chộm tự ái cô"
Cô
Lành ngồi im, không trả lời. Cô liếc nhìn anh xe thồ rồi ôm mặt khóc.
Cô khóc ngon lành như cô bé bị mẹ mắng oan. Anh xe thồ bối rối. Anh
không biết phải làm gì, đành vịn chặt chiếc xe cho cô ngồi khóc thoải
mái. Cô khóc một lúc thì chùi nước mắt, giọng tỉnh rụi: "Hễ đạp gần đến
nhà nào phía trước đường có cái máy bơm nước, dưới đường có máng dẫn
nước vô ruộng thì anh nói tên người chủ nhà đó. Bây giờ cảnh vật thay
đổi hết rồi. Ruộng nương đã thành nhà cửa... Xin lỗi anh, tôi khóc không
phải vì bị anh rầy la mà tôi thương những người thân yêu của tôi quá!"
Anh
xe thồ quay nhìn trộm cô Lành. Anh nhíu mày suy nghĩ rồi quả quyết:
"Chừ ri. Tui chở cô đi dọc bờ sông. Ðến cuối đường, là chỗ con đường ni
quẹo vô xóm trong, cua như hết con đường bờ sông, mà cô không tìm ra
nhòa người thân của cô thì tui chở cô về lại bến xe để cô về Ðòa Nẻn.
Tiền công thì tui tính như với người khoác. Chẻn thiệt hại tui mà cũng
chẻn thiệt hại cô. Cô ngồi vịn cho chẹt nghe!" "Dọc đường anh biết được
nhà ai thì nói tên chủ nhà đó. Như vậy tôi sẽ nhớ ra. Biết đâu cái máy
bơm nước dời chỗ khác hoặc nhà tôi muốn tìm đã sửa sang, xây cất lại...
Anh cứ đạp từ từ"
Anh
xe thồ bắt đầu nói tên những nhà nào mà anh biết. Ðộ nửa giờ, khi qua
một cái máy bơm nước, anh làm như không biết tên chủ nhà, đạp qua luôn.
Nhưng cô Lành đã đập tay lên lưng anh xe thồ: "Anh dừng lại để tôi hỏi
thăm. Nhà nầy coi bộ đúng rồi". Cô xuống xe, xăm xăm đi đến một ngôi
nhà lợp tôn coi bộ nghèo khổ hơn các nhà khác. Anh xe thồ vội đạp xe
chạy ngược lại, dùng chiếc xe làm rào cản, không cho cô Lành bước vào.
"Cô biết nhòa ai đây mà cô dốm bước vô? Nhòa công oan. Họ bắt nhốt cô
bây chừ!"
Cô
Lành nhìn anh xe thồ cười: "Anh dấu em đâu có được. Em thấy là nhận ra
ngay. Bộ anh không muốn em đến thăm bác sao?" Vừa lúc một người đàn bà
từ trong nhà đi ra, tay cầm cái chổi, có lẽ để quét sân. Bà ta khoảng
trên 60 tuổi. Cô Lành đẩy chiếc xe đạp của anh xe thồ qua một bên, bước
vào sân và kêu lên: "Thưa bác. Bác còn nhớ con không?" Cô Lành kéo mũ
áo đi mưa đang trùm đầu xuống, hai tay vịn lên vai người đàn bà, nhìn
bà, miệng cười vui mừng và chờ đợi. Người đàn bà nhìn chăm chăm cô
Lành: "Ai ri hè? Cua quen quen". "Con là con Lành đây nè. Bác nhớ ra
chưa. Lâu quá! Mấy chục năm rồi..." Người đàn bà sững sờ, miệng mấp
máy: "Trời đất! Lành đây hả con? Răng cua khoác quá! Nhưng boác cũng
nhớ được. Con vô nhòa!" Bà ta mừng đến độ lúng túng, lập cập: "Vô nhòa,
con. Trời đất ơi! Mấy chục năm mới gặp lại con. Răng, hai đứa gặp nhau
ở mô mà chở nhau về đây? Ngồi đây con. Ở lại chơi, chiều về, nghe con.
Hiện nay con ở mô? Chồng con ra răng? Lồm en có khá không? Núa cho
boác mừng"
Người
đàn bà kéo cô Lành ngồi xuống bộ phản cũ sì, sứt mẻ, trầy trụa. Bà nói
một hơi rồi nhìn cô Lành: "Choa mi! Gần hai chục năm chớ ít ỏi chi.
Con ở mô mà boác bét anh Tí con roa Ðòa Nẻn tìm không thấy!" Cô Lành
cúi mặt xuống, giọng giận lẫy: "Ðể đó mà ảnh tìm. Lúc nãy, gặp con ở
bến xe, ảnh không thèm nhìn con. Con phải làm bộ thuê ảnh chở đi tìm
người quen. Ði ngang qua nhà bác, ảnh chạy luôn. Bác nghĩ, có đáng giận
ảnh không? Bác còn nhớ, lúc ảnh bị thương, nằm ở bịnh viện Duy Tân, con
vô thăm ảnh, săn sóc ảnh. Vậy mà khi xuất viện về, con về đây thăm ảnh,
ảnh nói đừng đến thăm nữa. Tôi sắp cưới vợ rồi. Từ đó con từ ảnh luôn,
không đến đây nữa. Bác nghĩ coi. Tình nghĩa chi!"
Người
đàn bà gọi "Tí! Dô biểu cua". Anh xe thồ, tên Tí, nãy giờ đứng lóng
ngóng trước sân, bèn bước vô, ngồi xuống ghế, không nhìn cô Lành. "Răng
con núa có vợ cho em con không đến đây nữa?" Anh Tí ngập ngừng: "Thương
phế binh, nuôi cái miệng không đủ, đèo bồng vợ con cho khổ lây. Con
núa rứa cho cổ không tới nữa. Mà chắc chi gioa đình cổ chấp nhận thèng
thương phế binh. Phải biết thân phận mình chớ"
Cô
Lành thút thít khóc: "Ảnh bỏ con đành đoạn. Trước đó ảnh viết thư nói
thương con. Ảnh còn hỏi ý kiến con, bảo con thưa với ba má con, ảnh xin
về phép, đưa bác ra Ðà Nẵng thăm gia đình con rồi xin làm đám hỏi, đám
cưới, con có chịu không? Vậy mà chỉ mấy tháng sau, sau khi bị thương,
ảnh bỏ con. Chắc có bồ rồi phản bội con. Bỏ mồi bắt bóng. Rồi bị cô bồ
đá cho. Ðáng kiếp!" "Thiệt. Cái thèng! Mà xưa nay hén có bồ bịch, vợ con
chi mô? Thôi bỏ qua chiện đó đi. Chừ con ở lại en cơm với gioa đình
boác. Tí, ngồi núa chiện với em. Mẹ ra sau bứt mớ rau nấu miếng canh, en
cho moát rụt". "Khỏi nấu nướng chi cho tốn công, bác. Lúc nãy ngang qua
đằng kia, con thấy có gánh mì Quảng, nhờ anh Tí đạp xe đi mua cho
tiện. Con về đây thèm mì Quảng"
Người đàn bà móc túi đưa cho anh Tí mấy tờ bạc: "Con mua boa tô, mượn luôn tô, chập nữa đem trỏa"
Cô
Lành lấy mấy hộp sữa đặt trên bàn rồi đưa cái bị cói cho anh Tí đi mua
mì. Mẹ anh Tí ngồi nói chuyện với cô Lành một lát thì xuống bếp nấu
nước pha trà. Cô Lành ngồi ở nhà trên, vén áo mở cái túi nhỏ đeo trước
bụng lấy ra một phong bì, trong đó có một xấp tiền và một lá thư. Cô
đọc lá thư, ngẫm nghĩ một lúc, gạch xóa, viết thêm mấy dòng, bỏ lại vào
phong bì, cô le lưỡi liếm mép phong bì, dán lại rồi đem xuống bếp, đưa
cho mẹ anh Tí: "Ðây là lá thư con gửi anh Tí, khi nào con về rồi bác
mới đưa cho ảnh"
Cô
ôm mẹ anh Tí và khóc: "Con thấy ảnh khổ con đứt ruột. Lúc nãy ảnh chở
con, con ngồi sau, ôm ảnh, thấy xương với da, lại nghe ảnh vừa đạp xe
vừa thở dốc, con khóc một trận. Con biểu ảnh đạp chậm chậm, coi như chở
bồ đi chơi, cho đỡ mệt, vậy mà ảnh cự con, ảnh nói chở bồ không lấy
tiền công. Ảnh chạy xe thồ, chở đi thì phải trả tiền công. Không biết
ảnh có nhận ra con không mà không nghe ảnh nói với con được một tiếng
dịu dàng. Chắc ảnh không còn thương con, không nhìn mặt con nữa. Phải
không bác?"
Mẹ
anh Tí vuốt tóc cô Lành, thở dài: "Hén không thương con thì thương ai?
Hén thấy mình nghèo khổ quá nên gặp boạn bè, hén cũng giỏa lơ. Con về
ghé thăm gioa đình boác rứa là quí rồi. Chừ thì đường ai nấy đi. Con
cũng phải lo cho gioa đình con. Con thương hén, nhưng con phải giữ cái
đức hạnh của người đàn bòa, phải bổ vệ hạnh phúc gioa đình con..." "Con
đâu có chồng con chi. Ðời con, chỉ thương có mình anh Tí. Nay con về
tìm thăm ảnh, tưởng ảnh đã lập gia đình rồi, không ngờ ảnh chưa có chi
hết, con mừng lắm. Giả dụ như ảnh không còn thương con nữa, con cũng
quyết không để ảnh với bác phải khổ đâu. Con nói điều nầy, bác khoan
nói cho anh Tí biết, là con hiện ở bên Mỹ, con còn độc thân, con đi
làm, không gọi rằng giàu nhưng lương khá lắm. Nếu ảnh tự ái không nhận
sự giúp đỡ của con thì con gửi tiền giúp bác. Trường hợp ảnh còn thương
con thì nhờ bác nói giùm con với ảnh. Con không lấy chồng vì thương
ảnh, nếu ảnh không chịu cưới con thì con nhất định làm gái già chứ
không lập gia đình với ai hết. Nhờ bác nói giùm con nghe bác. Hay là bác
nói, ảnh không thương con cũng được nhưng phải cưới con để con về phụ
với ảnh săn sóc bác, bác đã lớn tuổi rồi, bác cần một người đàn bà săn
sóc khi bác ốm đau, bịnh hoạn. Thỉnh thoảng bác nói một câu, lâu ngày
ảnh sẽ nghĩ lại"
Mẹ
anh Tí đẩy cô Lành ra, nhìn cô và trầm trồ: "Chu choa, con là Việt
kiều hả? Reng en mẹc nghèo khổ rứa? Boác cũng không ngờ. Con lồm rứa là
con biết ý thèng Tí. Con mà xưng Việt kiều, hén không tiếp con mô".
"Bởi vậy con mới ăn mặc như thế nầy. Bác cất lá thư đi, khi con về rồi
thì đưa cho ảnh nghe bác. Thấy bác còn mạnh khỏe, con mừng lắm". "Hai
boác, anh chị em con, còn ai ở đây không? Hai boác có mạnh khỏe không?"
"Dạ, qua hết bên Mỹ rồi. Cám ơn bác, ba mẹ con vẫn khỏe. Ba mẹ con cứ
thắc mắc, tại sao, hai đứa con, con với anh Tí, tự nhiên chia tay? Con
không biết trả lời sao! Bác dọ ý ảnh, khi nào ảnh xiêu lòng thì bác nói
ảnh chuẩn bị cho con một số giấy tờ. Khai sinh, bản sao hộ khẩu, chứng
minh nhân dân của ảnh và của bác. Qua Mỹ, con làm giấy tờ gửi về ảnh,
biểu ảnh ra dịch vụ cho họ làm giấy tờ hôn thú. Bác cứ nói đại khái.
Lần sau con về sẽ lo tiếp". "Nhưng con phải núa trực tiếp với hén..."
"Dạ, lát nữa ảnh về con sẽ nói với ảnh"
Hai
người đàn bà tâm sự với nhau một lúc thì anh Tí đem mì Quảng về. Ăn
uống xong, mẹ anh Tí giành phần dọn dẹp, ra sau bếp rửa chén bát, còn
lại cô Lành và anh Tí ngồi ở nhà trên. Anh Tí rót nước trà mời cô Lành:
"Mời cô!" Cô Lành chống cằm nhìn anh Tí: "Anh không kêu em được hay
sao? Có gì mà coi bộ anh giận em dữ lắm?" Anh Tí ngồi nhìn ra đường:
"Lâu quá không gặp, thấy lọa, nên ngại, chứ chẳng có chi giận hờn".
"Sao lúc chở em, anh nạt nộ em, làm em sợ anh". "Ðâu biết. Tưởng người
lọa. Ðời mô tui nhìn đàn bòa, con gái"
Cô
Lành mở to mắt, nhìn sát mặt anh, thì thầm hỏi: "Có phải anh bị thương
rồi có chuyện gì xảy ra cho thân thể anh không mà anh không thèm nhìn
đàn bà, con gái?" Anh Tí bưng ly nước uống: "Chỉ bị thương cánh tay, bất
khiển dụng ở tay, chớ có chi thay đổi mô! Ai cũng thay đổi hết, chỉ
mình tui. Ðời ni là rứa đó!" "Vậy là em biết tại sao anh giận em rồi.
Anh tưởng em thay lòng đổi dạ. Ðã có chồng hay ít ra cũng bồ bịch tùm
lum. Phải không?" "Tui đâu dốm. Ai muốn nghĩ răng thì nghĩ. Có tật giựt
mình"
Cô
Lành thò tay qua, đăït bàn tay mình lên cánh tay anh Tí, vừa dịu dàng
vừa bạo dạn: "Em Lành của anh vẫn lành lặn như xưa. Em sẽ chứng minh cho
anh thấy. Em để dành cho riêng anh thôi. Lúc nào anh muốn cũng được"
Anh
Tí quay nhìn cô Lành mắt trợn lên kinh ngạc nhưng coi bộ hết giận: "En
núa kiểu chi? Học mô roa?" "Bây giờ anh nói thật cho em rõ. Trước đây,
vì sao anh nói anh sẽ có vợ, đừng đến nữa? Anh có biết, anh nói câu đó
mà em bịnh một tháng, khóc hết nước mắt...?" "Thân trai trỏa xong nợ
nước, tàn phế, nuôi thân không xong, lấy chi nuôi vợ con? Cũng may cho
cô. Cô lấy tui, sau bảy lăm, làm răng nuôi chồng trong tù, nuôi con,
nuôi mẹ? Ngay bây chừ, cô nhìn nhòa tui đây, trống trước, trống sau, gộ
không đủ nấu. Cô ở được mấy bữa?"
Cô
Lành bóp chặt cánh tay anh Tí: "Chuyện đó để em lo. Em chỉ hỏi anh. Anh
còn thương em không? Mà không còn thương em, em cũng chấp nhận nữa.
Miễn là anh cho em được thương anh, để em được gần anh, gần mẹ, săn sóc
cho mẹ. Khi anh đi lính, em thường đến thăm mẹ. Mẹ coi em như con nên
em cũng coi như mẹ ruột. Sau nầy, mẹ sẽ già yếu, anh là con trai, làm
sao săn sóc cho mẹ được?" Anh Tí yên lặng, rót nước uống rồi nói: "Thôi
được! Nhưng cô chờ cho tuần sau, khi tui xây lại nhòa ni thành nhòa
lầu, sắm một cái TV màu, một chiếc Hon đoa mới tinh... rồi tui roa Ðòa
Nẻn đón cô về". "Bộ anh hóa phép màu hay sao?" "Phép tét chi! Tui trúng
độc đét, chi không có! Tuần ni không trúng thì tuần sau, tuần sau nữa.
Cô cứ chờ, chớ tui đâu có phụ rảy chi cô. Chờ tới khi tui già, cô già,
rồi chết là xong. Cô núa chiện trên trời! Trừ khi cô là triệu phú thì
họa may. Nhưng cô giàu có, thì tui thòa chết còn hơn là nhờ cô". "Anh
cũng bị tù cải tạo sao không đi diện HO?" "Tui đi tù. Bịnh sắp chết,
chúng cho khiêng về chôn. Không biết răng, tự nhiên hết bịnh. Chưa đủ
boa năm". "Bây giờ em lo được giấy tờ để anh và mẹ qua Mỹ. Anh nên vì
em, vì mẹ mà đi Mỹ. Nghe anh!" "Lồm giấy tờ giỏa mộ chỉ có đi tù chớ đi
Mỹ chi!" "Nhưng em làm giấy tờ hợp pháp, anh có đi không?" "Dại chi
không đi. Nhưng tiền bọac, chi phí tính răng?" "Qua Mỹ, anh làm có
tiền, trả lại em". "Nhưng có chiện chi, tui không đi tù lần nữa đâu.
Tui ngán đi tù rồi". "Bảo đảm với anh không sao đâu. Miễn anh ừ một
tiếng thì em lo xong ngay. Ừ đi anh!" "Tui biết cô chẻn lồm được chi
mô, nhưng tui cũng ừ cho cô vui lòng". "Nhớ nghe! Hứa là phải giữ lời.
Anh nhớ lúc còn đi học, mỗi khi anh và em hứa với nhau điều gì, mình
thường ngoéo tay nhau. Bây giờ mình cũng ngoéo tay đi anh". "Thôi thôi,
giòa đầu rồi, đừng lồm trò trẻ!"
Anh
Tí lại làm nghiêm, cô Lành thì tìm cách sao cho anh ta cười. Cô biết
tính anh Tí, nên không lấy đó làm buồn. Cô chợt hỏi: "Con Hạnh còn ở bên
nhà không?" "Hén có đi mô! Giờ ni chéc hén về rồi. Hén lồm bánh bông
loan bỏ mối ngoài chợ Vĩnh Ðiện và mấy tiệm en, quán nước. Ðể tui qua
cua thử"
Khi
anh Tí qua nhà cô Hạnh thì cô Lành lại kéo áo mở cái túi đeo trước
bụng, móc ra một tờ trăm đô, xếp nhỏ lại bỏ vào túi. Ðây là quà cô dành
cho cô bạn tên Hạnh, cũng là hàng xóm của anh Tí. Chỉ 5 phút sau, cô
Hạnh theo anh Tí đi vào. Anh Tí hỏi: "Mi biết ai đây không?" Cô Hạnh
nhìn cô Lành, tần ngần một lúc rồi nói: "Ai ri hè? Coi giống con Lành!
Phải mi là con Lành không mi?" Cô Lành đứng lên cười cười: "Cho nói lại
lần nữa. Cố nhớ coi!" Cô Hạnh la to lên: "Tổ cha mi! Mi là con Lành chớ
ai vô đây?" Hai cô nhào vô, ôm nhau. Cô Hạnh ứa nước mắt: "Mấy chục
năm ni mi đi mô? Tao bắt ông Tí đi tìm mi mà không biết mi đi mô?!" Rồi
cô Hạnh cười: "Tính tao hay khóc. Gặp mi tao mừng quá!" "Bộ mi khóc
mừng gặp lại tao không đáng mấy giọt nước mắt sao mi tiếc. Ðừng làm như
ông Tí. Gặp tao không thèm nhìn, còn nạt nộ tao nữa". "Ông đó tàng
tàng. Ðừng thèm để ý. Chừ mi qua nhà tao chơi. Ở lại với tao, mai về
được không? Hay là sợ heo kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem mà đòi về
sớm?" "Chồng con chi tao! Cầu cho có người đòi tòm tem mà người ta
không thèm"
Cô Lành nói với anh Tí: "Anh Tí chờ em qua nhà Hạnh rồi về ngay nghe. Em cần nói với anh chuyện nầy"
Cô
Lành qua nhà cô Hạnh. Nhà vắng người. Hai cô ngồi trên giường. Cô Hạnh
thò tay bóp bóp đùi cô Lành rồi dòm quanh người cô Lành: "Coi bộ còn
năng gớm. Ngực cũng ngon, đùi, mông tròn vo. Mi chưa chồng con là đúng.
Mi coi tao, chỗ nào cũng nhão nhẹt!" "Bộ không có ai ở nhà sao mi ăn
nói tự do quá vậy?" "Ông xã tao đi làm, hai đứa con đi học. Khỏi lo! Cứ
nói cho sướng miệng. Nhớ hồi còn đi học không? Mấy đứa con gái tụi mình,
tụm năm, tụm ba ở nhà tao, ăn me, ăn ổi rồi nói tầm bậy tầm bạ...
Sướng thiệt! Chừ khổ quá. Bao lâu nay, gặp được mi tao mới có dịp nói
bậy". " Bộ có chồng, mi không nói bậy với chồng được hay sao?" "Có nói
chớ, nhưng nói chuyện khác. Chờ ổng nói trước, mình nói theo. Mi lấy
chồng thì biết liền. Ủa, trước giờ mi đi đâu mà chưa chồng con chi cả?
Mi lấy ông Tí đi, ổng cũng còn độc thân. Ngó rứa chớ ổng còn thương mi
lắm. Mà mi chịu ổng không? Già rồi mi ơi. Tối ngủ ôm cái gối, sướng ích
chi!" "Năm bảy tư, gia đình tao từ Vĩnh Ðiện dời ra Ðà Nẵng, năm bảy
lăm, bỏ Ðà Nẵng đi luôn. Tao cũng thương ảnh lắm chớ! Nhưng không biết
ảnh nghĩ sao? Ảnh lầm lì với tao từ sáng tới giờ". "Mi biết tính ổng
rồi. Ổng cố chấp lắm. Giọng Kế Xuyên quê đặc mà ổng đâu chịu sửa. Ổng
muốn làm mặt lạ vì ổng mặc cảm mình đạp xe thồ, mặc cảm nhà nghèo. Mi
thấy đó, Tết nhứt đến nơi mà nhà ổng có sắm sửa, chuẩn bị chi đâu! Ổng
nghĩ như thời xưa, lấy vợ là phải nuôi vợ con, ổng sợ thêm miệng ăn nữa
thì chết! Hơn nữa tao nghĩ, có lẽø ổng nghi mi đã lấy chồng hay bồ
bịch gì đó, ổng tức mà không biết nói răng. Nhưng tao biết, ổng thương
mi lắm. Mi còn nhớ, khi ổng bị thương về nhà, mi ghé thăm, không biết
mi với ổng có chuyện chi mà ổng qua nhà tao ngồi khóc ngon lành. Ổng
nói mi bỏ ổng rồi. Coi bộ cứng rắn, lạnh lùng chớ ổng cũng mít ướt như
tụi mình chớ chẳng hơn chi". "Mi cố nói giùm tao, sao cho ảnh chịu lấy
tao, thì mi có cái đầu heo". "Mi yên tâm, để tao lo chuyện đó, ổng là
của mi, chắc ăn như lấy đồ trong túi. Ngó rứa chớ tao nói là ổng nghe
lời liền. Ổng coi tao như bạn thân, có gì cũng kể cho tao nghe". "Có
khi nào ảnh nhắc đến tao không?" "Tao có hỏi còn nhớ Lành không? Ổng
nói. Không nhớ Lành thì nhớ ai? Có lẽ bây chừ Lành đã có chồng, có con
rồi"
Cô
Lành móc túi lấy tờ bạc đã xếp nhỏ, bỏ vào túi cô Hạnh: "Tao gửi mấy
đồng cho hai cháu. Bây giờ tao phải về". Cô Hạnh nghĩ rằng bạn cho mình
tờ một tờ bạc Việt Nam nên chỉ nói cám ơn mà không quan tâm". "Ủa. Mi
nói sẽ ở lại với tao mà? Ở lại, tối nay nằm nói chuyện với nhau cho đã".
"Rồi chồng mi nằm đâu?" "Ðừng lo chuyện đó. Tao tống ổng ra ngoài phản.
Hay là mi qua nằm với ông Tí, tâm sự trắng đêm, cho đã thèm bấy lâu
nay". "Ðồ quỉ sứ, nói chuyện bậy bạ. Ðể tao về. Ở lại đây, đêm hôm, giấy
tờ, trình thưa, tao không muốn phiền mi"
Hai
người qua nhà anh Tí. Cô Lành xuống bếp ôm mẹ anh Tí, thì thầm: "Bác
nói giùm con, nghe bác. Tuần sau con về lại đây. Bác nhớ lo cho ảnh ăn
uống, ảnh ốm quá, con thương ảnh quá!" "Choa mi! Tao cũng đưa xương mà
mi chỉ nghĩ đến hén, bét tao lo cho hén"
Cô
Lành cười chống chế: "Thì bác cũng thương ảnh, thương con. Bác muốn con
với ảnh yên tâm thì bác cũng phải ăn uống cho đầy đủ. Thôi, con về nghe
bác"
Cô tựa đầu vào vai bà như cô bé làm nũng với mẹ: "Con muốn kêu bác bằng mẹ mà sợ anh Tí rầy con". "Hén quyền chi mà rầy con?"
***
Anh
Tí đã đưa xe đạp ra sân, ý muốn cô Lành về sớm. Cô Lành qua chào từ giã
cô Hạnh rồi bước ra, ngồi sau xe, vòng tay ôm bụng anh Tí và nói với cô
Hạnh: "Mi thấy, ai đi xe thồ cũng ôm eo ảnh. Tao ôm thì ảnh cự, nói sao
ôm cứng ngắc". "Ổng cự mặc kệ ổng. Cứ ôm chặt cho tao. Ôm ngày ôm đêm,
ổng cự riết rồi khoái chí, bắt mi ôm nữa". "Con quỉ nói trây! Tao về
nghe!" Cô Hạnh vui vẻ la to lên: "Không về thì đứng xuống, khó chi! Ê!
Có phải hai anh chị hẹn hò, đưa nhau vô phòng ngủ không?" Hai cô lại
cười như bị thọt lét. Cô Lành ngoái cổ lại nói "Mi thành nái xề rồi mi
ơi! Nói trây không biết mắc cỡ!"
Anh
Tí làm thinh, đạp xe ra đường. Cô Lành ngồi sau, ôm eo, tựa đầu vào
lưng anh ta. Anh Tí bực mình: "Ðừng lồm rứa, người ta thấy tề!" "Thời đi
học, anh chở em đi chơi, em cũng ôm như thế nầy, sao anh không la em?"
"Ði học khoác, đi xe thồ khoác. Hồi trước là quê hương, đất nước mình, lồm chi không được. Chừ, lồm thân mất nước, vui thú chi"
Cô
Lành không ôm anh Tí nữa, sụt sùi khóc: "Sao anh khó với em vậy?" Anh
Tí yên lặng một lúc rồi thở dài: "Xin lỗi. Tui buồn quá! Mất nước rồi.
Buồn suốt đời. Biết ngày nồ mới vui được? Tôi chỉ sống qua ngày để nuôi
mẹ giòa, sướng ích chi mà nghĩ đến vợ con. Con cái ngụy lớn lên cũng
chỉ để chúng ngồi lên đầu, hành họa, coi như trâu ngựa. Ði học chúng
cũng không cho, đi lồm chúng cũng không cho". Cô
Lành lại vòng hai tay, ôm bụng anh Tí: "Bây giờ có em, em phụ với anh
nuôi mẹ. Anh hãy quên chuyện nước nhà, mà nghĩ đến em. Anh có suy nghĩ,
buồn phiền bao nhiêu cũng không làm được gì. Vận nước nó như vậy nhưng
cũng sẽ đến ngày tươi sáng. Anh đã chiến đấu, đã bị thương thì coi như
nợ nước anh đã trả rồi, nay anh có quyền nghĩ đến tình nhà. Bây giờ em
về đây tìm anh. Anh và em, trước đây, có biết bao kỷ niệm. Anh có biết
khi anh bảo em về, đừng đến anh nữa vì anh sắp lấy vợ, em khóc hết nước
mắt. Em giận anh nhưng quyết làm gái già chứ không thèm để mắt đến ai
cả. Anh có thương em không?"
Anh
Tí yên lặng, đặt bàn tay trái, bàn tay bất khiển dụng của anh lên hai
tay cô Lành đang ôm bụng anh. Anh bóp tay cô Lành, nhưng bàn tay thương
tật nên chỉ mấy ngón tay là cử động nhẹ. Cô Lành ép hai bàn tay mình
lên bàn tay anh Tí, dụi đầu vào lưng anh Tí: "Bây giờ còn sớm, mình dừng
ở quán nước đằng kia. Em nói chuyện nầy anh nghe"
Phạm Thành Châu
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23694 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23694 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 200 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |