Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Tâm Tình | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình |
Chủ đề: ĐỜI SỐNG GIA DÌNH | |
<< phần trước Trang of 126 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22274 |
Gởi ngày: 05/Aug/2019 lúc 9:03am |
Chiếc Đòn Gánh Của Mẹ
Những
người phụ nữ quê tôi không ai không biết đến chiếc đòn gánh vì ai cũng
đã từng hơn một lần gánh nó trên vai. Quê tôi miền Trung nghèo lắm. Từ
những bé gái mới lớn lam lũ giúp mẹ thổi cơm gánh nước, đôi vai nhỏ như
oằn xuống với một cánh tay bấu vào thân đòn nặng trĩu còn tay kia dùng
lấy thăng bằng gánh hai thùng nước sóng sánh - đến những bà mẹ già lập
cập gánh những bó rau, bụi cải hay con gà con vịt thong dong ra chợ bán.
Rồi những đứa em, người chị, hầu như cứ rãnh việc, buông tay ra là động
đến chiếc đòn gánh. Gánh lúa, gánh phân, gánh mạ non, gánh nước … Toàn
bộ công việc nặng nhọc đặt trên vai người phụ nữ. Đàn ông quê tôi lại ít
thấy gánh gồng gì. Dĩ nhiên là họ làm những việc khác có khi còn nhọc
nhằn hơn nhưng ít khi động đến chiếc đòn gánh …
Tôi
nhớ như in lúc tôi còn là thằng bé sáu, bảy tuổi, chiều chiều ra đứng
trên đầu cầu sông Kênh đón mẹ đi chợ về. Rướn người trên thành cầu sắt
thật cao, tôi đưa mắt hướng về phía chợ. Hễ cứ thấy từ xa ai đó đang
quang gánh bước đi là lòng tôi lại thấp thỏm mừng vì nghĩ đó là mẹ mình.
Cái dáng tất bật, lam lũ của những người đàn bà quê tôi hầu như ai cũng
giống nhau. Cho nên, tôi thường nhìn lầm. Tôi đợi từ xa và dõi mắt nhìn
chằm chằm vào dáng đi vất vả cũng với hai cánh tay, một nắm trên thân
đòn và một lấy thăng bằng, buông lỏng theo từng bước chân như chạy.
Không lẫn vào đâu được, đúng là bước chân của mẹ tôi. Bước chân mẹ lạ
lắm, có gì đó như lo toan, vội vã, nhẫn nhục, nhọc nhằn trong mỗi nhịp
đi hối hả. Nhưng khi bóng người đàn bà kẽo kịt gánh gồng đến gần, thì
lại không phải. Niềm vui biến mất, gương mặt buồn xo, tôi lại ngồi xuống
thành cầu đợi mẹ tôi.
Cuối
cùng thì mẹ cũng xuất hịên! Từ xa, nhận ra mẹ, tôi đã ba chân bốn cẳng
chạy ùa tới mừng rỡ. Tôi chẳng quan tâm gì đến mồ hôi mồ kê trên gương
mặt mẹ chảy ròng ròng vì mệt, vì nắng rát mà điều quan trọng nhất là
nhìn vào hai cái mẹt đong đưa hai bên đòn gánh dưới cái quang bằng dây
thép uốn tròn. Quà của tôi nằm ở đó! Khi thì là chiếc bánh mì, vài viên
kẹo dẻo, một lóng mía ghim, có khi là mấy thứ đồ chơi rẻ tiền bằng nhựa …
Thích nhất là được mẹ mua cho bánh bò ông ba tàu ngoài cổng chợ. Tôi mê
bánh bò ông thì ít mà thích con gái ông thì nhiều! Chẳng là con ông học
cùng lớp với tôi. Nó học giỏi nhì lớp, còn tôi hạng nhất. Bọn trẻ con
thường cắp đôi tôi với con Lẻm, tên nó. Không biết nó nghĩ gì không chứ
riêng tôi thì thích! Mà cũng lạ, không ai như tôi, mới học đến lớp hai,
lớp ba mà đã biết mắc cỡ khi gặp nó … Nhưng đó là chuyện hồi con nít …
…
Không cần đợi mẹ đồng ý, tôi đã lục mẹt lấy quà của mình vì biết mẹ chỉ
mua cho tôi. Nhà có mấy chị em, ba mất sớm mà tôi là con trai duy nhất
nên mẹ thương tôi hơn cả. Trăm lần như một, chiều nào mẹ đi chợ về, sau
khi bán hết mớ rau cải, bầu bí trồng ở vườn nhà, thế nào mẹ cũng dành
tiền ki cóp mua cho tôi ít quà. Tôi cầm gói bánh bò tung tăng chạy
trước, mẹ gánh cặp mẹt đi sau. Không nhìn vào mắt mẹ nhưng biết chắc mẹ
đang cười nhìn tôi hạnh phúc. Đôi gánh nhẹ hẫng trên vai mẹ và thỉnh
thoảng mẹ còn nói vói theo nhắc yêu tôi: Ranh con, chạy vừa vừa chứ, té
ngã bây giờ!
Tôi
thật không biết chiếc đòn gánh do ai nghĩ ra và xuất hiện đầu tiên vào
lúc nào nhưng quả thật, đó là một dụng cụ tuyệt vời để di chuyển vật
nặng từ nơi nầy đến nơi khác bằng sức người ở quê tôi. Nó được làm bằng
cây tre già ngâm nước càng lâu càng tốt, để tre dẻo, chắc và khỏi mục.
Tôi đã thơ thẩn hàng giờ nhìn người ta đục đẽo chiếc đòn gánh. Thật cũng
lắm công phu! Sau khi chỉ lấy đoạn gốc tre già ngâm nước chừng vài
tháng, người ta làm hai chiếc máng ở hai thân đòn. Hai cái máng nầy phải
giống nhau như một, giữa khắc một cái rãnh sâu dùng để móc quang vào
cho khỏi lệch. Cái máng nầy cũng lắm chuyện. Gặp tay thợ đẽo giỏi, nó là
hình tròn, hình ô van có khi còn được tạc vào dấu thập hoặc chữ vạn mà
tôi không biết để làm gì. Có lẽ lấy hên mua may bán đắt khi gánh trên
vai chiếc đòn gánh ấy chăng, hay chỉ là khắc lên cho đẹp …
Chưa hết, còn
phải gọt đẽo thân đòn cho thật thẳng, đoạn ở giữa mỏng hơn hai bên đầu
làm đòn đong đưa cho nhẹ sức hơn khi gánh nặng … Khoảng hơn tiếng đồng
hồ đẽo gọt thì chiếc đòn gánh ra đời. Nó có thể dùng hết đời nầy đến đời
khác trong một gia đình quê tôi vì hiếm khi bị gãy. Đến khi nước bóng ở
thân đòn nổi lên màu đen mun thì không biết chiếc đòn đã thấm biết bao
nhiêu mồ hôi từ trên đôi vai những người đàn bà tần tảo …
Nhưng
chiếc đòn gánh của mẹ tôi không chỉ có thế. Nó còn là một trời kỳ diệu.
Nó mang đến tuổi thơ tôi những niềm vui háo hức tràn trề, cả những giấc
mơ đẹp đẽ nhất trên đời. Còn gì sung sướng hơn khi được đặt ngồi vào
một đầu quang, đầu bên kia là trái bầu trái bí mẹ gánh suốt dọc đường ra
chợ. Tôi cứ ngồi im như thế trên suốt con đường làng, hấp háy đôi mắt
hãnh diện nhìn quanh xem có đứa bạn học nào để mà vểnh mặt lên, tự hào
được ngồi gánh mẹ. Tôi cũng không buồn khi thấy chỉ mấy con trâu, con bò
dọc đường làng chào tôi kêu nghé ọ và những đứa trẻ chăn trâu nhìn theo
cười chế giễu. Tôi biết chúng nó ganh tỵ vì không được ngồi gánh như
tôi …Và vì tôi nặng hơn mấy trái bầu bí ở gánh bên kia nên mẹ phải đưa
vai chệch về phía tôi để giữ thăng bằng. Mệt lắm nhưng mẹ vui. Tôi biết
được điều ấy trên đôi mắt long lanh, hài lòng bừng lên trên mặt mẹ …
Đến
gần chợ là tôi dứt khoát bảo mẹ cho xuống, có năn nỉ mấy cũng không
chịu ngồi thêm. Tôi sợ con Lẻm, con ông ba tàu bán bánh bò đầu cổng chợ
nhìn thấy. Vì sao sợ nó cười, tôi không biết nhưng rõ là tôi thích được
nhìn nó xuất hiện với hai chiếc nơ xinh xắn, chạy lò cò trước cổng, mắt
tròn xoe nhìn tôi và gật đầu chào. Tôi làm như ngó lơ, chạy lúp xúp theo
mẹ, mắt liếc thật nhanh vào con Lẻm còn tay thì cứ cầm dây quang phía
sau chiếc đòn gánh mà nhắc để khỏi mắc cỡ: Đi nhanh lên mẹ, con đói bụng
lắm rồi …
Tuổi
thơ tôi và chiếc đòn gánh mẹ như không hề rời nhau. Cũng có những hôm
không bán được hàng, mẹ quảy gánh về mà không có quà cho tôi. Tôi cứ cầm
lấy đòn gánh mẹ mà khóc tấm tức, dỗ mấy cũng không nín. Tôi nghĩ mẹ
không thương tôi hoặc là quà của tôi mẹ đã cho ai mất rồi. Tôi chẳng
nhìn lên mắt mẹ để thấy mẹ buồn như thế nào vì không tiền mua quà cho
đứa con cưng. Có hôm mẹ tủi thân cứ nhìn tôi, ôm tôi mà khóc …
Nhưng
cũng có lúc, chiếc đòn gánh với tôi là cả một cơn ác mộng! Tôi nhớ có
lần đi hái trộm xoài non của bác Hai Trầu cạnh nhà. Bác Hai qua mét mẹ
và chuyện đã xảy ra … Tôi mới bước chân về đến cửa, mẹ tìm hoài không
thấy roi nên sẵn cây đòn gánh , mẹ phát vào mông tôi mấy cái. Dĩ nhiên
là mẹ phát nhẹ thôi vì chiếc đòn gánh thì to bảng mà mông tôi thì nhỏ.
Nhưng mà đau thấu trời xanh. Ghê thật là cái vị đòn làm bằng cây tre già
ngâm nước! Nó thấm vào thấu bên trong, đau và nhức buốt hơn mọi loại
roi nào khác. Tôi chỉ còn cách quỳ xuống đất nức nở mà xin lỗi mẹ vì đau
và sợ ăn đòn tiếp . ..
Tối
đó, mẹ vừa khóc vừa bôi dầu nhị thiên đường vào mông tôi đã nổi lên mấy
vết hằn đỏ. Mẹ dằn vặt mình vì đã giận đánh con. Tôi làm bộ quay mặt
vào tường không nhìn mẹ. Tôi giận, mẹ hỏi gì cũng không nói và thiếp đi
lúc nào không hay. Khi thức dậy vẫn còn thấy mẹ ngồi chằm chằm nhìn tôi,
nghẹn ngào: Mẹ đánh con bậy quá … Nhưng ai bảo con hư …Lúc ấy, với đôi
mắt nhạt nhoè, tôi chỉ muốn ôm mẹ mà khóc.Vì hờn, tủi thân hay còn giận
mẹ, tôi không biết. Nhưng tôi biết chắc một điều là mẹ yêu thương tôi vô
bờ bến!
Chiếc
đòn gánh của mẹ, với tôi còn là những kỷ niệm không thể nào quên! Khi
tôi đã lớn, nhà nghèo, mẹ hàng ngày trĩu nặng nó trên vai - khi thì gánh
phân, gánh gạo đi bán - khi thì gánh nươc , gánh hàng tảo tần nuôi tôi
ăn học. Những năm tháng còn là sinh viên, mỗi dịp nghỉ hè về quê, tôi
lại ra cầu sông Kênh đón mẹ đi chợ về. Nhưng mẹ giờ đã yếu lắm! Mẹ không
còn gánh nặng được nhưng phải cố, vì tôi. Hình hài mẹ nhỏ quắt lại, đôi
vai như muốn run lên theo bước chân, môi mắm chặt mỗi lần mẹ cố sức.
Duy đôi mắt mẹ thì không hề thay đổi! Đôi mắt vẫn ánh lên niềm hạnh phúc
và tự hào nhìn đứa con trai phổng phao, chững chạc sắp trưởng thành.
Tôi đứng lặng trên cầu, rơm rớm nhìn vào thân thể và đôi vai gầy guộc
của mẹ oằn xuống dưới mỗi bước đi …Tôi muốn lao vào ôm mẹ mình nhưng đã
không làm như vậy. Cho mãi đến tận bây giờ, tôi vẫn ân hận trách mình vì
điều ấy …
Ngày
ấy, mẹ vẫn thường nói vui: Chính nhờ chiếc đòn gánh của mẹ nuôi con ăn
học đấy! Mẹ mong khi mẹ không còn đụng đến nó nữa thì con đã trưởng
thành …Còn giờ thì vì con - mẹ đâu, nó đó …
…
Bây giờ tôi đã thành đạt. Sự nghiệp, công danh đến muộn nhưng cuối cùng
cũng đến. Mẹ mừng hơn ai hết. Con Lẻm ông ba tàu bán bánh bò ngoài cổng
chợ giờ là vợ sắp cưới của tôi. Ngày tôi lấy vợ, từ dưới quê mẹ lên
thăm. Xuống bến xe đón mẹ, tôi thật ngỡ ngàng khi mẹ cứ hi hoáy tìm một
vật gì để dưới gầm xe. Tìm mãi, sau cùng mẹ mới lôi được ra cây đòn
gánh! Thì ra thói quen, mẹ mua cau trầu mừng đám cưới tôi và cứ nghĩ sẽ
đến nhà tôi với đòn gánh trên vai và cặp quang sắt rỉ! Tôi buồn cười và
hơi bực bội về sự lẩm cẩm của mẹ. Ai đời lên đến thành phố rồi mà còn
đem theo nào quang nào gánh, dáng đi cứ tất bật, lo âu như ngày nào.
Ngoài việc mướn xe chở cau trầu, tôi còn phải kêu thêm một chiếc xích lô
chở riêng cặp quang và chiếc đòn gánh theo về vì không biết để đâu. Bảy
mươi tuổi, có khi mẹ lẩn thẩn rồi cũng nên.Tôi nhủ thầm như vậy …
Mừng
đám cưới tôi có mấy ngày, mẹ đòi về nằng nặc. Nhà không ai trông nom,
vườn tược, gà heo không ai chăm sóc, mẹ bảo thế! Hầu như đêm nào ở nhà
tôi mẹ cũng thức trắng, trằn trọc không ngủ. Mẹ lo những việc không đâu,
nào ai biết được. Thỉnh thoảng mẹ lại ngồi dậy, húng hắng ho. Tôi làm
sao dỗ giấc ngủ, lo lắng đòi mẹ uống thuốc nhưng mẹ bảo không sao. Me lo
chuyện rau mọc nhiều không ai cắt bán, lo gà vịt không ai cho ăn, lo
nước trong lu không ai gồng gánh … Đúng mẹ lẩm cẩm thật rồi!
Tôi
và con Lẻm mời mẹ ở lại luôn trên thành phố với vợ chồng tôi nhưng mẹ
nhất định không chịu. Mẹ ở không quen chốn đông đúc, ồn ào hơn nữa còn
phải chăm mộ bà nội, ba con dưới quê, ở lâu làm sao được, mẹ nói cái lý
của mẹ. Cái lý của các bà mẹ thì lúc nào cũng thuyết phục được bất kỳ
ai trên đời chứ chẳng phải riêng tôi …
Ngày
mẹ ra bến xe về quê ngoài quà mừng của vợ chồng tôi gửi bà con lối xóm
vẫn là chiếc đòn gánh đã lên nước theo cùng. Nhìn dáng mẹ tất bật, hối
hả, lòng tôi trào dâng niềm thương vô bờ bến nhưng biết làm sao giữ mẹ.
Đến lúc nầy, mẹ mới móm mém cười, chắc là muốn chúng tôi đừng buồn khi
chia tay:
-
Đó, con thấy không? Nhờ đem theo đòn gánh mà khi về, mẹ mới mang hết
mấy thứ quà con gửi cho lối xóm ... Không có nó, mình mẹ bê sao nổi!
Tôi
nhận ra mẹ mình có lý. Một đời mẹ tảo tần đắm đuối vì con với chiếc đòn
gánh cùng theo mẹ đi suốt bao năm trời gian khổ mãi cho đến khi con đã
trưởng thành vẫn còn mãi lo âu …
oOo
Rồi
mẹ tôi qua đời! Tuổi già và những căn bệnh triền miên không cho mẹ ở
lại cùng tôi mãi. Cuộc chia ly đớn đau cuối cùng rồi cũng đến! Trong nỗi
đau mất mẹ, tôi chỉ còn biết lặng người, xót tím tâm can.
Lúc
nhập quan, khi người ta đưa hình hài nhỏ bé, khô quắt của mẹ vào quan
tài, ngoài những bộ đồ cũ nát mẹ vẫn thường mặc khi còn sống cùng những
vật dụng thường dùng, tôi chợt nhớ đến chiếc đòn gánh đã đi theo suốt
đời cùng mẹ. Nó vẫn nằm đó, trong góc nhà kia, vẫn ánh lên thứ nước màu
đen tuyền với cái thân đòn hình như cong lên vì vất vả. Chợt nghĩ về
những ngày ấu thơ gian khổ, chợt nghĩ về tình yêu bao la, thắm thiết của
mẹ, tôi trào dâng nước mắt …
Tôi
nhớ đến lời mẹ tôi khi còn sống - mẹ đâu thì nó đó - chiếc đòn gánh ấy!
Và cố thuyết phục mọi người xin đưa cây đòn theo cùng mẹ sang thế giới
bên kia … Ai cũng cản tôi nhưng cuối cùng thì họ xiêu lòng. Vậy là trong
quan tài mẹ tôi lại có thêm chiếc đòn gánh đã từng một thời bôn ba cùng
mẹ.
Khi
mọi người ra về sau lễ tang, còn một mình ngồi bên mộ mẹ, tôi đã khóc
như chưa bao giờ được khóc như thế. Rồi cũng sẽ qua hết mọi khổ đau,
hạnh phúc, mọi cao sang, quyền quý kể cả những vụn vặt thấp hèn trên đời
nầy nhưng tôi biết, hình ảnh mẹ tôi và chiếc đòn gánh nhọc nhằn ngày
xưa sẽ theo mãi tôi đến suốt quãng đời còn lại …
Nguyễn Minh Phúc
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 05/Aug/2019 lúc 9:07am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22274 |
Gởi ngày: 08/Aug/2019 lúc 1:29pm |
Khói Lam Chiều
Mận cho thêm củi vào lò, ngọn lửa cháy bùng, nồi cá sôi bốc mùi thơm
nghe đói bụng, ngoại của Mận thích món cá trê kho tộ và nó cũng vậy,
người ta thường gọi là kho quéo, có thể để ăn được vài ngày dùng với cơm
nóng rất ngon, Mận nhắc nồi cá xuống và cho ấm nước lên nấu sôi để pha
trà cho ngoại, vừa chụm lửa vừa học bài, "Chao ôi, sao hôm nay mình ráng
học mà không có một chữ nào trong tâm trí cả, hay tại mình mừng quá nên
học không được, chắc vậy rồi!". Ngọn gió lớn thổi mạnh vào tấm vách lá,
Mận lấy miếng thiếc lượm ở trường học chắn lại không để gió thổi vào,
cái chái bếp muốn sập vì cây cột bị mối đục dưới chân, ngoại chặt cây
bằng lăng chống đỡ, vài ngày nữa có nhà mới rồi. Tiếng ho của ngoại làm
cho Mận lo âu, vái Trời Phật cho ngoại sống lâu trăm tuổi, có lẽ ngoại
cũng mừng rỡ chẳng kém chi nó, ông khỏi phải ngồi dậy mỗi khi mưa to gió
lớn, sẽ bớt lạnh lẽo khi ngọn gió đông về lùa qua khe hở của vách lá,
ngoại thầm cảm ơn mhững tấm lòng nhân ái đã giúp cho ông được một nơi ấm
áp. Mận mong sau này lớn lên được làm cô giáo dạy học cho trẻ em nghèo,
hình ảnh cô giáo dịu dàng đứng trên bục giảng là hình ảnh đã in sâu vào
trong tâm trí của Mận, nó ước ao được như vậy.
Trời đã ngả màu hoàng hôn, ông Hai Bạc bước ra ngoài, nhìn về hướng núi, đàn chim tung cánh bay về tổ, mây tím giăng ngang lưng trời, phía sau chái bếp, khói lam bay nhè nhẹ và tỏa dần trong không gian, ông nhớ tuổi thơ ở Đà Nẵng, những lúc ông thả diều bay cùng chiều với khói lam của ruộng ai đốt đồng, bất chợt ông thở dài buồn bã khi nhớ tới kỷ niệm xưa, con Mận cũng bước ra nơi hàng rào bông bụp, nó đưa tay nâng cánh hoa màu đỏ thắm rồi chúm môi cười, niềm vui tràn ngập trong lòng, nó tự ví mình như bông bụp, giản dị và bình lặng, giản dị như dòng suối hiền hòa chảy về sông mẹ La Ngà, bình lặng như quê hương quanh năm rợp bóng mát với những hàng điều xanh thẳm, ôi quê hương mến yêu nơi ta sinh ra và lớn lên. Gia đình bác Tư Mạnh khá giả vì có mấy người con đi nước ngoài, tuần trước các anh chị ấy về dẫn thêm mấy người bạn, khi đi chơi ngang qua nhà Mận, thấy căn nhà lá tồi tàn sắp sập, họ tò mò dừng lại, trong nhà có hai đứa con trai, thằng Minh 6 tuổi và thằng Mẫn 4 tuổi đang ăn sơ mít. Thắm, con bác Tư đến gần nói: - Sơ mít ăn đâu có ngon, bỏ đi. Thằng Minh lắc đầu: - Con đói bụng. - Sao con không ăn cơm? Thằng Minh thản nhiên: - Hổng có cơm. Một người trong nhóm hỏi: - Mít con hái ngoài vườn hả? Trái nhiều hôn, ăn hết rồi sao không hái trái khác mà ăn. - Nhà con đâu có mít, con lượm vỏ mít ở nhà ông Tư Mạnh. Thắm thấy lòng mình quặn đau, hồi sáng ba Thắm hái mấy trái mít Tố Nữ cho gia đình ăn, rồi bỏ vỏ mít ngoài sân, mấy đứa nhỏ lượm về ăn mót, Thắm hỏi: - Ba má con đâu? Thằng Minh vừa nhai sơ mít vừa trả lời: - Má con chèo xuồng đi bán chôm chôm bị chìm xuồng chết. - Còn ba con? - Hổng biết. - Con ở với ai? - Ông ngoại và chị Mận. Thắm và các bạn kéo nhau về, mỗi người một ý nghĩ, con đường đất đỏ ngoằn ngoèo, các cây mì cao lêu nghêu sắp đến ngày thu hoạch, ông Tư Mạnh giàu nhất ấp này, ông có chục mẫu mì, một mẫu chôm chôm và hai mẫu sầu riêng, các con ông đa số ở nước ngoài làm ăn khá giả, Thắm là chủ một tiệm nail sang trọng ở thành phố Atlanta, cô về nhà bàn với ông bà Tư phải giúp đỡ gia đình ông Hai Bạc, ông ngoại của Mận, cô gom được một số tiền của cô, của gia đình và mấy người bạn, tuần sau sẽ cất lại nhà cho ông Hai. Ông Tư Mạnh cho một bộ cây gáo vàng và một mớ cây khuynh diệp, để làm cột kèo, cô Thắm cảm thấy vui trong lòng vì mình thể hiện được tình làng nghĩa xóm. Trời về chiều, cô cùng các bạn ra vườn mít, những trái mít Tố nữ thơm phức treo trên thân cây mẹ, cô hái mấy trái chín rồi cùng các bạn đến nhà Mận. Ông Hai Bạc, có một đứa con gái duy nhất là cô Mai, bà Hai bị bệnh mất đi lúc Mai được ba tuổi, ông buồn bã bỏ xứ ra đi, trước khi lên tàu, ông nhìn lại lần cuối nơi chôn nhau cắt rún, từ biệt ngọn Ngũ Hành sơn, năm cụm núi quê hương, ông làm thân gà trống nuôi con. Theo lời hướng dẫn của một người đồng hương, ông lên Xuân Lộc sinh sống ở cái ấp nghèo khổ này, lúc trước nơi đây là một bãi đào vàng, dân tứ xứ lên đây rất đông, họ giành giựt cấu xé lẫn nhau để tranh giành từng mét đất, thời gian trôi qua mấy ai giàu vì đào được vàng, rồi lần hồi của thiên cũng trả địa, vàng ở đâu nữa mà tìm, họ rút lui lần hồi chỉ còn một số ít người ở lại nhận nơi đây là quê hương thứ hai.
Ông Hai Bạc bồng bế đứa con gái lên đây, che tạm cái chòi bên con suối, ông làm thuê cho ông Tư Mạnh, bất cứ việc gì ông cũng làm được, tới mùa điều ông xách giỏ đi lượm trái cho chủ vườn, làm tới chiều tối mới được nghỉ, lúc đó bé Mai được 5 tuổi, ông đi làm phải dẫn theo, tới mẫu điều nào ông cột võng cho nó nằm chơi, đến lúc con ngủ, lâu lâu ông chạy lại đưa võng vì sợ muỗi chích, mấy người làm chung ai cũng thương cảnh gà trống nuôi con, có người khuyên ông nên tìm một người đàn bà phụ ông săn sóc cho đứa nhỏ, ông lắc đầu nói khi nào con lớn sẽ tính đến chuyện đó. Hai Bạc tướng dong dỏng cao, hơi gầy, nước da sạm đen vì nắng gió, gian khổ, tính tình hiền lành ít nói, nên ai cũng thương mến, làm việc gì Hai Bạc cũng siêng năng chăm chỉ, không câu nệ trong công việc, không tham lam không rượu chè bài bạc, cho nên rất được lòng chủ đất, có rất nhiều người đàn bà muốn đến với Hai Bạc, nhưng vì nặng nợ con thơ nên ông không nghĩ đến tình cảm riêng tư. Thuở nhỏ Mai và cô Thắm học chung trường làng, Mai có gương mặt thanh tú, cười rất có duyên, được nhiều người cảm mến, đến năm 18 tuổi, Mai có chồng sanh được một đứa con gái là Mận, lúc Mận lên bốn tuổi thì người cha đi theo tiếng gọi của một phụ nữ khác, Mai một mình nuôi con, vài năm sau, Mai gặp một người đàn ông khác cho ra đời bé Minh, rồi người cha đó cũng quất ngựa truy phong, một mối tình cuối cùng tưởng êm ấm lâu dài, ai ngờ cha của bé Mẫn cũng cuốn tượng ra đi trong một đêm tối trời, một sự ra đi không buồn hẹn ngày trở lại, thế là một mình Mai ôm ba đứa con của ba người chồng họ Sở. Tới mùa chôm chôm chín, Mai bơi xuồng vượt suối đi bán, chẳng may đến dòng nước xoáy, bị nhận chìm xuồng và Mai mất đi bỏ lại ba đứa con thơ, lại một lần nữa ông Hai Bạc cưu mang mấy đứa cháu ngoại, hết cực vì con nay cực vì cháu, tuổi 50 mái tóc đã bạc màu sương gió vì cuộc sống quá khắc khổ, ông mãi lo cho con cháu mà quên đi cái chuyện bước thêm bước nữa, ông thở dài thườn thượt, nỗi buồn xâm chiếm tâm hồn, vợ mất, con mất, cuộc đời còn gì để nói. Sáng sớm con Mận thức dậy xuống bếp soạn bao để chuẩn bị đi mót củ mì, hồi tối nó học bài tới khuya nên sáng dậy không nổi, ngáp tới ngáp lui, nó chồm lấy hai cái túi đệm, sứt quai hết một cái, vội đi kiếm dây cột đỡ, lát nữa cho hai đứa em cùng đi mót mì. Mận ra sau nhà ôm bao mì đã phơi được hai nắng, đổ ra sân phơi thêm vài giờ nữa là đi bán được rồi, chiều nay ra ngã ba cân cho lái buôn là mua được vài ký gạo, Mận nhớ hồi năm ngoái, có bữa gạo không đủ nấu cơm phải nấu cháo, hai đứa nhỏ ăn không được no nên khóc đòi ăn thêm, Mận sợ ông ngoại thức giấc, trời mưa lâm râm nó lấy nón đội đi hái trộm chôm chôm về cho em ăn đỡ dạ, ăn xong con Mận gom hột và vỏ bỏ vô bao ny lông, cột thêm cục đá rồi quăng xuống suối phi tang vì sợ ông ngoại biết sẽ la rầy. Ông Hai Bạc coi ngày tốt để cất nhà rồi, chỉ còn ba hôm nữa là lên đòn dông, con Mận trông cho mau có nhà mới ở để tối học bài không sợ mưa to gió lớn làm tắt ngọn đèn dầu. Thằng Minh thức dậy dụi mắt: - Đi mót mì chưa chị ? - Chuẩn bị đi, gọi thằng Mẫn dậy, trưa rồi. Đứa lớn cặp nách cái bao, hai đứa nhỏ mang túi đệm bước xuống ruộng mì, đi đến mấy chỗ mà người ta đã nhổ xong, hai đứa cúi xuống lượm lia lịa những củ mì nhỏ bằng ngón chân cái, rồi nhanh nhẹn bỏ vào túi đệm, chúng miệt mài góp gió thành bão, con Mận thấy có mấy củ mì to nằm dưới đất nó chạy lại định lấy...... - Ê, của ông đấy, đừng phỗng tay trên nha con. - Ủa, ông cũng đi mót mì nữa hả? Ông già nhăn nhó: - Mầy đừng nói đi mót mì nghe xấu hổ, mà nói là đi nhặt mì. - Ông nói gì con không hiểu. - Tao nói tiếng Việt Nam chớ có nói tiếng Tây, tiếng Tàu gì đâu mà mầy không hiểu, cái con này vớ vẩn. Mận cười bỏ đi chỗ khác, mặt trời đã lên cao, nó thấy hai đứa em mặt mày đỏ ké, mồ hôi ướt đẫm lưng áo, cố kéo lê chiếc túi đệm vào bờ, Mận gọi hai đứa chuẩn bị đi về, nó vác bao mì về trước rồi trở lại xách hai túi đệm. Thằng Minh thằng Mẫn lẽo đẽo theo sau, hai người đàn bà đi chợ về ngang thấy ba đứa nhỏ đi lơn tơn, vẻ mệt mỏi nên dừng xe lại, người ngồi sau lấy trong giỏ ra ba miếng chuối chiên, chia cho mỗi đứa một cái, thằng Mẫn cầm lấy nhai ngấu nghiến cười đưa hàm răng sún, con Mận cúi đầu cảm ơn rối rít, người đàn bà ngồi trước nói: - Đưa hai túi xách cô chở về cho, mấy đứa đi nhanh lên, trời nắng quá. Hai người đàn bà vừa chạy vừa nói chuyện. - Đàn ông như con gà trống, đạp cồ xong rồi bỏ. - Ông Thiên Lôi ở đâu mà sao không đi kiếm 3 thằng ăn chạy đó. Ngôi nhà lợp tôn, vách cây được cất lên thay thế cái chòi tranh mục nát, ông Hai Bạc không biết nói gì hơn, cứ luôn miệng cám ơn hết người này tới người nọ, chốc chốc ông đưa tay lên gạt nước mắt, sự cảm động khiến ông không nói nên lời, cô Thắm mua hai cái bàn nhỏ để cho con Mận và thằng Minh ngồi học, cô cho vô đường dây điện thay thế ánh đèn dầu leo lét, và cô nhận đứa con của người bạn cùng xóm cùng trường năm xưa làm con nuôi. Tám năm sau, Mận là học sinh giỏi của trường tỉnh, nó muốn thi vào Đại học Sư phạm theo đúng nguyện vọng của mình, nhưng cô Thắm bảo nó ráng thi vào trường Đại học Y dược, và con Mận đã làm cho người mẹ nuôi hài lòng với thành tích học vấn của nó, Mận ở nhà, được sự tài trợ của cô Thắm nên cuộc sống cũng không đến nỗi nào nghèo khổ, nó ráng dạy học lại cho hai thằng em, và khuyên lơn đủ điều, sự cố gắng chuyên cần sẽ dễ dàng mang đến thành công, khi ra đời, kiến thức sẽ giúp cho mình rất nhiều trong cuộc sống. Ông Hai Bạc ngồi uống nước trà thấy mấy đứa cháu ngoại đứa nào cũng học giỏi, chúng biết vươn lên từ cuộc sống nghèo khổ, ông rất vui mừng, bây giờ ông mới rỗi rảnh ngồi ôn lại cái quá khứ hẩm hiu của mình, cái nghèo khổ từ quê hương miền Trung nắng cháy tới vùng đất miền đông Nam bộ. Từ cảnh đói nghèo đến đủ ăn, biết bao nhiêu nỗi thăng trầm, có lần thằng Minh hỏi sao ông ngoại không đi tìm bà ngoại cho đỡ buồn, ông mỉm cười nói khi nào các cháu thành gia thất hết thì ông ngoại mới kiếm bà ngoại, thằng Minh cười toe toét nói lúc đó răng rụng hết còn kiếm gì nữa, ông cũng cười nói răng rụng kiếm theo răng rụng, hai ông cháu cùng cười ha hả làm con chó đang ngủ dưới chân giường chạy ra sân sủa vang lên. Hai vợ chồng Mận mua nhà ở cạnh cô Thắm để được gần gũi chăm sóc cô, và mở phòng mạch cũng gần đó, chồng Mận là bác sĩ chuyên khoa tim mạch được sự giới thiệu của cô Thắm nên hai người thành hôn với nhau, và Mận sang Mỹ do sự bảo lãnh của chồng, bên Việt Nam Mận cũng tốt nghiệp ngành Nha khoa. Mận muốn bảo lãnh ông ngoại qua Mỹ để hưởng cuộc sống nhàn lạc và tiện việc chăm sóc, nhưng ông không chịu đi, ông không muốn xa rời quê hương thứ hai này, cũng nhờ nơi đây nên con cháu mới thành đạt, ông lúc nào cũng muốn nhìn khói lam chiều bay tỏa nhẹ trên không gian, mặc dù trong nhà có cái bếp gas, nhưng không sử dụng, chỉ thích nấu nước bằng bếp củi, không được nhìn khói lam ở quê nhà thì cũng được nhìn khói lam nơi đây, qua Mỹ làm gì có khói lam để mà nhìn, có người nói ông còn quyến luyến cái nghèo khổ. Nghèo khổ đã quen rồi không quyến luyến sao được, có gì sung sướng cho bằng khi đứng nhìn cảnh hoàng hôn, nhìn khói lam chiều nơi chái bếp bay lên không trung mà thả hồn mình về nơi xa xưa, có mấy ai hiểu được tâm trạng của người già luôn sống trong quá khứ. Vợ chồng thằng Minh ở Sài Gòn cũng gọi ông lên ở với nó, ông không đi, nó bây giờ là Hiệu Trưởng một trường trung học ở Quận Ba ít có thời gian để về thăm viếng, thằng Mẫn cưới vợ rồi ra riêng mua nhà ở Đồng Nai để quản lý một công ty xuất nhập khẩu hột điều, cuối tuần là vợ chồng con cái về đây thăm ông và nó cũng thường hay trách cái thằng anh Hiệu Trưởng ăn mót sơ mít lơ là viếng thăm ông ngoại.
Cả ba đứa cháu đứa nào cũng muốn kéo ông về với nó, nhân lúc con Mận về nước, ba đứa đến thăm và năn nỉ ông về ở với một trong ba đứa, ông không nói, xuống bếp lấy một mớ củi chụm nấu nồi chè rồi ngoắc ba đứa ra sân, chỉ làn khói lam đang tỏa nhẹ trên chái bếp, ông nói: - Khi nào nhà các cháu có làn khói đó thì ông sẽ về ở. Ba đứa cháu ngoại sững sờ nước mắt rưng rưng, mà con Mận là khóc nhiều nhất vì nó nghĩ rằng không thể nào quên đi cái cảnh nghèo khổ năm xưa, ông ngoại muốn giữ mãi hình ảnh nơi đây, chính ngôi nhà này đã làm nên sự thành công vẻ vang của ba đứa, Mận nhìn hai thằng em lỳ lợm cũng đang sụt sùi. Trên chái bếp làn khói vẫn còn đó. Lợi Trân |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22274 |
Gởi ngày: 12/Aug/2019 lúc 2:19pm |
Ngọn Đèn Trước Gió
Bà Hai lấy khăn thấm những giọt nước mắt chảy dài trên khuôn mặt già nua, khắc khổ khi người con dâu trưởng buông tiếng:
Mùa
hè bà mới ra đây ngồi, suy ngẩm về quá khứ, từng thời gian rồi từng
thời gian lần lượt đi qua trong tâm trí, mảnh vườn của ông bà ngoại
thằng Hiếu để lại cho bà, vợ chồng nó cũng bán đi để mua vàng vượt biên,
bà đau lòng lắm nhưng không giải quyết được gì, bà không muốn rời xa
nơi chôn nhau cắt rún, rời xa kỷ niệm, lúc bà còn là một cô thôn nữ nổi
tiếng cấy lúa giỏi ở Xã Tân Hòa, Gò Công . Bà chuyên cấy lúa cho đám
ruộng của ông bà Tuần Phủ, còn ông Hai nhổ mạ bên ruộng của ông Thôn
Hào, hai thửa ruộng gíáp ranh nhau, có bửa ông Hai thấy bà ra ruộng sớm,
ông bèn cất tiếng hò:
Bà Hai thương con dâu như con ruột, nhưng cô con dâu đó không thương bà mà chỉ biết lo cho gia đình cha mẹ ruột, không ngó ngàng gì đến bà con thân thuộc bên chồng, có lẽ mình không có phần nhờ dâu, bà tự an ủi như vậy. Nhìn lên bàn thờ, ông Hai ngồi chiểm chệ trên bộ ghế giữa, mặc áo dài khăn đống, hình chụp lúc đám cưới thằng Hiếu, lo đám cưới cho con xong, một tháng sau ông ngã bệnh, rồi theo ông bà về bên kia thế giới luôn, bà buồn rầu ốm o gầy mòn, ít cười ít nói, vài tháng sau vợ chồng thằng Hiếu đòi bán đất bán vườn để vượt biên. Bà không muốn đi vì còn mồ mả ông bà tổ tiên phải bám víu, vợ chồng nhất định đòi bán cho bằng được, sau cùng bà cũng phải chìu theo, bởi bà thương con và cũng sợ ở lại một mình, bệnh đau không người thang thuốc, bà cũng muốn biết tin của thằng Thảo, nó đang tắm sông rồi chiếc tàu nào đó cặp bến cây mù-u xin nước rồi vớt nó đi mất, bà không thể nói lên được nỗi lòng của một người mẹ mất con, bà mất ăn mất ngủ ra vào như người không hồn kể từ lúc đó. Vợ chồng thằng Hiếu hối thúc, viện đủ lý do, bà lo âu, đi thì không đành mà ở cũng không được, rồi bà chấp nhận sự ra đi một cách miễn cưỡng. Tàu cặp bến mù-u để đón những người vượt biên, bà bước xuống tàu vào một đêm ba mươi tối trời, ai cũng vội vã cuống quýt, duy chỉ có bà là điềm tỉnh, nhìn những hàng cây mù-u quen thuộc, đang xa dần dưới ánh sáng lờ mờ của những vì sao - vĩnh biệt mảnh đất quê nhà - bà chép miệng thở dài. Gần nửa tháng trời lênh đênh trên biển, cuối cùng tàu cặp bến đảo Bidong, Malaysia. Có lẽ ông Hai dẫn dắt cho thằng Thảo gặp lại bà trên đảo để mẹ con trùng phùng. Bà không cầm nổi nước mắt khi gặp lại thằng con trai sau bao năm trời cách biệt. Thằng Thảo bây giờ là một thanh niên cao lớn, lực lưỡng, có cái giọng cười giống hệt tía nó, nhớ ngày nào nó ra sông lội bì bõm, bơi theo mấy vạt lục bình để hái mấy chùm bông màu tim tím, chạy một mạch về nhà rồi băng qua mấy liếp hành sang nhà con Mận mà cho mấy cái bông, cái thằng mới bây lớn mà đã biết lấy lòng phụ nữ.
Sang
Mỹ, thằng Thảo là một đứa lanh lợi, tháo vác, nó mua nhà rồi có vợ có
con, cuộc sống ổn định và có phần khá giả, chấm dứt cảnh vác chài mang
đục đi hết bờ kinh này đến con rạch nọ để chài cá, không còn quanh quẩn
mấy cây mù-u hái trái về chọi lộn với thằng Chơn thằng Chất con chú sáu
Mẹo. Con bà mau lớn nên người, bà rất vừa lòng, duy chỉ có cô con dâu,
sanh đẻ ở Mỹ, nói tiếng Việt không rỏ ràng, coi thường mẹ chồng, bà muốn
sang thăm cháu nội, nhưng cô con dâu không thích bà đến nhà, có lẽ
thấy bà già nua, quê mùa, bệnh hoạn, nay ốm mai đau, lại thêm cái bệnh
ho mãn tính, có lần bà chống gậy sang chơi, mấy đứa cháu ở trên lầu mà
con dâu không cho xuống, bà hỏi thì được trả lời:
Cô
con dâu nói giọng lơ lớ tiếng mẹ đẻ không rành, bà lấy làm khó chịu.
Tuy bà không gần gũi hai đứa cháu nội nhưng bà thương chúng nó vô cùng.
bà muốn kể cho bọn trẻ biết về nguồn gốc của chúng nó, về đất Gò Công
nước mặn, nơi tổ tiên ba đời sinh sống từ Xã Tân Hòa đến biển Tân Thành,
bà muốn nói nhà ông bà nội của các cháu nằm ven con sông nhỏ, sau hè có
cây chùm ruột ngọt mà mấy đứa nhỏ hàng xóm đứa nào cũng thích leo trèo
hái trái, trong đó có thằng Thảo, cha của các cháu đã từng bị con ong vò
vẽ chích tuột xuống không kịp, ôm đầu la làng, nhà ông bà nội các cháu
có cây điệp vàng trước cửa, bông điệp đơn sơ, bình dị mà cha của các
cháu hay hái chưng trên bàn thờ vào những ngày giỗ tổ tiên, nhà ông bà
nội các cháu có hai hàng cau dài từ nhà ra cổng, mà cha của các cháu hay
lấy ná bắn những con chim tu hú rớt xuống đất rồi vỗ tay cười khoái
chí, nhà ông....... Bà nói tới đó nghe ran ngực, cơn ho kéo đến cắt đứt
dòng suy tưởng êm đềm, tiếng Hiếu vang lên xen lẫn tiếng cằn nhằn của
con dâu:
Bà nghe rõ giọng cô nghẹn ngào khi ca hai câu cuối, ánh trăng trung tuần sáng vằng vặc soi rõ khuôn mặt cô Tư Đậu Rồng đang say sưa vô hai câu vọng cổ, cô mê hát quá nên chồng cô theo vợ bé, bỏ lại 3 thằng con trai cô nuôi, sau này con cô lớn lên có gia đình và theo quê vợ, thằng lớn ở Đồng Tháp Mười, thằng kế ở Đồng Nai, thằng Út ở tận Cà Mau, ba đứa ba nơi, ít có đứa nào về thăm, cô sống quạnh quẽ trong cái chòi ở mé ruộng. Có những đêm mưa dầm, ảnh ương, ếch nhái kêu nghe ảm đạm, vách lá không đủ ngăn gió, nên ngọn đèn dầu trên bàn tắt lịm, nhìn cái chỏng tre kê sát vách bỏ không, cô nhớ mấy thằng con trai, đứa đòi nằm trong, đứa đòi nằm ngoài, những lúc trời mưa dầm như vầy thế nào tụi nó cũng đem về vài xâu ếch nhái, nay tụi nó theo quê vợ hết rồi, cái chòi này vốn đã trống trải nay càng trống trải hơn, cô nằm gát tay lên trán trong bóng tối, khẻ ca nho nhỏ đủ cho mấy con rắn mối nghe với sự phụ họa của con tắc kè ẩn trong vách lá:
- Những cánh chim đủ sức tung trời
Cuộc
đời cô buồn quá nên giọng ca nghe u-uẩn một nỗi niềm. Mấy người bạn
hàng ở chợ Gò Công khen cô có giọng ca hay và cũng thắc mắc không hiểu
vì sao cô có cái tên cô Tư Đậu Rồng. Cô có hai công ruộng, một công cô
cấy lúa trung vụ, còn một công cô lên liếp trồng đậu rồng, cô chuyên
trồng đậu, hể có chỗ nào trống là cô bỏ hột đậu rồng, tới tháng 10 dây
đậu rồng có trái, cô hái đầy hai thúng rồi gánh ra chợ Gò Công bán, cô
nhờ trồng đậu rồng nên có tiền mua hến về cho một bầy vịt tàu ăn và mua
cám cho con heo nái sắp đẻ, từ đó cô có biệt danh: Cô Tư Đậu Rồng.
Bà Hai thì không thể nào quên được cô Tư, nguời bạn láng giềng tốt bụng, bà muốn trở về quê cũ thăm lại mồ mả
ông bà, nhưng không thể nào đi được, lực bất tòng tâm, bây giờ bà quá
già, trở thành người phế thải và con cháu không cần sự hiện diện của bà
trong ngôi nhà này nữa, Hiếu và Thảo không còn như ngày xưa, các con bà
có một thế giới riêng, thế giới ấy hiển nhiên không có sự hiện hữu của
bà. Mỗi độ mùa hạ về giàn mướp lại có mặt và chỉ có giàn mướp là nguời
bạn thân thiết nhất. Bà chợt nghe tiếng mở cửa, Hiếu từ ngoài bước vào
và đi ra cửa sau đến bên bà: Tiếng kêu thảng thốt của Hiếu và Thảo trong nghẹn ngào, nước mắt lưng tròng, trong lúc đó hai người con dâu ngoe nguẩy bỏ vào trong...
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 13/Aug/2019 lúc 10:45am |
Nhớ Mẹ Mẹ yêu ơi, nhà mình nay vắng vẻ Mặt trời lên, mái tranh còn sương ướt Ngày cuối tuần, chẳng ai chờ ai rước Đêm chong đèn, ai khâu từng mối chỉ Trước nhà mình hoa Tết đua nhau nở Làm vợ ba, mẹ gánh gồng cực nhọc Ba trở về, các con vừa khôn lớn Lễ Vu Lan áo con cài bông trắng Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 13/Aug/2019 lúc 11:05am |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22274 |
Gởi ngày: 14/Aug/2019 lúc 3:26am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 15/Aug/2019 lúc 7:51am |
Chồng cũ của Mẹ
Hai người đàn ông trong cuộc đời mẹ tôi đã đi về với đất. Món quà họ để lại
cho tôi là câu chuyện đời về cách sống, cách yêu thương, cách cho, và
cả cách quên...
Mẹ và bố tôi đến với nhau khi cả hai cùng có một “tập” riêng, chỉ khác là vợ cũ của ông mất sớm, còn chồng cũ của bà thì còn. Có lần mẹ tâm sự, thực ra giữa mẹ và người chồng trước vẫn thương nhau lắm nhưng phía đằng chồng quá quắt đến mức khiến họ không thể sống cùng nhau, mẹ bê hai đứa con nhỏ về với bà ngoại và mấy năm sau mẹ gặp bố tôi để nên vợ nên chồng. Chia tay rồi nhưng các cụ văn minh lắm, ông với bố mẹ tôi đã trở thành những người bạn thân hữu. Chồng cũ của mẹ sống rất tự do, có một nghề cầm tay rất chắc - làm thủ công mỹ nghệ. Nên cuộc đời của ông là những chuyến đi, được làm nghề mình thích và sống với cuộc sống tự do xê dịch của chính mình. Ông là một người thợ rất tài hoa, vui tính, nên ông đến vùng nào người ta cũng đều quý và đặt hàng. Ông đi hết vùng này sang vùng khác, khắp cả dải đất miền Trung nắng lắm, mưa nhiều. Khi ông còn sống, tôi thấy cứ khoảng ít tháng, ông lại về nhà tôi chơi. Ông uống rượu với bố, và hai người đàn ông thường ngồi ăn cơm mâm trên, nói những chuyện thân mật. Mẹ và các con ngồi ăn mâm dưới. Bố và ông được biết như hai người tri kỷ. Hai người đàn ông có thể đối ẩm, đánh cờ và nói những chuyện đời rất hợp. Sau này tôi hỏi bố, trong câu chuyện của hai người, có bao giờ nói về mẹ không, bố trả lời “không”. Bố bảo, cả hai người đàn ông đều hiểu một phụ nữ lấy hai người đàn ông, thì có gì để hai người đàn ông đó phải nói nữa? Vì nói gì bây giờ, ông thì hai, nhưng bà chỉ có một, có nói cũng có thành được hai bà đâu! Bố tôi làm mộc, cũng là một thợ mộc nổi tiếng của vùng, khách đến đặt hàng nhiều. Khi khách thấy có một ông đan hàng thủ công mỹ nghệ trong nhà, họ cùng đặt hang cho ông, hai ông cùng nhau, ông đan ông đục. Có thời điểm hàng nhiều, ông ở nhà tôi rất lâu. Hai ông, người đục người đan, thỉnh thoảng cùng nhau hát. Cũng nghe nhiều lần bố tôi tính làm mai cho ông vài cô trong vùng, nhưng ông không chịu. Ông nói, đời ông thích đi, lấy vợ làm gì cho vợ con khổ. Ông đi khắp nơi. Mỗi vùng ông tá túc ít tuần, rồi lại hành trình khăn gói. Ông chọn nhà tôi là điểm trở về. Mỗi lần về, ông mang rất nhiều đặc sản nơi ông đến để thết đãi cả nhà. Mẹ tôi nhớ một chi tiết, trước khi sinh anh trai tôi, ông đoán được ngày sinh, nên dù đang ở xa, ông cũng tức tốc về. Ông mang theo một bao gạo to và một túi cá, vì ông biết thời đó nhà tôi thiếu thốn lắm. Ông nói với bố: “Anh ướp muối chỗ cá này và để gạo trên cao kẻo mốc. Thằng này con ông nhưng là con tôi. Chăm sóc con tôi cho tốt”. Hai ông cười khà khà, chẳng gợn tí ghen tuông. Lần đó, ông đi rất vội, nhưng không lâu sau ông lại quay về. Khi tôi lớn, có lần tôi hỏi mẹ tại sao mẹ và ông lại tan vỡ. Mẹ đã khóc và nói, đó là nỗi ân hận của mẹ. Ngày đó, khi ông bị phát bệnh trầm cảm, nhà đằng nội chiếm hết đất đai nhà cửa và đuổi mẹ đi, nên mẹ đành lòng dứt áo. Khi ông khỏi bệnh đi tìm mẹ, thì mẹ đã có bố tôi rồi, tôi thực sự cũng không biết lúc đó họ thế nào khi gặp lại. Có những điều thuộc về người lớn, nằm trong quá khứ, con cái không nên lục lại. Chỉ biết rằng, mẹ có nói với bố về những gì xảy ra. Chính bố là người muốn chồng cũ của mẹ về nhà chơi như một người thân. Họ đã vượt qua những trở ngại cuộc đời và tình đời, để hồn nhiên sống như những người bạn. Mà đã bạn thì phải tốt với nhau, và phải hiểu được những chân tình của nhau. Thế là từ đó, nhà tôi có thêm một thành viên. Đến giờ, tôi cũng chưa thể lý giải được tại sao họ, những người mà học thức không cao, mà có thể xử sự được như thế. Có thể vượt qua được nhiều thứ, để sống trong trẻo đến như thế. Cả đời ông rong ruổi. Ông nói, cứ đi đi, chết thì có người đóng quan tài cho rồi (hàm ý là bố tôi đóng), còn người đội khăn tang thì không cần thiết lắm, vì sống để thương là đủ, chứ sống không thương thì chết có khóc cũng đâu có nghĩa gì. Rồi một ngày ông mất, ngay khi ông về lại quê ông. Mẹ là người phụ nữ đội khăn xô, trong cái đám tang vắng vẻ, lành lạnh ấy. Tiễn ông đi rồi, có một người đàn ông ngồi lặng lẽ một thời gian, rất lâu. Tôi hiểu sự im lặng ấy, sự im lặng của một người mất đi vĩnh viễn một người bạn tốt, một người tri kỷ. Và rồi thời gian trôi đi, bố tôi cũng như ông, đi đến cái đích của hành trình định mệnh mà đời người ai cũng phải đi đến đó. Hôm nay, ngồi viết những dòng này, cũng để nhớ đến hai thành viên quan trọng trong gia đình tôi và cũng là hai người đàn ông trong cuộc đời mẹ tôi đã đi về với đất. Như một lời cảm ơn người đó đã tặng về một câu chuyện đời về cách sống, cách yêu thương, cách cho…, và cả cách quên. Có những điều đẹp hơn cả tình yêu tồn tại cùng tình yêu, mãi mãi...
Hoàng Nguyên Vũ |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22274 |
Gởi ngày: 17/Aug/2019 lúc 1:09pm |
Đi Hoang
Ngày sung sướng nhất của mẹ là ngày được cha bảo lãnh cho sang
Mỹ. Tội nghiệp mẹ, lấy cha tôi từ năm mười tám tuổi, mẹ ở với cha được
có hai năm thì xảy ra biến cố lịch sử kinh hoàng. Tháng Tư 1975, mẹ có
mang tôi được sáu tháng, cha tôi trước đó mấy tuần, đi công vụ ra Phú
Quốc rồi bị kẹt luôn ở đó. Khi Dương Văn Minh đầu hàng, không có tàu về,
ông đành theo chân đoàn người nhốn nháo lên máy bay, bay thẳng ra đảo
Guam.
Cha mẹ tôi thất lạc nhau từ đấy. Tôi ra đời không được thấy mặt cha, mẹ vất vả nuôi tôi một mình, gia đình bên ngoại đã di tản hết, mẹ nhất định ở lại chờ cha, nào ngờ ông đi biệt tích. Đáng thương cho mẹ, người thiếu phụ mới hơn hai mươi tuổi, từ nhỏ sống trong nhung lụa, nay bị vứt ra ngoài đời với đứa con còn trứng nước. Mẹ can đảm ngược xuôi bán buôn, nuôi tôi lớn lên. Làn da trắng nõn khi xưa của mẹ bây giờ trở nên rám nắng, tóc mẹ khô vì gió sương, nhưng mẹ còn đẹp lắm. Tám tuổi, tôi đã bắt đầu hiểu biết, tôi có thể nhận ra những ánh mắt si dại của những người đàn ông khi tới lui tiếp xúc với mẹ, có khi vì công việc, có khi chỉ là cái cớ để gặp mặt. Trong số những người tới lui, có cả mấy ông cán bộ cao cấp, một ông bác sĩ, một ông giáo sư… Nhưng mẹ không chú ý đến ai cả, mẹ khéo léo tránh né, đôi khi phải sợ hãi lẩn trốn. Hẳn là tình mẹ yêu cha sâu đậm vô cùng, nên mẹ mới vượt qua được mọi cám dỗ, một lòng chung thủy với người chồng mất tích. Mười năm chờ đợi mỏi mòn, ngày nhận được tin cha tôi còn sống và đang ở Mỹ, mẹ mừng chảy nước mắt, thế rồi giấy bảo lãnh, giấy xuất cảnh và sau cùng là ngày đoàn tụ. Chuyến máy bay chở hai mẹ con tôi đã hạ cánh xuống phi trường Los Angeles lúc 12 giờ trưa. Bỡ ngỡ theo chân đoàn người vào bên trong, làm thủ tục nhập cảnh xong xuôi, hai mẹ con tôi chờ cha tới đón, với vẻ nôn nao không thể tả. Chuyến bay dài không làm mẹ mệt mỏi, hy vọng làm mắt mẹ long lanh, sung sướng làm má, môi mẹ đỏ hồng. Tóc uốn kiểu mới, mẹ mặc một cái áo đẹp nhất màu xanh da trời là màu cha vẫn thích. Cả năm, cả tháng trước, mẹ nói liên miên về người chồng tuyệt vời, về người cha có tránh nhiệm, về những lời hứa hẹn năm xưa, và những dự tính tương lai… – Rồi đây con sẽ có cha, không sợ ai bắt nạt nữa. Cha con sẽ thương yêu con, lo cho con, con sẽ được ăn học tối nơi tới chốn, và sẽ có một tương lai tốt đẹp. – Còn mẹ sẽ không phải vất vả lo kiếm sống nữa, mẹ không còn phải lo lắng sợ hãi đủ thứ như trước đây. Hai mẹ con mình sẽ rất hạnh phúc, rất sung sướng… Tôi háo hức thêm vào. – Dĩ nhiên rồi! Mẹ cười vui vẻ. – Có phải ba nói nhà ba có vườn hả mẹ? – Phải nói là nhà mình chứ sao lại nhà ba? gia đình mình sắp đoàn tụ dưới một mái nhà rồi. Ừ, ba nói nhà không rộng lắm nhưng có một cái vườn có trồng hoa và còn nhiều đất trống. – Nếu vậy mình sẽ trồng một cây ổi xá lỵ, và một cây nhãn nghe mẹ? Mẹ âu yếm củng nhẹ một cái vào đầu tôi: – Mày chỉ nghĩ đến ăn… Còn mẹ, mẹ thích trồng vài cây bông sứ… – Thì trồng cả ổi, cả nhãn lẫn bông sứ. – Ừ để mẹ xem, nếu còn đất mẹ sẽ làm một giàn mướp. Cha con rất thích ăn bông mướp xào với thịt bò. – Con lớn rồi, đi học về con sẽ phụ với mẹ làm bếp. – Không cần, con cứ lo học cho giỏi là được rồi. – Nhưng mẹ sẽ bận lắm đó! – Có gì mà bận? bây giờ mẹ không phải buôn bán nữa, ngày ngày chỉ có việc lo cơm nước cho hai cha con. – Nhưng mẹ sẽ đẻ em bé nữa chứ, có em mà không bận à? – Con quỷ này! mới tí tuổi đã xen vào chuyện người lớn. Mẹ đỏ mặt mắng yêu, bà làm mặt nghiêm, nhưng mắt bà sáng lên một niềm vui kỳ dị. Cứ thế, kẻ thêm người nếm, mẹ phác hoạ, con tô màu, hai mẹ con tha hồ vẽ mộng, và bây giờ cái mộng ấy sắp tới gần lắm rồi. Mẹ sốt ruột nhìn đồng hồ, sau cùng cha tôi cũng xuất hiện, trễ hơn ba tiếng. Từ xa đi tới một người đàn ông tuổi trạc tứ tuần, người cao dong dỏng, mặc bộ đồ vest màu xám, tay cầm chùm chìa khóa. – Cha con đó! Mẹ vội vã nói. Tim tôi đập loạn, còn mẹ đứng bật ngay dậy, run rẩy nghẹn ngào, trông bà lảo đảo như người sắp té. Tôi tưởng cha tôi sẽ chạy nhanh tới, và mẹ sẽ ngả vào đôi tay dang rộng của ông. Nhưng tôi lầm, cha tôi không có vẻ gì vội vã cả, ông lừ đừ tiến tới, môi nở một nụ cười bình thản: – Hai mẹ con đợi lâu chắc sốt ruột lắm hả? Ông nhìn mẹ giải thích, anh còn phải giải quyết cho xong vài công việc của sở, trước khi nghỉ phép một tuần để lo cho mẹ con em. Bây giờ ông mới quay sang tôi ngắm nghía: – Nga đây hả? Trời ơi! con gái tôi xinh quá, lại đây với cha đi con! Mặc dù giọng cha có vẻ nhiệt tình, nhưng ánh mắt của ông lạ lùng lắm, vừa có vẻ lo lắng băn khoăn, vừa có vẻ xa lạ khiến tôi không dám chạy a lại, nhào vào lòng ông, ôm thật chặt, và ông sẽ nhấc bổng tôi lên hôn hít như tôi vẫn tưởng tượng. Tự nhiên tôi thấy hụt hẫng chới với, bao nhiêu hy vọng, háo hức lúc ban đầu bỗng dưng xẹp cả xuống, tôi lặng lẽ bước tới, cúi đầu lí nhí nói: – Thưa ba… Và tôi oà khóc. Bàn tay cha đặt trên vai tôi rơi xuống, ông nhìn tôi ngạc nhiên. – Chắc nó cảm động. Mẹ nói, mắt bà cũng đỏ hoe. – Thôi đi về, đừng khóc ở đây kỳ quá.. . Cha nhăn mặt, hình như những giọt nước mắt của hai mẹ con tôi làm ông xấu hổ, ông kéo mẹ đi nhanh ra cửa. Tôi lủi thủi theo sau hai người và mấy cái va li to tướng, đi về vùng đất mới, bắt đầu một cuộc đời mới. Mấy ngày đầu, cha tôi thật vất vả, chạy ngược chạy xuôi lo đủ thứ chuyện, Nhưng rồi tuần lễ bận rộn cũng qua nhanh chóng, chiều Chủ Nhật, ông nói với mẹ: – Thứ Hai phải đi làm lại rồi, từ nay chỉ có cuối tuần anh mới về nhà. Mẹ chưng hửng: – Sao lại thế? ngày thường mình không về nhà thì về đâu? Cha đáp trơn tru, không lúng túng, dường như đã sửa soạn từ trước: – Anh ăn ở luôn trong sở. Mẹ hỏi có vẻ lo lắng: – Sở mình làm có xa đây không? – Xa lắm, cả mấy trăm cây số lận. – Thế sao mình không thuê nhà ở gần để đi làm cho tiện? – Ồ không được đâu. Cha quay mặt đi chỗ khác, tránh không nhìn mẹ, chậm rãi nói tiếp, nơi đó đắt đỏ lắm, lương thơ ký kế toán ba cọc ba đồng của anh không đủ đâu. Mẹ con em ở tạm đây vậy, mai mốt khá lên sẽ hay. Cái ngày khá lên đó không bao giờ có, nên mẹ tôi vẫn sống kiếp đợi chờ như một người vợ không chính thức, một người tình lén lút. Cha tôi lâu lâu mới về nhà một lần, ân sủng ông ban cho không phải là tình yêu thương đậm đà, mà chỉ là những món tiền nho nhỏ, đủ cho hai mẹ con tiêu một cách tiện tặn. Tôi đi học, lòng không vui vì bây giờ có cha mà cũng chẳng khác xưa là mấy. Mẹ trồng rau, trồng mướp chỉ mình mẹ ăn nên cũng nản, vườn tược bỏ hoang, xác xơ tiêu điều và mẹ thì ủ rũ như chiếc lá héo. Những ngày cuối tuần mẹ vui gượng gạo, còn cha cố tình nói cười lớn tiếng, nhưng sao tiếng cười của ông nghe như có vẻ giả tạo. Tôi xà vào lòng cha, nói huyên thuyên đủ thứ chuyện. Cha giả bộ lắng nghe mà hồn như để tận đâu, cha có vẻ băn khoăn lo nghĩ, và hình như không được khoẻ. Tôi thôi không làm phiền ông nữa và lại rúc vào một xó ngồi xem TV. Không khí gia đình lạnh lẽo buồn tẻ, nếu không muốn nói là ngột ngạt khó thở. Ở đời chẳng có bí mật nào có thể giữ kín được mãi, điều mà mẹ tôi nghi ngờ đã xảy tới. Vào một ngày Thứ Bảy, cha tôi về nhà sớm hơn thường lệ, nhưng với vẻ mặt không vui, ông vào phòng riêng nói chuyện với mẹ. Một lúc thật lâu, cả hai mới trở ra, mặt mẹ xám ngoét nhưng mắt mẹ ráo hoảnh, cha thì bơ phờ sượng sùng, lẽo đẽo theo sau, vừa đi vừa phân trần: – Mọi việc dĩ lỡ cả rồi, tôi đã có ba mặt con với người ta, mong mình thông cảm, chỉ vì hoàn cảnh… Nhưng tôi vẫn sẽ lo cho mẹ con mình. – Không cần! Mẹ lạnh lùng nói, con tôi đẻ ra tôi nuôi, bao nhiêu năm nay có nhờ ông đâu? Bây giờ cũng vậy thôi, ông cứ yên tâm về với vợ con ông đi, tôi sẽ ra khỏi cuộc đời của ông. Cả con Nga cũng vậy, số nó không có cha, trước sau cũng không có cha… Mẹ chỉ thẳng tay ra cửa, quát cha tôi phải cút ngay lập tức. Cha vừa đi khuất mẹ mới quỵ xuống, mẹ ốm hơn một tháng mới khỏi. Cơn ghen của mẹ mới ghê khiếp làm sao, yêu càng đậm thù càng sâu, mẹ hối hận đã trao duyên lầm cho một kẻ bội bạc, mẹ tiếc tấm lòng chung thủy đã dành cho một người không xứng đáng, mẹ thề sẽ quyết trả thù. Mẹ dọn nhà khác, chỉ hai tuần sau khi khỏi bệnh, mẹ đã đi làm. Mẹ làm đủ thứ việc: dọn phòng trong khách sạn, bồi bàn bưng đồ ăn, bán hàng, cắt chỉ trong một tiệm may v..v.. nghĩa là bất cứ một việc gì có thể kiếm ra tiền, mẹ đều không từ nan, vì thế nên cuộc sống của hai mẹ con vẫn đầy đủ. Vật chất không thiếu thốn, nhưng tình cảm của mẹ dành cho tôi có khác xưa nhiều lắm. Chắc vì tôi là giọt máu của người chồng bạc tình, nên mẹ thường nhìn tôi với cặp mắt nghiêm khắc, oán hận khiến tối không dám lại gần. Hình như đã có một hố sâu ngăn cách giữa hai mẹ con. Vất vả như vậy nhưng mẹ vẫn đẹp, một cái đẹp quyến rũ của một người đàn bà mới ngoài ba mươi tuổi, lại thiếu gì ong bướm dập dìu… Bây giờ mẹ không giữ gìn nữa, gìn vàng giữ ngọc cho ai? Mẹ chỉ muốn trả thù, cha có đau mẹ mới hả dạ. Mẹ buông thả, mẹ chỉ sống cho mẹ. Như một con chim mới xổ lồng tha hồ bay nhảy, mẹ đi chơi với nhiều người đàn ông. Có một người đi lại với mẹ nhiều nhất, một hôm dọn về ở luôn trong nhà, ăn ở, chung đụng như hai vợ chồng. Hai người không làm đám cuới, nhưng có ký hôn thú hẳn hòi. – Đây là ba ghẻ của con, kêu bằng dượng Huân. Mẹ giản dị nói, dượng Huân góa vợ còn mẹ cũng chết chồng - mẹ coi cha như đã chết ít ra là trong lòng của mẹ - lấy nhau là hợp lý rồi, con không phản đối chứ? Có gì mà phản đối? mà phản đối có kết quả không? Mẹ có hỏi ý kiến của tôi đâu? mẹ chỉ tuyên bố một sự đã rồi, dù muốn hay không muốn tôi cũng phải chấp nhận. Mới mười một tuổi đầu, tôi đã nếm đủ mùi cay đắng, đã dạn dày với đau khổ, chai đá rồi, nên không cảm thấy đau hơn, tôi thản nhiên đón nhận một cuộc đổi đời lần nữa. Cha có vợ khác, mẹ đi lấy chồng, tôi là một đứa trẻ bị bỏ rơi. Trước kia xa cha nhưng còn có mẹ, bây giờ có mẹ mà cũng như không, mẹ nuôi tôi như nuôi một cục nợ. Còn dượng Huân, thực ra không phải là một người cha ghẻ hà khắc, ác độc nhưng ông đối xử với tôi lạnh nhạt như người dưng nước lã. Cũng là sự thường thôi, đòi hỏi một người không cùng máu mủ, huyết thống phải yêu thương mình quả là một điều vô lý. Tôi sống thui thủi trong một thế giới không có tình thương, nhất là từ khi mẹ sanh em trai, mẹ dồn hết tình thương cho em bé, cho cha của em bé, tôi trở thành một cái bóng mờ, một người dưng sống bên lề cuộc đời của mẹ. Dượng Huân có một đứa con trai riêng tên Tiến, mười tám tuổi, đã học xong Trung Học. Được cha đóng tiền cho học Đại Học, nhưng Tiến thích ăn chơi hơn là thích học. Hắn thuê Apartment ở riêng để tự do giao du bạn bè khỏi bị kiểm soát, thỉnh thoảng mới về nhà, tiếng là để thăm cha, nhưng thực sự là để xin tiền. Cho bao nhiêu cũng không đủ, nên mỗi lần gặp mặt, hai cha con thường hay hục hặc. Một lần Tiến đòi một số tiền lớn, bị cha mắng, hắn lớn tiếng cãi lại. Hai cha con cãi nhau ầm ầm như nhà có giặc, mẹ chán nản bỏ vào phòng riêng khóa cửa lại. Một lúc sau, tiếng cãi cọ nhỏ dần rồi im bặt, Tiến trở ra với vẻ mặt hầm hầm, hắn giơ nắm đấm lên de dọa: – Rồi sẽ biết tay! Thấy tôi đứng lơ láo, hắn cau mày hừ một tiếng rồi cười khẩy: – Đừng nhìn anh bằng cặp mắt đó em gái! Lớn lên rồi em cũng sẽ bắt chước anh thôi, để coi… Nói xong, Tiến bỏ ra xe rồ máy thật lớn, phóng vút đi. Thật tình tôi không ghét hắn, lần nào đến hắn cũng cho tôi quà, khi thì một gói kẹo, khi thì một cuốn sách hình hoặc một con búp bê. Hắn thường nhìn tôi với cặp mắt êm dịu, và những món quà của hắn cũng thay đổi theo thời gian, mới đầu toàn là đồ chơi, sau đến sách truyện, và mấy lúc gần đây là quần áo, kẹp tóc v.v… tôi đã mười bốn tuổi, đâu còn con nít nữa. Sau lần đó, Tiến đi đâu biệt tăm, hai năm sau mới trở về. Lần này hắn xuất hiện oai phong như một ông hoàng, hắn mặc đồ vest sang trọng, lái chiếc xe Jaguar mới tinh. Hắn không hỏi tiền cha hắn nữa, trái lại hắn còn tặng cho ông và mẹ tôi một cái TV màu khổ lớn, một cái lap top computer kiểu mới, toàn những đồ đắt tiền, và cho tôi một sợi dây đeo cổ bằng vàng có mặt hình trái tim. Thoạt nhìn thấy tôi, hắn reo lên thích thú: – Trời ơi Nga! em lớn nhanh quá, trên cả sức tưởng tượng của anh. Thế rồi trong khi tôi đeo thử sợi dây, hắn nghiêng đầu ngắm nghía rồi trầm trồ khen ngợi: – Em đẹp lắm! Tôi mắc cỡ cúi mặt nhưng trong lòng cảm thấy hãnh diện, sung sướng. Mới mười sáu tuổi, tôi đã có những đường nét của một thiếu nữ, thân hình cao dong dỏng giống cha tôi, bộ ngực nẩy nở, mái tóc dài óng ả, khuôn mặt trái soan giống hệt mẹ tôi, với sống mũi dọc dừa và đôi môi mọng xinh đẹp. Tôi biết tôi đẹp và tôi thường hãnh diện đón nhận những tia nhìn chiêm ngưỡng của bọn con trai trong trường. Tiến vẫn nhìn tôi đăm đăm, tôi cúi mặt tránh ánh mắt của hắn và rụt rè hỏi: – Dạo này anh làm gì mà giàu thế? – Làm áp phe, trúng mối nên phát tài… Em cần tiền không? Tôi lắc đầu: – Em có tiêu xài gì đâu? Tiến nắm lấy tay tôi: – Tội nghiệp em quá, sống cứ như một nữ tu, em không mơ ước gì à? – Em chỉ muốn học thật giỏi. – Học giỏi để làm gì? có phải để khi ra trường đi làm kiếm được nhiều tiền? Xem anh nè, anh có học đâu mà vẫn thiếu gì tiền… – Nhưng nghề áp phe của anh chắc là bấp bênh lắm? – Đúng vậy, bấp bênh và nguy hiểm nữa. Nhưng cần gì, tới đâu hay tới đó, lo xa chi cho mệt. Hãy sống với hiện tại, hưởng thụ những gì mình đang có, nghĩ đến tương lai làm quái gì. Tôi ngập ngừng: – Em khác, em chỉ muốn có một nghề vững chắc. Tiến cười xòa: – Ừ thôi, mỗi người một quan niệm sống, em cứ sống theo ý em đi. Ngưng một lúc, hắn lại tiếp tục: – Khi nào cần anh giúp đỡ, em cứ tìm đến anh, lúc nào anh cũng sẵn sàng. Tiến biên cho tôi địa chỉ và số điện thoại của hắn, dặn tôi giữ kỹ, tôi gật đầu và bỏ vào cặp sách. Tiến nhìn tôi bằng cặp mắt đắm đuối một lúc rồi mới bỏ đi. Dạo này cha hắn cũng nhìn tôi bằng cặp mắt như thế, thái độ của ông thay đổi khác hẳn, không còn lạnh lùng như trước. Ông thường chở tôi đi học, và thỉnh thoảng bênh vực tôi mỗi khi tôi bị mẹ la rầy. Sinh nhật thứ mười sáu của tôi, Tiến tặng tôi một cái áo dạ hội thật đẹp, mua của Nordstroms. Hai tuần sau, tôi mặc áo đó để đi dự một đám cưới. Trong lúc đợi mẹ tôi trang điểm, tôi đứng trước gương ngắm nghía áo mới, dượng Huân lại gần vuốt tóc tôi và khen tôi đẹp. Hôm sinh nhật tôi, dượng cũng cho tôi một chai nước hoa đắt tiền và một bộ đồ trang điểm. – Lớn rồi, con cũng cần phải chưng diện một tí để khỏi thua kém các bạn bè. Ông nói như một người cha quan tâm đến con gái, và tôi ngây thơ đón nhận. Từ đó thỉnh thoảng ông vẫn cho tôi tiền và dặn dừng cho mẹ biết, ông nói: – Mẹ con lúc nào cũng hà tiện, bà ấy quên rằng con đã lớn rồi, cần phải làm dáng, ăn diện chải chuốt cho đẹp, để mai mốt còn đi lấy chồng nữa chứ. Mấy lúc gần đây, ông cứ ngó tôi cười tủm tỉm và liếc mắt đưa tình, đôi khi bị mẹ bắt chợt thì ông lại vội vàng làm mặt nghiêm. Có lần mẹ đi vắng, tôi đang hút bụi nơi phòng khách, thì ông chạy tới bảo: – Để dượng làm giùm cho, con đi học bài đi. Nói xong ông cầm lấy máy hút bụi, và cầm luôn tay tôi. Tôi giật ra và bỏ chạy, ông không đuổi theo mà chỉ cười: – Cái con nhỏ này lớn xộn rồi mà vẫn nhát như con nít! Một buổi sáng, tôi sửa soạn đi học, dượng chờ tôi ở cửa, dúi nhanh vào ngực áo tôi tờ giấy một trăm đô: – Cho con ăn quà. Dượng để tay lên ngực tôi hơi lâu, cho tới khi có tiếng chân của mẹ tôi lịch kịch từ trên cầu thang bước xuống, dượng mới buông ra. Tôi sợ lắm nhưng chưa biết phải nói với mẹ tôi như thế nào thì đã xảy ra một biến cố ghê gớm. Vào một buổi sáng Thứ Bảy, như thường lệ, em tôi phải đi tập đá banh với đội học sinh của trường, nơi tập là một sân vận động nhỏ cách nhà chừng vài dặm. Dượng vẫn thường lái xe cho em đi, ở đó chờ cho tới khi tập xong lại đưa em về, nhưng hôm đó dượng kêu mệt, không đưa em đi được và bảo mẹ tôi đi thế. Tôi ở nhà học bài, chương trình lớp 10 khá nặng, nhất là phần Toán Lý Hóa. Học một lúc thấy nhức đầu nên tôi vào phòng riêng nằm nghỉ. Đang thiu thiu ngủ, chợt nghe một tiếng cạch nơi cửa, tôi giật mình mở choàng mắt, và thấy cánh cửa đang từ từ mở ra, rồi dượng Huân ló đầu vào ngó dáo dác, mắt dượng đỏ ngầu như người say rượu. Hoảng sợ, tôi ngồi bật dậy, nhưng chưa kịp la lên, thì nhanh như cắt, dượng đã lao tới, bịt chặt lấy miệng tôi, gằn giọng nói: – Nhà đi vắng hết rồi, đừng kêu vô ích! Tôi ú ớ, lắc qua lắc lại cố gỡ ra nhưng không được, dượng một tay vẫn bịt miệng tôi, tay kia ôm choàng qua ngực tôi siết chặt, ông vùi đầu vào ngực tôi vừa thở hổn hển vừa thì thào đứt quãng: – Cho dượng thương một tí… Đừng sợ, không sao đâu, chóng ngoan! Hơi thở của ông nóng ran một bên má, vừa sợ hãi lẫn ghê tởm, tôi vùng vẫy thật mạnh, cố xô ông ra. Ông như một con thú đang hăng máu, tôi chống cự mãnh liệt bằng tất cả sức lực của tuổi trẻ, tôi vừa đấm đá vừa cắn cấu… Sau cùng ông đành phải lơi tay, tôi vừa vật lộn vừa la hét ầm ỹ. Chợt có tiếng chân chạy rầm rập trên cầu thang, ông hoảng sợ vội buông tôi ra. Tiến xuất hiện như một hung thần, không nói không rằng, Tiến túm lấy cha đấm một cú như trời giáng vào quai hàm, ông ngã chúi xuống. Tiến dựng ông dậy rồi cứ thế đấm đá túi bụi, hai cha con quần thảo như hai con gấu. Tôi quơ vội cái gối che vai áo rách toạc, chạy vội vào phòng tắm, khóa chặt cửa lại. Một lúc sau có tiếng gõ cửa rồi tiếng Tiến gọi gấp rút: – Nga, Nga! mở cửa mau, em không sao chứ? Tôi run lẩy bẩy, ở trong nói vọng ra: – Em không sao cả, cám ơn anh đã cứu em kịp lúc… Ổng đâu rồi? – Đi rồi, đi nhà thương rồi. Tôi hốt hoảng mở cửa, ló đầu ra quan sát: – Trời ơi! anh đánh ổng tới bị thương? có nặng lắm không? – Vài cú đấm ăn thua gì, vẫn còn lái xe được mà. Thứ quân cầm thú đó phải được cho một bài học. Sau vụ đó, mẹ thu xếp cho tôi về ở với cha. Tiến đưa tôi ra phi trường, hắn đưa cho tôi một mảnh giấy có ghi số phone của hắn, rồi nắm tay tôi dặn dò: – Có chuyện gì cứ phone cho anh, anh sẽ giúp em giải quyết. Hãy tin anh, anh không có ý đồ xấu với em và không bao giờ bỏ mặc em đâu. Tôi về ở với cha, mẹ kế không hoan nghênh, cũng không phản đối, nuôi thêm một miệng ăn đâu có tốn kém bao nhiêu, hơn nữa tôi đã lớn, có thể giúp được khối việc. Cha bận rộn nên ít khi ngó ngàng, mẹ kế đương nhiên coi tôi như một đứa ở giúp việc khỏi phải trả lương, sai vặt tối ngày. Đi học về nhà, chưa kịp thay áo đã nghe tiếng réo: – Nga! ủi cho tao cái áo! – Nga! trễ rồi sao chưa dọn cơm? – Nga! rửa chén xong nhớ lau bếp đi nghe chưa? để đồ ăn rơi vãi, kiến sẽ bu đen ngòm cho coi. Các em cũng bắt chước mẹ, đua nhau sai bảo: – Chị Nga! hút bụi phòng em đi! – Chị Nga! quần áo thay hôm qua đã giặt chưa? – Chị Nga! nhớ thay khăn trải giường cho em! Tôi làm luôn tay không dám kêu ca, chỉ những khi họ về phòng rồi, tôi mới được yên thân ngồi học bài, tôi chỉ lấy sách vở làm vui. Thời gian qua mau, hết hạ tới thu, đông, rồi mùa xuân cũng qua, và mùa hè lại tới. Cha tôi được nghỉ phép hai tuần, bèn tổ chức cho gia đình đi Hawai nghỉ mát. Ôi chao! bãi biển Hạ Uy Di, ai nghe mà không mê? Tôi và các em đều háo hức, nhưng mẹ kế lừ mắt, nói: – Mày không được đi, phải ở nhà coi nhà. Bà đưa các em tôi đi mua sắm những đồ dùng đi biển và quần áo tắm, không đả động gì tới tôi cả. Lựa lúc bà không có nhà, tôi mới rụt rè hỏi cha: – Ba ơi! con cũng muốn đi Hawaii, cho con đi nghe ba? – Ừ, đi cả gia đình mà. – Nhưng mẹ bảo con phải ở lại coi nhà. – Để ba sẽ xin với mẹ con. Chả biết ông nói năng thế nào mà bữa cơm chiều hôm đó mẹ kế không ăn, giận dỗi bỏ vào phòng, cha đi theo năn nỉ. Bốn đứa chúng tôi ngồi ở bàn ăn, lắng nghe tiếng hai người cãi nhau ở trong phòng, tiếng cha tôi nhỏ nhẹ: – Mình làm vậy không công bằng, mấy đứa kia chỉ ở không ăn chơi, còn con Nga suốt ngày đầu tắt mặt tối… Tức thì nghe bà rít lên: – Mấy đứa kia còn nhỏ, còn nó lớn rồi. Con gái lớn phải học ăn học làm, chia sẻ bớt công việc với cha mẹ chứ, nhong nhỏng ăn chơi hoài đâu có được? – Thôi được rồi, nhưng lần này đi nghỉ mát cả nhà, phải cho nó đi chứ? – Nó đi rồi ai ở nhà coi nhà? – Cứ khóa cửa lại cũng được… – Thôi được, ông đã muốn vậy thì để tôi với mấy đứa nhỏ ở nhà, cho cha con ông đi với nhau. Có tiếng nức nở và tiếng cha tôi thở dài. Xuân Mai nhìn tôi trách: – Khổ quá, mẹ khóc rồi chị thấy chưa? Tại chị hết đó! – Chị có làm gì đâu? – Còn không à? chị ỏn thót với cha nên cha mới la mẹ. Chị chỉ muốn cha ghét hết bọn tôi chị mới hả dạ. Kim Chi cũng thêm vào: – Chị là đầu dây mối nhợ của những bất hòa trong gia đình này, trước kia khi chưa có chị, cha có bao giờ lớn tiếng với mẹ đâu. Tuấn thì im lặng không nói gì, nhưng nó nhìn tôi bằng cặp mắt oán trách. Tôi ứa nước mắt khóc tủi cho thân phận. Sáng hôm sau, tôi thoái thác nói với mọi người là tôi không muốn đi nữa vì trong người không được khỏe, hơn nữa tôi còn phải để thì giờ học thêm, sửa soạn cho kỳ thi tốt nghiệp Trung Học niên khoá tới. Ai cũng biết đó chỉ là một câu nói giả vờ, mẹ kế bĩu môi, các em lườm nguýt, còn cha tôi thì nhìn tôi bằng cặp mắt ái ngại. Mùa hè trôi qua nhanh chóng, thấm thoát lại đến ngày khai trường, năm nay tôi học lớp 12, năm chót của ban Trung Học, bài vở nhiều nên học hành cũng phải tốn nhiều thì giờ. Một lần tan học, tôi về nhà hơi trễ, vừa bước vào cửa đã nghe tiếng quát: – Mày đi đâu giờ này mới về hả? Thứ đồ con gái hư! – Con đến nhà Oanh để học bài. Tôi đáp. Oanh là bạn cùng lớp với tôi và cũng ở gần nhà, nhưng mẹ kế tôi không ưa mẹ Oanh, bảo rằng bà này hay làm phách, nghe tôi nói đến nhà Oanh bà càng ghét: – Học ở nhà không được sao? Tao cấm mày không được sang nhà hàng xóm ngồi lê đôi mách, lại kể lể chuyện mẹ ghẻ con chồng, nói xấu tao chứ gì? Cha tôi vừa đi làm về, nghe thấy thế thì buột miệng can thiệp, ông bảo mẹ kế: – Nó đến nhà bạn thì đã sao? Con bé ấy cũng ngoan ngoãn lại học giỏi, chúng nó chỉ bảo bài vở cho nhau. Thế là châm ngòi cho một cuộc cãi lộn, mẹ kế hét lớn: – Tôi biết ông bênh con riêng để nó lên mặt không coi tôi ra gì. Trời ơi! sao số tôi khổ thế này? chỉ tại ngày xưa tôi dại dột nghe lời đường mật của ông, lấy một người đã có vợ có con, bây giờ mới thấy hậu quả. Ông có coi tôi là vợ của ông đâu? ông chỉ thương con riêng của ông. Tôi biết ông vẫn dấm dúi tiền riêng cho nó, bảo sao mấy đứa kia không ganh tị? Ông làm như thể chúng nó không phải là con ông vậy. Thế rồi bà bù lu bù loa khóc kể, cha tôi bịt tai bỏ vào phòng riêng khóa cửa lại. Mẹ kế khóc lóc một hồi rồi lái xe đi biệt từ trưa tới tối. Không khí gia đình từ khi có tôi trở nên xào xáo. Tôi không muốn là nguyên nhân của các cuộc cãi vã, nên cố thu hình nhỏ nhoi lại. Cha tôi cũng muốn nhà cửa êm đẹp nên nhắm mắt làm ngơ, để mặc bà muốn làm gì thì làm. Cha mải lo kiếm tiền, dần dà mọi việc trong nhà đều do mẹ kế quyết định, ông chiều theo ý bà vì không muốn cãi cọ lôi thôi, ông chỉ muốn yên thân. Cha bận nhiều việc lớn, đâu có thì giờ lo việc nhỏ là lưu tâm đến đứa con xấu số. Chắc cha cho rằng nuôi tôi cơm ngày ba bữa, quần áo lành lặn là đủ bổn phận, nên lương tâm ông ngủ yên. Tôi âm thầm chịu đựng mọi sự ngược đãi, bất công mà không dám hé môi, bởi vì mỗi khi có chuyện chống đối, thì mẹ kế lại làm mình làm mẩy, đập phá đồ đạc, la hét om xòm hoặc bỏ nhà ra đi. Nhà cửa không khác gì địa ngục, cha bực mình trút hết tức giận lên đầu tôi, coi tôi như một kẻ chuyên gây rối, một đứa con sinh ra chỉ để gây phiền cho cha mẹ, một thứ người thừa, bỏ thì thương vương thì tội. Các em cũng đối xử lạnh nhạt, thành ra sống giữa những người thân mà tôi cô đơn như người sống trong sa mạc. Cùng tuổi mười bảy, các bạn tôi sống hồn nhiên vô tư, và thường hay mộng mơ, còn tôi thực tế hơn chúng nó nhiều, tôi đã có những suy nghĩ của một người già trước tuổi, tôi thường băn khoăn tự hỏi tương lai sau này rồi sẽ ra sao và tôi lo sợ. Tôi biết muốn thoát khỏi cuộc đời đen tối, muốn vươn lên, chỉ có cách là nhờ vào học vấn, vì vậy tôi để hết tâm trí vào việc học và tôi học rất giỏi, tôi đậu thủ khoa kỳ thi tốt nghiệp Trung Học năm đó. Hôm mãn khóa, nhà trường tổ chức một buổi lễ lớn. Xúng xính trong bộ lễ phục tốt nghiệp, tôi được hân hạnh đại diện toàn thể học sinh của trường lên đọc diễn văn phát biểu cảm tưởng, giã từ thầy cô, giã từ mái trường thân yêu. Sân trường im phăng phắc, cả ngàn cặp mắt ngước lên theo dõi, họ lắng nghe và cùng bị lôi cuốn bởi những lời lẽ thiết tha, chân thành và cảm động. Khi tôi dứt lời, cả hội trường bùng lên những tiếng vỗ tay như pháo nổ, mọi người đứng cả lên, vẫy tay, tung mũ, nón… Chương trình tiếp diễn với mục phát bằng tốt nghiệp, trước khi trao mề đay thủ khoa và choàng vòng hoa danh dự, ban Giám Hiệu mời phụ huynh học sinh lên diễn đàn để chụp hình kỷ niệm và cùng chia sẻ niềm hân hoan với con em. Tôi xẻn lẻn nói: – Má em ở xa, còn ba em bận. .. Và tôi tủi thân ôm mặt khóc, như thế đấy, ngày vui đáng ghi nhớ của tôi, niềm hãnh diện của tôi, mà cả cha mẹ và các em của tôi đều không tới dự. Có ai thèm quan tâm đến một người thừa, một cái bóng mờ? tệ hơn nữa, một chướng ngại vật trên đường đi của họ. Chỉ có Tiến xuất hiện vào phút chót, hắn lái xe tới nơi vừa kịp. Bước lên bục cao diễn đàn, Tiến choàng mề đai và vòng hoa danh dự vào cổ tôi, vừa ghé tai tôi thì thầm dỗ dành: – Nín đi, đừng khóc! van em đừng khóc nữa. Chiều hôm đó, tôi đi chơi với Tiến mãi đến nửa khuya mới về. Căn nhà lạnh lẽo tối om, vắng vẻ không một tiếng động, mọi người đã đi ngủ cả, cũng tốt thôi vì khỏi phải đương đầu với cơn thịnh nộ của cha và mẹ kế, cơn thịnh nộ chắc chắn sẽ bùng nổ dữ dằn, ghê gớm khó mà tưởng tượng. Mấy hôm trước, vô tình tôi đã nghe lóm được cuộc đối thoại giữa cha và mẹ kế về số phận của tôi: – Bây giờ ông tính sao? học xong rồi phải giao việc làm cho nó chứ? Tôi tính cho nó ra phụ tiệm ăn, mướn người ngoài vừa tốn kém vừa sợ gian lận. Ông thấy vậy có được không? chẳng lẽ cứ để nó ăn không ngồi rồi suốt ngày. Hay ông định cho nó học cao lên nữa? học để làm bà vương bà tướng gì? Tôi nói cho ông biết tôi chịu hết nổi rồi, nuôi con ông cho tới mười tám tuổi là xong bổn phận. Nó phải tự lập, không có quyền sống bám nữa, đối với pháp luật, chúng ta cũng đã hết trách nhiệm. Cha tôi xuôi xị: – Được rồi tùy ý bà, nó là con, đâu có quyền phản đối. Bà muốn gì thì cứ bảo nó, tôi bận lắm, đâu có thì giờ lo cái chuyện nhỏ nhặt đó, nội việc điều hành cái tiệm sửa xe hơi cũng đủ làm tôi mệt ứ hơi. Làm manager trách nhiệm nhiều lắm, đầu óc lúc nào cũng căng thẳng, tôi không muốn phải nhức đầu thêm vì ba cái chuyện lặt vặt ở trong nhà. Bà làm sao đó thì làm, miễn sao êm đẹp thì thôi. – Nếu vậy thì ông đã đồng ý rồi phải không? Nhưng ông là cha nó, ông nói nó mới nghe, tôi là má ghẻ, nói ra nó trả treo mang tiếng. – Làm gì có chuyện đó, nó vẫn yêu mến bà như má ruột của nó vậy. Mẹ kế bật lên một tràng cười mỉa mai: – Chả dám đâu! Nó mà thương ai? nếu nó thương má ruột nó thì nó đã chẳng về đây. Má ruột nó còn vậy, huống chi má hờ là tôi, bắt nó nghỉ học để đi phụ bếp, đố khỏi nó oán. Thiệt tôi dại hết sức mới đi ưng một người đã có vợ con như ông… – Nữa, bà cứ lập lại cái câu đó hoài. – Chứ không à? lấy một người độc thân, tôi đâu có khổ thế này? đã là vợ thừa lại còn mang tiếng mẹ ghẻ con chồng. Mà đứa con gái của ông coi bộ không vừa đâu à nghe? mới nứt mắt đã nập nợn. Nghe đâu nó có bồ từ năm mười sáu tuổi, cái thằng bụi đời chết tiệt nào đó. Ông không dạy dỗ nó, coi chừng có ngày sẽ phải làm ông ngoại của những đứa cháu không cha cho coi! Ôi! câu nói mới ác độc, mới tàn nhẫn làm sao. Nhưng có lẽ cũng đúng, bây giờ tôi chưa hư, nhưng mai mốt rồi cũng sẽ hư, hoàn cảnh của tôi trở nên hư hỏng là chuyện dĩ nhiên, không hư mới là chuyện lạ. Số kiếp đã an bài, mọi cố gắng vươn lên đều vô ích, trông mong gì ở người cha chỉ muốn yên thân, nên trốn trách nhiệm? Đã đến lúc phải đi thôi, cái nhà này có gì mà lưu luyến? … Tôi lau nước mắt, lẳng lặng về phòng xếp quần áo và vài thứ đồ dùng lặt vặt vào một cái túi nhỏ, rồi gọi cho Tiến: – Tiến ơi, đến với em đi! đêm nay em sẽ ra đi với anh. – Em nghĩ kỹ chưa? Tiến thở dài, anh yêu Nga, nhưng sống với anh cuộc đời của em sẽ bấp bênh lắm đó. Em đã biết hết sự thực về anh chưa? biết anh làm nghề gì chưa? Anh là dân bụi đời, anh sống bằng nghề buôn bán ma túy… – Em biết, nhưng em không cần. Anh không từng nói với em hãy sống cho hiện tại, đừng nghĩ đến tương lai. Chúng mình không có tương lai, nhưng ít ra cũng có hiện tại, ở đây em không có gì hết, không có tương lai, không có nhân phẩm, không có tình thương, không có cả quyền làm người, không có gì hết… Người ta cũng chỉ coi em như một đứa con hoang thôi. Giọng tôi nghẹn lại, sũng nước mắt. Tiến vội vã nói: – Anh sẽ tới ngay! Nói xong hắn cúp máy, tôi cũng đặt điện thoại xuống, thừ người nghĩ ngợi, tôi không yêu Tiến nhưng tôi cần một điểm tựa, và tôi cần phải thoát ra khỏi cái nhà này. Tôi cần một nơi để mà đi tới, mặc cho số phận đẩy đưa, tôi buông tay rồi, đi bụi đời với Tiến dù có thế nào cũng còn hơn là phải sống dưới cái mái nhà kỳ quái này. Nước mắt ngập mi chảy loang trên má, tôi vừa thu xếp đồ đạc vừa khóc ròng. Đêm đã khuya lắm, ánh trăng lạnh lẽo chiếu chênh chếch qua khung cửa sổ, hắt bóng những song cửa lên tường, thành những vệt dài, một con chim vạc bay ngang cất tiếng kêu ảo não, thế giới về đêm sao bí mật và đầy vẻ hãi hùng. Có tiếng xe ngừng ngay trước cửa nhà, xe của Tiến. Lặng lẽ, tôi mở cửa bước ra, không ngoái lại, không lưu luyến, không hối tiếc, tôi bước sâu vào bóng đêm, bắt đầu những bước chân đi hoang. Phương Lan |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22274 |
Gởi ngày: 20/Aug/2019 lúc 11:48am |
GIỌT NƯỚC MẮT MUỘN MÀNGGIỌT NƯỚC MẮT MUỘN MÀNG Truyện ngắn Vợ hắn bảo: - Anh ạ, mai thứ bảy rồi đấy. Mẹ về, mình mua cái gì cho mẹ ăn chứ nhỉ. Hắn tỏ ra khó chịu: - Ôi giời, vẽ chuyện. Chợ đầy thứ ra, mua gì mà chẳng được, sao cứ phải ngậu lên. - Thế thì nói làm gì. Em tính mai đi sớm, lên chợ Thành Công mua mấy cân rươi, chắc mẹ thích lắm. "Ừ nhỉ, con mẹ này nhiều khi cũng thông minh đáo để" - hắn nghĩ vui vui thế. Từ ngày hắn đi học đại học, ra trường rồi công tác cho đến bây giờ, hắn chẳng biết đến mùi vị những món ăn chế biến từ rươi. Chợ gần nhà hắn thì không có, muốn mua phải đi mất hơn chục cây số. Mùa rươi lại ngắn ngủi, chỉ trong vòng vài ngày. Mặt khác, hắn đã quen với lối suy nghĩ của thời kinh tế thị trường, chẳng ăn thứ này thì thứ khác, thiếu gì món ngon. Mẹ hắn lên chơi với em hắn trên Bắc Giang từ đầu tháng, đến nay đã được ba tuần. Hôm kia, em hắn gọi điện bảo thứ bảy tuần này sẽ đưa mẹ xuống vì bà đã muốn về. Em hắn công tác xa nhà, cuối tuần mới về. Trong bụng hắn mừng vì không "mang tiếng" là lên đón mẹ nhưng hắn không tỏ thái độ gì. * Hắn có một tính rất khỉ là hay làm vẻ lạnh lùng đối với mọi người trong nhà. Hắn thích quan tâm đến mọi người theo kiểu của hắn, không muốn tỏ ra ủy mị, vồ vập, sốt sắng. Mẹ ốm, hắn bắt vợ đi chợ mua tim cật về nấu cháo cho bà, hoặc tìm những thứ gì mà hắn biết là mẹ thích. Sau mẹ hắn khoe với mọi người là hắn cũng biết quan tâm đến bà. Hắn mắng vợ: "Anh bảo em nấu cho mẹ ăn thì em cứ nấu, lôi anh vào làm gì". Có lần mẹ hắn ra chợ chơi, thấy lâu không về, hắn sốt ruột đi tìm. Người già, một mình ra phố, biết đâu được. Gặp mẹ đang trên đường về, hắn định tránh đi nhưng bà đã trông thấy hắn. Bà hồ hởi: "Thế con ra tìm mẹ à" Hắn thản nhiên: "Đâu có, con đi mua mấy thứ. Mẹ đi được thì về được, việc gì phải tìm" làm niềm vui của mẹ hắn tắt ngóm. Đã thế, hắn lại ngang và hay trêu ngươi. Mẹ trách hắn đi đâu, về nhà chẳng hỏi han mẹ lấy một câu, hắn cáu: "Thì ngày xưa, con đi học về không chào ai thì mẹ chẳng nói gì. Giờ con lớn thế này, lại có cả bốn đứa để sai bảo mà mẹ ne nẹt như với đứa trẻ là sao. Lại còn bắt hỏi thăm sức khỏe nữa. Con trông thấy mẹ là biết khỏe hay yếu chứ. Rõ là nhiêu khê". Bốn đứa mà hắn nói tới là vợ và con hắn, nhưng hắn thích gộp ráo cả vào một đám gọi là chúng nó. Vợ hắn mắng con, nó cãi lại, hắn quát: "Hai đứa im ngay, không cãi nhau nữa". Hắn đi làm về, đứa lớn nhanh nhẹn: "Con chào bố". Hai đứa em thấy thế cũng đồng thanh: "Con chào bố". Hắn liếc vợ rồi quay sang lũ trẻ con: "Thế còn đứa nào chưa chào bố?" Vợ hắn nguýt: "Này, quên cái suất ấy đi nhá". Có lần mẹ hắn tức bảo: "Tao chỉ cần trước đây tao nuôi chúng mày như thế nào thì bây giờ chúng mày nuôi tao thế vậy". Thế là hắn liền xổ ra một tràng: - Được nhá, mẹ muốn thế không? Vậy ngày xưa trời nóng, con phải quạt bằng mo cau. Bây giờ hôm nào nóng, mẹ đừng dùng quạt điện nữa nhá, Con tắt luôn cả điều hòa đi rồi mua hẳn quạt nan cho mẹ quạt. Còn ăn thì con ăn thế nào mẹ ăn như thế, con không ăn giấu mẹ cái gì là được. Con đi nhậu ở đâu thì mang phần về cho mẹ, như ngày xưa di ăn cỗ, mẹ vẫn mang phần về cho con ấy. Mẹ nuôi con mười tám năm. Vậy con nuôi mẹ đủ mười tám năm mà mẹ vẫn còn sống thì con kệ mẹ nhé. Ngày xưa, con hư thì mẹ đánh, bây giờ mẹ trái ý con thì làm sao đây ... Mẹ hắn đã chọc đúng vào cái mớ lý sự rất chầy cối của hắn. Hình như vẫn đang thích thú với cái trò lập luận quái đản này, hắn tiếp: - Còn hôm nào vợ chồng chúng con đi chơi thì mẹ cũng rủ cụ Tảo đi cho công bằng, con không cấm. Cụ Tảo là bố anh Huân hàng xóm. Cụ bà mất, cụ ông lên ở với con trai, na ná như hoàn cảnh mẹ hắn. Hắn thấy thế hay bông lơn gán cụ Tảo cho mẹ hắn. Có lần anh Huân sang nhà hắn gọi nhờ điện thoại. Khi anh về rồi, hắn bảo mẹ: - Bác ấy giả vờ để sang xem mắt mẹ đấy. Mẹ không thấy bác ấy vừa gọi điện vừa nhìn mẹ à. Hôm qua con mới nói chuyện với bác ấy, thế mà nay đã sang ngay. Chứ nhà bác ấy còn lắp điện thoại trước cả nhà con cơ, việc gì phải nhờ. Mẹ hắn bảo: "Tao không nói chuyện với thằng luyên thuyên như mày" rồi bà bỏ đi nằm. Mẹ hắn hay kể với con dâu chuyện ngày xưa bà nuôi anh em hắn ăn học vất vả như thế nào. Hắn nghe thấy, ngứa mồm nói luôn: - Thì bây giờ mẹ muốn đi học, con có cấm mẹ đâu. Rồi hắn quay sang vợ: - Mai mẹ mày mua vở cho bà đi học. Còn mấy đứa thay phiên nhau dẫn bà đến trường nghe chưa. Đại khái cứ như thế, mẹ hắn tức không thèm nói chuyện với hắn nữa. Nói làm gì với thằng ngang như cua. Có điều gì ấm ức, bà lại thì thọt kể lể với con dâu. Trong bằng ấy đứa con, bà có vẻ hợp vợ hắn hơn cả. Được cái vợ hắn cũng chịu khó hầu chuyện mẹ chồng. Thỉnh thoảng, hắn lại hỏi vợ: "Mẹ có nói gì anh không?". * Vợ hắn nhắc đến chuyện mua rươi cho mẹ ăn là do nhớ lại buổi tối cũng bằng giờ năm ngoái. Hôm ấy cả nhà ăn cơm xong, mẹ hắn ngồi kể chuyện ngày xưa. Chuyện của bà hôm ấy lại gợi đúng vào kỷ niệm ấu thơ của hắn mà hắn thích. Hắn hào hứng cùng mẹ ôn lại những mùa rươi ở quê nhà. "Tháng chín đôi mươi, tháng mười mùng năm" là câu tục ngữ nói về mùa rươi. Nói thế nhưng không cứ gì đôi mươi hay múng năm mà là vào thời điểm ấy, rươi lên rộ nhất. Mỗi năm vào độ cuối thu, khi có gió đông về, rồi sau vài cơn mưa lác đác, cơ man nào rươi dưới ruộng chui lên. Những con rươi xanh, đỏ, vàng bơi loang loáng loằng ngoằng dưới nước. Ở những chỗ có dòng chảy lớn người ta đóng sắm để hứng rươi. Chị em hắn thì chỉ vớt rươi bằng vợt, được chăng hay chớ nhưng cũng không đến nỗi nào. Hắn thích nhất là ngồi vớt rươi ở cái rãnh cắt qua ngõ nhà hắn mà người ta xẻ ra để lấy nước vào ruộng. Rãnh chỉ rộng bằng nửa bước chân trẻ con, nên nước chảy rất xiết. Thường ngày, hắn hay tha thẩn ở đây, ngắt là mây chơi thả thuyền. Ở nhà không phải đi đâu mà vẫn kiếm được cái ăn, thú gì bằng. Hắn vớt rươi như một trò chơi, góp chung vào với cả nhà. Mỗi hôm như thế, thường là đủ bữa. Mà không đủ bữa thì đã có chợ. Chợ bán nhiều và cũng rẻ vì hồi ấy không có chuyện mang hàng từ vùng này qua vùng khác, rươi lại không để được lâu. Mẹ hắn mua hàng cân. Hắn hay được ăn các món chả rươi, rươi xào cải, rươi nướng. Mẹ hắn chế biến thức ăn đủ cho một bữa, còn bao nhiêu thì làm mắm ăn dần. Rươi là đặc sản của tạo hóa ban cho con người, ai chỉ ăn một lần là nhớ mãi. Sau này, người ta dùng thuốc trừ sâu nhiều, rươi cũng ít dần, mùa rươi không náo nức nhộn nhịp như trước. Tuy mẹ không yêu cầu nhưng hắn biết nếu hắn làm một bữa rươi cho mẹ bớt phần nào nỗi nhớ quê hương, hẳn bà vui lòng và cảm động lắm. Tuổi già, ăn được là bao. Cái quí là con cái nó quan tâm đến mình. Nhưng tính hắn lại ngang. Hắn không muốn làm điều gì để người khác cho rằng hắn vì mình. Hắn muốn làm những việc mà hắn phải tự nghĩ ra, không phụ thuộc vào ý muốn của ai đó. Rồi công việc hàng ngày bận rộn, hắn cũng quên luôn. Giá phải bỏ một buổi đi xin học cho con, tất nhiên là hắn nhớ, cũng giống như mẹ hắn chẳng bao giờ quên đi họp phụ huynh cho hắn. Mẹ hắn nuôi hắn qua bao nhiêu mùa rươi. Thế nhưng ở với với hắn bằng ấy năm, hôm nay hắn mới nghĩ đến chuyện làm cho mẹ món ăn nhà quê mà người dân vùng biển đi đâu cũng nhớ ấy. Vậy mà vợ chồng hắn cũng phải bàn bạc, lên kế hoạch cứ như là chuẩn bị cho một sự kiện gì hệ trọng lắm. * Mẹ hắn đi mấy tuần, hắn cũng thấy nhớ. Mỗi lần về nhà, hắn có cảm giác cửa nhà khang khác, thiêu thiếu cái gì. Mấy lần hắn định gọi điện nhắn mẹ về nhưng lại thôi. Hắn không muốn cho mẹ biết mình nghĩ gì về bà. Lần này nghe vợ bàn thế, hắn cảm thấy vui lòng. Mặc dù với mẹ, hắn cố tỏ ra không mấy quan tâm nhưng hắn vẫn để ý cách cư xử của vợ đối với mẹ. Vợ hắn vẫn biết, trái ý chồng là chết ngay với hắn. Nhưng hắn có mắng vợ, không bao giờ để cho mẹ hắn thấy. Hấn không thích cho mẹ biết là hắn bênh bà. Hắn cứ thế và tự biết trong con người mình có rất nhiều mâu thuẫn. Nhưng cuối cùng thì hắn vẫn mặc, cứ để ai hiểu hắn như thế nào thì hiểu. Vợ hắn bảo: - Em mua thì cứ mua nhưng em không biết làm đâu đấy. Hắn giễu: - Cái dân đồng mầu nhà em có được ăn bao giờ đâu mà biết làm. Sợ vợ tự ái, hắn lại ân cần: - Em cứ mua về, món gì anh làm được thì anh làm, món gì không biết thì hỏi mẹ. Mua lấy vài cân vào. Thừa thì nhờ mẹ muối, ăn dần. Lòng hắn vui vui khi nghĩ đến ngày mai em hắn đưa mẹ hắn về. Ba tuần đi chơi xa, hẳn là mẹ con bà cháu có nhiều chuyện để nói lắm. Hắn sẽ mua một can bia hơi Hà Nội là đồ uống mà anh em nhà hắn thích, gọi thêm mấy đứa em nữa đến cùng vui. * Nhưng thật đáng đời cho hắn. Cái dự định xuất phát từ lòng tử tế hiếm hoi ấy của hắn đối với mẹ, hắn chẳng bao giờ thực hiện được. Khoảng ba giờ chiều, chuông điên thoại nhà hắn đổ. Đầu dây bên kia tiếng em dâu hắn hốt hoảng: - Anh lên ngay. Mẹ bị ... Hắn sốt ruột: - Bị sao? Thím nói nhanh lên xem nào. Em dâu hắn lắp bắp: - Mẹ bị ... ốm ... nặng .. Bỗng có tiếng đàn ông xen vào: - Cô đưa đây. Lúc này mà còn định giấu là sao. Rôi người đó giật lấy ống nói: - Bà mất, vừa xong. Hắn gào lên: - Mất rồi mới báo. Sao không báo từ lúc bà ốm. - Bà bị đột quỵ, ai mà biết trước ... Hắn rụng rời buông máy ngồi phịch xuống nền nhà. Sao tử thần lại bắt mẹ hắn đi đúng vào sát ngày mà mẹ hắn sẽ trở về với hắn. Vậy là mẹ hắn chết vì chính cái bệnh mà bà đã báo trước cho hắn. Hôm đó cách đây chừng hai tháng, tự nhiên mẹ hắn vét hết tiền trong túi đưa cho hắn: - Mẹ bị bệnh huyết áp cao, người ta bảo bệnh này, người già có thể chết bất cứ lúc nào. Mẹ còn dành dụm được chút tiền, các con giữ lấy, nếu mẹ có mệnh hệ gì thì thêm vào đỡ phần nào cho các con việc tang ... Hắn át đi: - Mẹ chỉ vớ vẩn. Tự nhiên nói đến chuyện chết với chóc. Còn lâu mẹ mới chết. Rồi hấn bịa ra để trấn an mẹ: - Con đi xem rồi, thầy bảo mẹ thọ đến ngoài chín mươi cơ. Khi ấy, hắn có hiểu gì về bênh huyết áp đâu. Hắn nghĩ mẹ hắn huyết áp cao cũng như hắn huyết áp thấp. Chắc bà có nhiều điều không bằng lòng với hắn nên làm ra thế để dọa hắn mà thôi. Mẹ hắn tuy hơn tám mươi nhưng vẫn khỏe. Bà vẫn khâu vá được, tự xỏ được kim, nói năng minh mẫn, đi lại còn nhanh nhẹn. Ngoài việc nuôi mẹ ngày mấy bữa ăn, chẳng một đứa con nào phải hầu hạ mẹ. Hắn thấy thế nên chưa bao giờ nghĩ tới chuyến đi vĩnh viễn của bà. * Vợ chồng hắn tức tốc thuê xe lên Bắc Giang đưa mẹ về. Em hắn cũng chỉ về trước hắn mấy chục phút. Y hoàn toàn không biết tin mẹ mất vì không ai liên lạc được. Y về là để ngày mai đưa mẹ xuống nhà hắn. Chỉ đến khi về nhà, em hắn mới biết mẹ không còn nữa. Ba ngày lo đám tang cho mẹ, hắn không nhỏ giọt nước mắt nào. Hắn không có thời gian để khóc. Hắn biết vai trò và phận sự của hắn trong việc tang lễ cho mẹ. Đến ngày thứ tư, khách đã về hết, hắn vào phòng chốt cửa nằm vật ra. Vậy là hắn mồ côi mẹ thật rồi. Hắn nghĩ thế mặc dù vẫn biết chữ mồ côi người ta chỉ dùng cho những đứa trẻ mất cha hay mẹ khi chưa đến tuổi trưởng thành. Hắn chưa quen không có mẹ. Lúc bé, hắn dựa dẫm vào mẹ đã đành, lớn lên có vợ con rồi, hắn vẫn cần mẹ để thỏa mãn cái tính ngỗ ngược, ngang ngạnh của hắn. Hắn biết, hắn chỉ có thể làm được những điều ấy với mẹ chứ không thể là ai khác. Người mẹ, có thể có chuyện này chuyện khác với con dâu hay với cả con gái, nhưng hiếm người mẹ nào lại ghét bỏ con trai, dù chúng hư hỗn đến mấy. Bằng ấy năm có mẹ, nhưng bây giờ hắn mới biết hắn cần mẹ đến chừng nào. Hắn chỉ biết đến điều đó khi không còn mẹ. Giá mà mà mẹ hắn sống thêm được ít nữa, hắn sẽ ..., hắn sẽ ... Nhưng hắn chỉ "sẽ" thôi chứ không bao giờ hắn làm được. Có một cái "sẽ" chắc chắn hơn cả là hắn sẽ vẫn như thế. Vì làm sao hắn biết được mẹ hắn chết vào lúc nào. Và chỉ khi mẹ chết, hắn mới nghĩ đến chữ "giá mà" Bao nhiêu những lạnh lùng, những kìm nén, giấu giếm tình cảm của hắn đối với mẹ lúc này hóa hết thành nước mắt. Hắn để mặc nó chảy thành dòng xuống gối. Hắn nấc lên và rên ư ử như trẻ con bị đòn đau, giờ mới ngấm. Hắn nhớ lại có lần mẹ hắn nói với hắn: "Chỉ đến lúc nào tôi chết, các anh mới biết thương tôi". Hắn cắn môi, cay đắng. Hắn chợt nghĩ hình như ông trời bắt mẹ mẹ hắn đi và chọn đúng vào ngày ấy là để trừng phạt hắn, để mở mắt ra cho hắn mặc dù có muộn, để hắn tử tế hơn với những người còn sống. Mãi trưa, hắn mới dậy. Hắn rửa mặt cẩn thận rồi ra khỏi phòng. Xuống dưới nhà, hắn trông thấy mấy đứa trẻ con, liền quát: - Chúng mày không ăn cơm đi còn chờ bố làm gì. Bố mệt nghỉ một tí rồi ăn sau thì đã sao. Chợt nhớ ra là mình đang đứng trước mặt vợ con, hắn liếc nhanh vào cái gương tủ. May mà mắt hắn không còn hoe đỏ, trông không giống như người vừa khóc. Nguyễn Tường Thụy |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22274 |
Gởi ngày: 21/Aug/2019 lúc 11:50am |
Người chạy xe ôm bến Ninh Kiều |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22274 |
Gởi ngày: 24/Aug/2019 lúc 10:55am |
Mẹ và tôi
Mẹ tôi không muốn di cư sang Mỹ ở tuổi sáu mươi. “Già rồi,
sang bên ấy chỉ ăn bám vợ chồng chúng mày!”. Bà nói khăng khăng như thế nhưng
con gái xuống nước năn nỉ ỉ ôi, bà lại xiêu lòng. Ờ, nó nói cũng phải, mình qua
bên ấy giữ cháu ngoại cũng vui, lại đỡ nhớ, khỏi phải chờ mong. Mình ở đây nó
phải gửi tiền về cấp dưỡng, tốn kém lắm chớ chẳng không!” Dì tôi cười, nói như
lẩy: “Nợ đòi rồi đấy, cứ sang mà trả cho xong!”
Nghe mẹ kể lại lời dì, tôi cảm thấy hơi áy náy. Quả thật
tôi cần mẹ không chỉ thuần túy vì tình cảm. Tôi cầu cứu bà sang để chăn bầy
cháu bốn đứa. Dạo này buôn bán ế ẩm, tôi không kham nỗi tiền giữ trẻ, cũng
không thể tiếp tế đều đặn cho mẹ nên rước bà qua là nhứt cử lưỡng tiện…
Căn nhà ba phòng của vợ chồng tôi, bề ngoài trông cũng
khang trang với cây cảnh chung quanh và cửa garage tự động nhưng thật ra chỉ rộng
1100 sf. Trừ phòng ngủ chánh tương đối rộng rãi, hai phòng còn lại vuông vức,
nhỏ xíu xiu. Đất ở San Francisco là đất vàng. Căn nhà cũ kỷ năm mươi tuổi này
trị giá chừng sáu chục ngàn nhưng lô đất 4000 sf của nó giá hơn bốn trăm, dù là
nằm ở vùng ngoại ô xa tít. Thành ra cứ rán giữ, rán nắm dù mệt muốn hụt hơi. Cửa
tiệm fast food bán cho nhân viên các hãng xưởng gần đây cũng theo đà lay-off mà
đi xuống. Đến đầu tháng là chúng tôi điên đầu với đủ thứ tiền phải thanh toán.
Tư trang sắm từ những năm phồn thịnh buôn may bán đắt lặng lẽ nuối đuôi nhau đi
hết, vào nằm im nơi các tiệm cầm đồ. Chúng tôi không hề nghĩ đến giải pháp bán
nhà vì đó là gia tài duy nhất, cũng là mối kinh doanh không sợ lỗ vốn; vả lại
bây giờ đi mướn một apartment tồi tàn đủ chỗ chứa sáu người, giá thuê hàng
tháng còn mắc hơn số tiền trả góp nhà. Trong tình thế kiệt quệ này, nếu có mẹ
tôi lo cho tụi nhỏ, đưa đón đi học, quán xuyến việc nhà, tôi sẽ rảnh rang hơn để
đi làm thêm lặt vặt buổi sáng, trưa về phụ tiệm ăn với chồng tôi. Buổi tối
chúng tôi sẽ đi clean các tiệm ăn, chợ búa. Chịu khó một thời gian hi vọng kinh
tế sẽ phục hồi trở lại. Mọi người đã hăm hở đón chào thiên niên kỷ mới, ai ngờ
nó bắt đầu bằng sự xuống dốc!
Mẹ sang Mỹ vào mùa Thu. Trời khá lạnh đối với mẹ vì chưa
quen nhưng màu xanh của biển trời đã thu hút mẹ. Lũ cháu xúm xít lấy bà vì ngày
thường không ai gần gũi chúng cả. Chúng xổ tiếng Anh líu lo, thậm chí cô bé út
mới bốn tuổi cũng không rành tiếng Việt. Bà cười dễ dãi: “Sẽ có cuộc trao đổi
nhé! Bà dạy các cháu nói tiếng Việt, các cháu dạy cho bà nói tiếng Anh.” Thấy mẹ
vui, tôi an lòng. Thế là bên cạnh cái giường hai tầng của hai cô bé gái là tấm
nệm của bà ngoại. Ban đêm, ba bà cháu nói chuyện rì rầm; có khi hai cậu trai
cũng gõ cửa xin vào để được hưởng không khí đầm ầm bên bà ngoại rất hiền và rất
vui.
Mẹ như bà tiên có chiếc đũa thần đã biến căn nhà bừa bãi
đầy phiền muộn của chúng tôi thành một tổ ấm ngăn nấp, sạch sẽ và đầy tiếng cười.
Trước kia, chúng tôi chỉ dùng những thức ăn ế ẩm từ cửa hàng, lắm khi nuốt chẳng
trôi. Mẹ bảo cứ bỏ thịt bỏ rau vào tủ lạnh cho bà. Thế là mỗi chiều về gia đình
tôi được quây quần chung quanh bàn ăn có cơm canh nóng hổi, hương vị ngọt ngào.
Chỉ sau và tháng, các con tôi khỏe mạnh ra, lễ phép ra và biết phụ giúp công việc
lặt vặt trong nhà. Hai cậu con trai lớn, bà phân công lo vườn tược cây kiểng:
“Thằng Hùng mười hai tuổi, lớn rồi, lo chăm sóc các cây lớn, tỉa lá, bón phận,
Hậu cũng mười tuổi rồi, thay vì ôm máy chơi game, có thể phụ anh quét sân, tưới
nước.” Bà hiền lành nhưng nói gì các cháu cũng nghe. Chúng không còn là những đứa
bé “vô tích sự” như thuở trước. Thật ra chúng không đến nỗi tệ nhưng vợ chồng
tôi quần quật với công ăn việc làm, không có thì giờ dạy dỗ, chỉ vẽ. Bảo làm
chuyện gì, chúng thực hiện qua loa lấy có, rầy mãi phát mệt thành ra không thèm
sai biểu nữa, tự mình làm chóng xong mà vừa ý hơn. Con Hoa hãnh diện khoe với mẹ:
“Bà dạy con nấu cơm. Con biết lặt rau, rửa chén, lại biết tráng trứng nữa cơ!”
Tôi hôn con, thầm cám ơn mẹ đã cho gia đình tôi cơ hội để sống có hạnh phúc
thay vì cứ mãi rầy rà, cãi vả, gây ó nhau trong một căn nhà bề bộn, dơ bẩn.
Mẹ vốn là một Phật tử thuần thành. Thỉnh thoảng bà giảng
dạy cho tôi về đạo lý: “Hạnh phúc không phải là món quà từ đâu đến, không phải
tự nhiên mà có, cũng chẳng thể do phúc đức mà được. Mình phải biết cách sống,
biết cách hợp tác xây dựng thì mới có hạnh phúc.” Thuở ấy, đầu óc tôi quá dầy đặc
với những con số để có thể hiểu lời mẹ khuyên, vả lại cũng không có thì giờ…
Thôi thì để mẹ lo giùm. Mỗi chiều về nhìn các con ngoan, được ăn bữa cơm tối
ngon, đối với tôi đã là đủ rồi. Tôi bận rộn với nợ nần đến nỗi không mấy khi
chú ý đến tâm tình của mẹ. Bây giờ kiểm điểm lại mới nhớ rằng tôi ít hỏi thăm về
sự buồn vui của bà. Thay đổi môi trường sống, bà bỏ lại sau lưng biết bao nhiêu
thứ: chị em, họ hàng, lối xóm, sư ông, bằng hữu… Đôi khi, mắt mẹ thoáng buồn.
Tôi chỉ hỏi qua loa: “Mẹ có mệt không?” Chao ôi, rõ tệ, miệng hỏi mà lòng vái
thầm: “Mẹ đừng ngã bệnh, khổ con!” Là con một nên cách suy nghĩ của tôi thường
ích kỷ như thế. Cái gì cũng qui về mình, cho mình thôi!
Thắm thoát, mẹ ở với chúng tôi đã được một năm rồi. Gia đình
thì ổn thỏa nhưng tình trạng tài chánh càng ngày càng bết bát mặc dù vợ chồng
tôi bỏ sức lao động gấp đôi. Giao kèo mướn cửa tiệm sắp hết hạn mà chẳng tìm được
người sang lại. Không ký thêm thì mất tiệm, mất luôn năm mươi ngàn bỏ ra sang
tiệm trước kia, nhưng tiếp tục thì ngày càng thua lỗ, chẳng kham được nữa. Chuyện
gì đến, phải đến. Tháng sau đó, vợ chồng tôi lủi thủi dọn đồ về trả lại cửa
hàng cho người ta sau mười năm làm chủ. Bây giờ hóa ra là kẻ làm công, lại làm
những nghề linh tinh quét dọn. Tủi thân mà tức số phận mình. Mẹ an ủi: “Thôi,
như thế đỡ lo con ạ. Tinh thần căng thẳng quá có khi phát dại, hóa cuồng! Trong
cái dở có cái hay là thế!” Chúng tôi lợi dụng thời gian tương đối rảnh rang này
để sửa chữa căn nhà hư dột. Anh Thắng chịu khó và khéo tay nên cái gì cũng tự
làm được, đỡ tốn tiền mướn thợ. Một hôm anh leo lên mái nhà để lợp lại mấy miếng
ngói bể. Sơ ý thế nào chẳng rõ, anh trợt chân té xuống bất tỉnh. Chỉ có mình mẹ
ở nhà! Bà bình tĩnh gọi 911, vắn tắt vài câu tiếng Anh: “He falls down from the
roof. He stops breathing!”
Và rành rọt đọc địa chỉ, số phone nhà cho họ. Ai ngờ bà âm thầm học chữ Anh mau
đến thế! Bà đã cứu mạng chồng tôi! Thắng bị gãy chân và dập ống quyển. Phải nằm
tại chỗ từ năm đến sáu tháng. Tình cảnh này đưa mẹ tôi vào môi trường mới. Bà tự
nguyện thế chỗ cho chồng tôi để quét dọn, lau chùi các cửa tiệm hầu phụ giúp
tôi về tài chánh. Mẹ hăng hái trong công việc. Tôi đoán rằng ở nhà mãi mẹ cũng
buồn, nay được ra ngoài bà cảm thấy vui hơn. Bà có những người bạn mới: cô thâu
ngân vui tính, bà lão phụ trách hàng rau cải, chú “Thoòng” chuyên khuân vác. Mẹ
hòa mình với họ, với cuộc sống của những người lao động tay chân. Đâu ai biết rằng
trước 1975, mẹ là giáo sự dạy Pháp văn tại một trường công lập lớn ở Sài Gòn.
Các con tôi biết hoàn cảnh bi đát của gia đình nên mỗi đứa một tay, cùng nhau
lo chuyện nhà. Mẹ tôi hài lòng thấy các cháu tự ý thức được trách nhiệm, biết
thương mẹ thương cha.
Ngày anh Thắng trở lại
công việc, tôi xin mẹ ở nhà nghỉ ngơi. Mẹ nói: “Con ơi, ra ngoài cũng vui, lại
kiếm được đồng tiền. Từ ngày đi Mỹ đến nay đã gần hai năm, mẹ chưa gửi tiền về
giúp các em, các cháu bên ấy. Tụi nó nghèo lắm mà chẳng có cách kiếm ra tiền
cho kịp đà leo thang của vật giá. Bên này kiếm tiền dễ hơn. Có tiền, mẹ lại có
phương tiện cúng dường, bố thí…” Tôi im lặng nghẹn ngào, chợt nhớ rằng mẹ chưa
hề hỏi tôi một đồng xu nào và tôi quên bẵng rằng mẹ cũng có nhu cầu tiêu xài.
Trên thế gian này, không có nhân viên nào làm việc cật lực mà không đòi hỏi thù
lao như thế! Vô tình, tôi đã “đòi nợ” mẹ tôi một cách tận tình. Dì tôi cũng có
lý khi bà mỉa mai tôi.
Trong lúc tôi đăm
chiêu, mẹ nhẹ nhàng tiếp: “Mẹ đã xin được chân rửa chén trong nhà hàng. Rửa bằng
máy chả cực nhọc gì!” “Trời đất ơi, rửa chén, cần sức lực của người đàn ông Mễ
mới kham nỗi. Nồi niêu soon chảo to như cột đình, nặng như búa tạ, làm sao mẹ
nhấc cho nổi!” Tôi xuống giọng tiếp: “Mẹ nhìn lại mẹ xem. Tay mẹ gầy yếu, lưng
mẹ đã cong, bước đi không còn nhanh nhẹn. Dù họ cần người, mướn tạm, vài hôm
cũng cho nghỉ việc thôi!” Bây giờ tôi mới có dịp nhìn kỹ mẹ. Bà già thật rồi,
cái già đến nhanh quá. So với hồi mới qua, bà như tăng thêm năm, bảy tuổi. Mẹ
tôi cúi đầu xuống thấp. Hình như bà cố giấu giọt lệ vừa ứa ra. Tôi nhẹ nâng cầm
mẹ lên và nhìn sâu vào đôi cửa sổ tâm hồn ấy. Trời ơi, mắt mẹ đã kéo mây! Đôi mắt
bồ câu đen láy ngày nào từng làm điên đảo các chàng trai cùng trang lứa, cột
chân ba tôi vào tổ ấm gia đình, giờ đã một phần ngả màu đục lờ như nước gạo vo.
Tóc mẹ trắng bơ phờ, đuôi mắt nhăn như rẻ quạt, vầng trán sạm đen vết đồi mồi…
Tôi mủi lòng xót xa. Hai mẹ con ôm nhau, nước mắt người này thấm ướt vai áo người
kia. Tôi nhỏ nhẹ: “Con không dám trái ý mẹ, nhưng mẹ rán chờ. Con hứa sẽ tìm
công việc nhẹ nhàng hợp với mẹ hơn, mẹ nhé! Vong hồn ba mà biết mẹ cực khổ thế này
chắc khó siêu.” Trời cũng thương tình. Đâu chừng một tháng sau thì bà lão làm
rau cải xin nghỉ việc về hưu. Mẹ tôi trở thành “bà cụ hàng rau”. Danh xưng và
chức vụ gắn liền với mẹ tôi từ đấy. Vậy mà bà vui. Mỗi tháng bà lãnh được hơn
ngàn bạc. Phân nửa số tiền, bà gửi về Việt Nam: phần cúng dường, phần bố thí,
phần giúp đỡ các em, các cháu. Số còn lại, bà dành dụm mấy kỳ lương, đưa tôi
hơn ngàn bạc. “Mẹ thấy người ta dựng phòng trong garage cũng tiện lắm. Nếu chồng
con không phiền, con lấy tiền này nhờ nó mua vật liệu, che tạm cho mẹ một căn
phòng nhỏ. Con Hoa, con út bắt đầu lớn, tụi nó cần sự riêng tư. Mẹ cũng vậy, có
phòng riêng mẹ sẽ dựng kệ thờ Phật, mỗi ngày mẹ có thể lễ bái, tụng kinh, niệm
Phật…” Chồng tôi nghe kể lại, vui vẻ đáp: “Chuyện nhỏ! Mẹ muốn gì anh cũng xin
vâng, nói chi việc ấy!” Từ đấy, mẹ lộ vẻ hoan hỉ lắm. Sáng tối hai thời, ít khi
nào bà bỏ lỡ công phu. Bà như một người đạt được mục tiêu cho đời mình, không
có gì để ưu tư, khắc khoải.
Mùa Đông năm ấy, thời
tiết hơi khác thường. Ban ngày ấm áp xen kẽ với những đêm buốt giá mà nhiệt độ
đôi khi hạ thấp đến không ngờ. Vợ chồng tôi mời mẹ tạm trở về phòng cũ vài ba
tháng, ngoài garage lạnh quá dễ sinh bịnh. Mẹ nói: “Ở chỗ này quen rồi, dời đi
khó ngủ.” “Mẹ nhớ vặn sưởi cho đủ ấm nhé!” “Ờ, tao biết mà!” Ngờ đâu mẹ đã
không qua khỏi mùa Đông! Buổi sáng chẳng thấy mẹ dậy sửa soạn để đi làm, tôi bảo
“đứa nào ra đánh thức bà dậy, nhanh lên kẻo trễ!” Con Hoa quấn mền đẩy cửa bước
ra garage miệng kêu léo nhéo. “Ngoại ơi, ngoại à…” Không có tiếng trả lời… Nó bật
đèn, tiến đến cạnh giường: ngoại quấn hai cái mền kín mít, nằm im ỉm. Nó lắc
chân ngoại, bà chẳng đáp. Nó lôi cái mền xuống: mặt bà xám xịt, lạnh ngắt, đôi
mắt khép hờ… “Mẹ ơi, mẹ! sao kỳ vầy nè!” Cả nhà đổ xô ra. Chồng tôi đạo Chúa, vội
làm dấu thánh giá… Tôi xỉu ngay tại chỗ khi loáng thoáng nghe thằng Hùng la
lên: “Sao bà không mở sưởi?” Cuộc điều tra của cảnh sát quấy rầy chúng tôi một
thời gian, cuối cùng họ kết luận: “Bà cụ không thường mở sưởi; cái máy mua hai
tháng về trước còn mới tinh chưa hề được sử dụng!”
Tôi như người mất hồn
trong đám tang của mẹ. Sự hối hận như lưỡi dao có răng, nó cưa xé lòng tôi.
Trái tim tôi cơ hồ rỏ máu thành những giọt lệ hồng. Bạn bè khuyên tôi nên đến
chùa xin cúng thất, thiết lễ cầu siêu cho bà. Tôi chẳng thể nói năng chi cùng vị
sư ở chùa, chỉ biết dập đầu lạy cầu cứu với đôi mắt sưng húp. Chồng tôi bình
tĩnh hơn, anh buồn bã kể đầu đuôi tự sự. Câu chuyện khiến thầy thương tâm, thầy
thường an ủi, khuyên giải sau những thời lễ cúng. Khi thấy tôi bắt đầu trở lại
bình thường, thầy dành cho gia đình chúng tôi một thời pháp thoại. Thầy giảng về
lý vô thường, khổ, không. Các con tôi tỏ ra thích thú với sự thật giản dị và
sâu sắc này, chúng đòi được học giáo lý đạo Phật thay vì đi nhà thờ với ba.
Riêng tôi, tôi nhớ mãi câu kết luận của thầy trong buổi nói chuyện ấy: “Con người
ta sở dĩ đau khổ triền miên là tại mình muốn nắm giữ! Cái gì cũng khư khư ôm chặt.
Làm sao giữ mãi được vì bản chất của chúng là vô thường, là không. Hãy buông bỏ
hết đi, chừng nào bỏ được, chừng ấy mới có chân hạnh phúc!” Phải rồi, nếu chúng
tôi không bám chặt vào căn nhà thì mẹ tôi đã không phải vất vả đến thế, không đến
nỗi chết cóng ngoài garage. Và gia đình tôi không lụy đến mức này. Tôi thỏ thẻ
bàn với chồng: “Anh à, căn nhà này mình không giữ nỗi thì bán nó đi. Em tính rồi,
sau khi thanh toán hết nợ nần mình cũng còn vài trăm ngàn. Dọn sang Texas, nhà
cửa rẻ hơn, mình có thể tậu căn khác hoặc là giữ làm vốn, tính chuyện làm ăn…”Ờ
nhỉ, hồi đó sao mình ngu quá, cứ ôm lấy nó mà cắm cổ đi cày trả nợ. Liệu giữ
không được thì sớm buông đi… Nhờ ông thầy giảng dạy, mình mới sáng mắt ra!”
Sau khi dọn sang
Texas, trước khi bắt tay vào công ăn việc làm, tôi đến quì dưới chân sư ông kể
lể hết sự tình, xin sám hối thì lòng tôi mới có thể yên. Sư ông trầm ngâm và
yên lặng nghe tôi vừa khóc rấm rức vừa kể về mẹ tôi, đệ tử mà người rất quí mến.
Sư ông không hề cắt ngang bằng những câu hỏi. Người không phê phán gì, chỉ để
yên cho tôi khóc, khóc oà vỡ như cái đập nước bị ngăn chận, nay có người tháo
ra… Mãi một lúc lâu lắm sau đó, sư ông mới dạy: “Người mẹ nào cũng có trái tim
Bồ Tát. Mẹ con hành Bồ Tát đạo ngay trong gia đình trước khi mở rộng ra trong
cuộc sống với mọi người. Con hãy hảnh diện có bà mẹ như thế! Con sẽ không cảm
thấy hối hận ray rứt nữa nếu con biết đi theo hướng đi của mẹ con, biết xả bỏ
cái tôi vị kỷ để lo cho người chung quanh.” Tôi sụp xuống đảnh lễ người đã chỉ
cho tôi tháo mở cái gút dây kết mối ân hận trong tôi. Tôi trở về Texas với sự
bình yên và tâm nguyện cao cả… Nhưng khi mùa Vu Lan về, cầm hoa trắng trên tay,
tôi không thể ngăn được những giọt lệ hồng phát xuất từ trái tim tôi… Than ôi!
Khi tôi biết nghĩ tới mẹ, biết giá trị của trái tim bồ tát, biết thương mẹ thì
bà đã không còn nữa trên đời…
Diệu Nga
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 126 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |