Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 108 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23635
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 08/Sep/2023 lúc 10:12am

Trung Úy Huỳnh 


Anh Huỳnh có vóc dáng giống nghệ sỹ Thanh Tú nhưng anh không phải là kép Cải lương, anh chọn ngành bình nghiệp của bình chủng Địa Phương Quân thuộc Tiểu Khu Gia Định, anh được cấp trên bổ nhiệm làm Đại Đội Trưởng đại đội 3/665 đóng quân vùng Mỹ Thủy -Thạnh Mỹ Lợi với cấp bậc Trung úy.

***

Rời trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp ở Bà rịa về lại trại Ngô Tùng Châu trên đường Ngô Tùng Châu, đám tân bình lính sữa tò te tụi tui nằm chờ phòng quân số Tiểu khu đưa về các đơn vị trong tỉnh, nằm chờ cả tuần lễ mà chưa thấy động tịnh gì, một số bạn tui rủ rê ” Chui lổ chó” để về thăm nhà, bạn đầu tui cũng chết nhát không dám tham gia nên tui bàn ra:

– Chèn ơi! Tụi bây gan thiệt, trong mình không có tờ giấy lộn chứng mình là lính tráng gì ráo, ra đường lớ quớ gặp mấy cha ‘ Quét chợ” (Xin lỗi mấy anh Quân cảnh) mấy ổng “lượm” mình liền , rồi họ đưa về Quân vụ thị trấn cho muỗi mòng làm thịt mình chịu đời sao thấu.

Nghe tui nói vậy, thằng Thể (đã chết sau khi ra đơn vị được chừng bảy tháng) nó cự tui liền:

– Tụi mình cực khỗ ba tháng quân trường rồi, đúng ra tiểu khu phải cho anh em về phép thăm nhà vài bữa, chứ ăn dầm nằm dề kiểu này chán chết, mầy không ‘Dù” thì ở lại giữ đồ giùm tụi tao, khi trở vô có đồ ăn ngon tụi tao cho mầy ké.

Thằng Phích bạn thân của tui, nó đứng cửa giữa phân trần:

-Thằng Hùng nói cũng đúng, nhưng thằng Thể nói cũng có lý, thôi ai muốn thì dù, ai sợ thì ở đây ăn cá mối chiên tiếp đi nha.

Nói dứt câu thằng Phích phá lên cười, mấy đứa bạn gần đó cũng cười rần lên, tui gượng gạo nói:

– Ừ thì dù, có gì thì “Nằm chuồng cọp” cả đám cho có anh có em..

***

Thế là tui tui chui hàng rào kẽm gai để về thăm nhà, vừa ló mặt tới chợ cây Quéo tui thấy bốn anh Quân Cảnh đang xét giấy tờ, quíu giò quíu cẳng tui chưa biết cách nào để qua cửa ải này, tự dưng tui phản xạ có điều kiện, tui ngồi bệt xuống đất tháo đôi giày ra cầm trên tay, rồi tháo áo ra khỏi lưng quần, lè phè giống như mấy người ham vui lấy đồ lính mặc chơi chứ không phải là lính thứ thiệt, tui bậm gan đi qua mấy anh Quân Cảnh và trong bụng không quên niệm Phât cầu mong được ngài che chở , chắc trời Phật ở xa quá chưa nghe để cứu khổ cứu nạn cho tui, anh Quân Cảnh gần tui nhất đã lấy cái tu huýt thổi một hồi dài rồi ra hiệu cho tui đừng lại, anh ta đưa tay lên chào tui, tui cũng chào lại anh cho đúng lể nghi quân cách, anh hỏi tui:

– Trời lính tráng đơn vị nào Vậy ông cơn, mang giày vô , bỏ áo vô quần và gom ống quần lên đàng hoàng coi.

Tui như còn thằn lằn đứt đuôi sợ gần chết, trong bụng thầm nghĩ chuyến này chắc thế nào cũng bị nhốt ở Quân vụ thị trấn, tui lí nhí trả lời với anh ta:

– Thưa Trung sỹ, em tân bình mới mãn khóa về chờ ra đơn vị, nhớ nhà quá nên mới lén về thăm nhà, em ở trại Ngô Tùng Châu gần đây nè.

Viên Trung Sỹ mĩm cười và nói:

– Thì ông cứ mặc đồ bình thường, mắc chứng gì cỡi ra hết ráo vậy, thôi lên xe về quân vụ thị trấn nghỉ mát vài bữa nha.

Tui điếng hồn lật đật ca bài ca “con cá” liền :

– Trung sỹ thông cảm, nhớ nhà quá, về thăm chút xíu trở vô liền, nhà em chỗ Mỳ cây gòn ngó vô chừng trăm thước thôi.

Có lẽ thấy tui mặt còn búng ra sữa nên anh ta nói:

– Nói vậy thôi, tui tha cho ông lần này đó, mai mốt không ăn mặc lôi thôi mất mặt bầu cua lắm nghe ông.

Tui rối rít cảm ơn anh Quân cảnh tốt bụng này, thầm mong nếu gặp lại lần nữa tui sẽ trả ơn cho anh.

Tui lội bộ về tới gần ngã ba Võ Cây Trường ( nay là Lê Quang Định – Nguyên Hồng) thì bị cô gái chạy chiếc Honda Dame đụng từ phía sau, tui ngã xuống đường với cái cùi chỏ rướm máu, cô gái sợ hãi đỡ tui ngồi đây rồi cô rút khăn mù soa ra làm khăn chậm vết máu cho tui, như để chuộc lỗi cô ta ân cần hỏi :

– Anh có khỏe không, em vội quá nên lỡ đụng phải anh, em thành thật xin lỗi, để em đưa anh về nhà nhé.

Mùi nước hoa thơm nhẹ của chiếc khăn bay lên mũi khiến lòng tui lâng lâng, tui tạm quên cái đau của cô gái gây ra cho mình, tui đứng lên và tỏ ra đấng “Nam nhi chi chí”, tui phán một câu:

– Anh là lính, làn tên mũi đạn anh còn không ngán, vết thương này nhằm nhò gì cô bé ơi ( Tui nổ đó).

Cô bé cười duyên và cảm thấy nhẹ lòng khi nghe tui nói câu trên, cô ta liếng thoáng xin tui cái địa chỉ để hôm nào ghé lại thăm làm quen, tui ghi cho cô bé cái địa chỉ vô cuốn sổ, cô nhận rồi hứa chắc như đính đóng cột sẽ đến thăm tui trong thời gian sớm nhất, chia tay cô gái tui về nhà, trên đường tui hứng chí hát câu :

– Ngựa phi ngựa phi đường xá, tiến trên đường nắng chói chói lóa …

Thay vì tui ở nhà chừng hai mươi bốn tiếng nhưng vì hy vọng cô gái nọ đến thăm mình nên nấn ná ở thêm một ngày nữa cũng chẳng thấy bóng dáng nàng ta, tui thầm nghĩ: ” Có lẽ cô nàng sợ tui bị vết thương hành nặng hơn, hoặc xui xẻo tui chết bất tử sau khi bị cô nàng đụng, nếu đến thăm thì khác nào mang hoa vào thân, nàng dùng chiêu né là thượng sách rồi còn gì.

Tui trở lại trại Ngô Tùng Châu, vừa đến cổng gặp ngay ông Thượng sỹ Như đại đội phó tân binh của tụi tui, ông réo lên liền:

-Anh Hùng kia, cả gần dám chui hàng rào dù về nhà hả, Năm chục cái nhảy xỗm, năm chục cái hít đất cho tui,thì hành xong cái phạm tội đó còn ăn vài hèo vô bàn tọa nữa.

***

Tám đứa tui được đưa về Đại đội 3/665 đang đóng đồn tại cầu Mỹ Thủy (Nằm trên đường ngã ba Cát lái đi về Thành Tuy hạ). Chiếc GMC vừa dừng tại chân cầu, viên cán bộ Đại đội đi nhận Tân binh về, ông ta hối thúc tụi tui xuống xe vô trình diện Đại Bàng, đứng ở sân cờ ngay hàng thẳng lối thì tui thấy một viên Trung úy trẻ măng , đẹp trại với bộ quân phục ủi hồ thẳng nếp, ông tiến lại trước hàng quân, tự giới thiệu

-Tôi Trung úy Huỳnh, Đại đội trưởng Đại đội mình ở đây.

Ông nói sơ về tình hình tổ chức và cách phối trí lực lượng ở đơn vị, sau đó ông kêu thường vụ Đại đội chia tụi tui xuống Trung đội bên dưới.

Tui được đưa về Trung đội 2 , đóng quân ở nhà chú thím Tám có hai cô còn gái sinh đôi rất đẹp, chắc cũng nhờ mấy bóng hồng này thủ thỉ hàng ngày nên tụi tui cũng vui trong bụng

Ở Trung đội tui theo mấy anh em lội ruộng hành quân liên miên, tuy không đụng trận nào nhưng vất vả vô cùng, nên bữa nọ buồn quá tui lại “Dọt” về nhà chơi ba ngày, đến ngày lên đơn vị tui bị ông Thượng sỹ Hà phạt và trả về Đại đội với lời phê, “Lính ba gai”.

Trình điện TrungúyHuỳnh ông phạt tui năm chuồng cọp tức thì, ông còn hăm tui mẻ răng, nếu tái phạm sẽ kỷ luật nặng hơn.

Nằm trong chuồng cọp là hàng rào kẽm gai thấp lè tè, trong lòng buồn vô hạn, tuy vậy chừng ba chục phút sau, ông Huỳnh cho tui vô gặp ông, khi ngồi đói diện tui, ông lên tiếng hỏi:

– Anh thấy em nhà ở Gò Vấp hả, muốn về thăm nhà sao không xin phép rồi về, em đi như vậy là vô kỷ luật, mơi mốt đừng làm vậy nữa nghe.

Sau một hồi phân tích cho tui nghe về lỗi lầm mình gây ra vừa quá, TrungúyHuỳnh nói với tui :

– Anh rút Hùng về Đại Đội luôn, ở đây phải làm việc cho đàng hoàng đừng bà gai nữa nhé.

Tui mừng rỡ vô cùng, vì ở Đại đội thì chữ Thọ sẽ cao hơn ở Trung đội, vì ít khi đi hành quân và có dịp đi lòng vòng chơi trong xóm ấp Mỹ Thủy.

Rồi một bữa nọ bất chợt tui nghĩ, sao tự nhiên ông Huỳnh tốt với tui dữ thần vậy, ông nâng đỡ tui đủ điều, thậm chí khi có khóa học chuyên môn ông cũng ưu tiên giành cho tui, nghĩ hoài nhưng không có lời giải.

Một hôm tui đang ngồi đánh cờ tướng với anh Mỹ một người lính lão làng trong đơn vị, TrungúyHuỳnh đậu chiếc xe HonDa ss67 của ông kế bên hai tiên ông, TrungúyHuỳnh lấy trong túi xách một ổ bánh chuối nướng thật thơm cho hai đưa tui ăn, anh Huỳnh nói:

Về nhà chị bây biết có Hùng cũng là dân Gò vấp nên chị có làm ổ bánh đãi nè, chị còn nói hôm nào lên gặp Hùng để hỏi thăm cho vui, vì vậy từ nay anh Huỳnh ở đây có người cùng quê là vui lắm rồi.

Lại có khóa học chuyên môn gửi về đơn vị, anh Huỳnh kêu tui vô văn phòng Đại đội anh nói:

– Chuẩn bị hành trang Hùng theo học khóa này đi, sau này có tương lại hơn vì ít khi ra mặt trận.

Nhận sự vụ lệnh từ tay anh Huỳnh trao cho tui, tui ứa nước mắt, vì anh cho biết khi mãn khóa có khi tui được thuyên chuyễn đi đơn vị khác, trước khi đưa tui ra khỏi cổng đồn, anh Huỳnh móc trong bóp đưa cho tui hai ngàn đồng làm lộ phí,

Tui lên xe từ giã Đại đội, từ giã ông anh Trungúy thân thương của tui mà lòng tui nặng trĩu, vì ra đi lần này chưa hẹn ngày trở lại, chiếc xe chở tui đi xa dần khi cầu Mỹ Thủy chỉ còn một cái bóng mờ, tự dưng tui thấy mằn mặn ở khóa miệng, tui đã rơi lệ lúc nào chẳng hay.

***

Xong khóa học, đúng như dự đoán của anh Huỳnh tui được thuyên chuyển qua đơn vị khâc, làm việc với ông sỹ quan mới tui không thích chút nào, ông này vừa hách dịch vừa muốn kiếm ăn ở mấy người lính khiến tui bất mãn vô cùng, nhưng nghiệp nhà binh dù không vừa lòng cũng phải làm việc, còn nếu như không còn sức chịu đựng thì đành dứt áo ra đi tím đơn vị khác mà phục vụ

***

Bẳng đi một thời gian, tình cờ tui gặp lại thằng Phích bạn tui, hai đứa mừng mừng tủi tủi, tui hỏi thăm về TrungúyHuỳnh thì Phích buồn bã kể rằng, tui đi khỏi đơn vị một thời gian thì đơn vị cũ đụng trận liên miên, Anh Huỳnh của tui bị thương nặng trong một lần hành quân vùng bưng ông Thoàn, Khi tản thương anh về quân y viện cộng hòa dó vết thương nhiễm trùng và bị hoại tử nên bác sỹ đành cưa đôi chân của anh, nghe đến đây tui bật khóc, thương cho người anh tinh thần hết lòng nâng đỡ mình, nếu không có anh TrungúyHuỳnh có khi giờ này tui cũng đã “Xanh cỏ” từ lâu.

***

Dòng đời cứ tuôn chảy, tui miệt mài theo cánh quân đi quân hành, ngày tàn chính chiến tui lân la tìm đến xóm anh Huỳnh ở trên một góc đường Nguyên Du Gò vấp, bà còn gần đó nói gia đình anh về quê khá lâu khi anh xuất viện làm thương bình.

Tui thẩn thờ nhớ lại đoạn đời mình đã đi quá, hình ảnh anh TrungúyHuỳnh hiên ngang trên chiến địa nhưng có tấm lòng nhân hậu với thuộc cấp của mình trong đó tui là một điển hình, anh Huỳnh ơi, giờ này anh ở đâu, Hùng lúc nào cũng nhớ ơn anh, vì anh đã cứu cuộc đời chú lính sữa ngày xưa quá cơn bĩ cực, xin anh nhận nơi đây lòng thành kính và biết ơn vô hạn của em nhé.


Hai Hùng SG
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23635
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 08/Sep/2023 lúc 10:14am

Chuyện Một Lá Cờ 


Nhiều bạn theo dõi các bài viết của Bông Lau nhiều năm nên biết mình không cuồng và làm to chuyện mấy lá cờ vàng đỏ, vì đó là chính kiến của mỗi người và cũng là thói quen họ đã sống dưới lá cờ ấy. Nhưng.

Năm 2016 trong một chuyến về Việt Nam xạ thủ muốn đi thăm Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa (Việt Nam Cộng Hòa) vì chưa bao giờ đến đó lần nào trong đời.

Trước chuyến đi xạ thủ tìm mua hai lá cờ vàng ba sọc đỏ ở Wahington DC để đem về Việt Nam vì thiết nghĩ những ngôi mộ của tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa cần phải có lá cờ của họ phủ lên. Đó chỉ là nghi thức mà thôi, như tử sĩ miền Bắc thì có cờ đỏ sao vàng đắp lên.

Dĩ nhiên chuyện vào Nghĩa Trang Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa phủ cờ vàng không dễ dàng chút nào, vì có cái thằng làm việc ở cái nhà nhỏ gần cổng ra vào tỏ vẻ khó chịu sau khi thấy xạ thủ xuất trình p***port Mỹ.

Sau khi xuất trình giấy tờ xạ thủ đi bộ với anh tài xế taxi thuê đi từ Sài Gòn. Hai anh em đi dạo trong nghĩa trang để tìm những ngôi mộ vô danh hoang phế nhứt và hỏng còn bia mộ xi măng ở trên nữa. Để đắp lá cờ cho người nằm ở dưới đỡ tủi thân.

Khi đi lang thang tìm những ngôi mộ bỏ hoang thì cái thằng làm ở căn nhà đăng ký ở cổng ra vào đi xe gắn máy rề rề qua lại theo dõi, nên cũng hỏng dám kéo cờ vàng trong ba lô ra sợ nó xông tới làm khó dễ hay kêu công an tới bắt. Sau được anh tài xếTaxi  tốt bụng tâm sự “Chú em là lính Thủy Quân Lục Chiến (VNCH)”. Rồi ảnh tình nguyện ra đứng ở con đường mòn nghĩa trang để canh cái thằng mắc dịch kia.

Cuối cùng tìm được mấy ngôi mộ hoang phế ở một địa điểm kín đáo để làm lễ. Anh tài xế taxi đứng xa xa với khuông mặt gay gắt nhìn qua lại quan sát. Xạ thủ đắp hai lá cờ nhỏ lên hai ngôi mộ vô danh rồi lui ra đứng nghiêm chào những người chiến sĩ vô danh. Đơn giản chỉ zậy thôi.

Trên đường dìa Sài Gòn biểu anh taxi thả ở Bình Dương để thăm gia đình mấy đứa em họ. Tụi nó bi giờ là đại gia. Căn nhà đồ xộ mấy tầng có tường xi măng xây chung quanh. Bên trong có mấy chiếc xế xịn. Có mấy căn cho người giúp việc ở phía sau. Con trai tám chín tuổi gì đó thì được tài xế chở lên Sài Gòn học tiếng Anh ở cơ sở tư nhân có uy tín do người nước ngoài dạy.

Đứa em giờ đây là một giám đốc của một nhà máy sản xuất hàng hóa qua Âu Châu và Hoa Kỳ. Có lần mình tới coi cho biết thấy nhà máy có nhiều ống khói cao. Có khu nhà bàn cho nhân viên, có sân đá banh cho nhân công chơi sau giờ làm việc. Khi ấy cũng mừng cho gia đình đứa em đã thành công trong thiên đàng xã hội chủ nghĩa.

Nhiều năm trước thì gia đình đứa em rất nghèo. Ba nó là sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa nên bị bắt đi tù cải tạo vài năm. Mấy đứa con phải đi bán khoai lang dạo sống qua ngày. Rồi dọn lên vùng kinh tế mới. Má nó là một giáo sư trung học tốt nghiệp đại học Sài Gòn trước 1975, khi ấy đã trở thành một nông gia bất đắc dĩ với cày cuốc lam lũ.

Thời gian mấy đứa em bị đói khổ, xạ thủ có nhận được nhiều thơ của tụi nó. Chúng nó rất thông minh và viết thơ rất hay, văn chương lai láng nhẹ nhàng mà thâm sâu. Nó ai oán chửi chế độ theo cách viết của người lễ giáo. Ba nó được thả trở về với gia đình cũng làm thơ đá giò lái Cộng Sản rất hay.

Năm 2013 xạ thủ về thăm Việt Nam và có đến thăm gia đình mấy đứa em. Bàng hoàng thấy gia đình nó giờ đã thay đổi về phương diện vật chất. Có lẽ nhờ trí tuệ nên nó mới trở nên giàu có.

Những bữa ăn trưa như ăn tiệc có cao lương mỹ vị ê hề mà xạ thủ chỉ thích chén cơm rau có canh chan vào với tình cảm gia đình là đủ. Nó lấy ra mấy chai rượu vang hỏi anh thích uống loại nào, làm xạ thủ ngẩn ngơ. Xạ thủ có uống rượu vang khi ăn trưa bao giờ đâu mà biết. Bỗng thấy mình quê mùa nghèo nàn trước những đại gia Việt Nam.

Có vài lần xạ thủ đề cập đến dân oan Văn Giang, các vụ bắt bớ vì chống đối, các phong trào kháng chiến v.v…Ba của tụi nó thẳng tánh nên nói toẹt ổng hỏng thích thay đổi chế độ nữa, vì sợ tình hình xáo trộn sẽ làm mấy đứa con khổ. Ổng giờ đã già, hết làm thơ đấu tranh mà làm thơ về lãnh vực văn hóa. Mấy đứa em họ thì lễ phép dạ thưa anh tối ngày nhưng tránh hỏng bàn tới chuyện chính trị.

Trưa hôm ấy từ Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa ghé đợi ăn trưa với gia đình mấy đứa em. Trong khi đợi mấy người giúp việc lăng xăng nấu nướng dưới bếp. Xạ thủ ngồi nói chuyện với đứa em họ và thằng quý tử của nó. Đứa em hỏi anh đi Biên Hòa dìa zui hong?

Xạ thủ kể vào Nghĩa Trang phủ cờ vàng ba sọc đỏ lên mấy ngôi mộ vô danh. Rồi bất chợt lấy ba lô kéo hai lá cờ vàng ra khoe đứa em. Sự việc diễn ra quá bất ngờ và đứa em cũng phản ứng bất ngờ không suy nghĩ. Nó vội vã lấy hai tay che mắt thằng con quý tử như thể lá cờ kia sẽ làm nhiễm độc trí óc non nớt của thằng bé.

Đứa em họ hình như biết mình đã hố trước một người anh bà con bao nhiêu năm lưu lạc từ Mỹ trở về. Nó bẽn lẽn ngượng ngùng giải thích cho cậu quý tử “Cờ của chế độ cũ đó con...”.

Xạ thủ bỗng hiểu lòng người đã đổi thay. Những lá thơ ai oán mơ ước một khung trời tự do năm xưa của nó đã chìm vào quên lãng. Niềm tự hào “gia đình của chúng ta đã xây dựng rất nhiều cho miền Nam” không còn nữa. Đồng tiền vạn năng đã biến đổi con người. Và đó là lần sau cùng xạ thủ thấy và gặp những người bà con ấy.


BÔNG LAU

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23635
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Sep/2023 lúc 1:06pm

Những Mùa Mưa Trong Ký Ức 


Dường như mỗi khi trời đổ những cơn mưa thường làm cho người ta dễ thấy chạnh lòng, thiết tha nhớ tới một điều gì – một cuộc tình đã lỡ, một người thân đã chia xa, hay một quê hương đang cách biệt đến nghìn trùng. Với tôi, mỗi lần nhìn mưa rơi, nhất là những ngày mưa tầm tã, tôi da diết nhớ tới đơn vị xưa, hình dung từng khuôn mặt đồng đội, bạn bè, đã chết hay đang lưu lạc tha phương, và hồi tưởng tới các cuộc hành quân trong những mùa mưa thuở ấy.


Trong hơn mười năm binh nghiệp chỉ phục vụ ở những đơn vị tác chiến, tôi đã tham dự biết bao cuộc hành quân, nhưng không hiểu vì sao tôi chỉ nhớ thật nhiều đến những cuộc hành quân trong mưa thuở đầu đời lính chiến. Có lẽ đó là thời điểm vừa giáp mặt với thực tế chiến trường, và với chức vụ thấp nhất của một sĩ quan: trung đội trưởng – sát cánh với đồng đội, và thường phải cùng chiến đấu với họ như một khinh binh.

Tháng 3 năm 1965, rời khỏi quân trường, tôi được bổ nhậm về một Sư Đoàn Bộ Binh. Khi trình diện Bộ Tư Lệnh có bản doanh đặt tại thành phố Ban Mê Thuột, tôi cứ ngỡ cuộc đời mình rồi sẽ gắn liền với vùng núi rừng cao nguyên đất đỏ, gió bụi mưa bùn này. Nhưng cùng với ba thằng bạn cùng khóa, tôi được bổ sung cho một tiểu đoàn lưu động, được Quân Đoàn tuyển chọn, sử dụng làm lực lượng tiếp ứng cho cả Quân Khu. Để trấn an và khích lệ tinh thần cho bốn thằng lính mới, ông Đại Tá Tư Lệnh hết lời ca ngợi tiểu đoàn này – là một đơn vị đánh đấm có tiếng, đã lập nhiều chiến công hiển hách, mà mới nhất là chiến thắng Đa Ngư Phú Lạc và Vũng Rô Đá Bia hơn ba tháng trước. Ông còn bảo: “các chú còn trẻ, về đơn vị này sẽ có dịp được rong chơi khắp các tỉnh từ duyên hải đến cao nguyên của Vùng 2 Chiến Thuật mà lại có cơ hội kiếm được nhiều huy chương.”

Đưa tay lên tấm bản đồ lớn treo trên vách với đầy hình những mũi tên xanh đỏ, ông chỉ cho bọn tôi vị trí tiểu đoàn hiện đang hành quân tảo thanh, truy kích địch tại một khu vực thuộc Tỉnh Lâm Đồng, sau khi vừa tiếp ứng, giải vây cho một đơn vị Biệt Động Quân bị địch phục kích và cầm chân trong một khu đồn điền trà khá lớn.


thủ tục trình diện vị Tư Lệnh, bọn tôi được ông Đại úy Trưởng Phòng Nhất đưa ra Câu Lạc Bộ Sĩ Quan, nằm ở trung tâm thành phố, tạm nghỉ ngơi ở đây để chờ theo phi cơ quân sự đáo nhậm đơn vị. Thời ấy, phương tiện tương đối khó khăn nên mãi đến ba tuần sau, nhân có chuyến bay C-47 đưa vị Tư Lệnh Sư Đoàn đi họp ở Nha Trang, bọn tôi mới được tháp tùng. Và cũng chính lúc ấy, chúng tôi mới biết là tiểu đoàn của chúng tôi đã từ Lâm Đồng vừa mới di chuyển về Nha Trang ngày hôm qua, để tham dự một cuộc hành quân đặc biệt, giải tỏa áp lực địch nhằm tái chiếm một khu vực tại Quận Diên Khánh thuộc tỉnh Khánh Hòa, địch quân đã lợi dụng tình trạng mưa lụt khá lớn, đánh chiếm hai ngày trước. Một số cán bộ xã ấp bị bắt, giết, một đại đội Địa Phương Quân phải rời khỏi vị trí sau khi bị tổn thất khá nặng. Số tử thương chưa lấy được xác và khoảng mười binh sĩ hiện còn đang thất lạc.


Ông Đại úy Tiểu Đoàn Trưởng đón chúng tôi tại phi trường. Thay vì đưa về đơn vị, ông chở chúng tôi đến Hotel Phụng Hoàng, nằm trước ga xe lửa Nha Trang. Thời ấy, Tiểu Khu nào được tăng phái một tiểu đoàn chủ lực thiện chiến là điều rất đáng mừng, nên ông tỉnh trưởng đã ưu ái dành cho tiểu đoàn chúng tôi bốn phòng ngủ lớn trong hotel này để các sĩ quan sinh hoạt, họp hành. Ông tiểu đoàn trưởng giới thiệu chúng tôi với tất cả sĩ quan trong đơn vị, đặc biệt trình diện đại đội trưởng của mình. Cả bốn anh đại đội trưởng đều mang cấp bậc trung úy, lớn tuổi nhất là anh tốt nghiệp Khóa 8 Thủ Đức, và trẻ nhất là một anh tốt nghiệp khóa 16 Võ Bị Đà Lạt. Tôi về Đại Đội 3, đại đội trưởng là một trung úy tốt nghiệp Khóa 13 Thủ Đức. Anh là đại đội trưởng ít thâm niên nhưng xuất sắc nhất của tiểu đoàn, đã đánh thắng nhiều trận và thăng cấp khá sớm, đều được đặc cách tại mặt trận. Các sĩ quan đàn anh còn lại, có ba anh cùng Khóa 19 Võ Bị, một anh Khóa 4 Đặc Biêt Đồng Đế gốc Thiếu Sinh Quân và các huynh trưởng Thủ Đức, tốt nghiệp các Khóa 14, 15, 16, chỉ có anh Sĩ Quan Trợ Y, Khóa 17. Nghi thức ra mắt vừa xong, tất cả tháp tùng ông tiểu đoàn trưởng đến Quân Y Viện Nguyễn Huệ để dự tang lễ của một ông thượng sĩ vừa qua đời do bị trọng thương trong cuộc hành quân tuần trước. Tôi bất ngờ và có cảm giác xốn xang khi biết ông thượng sĩ này là Trung đội trưởng Trung Đội 3/3 (còn được gọi là Trung Đội 33) mà tôi là người đến thay thế ông. Ông là người hạ sĩ quan cao cấp nhất của đơn vị được tất cả mọi người nể trọng.Trước kia là Thường Vụ Tiểu Đoàn, nhưng vì thiếu trung đội trưởng nên ông đã tình nguyện tạm ra nắm trung đội này mới hơn một tháng. Nhìn thấy vợ và đàn con nhỏ dại của ông kêu gào, khóc than thảm thiết ai cũng thấy chạnh lòng. Riêng tôi thêm một chút ưu tư bởi ngày đầu ra nhận đơn vị lại là ngày phải tiễn đưa người tiền nhiệm mà mình chưa hề biết mặt ra nghĩa trang, nên ít nhiều nghĩ tới phần số của mình trong nay mai và sớm bị ám ảnh bởi tiếng khóc than của người góa phụ.


Lễ truy thăng và an táng xong, theo lệnh vị tiểu đoàn trưởng, tất cả chúng tôi cùng về đơn vị. Cả tiểu đoàn trú đóng dưới những vòm cây dương nằm dọc theo bờ biển, ngay phía bên ngoài Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân. Lần đầu tiên tôi tận mắt chứng kiến sinh hoạt của một đơn vị tác chiến. Hình ảnh kham khổ của họ lại càng tội nghiệp hơn khi tương phản một trời một vực với hình ảnh và sinh hoạt của một quân trường chuyên đào tạo sĩ quan của một quân chủng có tiếng là “sang trọng, lịch lãm”. Tôi còn biết tiểu đoàn đã hơn ba năm chưa lần đươc trở về hậu cứ và trại gia binh, nằm ở tận Ban Mê Thuột.


Anh đại đội trưởng đưa tôi đến Trung Đội 3 và ra lệnh cho anh Trung sĩ nhất trung đội phó tập họp trung đội để trình diện tôi. Trung đội với quân số chưa kịp bổ sung, tất cả chỉ 29 người, gần một nửa là người Thượng, trong đó có một trung sĩ tiểu đội trưởng. Anh trung đội phó hướng dẫn tôi đến từng người để được nghe trình diện với họ tên và cấp bậc. Đứng trước những thuộc cấp chưa hề quen nhưng từng dạn dày trong lửa đạn, tôi không biết phải nói lời gì. Cuối cùng tôi chỉ lên tiếng chia buồn và thương tiếc khi trung đội vừa mất đi một vị thượng sĩ trung đội trưởng rất thâm niên, có nhiều kinh nghiệm chiến trường, để tôi cũng mất đi cơ hội được học hỏi nơi ông. Nói xong, tôi có cảm giác dường như chính mình lại là người xúc động nhất, có lẽ tất cả những người lính đứng trước mặt tôi đều đã quá quen cái cảnh kẻ mất người còn sau các cuộc hành quân. Cũng có thể, họ đã nuốt niềm đau ấy trong lòng để rồi thể hiện thái độ trên nòng súng của chính họ.


Anh trung đội phó đưa một binh sĩ trẻ đến trình diện và bảo chú này là “ô- đô”, người sẽ giúp tôi trong việc ăn uống, sai bảo khi cần thiết. Tôi rất ngạc nhiên, vì lúc còn trong quân trường tôi chưa hề được nghe nói tới người lính “ô-đô”này. Anh lính mang đến cho tôi cây súng Carbine M2 với bốn băng đạn, đã được lau chùi, dầu mỡ cẩn thận. Biết tôi chưa có võng, anh đi tìm và mang đến cho tôi một cái võng ni-lông hai lớp còn mới. (Hai ngày sau, khi đang hành quân, anh trung đội phó cho biết, cả khẩu súng Carbine M2 và chiếc võng này là của người thượng sĩ tiền nhiệm quá cố, tôi giật mình, nhưng cũng chỉ biết cầu nguyện xin ông phù hộ.)


Buổi chiều, trở về lại khách sạn. Sau khi tham dự một cuộc họp, bốn thằng chúng tôi được những vị đàn anh chiêu đãi khá niềm nở, thân tình nên thằng nào cũng bị ép uống đến say mèm, lăn ra ngủ lúc nào không biết. Khoảng 4 giờ sáng, đang còn ngái ngủ, bọn tôi được đánh thức, và vội vàng mang vũ khí, ba-lô lên xe chạy về đơn vị. Khi chúng tôi đến nơi thì tất cả quân sĩ đã ngồi sẵn trên xe. Một đoàn xe GMC hơn 20 chiếc chở đầy những người lính trận kham khổ, xếp hàng dài dọc theo con đường biển đẹp đẽ nhất của thành phố Nha Trang.

Trời chưa sáng hẳn, nhìn không thấy mặt nhau. Tôi chỉ kịp nắm tay anh đại đội trưởng hỏi tôi phải làm gì. Anh bảo đi theo anh, và chỉ cho tôi chiếc xe chở Trung Đội 33 của tôi. Đến nơi, tôi hỏi:

– Có phải Trung Đội 33 đây không?

Một anh lính ngồi phía sau xe lên tiếng:

– Đúng rồi, Trung Đội 33 đây!

Tôi cố leo lên xe, nhưng vì bửng sau đã đóng, không trèo vào được, nên tôi đưa cánh tay lên bảo:

• Anh nào giúp kéo tôi lên với.

Một anh lính vừa chòm xuống kéo tay tôi lên vừa chửi thề:

• Đ.m thằng khỉ nào mà bây giờ mới bò lên xe.

Vừa lên xe, tôi hỏi tìm anh trung đội phó. Nhận ra tôi, anh bảo tôi phải lên ngồi trên cabin với tài xế, chứ không phải ngồi phía sau. Tôi hơi ngượng, đem bài học “di chuyển trên xe” trong quân trường ra bào chữa, nhưng tất cả đồng thanh bảo tôi phải lên ngồi ở ghế trước. Anh tài xế phải kéo tấm bạt cho tôi chui vào cabin.


Không ngờ cuộc hành quân đầu tiên trong đời lại xảy ra ngay trên chính quê hương tôi. Tôi sinh ra và lớn lên ở đây. Thành phố biển này vẫn còn chôn giấu biết bao hang động của tuổi thơ và cả dấu tích những mối tình học trò của tôi ngày trước. Tất cả ngỏ ngách đều quá quen thuộc, nên dù trời chưa sáng và đang đổ mưa, đoàn xe di chuyển đến đoạn đường nào tôi đều nhận ra. Qua Phú Vinh, Cây Dầu Đôi, đến Thành (Diên Khánh) đoàn xe rẽ về hướng Phú Lộc rồi dừng lại đổ quân xuống bên đầu cầu. Đầu cầu bên kia sẽ là tuyến xuất phát. Cơn lụt lớn đã ngưng từ hôm qua nhưng nước vẫn còn tràn qua mặt cây cầu gỗ khá dài. Mưa vẫn dai dẳng, dù không lớn lắm. Tôi nhớ lại lời của ông tiểu đoàn trưởng trong buổi họp chiều hôm qua:

– Đáng lẽ tiểu đoàn phải vào vùng ngay sau khi đến Nha Trang, nhưng vì lụt quá lớn, nước ngập mênh mông, nên phải chờ cho nước rút xuống bớt mới có thể mở cuộc hành quân được.

Lệnh cho binh sĩ tản ra, ăn sáng 30 phút, trong lúc các đại đội trưởng đến nhận lệnh của ông tiểu đoàn trưởng, cùng bản đồ và đặc lệnh truyền tin về phân phối cho các trung đội trưởng. Mục tiêu là khu Đại Điền Đông (trong Tứ Thôn Đại Điền).Tiểu đoàn chia làm ba cánh. Cánh A là Đại Đội 3 của tôi, đi riêng, làm lực lượng án ngữ và tiếp ứng khi có lệnh. Xuất phát trước, di chuyển dọc theo bờ sông bên trái để rồi vòng theo khúc quanh về bên phải, đến án ngữ phía sau, cách mục tiêu chỉ một dòng sông và mấy khu ruộng còn sũng nước. Cánh B là Đại Đội 1, nỗ lực chính, đánh thẳng vào mục tiêu. Cánh C gồm Đại Đội 2 và Đại Đội Chỉ Huy Yểm Trợ cùng BCH Tiểu Đoàn đi bọc theo bên phải mục tiêu, vừa nghi binh vừa đánh dồn vào bên hông, bao vây không cho địch thoát.


Tất cả đều di chuyển khá chậm, vì phải lội nước bì bõm, có chỗ lên đến háng và trên đầu thì mưa rơi không dứt. Nhưng cũng nhờ mưa nên hạn chế tầm quan sát của địch. Gần 12 giờ trưa, đại đội tôi mới đến vị trí án ngữ. Phía trước mặt là dãy núi Hòn Ngang, sào huyệt một đơn vị địa phương của địch. Sau lưng là dòng sông tràn ngập nước tiếp giáp với mục tiêu, nơi địch quân đã chiếm ba ngày trước và đang cố thủ.

Khoảng hơn một giờ sau, tiếng súng nổ dồn dập từ hướng mục tiêu. Anh đại đội trưởng cho biết Tiểu Đoàn (-) đang chạm địch, và nặng nhất lại là cánh C, gồm Đại Đội 2 và BCH Tiểu Đoàn. Địch quân có nhiều lợi thế, vì chúng đã chuẩn bị sẵn trận địa, đào hầm hố trong các vườn cây nằm cao hơn đồng ruộng chung quanh, vừa không bị ngập nước lại vừa có xạ trường tốt. Địch khai hỏa trước bằng đại liên và trong tầm khá gần nên bên ta có một số tử thương ngay trong loạt đạn đầu tiên. Tôi nghe tiếng nổ của Pháo Binh yểm trợ, nhưng không có phi cơ quan sát bao vùng vì thời tiết rất xấu.


Đại đội tôi có lệnh vượt sông sang tiếp ứng, đánh từ phía sau lưng địch để giảm bớt áp lực cho cánh Đại Đội 2 và nhất là BCH Tiểu Đoàn. Các trung đội có lệnh ăn cơm gấp trước khi vượt sông. Khi tôi và anh lính mang máy truyền tin cùng anh “ô-đô” đang ngồi ăn bên một bụi cây thì mấy tràng trung liên từ trên núi bắn xuống ngay trước mặt, làm bay mất hai lon guigoz thức ăn, nhưng may mắn đến kỳ lạ là không ai bị thương. Lần đầu tiên trong đời, nghe đạn địch bắn mình, âm thanh chát chúa, tôi không biết làm gì chỉ kịp chụp lấy cây súng Carbine lăn mình xuống cái hố bên cạnh. Điều ngạc nhiên là mỏm đá, nơi địch đặt cây trung liên lại rất gần vị trí của Trung đội 1 đã được phối trí để giữ cao điểm này, nhưng chẳng hiểu vì sao chúng không phát hiện được, nên sau đó không lâu, tôi nghe nhiều tiếng súng và cả lựu đạn nổ. Trong hệ thống vô tuyến, tôi nghe anh Trung đội trưởng Trung Đội 1 báo cáo đã tiêu diệt được tổ hậu cần của địch, tịch thu một số vũ khí và lương thực, trong đó có khẩu trung liên chúng vừa bắn xuống chúng tôi. Đây là trung đội khá nhất của đại đội, do một anh Thiếu úy Khóa 19 Võ Bị chỉ huy.


Có lẽ thông cảm cho một đàn em mới ra trường, anh đại đội trưởng cho Trung đội 3 của tôi vượt sông với Trung đội Vũ Khí Nặng cùng Ban Chỉ Huy Đại Đội. Trung đội 2 sang sông trước để yểm trợ , Riêng Trung đội 1 ở lại và sẽ vượt sông sau khi chúng tôi đến bờ bên kia. Bờ sông bên kia không có bạn, nên anh đại đội trưởng đã gọi Pháo Binh tác xạ dọn đường. Con sông khá lớn và tràn ngập nước, nên dù đã chọn khúc hẹp nhất tôi cũng thấy lo âu, không biết làm thế nào để có thể vượt qua. Không ngờ những người lính Thượng bơi lội rất tài tình và có nhiều kinh nghiệm qua sông. Họ còn giúp dìu cả tôi và một số anh em khác. Khi tất cả đã vượt sông xong, đại đội chia làm 3 cánh, vừa tiến đến mục tiêu vừa yểm trợ cho nhau. Tiểu đoàn cho biết tọa độ chính xác của địch, hỏa lực mạnh nhất của chúng từ một vườn thơm (dứa), đặc biệt có hai khẩu đại liên, đặt phía trước hai ngôi nhà ngói mái đỏ. Lợi dụng đúng lúc một tràng Pháo Binh vừa phủ lên mục tiêu, Trung đội 2 do anh Thiếu úy Khóa 15 Thủ Đức chỉ huy đã nhanh chóng đột nhập vào khu nhà ngói, để làm đầu cầu cho toàn bộ đại đội âm thầm xâm nhập vào vườn thơm mà địch không hề hay biết. Nhận được tín hiệu, tiểu đoàn lệnh cho cánh C đồng loạt nổ súng vừa đánh lạc hướng địch vừa để chúng tôi có thể phát hiện vị trí hai khẩu đại liên của địch, khi nghe chúng tác xạ. Hai anh lính Thượng tình nguyện bò tới ném mấy quả lựu đạn. Hai khẩu đại liên im bặt, nhưng tiếng địch la hét nhốn nháo. Chúng tôi có lệnh đánh bằng lựu đạn, đồng loạt tung vào các gốc thơm có hầm hố của địch, trước khi dàn hàng ngang xung phong. Một số địch chết, hơn mười tên bị thương chúng tôi bắt sống. Số còn lại thoát sang khu vườn bên cạnh rồi cùng với đám địch bên ấy bám vào bờ con mương nhỏ, quay lại tấn công bên sườn phải chúng tôi. Lúc này đại đội tôi đã bắt tay được cánh C. Đại Đội 2 có lệnh bung rộng ra bao vây. Cánh B của Đại Đội 1 do anh trung úy Khóa 16 VB chỉ huy bất ngờ đánh tập hậu, nên địch không còn đường thoát thân. Chiến trường im tiếng súng. Tiểu đoàn thắng lớn, tiêu diệt hai đại đội địa phương của địch, gần 80 tên bị giết, hơn 20 bị bắt sống, trong đó có một tên đại đội trưởng, tịch thu cả trăm vũ khí đủ loại. Tiểu đoàn chúng tôi có tám chiến sĩ hy sinh, một số bị thương trong đó có hai người bạn cùng khóa với tôi ở Đại Đội 1 và Đại Đội 2, nhưng chỉ bị nhẹ ở cánh tay. Lần đầu tiên tôi tận mắt nhìn thấy mặt mũi của kẻ thù và chứng kiến sự chết chóc của chiến tranh.


Đại Đội 1 nhận lệnh ở lại vị trí, lục soát tìm những người lính Địa Phương Quân mất tích ba hôm trước, chờ một đơn vị của Tiểu Khu đến thay thế, bàn giao vị trí vào ngày mai. Tiểu Đoàn (-) tiếp tục truy kích đám tàn quân địch về hướng bờ sông, trên lộ trình trở lại tuyến xuất phát.

Không có phi cơ tản thương, nên đơn vị phải võng theo những thi thể của anh em tử trận và cả những thương binh không đi được. Khai thác một số tù binh, được biết địch chủ quan, không ngờ có một tiểu đoàn chủ lực tiếp ứng nhanh chóng trong khi trời còn mưa lụt, đặc biệt chúng càng bất ngờ hơn khi có một lực lượng vượt sông đột nhập đánh từ phía sau lưng. Đơn vị vừa tạo được một chiến thắng vẻ vang, nhưng nhìn một đoàn quân ướt sũng, võng theo một số tử thi và thương binh, lội bì bõm dưới cánh đồng ngập nước và trên đầu là những cơn mưa giăng kín cả bầu trời, lòng tôi xao xuyến lạ thường. Chỉ mới ngày đầu tiên tham dự hành quân, tôi đã thấy thương cảm, tội nghiệp cho những người lính chiến, và thương cho cả chính bản thân mình, khi nghĩ cuộc chiến này rồi sẽ còn phải kéo dài cho đến bao lâu?


Tiểu Đoàn (-) di chuyển bộ ra đóng quân dọc theo vòng đai Cổ Thành, từ Cửa Đông đến Cửa Tây. Đây là thành lũy được Chúa Nguyễn Phúc Ánh xây từ thế kỷ 17 và lần lượt do các tướng Nguyễn Văn Thành và Võ Tánh trấn thủ. Hôm sau Đại Đội 1 về đóng ở Thanh Minh, ngoài Thành. Nghỉ ngơi được ba ngày thì cả tiểu đoàn nhận lệnh di chuyển ra Lạc An (thuộc quận Ninh Hòa) để mở cuộc hành quân vào Mật khu Đá Bàn.

Tin tức tình báo cho biết, có một tiểu đoàn chủ lực địch vừa thành lập xong từ Liên Khu Năm mới xâm nhập tăng cường cho lực lượng địa phương. Hơn một tuần leo núi, cũng dưới những cơn mưa. Ban ngày mà trong rừng tối mịt. Nhưng nhờ vậy mà chúng tôi lại tạo được một chiến thắng bất ngờ. Không đánh mà thắng. Một buổi chiều tối, dừng quân, đào hầm hố đóng quân đêm xong, hai giờ sau, ông Tiểu Đoàn Trưởng ra lệnh tất cả im lặng rời khỏi vị trí, di chuyển lên đóng quân trên triền núi cao hơn, cách đó chừng 500 m, vì nghi ngờ có địch theo dõi. Khoảng 3 giờ sáng, tất cả chúng tôi thức giấc vì ngay phía dưới triền núi có nhiều tiếng súng nổ và cả tiếng hò hét xung phong. Những viên đạn lửa làm chúng tôi nhận rõ mục tiêu hơn. Hỏi lại một lần nữa, Tiểu Khu xác nhận ngoài tiểu đoàn tôi, không có bất cứ một đơn vị bạn nào khác trong vùng. Anh sĩ quan Đề-lô đi theo tiểu đoàn phản ứng rất nhanh nhẹn, gọi Pháo Binh tác xạ nhiều tràng và rải đều rất chính xác vào khu vực nổ súng. Pháo Binh dứt lúc trời vừa mờ sáng, chúng tôi nhận lệnh tràn xuống lục soát. Cả một khu núi rừng tan hoang vì bom đạn. Một số tử thi không toàn thây, hơn 30 địch quân bị thương chúng tôi bắt được. Có thể một phần do đạn của Pháo Binh và một phần do chính đạn của chúng. Đại Đội 2 có lệnh truy kích, bắt thêm được một số thương binh khác của địch. Sau khi khai thác tù binh, chúng tôi được biết đó là đơn vị địch đi hai cánh nhằm tấn công tiểu đoàn tôi, nhưng vì mưa gió, trời quá tối, bọn chúng lầm tuởng chúng tôi vẫn đóng quân đêm ở vị trí cũ, dưới thấp, nên đã ngộ nhận và bắn lẫn nhau. Đó chính là tiểu đoàn chủ lực tân lập của địch đã bị khai tử sớm, mà không phải tốn một viên đạn nào của đơn vị chúng tôi.


Từ Đá Bàn, chúng tôi hành quân về hướng Tây Nam, xuống Phú Gia, để giải giao tất cả tù binh cho một đơn vị của Tiểu Khu. Sau đó, mở rộng sang tảo thanh chung quanh vòng đai Huấn Khu Dục Mỹ rồi kéo qua Trường Lộc, cuối cùng về đóng quân ở Phú Hòa, một ngôi làng trù phú của quận Ninh Hòa. Ba ngày sau, cả tiểu đoàn nhận lệnh di chuyển về vị trí dưỡng quân cũ, khu vườn dương bên bờ biển Nha Trang. Sáng hôm sau, tập trung ngay trên bãi cát để làm lễ chiến thắng, khao quân do Tỉnh/Tiểu Khu Khánh Hòa tổ chức, có cả hai vị Tư Lệnh Quân Đoàn và Sư Đoàn tham dự, gắn cấp bậc và huy chương tưởng thưởng cho nhiều quân nhân hữu công. Cá nhân tôi, một thằng trung đội trưởng mới toanh, không làm nên tích sự gì cũng được hưởng lây, nhận một ADBT với Ngôi Sao Bạc.


Ngay tối hôm đó, cả tiểu đoàn xuống tàu Hải Quân, ủi bãi ngay trước Trung Tâm Huấn Luyện HQ. Sau một đêm hải hành, chúng tôi đến bờ biển Tuy Hòa. Tàu cặp vào phía trước căn cứ một Duyên Đoàn để chúng tôi lội vào bờ. Đích thân Thiếu tá Tỉnh/TK Trưởng Trưởng Phú Yên ra đón. Tiểu đoàn nhận lệnh tăng phái dài hạn ở đây do yêu cầu của Thiếu tá Trần Văn Hai, khi ông vừa mới về nhậm chức Tỉnh/Tiểu Khu Trưởng. Tình hình ở Phú Yên lúc ấy khá nặng nề, do lực lượng địch nằm vùng của Liên Khu Năm để lại, hầu hết những làng mạc nằm xa thị xã đều bất an. Tiểu đoàn tôi có nhiệm vụ hành quân tảo thanh, truy lùng địch. Khu vực đầu tiên khá nặng nề và rộng lớn mà tiểu đoàn nhận trách nhiệm là Bàn Nham – Bàn Thạch thuộc Quận Hiếu Xương, trải rộng từ mười cây số phía Bắc cầu Bàn Thạch đến tận giữa Đèo Cả, giáp ranh Tỉnh Khánh Hòa. Bốn tháng trước tiểu đoàn tôi đã chiến thắng hai trận lớn ở đây: Đa Ngư Phú Lạc và Vũng Rô Đá Bia. Cuộc hành quân lần này nhằm truy tìm và tiêu diệt một đơn vị chủ lực địch vừa xâm nhập vào khu vực núi Hảo Sơn, cách Vũng Rô Đá Bia không xa, và tái chiếm làng Thạch Tuân vừa bị một lực lượng địa phương địch chiếm giữ.

Phú Yên đang trong mùa mưa. Mưa dầm dề cả ngày đêm, ngoài trời không nơi nào khô đất. Thời tiết xấu nên không hy vọng có Không yểm, chỉ có Pháo Binh 105 ly.


Sau khi được tiếp tế lương thực và đạn dược, tiểu đoàn trở lại Thạch Tuân, ngôi làng nhỏ cực Nam Phú Yên, nằm dưới chân Đèo Cả, nơi đơn vị tôi đã từng đóng quân nửa năm trước. Chiếm lại ngôi làng này rất dễ dàng, cả đơn vị tiếp tục tiến quân vào Hảo Sơn, một khu vực núi non hiểm trở. Địch quân đã chiếm ngự một số cao điểm trọng yếu. Trung đội tôi được tăng cường một tổ đại liên, nhận lệnh mở đường dọc theo thiết lộ, nằm sâu giữa hai vách núi, để chiếm một ngọn đồi, đặt đại liên yểm trợ cho đơn vị còn lại bung ra hai triền núi phía trước. Con đường độc đạo hoàn toàn bất lợi, nhưng không còn cách nào khác. Nhờ Pháo Binh bắn dọn mục tiêu, nên trung đội tôi dễ dàng chiếm lĩnh ngọn đồi, ngay sau khi một toán địch quân vừa bỏ chạy, không kịp mang theo nồi cơm đang nấu và mấy cái võng ni-lông còn cột chặt trên cây, một số hầm hố bị phá hủy. Cả tiểu đoàn tiếp tục tiến quân hai bên triền núi. Trận chiến khá quyết liệt, vì địch quân đã có sẵn mấy cái chốt trên các hốc đá nằm cao trên núi, bắn trung liên và ném lựu đạn xuống quân ta phía dưới. Trời mưa như trút nước. Đại đội 1 của anh Trung úy Khóa 16 VB là mũi tiến công chính. Dù ở thế bất lợi, nhưng nhờ tài chỉ huy và điều quân gan dạ của chàng trai Đa Hiệu, với sự yểm trợ hữu hiệu của tổ đại bác SKZ 57 ly, cuối cùng cũng đã chiếm được mục tiêu đầu tiên, làm bàn đạp để tiến công. Địch quân tháo chạy, bỏ lại một số xác chết và mấy khẩu súng. Bên ta, hai binh sĩ tử thương và vài người bị thương nhẹ. Trời tiếp tục mưa không dứt. Bóng tối đã bắt đầu phủ kín khu vực hành quân. Có lẽ lo ngại địa thế bất lợi cho một cuộc đóng quân đêm và địch quân có thể được tăng cường phản kích, nên cả đơn vị có lệnh khẩn cấp rút quân ra, mang theo tử sĩ và thương binh. Riêng trung đội tôi phải nằm lại để yểm trợ và đề phòng địch quân tập hậu. Khi được lệnh rút ra sau cùng, tôi xin Pháo Binh bắn chặn, để trung đội chia làm hai cánh yểm trợ nhau rút nhanh ra. Lệnh cho anh trung đội phó dắt một tiểu đội và tổ đại liên đi theo triền thấp bên trái, địch khó phát hiện.Tôi đi với cánh quân có lộ trình nguy hiểm hơn, nhưng rất cần thiết để bảo vệ tổ đại liên: đi theo con đường sắt. Phân tán từng toán nhỏ 3 người, nép sát vào vách núi, di chuyển rất nhanh, nhưng chỉ năm phút sau thì nhiều loạt đạn từ trên triền núi phía sau bắn xuống, có cả tiếng B-40, Đạn địch xối xả xuống đường xe lửa, chát chúa ngay sát dưới chân tôi, tóe lên nhiều đốm lửa. Tôi nghe vài tiếng la đau đớn. Anh trung sĩ tiểu đội trưởng và một người lính đi sau lưng tôi trúng đạn. Anh trung sĩ bị bắn vào chân, còn anh lính kia bị thương nặng ở vùng bụng, ruột đổ ra ngoài. Cho người băng vội vết thương bằng các băng cá nhân, tôi vừa gọi xin tiếp ứng và xin Pháo Binh tiếp tục bắn dọc trên triền núi phía sau lưng, rồi cõng anh lính bị thương rất nặng chạy nhanh ra khỏi vùng nguy hiểm. Người tôi ướt đẫm máu, nước mưa, và cả nước mắt (cho người đồng đội thương binh không có chút hy vọng sống còn).


Trên đường trở lại làng Thạch Tuân đóng quân đêm, cả tiểu đoàn dàn hàng ngang lội bì bõm dưới những đám ruộng ngập đầy nước. Du kích lại bắn ra. Chúng tôi bám theo các bờ ruộng xâm nhập vào làng, nhanh chóng bao vây tứ phía, mấy tên du kích không chạy kịp, trốn dưới hầm bị chúng tôi bắt. Xe tải thương không thể đến được vì không có an ninh lộ trình. Khuya hôm ấy, anh lính bị trọng thương của tôi, vốn là một tân binh quân dịch, quê tận Gò Công, đã trút hơi thở cuối cùng trên tay tôi, sau khi giao cho tôi cái bóp có hai tháng tiền lương và thì thào lời trối trăng đứt đoạn, nhờ tôi chuyển lại cho vợ và đứa con gái đầu lòng chưa đầy một tuổi mà anh chỉ mới về phép thăm cháu một lần. Đó là người lính đầu tiên dưới quyền đã chết, trên tay tôi. Anh có cái tên rất dân dã mà tôi không bao giờ quên được: Nguyễn văn Tý. Trùng tên người nhạc sĩ sáng tác bài Dư Âm mà tôi thường hay hát. Và sau này, cứ mỗi lần nghe bản nhạc này, tôi lại nhớ đến anh.


Năm tháng sau, bàn giao vị trí lại cho Trung Đoàn 47 BB biệt lập từ Bình Tuy chuyển ra để sáp nhập vào Sư Đoàn 22BB, Tiểu đoàn tôi được tăng phái một chi đoàn Thiết Quân Vận, do Đại úy Bùi Thế Dung chỉ huy, xuống tàu Hải Quân vào tăng cường cho Tiểu Khu Bình Thuận để hành quân giải tỏa Mật khu Lê Hồng Phong. Một mật khu khá rộng lớn với địa thế hiểm trở mà địch đã tăng cường hoạt động từ khá lâu, làm gián đoạn lưu thông trên Quốc Lộ 1, và gây bất an cho cả khu vực mà lực lượng của Tiểu Khu chưa giải quyết được. Giải tỏa áp lực đich và khai thông quốc lộ xong, chúng tôi tiếp tục hành quân tảo thanh và giữ an ninh cho Công Binh thiết lập hai căn cứ Nora và Mara để bàn giao lại cho lực lượng Địa Phương Quân cùng một trung đội Pháo Binh diện địa.


Ba tháng sau, tiểu đoàn được không vận từ Phi trưởng Sông Mao lên tăng cường cho Tiểu khu Quảng Đức, khi có tin tức một đơn vị chủ lực của địch vừa mới xâm nhập từ biên giới Lào-Việt. Lại đúng vào giữa mùa mưa. Mưa triền miên nhưng chỉ lất phất giống như mưa phùn. Những mục tiêu trong lệnh hành quân mà tiểu đoàn chúng tôi phải tiến chiếm đều nằm trên những ngọn núi với toàn là đất đỏ nhão nhoẹt, các lối mòn dẫn lên núi đều trơn như mỡ, nên di chuyển vô cùng khó khăn, chẳng có ai không bị té ngã. Áo quần, ba lô và cả vũ khí đều dính đầy bùn. Những binh sĩ vác các nòng súng cối 81 ly hay 60 ly rất to con, khỏe mạnh, nhưng đều bị té ngã, và đôi khi nòng súng lăn xuống triền núi, phải cử cả một trung đội đi ngược xuống tìm để vác trở lên. Cuộc hành quân phải chậm lại. Có khi di chuyển chỉ một cây số đường chim bay phải mất cả một ngày. Rất may là không đụng trận. Ba ngày sau, tình trạng không khá hơn, nên ông tiểu đoàn trưởng yêu cầu Tiểu Khu tạm ngưng cuộc hành quân trong khu vực ấn định để tìm một kế hoạch khả thi hơn. Cả tiểu đoàn xuống núi, từ quan tới lính đều dính đầy bùn đỏ, từ đầu xuống chân. Mưa rơi liên tục, nhưng không rửa được bùn bám chặt trên người. Tiểu đoàn được lệnh di chuyển về nghỉ quân tại Phi trường Nhơn Cơ, bên ngoài một trại Lực Lượng Đặc Biệt. Mãi gần tối, chúng tôi mới đến vị trí đóng quân đêm. Tất cả đều phải ngủ với nguyên hình hài như thế. Không thể nấu nường được, tất cả đều phải nhai sống lương khô. Hôm sau, từng đại đội luân phiên ra suối tắm rửa và giặt áo quần. Trời vẫn mưa và lạnh căm căm. Trông họ và nhìn lại chính mình, tôi cảm thấy tội nghiệp vô cùng. Ngày trước, tôi cũng biết là người lính bộ binh tác chiến sẽ khổ sở và vất vả, nhưng không thể ngờ được sự thê thảm đến tội nghiệp như hôm nay. Điều gì đã làm họ có thể chịu đựng và chiến đấu trong những hoàn cảnh như thế. Tôi bỗng nghĩ đến những người thanh niên thành phố, nhất là đám sinh viên thường hô hào biểu tình, phản chiến, họ hiểu gì về những người lính chúng tôi như hôm nay. Trong lòng tôi cũng dấy lên nỗi oán hờn, khi nghe những ông lớn chia phe kết phái cấu xé lẫn nhau, tranh chức đoạt quyền, mua quan bán tước. Tất cả đều không xứng đáng sống nhởn nhơ trên nỗi thống khổ và chết chóc của những người lính tội nghiệp này.


Sau này, theo thời gian và chiến công, chúng tôi lần lượt được thăng cấp, giữ những chức vụ cao hơn. Chúng tôi cũng tham dự nhiều trận đánh lớn, không còn ở cấp Tiểu Đoàn như lúc trước, mà đến cấp Trung Đoàn hay cả Sư Đoàn, chúng tôi cũng đã tạo những chiến tích lẫy lừng, như Tết Mậu Thân 1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Chính đơn vị tôi đã góp phần rất lớn để tạo nên một “Kontum Kiêu Hùng”. Trong hơn mười năm cùng chiến đấu trong đơn vị Bộ Binh rất đỗi tầm thường này, chúng tôi chưa hề một lần bại trận, nhưng rồi cuối cùng, trong bất ngờ tất cả đành phải buông súng, tù tội, tức tưởi, oan khiên.


Những đồng đội cùng đơn vị ngày tôi mới ra trường đã lần lượt hy sinh, hay bị thương tích, giải ngũ về sống hẩm hiu ở một nơi nào đó. Đến tháng tư 1975 cũng chẳng còn bao nhiêu người sống sót. Anh Trung úy đại đội trưởng đầu tiên của tôi đã tử trận tại Phan Thiết đúng một năm sau đó. Anh Thiếu uý Khóa 19 VB, Trung đội trưởng Trung đội 1, sau này trở thành người bạn thân thiết của tôi, được đặc cách lên thiếu tá tại mặt trận, cũng đã tử thương tại Kontum năm 1972. Bốn thằng bạn cùng khóa với tôi lúc ấy, sau này một thằng hy sinh cũng vào mùa Hè 1972 tại Kontum khi đang là tiểu đoàn trưởng nổi danh của Sư Đoàn, một thằng giải ngũ vì cận thị quá nặng, một thằng bị chết trong tù tận ngoài Nghĩa Lộ, còn tôi thì đang lưu lạc tha phương.

Mỗi lần nhìn mưa rơi, tôi bùi ngùi nhớ tới họ, nhớ tới các cuộc hành quân ướt sũng, lầy lội, lạnh lẽo và khổ nhọc, lòng tôi thắt lại.


Mới đây, một số huynh đệ chúng tôi lưu lạc tìm nhau, quy tụ về Cali họp mặt, để nhìn lại nhau sau bao nhiêu năm dâu biển, đặc biệt cùng tưởng niệm những đồng đội đã hy sinh. Trong lễ truy điệu, một cựu sĩ quan CTCT của đơn vị (tốt nghiệp Khóa 1 Trường Đại Học CTCT Đà Lạt), đã thay mặt anh em, đứng trước bàn thờ đọc bài truy niệm, gói ghém nỗi niềm chung, làm tất cả đều rưng rưng giọt lệ:

“Chúng tôi đứng quanh đây, lòng hồi tưởng bây giờ còn lưu đọng, chuyển về cố hương xa, đang còn vọng tiếng bi thương.

Hơn bốn ngàn năm rồi, cớ sao mà dân tộc còn cứ mãi đoạn trường? Hồn tiên tổ đã về đây chưa hởi?

Mấy vạn dặm, bôn đào nơi đất khách! Than ôi, giấc mộng buồn thay!

Nhớ thuở xa xưa, Thần Ưng(*) tung cánh bay, Gươm Thiêng cao nguyên trấn ải, để Nam bình Bắc phạt.(**)

Gót chinh nhân đã bao nhiêu lần giẫm nát triền cát mênh mông của Mật Khu Lê Hồng Phong bát ngát, của Bá Ghe, xương trắng quân thù phơi thây, của núi rừng Ga Lăng mịt mờ tử khí.

Nay Lâm Lộc, nắng cháy da, gió rát, xuôi về Sông Lũy.

Mai về Lại An ruộng đồng bát ngát

Qua Bằng Lăng rồi về Hà Thủy

Ruộng dở, đất lở khô cằn,

Bầu Sẻ nghèo nàn, nứt nẻ

Rồi Diên Khánh, Phú Yên mưa lầy mưa lội. Quảng Đức nhuộm đầy bùn đỏ. Qua Phú Nhang. Dừng chân Phú Hội.

Đêm Tân Nông, Ma Lâm Thiện Giáo, pháo cầm canh vang dội.

Từ chiến thắng Đèo An Khê, Man Yang Bình Định đến Kontum vang dội Kiêu Hùng, rồi kéo về Phước An, nhằm giải vây Đắc Lắc.

Rồi bi tráng trong khoảnh khắc – Rồi lịch sử sang trang – Rồi đố nát, điêu tàn…

Rồi bẽ bàng, gãy cánh, tan hàng.

Đông Kontum vỡ toang màu máu. Các vị Tiểu Đoàn Trưởng: Trung Tá Võ Anh Tài, Đặng Trung Đức, Thiếu Tá Trần Công Lâm, Đỗ Bê, Dương Đình Chính. Đại úy Nguyễn Văn Pho tự sát trên đường di tản. Nhiều chiến hữu tăng phái thuộc Thiết Đoàn 8 Kỵ Binh, Thiếu Tá Công Binh Mai Văn Trường, Pháo Binh Lê Hữu Chí và hàng hàng lớp lớp chiến sĩ Trung Đoàn 44 giã từ vũ khí, đem máu xương tô điểm màu cờ.

Sống và Chết – Hai nẻo đường chọn lựa. Đem chí trai, dù phải dặm nghìn da ngựa. Lòng ước mơ gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.

Miễn mưu cầu làm sao, cho sông núi trường tồn. Gương hy sinh đó ngàn đời sáng ngời trong quân sử.

Vì nước quên mình – Sá chi bèo bọt công hầu khanh tướng.

Sá chi đất lạnh – Mộ bia tàn

Sá gì nghiệt ngã nét thời gian

Cỏ vàng, cây héo, bóng tàn tà dương

Người nằm xuống cho quê hương.

Công ơn đó mênh mông như biển rộng,

Nghĩa hy sinh cao trọng tràn đầy

Dân tộc này ghi khắc mãi nghìn thu

Trong ánh nến lung linh, trong không gian yên ắng, lòng người sâu lắng, khiến nỗi nhớ thương và lòng truy niệm này thêm ngập nỗi sầu.

Nến rồi cũng tàn – Xác thân rồi cũng tan – Đời người rồi cũng qua – Tổ Quốc rồi cũng rời xa.

Nhưng có một điều vĩnh hằng, bất tử. Đó là Nhân với Dân Tộc, Thành với Tổ Quốc.”

Bài truy niệm đã chấm dứt, nhưng tất cả đều đứng im, bất động, chỉ còn nghe những tiếng sụt sùi.

Thì ra, những cơn mưa trong các cuộc hành quân lầy lội ngày nào dường như vẫn còn đang rơi mãi trong lòng những thằng lính chiến khốn khổ chúng tôi.


Phạm Tín An Ninh

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23635
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 26/Sep/2023 lúc 9:54am

Một Góc Đời Tị Nạn 

(Hình minh họa)


Vợ chồng tôi và bốn đứa con qua Mỹ theo Chương trình Tái Ðịnh Cư Cựu Tù Cải Tạo đợt HO8. Vì là diện “đầu trọc”, không có bạn bè thân nhân bảo lãnh, nên được phân bổ đến tiểu bang còn thưa dân của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ: Arizona. Hội thiện nguyện đón gia đình tôi tại phi trường Phoenix và đưa đến ở trong căn apartment hai phòng, cách thủ phủ của tiểu bang ba mươi phút lái xe.

Nhờ theo mấy khóa luyện Anh ngữ trước khi ra đi, nên con tôi đứa nào cũng bập bẹ được tiếng Mỹ. Chỉ qua vài ngày “nhập gia” là chúng nó kết bạn với một nhóm Mỹ con cùng dãy chung cư. Mấy hôm sau, cả đám tự động mang đến nhà tặng chiếc TV màu 9 inches còn xài tốt. Con tôi mừng như được trúng số.     


Ngày còn ở Việt Nam, cha mẹ không sắm nổi truyền hình dù là loại rẻ tiền đen trắng, nên hàng đêm chúng phải qua nhà láng giềng xem ké. Phiền một nỗi là ông cán bộ cằn nhằn mang bụi đất vào làm dơ cái nền nhà tráng cement mà ông lau chùi hàng ngày lên nước láng bóng. Hai đứa con nhỏ của ông đưa từ Hà Nội về cứ để lưng trần nằm lăn trên nền mà ngủ. Sau nầy, để tránh cái đám trẻ con hàng xóm làm dơ nhà, mỗi lần mở truyền hình là ông đóng chặt cửa lại.

Mục sư Hồ là người Việt duy nhất đến thăm chúng tôi nhiều lầnMột hôm, ông ngỏ ý chở cả nhà đi xem thủ phủ của Tiểu bang và đến vườn hái nho.

Nghe đuợc hái nho là lũ con tôi mắt sáng lên. Chúng vội vã vọt lên xe chẳng cần đợi mời lần thứ hai.

Sáu mạng người ngồi trong thùng phía sau xe truck có mui. Trên đường đi, gió nóng quạt vào mặt như đến gần ngọn núi lửa khiến tôi nhớ đến truyện Tây Du Ký, đọan thầy trò Tam Tạng sắp phải băng qua ngọn hỏa diệm sơn, Tề Thiên Ðại Thánh phải mượn quạt ba tiêu của Thiết Phiến công chúa quạt cho tắt lửa để Ðường Tăng tiếp tục trên con đường thỉnh kinh.

Mục sư Hồ không có quạt ba tiêu nhưng xe ông có máy lạnh. Tiếc rằng máy lạnh của xe pickup chỉ dành trong phòng lái nên sáu đệ tử của ngài bị nhốt trong  thùng sau xe mệt ngất ngư vì cơn nóng thiêu người.

Nắng tháng Tám nám trái bưởi ở Việt Nam, có nghĩa gì so với cái nóng không có độ ẩm của vùng sa mạc nầy. Mồ hôi bị bốc hơi ngay từ trong lỗ chân lông nên làn da khô khốc.

Xe chạy về hướng Tucson, mất hơn một giờ thì rẽ vào đường tắt, cánh đồng nho hiện ra xanh ngút mắt.

Mục sư liên hệ với chủ nhà vườn, mỗi người nhận một con dao nhỏ và chiếc giỏ đựng nho. Lần đầu tiên trong đời, chúng tôi mới nhìn thấy tận mắt những chùm nho chín mọng đong đưa trên cành. Tha hồ ăn và tha hồ hái. Người nào cũng cố hái cho thật nhiều mang về nhà bỏ tủ lạnh để dành ăn cho đã đời, ngàn năm một thuở mà!

Tôi nghĩ thầm: “Người Mỹ rộng rãi thật, nho còn đẹp thế nầy mà đã cho vào hái mót.”

Thằng Út nhà tôi thích quá, vui như sáo. Bụng đói và khát mà được ở giữa vườn nho thì khỏi chê vào đâu. Nó ham hố ăn ngấu nghiến không ngừng nghỉ, những trái nho chín mọng, ngọt lịm cứ liên tiếp ngốn vào mồm. Ðược một lúc, bỗng cu cậu ôm bụng, mặt tái xanh, ngã quỵ xuống gốc nho, mắt trợn trừng. Ông Mục sư hoảng hốt vội vàng vác nó lên vai định đưa vào phòng người coi vườn  cấp cứu, chợt nó mữa thốc mữa tháo trên ngực áo ông, rồi từ trong quần shorts của nó chảy dầm dề phân lỏng, tuôn cả trên lưng áo của vị mục sư khả kính.

Sau khi ộc ra hết cả số nho đã lên men trong dạ dày, cu cậu khỏe lại ngay. Tội nghiệp cho vị Mục sư  phải đứng tắm ngoài trời bằng vòi nước tưới cây và “bác tài xế Mục Sư” phải mặc bộ đồ ướt lái xe về nhà.

Tập trung số nho của gia đình hái được là 30 pounds, tiền phải trả là 60 đô, chúng tôi nhìn nhau ngỡ ngàng.  Mục sư Hồ không nói rõ ràng là đi mua nho tự hái ngoài vườn, khiến chúng tôi cứ tưởng đi hái mót nho như ở quê nhà mót bắp, mót dưa.

Hẳn nhiên là không có tiền để mua, nhưng bù lại, người nào cũng được đầy một bụng nho, chỉ trừ thằng Cu Út đã trả lại hết cho chủ vườn.

Với tấm lòng hào hiệp, Mục sư chi ra 10 đô-la mua nho biếu chúng tôi mang về. Vị chủ chiên đã “tốn than còn tan lưỡi cày!” Ngài đành bỏ luôn cuộc thăm viếng thủ phủ Phoenix.


Hai tuần lễ sau, hội thiện nguyện giới thiệu vợ chồng tôi vào làm hãng may áo quần ở một thành phố khác, cách nhà nửa giờ chạy xe trên xa lộ. Nếu đi bằng xe bus phải qua nhiều trạm mất cả tiếng rưỡi đồng hồ.

Chán nản và thất vọng, tôi không còn tinh thần để lập nghiệp trên vùng đất khô cằn đầy những cây xương rồng và khí hậu khắc nghiệt nầy

Dò la tin tức, tôi biết được một số bạn bè đi trước đã đến đây rồi bỏ đi. Một hôm, tình cờ tôi nhặt được một lá thư viết dở dang trong ngăn kéo bàn nơi phòng khách. Tôi nhận ra người gởi là Phan Anh Tuấn HO7, bạn cùng quê sang đây trước tôi hai tháng. Trong thư anh báo cho thân nhân sẽ bỏ tiểu bang nầy sang Florida. Theo ngày tháng trong thư, Tuấn rời khỏi căn apartment đúng một tuần lễ trước khi tôi tới.  Như vậy, gia đình tôi là kẻ kế thừa căn nhà anh thuê nửa chừng.

Tôi như người ở giữa đại dương mênh mông, chẳng biết hướng nào tìm. Một hôm, bất ngờ tôi bắt gặp trong cuốn sổ tay có ghi số phôn của Huỳnh thị Phương Thanh là bạn học với em gái tôi hồi còn ở quê nhà. Hiện giờ gia đình Thanh đang định cư tại miền Bắc tiểu bang California. Nhờ điện thoại của người láng giềng, tôi liên lạc ngay và may mắn gặp được cả hai vợ chồng. Họ hứa sẵn sàng giúp đỡ, nếu gia đình tôi di chuyển đến thành phố San Jose. Như người sắp chết đuối chụp được phao, chúng tôi mừng vô hạn.


Ông Mục sư Hồ rất cảm thông sự khó khăn của gia đình tôi Và chính ông đã giúp tôi hoàn thành ý nguyện đi tìm một vùng đất khác.

Phương tiện di chuyển là loại xe bus xuyên bang. Ðúng hai mươi ngày kể từ khi đặt chân trên miền đất cực nam nước Mỹ, chúng tôi lại gánh gồng hành lý lên xe bus Greyhound thẳng đến quận hạt Santa Clara nằm về hướng tây bắc Hoa Kỳ.

*  *  *

Vượt gần hai ngàn kí lô mết, qua một ngày một đêm, chuyến xe bus sau cùng đến thành phố San Jose vào trưa Ch nhật. Vợ chồng Thanh đã có mặt lúc xe vừa cập bến, chúng tôi mừng rơi nước mắt.

Căn nhà Thanh biệt lập, có rào gỗ chung quanh gồm năm phòng rộng rãi. Chủ nhà dành cho gia đình tôi một phòng trên lầu ở tạm, đợi đến ngày đầu tháng sẽ dọn vào một căn apartment hai phòng do người cậu của Thanh đứng tên mướn hộ.

Chỉ còn một ngày nữa là chúng tôi dọn đến căn nhà thuê, bỗng người cậu báo tin chủ apartment hủy bỏ hợp đồng mướn nhà với lý do gia đình sáu người không thể ở hai phòng

Tôi vô cùng lúng túng. Thời gian ở đậu nhà Thanh không thể lâu hơn được nữa, mà tìm mướn nhà khác thì phải chờ đầu tháng sau.


Lục tìm cầu may trong báo Việt ngữ mục nhà cho  thuê, may mắn tôi phát hiện một căn apartment hai phòng còn trống, Thanh vội vàng điện thoại hẹn người quản lý cho tôi đến xem nhà.

Từ thành phố Milpitas đến San Jose, tôi và thằng con trai lớn thay nhau chở trên chiếc xe đạp đòn dông không có ba-ga gắn phía sau.  Người địa phương nhìn cha con tôi ôm nhau trên chiếc xe đạp với cặp mắt kinh dị. Ðối với họ, có lẽ đây là hiện tượng lạ lùng đầu tiên mà họ mục kích. Chúng tôi vô tình đùa cợt với luật lệ đi đường ở Mỹ và gây khó chịu cho những người kỳ thị giới đồng tính.

Chúng tôi di chuyển như thế nhiều lần trên những con đường tấp nập xe hơi mà chưa lần nào gặp cảnh sát và cũng may mắn là không chạy lạc ra ngoài freeway. Sau nầy có ông bạn HO, còn chân ướt chân ráo như tôi, đi xe đạp bên rìa xa lộ bị gió cuốn hút ra giữa đường, dòng xe cán  nát thân thể ông còn chiếc xe đạp bị văng trở lại vào lề đường.

Khu apartment nằm gần đường Senter, phía sau là con suối cạn. Người thuê trước  vừa dọn đi cách một  ngày. Chúng tôi quyết định mướn căn apartment hai phòng nầy với gía 650 đô-la mỗi tháng. Tiền deposit cũng 650 đồng được ông chủ nhà là một bác sĩ Việt Nam cảm thông cho khất lại tháng sau mới nộp.


Không chờ đợi chủ nhà quét dọn, sơn sửa mà vợ chồng cùng con cái tự chà rửa phòng tắm, vách tường và bếp núc, chỉ yêu cầu chủ nhà kêu thợ giặt thảm mà thôi.

Ðêm đầu tiên vợ chồng tôi ở lại căn nhà mới thuê.

Hai căn đối diện dảy nhà tôi đều là người Việt. Bà Chín Nam Bộ mang biếu chúng tôi một tấm đắp cũ. Ông Bang Bắc Kỳ 54 cho bốn gói mỳ ăn liền, hai cái chén và hai đôi đũa.

Ðược sự giúp đỡ của hai người láng giềng trong cơn túng quẫn,  lòng chúng tôi vô cùng cảm kích và củng cố thêm lập trường người Việt mới tị nạn nên chọn tiểu bang có đông đồng hương là cần thiết.

Ðêm đó, vợ chồng tôi ôm nhau ngủ trên sàn nhà với tấm đắp vừa làm chiếu vừa làm mền, cuộn tròn như cặp sâu trong trái kén mà xót xa nhớ về quê hương.

Trước khi qua Mỹ, chúng tôi không ngờ lại có những ngày tháng gian truân đến thế.

*  *  *

Người mới đến định cư cảm thấy đỡ cô đơn nhờ vào những nơi tập trung thường xuyên của đồng hương, như địa điểm cà phê bình dân ở trong khu chợ Senter, có tên rất thời thượng: Quán Cà-phê HO. Nơi đây được coi là đất tụ hội để tìm gặp bạn bè cũ, để học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước, để được giới thiệu các loại dịch vụ cần thiết như  bán xe, mua xe, học li xe... và để biết tin tức ở quê nhà.

Một hôm, tôi đạp xe lần mò tìm đến cà phê HO. Một quán giải khát bình dân đúng nghĩa, bàn ghế đơn sơ, khách hàng mộc mạc, đậm đà tình quê hương. Kêu ly cà phê đen ngồi nhâm nhi trong một góc, tôi nghe rầm rì những mẩu đối thoại với nhau:

- “Nầy, đằng ấy còn nhớ thằng H. không? Nó tù cùng trại với bọn mình đó. Vợ nó vượt biên qua Mỹ hồi năm 82. Vừa rồi nó qua đợt HO 5, nghe nói ngày H. tới phi trường, cô vợ đến chúc mừng và trao cho nó một phong bì đựng 500 đô-la rồi quay lưng thản nhiên bước lên chiếc xe lộng lẫy có người đàn ông Mỹ ngồi chờ sau tay lái. Lòng H tê tái. Một khắc sau, người đại diện hội thiện nguyện bảo trợ mời H. lên xe. Nhìn cảnh vật qua màn lệ mà H. tưởng bầu trời  Mỹ quốc phủ lớp sương mờ.

- “Sao chuyện xảy ra giống tiểu thuyết quá vậy. Ông qua đây lâu rồi mà có nghe tin tức gì  về thằng R.  cùng phố với bọn mình không?”

- “Trên đất nước mênh mông nầy mà cậu tưởng như ở ngã ba Long Khánh của cậu đấy. Nó đi HO mấy?”

- “HO 6, ở quê mình đồn reo về chuyện vợ nó mới qua Hoa Kỳ chưa đầy năm mà đã bỏ chồng, bỏ con theo thằng triệu phú da đen.

- “Ôi, cứ tưởng bở, bộ Mỹ nó khoái mấy bà vợ đói cơm lâu ngày từ trên rẫy bắp, đồi sắn ở quê nhà hay sao? Ðó chẳng qua là đòn tuyên truyền của VC bôi xấu anh em HO mình đấy. Cậu nhớ hồi bọn mình còn trong tù, mấy anh “áo vàng” tuyên bố: “Số đàn bà con gái chạy qua Mỹ đều  bị “bè lũ đế quốc” dồn vào một nơi làm điếm cho lính GI. Mấy anh chồng đau quá, kéo nhau biểu tình đòi trả về Việt Nam, nhưng Ðảng và nhà nước ta đâu có chịu nhận...”

Như thế đấy. Lần đầu tôi đến thăm tiệm cà phê HO, quả thật tiếng đồn không sai. Nơi đây được mệnh danh là “Hãng thông tấn Senter”.

Nhờ người bạn mới quen tại quán cà phê HO giới thiệu cho tôi ông thầy “dạy lái xe tư gia”. Với giá giúp đỡ người đồng hương, ông thầy lấy công 250 đô tập cho từng người, đến khi đậu được bằng lái.

Sau khi đưa cha con tôi đến DMV thi lấy bằng viết, ông cho thực tập ngồi sau tay lái, mỗi ngày vài tiếng đồng hồ trong vòng một tuần lễ. Thằng con lớn của tôi thi lần đầu là đậu ngay. Riêng tôi đã từng lái xe dodge, xe jeep gần chục năm trong quân đội thế mà qua lần thứ năm mới p***. Ông thầy dạy lái với khuôn mặt thảm não bắt tay tôi.

Ông bảo:

“Không phải chúc mừng anh đậu mà chúc mừng anh khỏi phải ghi tên vào trường dạy lái chuyên nghiệp chính thức.”

Luật thi lái xe ở Cali, cứ ba lần thi lái không đậu phải thi lại bằng viết và tiếp tục thi ba lần nữa. Thấy tay lái qúa yếu,vị chủ khảo có thể bắt buộc thí sinh phải ghi tên học tại trường lái xe chuyên nghiệp. Hú hồn, nếu không, tôi phải mất bộn tiền và tốn thêm thì giờ để tiếp tục học lái xe tại trường.

Trước khi từ giã, tôi bắt tay ông thầy dạy lái, vừa ngỏ lời cảm ơn vừa chúc mừng ông thầy thoát được “của nợ” đã hành ông mất bảy lần lui tới Nha Lộ Vận.

Nhờ kinh nghiệm chua chát về tôi mà sau nầy ông thầy tăng tiền dạy lái gấp đôi cho ông HO nào tự xưng mình lái xe lâu nhất và hay nhất ở Việt Nam.

*  *  *

Vợ tôi được bà láng giềng giới thiệu học nghề nấu ăn trên xe lunch, một phương tiện bán thức ăn lưu động tại các hãng xưởng. Sáng sớm bà chở giúp nhà tôi đến hãng IFCO, chiều về chịu khó lên xe bus. Dù học nghề, nhưng được chủ trả 40 đô mỗi ngày. Cuối ngày phải rửa xe, lau chùi các tủ kính, bếp nấu, tính ra còn khổ hơn người thợ chính. Lương trả cho cook chính mỗi ngày 80 đô, khi xe về đến bến là cook thảnh thơi lái xe về nhà.

Vợ tôi làm suốt mười hai tiếng đồng hồ trên xe lunch, đã nhọc mệt mà chiều về còn phải đứng ngoài trời lạnh đón xe bus qua hai ba trạm. Vì vậy, tôi nghĩ đến chuyện mua xe, một mặt đưa đón vợ, một mặt cho con tôi có phương tiện đi làm và đi học.


Một hôm, bất ngờ tôi nhận được thơ của Trần Chung, một thuộc cấp cũ gởi thơ thăm và có nhã ý lấy vé máy bay mời chúng tôi qua thăm vùng Houston, nơi anh có ngôi chợ bán seafood. Anh còn đề nghị tôi nên chuyển gia đình qua vùng đó ở, anh sẵn sàng giúp đỡ “ông thầy”.

Ðược tin đó, vợ chồng cô Thanh góp ý kiến là thay vì ông bạn cho tiền mua vé máy bay khứ hồi từ Cali sang Texas, chỉ xin họ cho mượn 2000 đô-la để mua chiếc xe, hầu có phương tiện cho cả nhà đi lại, rồi trả góp từng tháng một.


Bà chủ chợ Trần Chung là bạn cùng quê với vợ tôi, ông chồng là nhân viên của tôi khi chưa mất nước, cả hai đều thân tình cả. Họ qua đây từ năm 79, có mấy cơ sở làm ăn vững vàng  ở Houston. Nghe lời góp ý của Thanh, chúng tôi “hồ hởi” gọi điện thoại ngay.

Cú phôn xuyên bang đối với gia đình đang ăn trợ cấp cũng xót xa lắm. Bà chủ chợ nhận điện thoại, nghe tiếng vợ tôi, bà vui mừng rối rít. Bà hỏi thăm đủ người, nào là bà nội ông ngoại, các bà dì ông dượng của bà ấy rồi đến láng giềng, cả cái nhà thờ của ông chồng để lại cho đứa cháu kêu bác ruột  có sửa sang đẹp đẽ không, ngày chạp mả hàng năm đều gởi tiền về mà nó tổ chức có rình rang không?.. Chờ cho bà bạn cũ nghỉ lấy hơi, vợ tôi mới dám mở lời mượn tiền mua xe. Bà bạn bảo:

- “Ồ tiếc chưa, phải chi gia đình bồ qua đây trúng mùa xuân, lúc ấy chợ mình đông khách hàng lắm, gặp mùa nầy chợ nào cũng ế ẩm cả. Ðể mình hội ý với ông xã rồi trả lời bồ sau. Phôn cúp, mất trọn một giờ gọi long-distance, nhưng niềm hy vọng chỉ còn năm mươi phần trăm ở người chồng.

Nhà tôi thao thức chờ đợi tiếng phôn “độ trì” từ thành phố Houston, nhưng vẫn im re. Tôi nghĩ có thể người bạn bận rộn công việc ở chợ nên đã quên khuấy lời khẩn khoản của vợ mình. Vì vậy, tôi đánh liều gọi điện qua để được trả lời dứt khoát. Lần nầy tôi không nghe giọng líu lo của vợ chồng bạn tôi mà chỉ nghe tiếng nói chắc nịch của tổng đài báo cho biết số điện thoại đó không xài nữa.

Vợ chồng Thanh sống trong xã hội Mỹ đã mười mấy năm mà đưa ý kiến mượn tiền là đùa cợt trên sự đau khổ của người chưa am tường đời sống thực tế ở đây. Không biết nên trách người hay tội nghiệp cho bản thân mình. Vợ tôi nước mắt đầm đìa, khóc vì tủi phận.

Bà kể lể:

- “Ngày trước nó đi buôn quân tiếp vụ bị quân cảnh hốt, chạy tới trường mình đang dạy đòi mượn tiền, phải bỏ lớp về nhà vét sạch đưa cho nó, giờ trong cơn túng quẫn nơi quê người nó lại làm ngơ

Tôi sùng máu nạt vợ:

- “Bà có điên không mà kể lể ngược đời. Hồi đó bà cho nó mượn nhiều lắm là năm chục ngàn, còn ở đây hai ngàn đô-la tính ra trên hai mươi triệu đồng Việt Nam đó, sợ bà mới qua không trả nổi nên người ta làm lơ là đúng thôi.

Bà chủ xe lunch muốn giữ vợ tôi làm với bà lâu dài nên cho chúng tôi mượn 1050 đô mua chiếc xe Supra hai cửa, đời 81 bị tông móp bên hông tay lái. 

Con tôi chê xe bị tai nạn trốc sơn loang lổ. Tôi giải thích:

- “Giai đọan đầu khó khăn, mình cần xe đi, đâu cần xe đẹp. Người ta nói hiệu xe nầy bền lắm, đi cả chục năm nữa vẫn còn tốt chán, vả lại, nó vừa với túi tiền của gia đình mình”.

Nghe tôi sắm xe, nhiều người khuyên mới có bằng lái phải mua bảo hiểm hai chiều. Nghe rồi chỉ ậm ừ chứ tôi biết cóc gì về chiều với hướng.


Sau khi làm xong thủ tục ở nha lộ vận, tôi vội đến văn phòng bảo hiểm của ông chủ người Việt, nguyên là bạn học với vợ tôi. Vị chuyên viên đầy kinh nghiệm nầy khuyên tôi chỉ nên mua insurance một chiều rưỡi thôi, lý do xe cũ và tiết kiệm tiền. Anh giải thích:

“Bảo hiểm chiều rưỡi là khi xe anh tông xe người ta thì hãng bảo hiểm của tôi sẽ bồi thường cho xe phía bên kia và nếu xui xẻo xe người khác đụng xe anh mà xe họ không mua insurance, thì bảo hiểm của tôi sẽ đền cho anh”.

Tôi đồng ý.

Tính tới tính lui trên máy điện toán, anh bạn kéo ra tờ giấy dài như lá sớ. Phần tổng cộng một năm bảo hiểm phải đóng 1250 đô.

Chân tay rã rời, tôi thì thào bên tai vị chuyên viên bảo hiểm:

“Tiền mua chiếc xe có 1050 đô, sao bảo hiểm tới 1250 đô”?

Anh ôn tồn giải thích:

- “ Hiệu Supra là loại xe thể thao, cha con anh mới có bằng lái và cậu con trai hai mươi hai tuổi, đó là ba yếu tố khiến tiền mua bảo hiểm phải cao. Tuy nhiên, không phải đóng một lần mà có thể đóng từng tháng một  cộng thêm tiền lời.”

Tôi ôm đầu ra về thông báo với bà xã. Ngày hôm sau nhà tôi mượn về 150 đô-la đóng tháng bảo hiểm đầu tiên.

Buổi sáng, tôi đưa vợ đi làm từ lúc bốn giờ, rồi vội vã quanh về cho hai con lớn đi làm hãng điện tử. Cái job điện tử nghe kêu thật. Ông bà ngoại đọc thơ thấy cháu mình mới qua Mỹ mà sao học hành giỏi quá, chưa được bao lâu mà đã đạt được cái nghề điện tử!

Một giờ 3 đô, ngày làm tám tiếng vị chi là 24 đô. Một tháng hai muơi ngày tính ra làm được 480 đô chưa trừ thuế. Ông bà ngoại bên nhà nhẩm tính lương mỗi đứa cháu hàng tháng gần năm triệu bạc Việt nam. Con gái, chàng rể rồi đây sẽ giàu to ở xứ người, ông bà mừng rơn đi khoe cùng bà con láng giềng.

Giàu đâu chưa thấy, nhưng tiền trợ cấp vừa đúng sáu tháng là bị cắt bớt, chỉ còn cái check 650 đô với 108 đồng food stamps cho mỗi tháng dành cho cha mẹ và đứa con út dưới mười tám tuổi.

* * *

Từ ngày về đây, gia đình tôi ở tầng lầu, tầng dưới vắng vẻ không người ở, nhưng đêm đến lại thường nghe tiếng khua động. Những tiếng cộp cộp, bình bịch như có người đục vách, tiếng lào xào như tiếng nước chảy.

Vợ tôi thầm thì: “Ma ông à”.

Tôi áp nạp:

“Ngủ đi, mai còn đi làm, thợ sửa nhà đấy. Ở Mỹ nguời ta làm việc đâu kể ngày đêm.”

Lâu ngày rồi cũng quen tai, vả lại, những tiếng động đó cũng không xảy ra thường xuyên.

Có những  buổi sáng đi làm sớm, chúng tôi hay bắt gặp cặp nam nữ thiếu niên người Á đông ngồi ôm nhau trên ban-công tầng gác đối diện.

Bà xã tôi thắc mắc:

“Con nhà ai mà trốn cha trốn mẹ yêu đương sớm thế?”

Như thường lệ, sáng đúng bốn giờ là tôi phải chở vợ đi làm. Xe vừa ra khỏi đường hẻm, chợt một cảnh sát mặc sắc phục chận lại. Ông ra lệnh vợ chồng tôi ra khỏi xe, đồng thời đưa hai tay lên đầu. Họ đẩy chúng tôi úp mặt trên nắp ca-pô xe, rồi bắt đầu lục soát trên người, trong xe. Xong, họ chụp hình cả người lẫn xe.  

Sau cùng họ hỏi chúng tôi đi đâu. Câu trả lời rất rõ ràng của tôi là đi làm.

Ông ta khoát tay bảo lên xe, không cho bật đèn sáng. Ra khỏi khu vực, chúng tôi mới thấy xe cảnh sát đậu rải rác trên những con lộ gần khu chung cư của chúng tôi ở.

Khi tôi quay về, mọi người trong khu chung cư hầu như đều thức dậy, kẻ đứng lấp ló trong cửa, người ra hẳn ngoài sân, mắt hướng về căn apartment của tôi. Cảnh sát mặc thường phục đang lục soát tầng dưới nhà, một số khác, vũ khí cầm tay xục xạo dọc theo con suối cạn.

Ông Bang láng giềng đang đứng hút thuốc trước mái hiên ngoắc tôi lại nói nhỏ vào tai:

“Một ổ cướp có súng, khiếp thật. Chúng nó đục vách nhét hàng điện tử lấy trộm được, khoét sàn bên trong tủ đựng áo quần bỏ cả vũ khí vào trong đó. Tôi đếm được mười thằng, toàn dân da màu bị còng tay, nghe đâu một thằng chạy thoát. Cặp trai gái thường ôm nhau ngồi trên ban-công lúc về sáng cũng có mặt trong số đó.  Hàng điện tử chúng cướp ở đâu mà nhiều đến khiếp, chất đầy một xe van, vậy mà chưa hết, cảnh sát còn tiếp tục tháo vách lục tìm.” Tôi thật sự bàng hoàng. Từ chỗ ngạc nhiên đến lo sợ. Mấy tháng trời sống trên hang kiến lửa mà chẳng hay biết gì cả. Xế trưa, một cảnh sát Mỹ gốc Việt đến nhà tôi. 

Ông ấy hỏi:

- “Cái nhóm băng đảng ở tầng dưới hoạt động đã gần một năm rồi mà gia đình ông không hay biết gì sao?” 

Tôi trung thực trả lời:

- “Chúng tôi là những người tỵ nạn mới sang, thuê căn nhà nầy chưa đầy bảy tháng.”

Ông cảnh sát nhìn tôi một chặp lâu như để dò xét rồi tiếp tục tra vấn:

- “Bảy tháng sống ở đây, ông không phát hiện được một hiện tượng nào khác lạ?”

Tôi thẳng thắn:

- “Chúng tôi bận rộn suốt ngày, hết chỗ làm part time rồi đến trường học, thì giờ đâu mà để ý đến những sinh hoạt của người khác.

Khi ông cảnh sát đi rồi tôi mới giật mình. Tay nầy nghi mình bao che hoặc tiếp tay cho bọn cướp. Trái lại bọn cướp nhìn tôi như là mật báo viên. Hang ổ bị phá vỡ, tự nó đã chĩa mũi dùi vào kẻ ở tầng trên. Ðúng là một cổ hai tròng! 

Chiều tối cùng ngày, lực lượng FBI lại đột nhập vào căn gác đối diện nhà tôi, bắt thêm được ba tên người Mễ Tây Cơ và tịch thu ba khẩu súng ngắn.

Ðêm đó, tôi bàn với vợ và hai đứa con lớn là phải dọn nhà đi gấp, chần chờ là chúng đến nhà “phơ” hết cả đám. Ðồng đảng chắc chắn sẽ nghi gia đình mình mật báo cho lực lượng an ninh hành tung của chúng. Nghe tôi phân tích, mọi người đều sợ xanh máu mặt.

Chỉ trong vòng hai ngày là chúng tôi lặng lẽ dọn nhà không báo trước. Ra đi âm thầm trong đêm, bỏ lại tất cả những vật dụng nặng nề, bỏ cả tiền deposit, nghĩa là bỏ của chạy lấy người.

* * *

Mấy tháng sau, nhân cuối tuần, tôi ghé vào quán cà-phê HO để kiếm tờ báo Việt ngữ, bất ngờ gặp người bạn láng giềng hồi ở apartment của ông bác sĩ. Ông Bang bắt tay tôi mừng rỡ, nói:

- Ông may mắn thật.

- Chuyện gì thế? tôi ngạc nhiên hỏi.

Bang thì thầm:

“ Ông dọn nhà đi là có cặp vợ chồng già và đứa cháu nhỏ đến mướn ngay. Người vợ bị bệnh thần kinh tê liệt. Ông biết không, đúng một tuần lễ, vào nửa đêm, bọn chúng xông vào căn gác ông ở cũ gặp người mướn mới, hỏi ông chồng:

- Các người mướn nhà nầy bao lâu?

- Chúng tôi đến đây chưa đầy tuần lễ, ông cụ trả lời.

- Mấy người có biết gia đình người mướn trước dời đi đâu không?

- Già cả lại bệnh hoạn, tụi tôi làm sao biết được.

Chúng kéo bà lão tê liệt rớt xuống sàn nhà, giật tấm đắp xem mặt thằng nhỏ đang ngủ, mở cửa tủ áo quần lục soát, xong chúng nhìn mặt từng người trong nhà một lần chót rồi vội vã ra xe đang nổ máy chờ.

Sáng hôm sau ông già kể lại cho hàng xóm nghe sự việc đêm qua mà chẳng biết chuyện gì đã xảy ra trước kia trong nhà ông đang ở.

Ông Bang nhìn tôi với ánh mắt như ngưỡng mộ một vị anh hùng, tiếp:

- “Bà con cả khu apartment đều phục ông là người can đảm. Nói không phải chỗ xin ông bỏ qua cho, chỉ có người cộng tác viên gan lì như ông mới dám đưa gia đình đến sống trà trộn với bọn cướp. Mà phải có người như ông may ra xã hội nầy mới diệt hết được những băng đảng tôị phạm. Từ ngày tiểu trừ được bọn cướp, chúng tôi mới thở phào nhẹ nhõm và luôn luôn nhớ ơn ông.

Nghe đến đó, tôi sợ tháo mồ hôi. Chính những người bạn láng giềng còn nghi tôi là người của FBI, huống hồ bọn cướp làm sao nghĩ khác đi được! Và tôi tự nhủ sẽ không bao giờ trở lại cái khu “Thông Tấn Xã Senter” nầy nữa. Ðến đấy biết đâu, chẳng có ngày mang họa vào thân!


Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23635
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 27/Sep/2023 lúc 4:13am

Trận Cuối


Tặng Võ Hoàng

“Từ máy thâu thanh cô nàng hát nhanh, trọn kiếp thương anh lính trẻ xa nhà, tôi là người đi lính miền xa, nhưng giữa rừng già tôi có thấy gì đâu… nhưng giữa rừng già tôi có thấy gì đâu.” 

Câu cuối (“nhưng giữa rừng già tôi có thấy gì đâu”) Sáu Mù ca thêm lần nữa, và lần nào y cũng nhắm mắt lại thiệt chặt. Bẩy Què khoái chí cười sằng sặc, bỏ đờn xuống, bàn: 

-Bản này mày ca tới hơn bản Xuân Này Con Không Về, mà đều mày đừng có nhắm mắt lại … 

-Sao vậy? 

– Mày đui mà, mắt toàn tròng trắng không hà, mở ra hay nhắm lại thì cũng “có thấy gì đâu.” Làm như vậy làm chi cho nó mất công mà tao ngó sao mắc cười quá hà… 

-Ờ…!

Sáu Mù ờ rất yếu và mặt thoáng trầm ngâm. Y bị tật nguyền đã bao nhiêu năm mà vết thương, đôi lúc, tưởng chừng như vẫn chưa kéo da non. Một va chạm nhẹ vẫn có thể gây ra cái cảm giác đau đớn khó chịu. Bảy Què đang cười bỗng khựng. Nhìn mặt bạn nó biết liền là mình vừa giễu dở nên vội vàng biện bạch, khỏa lấp :

– Cũng như tao vậy, mày thấy có khi nào tao ca bản “đường còn dài nhưng chân cứng đá mềm” mà hồi tụi mình học ở Vương Mộng Hồng đâu. Còn có một giò mà cứ làm bộ ắc ê đếm nhịp “một, hai, ba, bốn; một, hai, ba, bốn” hoài coi nó kỳ thấy mẹ ! 

– Vậy bữa nào rảnh mày dợt cho tao bài Người Nghệ Sĩ Mù đi. Bản đó tao hát nghe mà không rớt nước mắt tao làm con mày. 

– Bản đó mới vô làm sao cà? Bảy Què băn khoăn đưa tay lướt nhanh trên phím đàn mò nốt. 

-Tự nhiên tao cũng quên mất tiêu. Tao nhớ là hồi đó mình hay nghe ở cái quán cà phê gì ngoài Ðà Nẵng đó. Lúc mới vô đầu in tuồng có tiếng đờn, rồi tiếng tiền cắc thẩy vô lon nghe keng, keng… 

-Thôi tao nhớ rồi… Bản này của Hoàng Thi Thơ, Hùng Cường ca chớ đâu. Rồi Bảy Què lấy giọng vô luôn: “Ai dừng chân nơi đây buông lòng theo câu ca. Tôi ngồi trong bóng tối nghe đời đi ra xa…” 

– Nó đó… 

– Mà không được đâu… 

– Sao vậy? 

– Hát bản này nghe giống như hai thằng mình đi ăn xin vậy. Tụi mình đâu có đi hát dạo kiếm ăn. Mình có trách nhiệm đàng hoàng mà, đúng không ? 

– Ờ. 

Lần này Sáu Mù “ờ” mạnh hơn và thốt nhiên nghiêng đầu nở một nụ cười rạng rỡ. Y luôn luôn thấy thích thú, vui vui sướng khi nghe Bảy Què nhắc đến chuyện ‘trách nhiệm” của hai thằng. Sáu Mù không nói ra được những điều mình biết và mình nghĩ trong lòng rành mạch như Bảy Què nhưng y khoái nghe bạn nhắc đi nhắc lại “nhiệm vụ” và “ý nghiã” này nọ. 

Có bữa cao hứng Bảy Què còn nói lung tung về tác dụng của chiến tranh tâm lý, tác dụng của nhạc trong tâm hồn quần chúng… Sáu Mù thiết tha được nghe cũng như Bảy Què khát khao được nói. Cả hai không bỏ lỡ cơ hội nào để bồi đắp niềm tin về cái ý nghiã xa xôi, mơ hồ nhưng cao đẹp cho phần đời thân tàn ma dại còn lại của hai thằng. 

Thường ngày hai thằng ngồi bên ngoài chợ trời. Bảy Què bầy đồ nghề trên một cái bàn xếp chỉ lớn bằng bề mặt hai cuốn tập và cái bảng nhỏ cạnh bên: “Vô Mực Ruột Viết Bic và Sửa Hộp Quẹt Zippo Giá Rẻ.” 

Sáu Mù thì không làm được chuyện này. Y vừa ngồi thổi sáo vừa bán sáo. Cái nghề này kiếm ăn không khá. Sáu Mù sống lây lất được là nhờ sự đắp đổi của bạn. Ðiều này vẫn thường làm cho y buồn và mang nhiều mặc cảm. Bảy Què cứ phải an ủi hoài hoài: 

– Mày kiếm tiền không nhiều được bằng tao nhưng mày có dịp thổi sáo cả ngày. Cái lợi là mình làm cho những người khách qua đường được nghe tới nghe lui bản Lòng Mẹ, Con Thuyền Không Bến … 

-Lợi làm sao ? Bảy Què đã nói cả trăm lần như vậy rồi mà lần nào Sáu Mù cũng ráng hỏi lại. 

-… Thì… người ta nghe mấy bản nhạc đó thấy đã tai hơn là nghe mấy bản nhạc chướng tai của tụi nó chớ sao. Từ đó người ta nhớ thời cũ và càng chán cái thời chó đẻ này. Làm được như vậy là kể như tụi mình đang chiến đấu rồi. Cái này kêu bằng chiến tranh tâm lý mà Sáu! 

Thiệt ra cái kêu bằng “chiến tranh tâm lý” này không phải là ý kiến của Bảy Què. Y chỉ lập lại những điều mà anh Hai hay nói cho tụi nó nghe thôi. 

Hai thằng quen anh Hai lâu rồi. Bữa đó, chợ trời bị bố ráp, rượt bắt một trận tơi bời. Bảy Què mất hết đồ nghề, mất luôn cây nạng. Sáu Mù cũng quờ quạng sao đó để mất luôn hết lưng vốn của mình, hai chục cái ống sáo. Sáu Mù cõng bạn chạy mà mệt muốn đứt hơi. 

May mắn gặp được anh Hai. Anh bỏ hai thằng lên xe chở tuốt về xóm. Từ đó anh Hai trở thành người anh kết nghĩa và ân nhân của hai thằng. Sáng, anh bốc hai thằng bỏ lên xe chở ra chợ. Chiều, anh cho hai thằng về. Lâu lâu còn có bữa anh “vớt” hai thằng về sớm hơn giờ đã định, đưa ra đường Hàm Nghi uống rum Lebon và nhậu củ kiệu với hột vịt bắc thảo. Anh Hai không bị đui, cũng không bị què. Anh chỉ bị chột mắt thôi. 

Anh Hai không bao giờ nói cho Bảy Què và Sáu Mù nghe về dĩ vãng của mình. Thường ảnh hay trầm ngâm và buồn. Lâu lâu anh Hai mới nhỏ giọng, nghiêm trang nói chuyện với hai thằng, với giọng nói rất chân tình và thuyết phục. 

Từ anh Hai mới có chuyện chiến tranh tâm lý: “Cuộc chiến của mình vẫn đang âm thầm tiếp diễn trên mọi mặt trận. Hai em phải thấy, tụi nó chiếm được thành mà không chiếm được lòng người thì chưa kể được là thắng; hiện tại tụi nó không những đã làm mất lòng người mà còn mất luôn cả lòng sĩ tốt của nó nữa. 

Chung cuộc, tụi nó sẽ thua.Vấn đề của anh em mình bây giờ là phải chiến đấu, đóng góp toàn lực trong khả năng riêng của từng thằng để rút ngắn con đường đưa đến chiến thắng càng sớm càng tốt…”

Ðã nhất là anh Hai làm cho Sáu Mù và Bảy Què thấy rằng tụi nó không phải là kẻ tàn tật đứng bên lề cuộc đời. Tụi nó vẫn có khả năng, không những chỉ để sinh tồn mà còn để chiến đấu chống lại kẻ thù nữa. 

Từ đó, mỗi buổi chiều trở về xóm nhỏ thay vì chỉ nằm hát nghêu ngao chơi cho đỡ buồn thì Sáu Mù và Bảy Què tập nhạc ráo riết. Mỗi tuần hai thằng được bà con vỗ tay tán thưởng, chia xẻ với niềm tin chung mãnh liệt của tất cả mọi người: Cuộc chiến vẫn cứ đang tiếp diễn. 

Lúc anh Hai tới thì Bảy Què và Sáu Mù đang cãi cọ về bản Sài Gòn Vĩnh Biệt. Sáu Mù thích chơi bản đó nhưng bị Bảy Què cự nự: 

– Người ta chán nghe hát tới hát lui “Sài Gòn ơi, anh xin hứa, rằng anh trở về” rồi! Nghe láu cá chết mẹ. Có thấy ai về đâu nào? 

– Nhưng mà – Sáu Mù nhỏ nhẹ – bà con vẫn cứ mong chớ đâu có chán. Mình ên mày không thích rồi mày nghĩ ai cũng vậy sao? 

Anh Hai can thiệp: 

– Thôi trễ rồi nha hai đứa. Thì cứ để cho thằng Sáu nó ca; bản nào bà con vỗ tay nhiều thì hát tiếp không thì tuần sau bỏ. 

Bốc hai thằng lên xe, đạp ra khỏi con hẻm rồi anh Hai mới hỏi: 

– Chiều nay tụi mày tính “hành quân” ở đâu đây? 

– Cho tụi em xuống trạm xe buýt ở góc Trương Công Ðịnh và Nguyễn An Ninh đi. 

– Hát ở ngay đó tụi công an nó đá cho dập mật à. 

– Ðâu có, tụi em đón xe lên Tân Cảng mà. Thì cũng làm y chang như mấy lần trước vậy. Ði xe đường dài, khúc nào khách không chen chúc quá đông thì mình làm vài bản. Lần quần chiều nay mà tụi em chơi chừng hai chục bài là coi như tạm đủ để trả nợ núi sông rồi. 

-Ðược – anh Hai tán thành – “kế hoạch hành quân” vậy là tạm ổn. Nhớ đừng chơi Giã Từ Vũ Khí nha, mấy cha. Cái gì mà “trả súng đạn này anh sạch nợ sông núi rồi!” Nghe rầu quá hà. Sạch sao được?

Sáu Mù bắt liền: 

– …“Anh chẳng còn chi, chẳng còn chi ngoài con tim héo em ơi. Xin trả lại đây, trả lại đây… “

– Thôi mà Sáu – Bảy Què dấm dẳng – sao mày toàn thích toàn mấy bản nhạc yếu xìu không vậy ? 

Cụt hứng, Sáu Mù tắt đài, chống chế bâng quơ : 

– Bị nó làm tao nhớ ông thượng sĩ Tâm, ổng già rồi mà hay ca: “Rồi anh sẽ qua thăm nhà em, với miếng cau với miếng trầu ta làm lại từ đầu..” nghe thấy đã. 

Tới trạm vừa kịp lúc xe đến. Anh Hai đẩy Bảy Què lên trước rồi dắt Sáu Mù lên sau. Trước khi quay đi anh không quên dặn: 

– Chừng bảy giờ tao chờ tụi mày ở đây nha. 

Ở ngay trạm chính xe chật ních người. Bảy Què đút gọn cái nạng dưới gầm ghế, ôm sát cây đờn ghi ta để đứng trước ngực, ngồi che một khoảng nhỏ vừa đủ cho Sáu Mù dựa lưng vào thành xe và bó chặt hai đầu gối. 

Xe ngừng ở trạm Nguyễn Du rồi Pasteur. Người xuống nhiều hơn người lên. Sàn xe bắt đầu có khoảng trống đủ rộng có thể di chuyển dễ dàng. Bảy Què đẩy bạn lết ra giữa đường đi và bắt đầu dạo đờn nhè nhẹ làm cho mọi người chú ý. 

Theo đúng chương trình hai thằng sẽ mở đầu bằng bản Trên Ðầu Súng: 

“Trên đầu súng quê hương, Tổ quốc đã vươn mình 

Trên lưỡi lê căm hờn, hờn căm như triều sóng

Ôi xôn xao chiêng trống hối thúc đã giục giã khắp chốn rộn ràng

Ôi lửa thiêng dậy bập bùng tay lửa tay vung kiếm

Trên đầu súng xâm lăng xiềng xích với bạo tàn

Trên lưỡi lê nô lệ cùm gông phải đổ nát…” 

Người nghe không những chỉ chú ý mà còn hơi sửng sốt. Hát dạo trên xe buýt không phải là một hiện tượng xa lạ nhưng những từ ngữ  “nô lệ” hay “cùm gông”… thì quả thực là hơi  lạ tai và cũng đã tai! Nhắm thấy có bộ được, Bảy Què và Sáu Mù tiếp luôn bản Cờ Bay:

“Cờ bay. Cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu 

Vừa chiếm lại đêm qua bằng máu 

Cờ bay. Cờ bay tung trời ta về với quê hương 

Từng ngóng đợi quân ta tiến về 

Ta ôm nhau mắt lệ nghẹn ngào quỳ hôn đất thân yêu 

Quảng Trị ơi, chào quê hương giải phóng 

Hồi sinh rồi này mẹ này em 

Vui hôm nay qua đêm đen tìm thấy ánh mặt trời 

Ði lên. Ði lên trên hoang tàn ta xây dựng ngày mai”

Bản nhạc chấm dứt nhưng không ai vỗ tay. Bảy Què ngước nhìn lên và bắt gặp một hai người đang lấy tay chùi nước mắt. Y xúc động đến bối rối và cũng muốn khóc theo luôn. Y vừa đàn, vừa nói thầm với chính mình nhiều lần ‘nhảy dù cố gắng” để ngăn cho nước mắt khỏi chẩy. 

Sáu Mù thì chưa cảm nhận được kịp phản ứng của thính giả, vẫn tiếp tục say mê ngồi hát. Chương trình tiếp nối bằng một bản Trên Bốn Vùng Chiến Thuật: 

“Năm hai mươi mốt tuổi, tôi đi vào quân đội mà lòng chưa hề yêu ai. Người yêu tôi mới quen mà thôi..”  Năm hai mươi mốt tuổi, Sáu Mù cũng đi vào quân đội. Tiểu Ðoàn Chín Nhảy Dù. Và người con gái y mới quen mà thôi ở quận Thượng Ðức – cách đây đã bao năm – mãi mãi vẫn còn trong tâm tưởng như một chiếc bóng đậm mầu. 

Lúc đơn vị đang tiến chiếm đồi 1062 thì Sáu Mù bị thương ở mắt. Y được trực thăng đưa thẳng về Tổng Y Viện Cộng Hoà. Giữa cái lúc nằm đau xót, mê man trên máy bay, Sáu Mù vẫn cứ nhớ và tiếc một điều: Y đã không có dịp để nói với người ta một câu từ tạ, dù là “tạ từ trong đêm!”

Mắt Sáu Mù được giải phẫu xong đúng bốn ngày thì Sài Gòn thất thủ. Y bị đẩy ra khỏi bệnh viện để dành chỗ cho phe thương binh thắng trận. Sáu Mù vĩnh viễn “giã từ ánh sáng” kể từ lúc đó. Cũng từ đó, không có thêm một người con gái nào lọt được vào đôi mắt trắng dã của y nữa. 

Trong cái bóng đêm dài hết một đời này, thỉnh thoảng, vẫn lóe sáng hình ảnh của hai người đàn bà: Người mẹ và người con gái tóc thề mà Sáu Mù chưa kịp hỏi tên ở quận Thường Ðức. Những lúc lần dò, lê la ngoài hè phố hay trên xe buýt như thế này, tự thâm tâm Sáu Mù vẫn vừa mong mỏi, vừa lo sợ một điều: Bất ngờ gặp lại được mẹ hay cố nhân. 

Khi bản nhạc chấm dứt thì Sáu Mù không còn thể nào ngăn được nước mắt đã lăn nhẹ trên đôi gò má trơ xương của y. Nhiều hành khách khác cũng khóc. Không khí trên xe trầm lắng đến nặng nề. Mọi người đều im lặng, thẫn thờ như họ đang bị thôi miên. Tài xế và lơ xe vẫn thi hành phận sự một cách bình thường, như không có chuyện gì quan trọng xẩy ra, dù nét mặt của cả hai bỗng nghiêm và buồn… thấy rõ! 

Em bé bán chuối chiên cẩn trọng gói một trái chuối bự nhất, nhẹ nhàng mang đến đặt vào tay Sáu Mù. Cái cảm giác nong nóng ở tay khiến y biết ngay là có một người nào đó đã động lòng và dấm dúi cho mình một phần lương thực. Sáu Mù không cảm thấy bị xúc phạm, y chỉ càng tủi thân thêm. Mãi đến lúc đó nhiều người mới nhìn thật kỹ Sáu Mù và Bảy Què. 

Họ chợt nhận ra trước mắt mình là hai người thương binh – dù quân phục đã cũ nát, tả tơi và phù hiệu đơn vị đã bạc màu – chứ không phải là những kẻ ăn xin hát dạo như thường thấy. Sáu Mù đã cảm nhận được hết cái không khí thương yêu chia xẻ quanh mình. Y xúc động đến run người. May mắn là sự mù lòa giúp cho y đỡ bối rối hơn là Bảy Què trong lúc này. Bảy Què phải cúi gầm mặt xuống, tránh những ánh mắt chứa chan thiện cảm của những người xung quanh. 

Cảm tình của thính giả làm cho Bảy Què luống cuống. Bần thần một hồi y mới lấy lại được bình tỉnh. Y vội vàng chuyển nhịp, chơi bản Hội Nghị Diên Hồng: 

“Toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến? Hận thù đằng đằng, biên thùy rung chuyển… Toàn dân Tiên Long, sơn hà nguy biến ! Hận thù đằng đằng nên hòa hay chiến?” 

– Quyết Chiến!

Tiếng hô đáp bất ngờ của nhiều người trong xe khiến Bảy Què và Sáu Mù tưởng như có một luồng điện chạy qua người. Không riêng gì hai thằng mà có lẽ là tất cả mọi hành khách đều xúc động mãnh liệt. Sau đó có đến hơn chục người cùng cất cao giọng hát chung với hai thằng. Xe ngừng lại ở một vài trạm kế tiếp, không ai xuống. Lác đác chỉ có người lên. 

Mặc kệ cho những người mới bước lên xe ngơ ngác, Bảy Què, Sáu Mù và nhiều hành khách trên xe cứ hát. Sau khi “chiều” theo mọi người hát đi hát lại bản Hội Nghị Diên Hồng đến lần thứ ba, Bảy Què mới chuyển nhịp qua được bản Mẹ Việt Nam Ơi Chúng Con Vẫn Còn Ðây: 

“Nhưng mẹ ơi, giờ đây sao mẹ khóc 

Hai vai gầy run rẩy nát tâm can

Lệ hồng pha Bến Hải nước tràn dâng

Áo nâu nghèo mẹ khóc để phơi thân

Một đàn con giờ quên ơn nuôi dưỡng

Súng đạn cầy tan nát luống quê hương… 

Mẹ lòng đau thương xót cảnh lầm than

Xót xa nhiều phương Bắc chiếm phương Nam

Nhưng mẹ ơi, mẹ đừng than khóc nữa

Vì chúng con của mẹ vẫn còn đây…”

 

Xe đến trạm cuối – Tân Cảng. 

Bản nhạc cuối cùng cũng vừa vặn chấm dứt ở đó. Mọi người lục tục xuống xe. Họ đi qua chỗ hai thằng, không quên nhét vội vào túi tụi nó những đồng tiền lẻ. Có người lục tìm mãi túi mình rồi bối rối nhét đại vào áo Sáu Mù một ít… thuốc rê! 

Hai thằng ngồi sượng sùng đón nhận những câu nói “cảm ơn” nho nhỏ và những đồng tiền, những món quà rơi như mưa vào người mình. Riêng Bảy Què thì không dưng mà chợt nhớ đến cái lúc mà y ngượng ngập, cúi đầu nhận vòng hoa chiến thắng, từ tay của em nữ sinh Trưng Vương, vào một buổi sáng (nào đó) đã xa lắc, xa lơ… .

Trong đám hành khách, có hai người không móc tiền mà cũng không móc thuốc. Họ rút từ trong người ra khẩu K.54 dí vào ót của hai thằng. Cái cảm giác thép lạnh làm Sáu Mù điếng người. Hắn ú ớ lên tiếng hỏi : 

– Làm cái gì vậy ? 

– Về đồn rồi biết… 

Bảy Què hốt hoảng: 

– Làm việc cho CIA chống phá cách mạng chứ còn làm gì nữa. 

Ðám đông hiếu kỳ còn đang kinh ngạc, tần ngần, nghe đến mấy chữ “CIA” liền bước nhanh xuống xe, vội vàng tản mát ra xa. Tay phải cầm súng, tay trái nắm cổ áo của Sáu Mù và Bảy Què, hai người đàn ông lực lưỡng lôi hai thằng xuống xe như lôi hai con chó! 

…Chuyến xe buýt cuối cùng Tân Cảng – Sài Gòn đã đỗ trạm từ hồi xẩm tối nhưng anh Hai vẫn neo xe chờ Sáu Mù và Bảy Què cho đến tận khuya. Anh biết chắc hai thằng em mình “thua” rồi nhưng vẫn cứ chờ. Làm sao mà bỏ đi liền cho đặng? 

Ngày xưa khi còn là một hoa tiêu trực thăng anh Hai cũng đã đi đón hụt nhiều chuyến như vậy rồi. Cái cảm giác mất mát lúc mang máy bay về không giữa đêm trường bao la sau khi đón hụt những toán biệt cách không làm cho anh thấy khổ sở và bứt rứt khủng khiếp như bây giờ. 

Hút đến điếu thuốc cuối cùng rồi anh Hai leo lên xe lầm lũi đạp ra hướng sông, sông Sài Gòn. Bờ sông vắng , nước đen, gió lạnh. “Sông đưa người rồi cũng mỏi mòn trông!” Anh Hai lẩm nhẩm một câu thơ chợt len vào trí nhớ, và chưa bao giờ thấy mình cô đơn như vậy. 

Anh nghĩ đến những thằng bạn đồng ngũ còn lận đận ở tận những phương trời xa xôi và tiếp tục lẩm nhẩm: “Tụi nó đều còn nguyên vẹn hết mà đã bao năm rồi, sao không thấy đứa nào quay trở lại. Trận chiến này chưa chấm dứt mà…”

 

Tưởng Năng Tiến

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23635
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 27/Sep/2023 lúc 4:14am

Trận Cuối

Trận%20cuối%20–%20Tưởng%20Năng%20Tiến%20–%20dòng%20sông%20cũ
Tặng Võ Hoàng

“Từ máy thâu thanh cô nàng hát nhanh, trọn kiếp thương anh lính trẻ xa nhà, tôi là người đi lính miền xa, nhưng giữa rừng già tôi có thấy gì đâu… nhưng giữa rừng già tôi có thấy gì đâu.” 

Câu cuối (“nhưng giữa rừng già tôi có thấy gì đâu”) Sáu Mù ca thêm lần nữa, và lần nào y cũng nhắm mắt lại thiệt chặt. Bẩy Què khoái chí cười sằng sặc, bỏ đờn xuống, bàn: 

-Bản này mày ca tới hơn bản Xuân Này Con Không Về, mà đều mày đừng có nhắm mắt lại … 

-Sao vậy? 

– Mày đui mà, mắt toàn tròng trắng không hà, mở ra hay nhắm lại thì cũng “có thấy gì đâu.” Làm như vậy làm chi cho nó mất công mà tao ngó sao mắc cười quá hà… 

-Ờ…!

Sáu Mù ờ rất yếu và mặt thoáng trầm ngâm. Y bị tật nguyền đã bao nhiêu năm mà vết thương, đôi lúc, tưởng chừng như vẫn chưa kéo da non. Một va chạm nhẹ vẫn có thể gây ra cái cảm giác đau đớn khó chịu. Bảy Què đang cười bỗng khựng. Nhìn mặt bạn nó biết liền là mình vừa giễu dở nên vội vàng biện bạch, khỏa lấp :

– Cũng như tao vậy, mày thấy có khi nào tao ca bản “đường còn dài nhưng chân cứng đá mềm” mà hồi tụi mình học ở Vương Mộng Hồng đâu. Còn có một giò mà cứ làm bộ ắc ê đếm nhịp “một, hai, ba, bốn; một, hai, ba, bốn” hoài coi nó kỳ thấy mẹ ! 

– Vậy bữa nào rảnh mày dợt cho tao bài Người Nghệ Sĩ Mù đi. Bản đó tao hát nghe mà không rớt nước mắt tao làm con mày. 

– Bản đó mới vô làm sao cà? Bảy Què băn khoăn đưa tay lướt nhanh trên phím đàn mò nốt. 

-Tự nhiên tao cũng quên mất tiêu. Tao nhớ là hồi đó mình hay nghe ở cái quán cà phê gì ngoài Ðà Nẵng đó. Lúc mới vô đầu in tuồng có tiếng đờn, rồi tiếng tiền cắc thẩy vô lon nghe keng, keng… 

-Thôi tao nhớ rồi… Bản này của Hoàng Thi Thơ, Hùng Cường ca chớ đâu. Rồi Bảy Què lấy giọng vô luôn: “Ai dừng chân nơi đây buông lòng theo câu ca. Tôi ngồi trong bóng tối nghe đời đi ra xa…” 

– Nó đó… 

– Mà không được đâu… 

– Sao vậy? 

– Hát bản này nghe giống như hai thằng mình đi ăn xin vậy. Tụi mình đâu có đi hát dạo kiếm ăn. Mình có trách nhiệm đàng hoàng mà, đúng không ? 

– Ờ. 

Lần này Sáu Mù “ờ” mạnh hơn và thốt nhiên nghiêng đầu nở một nụ cười rạng rỡ. Y luôn luôn thấy thích thú, vui vui sướng khi nghe Bảy Què nhắc đến chuyện ‘trách nhiệm” của hai thằng. Sáu Mù không nói ra được những điều mình biết và mình nghĩ trong lòng rành mạch như Bảy Què nhưng y khoái nghe bạn nhắc đi nhắc lại “nhiệm vụ” và “ý nghiã” này nọ. 

Có bữa cao hứng Bảy Què còn nói lung tung về tác dụng của chiến tranh tâm lý, tác dụng của nhạc trong tâm hồn quần chúng… Sáu Mù thiết tha được nghe cũng như Bảy Què khát khao được nói. Cả hai không bỏ lỡ cơ hội nào để bồi đắp niềm tin về cái ý nghiã xa xôi, mơ hồ nhưng cao đẹp cho phần đời thân tàn ma dại còn lại của hai thằng. 

Thường ngày hai thằng ngồi bên ngoài chợ trời. Bảy Què bầy đồ nghề trên một cái bàn xếp chỉ lớn bằng bề mặt hai cuốn tập và cái bảng nhỏ cạnh bên: “Vô Mực Ruột Viết Bic và Sửa Hộp Quẹt Zippo Giá Rẻ.” 

Sáu Mù thì không làm được chuyện này. Y vừa ngồi thổi sáo vừa bán sáo. Cái nghề này kiếm ăn không khá. Sáu Mù sống lây lất được là nhờ sự đắp đổi của bạn. Ðiều này vẫn thường làm cho y buồn và mang nhiều mặc cảm. Bảy Què cứ phải an ủi hoài hoài: 

– Mày kiếm tiền không nhiều được bằng tao nhưng mày có dịp thổi sáo cả ngày. Cái lợi là mình làm cho những người khách qua đường được nghe tới nghe lui bản Lòng Mẹ, Con Thuyền Không Bến … 

-Lợi làm sao ? Bảy Què đã nói cả trăm lần như vậy rồi mà lần nào Sáu Mù cũng ráng hỏi lại. 

-… Thì… người ta nghe mấy bản nhạc đó thấy đã tai hơn là nghe mấy bản nhạc chướng tai của tụi nó chớ sao. Từ đó người ta nhớ thời cũ và càng chán cái thời chó đẻ này. Làm được như vậy là kể như tụi mình đang chiến đấu rồi. Cái này kêu bằng chiến tranh tâm lý mà Sáu! 

Thiệt ra cái kêu bằng “chiến tranh tâm lý” này không phải là ý kiến của Bảy Què. Y chỉ lập lại những điều mà anh Hai hay nói cho tụi nó nghe thôi. 

Hai thằng quen anh Hai lâu rồi. Bữa đó, chợ trời bị bố ráp, rượt bắt một trận tơi bời. Bảy Què mất hết đồ nghề, mất luôn cây nạng. Sáu Mù cũng quờ quạng sao đó để mất luôn hết lưng vốn của mình, hai chục cái ống sáo. Sáu Mù cõng bạn chạy mà mệt muốn đứt hơi. 

May mắn gặp được anh Hai. Anh bỏ hai thằng lên xe chở tuốt về xóm. Từ đó anh Hai trở thành người anh kết nghĩa và ân nhân của hai thằng. Sáng, anh bốc hai thằng bỏ lên xe chở ra chợ. Chiều, anh cho hai thằng về. Lâu lâu còn có bữa anh “vớt” hai thằng về sớm hơn giờ đã định, đưa ra đường Hàm Nghi uống rum Lebon và nhậu củ kiệu với hột vịt bắc thảo. Anh Hai không bị đui, cũng không bị què. Anh chỉ bị chột mắt thôi. 

Anh Hai không bao giờ nói cho Bảy Què và Sáu Mù nghe về dĩ vãng của mình. Thường ảnh hay trầm ngâm và buồn. Lâu lâu anh Hai mới nhỏ giọng, nghiêm trang nói chuyện với hai thằng, với giọng nói rất chân tình và thuyết phục. 

Từ anh Hai mới có chuyện chiến tranh tâm lý: “Cuộc chiến của mình vẫn đang âm thầm tiếp diễn trên mọi mặt trận. Hai em phải thấy, tụi nó chiếm được thành mà không chiếm được lòng người thì chưa kể được là thắng; hiện tại tụi nó không những đã làm mất lòng người mà còn mất luôn cả lòng sĩ tốt của nó nữa. 

Chung cuộc, tụi nó sẽ thua.Vấn đề của anh em mình bây giờ là phải chiến đấu, đóng góp toàn lực trong khả năng riêng của từng thằng để rút ngắn con đường đưa đến chiến thắng càng sớm càng tốt…”

Ðã nhất là anh Hai làm cho Sáu Mù và Bảy Què thấy rằng tụi nó không phải là kẻ tàn tật đứng bên lề cuộc đời. Tụi nó vẫn có khả năng, không những chỉ để sinh tồn mà còn để chiến đấu chống lại kẻ thù nữa. 

Từ đó, mỗi buổi chiều trở về xóm nhỏ thay vì chỉ nằm hát nghêu ngao chơi cho đỡ buồn thì Sáu Mù và Bảy Què tập nhạc ráo riết. Mỗi tuần hai thằng được bà con vỗ tay tán thưởng, chia xẻ với niềm tin chung mãnh liệt của tất cả mọi người: Cuộc chiến vẫn cứ đang tiếp diễn. 

Lúc anh Hai tới thì Bảy Què và Sáu Mù đang cãi cọ về bản Sài Gòn Vĩnh Biệt. Sáu Mù thích chơi bản đó nhưng bị Bảy Què cự nự: 

– Người ta chán nghe hát tới hát lui “Sài Gòn ơi, anh xin hứa, rằng anh trở về” rồi! Nghe láu cá chết mẹ. Có thấy ai về đâu nào? 

– Nhưng mà – Sáu Mù nhỏ nhẹ – bà con vẫn cứ mong chớ đâu có chán. Mình ên mày không thích rồi mày nghĩ ai cũng vậy sao? 

Anh Hai can thiệp: 

– Thôi trễ rồi nha hai đứa. Thì cứ để cho thằng Sáu nó ca; bản nào bà con vỗ tay nhiều thì hát tiếp không thì tuần sau bỏ. 

Bốc hai thằng lên xe, đạp ra khỏi con hẻm rồi anh Hai mới hỏi: 

– Chiều nay tụi mày tính “hành quân” ở đâu đây? 

– Cho tụi em xuống trạm xe buýt ở góc Trương Công Ðịnh và Nguyễn An Ninh đi. 

– Hát ở ngay đó tụi công an nó đá cho dập mật à. 

– Ðâu có, tụi em đón xe lên Tân Cảng mà. Thì cũng làm y chang như mấy lần trước vậy. Ði xe đường dài, khúc nào khách không chen chúc quá đông thì mình làm vài bản. Lần quần chiều nay mà tụi em chơi chừng hai chục bài là coi như tạm đủ để trả nợ núi sông rồi. 

-Ðược – anh Hai tán thành – “kế hoạch hành quân” vậy là tạm ổn. Nhớ đừng chơi Giã Từ Vũ Khí nha, mấy cha. Cái gì mà “trả súng đạn này anh sạch nợ sông núi rồi!” Nghe rầu quá hà. Sạch sao được?

Sáu Mù bắt liền: 

– …“Anh chẳng còn chi, chẳng còn chi ngoài con tim héo em ơi. Xin trả lại đây, trả lại đây… “

– Thôi mà Sáu – Bảy Què dấm dẳng – sao mày toàn thích toàn mấy bản nhạc yếu xìu không vậy ? 

Cụt hứng, Sáu Mù tắt đài, chống chế bâng quơ : 

– Bị nó làm tao nhớ ông thượng sĩ Tâm, ổng già rồi mà hay ca: “Rồi anh sẽ qua thăm nhà em, với miếng cau với miếng trầu ta làm lại từ đầu..” nghe thấy đã. 

Tới trạm vừa kịp lúc xe đến. Anh Hai đẩy Bảy Què lên trước rồi dắt Sáu Mù lên sau. Trước khi quay đi anh không quên dặn: 

– Chừng bảy giờ tao chờ tụi mày ở đây nha. 

Ở ngay trạm chính xe chật ních người. Bảy Què đút gọn cái nạng dưới gầm ghế, ôm sát cây đờn ghi ta để đứng trước ngực, ngồi che một khoảng nhỏ vừa đủ cho Sáu Mù dựa lưng vào thành xe và bó chặt hai đầu gối. 

Xe ngừng ở trạm Nguyễn Du rồi Pasteur. Người xuống nhiều hơn người lên. Sàn xe bắt đầu có khoảng trống đủ rộng có thể di chuyển dễ dàng. Bảy Què đẩy bạn lết ra giữa đường đi và bắt đầu dạo đờn nhè nhẹ làm cho mọi người chú ý. 

Theo đúng chương trình hai thằng sẽ mở đầu bằng bản Trên Ðầu Súng: 

“Trên đầu súng quê hương, Tổ quốc đã vươn mình 

Trên lưỡi lê căm hờn, hờn căm như triều sóng

Ôi xôn xao chiêng trống hối thúc đã giục giã khắp chốn rộn ràng

Ôi lửa thiêng dậy bập bùng tay lửa tay vung kiếm

Trên đầu súng xâm lăng xiềng xích với bạo tàn

Trên lưỡi lê nô lệ cùm gông phải đổ nát…” 

Người nghe không những chỉ chú ý mà còn hơi sửng sốt. Hát dạo trên xe buýt không phải là một hiện tượng xa lạ nhưng những từ ngữ  “nô lệ” hay “cùm gông”… thì quả thực là hơi  lạ tai và cũng đã tai! Nhắm thấy có bộ được, Bảy Què và Sáu Mù tiếp luôn bản Cờ Bay:

“Cờ bay. Cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu 

Vừa chiếm lại đêm qua bằng máu 

Cờ bay. Cờ bay tung trời ta về với quê hương 

Từng ngóng đợi quân ta tiến về 

Ta ôm nhau mắt lệ nghẹn ngào quỳ hôn đất thân yêu 

Quảng Trị ơi, chào quê hương giải phóng 

Hồi sinh rồi này mẹ này em 

Vui hôm nay qua đêm đen tìm thấy ánh mặt trời 

Ði lên. Ði lên trên hoang tàn ta xây dựng ngày mai”

Bản nhạc chấm dứt nhưng không ai vỗ tay. Bảy Què ngước nhìn lên và bắt gặp một hai người đang lấy tay chùi nước mắt. Y xúc động đến bối rối và cũng muốn khóc theo luôn. Y vừa đàn, vừa nói thầm với chính mình nhiều lần ‘nhảy dù cố gắng” để ngăn cho nước mắt khỏi chẩy. 

Sáu Mù thì chưa cảm nhận được kịp phản ứng của thính giả, vẫn tiếp tục say mê ngồi hát. Chương trình tiếp nối bằng một bản Trên Bốn Vùng Chiến Thuật: 

“Năm hai mươi mốt tuổi, tôi đi vào quân đội mà lòng chưa hề yêu ai. Người yêu tôi mới quen mà thôi..”  Năm hai mươi mốt tuổi, Sáu Mù cũng đi vào quân đội. Tiểu Ðoàn Chín Nhảy Dù. Và người con gái y mới quen mà thôi ở quận Thượng Ðức – cách đây đã bao năm – mãi mãi vẫn còn trong tâm tưởng như một chiếc bóng đậm mầu. 

Lúc đơn vị đang tiến chiếm đồi 1062 thì Sáu Mù bị thương ở mắt. Y được trực thăng đưa thẳng về Tổng Y Viện Cộng Hoà. Giữa cái lúc nằm đau xót, mê man trên máy bay, Sáu Mù vẫn cứ nhớ và tiếc một điều: Y đã không có dịp để nói với người ta một câu từ tạ, dù là “tạ từ trong đêm!”

Mắt Sáu Mù được giải phẫu xong đúng bốn ngày thì Sài Gòn thất thủ. Y bị đẩy ra khỏi bệnh viện để dành chỗ cho phe thương binh thắng trận. Sáu Mù vĩnh viễn “giã từ ánh sáng” kể từ lúc đó. Cũng từ đó, không có thêm một người con gái nào lọt được vào đôi mắt trắng dã của y nữa. 

Trong cái bóng đêm dài hết một đời này, thỉnh thoảng, vẫn lóe sáng hình ảnh của hai người đàn bà: Người mẹ và người con gái tóc thề mà Sáu Mù chưa kịp hỏi tên ở quận Thường Ðức. Những lúc lần dò, lê la ngoài hè phố hay trên xe buýt như thế này, tự thâm tâm Sáu Mù vẫn vừa mong mỏi, vừa lo sợ một điều: Bất ngờ gặp lại được mẹ hay cố nhân. 

Khi bản nhạc chấm dứt thì Sáu Mù không còn thể nào ngăn được nước mắt đã lăn nhẹ trên đôi gò má trơ xương của y. Nhiều hành khách khác cũng khóc. Không khí trên xe trầm lắng đến nặng nề. Mọi người đều im lặng, thẫn thờ như họ đang bị thôi miên. Tài xế và lơ xe vẫn thi hành phận sự một cách bình thường, như không có chuyện gì quan trọng xẩy ra, dù nét mặt của cả hai bỗng nghiêm và buồn… thấy rõ! 

Em bé bán chuối chiên cẩn trọng gói một trái chuối bự nhất, nhẹ nhàng mang đến đặt vào tay Sáu Mù. Cái cảm giác nong nóng ở tay khiến y biết ngay là có một người nào đó đã động lòng và dấm dúi cho mình một phần lương thực. Sáu Mù không cảm thấy bị xúc phạm, y chỉ càng tủi thân thêm. Mãi đến lúc đó nhiều người mới nhìn thật kỹ Sáu Mù và Bảy Què. 

Họ chợt nhận ra trước mắt mình là hai người thương binh – dù quân phục đã cũ nát, tả tơi và phù hiệu đơn vị đã bạc màu – chứ không phải là những kẻ ăn xin hát dạo như thường thấy. Sáu Mù đã cảm nhận được hết cái không khí thương yêu chia xẻ quanh mình. Y xúc động đến run người. May mắn là sự mù lòa giúp cho y đỡ bối rối hơn là Bảy Què trong lúc này. Bảy Què phải cúi gầm mặt xuống, tránh những ánh mắt chứa chan thiện cảm của những người xung quanh. 

Cảm tình của thính giả làm cho Bảy Què luống cuống. Bần thần một hồi y mới lấy lại được bình tỉnh. Y vội vàng chuyển nhịp, chơi bản Hội Nghị Diên Hồng: 

“Toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến? Hận thù đằng đằng, biên thùy rung chuyển… Toàn dân Tiên Long, sơn hà nguy biến ! Hận thù đằng đằng nên hòa hay chiến?” 

– Quyết Chiến!

Tiếng hô đáp bất ngờ của nhiều người trong xe khiến Bảy Què và Sáu Mù tưởng như có một luồng điện chạy qua người. Không riêng gì hai thằng mà có lẽ là tất cả mọi hành khách đều xúc động mãnh liệt. Sau đó có đến hơn chục người cùng cất cao giọng hát chung với hai thằng. Xe ngừng lại ở một vài trạm kế tiếp, không ai xuống. Lác đác chỉ có người lên. 

Mặc kệ cho những người mới bước lên xe ngơ ngác, Bảy Què, Sáu Mù và nhiều hành khách trên xe cứ hát. Sau khi “chiều” theo mọi người hát đi hát lại bản Hội Nghị Diên Hồng đến lần thứ ba, Bảy Què mới chuyển nhịp qua được bản Mẹ Việt Nam Ơi Chúng Con Vẫn Còn Ðây: 

“Nhưng mẹ ơi, giờ đây sao mẹ khóc 

Hai vai gầy run rẩy nát tâm can

Lệ hồng pha Bến Hải nước tràn dâng

Áo nâu nghèo mẹ khóc để phơi thân

Một đàn con giờ quên ơn nuôi dưỡng

Súng đạn cầy tan nát luống quê hương… 

Mẹ lòng đau thương xót cảnh lầm than

Xót xa nhiều phương Bắc chiếm phương Nam

Nhưng mẹ ơi, mẹ đừng than khóc nữa

Vì chúng con của mẹ vẫn còn đây…”

 

Xe đến trạm cuối – Tân Cảng. 

Bản nhạc cuối cùng cũng vừa vặn chấm dứt ở đó. Mọi người lục tục xuống xe. Họ đi qua chỗ hai thằng, không quên nhét vội vào túi tụi nó những đồng tiền lẻ. Có người lục tìm mãi túi mình rồi bối rối nhét đại vào áo Sáu Mù một ít… thuốc rê! 

Hai thằng ngồi sượng sùng đón nhận những câu nói “cảm ơn” nho nhỏ và những đồng tiền, những món quà rơi như mưa vào người mình. Riêng Bảy Què thì không dưng mà chợt nhớ đến cái lúc mà y ngượng ngập, cúi đầu nhận vòng hoa chiến thắng, từ tay của em nữ sinh Trưng Vương, vào một buổi sáng (nào đó) đã xa lắc, xa lơ… .

Trong đám hành khách, có hai người không móc tiền mà cũng không móc thuốc. Họ rút từ trong người ra khẩu K.54 dí vào ót của hai thằng. Cái cảm giác thép lạnh làm Sáu Mù điếng người. Hắn ú ớ lên tiếng hỏi : 

– Làm cái gì vậy ? 

– Về đồn rồi biết… 

Bảy Què hốt hoảng: 

– Làm việc cho CIA chống phá cách mạng chứ còn làm gì nữa. 

Ðám đông hiếu kỳ còn đang kinh ngạc, tần ngần, nghe đến mấy chữ “CIA” liền bước nhanh xuống xe, vội vàng tản mát ra xa. Tay phải cầm súng, tay trái nắm cổ áo của Sáu Mù và Bảy Què, hai người đàn ông lực lưỡng lôi hai thằng xuống xe như lôi hai con chó! 

…Chuyến xe buýt cuối cùng Tân Cảng – Sài Gòn đã đỗ trạm từ hồi xẩm tối nhưng anh Hai vẫn neo xe chờ Sáu Mù và Bảy Què cho đến tận khuya. Anh biết chắc hai thằng em mình “thua” rồi nhưng vẫn cứ chờ. Làm sao mà bỏ đi liền cho đặng? 

Ngày xưa khi còn là một hoa tiêu trực thăng anh Hai cũng đã đi đón hụt nhiều chuyến như vậy rồi. Cái cảm giác mất mát lúc mang máy bay về không giữa đêm trường bao la sau khi đón hụt những toán biệt cách không làm cho anh thấy khổ sở và bứt rứt khủng khiếp như bây giờ. 

Hút đến điếu thuốc cuối cùng rồi anh Hai leo lên xe lầm lũi đạp ra hướng sông, sông Sài Gòn. Bờ sông vắng , nước đen, gió lạnh. “Sông đưa người rồi cũng mỏi mòn trông!” Anh Hai lẩm nhẩm một câu thơ chợt len vào trí nhớ, và chưa bao giờ thấy mình cô đơn như vậy. 

Anh nghĩ đến những thằng bạn đồng ngũ còn lận đận ở tận những phương trời xa xôi và tiếp tục lẩm nhẩm: “Tụi nó đều còn nguyên vẹn hết mà đã bao năm rồi, sao không thấy đứa nào quay trở lại. Trận chiến này chưa chấm dứt mà…”

 

Tưởng Năng Tiến

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23635
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 29/Sep/2023 lúc 9:07am

Đào%20viên%20kết%20nghĩa:%20Nguồn%20gốc%20lai%20lịch%20của%20Lưu,%20Quan,%20Trương


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 29/Sep/2023 lúc 9:11am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23635
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 29/Sep/2023 lúc 10:25am

Bài Học Của Ba

 Stt%20Ngày%20của%20Cha,%20stt%20về%20cha%20hay,%20stt%20cha%20con%20hài%20hước,%20ý%20nghĩa

Chồng tôi gọi đến chỗ làm của tôi, báo tin:
- Ba vừa bị một stroke ở nhà bác Hai, xe ambulance đang đưa ba đến bệnh viện downtown. Anh sẽ đi đón Tí thay em rồi đến bệnh viện sau, còn em cứ đến thẳng đó ngay nhé.
Tôi cúp máy, tâm trí lộn xộn vì tin dữ bất ngờ, chiều qua tôi còn lái xe đưa ba đến nhà bác Hai ở chơi vài ngày, hai ba con còn nói chuyện vui vẻ mà bây giờ ba lại bị vậy sao? Dẫu biết rằng ba đã 76 tuổi, bệnh hoạn là điều sẽ xảy ra, nhưng tôi vẫn không thể chấp nhận, suốt con đường đi bộ từ văn phòng ra parking lot mà  mà lòng dạ bồn chồn, không yên.

Ba không phải là ba ruột của tôi.
Ba và má làm đám cưới trong mấy ngày ba nghỉ phép ngắn ngủi trước khi phải trở lại đơn vị y chang trong bài thơ của Hữu Loan: “cưới vừa xong, là tôi đi ...”. Rồi chỉ vài tháng sau, má nhận tin ba mất tích trong mặt trận Đông Hà - Quảng Trị.. Ngày đất nước đổi chủ, khi các sĩ quan của chính quyền VNCH lần lượt bị đưa vào các trại “cải tạo” tập trung, má vẫn nuôi hy vọng ba đang ở trong nhà tù nào đó ở miền Bắc nhưng vẫn chẳng có tin tức gì.

Ở lứa tuổi 25, thiếu phụ trẻ còn chưa hết ngỡ ngàng trước sự đổi thay của thời cuộc, má bơ vơ giữa thế sự nhiễu nhương mà tin của chồng, dù sống hay chết, vẫn mịt mờ xa xăm. Trong khi nhiều người bị ép đi xây dựng vùng kinh tế mới, má may mắn thoát được vì có mẹ già yếu bệnh, nhưng với lý lịch có chồng “nợ máu nhân dân” má không xin được việc làm ở bất cứ tổ hợp hay hợp tác xã nào dù với đồng lương chết đói.
Thế là đồ đạc của cải trong nhà lần lượt đội nón ra đi, má theo các anh chị em họ hàng và chòm xóm buôn bán đủ nghề lặt vặt cho qua ngày, bữa no bữa đói, khoai sắn, bo bo, mì sợi, cuộc sống bế tắc không có lối thoát nào sáng sủa hơn.

Vài năm sau, ông phó chủ tịch phường trẻ tuổi mới được chuyển về, hay lui tới kiểm tra tình hình hộ khẩu nhân sự trong các tổ dân phố, thấy cảnh thiếu phụ miền Nam chờ chồng của má, ông động lòng thương, hứa sẽ giúp má vào làm trong tổ hợp sản xuất mì sợi của phường. Má trẻ người non dạ, yếu đuối cô đơn, lại mang tâm trạng chịu ơn ông phó chủ tịch, nên trong một phút giây yếu lòng, đã lỡ trao thân cho ông. Khi biết tin má mang thai, ông phó chủ tịch bị cấp trên phê bình, kiểm điểm, kết tội gian díu với vợ “ngụy quân ngụy quyền”, chịu hình thức kỷ luật về lại quê cũ ngoài Bắc, và từ đó ông đi biệt tăm, không một lời hỏi thăm hay giúp đỡ má trong cơn hoạn nạn.

Má sinh ra tôi trong âm thầm đắng cay (đi biển mồ côi một mình), thiên hạ cười chê đàm tiếu, cuộc sống vốn vất vả lại càng thêm chật vật, nhưng rồi cũng trôi qua khi mọi người xung quanh còn biết bao điều âu lo đối phó với chế độ mới, chính quyền mới. Hàng xóm cũng quen dần, chẳng ai còn dị nghị sự có mặt của tôi trên cõi đời bởi họ còn bận rộn với cơm áo gạo tiền.

Tưởng đâu chuyện của tôi sẽ êm xuôi theo dòng chảy cuộc đời, nào ngờ khi tôi lên 4 tuổi, bà ngoại vừa qua đời không bao lâu, má bỗng nhận được thư ba từ nhà tù Hoả Lò, báo tin sẽ trở về nhà với gia đình. Má sững sờ, hoang mang, xen lẫn niềm sung sướng hạnh phúc đến muốn khóc vì “tưởng người chết đi nhưng nay anh lại về, từ ngục tối hay mộ sâu” như trong một bài hát của Trần Thiện Thanh.

Khi ba vừa xuống xe xích lô ngoài đầu ngõ, đám đông vây quanh đón chào, chúc mừng ba đã hồi sinh từ cõi chết, và nối đuôi đi theo ba đến tận cửa nhà. Trước tiên, họ vui mừng cho ba má tôi đoàn tụ sau bao năm tháng mỏi mòn, tưởng như không còn hy vọng, dù là mong manh. Nhưng họ cũng hiếu kỳ, tò mò chờ xem phản ứng của ba khi nhìn thấy “cục nợ đời” từ trên trời rơi xuống là tôi. Má như đã chuẩn bị sẵn, dẫn tôi ra trước mặt ba, nói nhỏ: “Chào ba đi con!”. Trái với sự tưởng tượng của chòm xóm, ba không biểu lộ gì, mà còn đưa tay ra, mỉm cười, chờ đợi. Tôi ngây thơ bé bỏng nào có biết gì, vội sà vào lòng ba, ôm cổ ba, ríu rít gọi “ba” và đùa nghịch mái tóc khô cứng còn vương bụi đường của ba.

Một hai tuần lễ sau, rồi cả tháng sau, hàng xóm vẫn thắc mắc vì chưa thấy “chiến tranh” nổ ra trong nhà tôi. Họ thì thầm, bàn tán: “Ông ấy là lính tâm lý chiến, đâu phải dạng vừa. Cứ chờ xem ông ấy sẽ có cách xử vợ”, thậm chí có người còn tỏ ra hiểu đời, tuyên bố: “Ối, quân tử trả thù ba năm vẫn chưa muộn!”.

Thể lực yếu và mắt kém, ba còn trong sự quản chế của địa phương, nên ba được người quen đưa vào làm việc trong hãng nước đá phụ việc giao nước đá cho các quán giải khát quanh vùng. Thuở ấy, nghề làm nước đá thịnh hành nên ba cũng phụ má chút đỉnh chuyện chi tiêu hàng ngày. Những buổi chiều cuối tuần, người ta lại thấy ba dẫn tôi đi dạo, lên tận khu cổng xe lửa, ở đó ba ngồi bên vệ đường, vừa hút thuốc vừa ngắm xe cộ qua lại, trong khi tôi vui thích leo lên cây trứng cá, hái những trái chín màu đỏ nhỏ xíu, rồi bỏ vào miệng ăn ngon lành vị ngọt đậm đà lạ kỳ của chúng. Trên đường trở về nhà, thỉnh thoảng ba còn mua một ổ bánh mì thịt, chia cho tôi một nửa, còn nửa kia dành cho má, tôi vừa bước chân sáo bên cạnh ba, vừa gặm bánh mì hồn nhiên trong ánh mắt yêu thương trìu mến của ba.

Có đôi lúc tôi bị mấy bà hàng xóm nhiều chuyện, thì thầm nhỏ to với tôi, kiểu nửa đùa nửa thật: “Mày không phải con của ba mày đâu, về nhà mà soi gương thử xem, mày chả giống ai trong nhà, mà giống ông Năm Lạc ở ngoài Bắc ấy”. Tôi chạy về méc má, má ký đầu kêu tôi đi tắm rửa, sau đó ba ôm tôi vào lòng và xoa đầu tôi: “Con là con gái của ba chớ của ai? Mấy bác chỉ nói đùa thôi mà!”

Đến lúc có chương trình đi định cư theo diện H. O do chính phủ Mỹ đề xướng, cả gia đình tôi lên đường đến Dallas làm lại cuộc đời mới, tươi sáng hơn nhiều so với dưới bầu trời u ám của Việt Nam do “bên thắng cuộc” gây nên.
Nơi đây, cũng như bao gia đình H.O khác, ba má tôi không ngại gian khó, hy sinh làm việc chăm chỉ cho tôi được yên vui học hành và tương lai trên quê hương thứ hai. Qua đây rồi, chẳng còn ai dòm ngó nói ra nói vào chuyện của tôi, cuộc sống gia đình tôi cứ trôi đi êm ả theo dòng thời gian, thế mà lại có ngày chính má lại nói ra sự thật với tôi trong một lần trên giường bệnh sau một thời gian đuối sức sau cả mổ tim vì “heart attack”.

Dù ba hết sức ngăn cản, má vẫn cố gắng nói, để xin lỗi tôi vì đã nói dối, rằng má mang thai tôi trong một lần đi tìm thăm ba và được ở lại qua đêm với ba trong trại “cải tạo”. Má cũng ngỏ lời tạ ơn ba vì tấm lòng bao dung độ lượng của ba, vì đã yêu thương hai má con mà má nguyện một đời ghi nhớ, xin mang theo cả vào kiếp sau. Tôi nhớ rất rõ khuôn mặt ba lúc đó, khóe mắt ướt lệ, nói với má rằng má không có lỗi, vì ba mất tích biệt tăm chẳng biết sống chết ra sao, chính ba mới là người cám ơn má, vì hậu quả những ngày trong tù, ba không còn khả năng sinh con, má đã cho ba món quà quý giá là tôi, để ba được làm ba, được biết cảm xúc ngọt ngào của tình phụ tử.

Má qua đời, để lại cho hai ba con sự trống vắng, hụt hẫng não lòng, nhưng đớn đau và hoang mang nhất vẫn là tôi. Dù biết rằng ai cũng cần biết sự thật của đời mình, nhưng có lúc tôi thà rằng má cứ để quá khứ ngủ yên, để tôi chỉ biết có một người ba kính yêu trên đời, để tôi khỏi phải phân vân về một người bố đã tạo cho tôi hình hài nhưng đã bỏ má con tôi biền biệt không chút xót thương, và ông vẫn hiện hữu đâu đó trên cõi đời này.

Nhưng cũng nhờ sự thật này, tôi mới nhớ lại cả quãng đời đã qua, ba chưa làm điều gì cho tôi một chút nghi ngờ tôi không phải là con ba. Nhớ khi lên bảy lên tám, trong một buổi tối mùa hè mải chơi với lũ bạn ở sân Chùa gần nhà, trời đổ cơn mưa lớn ào ào, kéo dài gần một tiếng đồng hồ, và khi cơn mưa vừa nhẹ hạt, tôi đã thấy ba đang bì bõm lội nước, quần ống thấp ống cao, tay cầm chiếc áo mưa, đến bên tôi đang đứng đợi, cẩn thận mặc áo mưa cho tôi, rồi cõng tôi trên lưng, đưa tôi về nhà an toàn ấm áp xiết bao. Qua bên Mỹ này, hễ khi đi xa nhà (thường là đi thăm họ hàng, người thân khi có việc cần) ba luôn mang quà về cho tôi. Ba luôn thưởng quà cho tôi khi tôi học giỏi, xứng đáng là “con gái rựơu” của ba.

Nhớ ngày tôi được trường Đại Học ở Austin kêu phỏng vấn trước khi nhập học, buổi sáng ngày đó, ba dậy thật sớm vẽ bản đồ đường đi (thuở đó chưa có GPS, Google Map), hai ba con ghé McDonalds uống cafe ăn sáng rồi lên đường. Ba chưa có kinh nghiệm tìm đường nơi thành phố lạ nên bị lạc đường, loay hoay mãi vẫn chưa tìm ra đúng hướng, sợ tôi bị trễ giờ, ba liền gọi taxi đưa tôi đến trường kịp trước giờ hẹn phỏng vấn. Chưa hết, biết tôi thích ăn bánh mì thịt Việt Nam, nên cố gắng lúc tôi đang còn trong phòng phỏng vấn, ba tìm đường xuống phố Việt mua bánh mì cho tôi, thế là lại bị lạc đường một lần nữa, kết quả là cuộc phỏng vấn chỉ một tiếng đồng hồ, nhưng tôi phải ngồi chờ ba thêm một giờ nữa, hai ba con ăn vội miếng bánh mì trên xe trên đường trở về nhà trước khi trời về chiều để má khỏi sốt ruột.

Biết ba cô đơn nên khi tôi lấy chồng, chúng tôi vẫn ở chung với ba, chăm sóc vui vầy cùng ba theo những thăng trầm của cuộc đời. Để khuây khỏa với tuổi hưu, thỉnh thoảng ba đi gặp gỡ bạn bè cũ, hoặc đến nhà chú bác họ hàng ở chung thành phố, ở lại chơi vài ngày, ba thực sự an vui với tuổi già xế bóng.

Mấy tháng trước, tôi bỗng nhận được một lá thư từ Việt Nam, người gửi là Nguyễn Năm Lạc ở huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam. Bên trong có hai tờ thư, một tờ của bố tôi, Năm Lạc, ông cho biết đã tình cờ may mắn có được địa chỉ của tôi, đã biết má tôi không còn, ông chỉ mong tôi tha thứ vì xưa kia do hoàn cảnh bắt buộc ông phải bỏ rơi má con tôi. Tờ thư thứ hai của người em cùng cha khác mẹ của tôi, kể về những người em khác trong gia đình, về sự vui mừng khi biết có tôi là máu mủ đang ở Mỹ, rồi kể cho tôi nghe cuộc sống khó khăn ở miền quê xa xôi nơi đất Bắc, kèm theo tấm hình đại gia đình cho tôi biết mặt.

Kể từ khi biết được sự thật đời mình, tôi chưa hề mảy may nghĩ đến việc tìm gặp bố, chứ đừng nói đến chuyện liên lạc thư từ. Tôi đọc thư, xem hình mà dửng dưng xa lạ, bởi thời gian đã quá lâu, gần 40 năm rồi còn gì, sao bây giờ họ lại chạm vào vết thương quá khứ đời tôi? Tôi đưa cho ba xem tất cả, không ngờ ba lại khuyên tôi nên viết thư hồi âm và bỏ qua chuyện cũ. Tôi im lặng, xin ba cho tôi một thời gian suy nghĩ để hỏi lại lòng mình.

Tôi nhớ có đôi lần ba kể về khoảng thời gian mười năm ba bị giam trong ngục tối Hỏa Lò ngoài Hà Nội, ba bị đánh đập tra khảo thường xuyên, cho đến ngày được trả tự do, ba vừa bước lên khỏi hầm tối, người ba té nhào bởi đôi mắt hàng chục năm sống dưới bóng tối, nay bị ánh sáng mặt trời chiếu lòa quá mạnh, làm ba bị ngất. Lúc về nhà, nhờ có người thân bên Mỹ gửi thuốc cho ba chữa trị kết hợp đông y, đã cứu đôi mắt ba khỏi mù nhưng thị lực còn rất kém. Tôi đã từng hỏi:
- Ba có căm thù những người đã đánh đập, hành hạ ba không?

Ba đã trả lời ngay, không cần suy nghĩ, từ tốn nhẹ nhàng:
- Ba căm ghét chế độ Cộng Sản, còn những con người đánh đập ba, họ cũng chỉ là nạn nhân của chế độ đó mà thôi, ba không oán hận họ, ba đã tha thứ cho họ từ lâu rồi.

Mải mê suy nghĩ, tôi cũng đã đến bệnh viện kịp thời, bác sĩ cho biết ba chỉ bị stroke nhẹ, không nguy hiểm nhưng cần ở lại thêm vài ngày để theo dõi. Ba nằm đó, tuy hơi mệt mỏi nhưng mỉm cười khi thấy tôi, rồi nắm tay tôi:
- Ba bị nhẹ nhưng có thể sẽ bị nữa, nên nhân dịp này ba muốn nhắn nhủ con một điều...
- Dạ ba nói đi, con nghe, nhưng chắc chắn là ba sẽ khỏe lại, ba đừng lo nghĩ nhiều.
- Thì ba vẫn cứ muốn dặn con mà: con hãy viết thư cho bố con, nói lời tha thứ, để lương tâm ông ấy khỏi ray rứt, và nhớ liên lạc giúp đỡ các em con ngoài đó. Hàng năm vợ chồng con đều gửi tiền về Việt Nam giúp người nghèo khó bệnh tật, huống gì đây là những người em cùng cha khác mẹ, cũng là máu mủ của con, một giọt máu đào hơn ao nước lã, con à! Ba đã qua hết những thăng trầm đời người, thấm hiểu những phù du cuộc đời, càng thấm thía hơn hai chữ thứ tha, bởi mang oán hận chỉ làm nặng trĩu con tim, chi bằng tình yêu thương để lòng ta thanh thản, bình an. Con hứa với ba không?

Tôi nhìn ba, xúc động dâng tràn. Ba đã bỏ qua lỗi lầm của má, ba đã bao dung yêu thương tôi như con ruột, ba cũng đã tha thứ cho những con người từng đánh đập hành hạ ba trong tù, và bây giờ ba muốn tôi mở lòng với người bố và nối kết tình thương với những đứa em mà tôi chưa hề gặp mặt. Ba ơi, con thật hạnh phúc khi có ba trong cuộc đời này. Con sẽ làm theo lời ba, cám ơn ba đã làm ba của con và cho con bài học yêu thương, tha thứ.

Kim Loan
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23635
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 04/Oct/2023 lúc 9:12am

Thơ GIAO MÙA - CHUYỆN VƯỢT BIÊN 30-4-1979 - Nhạc HẸN HÒ PD - 29-9-023  <<<<<<


Thơ%20GIAO%20MÙA%20-%20CHUYỆN%20VƯỢT%20BIÊN%2030-4-1979%20-%20Nhạc%20HẸN%20HÒ%20PD%20-%2029-9-023%20-%20%20YouTube


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 04/Oct/2023 lúc 9:14am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23635
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 09/Oct/2023 lúc 9:18am

Người Tù Binh Hồi Chánh Bên Bờ Sông Ba 


Tôi gặp lại anh trong 1 dịp rất tình cờ . Mùa Hè năm 2008 , vợ chồng tôi cùng mấy người bạn trên đường từ thác Niagra trở lại New York bằng chiếc mini-van , ghé lại thành phố Buffalo để tìm mua 1 hộp thuốc nhỏ mắt .

Đến quày Pharmacy trong 1 cửa hàng Target , tôi may mắn gặp 1 dược tá người Việt . Nếu không nhìn kỹ cái bản tên trên nắp túi áo và với cái tên khá đặc biệt , chắc chắn tôi không thể nào nhận ra anh , người tù binh , đã bị Đại Đội Trinh Sát của đơn vị tôi bắt trong 1 cuộc hành quân thám sát bên bờ Sông Ba , nằm trong địa phận quận An Túc ( An Khê ) vào giữa tháng 02/1972 .


Đúng vào sáng ngày 30 Tết Nhâm Tý ( 1972 ) khi chuẩn bị cho buổi tiệc khao quân tất niên tại bản doanh Sông Mao , Trung Đoàn 44 nhận lệnh phải di chuyển gấp lên An Khê để cùng Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh tăng phái, thành lập 1 chiến đoàn, thay thế vị trí của 1 Lữ Đoàn thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ vừa rút quân về nước , làm lực lượng trừ bị cho Quân Đoàn . Giai đoạn đầu , Chiến Đoàn phối họp với Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn , hành quân tảo thanh tiêu diệt các lực lượng địch dọc theo hai bên QL-19 và đảm trách giữ an ninh lộ trình 24/24 con đường huyết mạch này từ Bình Khê đến Pleiku , để kịp thời cho các nhu cầu chuyển quân , tiếp tế lên chiến trường Pleiku và Kontum . Thời gian này Sư Đoàn 22BB đang bổ sung quân số quân dụng , chuẩn bị di chuyển lên Tân Cảnh để đối phó với tình hình đột biến . Một lực lượng lớn Cộng quân từ miền Bắc và Lào ào ạt xâm nhập qua biên giới , tăng cường cho Mặt Trận B-3 của Tướng CS Hoàng Minh Thảo , trong ý đồ đánh chiếm Tây Nguyên .


Buổi tiệc khao quân tất niên bị huỷ bỏ , thực phẩm phân phát cho binh sĩ và trại gia binh . Chúng tôi rời bản doanh Sông Mao lúc 12 giờ trưa . Chi Đoàn 2/8 TK tăng phái hộ tống lực lượng bộ binh đến Đèo Cả , ranh giới tỉnh Phú Yên . Sau đó được lực lượng Thiết Kỵ của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn mở đường và đón đơn vị chúng tôi từ Đèo Cả đến Đèo Cù Mông , Bình Định . Nghỉ đêm và đón giao thừa tại Vạn Giã , sáng hôm sau tiếp tục di chuyển . Chúng tôi đến căn cứ An Khê lúc 4 giờ chiều ngày Mồng Một Tết .

Một Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 44 được nhanh chóng thành hình . Trung Tá Trần Quang Tiến , Trung Đoàn Trưởng 44BB là Chiến Đoàn Trưởng , Trung Tá Trần Lý Hưng , Thiết Đoàn Trưởng TĐ 3KB là Chiến Đoàn Phó . Cá nhân tôi đảm trách Trưởng Ban 3 Chiến Đoàn . Một toán liên lạc của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn , do 1 vị Đại Tá chỉ huy , được đặt bên cạnh BCH Chiến Đoàn . Ngoài Thiết Đoàn 3 KB , Chi Khu An Túc và 1 tiểu đoàn Địa Phương Quân của TK Bình Định cũng được đặt dưới quyền chỉ huy , điều động của Chiến Đoàn .


Hai hôm sau , Chiến Đoàn được lệnh tổ chức 1 cuộc hành quân khẩn cấp , giải toả hai căn cứ cấp đại đội thuộc Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn nằm trên Đèo An Khê , vừa bị 1 lực lượng Công quân bất ngờ tấn công và đang vây hãm . Sư Đoàn Mãnh Hổ đã phái 1 lực lượng tiếp ứng , nhưng bị phục kích , thiệt hại khá nặng . Lực lượng địch được uớc tính gồm 1 tiểu đoàn và 1 đại đội đặc công của Sư Đoàn 2 Sao Vàng .


Nhờ hoả lực hùng hậu và những kỵ binh dũng cảm trên các chiến xa M-113 của Thiết Đoàn 3KB , cùng các phi công tài ba gan dạ thuộc Phi Đoàn Mãnh Sư 243 , sau những kế hoạch nghi binh , tạo các bãi đáp giả , lừa địch rất hiệu quả , từng đại đội bộ binh được tuyển lựa các binh sĩ trẻ , trang bị nhẹ , đổ xuống , vừa khép vòng vây vừa ngăn chặn lực lượng tăng viện của địch . Đại Đội 44 Trinh Sát nổi danh thiện chiến , với hai toán Viễn Thám được trang bị mặt nạ chống hơi ngạt , chia làm hai cánh bất ngờ nhảy xuống ngay sau lưng địch , từng toán nhỏ lao vào tấn công bằng hơi cay , lựu đạn , và cả M-72 , dưới sự yểm trợ chính xác hữu hiệu của các trực thăng võ trang , nhanh chóng tiêu diệt hai cái chốt chặn của địch ở hai bên dốc đèo , làm đầu cầu cho lực lượng Thiết Giáp có bộ binh tùng thiết , đồng loạt tấn công , nhanh chóng làm chủ chiến trường . Chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ , cả hai căn cứ đã được giải toả , địch quân tháo chạy , bị các đơn vị bao vây tiêu diệt , có mấy tên bị ta bắt sống . Chiến Đoàn đã ghi 1 chiến tích vẻ vang cho đầu năm mới .


Sáng hôm sau Đại Tướng Cao Văn Viên TTMT và Tưóng Tư Lệnh Lực Lượng Đại Hàn tại Việt Nam từ Sài gòn bất ngờ bay ra An Khê quan sát chiến trường và ngợi khen các đơn vị tham chiến .

Ngay chiều hôm ấy , qua hệ thống siêu tần số , Tướng Lam Sơn , Tư Lệnh Phó Quân Đoàn II cho biết , theo tin tức không ảnh của Mỹ ghi nhận , có dấu hiệu địch xuất hiện trong khu vực bên kia bờ Sông Ba , khu này nằm tiếp giáp Vùng Oanh Kích Tự Do , lệnh Chiến Đoàn cho 1 đơn vị cấp đại đội thâm nhập , thám sát tình hình . Ông Chiến Đoàn Trưởng bảo tôi và Đại uý Trần Công Lâm , Đại Đội Trưởng 44 Trinh Sát , dùng CNC bay dọc theo bờ sông , thám sát địa thế , tìm 1 khúc sông thuận lợi và an toàn nhất để vượt sông . Sáng sớm hôm sau , sau khi thông báo cho TTHQ/ Quân Đoàn & Sư Đoàn Mãnh Hổ , yêu cầu tạm ngưng mọi cuộc tác xạ hay oanh kích trong vùng , đúng 5 giờ sáng , hai toán Viễn Thám vượt sông trước làm đầu cầu để toàn bộ Đại Đội Trinh Sát sang sông . Nhiệm vụ hành quân lục soát trong khu vực được ấn định 16 cây số vuông , theo đề nghị của Quân Đoàn .


Sau 2 tiếng đồng hồ , không có cuộc đụng độ nào , Chiến Đoàn nhận được báo cáo của Đại Đội Trinh Sát bắt được 2 tù binh , 1 nam 1 nữ , và cả hai xin được hồi chánh . Theo trình bày của anh Đại Đội Trưởng Trinh Sát . Người đàn ông bị phát giác trước , khi đang trên đường xuống sông lấy nước . Anh ta khai là y sĩ thuộc 1 tiểu đoàn chính quy CS , đã đào ngũ hơn 1 tuần . Anh xin được hồi chánh cùng với người vợ mới gặp , cô là người Thượng , dân ở vùng này , không phải đồng chí của anh . Sau đó , anh hướng dẫn đến 1 hốc đá , chỉ người con gái , và cây súng K-54 được chôn trong 1 bụi rậm gần đó . Vì cuộc hành quân đang tiếp diễn , nên tôi yêu cầu Đại Đội Trinh Sát an ninh bãi đáp để tôi dùng CNC bốc về khai thác . Khi trực thăng đáp xuống , đích thân Đại uý Lâm dẫn giải đến giao cho tôi cùng giấy chứng nhận y sĩ và mấy tấm ảnh . Hai người được giữ lại BCH Chiến Đoàn để tiếp tục khai thác trước khi chuyển giao cho Ty TT Chiêu Hồi Bình Định . Khi cô con gái bước lên trực thăng , chúng tôi đã khá bất ngờ , ngạc nhiên về sắc đẹp kỳ lạ của cô . Thấy áo quần rách rưới , chúng tôi mua cho cô mấy bộ bà ba . Khi mặc vào , trông cô thích thú lắm . Vì cả hai đang bị bệnh , người đàn ông thỉnh thoảng lên cơn sốt , nên chúng tôi sắp xếp cho ở tạm trong trạm xá ( đang trống ) của Đại Đội Quân Y để điều trị . Tất nhiên có sự canh gác đề phòng . Anh Bác sĩ Quân Y lại là bạn thân đồng hương , nên tôi thường ghé lại đây thăm và nhân tiện có nhiều dịp nói chuyện với vợ chồng anh tù binh hồi chánh . Mặc dù đã được Ban 2 ( Tình Báo ) cho chúng tôi biết khá đầy đủ chi tiết sau khi khai thác , nhưng qua những cuộc tâm tình riêng , tôi biết thêm nhiều điều lý thú khác . Anh tên Trúc Bạch , họ Hồ . Làm tôi nhớ tới cái hồ có tên Trúc Bạch mà người phi công Mỹ nổi danh John McCain đã nhảy dù xuống và bị bắt , khi phi cơ của ông bị bắn rơi , lúc ấy ông còn ở trong nhà tù Hilton Hà Nội . Tôi hỏi anh có biết sự việc này không , hay là anh đã có công trạng gì , nên được mang tên cái hồ đặc biệt này kể cả họ Hồ ? Anh cười ngượng ngùng , bảo là , bố mẹ anh gặp nhau lần đầu tiên bên bờ hồ này , rồi sau đó nên duyên và đặt tên cho anh , thằng cu đầu lòng để làm kỷ niệm . Ông bà đều là giáo viên . Trước dạy ở Hà Nội , nhưng vì lý lịch nên sau này phải đổi lên vùng sâu vùng xa mới giữ được nghề cũ . Bố anh gốc người Phát Diệm . Gia đình theo đạo Công Giáo từ mấy đời trước đó . Bố anh chỉ có 1 bà chị , nhưng đã theo chồng di cư vào Nam từ 1954 . Ngày ấy cả xứ họ đạo đều đi , nhưng vì mẹ mang thai anh gần đến ngày sinh , nên bố đành ở lại . Bà cô anh vào Nam , 1 thời gian ở Ngã Ba Ông Tạ , nhưng sau đó mất liên lạc , không biết đã chuyển đi đâu . Bố anh bảo người bà con trong làng vào Nam rất đông , nên nếu tìm bà cô cũng không khó lắm . Tôi cho anh biết là tôi có quen nhiều bạn bè ở vùng Công Giáo Hố Nai , đa số là người Bùi Chu Phát Diệm , tôi có thể hỏi thăm tin tức cho anh . Đang học trường Trung Học Y tế thì anh bị động viên chuyển sang Quân Y , và được đưa vào B ( chiến trường miền Nam ) bổ sung cho Sư Đoàn 2 Sao Vàng . Dù học chưa xong , anh vẫn được cho làm y sĩ . Anh bảo chỉ biết cứu thương và học được 1 số thuốc Nam , trị bệnh bằng các loại lá cây . Hơn nữa đơn vị cũng chẳng có thuốc men gì , ngoài 1 ít thuốc ký ninh của Trung Cộng viện trợ .Anh cũng kể về sự nghèo nàn khốn khổ của dân chúng miền Bắc , chính sách hộ khẩu như 1 hình thức nắm cái bao tử để tạo áp lực với dân , đặc biệt là ép buộc thanh thiếu niên phải vào Nam chiến đấu . Anh cũng kể về mối tình đầu của anh với 1 cô bạn học , khá xinh . Khi biết cô là con của 1 đảng viên trong ban bí thư thành phố , anh ngại . Chưa kịp lùi bước , thì cô cũng kịp khám phá anh ta gốc Công giáo , gia đình lại có đông người di cư vào Nam , nên cô bảo thẳng thừng rồi chia tay . Anh biết trước nên chẳng bất ngờ , cũng chỉ buồn buồn 1 chút rồi thôi . .

Cô con gái đang ngồi với anh , anh gọi là vợ , người sắc tộc , có cái tên rất khó nhớ . Điều đặc biệt là cô khá đẹp . Cái đẹp man dại của 1 cô gái núi rừng có 1 ma lực hấp dẫn đến kỳ lạ . Chính vì điều này đã làm anh có thêm dũng khí để trốn khỏi đơn vị , thực hiện ý định hồi chánh , mà anh đã ấp ủ từ lúc bị chuyển vào miền Nam .


Tiểu đoàn đang ẩn quân ở vùng núi Cheo Reo , nhiều bộ đội bị sốt rét , nên anh cùng 1 người lính trong tổ Quân y tranh thủ đi vào rừng để tìm lá cây làm thuốc . Khi đến bờ 1 con suối nhỏ bên triền núi , anh bắt gặp 1 cô gái đang trồng khoai bên cái chòi tranh sơ sài trong hốc đá . Anh ngạc nhiên , sao lại có 1 người con gái dám sống lẻ loi giữa núi rừng quạnh vắng . Đến gần anh giật mình ngạc nhiên hơn , không tin vào đôi mắt của chính mình . Không thể giữa núi non hẻo lánh này lại có 1 cô con gái đẹp đến lạ lùng , 1 nét đẹp hoang dã , cuốn hút anh ngay từ cái nhìn đầu tiên . Da ngâm đen với đôi mắt thật to , chiếc mũi cao , đôi môi mọng đỏ . Cô khác hẳn với những cô gái Thượng mà anh đã gặp trong các vùng hành quân . Anh mơ hồ nhớ đến chuyện ngày xưa , khi còn bé , anh thường nghe mẹ kể về những cô tiên mắc phải lỗi lầm bị đoạ xuống trần gian . Người bạn lính đi theo anh cũng ngẩn ngơ trước điều bất ngờ kỳ lạ này . Cô gái chỉ nói 1 ít tiếng Việt , nhưng cũng đủ để hai người hiểu được . Cô bảo cô bị người trong buôn cho là ma , nhiều lần đòi giết cô , nên ông trưởng làng đày ra sống ở đây . Cha mẹ thỉnh thoảng được đến thăm , nhưng cô không được phép về buôn . Anh bực dọc cảm thấy có điều gì bất nhẫn . Sau khi được cô gái chỉ đường đến buôn , anh và người bạn lính tìm đến gặp ông trưởng làng để cố thuyết phục xin được thả cô ra , nhưng không những bị từ chối , mà ông trưởng làng còn cho biết là chờ đến mùa lũ , họ sẽ trói cô lại và bỏ trôi sông để cúng thánh thần , tránh tai hoạ cho buôn .


Sau khi về đơn vị , anh suy nghĩ bằng cách nào để cứu được cô con gái . Ý muốn đào ngũ để hồi chánh bao nhiêu lần lóe lên trong đầu , bây giờ càng thôi thúc anh thực hiện . Hai ngày sau , anh báo cáo riêng với tay Thủ Trưởng , xin đi lấy lá thuốc Anh đi 1 mình , thật sớm . Để tránh nghi ngờ , nhất là người bạn đồng chí Quân Y hôm trước , anh để lại balô , chỉ mang theo ít lương khô và khẩu súng K-54 phòng thân . Anh tìm đến giải cứu cô gái Thượng , kể lại cho cô nghe lời của ông trưởng làng , sẽ thả cô trôi sông . Cô gật đầu , mang theo cái gùi chứa ít bắp , khoai và hai cái bình chứa nước làm bằng vỏ trái bầu . . Anh dắt cô gái đi thật nhanh . Buổi chiều khi gặp con Sông Ba , hai người tiếp tục đi dọc theo bờ sông cho đến tối . Nghĩ đã hơn 1 ngày đường , đơn vị không thể nào đuổi theo , anh dừng lại và ẩn trốn trong 1 hốc đá an toàn . Ăn bắp khoai sống tạm , chờ tìm đường ra hồi chánh . Không ngờ 1 tuần sau thì bị đơn vị tôi bắt . Tin tức đơn vị Cộng quân do anh tù hồi chánh cung cấp được kịp thời báo cáo lên Quân Đoàn . Một lực lượng Biệt Động Quân đang hoạt đông trong khu vực Hàm Rồng được tung vào khu vực , nhưng địch quân đã di chuyển đi nơi khác mấy ngày trước ( Sau này được biết đơn vị này bị thiệt hại nặng nề bởi hoả lực Không Quân của ta oanh kích , khi bọn chúng bao vây tấn công 1 căn cứ tại Thuần Mẫn , do 1 đơn vị đia phương quân trú đóng ) .


Mấy hôm sau , khi sức khoẻ tạm hồi phục , vợ chồng anh được chuyển giao cho Ty Chiêu Hồi Tỉnh Bình Định . Qua nhiều lần nói chuyện , nhìn thấy ở anh có sự chân thành , nhất là việc Sư Đoàn 2 Sao Vàng của anh bị thiệt hại nặng nề , bộ đội chết quá nhiều không kịp bổ sung quân số , chúng tôi thấy tội nghiệp cho người dân miền Bắc , nhất là những thanh thiếu niên bị cưỡng bách , tuyên truyền xẻ dọc Trường Sơn cứu nước , để rồi có biết bao người phải sinh Bắc tử Nam !


Ngày 24/04/1972 , Tân Cảnh thất thủ , khi BTL/SĐ22BB bị địch quân tràn ngập , vị Tư Lệnh liêm sĩ và khí phách đã cùng đồng đội chiến đấu tới giây phút cuối cùng , và vùi thây nơi chiến địa , Trung Đoàn 44 chúng tôi có lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Cù Hanh , Pleiku để được không vận lên Kontum . Chỉ sau 1 ngày đến Kontum , thay thế cho 1 Liên Đoàn Biệt Động Quân ở tuyến Tây Bắc , đơn vị tôi đã đánh 1 trận lẫy lừng , tiêu diệt cả 1 trung đoàn của Sư Đoàn 320 CS và 1 đại đội chiến xa T-54 , khi bọn chúng từ Tân Cảnh tràn xuống tấn công , trong ý đồ chiếm lấy Kontum . Chiến thắng này đã mở màn cho nhiều chiến thắng sau đó để giữ vững Kontum trong suốt Mùa Hè Đỏ Lửa . Và thành phố địa đầu Tam Biên này chỉ rơi vào tay CS , khi Quân Đoàn 2 có lệnh triệt thoái vào giữa tháng 03/1975 , tạo nên cuộc di tản đẫm máu kinh hoàng trên con đưởng tử lộ 7-B .


Đã hơn 36 năm , bất ngờ gặp lại anh giữa 1 nơi xa lạ . Chỉ mới nhắc lại 1 vài chi tiết bên bờ Sông Ba ở An Khê năm nào là anh nhớ ra tôi ngay . Tôi không dám vồn vã vì đang đo lường phản ứng của anh . Nhưng bất ngờ anh ôm chầm lấy tôi , gọi tên tôi trong nỗi vui mừng pha chút cảm động . Anh lễ phép xưng em với tôi , bảo là vợ chồng luôn nhớ đến tôi , nhớ anh bác sĩ quân y bạn tôi và nhớ mấy ngày đặc biệt ở căn cứ An Khê . Anh ca ngợi khả năng và lòng nhân đạo của những người lính VNCH . Anh bảo làm sao anh có thể quên được 1 kỷ niệm lớn lao đã làm thay đổi cả cuộc đời anh vả cả vợ anh . Anh khẩn khoản mời chúng tôi ở lại 1 vài ngày với gia đình anh . Tôi ra xe kể qua câu chuyện cho mấy người bạn . Ai cũng thích thú , nhất là muốn xem dung nhan của cô tiên nữ người Thượng bây giờ ra sao . Tôi vào báo cho anh biết là chúng tôi chỉ có thể ở chơi với vợ chồng anh đến sáng ngày mai , nhưng xin anh tìm giúp 1 hotel ở gần nhà để chúng tôi ngủ qua đêm , vì đông người quá , ngại làm phiền . Anh cười , bảo 1 đêm thì quá ít để anh có thể kể bao nhiêu chuyện về cuộc đời của vợ chồng anh . Anh gọi điện thoại về nhà báo tin cho vợ biết và vào xin boss nghỉ sớm để đưa chúng tôi về nhà . Anh cho biết đã đặt giùm khách sạn , nhưng muốn mời chúng tôi về nhà anh chơi , đến khi nào ngủ anh sẽ đưa ra khách sạn . Anh lái xe chạy trước và bảo chúng tôi cứ chạy theo anh . Đường lạ nhưng không nhiều xe lắm , bọn tôi ai cũng nôn nao , mong sớm đến nhà để nhìn dung nhan cô gái Thượng ngày xưa . Ngôi nhà khá đẹp nằm trong khu vườn rộng , trồng đủ các loại hoa . Điều đặc biệt là trước nhà có cả 1 khóm dã quỳ .Loại hoa màu vàng tôi thường thấy ở Vùng Pleiku , An Khê ngày trước . Khi chúng tôi vừa xuống xe , 1 người đàn bà mở cửa bước ra chấp hai tay trước ngực và cúi đầu chào . Anh chồng chưa kịp giới thiệu thì chúng tôi đã ồ lên . Chị cười thật tươi và đưa tay bắt từng người . Có lẽ đã nghe chồng kể qua về chuyện bất ngờ gặp lại tôi , nên chị nhìn từng người để cố nhận ra tôi . Và chị đã nhận ra khi tôi là người cuối cùng bắt tay chị . Điều làm tôi bất ngờ là chị chào hỏi bằng tiếng Việt rất sõi . Mấy người bạn và cả vợ tôi ai cũng trầm trồ trước nhan sắc của chị . Riêng tôi lại có 1 chút thất vọng . Đúng là với tuổi bây giờ , chị là 1 người đàn bà đẹp , nhưng là cái đẹp của 1 hoa hậu phu nhân , mang nét quí phái với chút phấn son . Không còn cái đẹp man dại núi rừng của cô ngày trước . Cái đẹp đặc biệt và hiếm hoi ấy dễ làm mê hoặc người ta hơn . Anh chị mời chúng tôi ra vườn sau , ngồi quanh cái bàn tròn dưới gốc 1 cây bơ phủ bóng . Chúng tôi phụ anh chị làm 1 bữa BBQ . Tôi bảo là hồi đó tên chị khó đọc quá , nên tôi không còn nhớ . Chị cười bảo là H’ Niê . Sợ không hiểu chị lấy 1 que cây viết xuống đất . Vừa viết chị vừa nói : Sau này ông xã em đặt tên cho em là H’ An Khê . Sang Mỹ lấy họ chồng , bây giờ em là An Khê Hồ . Nói xong , chị nhìn sang tôi cười : Cái chỗ An Khê mà các anh đã cứu vợ chồng em đấy !

Tôi đùa :
– Bọn tôi phải cám ơn chị . Sắc đẹp của chị đã giúp bọn tôi bớt đi 1 kẻ thù , và anh Bạch cũng phải mang ơn chị , vì nhờ chị mà anh mới quyết tâm thực hiện giấc mơ hồi chánh của mình , nếu không thì chắc đã trở thành liệt sĩ vô danh từ lâu rồi !

Suốt buổi chiều hôm ấy , anh ngồi kể say sưa cho chúng tôi nghe về cuộc đời của anh và đời sống của vợ chồng sau ngày hồi chánh :
– Em chỉ có 1 cô em gái . Mãi đến năm 1985 em mới liên lạc được và sau này đã bão lãnh sang Mỹ cùng với chồng và 1 đứa con trai . Bố mẹ em đã chết từ lâu , và vẫn cứ tưởng em là liệt sĩ . Sau ngày được chuyển về Bộ Chiêu Hồi , vợ chồng em đều được đối xử rất tốt và giúp đỡ tận tình . Đáng mừng và cảm động nhất là họ đã cố gắng bỏ nhiều công sức để tìm được bà cô ruột của em . Bà có hai người con trai đều là sĩ quan VNCH , một anh ở Biệt Động Quân , nghe nói đánh giặc có tiếng , tiếc là anh đã tử trận trong Tết Mậu Thân , hình như lúc mang hàm Trung Uý , và 1 anh là Thiếu Tá Hải Quân . Cũng nhờ anh này mà cả nhà và vợ chồng em mới được rời khỏi Sài gòn vào sáng sớm ngày 30/04/1975 . Năm 1974 vợ em sinh con trai đầu lòng , sang đây thì có thêm cô con gái . Hai cháu đều đã lập gia đình . Lúc trước gia đình em ở Philadelphia , nhưng từ khi vợ chồng thằng con trai nhận việc làm ở đây , bọn em chuyển lên đây sống gần các cháu .


Buổi chiều , cả vợ chồng cậu con trai và cô con gái chạy xe đến , mang theo mấy chai rượu đỏ và nhiều thức ăn dành cho buổi tối . Các cháu rất lễ phép , dễ thương , nói được tiếng Việt nhưng không giỏi lắm . Đặc biệt cô con gái , chắc nhờ thừa hưởng sắc đẹp của mẹ , nên rất xinh xắn . Nhìn đôi mắt của cháu tôi nhớ lại đôi mắt ngây dại của mẹ cháu ngày xưa , khi còn là cô gái Thượng hoang dã . Đôi măt to , đen láy , mang cả hình bóng núi rừng và mây trời cao nguyên thưở ấy . Điều làm chúng tôi bất ngờ và thích thú hơn . Cháu gái đang là 1 dược sĩ và cậu con trai là Thiếu Tá Bác Sĩ của 1 đơn vị trú đóng ở đây . Cô vợ người Mỹ cũng là 1 Bác Sĩ Quân Y cùng đơn vị . Bọn tôi nâng cốc ca ngợi anh chị và chúc mừng cho sự thành đạt của các cháu . Sáng hôm sau , hai vợ chồng đến khách sạn rất sớm , mời chúng tôi ăn điểm tâm trước khi chia tay . Khi tôi đến quày check out , người thu ngân của khách sạn cho biết có người đã thanh toán tiền phòng rồi . Tôi phàn nàn trách , anh cười , ôm vai tôi nói nhỏ : Biết trả bao nhiêu cho đủ so với tấm lòng và sự giúp đỡ của các anh . Cả vợ chồng ôm từng người chúng tôi và mong có ngày tái ngộ . Khi bắt tay từ giã anh , 1 người bạn của tôi hỏi đùa : Thế Hổ Trúc Bạch có gặp « giặc lái » John McCain chưa ? Anh cười , nói lớn : Em đã gặp ông trong 1 cuộc vận động bầu cử . Em bảo với ông là , tôi và gia đình sẽ bỏ phiếu cho ông , vì ông đã nói 1 câu rất đúng : Điều đáng buồn là trong cuộc chiến Việt Nam , kẻ man rợ đã thắng !

Anh chị lái xe hướng dẫn chúng tôi đi 1 đoạn đường . Đến ngã rẽ qua xa lộ , anh dừng lại , đưa tay ra cửa vẫy chào tiễn biệt . Chia tay vợ chồng anh , suốt cả đoạn đường dài , tôi miên man hồi tưởng về những ngày tháng cũ và hình dung lại từng khuôn mặt đồng đội bạn bè , 1 số đã chết tại các chiến trường khốc liệt An Khê Cheo Reo , Pleiku , Kontum , số còn lại sau những năm tháng tù đày nghiệt ngã , giờ đang lưu lạc bốn phương trời , mang theo những vết thương chưa thể lành được trong lòng . Đặc biệt , tôi nhớ tới Trần Công Lâm , người Đại Đội Trưởng Trinh Sát lừng danh , đã chỉ huy cuộc hành quân bên bờ Sông Ba ngày ấy . Lâm là bạn chí thân , cùng khoá Thủ Đức , cùng Trung Đội SVSQ , và nằm giường trên tôi , lúc còn ở quân trường . Hai thằng đã rủ nhau về cùng đơn vị . Lâm đã hy sinh vào cuối tháng 03/1973 trên đỉnh núi Ngok Wang , Kontum khi đang là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/44 . Và cuối cùng , tôi cũng nhớ đến đôi mắt đẹp man dại của cô gái Thượng , cùng hình ảnh người tù hồi chánh ở An Khê lúc trước , khi Lâm dẫn giải đến trực thăng giao lại cho tôi.


Phạm Tín An Ninh

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 108 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.348 seconds.