Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 107 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 22/Mar/2025 lúc 3:52pm

Cuộc Chờ Vô Vọng - Thiên Kim <<<<<<

Cuộc%20Chờ%20Vô%20Vọng%20-%20Thiên%20Kim%20-%20YouTube


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 22/Mar/2025 lúc 3:55pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 26/Mar/2025 lúc 9:56am

Những Đơn Vị Lính Miền Nam Ngày 30/4/75


Hồi còn nhỏ tôi đã có cơ hội biết về nhiều binh chủng của quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Trong các binh chủng đó, tôi có nhiều dịp tiếp xúc với binh chủng Biệt Đông Quân. Hồi thời Tổng Thống Ngô Đình Diêm, một người con ông chú đã gia nhập binh chủng này từ những ngày mới hoạt động ở vùng Bốn. Năm đó anh được lện Sài Gòn dự lễ diễn binh nên có ghé tạt nhà. Tướng anh bự con mặc bộ đồ bông rất đẹp và ngầu, thêm cái nòn bê rê màu huyết dụ (Cái nhận xét của một thằng nhóc như tơi lúc đó là lính BDQ ngầu thiệt. Sau này tôi có thằng bạn học rớt tú tài hai đi thủ Đức, ra trường cũng về BDQ, một thời gian sau thi giải ngũ vì thương tật. Gia đình tôi cũng có người về BDQ cho tới khi buông súng cho nên tôi có cảm tình đặc biệt với binh chủng này (sau 4/75 tôi lại biết  những người lính BDQ khác, rát đáng nể như thiếu Tá Trần Đình Tự, hay ông hai Nâu Vương mộng Long. Tôi cũng thích cái khi phách trong motto của binh chủng này. 

BDQ : SAT , như ý của người Việt Nam Xưa khi xâm vào tay chữ SÁT DÁT

Một binh chủng khác của Việt Nam Cộng Hòa có một motto nghe rất hiền lành và khiêm nhường nhưng là một binh chủng  rất thiên chiến, mạnh mẻ, và có mặt trên mọi chiến trường ác liệt nhất, khiến cho đồng minh và dối thủ đều phải ngưỡng mộ và nễ phục: Đó là lính Nhảy Dù, với motto nghe hiền khô, và khiêm nhượng nữa:

Nhảy Dù CỐ GẮNG

Và họ đã cố gắng-từ những ngày đầu tiên trên chiến trường  cho tới ngày phải cùng Tổ Quốc thúc thủ trước quân thù. Những người lính Mủ Đỏ vẫn còn chiến đấu ngay trong ngày  nhận lệnh đầu hàng.

Liên Đoàn 81 BCND:

chiến công của các chiến sĩ thuộc Liên Doàn 81 BCND Tiêu diệt gần một chục xe tăng trước ngưỡng cửa Sài Gòn, thực đến nổi VC dù muốn  cũng không che dấu nổi. Thực ra với đơn vị đặc biệt này thì họ cũng chẵng cần được khen tặng, vì thực lực của họ đã được chứng minh suốt chiều dài lịch sữ của cuộc chiến. Có một sự thực là bất cứ đơn vị nào của miền Nam cũng không sợ phải đối mặt với quân Bắc Việt. Quân Cộng sản miền Bắc đã biết mùi chạm trán với quân miền Nam ở giữa lòng Sài Gòn hay cuộc chiến ở An Lộc. Dân thủ đô đã nhìn thấy xác VC (Cả bọn thâm nhập và bọn nằm vùng nằm phơi xác trên đường phố của Sài Gòn. Một bà già đi ngang qua xác của  ba Việt Cộng đã chấp tay lẩm nhẩm "Con cái nhà ai mà phãi phơi xác cho chó tha chuột rỉa như vầy tội quá. VC biết chúng sẽ rơi vào trường hợp tết Mậu Thân nếu không đốc thúc những tên "ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản" như thích trí quang, ni cô Huỳnh Liên.... hoặc ĐẠI TƯỚNG DVM, để buộc lính miền Nam (Đặc biệt là những đơn vị như LD81 BCND, mà trong những ngày đầu mới xâm nhập, lính miền BẮC đã kháo nhau tránh xa các thần chết trên đường vào Nam ( Sinh Bắc Tử Nam )

- thứ nhất : B52

-Thứ Hai : Nhảy dù

- thứ Ba là: Biệt kích 81BKND.

Đây là sự thực, nhưng sau khi cưỡng chiếm miền Nam, bọn bò đỏ và hệ thống tuyên truyền của VC mở hết công suất đễ nhục mạ, chà dạp hành hạ họ cho bỏ căm thù. Thi hãy xem cách bọn CS miền Bắc đã đối xử như thế nào  với những người  lính thua trận : chúng phá huỷ bia mộ những người chết (đặc biệt những bia lính tử trận có mặc quân phục rằn ri, lính bị thương còn thương tích băng bó bị đuổi khỏi tổng y viện. Thương binh bai trận (sau chiến tranh đã trở thành công dân của chế độ mới, chúng không chăm sóc họ, lại còn cản trở những người bỏ công sức giúp đở họ (trong khi ai cũng biết những công dân hạng nhì đầy thương tật này cũng không còn sống bao lâu nữa).

Nhưng Việt Cộng, luôn luôn to mồm nhất để lôi kéo mọi người nên "Hoà Hợp Hoà Giải với nhau".  Vẫn có nhiều người nghe lời đường mật này, nhưng tôi là một trong những người không tìm thấy lý do nào chính đáng để đưa tay ra nắm lấy tay VC theo kiểu tình thương mến thương của người miền Nam. Có thể tôi không  yêu  bọn này, nhưng chắc chắn một điều là không quên nổi, thành tích của bọn này, cùng với những dây mơ rể má của chúng.

Câu chuyện của Liên Đòan 81 Biệt Cách Nhảy Dù cho thấy rõ ràng là dù Việt Cộng dốc hết sức mạnh cho bộ máy tuyên truyền, quân Đội miền Bắc đã không thể đánh thắng nổi và chiếm được Saigon như ý đinh, nếu không có lịnh đầu hàng của (tướng thân cộng Dương Văn Minh), chỉ mới một phần ba quân số về tới kịp Sài Gòn, thử tưởng tượng chuyện gì sẽ xãy ra nếu phần còn lại (gồm 2000 quân thiện chiến) tập trung về được cùng các đơn vị khác. Miền Nam còn khu vực vùng Bốn mà sức lực tác chiến còn nguyên. Lịch sử sẽ nói lên sự thực, vì rõ ràng quân miền Nam vẫn còn có cơ giữ được đất nước cho đến khi được sự can thiệp của thế giới đuổi bọn ăn cướp về miền Bắc. Sẽ có chết chóc, nhưng sẽ không thê thảm như bây giờ. Dân lính miền Nam không phải bỏ thây trên rừng dưới biển, nhiều người đã không có xác mà chôn cất.

Dương Văn Minh là môt tướng thân Cộng, chứ nếu việt Nam Cộng Hòa có một Tổng Thống không chiu đầu hàng, thì chiến tranh Việt Nam đã có một ngã rẻ khác , chấp nhận đươc. Tôi tin rằng thế giới sẽ can thiệp và có khi bọn Cộng Sản sẽ bị dẩy lùi về phía Vĩ tuyên 17. Vấn đề là VC vẫn cần đến cứu trợ của thế giợ́i , chúng sẽ chấp nhận thội.

Bài viết này không để đổ lỗi cho ai hết, nhưng mục đích chính của tôi là cho bò đỏ biết rằng, thực lực của miền Nam là có thât. Chỉ với trên dưới 1000 quân của 81 BCD đã nướng thành than gần một chục xe tăng của Việt Cộng trước ngưỡng cửa Saigon. Cộng Sản lại vừa hứng hai trai bom CBU ở Long Khánh  hơi sức còn bao nhiêu nữa mà nói dóc. Nếu VC vào được Saigon thi chắc cũng sẽ nềm mùi "SINH BẮC TỬ NAM" thây nằm chật đất như hồi 1968. Hồi đó sau tết Mậu Thân thanh niên miền Nam ghi danh nhập ngũ , làm ngạc nhiên những nhà lãnh đạo . Nếu miền Nam không đầu hàng, có lẽ giờ này họ đã thực sự "GIẢI PHÓNG " miền Bắc và thống nhất hai miền theo cách hợp lý hợp lẽ cho cả nhân dân hai miện.

Những người lính miền Nam là những người hùng trong mắt dân tộc. Linh miền Nam thắng trân chắc chắn không có "hoc tập cải tạo" ,đánh "tư sản mại bản", cướp đất dân oan, không phải xua đuổi hàng triệu dân lành chạy trốn ra biển, bị cướp biển Tháiland, hay gặp Khờ Me Đỏ trên rừng táng mang. Người Việt Nam sống trong tự do, sẽ là con rồng vàng ở Châu Á và thế giới.

BAO GIỜ BỌN BÒ ĐỎ HIỂU ĐƯỢC ĐIỀU NÀY VÀ NHẬN RA AI ĐÃ GâY RA MỘT VIỆT NAM NGHÈO ĐÓI NHƯ HIỆN NAY.

Những người lính miền Nam, chắc chắn sẽ tiếp tục chiến đấu cho tới chết, cho dù họ không còn môt chỉ huy cao cấp nào ở lai với ho. Cứ hỏi những chỉ huy từ cấp trung đội trưởng trở lên đến cấp chỉ huy tiểu đoàn xem có ông nào muốn từ bỏ vị trí chiến đấu để trở về với vợ con khộng. Hãy hỏi thử vị Phó Đề Đốc Hai Quân Mỹ Nguyễn Từ Huấn xem ông có thế QUÊN cái ngày gia dình ông bị tàn sát bởi một tên khủng bố Cộng Sản? Tôi tin là ông CÓ THỂ THA THỨ theo tôn giáo của ông, nhưng chắc chắn một điều là cho đến chết ông cũng sẽ không bao giờ quên được sự khủng khiếp cuả ngày hôm đó.

Hãy nhìn sự thực này nè bò đỏ: người trẻ Việt Nam có dịp ra được nước ngoài là KHỞI SẮC (Làm được chuyện này chuyên kia, thành người này người nọ). Còn cứ ở với Bác và Đảng thì cuối cùng cũng đi móc bọc mà sống, hoặc có chút nhan sắc thì đi phục vụ cho mấy "sugar dady" một cách hãnh diện không biết xấu hổ là gì.

Thời chiến tranh nhiều người vẫn có ý nghĩ là dù thế nào, Cộng Sản vẫn là người Việt Nam cùng máu mủ, chắc không đến nỗi nào. Bây giờ mong là nhiều người đã hiểu. Với CS, ai không theo thi giết như Khờ Me Đỏ, tàn sát cả hai triệu dân cùng chủng tộc. VC thì đập đầu chôn sống tết 1968 (7000), dập pháo lên đầu dân quảng Trị chạy loạn ra Huế (Đại lộ Kinh Hoàng) hoặc bắn giết dân lành chạy loạn ra khỏi An Lộc. Sự khờ khạo và cả tin của dân miền Nam phải trả giá quá đắt từ ngày 30/4/74 cho tới bây giờ.

Chắc chắn một điều, không dân miền Nam nào ao ước dất nước được thống nhất theo kiểu này. Dương Văn Minh đầu hàng xong thi chuồn qua Pháp ở cho đến cuối đời, chỉ dân ở lại chịu đòn của Việt Cộng. Và lính miền Nam sẽ tiếp tục chiến đấu cho tới người lính cuối cùng.

Vài giòng trước khi chấm hết.             

Bài viết này không có ý định là để đổ thừa cho ai hết, nhất là những người lính đã bi buộc phải buông súng ngày 30/4/75. Các anh đã làm hết bổn phận của mình, và với người dân miền Nam, chúng tôi mang ơn các anh, nhất là những người chấp nhận ở lại và chịu mọi đầy đọa từ BỌN THẮNG TRẬN NHỜ Ăn MAY. Ai cũng biết điều này chỉ trừ Bọn Việt Cộng . Sự thực rồi sẽ có lúc hiện diện như ánh sáng của mặt trời, mà bên thắng trận cố gắng che chắn từ bao lâu nay. Tôi cũng không lên án những người lính phía bên kia khi các anh bị lùa ra chiến trường từ những cấp chỉ huy , coi tính mạng của các anh rẻ mạt, chỉ dám trang bị cho các anh trên đầu với nón cối làm bằng giấy bồi, quân phục bằng vải kaki mỏng tanh và đôi dép râu với nhiều kẻ hở để nuôi vắt đĩa, rồi ném các anh vào những trận chiến với B52 và những đơn vị thiện chiến của lính miền Nam, họ đâu quan tâm về tính mạng và gia đình ruột thịt còn lại của các anh. Các anh chứng minh được sự ngốc nghếch không thể thay đổi được của mình khi vẫn còn rất nhiếu người trong các anh chưng bày hình ảnh của  ************ trên tủ thờ mà nhang khói, như một người rất xứng đáng, không nhận ra hơn hai triệu người đã mất mạng vì Hồ và những tên cùng loại trong chiến tranh Việt Nam. Do đó sự tồn tại của chế độ Cộng Sản ở Việt Nam- nhờ vào sự ngu xuẩn này- sẽ còn ít nhất vài thập niên nữa, cho xứng đáng với sự ngu xuẩn nay- mà không ai thương xót.


Nguoiviettudo

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 26/Mar/2025 lúc 9:59am

Tháng Ba Gãy Súng

Bờ Biển Thuận An, tháng ba năm 1975.

Lời nói đầu: Cá nhân chúng tôi không có đủ thẩm quyền để viết những dòng này, cho quý Đàn Anh và các Niên/Huynh Trưởng đọc. 

Tôi viết bài này với tư cách là một người đọc văn, và kể lại cho lớp đàn em, con cháu nghe. 

Nghe để hiểu, để thương và quý trọng những người đã một thời cầm súng để bảo vệ cho Miền Nam tự do no ấm. 

Họ không phải là "ngụy"  như những lời tuyên truyền láo xược của việt cộng. 

Họ là những người trai thời loạn.

Họ là những người :

      Chiến trường đi không tiếc đời xanh

      Áo bào thay chiếu anh về đất 

      Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Tôi viết lại bài này như một nén nhang lòng, kính dâng lên  linh hồn Quý Huynh Trưởng của tôi đã nằm lại Bờ Biển Thuận An, 50 năm xưa 🙏🙏🙏.

...............

 - Trong quân sử thế giới, chưa có một lực lượng quân sự nào mà có những người Lính, bình thản rủ nhau cùng tự tử chết khi bị bao vây cùng đường, như những người Lính Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa. 

Ở đây sẽ không đề cập đến nguyên nhân thảm bại của  gần một Lữ đoàn lính thiện chiến của quân lực, bị bắt sống bởi một đại đội cộng quân..(vì nằm ngoài khả năng của người viết) 

 - Trong chiến tranh, thắng bại là lẽ thường tình. 

Nhưng cũng xin nhấn mạnh lần nữa, cũng trong quân sử thế giới, chưa có một quân đội nào ại có những người coi cái chết nhẹ tênh như những người Lính trong Tháng Ba Gãy Súng của cố nhà văn Trung Úy Thủy Quân Lục Chiến  Cao Xuân Huy. 

Một người có mặt trong trận chiến này. 

 - Cũng chưa có một nhà văn nào trong dòng văn học sử nước nhà, lại thản nhiên đưa những tiếng chửi thề đi vào chữ nghĩa như Ông ấy. 

Lính nghĩ sao thì viết vậy, không hoa hè hoa sói, câu chuyện thế nào thì kể lại như vậy, chứ hoa lá cành chi mệt. 

 

Vắn tắt lại những đoạn văn của Ông Huy:

...." tôi nằm ẩn nấp sau cái gọ úp xuống, quan sát  những người lính thuộc tiểu đoàn 5 đánh trận. Tình cảnh của chúng tôi lúc này thật bi đát, lương thực đạn dược sạch banh, đường về không có, vậy mà những người lính kia họ vẫn bình thản cười đùa, chiến đấu. 

Một người bọc nòng súng cối bằng áo giáp để khỏi phỏng tay, một người kê nón sắt làm bàn tiếp hậu, tay kia cầm viên đạn cho vào nòng. 

Đầu không nón sắt, thân không áo giáp, chân không giày, họ di chuyển liên tục để bắn, bỗng người cầm nón sắt bị một viên vào ngực, viên đạn cầm trên tay văng ra, người lính khác nhào lên thế chỗ cho bạn, người lính bọc nòng súng nhìn xác bạn mình hỏi như không:

  - Đụ má chết sớm vậy mày?

Câu hỏi vừa bật ra cửa miệng, thì cả hai đều trúng đạn gục xuống. 

Hoạt cảnh trên không phải là phim ảnh. 

Đó là những gì đã xảy ra trên chiến trường xưa.

Nó cũng không phải là hư cấu, mà là một sự thật bi hùng. 

Người Lính viết văn Cao Xuân Huy, là một Đại Đội Phó tác chiến của một binh chủng kiêu hùng nhất quân lực, thì cái chuyện nói xạo, hư cấu là không có.

Xạo sao được khi bạn bè sẽ lật tẩy. 

Có sao viết vậy người ơi. Con tim chân chính không bao giờ biết nói dối. 

Đa số những người lính tác chiến của quân lực Việt Nam Cộng Hòa đều là những người có con tim chân chính. 

  Tháng Ba Gãy Súng 

 - Tự tử không mày?

Những người lính Thủy Quân Lục Chiến cùng đường năm xưa, bình thản rủ bạn bè tự tử như câu hỏi rủ nhau đi nhậu. 

Hạng Võ khi xưa cùng đường tự tử ở bến Ô Giang, bên cạnh còn có Ngu Cơ.

Những người Lính Thủy Quân Lục Chiến trên bãi Thuận An ngày bi thảm đó, họ rủ nhau tự tử, để không lọt vào tay kẻ thù. 

Một vòng tròn người ngồi sát lại bên nhau.

Một hai trái lựu đạn được họ tung vào giữa vòng tròn. Sau những tiếng nổ là những cái đầu gục xuống, họ chết bên nhau, đa số những người trong họ, chưa đầy hai mươi tuổi. 

Bi hùng, bi thảm quá phải không các em, các con, các cháu? 

 

Ai là người sẽ viết được những bài thơ?

Để thế hệ sau này biết rõ về những cái chết bi hùng bậc nhất trong giòng quân sử của nước Nam. 

Không còn lịch trình của:

Mười hai tháng anh đi..

Tháng giêng xua quân ra Huế, cố đô hoang vu điêu tàn tháng hai về  trấn ven đô, chong mắt hỏa châu giữ cầu đêm ngủ bìa rừng thèm làn môi ấm, ngọt trái sầu riêng ngọt mấy mùa...

Tất cả đã ngừng lại.. 

Không còn những gót giày đi khắp nẻo quê hương, cho những đàn em nhỏ yên tâm học hành, cho mơ ước đất nước thanh bình để cho những người tuổi hai mươi tìm lại những đêm ân tình. Cho mái nhà chiều lên lửa ấm.

 Tháng Ba Gãy Súng.


Kể từ ngày ấy linh hồn của những người Lính năm xưa, chắc vẫn còn bám bờ biển quê hương. 

Hãy đến Thuận An một lần, bạn sẽ thấy và cảm nhận được những gì tôi viết lại theo tác phẩm của Cố Nhà văn Cao Xuân Huy. 

 

Quang Cầu Muối

Tháng 3- 2025

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 26/Mar/2025 lúc 1:53pm

Tấm%20thẻ%20bài%20định%20mệnh%20-%20Thơ%20-%20Hưng%20Việt


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 26/Mar/2025 lúc 1:54pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 27/Mar/2025 lúc 7:57am

Đà Nẵng Giờ Hấp Hối

Giờ phút hấp hối cuả thành phố Đà Nẵng : Cuối tháng 3-1975.


Đà Nẵng vào những ngày cuối tháng 3 năm 1975 thật là hỗn độn, rối lọan. Quân đội và dân chúng từ các Tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, thành phố Huế đổ xô về, làm cho cái thành phố đã đông dân này càng thêm đông đảo. Cái Radio 4 băng tần tối tân nhứt cuả Nhựt lúc bây giờ lúc nào cũng ở bên cạnh tôi. Theo tin từ các Đài Phát Thanh trong và ngòai nước thiệt là lộn xộn, không giống nhau… Theo đài phát thanh Quân Đội, Sài Gòn, VOA, BBC cũng như một vài đài khác cuả nước ngòai, tôi vô cùng kinh ngạc là Huế có lịnh rút bỏ mặc dầu chưa đánh nhau chi cả. Sao lạ quá như vậy ? Tôi gọi điện thọai, hỏi mấy Ông bạn thân là Đơn Vị Trưởng trong vùng thì họ cũng trong tình trạng như tôi, không rõ đầu đuôi, tình hình ra sao hết.

Thành phố Đà Nẵng đông chật những người là người. Vấn đề an ninh, lộn xộn mỗi lúc một thêm gay gắt. Nhiều binh sĩ tức giận, bắn súng lên trời như những kẻ điên khùng vì không hiểu tại sao lại có lịnh rút lui, bỏ hết các trận tuyến gây nên tình trạng hỗn loạn thê thảm này trong khi chưa chạm địch., chưa đánh đấm chi cả. Xưa nay có bao giờ thế đâu ! Tự nhiên không đánh nhau, mà chỉ biết bỏ chạy là làm sao ? Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đòan I kiêm Vùng I Chiến Thuật, có lẽ là người duy nhứt ở đây biết được chuyện này, do ông được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiêu gọi vô Sài Gòn gấp, họp các Tướng Lãnh, nhưng vào tới nơi thì chỉ có một mình ông gặp Tổng Thống Thiệu và nhận lịnh cuả vị Tổng Tư Lịnh quân đội :

-- Rút bỏ Quân Khu I.

Tướng Trưởng, một danh Tướng cuả Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, thế giới biết tiếng, biết tên, chết điếng cả người nhưng … chẳng muốn hỏi tại sao vì ông cũng đoán biết: hỏi cũng vô ích,.để rồi bỗng dưng khai tử luôn cả một Quân Đoàn ( Army Corps ) hùng mạnh cho nó tan hàng , xập tiệm, và cả Vùng I Chiến thuật bao gồm 5 Tỉnh : Quảng Trị, Thưà Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi và 2 thành phố Huế, Đà Nẵng . Bộ Chỉ Huy Quân Trấn Đà Nẵng được lịnh rõ ràng cuả Tướng Trưởng : Bất cứ kẻ nào dùng súng đạn cướp bóc, xâm phạm tính mạng, tài sản của dân chúng trong tỉnh trạng rối lọan hiện nay sẽ bị các lực lượng an ninh, quân cảnh bắn hạ tại chỗ ! Tuy có cấp chức được quyền ở cư xá do quân đội cung cấp, nhưng tôi có giấy phép dạy học ngòai giờ làm việc ( chuyên dậy kèm Pháp và Anh ngữ cho rất đông học sinh Trung Học) để đời sống vật chất tốt hơn, đối với gia đình đông con như tôi, tránh được chuyện dính dáng đến tham nhũng, hối lộ, rồi làm “ dê tế thần ” cho tình trạng chánh quyền và xã hội “ lem nhem “ thời đó.

Vài em học sinh chăm chỉ vẫn còn lui tới :

-- Thưa Thầy ! các lớp học ra sao, có học tiếp không hả Thầy?

Tội nghiệp ! Giờ này mà các em vẫn có thể nghĩ đến chuyện học hành. Tôi nói:

-- Thôi, chúng ta tạm nghỉ, khi nào yên tĩnh hãy hay. Các em nên tránh bớt việc đi lại ngòai đường phố trong lúc này, rất nguy hiểm.

Các em ra về, vẻ mặt buồn thiu…

Gia đình tôi ở trong một ngôi nhà nhỏ trong khu xóm đồng bào nghèo, nhưng có 2 cái sân đủ cho học sinh 3 lớp học tối mỗi đêm, thay phiên nhau đậu xe gắn máy và xe đạp. Lúc này, tôi dã đưa gia đình và di chuyển những gì cần thiết lên văn phòng Toà Án cho được an ninh ví có anh em Nghĩa Quân canh gác các cơ quan chánh quyền.

Các nhà băng đã đóng cửa, rất nhiều người cũng như tôi, khi nghĩ tới chuyện cần có số tiền phòng thân, đành chịu chết. Thôi, giữ sổ sách rồi vào Sài Gòn hãy hay. Ôm tiền mặt lúc này càng thêm nguy hiểm. Có chi sài nấy vậy. Ai cũng nghĩ như thế để an tâm đối phó với tình hình trước mặt, ngày càng gay go, hỗn độn. Tôi điện thọai vào phi trường quân sự, định hỏi Thiếu Tá Trưởng Phòng An Ninh, không có, xin gặp Đại Úy Quang, cũng không có, chỉ có Trung Úy Bảy trả lời:

-- Thiếu Tá ơi ! Tụi nó pháo kích hỏa tiễn 122 ly của Trung Cộng cầy nát phi đạo rồi, phi cơ của mình không đáp xuống được nữa, chỉ sài được trực thăng thôi. người đông nghẹt mà trực thăng không thấy đến chi cả !

Tôi điện thọai sang Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I, hỏi thăm mấy Sĩ Quan thân thiết thì được hay :

Tại Cảng Tiên Sa, tàu không đủ chuyên chở quân đội di tản cùng với gia đình cũng như đồng bào trốn chạy quân cộng sản đang tiến vào thành phố bằng nhiều ngã, bao vây chung quanh Đà Nẵng. Lịnh trên: rút bỏ Quân Khu I không đánh đấm chi cả thì tình trạng làm sao khác được ! Địch pháo kích chung quanh Đà Nẵng ầm ầm… Tôi gọi sang Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Quân Khu. Đại Tá Chỉ Huy Trưởng vẫn còn ở đó. Là bạn thân với nhau từ hồi còn nhỏ, lưu lạc giang hồ, mãi sau này mới gặp lại nhau và lần sau cùng là ở Đà Nẵng. Tôi chở tất cả gia đình trên chiếc xe jeep, gồm nhà tôi và 7 đứa con, đứa con gái lớn sức khỏe yếu kém, đứa con trai kế 16 tuổi, đứa con gái út mới được 6 tháng, vợ tôi phải bồng ẵm trên tay, đến Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Quân Đòan. Lúc đó là chiều ngày 28 tháng 3, tôi gọi cậu tài xế trung thành và can đảm, Binh nhứt Túc, mà tôi đã đích thân đến đơn vị hành chánh quản trị địa phương, lựa chọn rồi hỏi han về tình trạng khó khăn khiến hắn can tội đào ngũ. Tôi liên lạc với đơn vị gốc của hắn, nhận cho hắn làm tài xế vì Tòa Án có xe nhưng không đủ quân nhân tài xế. Sau này, tôi thấy hắn tận tâm, chu đáo và trung thành, nên tôi nói với đơn vị đề nghị cho hắn lên Hạ Sĩ, mong ngày nào nào đó không xa, cho hắn lên hạ Sĩ nhứt thì đồng lương cũng đỡ khổ cho gia đình. Tôi bảo: “ Thôi, cậu lo cái xe cho tốt, đầy đủ xăng nhớt rồi cho cậu về lo chuyện gia đình, Tôi lái lấy cũng được. Đây, chìa khóa văn phòng và tất cả những gì của gia đình tôi trong đó, nếu tôi đi khỏi thì tất cả là của cậu. Cậu ở lại lo cho gia đình. Vợ con cậu cũng cần đến cậu trong lúc hỗn lọan này. Đem những thùng, hộp thực phẩm khô, sữa hộp chia cho anh em Nghĩa Quân. Tôi sẽ cho lịnh họ :

-- Khỏi canh gác nữa ! Tòa chỉ còn tôi là Sĩ Quan cuối cùng ở đây, anh em Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ thì ở trại gia binh rồi. Cho họ về lo thu xếp , bảo vệ gia đình.

Tôi bắt tay cậu tài xế, Hạ Sĩ Túc. Cậu tài xế cứ nắm chặt lấy tay tôi, nói trong nghẹn ngào!

-- Em không nỡ để Thiếu Tá và Cô đi một mình với các em như thế này. Cứ để em đi theo, thầy trò mình sống chết có nhau, gia đình em đông người, nhiều bà con, dân địa phương, em là binh sĩ nên không có gì khó khăn nhiều như Thiếu Tá. Thiếu Tá đi được rồi, em trở lại với gia đình cũng được, không sao cả !

Tự nhiên tôi thấy mắt mình nhòa đi trước tấm lòng của cậu tài xế trung thành và can đảm, luôn luôn nghĩ đến tôi, và gia đình vì chúng tôi : một Sĩ Quan cấp Tá , Phó Ủy Viên Chánh Phủ Toà Án Quân Sự Mặt Trận Quân khu I và một binh sĩ luôn sống với nhau như người trong một gia đình ruột thịt đã nhiều năm, nhiều tháng.

Tôi bảo :

-- Túc ! Cậu phải nghe tôi, về trông coi, bảo vệ lấy gia đình trong lúc này! Tôi tới Bộ Chỉ Hy Pháo Binh bây giờ. Ông Đại Tá Chỉ Huy Trưởng còn ở đó.

Hạ Sĩ Túc, cậu tài xế rời nắm tay tôi rồi đứng nghiêm, giơ tay chào nghiêm chỉnh:

-- Kính chúc Thiếu Tá, Cô, cùng các em ra đi bình an!

Tôi thấy rõ cậu tài xế can đảm và trung thành bật khóc. Chắc chắn là hắn khóc cho gia đình tôi trong cơn nguy biến, mà tôi bắt hắn phải ở lại. Trên đường, một chiếc xe Jeep chạy ngược chiều với tôi, trên có 4 Sĩ Quan Thủy Quân Lục Chiến, tuổi còn trẻ nhưng đều đeo lon Cấp Tá, rất quen thuộc, tôi chạy chậm lại, giơ tay vẫy chào, và hỏi to,

-- Có chi lạ không ?

Mấy Ông bạn cũng giơ tay vẫy. Một anh bạn người Nam la lớn :

-- Đù má nó ! Anh coi : chiến tranh kiểu chi lạ! Tụi này có bao giờ bỏ chạy như thế này đâu! Lại mấy thằng Mỹ với thằng Thiệu…đem con bỏ chợ, âm mưu buôn bán xương máu tụi mình đây thôi !…

Gia đình Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh đã vào Sài Gòn ít hôm trước, Ông còn ở lại vì Tướng Trưởng và Bộ Tư Lệnh Quân Đòan vẫn còn ở Đà Nẵng. Đang ăn cơm tối với nhau thì điện thọai reo. Sĩ Quan trực chạy vào báo cáo:

-- Thưa Đại Tá ! Có lịnh của Trung Tướng mời Đại Tá sang ngay Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn!

Ông Đại Tá bắt tay tôi và mấy Sĩ Quan thuộc quyền của Ông đã tụ tập về đó:

-- Chúc Anh Chị, quý vị các cháu và tất cả bình an.

Ông còn dặn tôi trong lúc vội vã quay đi.

-- Anh cho Chị và các cháu ngủ tạm trong hầm của tôi, rất tốt ! Nếu thiếu chỗ thì giường của tôi trong phòng kia…

Sau này, tôi biết là Ông cùng Bộ̣ Tư Lệ̣nh Quân Đoàn sang phi trường trực thăng Non Nước để̉ ra tàu Hải Quân cuả Mỹ chờ ngoài biển.

Tôi mặc nguyên quân phục tác chiến, với khẩu súng Colt – 12 bên mình, chỉ bỏ cái mũ sắt 2 lớp ra, rồi ngả lưng xuống giường thiu thiu ngủ chập chờn. Điện thọai reo, Sĩ Quan trực chạy sang:

--- Thưa Thiếu Tá, Bộ Tổng Tham Mưu tại Sài Gòn cho hay: 5 chiếc Tàu Hải Quân đã được lệnh lên đường, ra Biển Mỹ Khê, Đà Nẵng chuyên chở quân đội, gia đình và dân chúng. Tàu sẽ tới nơi vào khuya đêm nay hay sáng sớm mai…

Tôi đang mơ mơ màng màng trong giấc ngủ nặng nề thì có người đánh thức tôi dậy và nói trong sự vội vàng.

--- Thiếu Tá ! Thiếu Tá ! Mình phải đi ngay, rời khỏi nơi này vì tin tức cho hay quân cộng sản Bắc Việt đã tới rất gần thành phố, không gặp sự kháng cự nào cả…

Tôi đánh thức gia đình, vợ con rồi tất cả lại lên chiếc xe Jeep với ít đồ đạc gọn nhẹ tùy thân, nhắm hướng Bãi Biển Mỹ Khê phóng đi, sau khi bắt tay vội vàng vài Ông bạn Sĩ Quan Pháo Binh. Xe chạy được một quãng khá xa, chừng dăm cây số, bỗng đưá con gái lớn cuả chúng tôi kêu thất thanh:

-- Cái va-li da cuả Mợ đâu rồi ?

Trong số đồ đạc mang theo thì cái va-li da đó có chút ít tài sản còn lại đáng giá hơn mấy cái va-li đã nằm trong xe Jeep để sống, do bà nhà tôi và đưá con gái lớn ,vốn tính cẩn thận, trông coi cho chắc ăn. Muôn người trên xe nhận ra là trong lúc vội vàng di chuyển, chính cái va-li đó đã bị bỏ lại ở trại Pháo Binh vưà rồi. Chết thiệt ! Tôi lái xe quay lại ngay lập tức, nhưng khó khăn vì người di chuyển quá đông. Chạy trở về trại Pháo binh, vẫn còn 2 cậu lính gác, tôi đậu xe ngay cưả phòng vưà rời ban nãy, chạy như bay vào trong. May quá ! ( cái may đầu tiên ) Chiếc va-li đã được lôi từ trong hầm gia đình tôi ṭam trú lúc trước, nhưng chưa đem lên xe, vẫn còn nằm trơ một mình sau cánh cưả lối lên phòng tôi nằm. May mà còn lính gác, nếu không thì dân chúng quanh đó và bọn cướp phá cơ quan, công sở đã tràn vào vơ vét tất cả những gì còn ḷại, và cái va-li “quan trọng nhứt cuả gia đình tôi “ cũng mất tiêu rồi. Nếu nó bị mất thì không biết sau này gia đình tôi cầm cự ra sao với cuộc sống đổi đời với trăm ngàn khổ cực. Trời Đất đã cứu gia đình tôi.. Đưá con gái lớn lần này tay lúc nào cũng để lên cái va-li vưà tìm lại được.Tôi lái xe ra cổng, anh em binh sĩ vẫn còn canh gác. Tôi nói lớn :

-- Anh em về đi, lo chuyện gia đình, doanh trại không còn ai nữa.

Trời đất ! Đường xá ban đêm mà lúc này đông nghẹt những người là người, di chuyển bằng đủ mọi cách. Tất cả đều hướng về phía Cảng Tiên Sa và bãi biển Mỹ Khê. Tôi lái xe, khẩu Colt-12 đeo trước ngực, ̣ kiểu Sĩ Quan Đức, đã lên đạn, khoá chốt an toàn, khẩu M-16 đã lên đạn sẵn, cũng khóa chốt, để ngay bên cạnh. Đứa con trai lớn nhứt 16 tuổi, có mặt trong xe cũng đã được tôi chỉ dẫn để xài khẩu tiểu liên hạng nhẹ Carbin M-2 để đề phòng trường hợp bị bọn bất lương, tấn công, cướp bóc trong khi hỗn lọan. Trông cảnh người xe xuôi ngược thiệt là kinh hoàng, trong khi đó quân cộng sản vẫn pháo kích vào thành phố Đà Nẵng nổ ùynh ! ùynh ! … rải rác đó đây.

Cái xe Jeep của tôi đang chạy bỗng dưng chết máy, nằm ỳ ngay cạnh đường. Thế là làm sao ! Còn đang lúng túng thì hai binh sĩ cầm M-16 từ cống trại lính bên kia đường tiến đến xe tôi dòm ngó, xem có chuyện chi mà lại dừng xe ngang xương trong dòng người đang chạy xuôi ra hướng bãi biển. Một binh sĩ chào tôi:

-- Thưa Thiếu Tá ! Sao Thiếu Tá lại ở đây vào lúc này ?

– Xe tôi chết máy rồi. Cậu binh sĩ kia cũng chạy lại rồi la to:

-- Đại Úy Sinh..Ra mau...

Thiếu Tá Phó Ủy Viên Chánh Phủ Tòa Án Mặt Trận đây nè. Đại Úy Từ Khánh Sinh, Đại Đội Trưởng nhảy dù, bị thương tại mặt trận, sau được đưa về đây làm Quản Đốc Quân Lao Đà Nẵng, dưới quyền cuả tôi. Đại Úy Sinh, quân phục tác chiến chỉnh tề, mũ sắt 2 lớp, giơ tay chào tôi nghiêm chỉnh như thường lệ. Chúng tôi bắt tay nhau trong khi tôi nói:

-- Hay nhỉ! Sao cái xe của tôi lại chết máy ngay ở chỗ này ? Nếu nó chết máy ở chỗ khác thì làm sao đây ?

Tôi nghĩ thầm trong bụng : Đây là điều may mắn thứ hai cho chúng tôi trong cơn hỗn lọạn kinh hoàng. Anh Sinh kêu mấy binh sĩ ra đẩy cái xe của tôi vào trong sân trại.rồi ra lịnh cho một Thượng Sĩ:

-- Lấy cái xe dự trữ cuả mình, lo xăng nhớt đầy đủ rồi giúp gia đình Thiếu Tá chuyển đồ đạc sang, chớ lúc này mà xe cộ lộn xộn là nguy hiểm lắm.

Tôi cảm ơn Đại Úy Sinh, bắt tay viên Thượng Sĩ già rồi vào văn phòng, có vài Sĩ Quan trong đó. Sau vài phút hỏi han tình hình, tôi hỏi Đại Úy Sinh.

-- Anh em bị giam giữ còn bao nhiêu người ?

– Thưa Thiếu Tá: gần 1 ngàn.

– Việc ăn uống của họ tới ngày hôm nay ra sao ?

– Hôm nay thì vẫn còn, nhưng ngày mai thì chưa biết, gạo mình còn, nhưng liệu nhà thầu cung cấp thức ăn có còn liên lạc nữa không. Suy nghĩ thiệt nhanh vài giây rồi tôi quyết định:

-- Quân cộng sản đang tiến vào Đà Nẵng mà không đánh nhau chi cả. Nhân danh Sĩ Quan cấp chức cao nhứt của 2 Tòa : Mặt Trận Vùng I và Tòa Thường Trực Đà Nẵng, tôi ra lịnh thả hết tất cả quân phạm không phân biệt Đại hay Tiểu Hình… En temps de guerre ! En cas de force majeure !

( trong trường hợp chiến tranh ! Trong trường hợp bất khả kháng ) chúng ta có quyền làm bất cứ cách nào để bảo vệ sinh mạng của ngần đó con người, đã từng là quân nhân như chúng ta. Họ cũng có thân nhân gia đình đang đợi chờ họ. Anh Sinh cho thư ký đánh máy biên bản theo lời tôi đọc:

-- Lịnh thả hết quân phạm …

Tôi sẽ ký tên với tính cách người ra lịnh, và tất cả Sĩ Quan có mặt cùng ký tên với tính cách nhân chứng, hiểu biết quyết định này. Sau này vào Sài Gòn, chúng ta có giấy tờ trình Nha Quân Pháp và Bộ Quốc Phòng là những cơ quan mà hai Toà Án chúng tôi trực thuộc. Sáng sớm mai, chúng ta sẽ thả hết …

*

Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ của Quân Lao hầu như vẫn còn có mặt đông đủ.tới giờ phút này. Đại Úy Sinh vốn gốc Sĩ Quan nhảy dù cho nên làm việc rất đàng hoàng, nghiêm chỉnh. Bộ phận cấp dưỡng, dọn cơm tối lên cho mấy anh em Sĩ Quan chúng tôi, vừa ăn, vừa bàn bạc công việc phải làm sáng mai. Một Hạ Sĩ Quan đi xe gắn máy từ Cảng Tiên Sa trở về, báo cáo:

-- Cảng Tiên Sa rất đông người, tàu bè di chuyển không đủ, rất khó khăn, địch thỉnh thỏang lại nã vài trái hỏa tiễn gây chết chóc và thương tích cho bà con…

Đại Úy Sinh bảo anh em lo cơm tối cho gia đình tôi và chỗ nghỉ ngơi qua đêm. Tình “ Huynh đệ chi binh “ những lúc như thế này mới thấy nó cao quý làm sao ! Tất cả đều coi nhau như ruột thịt một nhà. Thiệt là phúc đức cho gia đình tôi: trong suốt những ngày rối loạn, di tản, chúng tôi may mắn vẫn có chỗ ăn, chỗ ngủ đàng hoàng, không thì khổ cho đám con trẻ biết mấy, nhứt là đưá con gái út mới được ̉6 tháng, nhà tôi còn phải bồng ẵm trên tay và lo những bình sưã và biết bao nhiêu thứ cho một đưá bé như thế.

Hôm sau, trời còn sớm lắm, nhưng tất cả chúng tôi đã thức dậy. Tất cả Sĩ Quan chúng tôi cùng binh sĩ trong trại kéo nhau xuống phía khu vực nhà giam. Tôi ra lịnh : tất cả binh sĩ súng M-16 lên đạn, đứng thành 2 hàng, các Sĩ Quan đứng sau lưng, tôi cho mở cửa nhà giam, rồi dùng loa phóng thanh cầm tay nói lớn:

-- Nhơn danh Sĩ Quan có cấp chức cao nhứt của Tòa án quân sự Mặt Trận Vùng I và Tòa án quân sự Thường Trực Đà Nẵng hiện có mặt tại đây, tôi ra lịnh thả tất cả anh em ngay lúc này để trở về lo cho thân nhân gia đình trong tình hình khẩn cấp hiện nay…

Nhiều anh em quân phạm còn nhìn nhau có vẻ ngơ ngác vì họ không biết rõ tình hình bên ngòai. Tôi nói tiếp:

-- Anh em trật tự ra ngòai theo hướng dẫn của 1 Sĩ Quan, xếp hàng 10 người một, cứ đủ 6 hàng thì ngưng lại, ngồi xuống Khi có lịnh hô của 1 Sĩ Quan thì 2 hàng đứng dậy, theo tiếng hô thứ hai là cả 20 người chạy ra khỏi cổng trại, về nhà. Bất cứ ai gây lộn xộn, làm mất trật tự, hay đang chạy mà quay đầu lại hoặc dừng lại bất cứ vì lý do gì, sẽ bị bắn gục ngay tại chỗ! Nghe rõ chưa ? Tất cả anh em đều reo mừng và thi hành lịnh một cách nghiêm chỉnh…

Công việc “ thả tù “ đã xong, tôi thở phào nhẹ nhõm, họ cũng là người, từng là quân nhân dù có phạm tội, họ cũng có thân nhân gia đình đang trông đợi trong hòan cảnh khó khăn, nguy hiểm này, chỉ sợ có sự rối lọan xảy ra khi anh em nóng lòng, sốt ruột rồi làm càn, ai cũng muốn thóat ra khỏi nhà tù càng sớm càng tốt. May mắn là việc đó đã không xảy ra.

Ăn sáng qua loa xong, tôi cho lịnh tập họp tất cả Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ cuả Quân Lao. Quân số gần như đông đủ hoàn toàn. Với giọng nói trộn lẫn sự xót xa trong lòng, dù rằng cuộc đời cuả tôi đã quen với xót xa, đau khổ, chia lià từ khi 15 tuổi, phải bỏ trường trung học ở Hải Phòng để lăn mình vào cuộc kháng chiến chống Pháp, địch bắt hai lần, rồi 23 năm lính chống cộng sản, từ Binh Nhì, không theo học trường Sĩ Quan nào cả mà lên Thiếu Tá, với chức vụ hiện tại, tôi nói:

-- Vận nước bắt chúng ta phải bỏ cuộc một cách đau lòng. Chúng ta đã làm hết bổn phận cuả những quân nhân. Bây giờ, không còn cách nào khác hơm nưã, tôi khuyên anh em nên trở về ngay, lo cho gia đình trong cơn hỗn loạn. Súng đạn cá nhân, anh em tùy nghi tìm cách thủ tiêu, ai không làm được thì để vào trong kho súng chắc chắn kia, Sĩ Quan tiếp liệu khoá kỹ lại, không để lọt vào tay những kẻ xấu, dùng nó làm hại người dân vô tộ trong lúc hỗn loạn này..Còn các Sĩ Quan, anh em mình tạm chia tay ở đây và mong có ngày gặp lại. Xin chúc tất cả anh em bình an!

Tôi bắt tay thiệt chặt từng Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ…Vài binh sĩ bịn rịn không nỡ rời chúng tôi trong khung cảnh đau đớn như thế này. Họ vẫn còn đứng nghiêm, giơ tay chào theo quân cách rồi mới tan hàng, theo nhau từng nhóm một. Mấy đưá con đã lớn cuả tôi đứng đằng xa, cạnh chiếc xe Jeep, trông thấy cảnh đó̀ cũng hiểu được nỗi đau lòng cuả lớp người cha, anh , những quân nhân chúng tôi, cho nên chúng nó cũng nước mắt sụt sùi. Khi ṃuôn người đã tan hàng, ai lo việc nấy, Đại Úy Sinh, chỉ có một mình ở trại, lên xe cùng gia đình tôi. Anh lái ra phiá bãi biển Mỹ Khê. Có mấy chiếc tàu Hải Quân từ trong Nam kéo ra thiệt, nhưng đậu hơi xa, nước cạn không vào gần được. Trên tàu đông đặc những người là người và khắp ṃọi chỗ nơi bãi biển, người từ khắp nơi dồn về sao mà đông thế. Cả lính lẫn dân, kẻ lội nước, kẻ đi đủ loại ghe thuyền, cố gắng bơi ra ra tới chỗ tâù đậu.. Cầu thang lên tàu không đủ để đưa số người đông đặc như kiến leo lên. Người ta phải dùng đến những cái thang dây dùng trong trường hợp khẩn cấp, nhưng người vẫn chen chúc leo lên, hành lý mang theo rơi rớt xuống biển mỗi lúc một nhiều, rồi đến lúc có những người vì chen chúc, xô đẩy, đuối sức cũng rớt xuống biển đều đều. Những tiếng kêu gào thất thanh càng làm cho cảnh tượng thêm rùng rợn. Nhiều người trên bờ biển khóc thét lên làm cho những đưá con nhỏ cuả tôi cũng oà lên khóc theo . Tôi bảo Đại Úy Sinh:

-- Mình không thể để cho những đưá trẻ thơ như thế này cũng phải cḥiu cảnh thê thảm đó.

Anh Sinh bảo tôi.

-- Bọn mình tránh ra phiá này, tôi có thằng đàn em ở trong xóm đằng kia. Nó có chiếc ghe dìm dưới nước. Nó và bọn mình đi ghe ra phiá ngoài xa, lên chiếc tàu ở tít ngoài kia mới được.

Chiếc xe Jeep cài số nhỏ, ì ạch lăn bánh trên cát, chở đông người chúng tôi tới phiá cách xa đó một khoảng, gần một xóm nhỏ lơ thơ mấy nóc nhà tranh, nhà lá. Anh Sinh chạy vụt vào trong xóm rồi ra ngay cùng với một cậu nghiã quân.. Chiếc ghe được lôi ở dưới nước lên, đủ chở ngần đó con người, tuy có chút nguy hiểm về an toàn. Đành liều vậy, chớ biết làm sao ! Bà nhà tôi lên tiếng:

-- Sống cùng sống, chết cùng chết với nhau!

Cậu nghiã quân nói:

-- Thiếu Tá và Đại Úy thay quần áo dân sự đi vì em biết ṭụi du kích và đặc công nằm vùng đang ra công khai hoạt động để kiểm soát tình hình,phiá sau quân đội đánh chiếm thành phố Đà nẵng và vùng chung quanh, ngăn chặn đồng bào di tản, ṭụi nó hung hăng lắm!

Tôi đã từng có kinh nghiệm khi đi kháng chiến, đứng trong hàng ngũ cuả cộng sản gần 7 năm, công tác trong các văn phòng cơ quan lãnh đạo vì có chút chữ nghiã và có người anh ruột đỡ đầu, che chở, cho nên tôi biết rõ Sách – Lược ( Polisy & Strategy ) cuả cộng sản là đánh chiếm một vùng hay một xứ sở, quốc gia nào thì bắt buộc : quân tác chiến làm xong nhiệm vụ, lập tức lực lượng bình định ( Pacificatory forces ) phải kiểm soát an ninh, trật tự, đè bẹp, diệt tan mọi sức kháng cự hay nổi lên làm loạn sau này… Chúng tôi chuyển đồ đạc trên xe xuống bãi cát rồi tôi đưa chùm chìa khóa xe cho một người đàn ông ngòai 50 tuổi dáng hiền lành, đứng cạnh đó, không rõ ông ta thuộc lọai người gì. Tôi bảo:

-- Nếu chúng tôi xuống ghe đi được thì Bác lấy chiếc xe này, đem về biến cải đi mà sài!

Chúng tôi chuẩn bị bước xuống chiếc ghe của cậu nghĩa quân, đã được tát sạch nước, nhưng lúng túng vì đông người, có đám con nít, với đồ đạc… Từ phiá làng xóm gần đó, bọn du kích và quân chủ lực miền ( regional forces ) cuả Tỉnh Đội Quảng Nam – Đà Nẵng đã chia nhau từng toán nhỏ đi lùng soát, ngăn chặn tại các điạ điểm trọng yếu, mà bãi biển Mỹ Khê, Sơn Trà, núi Non Nước v.v… là những điểm chúng đã chú ý. Mấy tên du kích chiã súng tiểu liên AK- 47 cuả Liên Sô và cả M-16 cuả quân Việt Nam Cộng Hoà bỏ lại, quát om xòm:

-- Không có đi đâu hết cả ! Quay về ngay, không thì…bắn hết.

Chúng nổ vài loạt súng vào chiếc thuyền nhỏ và bắt chúng tôi quay lại. Thiệt là buồn lẫn tức giận vì Đại Uý Sinh từng là Đại Đội Trưởng Nhảy Dù, còn tôi thì đã từng lăn lộn trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Tây bắt 2 lần, rồi 23 năm trong Quân Đội Cộng Hoà từ Lính hạng bét leo lên cấp Tá, từng coi bọn du kích này như bọn … chó chết, nhưng lúc này chúng nó là kẻ thắng trận và đang cầm tiểu liên xung kích trong tay. Tôi nói nhỏ vớ Sinh:

-- Thôi quay lại !

Tôi nhìn lũ trẻ mặt mũi lo sợ, kinh hoàng mà lòng đau xót không cách nào nói hết được…. Khi trở lại chiếc xe thì Bác “ nhà quê “ đang ngồi ở ghế tài xề và cho xe nổ máy. Loay loay mà chẳng biết làm cho chiếc xe nổ máy. Tôi nói với Bác ta :

-- Thôi, cảm ơn Bác, chúng tôi không đi được, cần xe chở nhà tôi và các cháu về thành phố kẻo trời chiều đã muộn.

Ở giưã bãi biển minh mông thế này, đằng kia người đen như kiến vẫn đang lên tàu và vẫn… đang rơi rụng xuống biển như sung, như lá bay thế kia, coi bộ không được rồi, nhứt là các cháu nhỏ như thế này. Bác ta vui vẻ đưa lại chùm chià khoá cho tôi và bước xuống nhường chỗ cho Đại Uý Sinh và tôi chuyển đồ đạc trở lại trong xe. Đây lại thêm một điều may mắn cho chúng tôi. Xong việc, tôi bảo anh Sinh lên lái xe, tôi ngồi bên cạnh còn nhà tôi và các cháu ngồi hết ở phiá sau. Đại Uý Sinh ngồi lên cầm tay lái, tôi quay lại nói với người đàn ông hiền lành, gần như không thấy nói năng gì cả:

-- Cảm ơn Bác nghe.. Cầu chúc Bác bình an!

Trong khi Đại Uý Sinh cài số nhỏ, lái xe ì ạch lăn trên bãi cát, tìm lối lên bờ, tôi nói với anh Sinh:

-- May mà tay này hiền lành, thiệt thà, mở xe mấy lần máy không nổ, nếu nổ máy, liệu anh ta có biết lái nó đi đâu không, và chúng tôi cả bọn đang đứng ở giưã bãi biển minh mông, với nhiều đe doạ, nguy hiểm, không biết sẽ ra thế nào khi trời đã dần dần ngả bóng về chiều, trong khi anh Sinh chỉ mở máy một cái là xe nổ máy tức khắc, xe tốt, để dự trữ cuả đơn vị anh Sinh kia mà, chớ gặp anh chàng kia là thứ dữ thì thiệt là khổ sở vất vả cho gia đình tôi với đám con phần nhiều còn nhỏ, đồ đạc lỉnh kỉnh…

Xe đã tìm được lối lên đường, quay trở lại lối cũ phải qua Quân Lao Đà Nẵng. Trời đất ! Doanh Trại Quân Lao Đà Nẵng cuả Đại Uý Sinh lúc này đông nghẹt bà con, dân chúng ở đâu kéo đến tạm trú, chắc bà con cũng định nhắm hướng bãi biển Mỹ Khê, Tiên Sa, nhưng thấy trời đã sắp tối nên kéo nhau vào đây. Anh Sinh lái xe vào trong, đậu trước hai căn phòng cưả chắc chắn, khoá bằng những chiếc khoá đặc biệt cho nên không có ai vào đây. Mấy anh em binh sĩ cuả anh Sinh, nhà ở liền đó, biết được chúng tôi đã quay trở lại Quân Lao, liền chạy đến, xem có thể giúp đỡ được gì chăng. Đến lúc này mà anh em vẫn còn nghĩ đến chúng tôi, thiệt là tình “ Huynh Đệ Chi Binh “đúng là bất diệt… Lúc này theo tin tức thì quân cộng sản đã vào kiểm soát thành phố Đà Nẵng. Chúng tôi cũng như bao nhiêu Sĩ Quan, quân nhân từ Quảng Trị dồn về vùng đất này hầu hết đã bị dồn vào chỗ chết, nhưng biết làm sao, đành theo vận nước.. Qua một đêm khó khăn, khắc khoải ở Quân Lao Đà Nẵng, đơn vị cũ cuả Đại Uý Sinh, anh Sinh lo cho chúng tôi là một chuyện, lo cho gia đình, nhà tôi và lũ con còn nhỏ, cũng như cho chính anh với tương lai tối tăm trước mặt, thiệt là kinh khủng. Trời sáng lúc nào không biết. Tôi nói Đại Úy Sinh kiếm một lá cờ Phật Giáo, lúc này dễ dàng kiếm ra thứ đó ở chỗ đông người vì lúc này Thầy Thích Trí Quang “ Chuyên viên tôn giáo vận “ cuả Cộng Sản Việt Nam từ 1946, là nhân vật quyền hành lớn lao, người dân miền Nam ai cũng phải biết lúc này vì ông lãnh đạo “ thành phần thứ ba “ ngoài hai lực lượng khác cao hơn : cộng sản Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đứng đầu là Chủ Tịch Nguyễn Hữu Thọ, rồi đến Thủ Tướng Huỳnh Tấn Phát, nhưng thực ra tất cả đều đặt dưới sự lãnh đạo cuả Bộ Chính Trị Trung Ương cộng sản Hà Nội. Nhân vật Thích Trí Quang kêu gọi : Các Bác Sĩ trở về bịnh viện cuả mình làm việc vì số thương vong quân đội, dân chúng quá nhiều, kêu gọi quân nhân cuả Nam Việt Nam đem súng đạn đến nạp tại sân chuà trong thành phố, thị trấn, và ra trình diện Uỷ Ban Quân Quản khi có lịnh… Bà con nói : Sân Chuà Tỉnh Hội Đà Nẵng ở đường Ông Ích Khiêm là một cái núi chất đầy súng đạn, nhiều nhứt là súng M-16 trang bị cho các lực lượng võ trang chánh quy cuả Nam Việt Nam, còn vứt rải rác khắp hang cùng, ngõ hẻm thì không kể. Tất cả chúng tôi lại chất đồ đạc lên xe trở vào thành phố Đà Nẵng, là vùng đất chết lúc này, nhưng biết làm khác được ! Xe ra khỏi cổng trại với chiếc lá cờ phật Giáo to tổ chảng bay phất phới. Xe chạy sắp tới ngã ba rẽ vào thành phố Đà Nẵng và đi Huế thì mấy chú bộ đội chủ lực cuả Tỉnh Đội Quảng Nam ( tôi đoán thế ) mũ tai bèo, súng AK-47 từ bên cạnh đường nhảy ra chặn xe lại và yêu cầu Anh Sinh và tôi buớc xuống khỏi xe. Thấy mấy tên bộ đội non choẹt, nếu trước đó ít lâu thì cứ một chiến binh lính Dù cuả anh Sinh là dư sức “ sơi tái “ một lúc cả 3 tên bộ đội ‘ bé choắt “ này trong 30 giây đồng hồ, tôi chơi nước liếu hét to:

-- Các anh trông lá cờ trước mũi xe kia ! Lịnh cuả Ban Quân Quản Đà Nẵng và Thầy Thích Trí Quang sai chúng tôi liên lạc khẩn cấp với Chuà Tỉnh Hội Đà Nẵng xin xe cộ ra bãi biển Tiên Sa chở bà con, đồng bào bị thương nằm la liệt ngoài đó, chậm không đưa về bịnh viện là chết hết !

Mấy chú bộ đội ngơ ngáo nhìn nhau rồi khoát tay:

-- Thôi đi mau lên !

Chạy vào phiá thành phố rồi, tôi mới bảo Đại Uý Sinh : Moa không hét toáng lên như vậy là chúng nó bắt hai anh em mình xuống ngồi tập trung ở bãi cỏ rồi, lúc đó nhà tôi và lũ trẻ này sẽ ra sao ! Xe chạy vào trung tâm thành phố thì bọn tôi thấy cờ đỏ sao vàng và cờ Mặt Trận Giải Phóng miền Nam đã đầy ngập thành phố, khắp chốn hang cùng ngõ hẻm. Mau thiệt ! Một nhóm các em học sinh, trong đó có cả học sinh cuả tôi mấy hôm trước, đã bị luà ra đầy đường phố, mỗi nhóm có kèm hai, ba tay súng đặc công chỉ huy, làm công tác tuyên truyền, kêu gọi bà con trở về…thành phố đã được giải phóng ! Hai em học sinh chạy lại bên tôi nói :

-- Thưa Thầy ! Thầy đưa Cô và các em về nhà, và có cần đi đâu trong thành phố nưã thì Thầy cứ việc đi thoải mái. Xong việc, xin Thầy giao xe lại cho chúng em vì lúc này Thầy cũng biết rồi, thành phố cần quản lý và xài tất cả mọi thứ xe cộ, nhứt là cuả quân đội cũ.

Tôi bảo một em biết lái xe, nhảy lên ngồi phiá sau, chật chội, anh Sinh lái đến một gia đình quen biết ở gần đó rồi giao tay lái lại cho tôi. Sau cái bắt tay từ giã xót xa, nhưng đầy rình “ chiến hữu “, chúng tôi vẫy tay chào nhau khi tôi lái xe thẳng đến Toà Án Quân Sự Mặt Trận Quân Khu I. Tôi rút chià khoá xe, nắm trong tay, rồi nhảy xuống, chạy ào vào văn phòng cũ cuả tôi. Trời đất ! Một cảnh hoang tàn, hỗn độn diễn ra ngay trước mắt tôi : Bao nhiêu hồ sơ, giấy tờ cuả văn phòng, cộng thêm cái đống sách 501 cuốn cuả tôi sưu tầm, góp nhặt cả 2 chục năm nay nằm lung tung, bưà bãi, ngổn ngang như một đống rác. Đã xót xa cho vận nước, tôi càng thêm xót xa cho cái cảnh này. Chán quá, tôi quay ra xe quên cả lượm lại mấy cuốn Tự Điển Việt , Pháp, Mỹ, Anh dày cộm…là những thứ cộng sản có thấy tôi giữ, tôi cũng chẳng sợ gì.

Nhảy lên xe, tôi đưa cả gia đình về nhà cậu tài xế cách đó không xa. Tôi vưà đậu xe trước cưả nhà cậu tài xế và bước xuống thì cả hai vợ chồng Hạ Sĩ Túc từ trong nhà chạy nhào ra ôm lấy tôi, khóc oà lên mà chẳng nói chi cả. Một lúc sau, vợ chồng hắn mới buông tôi ra mà hỏi:

-- Làm sao bây giờ đây hả Thiếu Tá ?

Tôi vỗ vai hai vợ chồng cậu tài xế trung thành, đầy tình nghiã mà nói:

-- Rồi sẽ tính, chúc anh chị và các cháu bình an, may mắn, tôi phải đi ngay, cho nhà tôi và các cháu nghỉ ngơi kẻo mệt mỏi quá rồi.

Tôi lái xe đến nhà người cháu họ ở ngay mặt đường Phan Chu Trinh, Đà Nẵng ở tạm cho được an toàn trong lúc thành phố đang còn hỗn độn như thế này. Tôi chạy sang nhà ông anh họ ở gần đó, hỏi chià khoá vì tôi đoán thế nào đưá cháu họ cũng giao chià khoá nhà cho Chú nó là anh họ cuả tôi. trước khi kéo nhau chạy vào Sài Gòn từ sớm vì Mẹ và anh chị em cuả nó đều ở sài Gòn. Gặp anh chị tôi, muôn người nhìn nhau sao mà buồn thảm trong cái cảnh này, không nói ra nhưng ai cũng hiểu : Tôi là Sĩ Quan cấp chức khá cao, đi tù mút muà là cái chắc, còn gia đình anh chị tôi có tiếng là giàu có, buôn bán thành công cả thành phố này ai mà không biết, coi như “ Tư Sản “ hạng nặng rồi . Mở được khoá cưả vào nhà, đưa gia đình, đem đồ đạc vào trong xong, tôi trở ra trao chià khoá xe cho em học sinh đã lớn, hình như đã học lớp 12, chừng 18 tuổi, rành chuyện lái xe và nói : đây chià khoá xe, Thầy giao lại cho em đem về cho cơ quan có trách nhiệm ! Em nhìn tôi rồi hơi cúi đầu : chào Thầy, em đi ! Chúc Thầy Cô và các em mọi điều may mắn… Tôi quay vào trong nhà, ngồi xuống cái Sô-pha nghỉ ngơi cho bớt căng thẳng đầu óc và cho lại sức, sẵn sàng chờ đón một tương lai đen tối mà tôi đã biết trước, trong khi ngoài đường phố, xe bắc loa thông tin, xe chở công an, bộ đội đi lại phô trương lực lượng chiến thắng, ngã ba, ngã tư đường phố chỗ nào cũng có vài chú bộ đội, ngơ ngáo, mũ tai bèo xách AK-47 đi lại, còn bọn cộng sản nằm vùng, đặc công, cùng bọn “ cách mạng giải phóng theo đuôi mới được 2 ngày “ buộc mảnh vải đỏ ở canh tay chạy loăng quăng khắp chốn, cứ như ngày hội, trong khi các cưả nhà hai bên đường phố, bà con đóng kín mít, thỉnh thoảng có người hé mở nhìn ra ngoài coi xem “ cách mạng “ đang “ phỏng giái “ làm ăn như thế nào…tương lai rồi đi về đâu. Có điều chắc chắn là sẽ tối tăm, mù mịt cũng như nhiều vụ bắt bớ, tịch thu tài sản, cướp bóc vơ vét trắng trợn và nhiều hình thức chết chóc sẽ xảy ra…


Phan Đức Minh

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 27/Mar/2025 lúc 9:25am

33 NĂM TÌM ĐƯỢC XÁC CHỒNG

Chuyện%20có%20thật%20ở%20VN%20sau%2030%20tháng%204%20-%20Ba%20mươi%20ba%20năm%20tìm%20được%20xác%20chồng

Trung Úy Phi công Nguyễn Văn Lộc – Vượt Ngục Long Giao bị bắn chết Chuyện tình thực thời chinh chiến. Người viết : Giao Chỉ San Jose . Câu chuyện tình bi thảm của 1 thời chinh chiến – Giáo sư Bùi văn Phú bên Oakland nói rằng học sinh Nguyễn Bá Tòng 70 ai cũng biết hoa khôi Ngọc Di – Thầy Mạc Bìa ở San Jose nói rằng anh em không quân ai cũng biết phi công Nguyễn văn Lộc – Ngọc Di quê Nha Trang vào học tại Saigon – Trung úy Lộc quê Đà Lạt về Nha Trang đi lính tàu bay – Ghé chơi nhà bạn chợt thấy tấm hình cô gái có đôi mắt “U uẩn chiều luân lạc” đâu biết rằng anh sẽ mê mệt vì đôi mắt người Nha Trang 

Niên khóa 71-72 Trung úy Lộc đi Hoa Kỳ học lái phản lực. – Năm 71-72 cô nữ sinh Nguyễn Bá Tòng tốt nghiệp tú tài toàn phần và ghi danh trường luật.

Đám cưới ở Nha Trang ngày 6 tháng 2/1974. – Một năm sau căn cứ không quân Phan Rang di tản. – Chồng đưa vợ có bầu lên máy bay chạy vào Saigon.– Trung úy phi công ở lại lo phi vụ hành quân.– Chia tay nhưng hẹn gặp lại tại Saigon.– Rồi vợ chồng tái ngộ trong niềm hạnh phúc.– Lại chia tay thêm lần nữa ngày 28 tháng 4/1975. –Ngọc Di có bầu 6 tháng lên máy bay đi Mỹ.– Người phi công phản lực ở lại với những phi vụ cuối cùng.– Chia tay nhưng vẫn hẹn găp lại, nhưng lần này là vĩnh biệt.– Người mẹ trẻ sinh con gái trong tỵ nạn ngày 18 tháng 7/1975. –Vợ vẫn không biết tin chồng, con không thấy mặt cha. –Anh phi công của Việt Nam Cộng Hòa nằm trong trại tù Long Giao tính được gần đúng ngày vợ sanh. –Ngày đêm anh sống với đôi mắt người tình Nha Trang. –Việt cộng hẹn 6 tháng học tập rồi sẽ trả tự do. –Sáu tháng trôi qua chưa được thả, anh âm mưu vượt ngục. –Bị bắn chết ngày 25 tháng 3/1976. –Chôn cùng người bạn phi công trốn trại. –Vợ con bên Hoa Kỳ hoàn toàn không có tin tức. –10 năm sau, những người bạn tù qua được Hoa Kỳ lần lượt kể chuyện về chuyến vượt thoát bất thành. –Nhưng không ai biết xác chồng của Ngọc Di ở nơi nào. –Ba mươi ba năm sau, những bạn tù không quân mới tìm lại được xác chiến hữu. –Người quả phụ không quân đem con gái 33 tuổi về nhận di hài của phi công Nguyễn văn Lộc. –Trên chuyến bay hãng EVA đáp xuống phi trường LA ngày 3 tháng 11/2008 cô Ngọc Di ôm bình tro cốt của chồng. –Con gái cô ôm thêm bình tro cốt của người chiến hữu cùng chết bên cạnh anh.– Năm nay 2010 là ba mươi lăm năm nhìn lại con đường. –Tôi xin kể lại ngọn ngành 35 năm cuộc đời của người góa phụ không quân anh dũng muôn đời.

Một thời chinh chiến

Mỗi người trong chúng ta đều có riêng cho mình những kỷ niệm về tháng 4 năm 1975. Chuyện của cô Nguyễn Thị Ngọc Di thường được kể thêm vài hàng bên cạnh câu chuyện của người chồng anh hùng trốn trại và đã hy sinh. Nhưng tôi lưu ý riêng đến hoàn cảnh người vợ nên đã nghe cô Ngọc Di kể lại tâm sự cuộc tình. Cô nói rằng, dù đã đem được di hài anh Lộc về nhưng tâm tình u uẩn chưa nguôi. Con gái của cháu tương đối ổn định, nhưng phần cháu, cuộc chiến vẫn chưa yên. Từ lúc 10 tuổi, hình ảnh mẹ cháu đi nhận xác chồng với di hài và vết máu trên áo trận của ba cháu vẫn theo đuổi cháu trong nhiều năm. Đến thời gian cháu ở Phan Rang có mấy tháng đã chứng kiến cảnh cô vợ trẻ miền Tây, đẹp não nùng đi nhận xác anh không quân tử trận. Phi cơ bị rơi vẫn còn mang bom. Phi công không kịp nhảy dù. Bom mang theo nổ cùng con tàu. Xác chẳng còn gì. Căn cứ lấy 2 cây chuối cho vào quan tài, thêm 1 ít da thịt rồi đóng hòm thực kín. Khi cô vợ ra nhận xác chồng, vật vã xin mở ra nhìn mặt, nhưng còn thấy làm sao được. Cháu chứng kiến mà thấy tê dại cả người. Anh Lộc dìu cháu vào nhà ở khu sĩ quan độc thân. Anh nói rằng, anh cam đoan sẽ không bao giờ bị như thế. Như vậy là làm sao. Phải chăng lời tiên tri cho cả cuộc đời sau này. Lấy nhau từ tháng 2/74, chẳng bao giờ được gần nhau 1 tháng. Anh đi bay khắp mọi nơi. Đầu năm 75, cháu có bầu mới ra sống ở căn cứ Phan Rang. Vì không có nhà bên cư xá gia binh, phải tạm trú ở khu độc thân. Chứng kiến toàn chuyện hy sinh chết chóc. Cháu mới 19 tuổi, bác nghĩ coi làm sao mà sống được. Mới năm trước từ thời học sinh vô tư qua thời sinh viên hết sức thần tiên. Chợt bước chân vào đời vợ lính, lo lắng sợ hãi biết chừng nào.

Một thời để yêu

Chờ cô Ngọc Di bớt cơn xúc động, tôi xin cô kể lại chuyện tình bắt đầu ra sao. Cô bình tĩnh và kể hết, không hề dấu diếm kề cả chuyện bay bướm và ngang tàng của anh Lộc.

Bác biết không, trước khi gặp cháu, anh Lộc đã quen với cô giáo Hương bên Ba Làng cũng tại Nha Trang. Bạn bè đã có người gọi anh là Lộc Ba Làng. Chuyện này về sau cháu mới biết. Ông anh họ không quân của cháu cũng không biết mới dẫn Lộc về nhà coi mắt chị cháu ở Nha Trang. Nhà cháu có đến 9 anh chị em. Nhưng coi bộ anh Lộc với chị Như Khuê của cô không hợp duyên, nên chỉ chuyện trò qua loa. Chợt anh Lộc thấy hình của Ngọc Di còn đang trọ học Saigon. Anh nói là đã mê đôi mắt từ lúc đó.

Qua niên khóa 71-72 Trung úy Lộc đi học bay tại Hoa Ky. Ngọc Di bắt đầu nhận được thư làm quen. Bạn bè của anh ở Mỹ nói rằng mỗi tuần anh đều nhận được thư của 2 cô. Cô giáo bên Ba Làng và cô nữ sinh Nguyễn Bá Tòng. Nhưng xem chừng đôi mắt người Nha Trang đã lấy trọn vẹn tình yêu của anh chàng không quân gốc Đà Lạt. Dù rằng về phần Ngọc Di vẫn chưa thực sự rung động với tình yêu chiến sĩ.

Hồi hương được 3 ngày, Trung úy Lộc bèn vào trường Nguyễn Bá Tòng lừa cha giám học nhận là anh vào thăm cô em cùng họ Nguyễn. Đây là đầu tiên 2 người gặp mặt. Từ trước chỉ biết qua hình ảnh. Anh chị có 2 tuần lễ đi chơi khắp Saigon, bao nhiêu là quà bên Mỹ, anh phi công hào hoa dành hết cho cô hoa khôi trường trung học..

Giáo sư Bùi Văn Phú thời đó học Nguyễn Bá Tòng cùng lớp với Ngọc Di kể lại rằng hình ảnh anh không quân xuất hiện đã làm cho biết bao nam sinh đau lòng.

Một hôm anh Lộc dẫn cô Di về nhà bà chị tại Saigon, chợt gặp cô giáo Ba Làng ra thăm.

Cuộc gặp gỡ bất chợt như trong thoại kịch trên sân khấu. Người yêu cũ chợt thấy bị phản bội, người yêu mới chợt thấy bị lừa dối. Anh không quân đưa Ngọc Di về nhà, nhưng cô cho rằng cuộc tình ngắn ngủi coi như chấm dứt. Cô cũng chưa yêu nên không thấy thực sự bẽ bàng. Sẵn sàng để anh Lộc trở về với người xưa của anh. Nhưng anh không quân đã trở thành Phạm Thái của Tiêu Sơn Tráng sĩ nhất định chết trong cặp mắt của giai nhân Trương Quỳnh Như.

Ngày hôm sau, trung úy phản lực trở lại nói là đã giải quyết xong mục tiêu. Cô gái Ba Làng buồn tủi trở về Nha Trang và anh Lộc quyết 1 lòng đi tới với Ngọc Di.

Cuộc tình duyên trải qua suốt năm tháng dài cho đến ngày đám cưới ở Nha Trang 6 tháng 2-1974.

1974 – Một thời hoạn nạn:

Khi đôi trẻ bắt đầu xây dựng gia đình qua lễ cưới là lúc đất nước bước vào năm tang tóc cuối cùng. Ngọc Di nhắc đi nhắc lại là cháu đâu có được làm vợ lính cho trọn vẹn một đời. Tuy hòa bình đã ký nhưng 2 bên vẫn còn chiến tranh dành dân lấn đất. Cô sinh viên vẫn lấy bài học luật đi về giữa Saigon Nha Trang và người chồng bất chợt lúc gặp ở Nha Trang, lúc thì Saigon. Mấy tháng cuối cùng sống chung ở căn cứ Phan Rang ngày đêm nghe tiếng phi cơ phản lực và những giây phút ngóng đợi chồng về.

Rồi khi tình thế nguy ngập, anh chồng đẩy cô vợ mang bầu lên C.130 với toàn những người xa lạ. Phi cơ cất cánh, nhìn anh còn đứng trên phi trường Phan Rang, nào biết bao giờ gặp lại nhau. Nhưng rồi anh đem phản lực về Saigon yểm trợ cho mặt trận Long Khánh.

Có tin vợ con phi công chiến đấu vào hết Tân Sơn Nhứt để chờ di tản. Đêm định mệnh cuối cùng Ngọc Di vẫn còn ở nhà với mẹ và thân quyến tại Saigon. Các ông anh cũng có chương trình di tản cả nhà.

Nửa đêm 28 tháng 4/75 chợt có tiếng xe hồng thật tự chớp đèn bấm còi ấm ỹ. Anh Lộc gõ cửa kêu Ngọc Di khẩn cấp lên đường. Bà mẹ nói rằng hay con ở lại để đi với mẹ và anh em, nhưng Lộc kiên quyết kéo vợ đi ngay. Ánh mắt mẹ già buồn bã trông theo. Nhưng sau này cả nhà đều bị kẹt lại. Lên xe hồng thập tự thấy cảnh tượng hãi hùng, Trung úy Giới ngồi bên vợ là cô sản phụ vừa sinh con, ôm con trong khăn còn vết máu.

Thì ra xe bus chở gia đình phi công đã nổ máy chờ trong căn cứ, ông trung úy Giới lấy xe cứu thương của không quân chạy ra nhà thương rước vợ. Anh Lộc nhẩy theo, sau khi đón được vợ con mày, phải ghé nhà cho vợ tao đi. OK.

Xe Hồng thập tự bóp còi chớp đèn chạy như bay trong đêm Saigon. Các gia đình trên xe bus đang nổ máy chờ, thấy 1 bà mới sinh con và 1 bà bầu mặt còn trẻ thơ bước lên xe. Hai ông chồng vất vả đứng trông theo. Ngọc Di nhìn lại anh Lộc qua khung kính. Anh phi công hẹn sẽ gặp lại bên Mỹ. Vợ con đi rồi, còn mấy anh lái phản lực thì xoay sở dễ dàng, Ngọc Di không thể nghĩ rằng đấy là hình ảnh cuối cùng. Đó là ngày 28 tháng 4-1975. Cô đi C.130 qua Côn Son rồi sau đó di tản qua đảo Guam. Hết sức cô đơn, không gia đình, không bà con thân thuộc. Ngay cả gia đình bạn bè trong không quân cô cũng không quen ai. Cô sống 1 cuộc đời tiểu thư từ nhỏ, số mệnh đột nhiên ném vào cuộc đời. Cô bắt dầu cuộc sống trong chờ đợi, đen tối mịt mùng, hoàn toàn tự lập suốt một phần tư thế kỹ.

Một thời định cư

Vẫn tràn đầy hy vọng, cô nằm chờ ở đảo Guam. Các phi công lần lượt đến tìm vợ con và đoàn tụ bay vào lục địa. Anh chị Giới của chuyến xe Hồng thập tự định mệnh cũng đến rồi đi, không có tin gì về anh Lộc và không ai biết là Lộc mất tích, đã chết hay còn lạc loài nơi đâu. Rồi người ta không cho bà bầu ở lại đảo Guam. Cô phải đi vào Mỹ để còn lo sinh đẻ.

Ngọc Di lên đường mắt còn ngó lại biển Đông. Các trại tỵ nạn Cali và Akansas đã tràn ngập người di tản. Người ta đưa cô về Floria. Nơi đây ngày xưa anh Lộc đã từng đến học bay.

Mỗi ngày vẫn còn người đến trại, dù muộn nhưng vẫn còn tìm được hạnh phúc đoàn tụ bên nhau. Nhưng cô vẫn mòn mỏi đợi chờ. Ngày 18 tháng 7/1975 Ngọc Di hạ sanh 1 bé gái. Nỗi truân chuyên và sống trong ray rứt đợi chờ đã hành hạ thêm cô gái trẻ với 16 giờ đồng hồ đau đớn chuyển dạ. Trước sau vẫn chỉ có một mình. Anh Lộc một năm trước đã đặt tên cho con trai tương lai là Phi Hải. Nhưng cô con gái được mẹ đặt tên là Nguyễn Lộc Đan Vi. Nguyễn là họ của cha và mẹ, Lộc là tên cha. Đan Vi là ý kiến của cô học sinh Nguyễn bá Tòng khi nghĩ đến những cây hoa tường vi đan vào nhau ở cổng nhà chồng trên Đà lạt.

Sau khi sanh con, mẹ con cô tỵ nạn Việt Nam được ông bà bảo trợ đón về nông trại. Ngôn ngữ không quen, suốt vùng quê không có 1 người Việt Nam. Những năm đầu vừa buồn về cảnh ngộ vừa buồn vì cảnh vật. Ngọc Di ôm con sống bằng nước mắt. Duy chỉ có điều, bé gái với cặp mắt thần tiên của mẹ là nguồn an ủi cuối cùng.

Một thời để chết

Cùng lúc đó trong trại tù, anh phi công thấy rằng không còn hy vọng được trả tự do. Thời gian ngộ nhận 15 ngày đã qua từ lâu. Thời gian hứa hẹn học tập 6 tháng cũng qua rồi. Cặp mắt người yêu Ngọc Di thôi thúc ngày đêm, anh phi công ngang tàng 1 thuở nhất định trốn trại, tìm tự do. Hai anh phi công Nguyễn văn Lộc và Lê văn Bé cùng vượt trại. Hy vọng tìm đường qua biên giới Cam Bốt rồi Thái Lan. Giữa 1 đêm mưa gió, cả 2 vượt thoát còn đem theo cả lựu đạn phòng thân.

Lính cộng sản đuổi theo. Lộc chạy trước. Bé ném lựu đạn chận hậu nhưng bị thương ngã xuống. Lộc bèn quay lại, đánh lựu đạn cứu bạn. Được biết lính cộng sản cũng bị chết vì lựu đạn. Vì vậy sau khi 2 anh phi công đã gục ngã chúng còn bắn điên cuồng vào 2 xác chết.

Hai anh chết ngày 25 tháng 3-1976. Cộng sản cho kéo xác để giữa sân trại Long Giao để rằn mặt anh em rồi đem chôn xấp 2 ngôi mộ bên nhau, nhưng không có mộ bia. Các bạn tù tìm cách làm dấu nhưng không rõ ràng. Vài năm sau, không còn ai biết rõ di hài của 2 người anh hùng không quân nằm ở đâu.

Một thời định cư

Mẹ con Ngọc Di rời bỏ nông trại tìm đư33 Năm tìm Được Xác Chồngờng về ở với bà con trên Nữu Ước. Cô nữ sinh hoa khôi Nguyễn bá Tòng, sinh viên luật Saigon tiếp tục cuộc sống lủi thủi với đứa con ngày càng rực rỡ với dấu vết người cha Đà Lạt và đôi mắt bà mẹ Nha Trang.

Mấy năm sau, anh em và gia đình không quân họp mặt nên mẹ con cô Di có dịp về Cali găp gỡ mọi người. Sau cùng cô định cư tại quận Cam. Phải bắt đầu từ thập niên 80 trở đi mới có tin tức về cuộc trốn trại hào hùng và chuyện hy sinh của anh Lộc. Mẹ con bắt đầu nghĩ đến chuyện đi tìm dấu vết của người xưa. Tuy nhiên tất cả đều vô vọng. Không ai còn nhớ những ngôi mộ ở đâu, Cuộc sống vẫn bình thản diễn tiến. Anh chị em đoàn tụ. Me già gặp lại con gái. Cháu Đan Vi tốt nghiệp bác sĩ nhãn khoa rồi lập gia đình. Vợ vẫn không thấy xác chồng. Con vẫn chưa thấy xác cha.

Một lần, hết sức vô tình, Ngọc Di gặp người trong gia đình HO. Anh ở Bắc Cali nói rằng trước có ở Long Giao. Cô Di hỏi rằng anh có biết trung úy Lộc không. Anh HO nói ngay rằng cô có phải là Ngọc Di không. Ngạc nhiên đến sững xờ, cô nói tôi là Nguyễn thị Ngọc Di, sao anh biết. Anh bạn trả lời: « Tôi ở gần anh Lộc trong trại. Anh ấy nói về đôi mắt của cô suốt ngày. Khi cô mới bước vào nhà tôi đã cảm thấy. Khi cô hỏi anh Lộc, tôi biết ngay cô là vợ anh. »Và câu chuyện 20 năm xưa tuôn chảy, nhưng sau cùng cũng không biết mộ anh ở đâu.

Một thời ngoại cảm

Câu chuyện đi tìm mộ của anh Lộc đã trải qua 1 thời gian hết sức đặc biệt dựa trên các câu chuyện linh thiêng về lãnh vực ngoại cảm. Sau cùng, người bạn tù, người chiến hữu tận tụy của anh Lộc đã tìm được 2 ngôi mộ của những người phi công trốn trại năm 1976.

Các ngôi mộ được khai quật năm 2008 có cả sự tiếp sức của thầy Mạc Đìa ngồi tại San Jose mà chỉ dẫn qua điện thoại. Mặc Đìa ngày xưa cũng là sĩ quan của không lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau cùng cô Ngọc Di đưa con gái là Nguyễn Lộc Đan Vi về nhận xác người thân.

Ngày 3 tháng 11-2008 mẹ con ngồi trên phi cơ Eva ôm mỗi người một bình tro về Hoa Kỳ. Mẹ ôm tro của chồng, con ôm bình tro chiến hữu. Gia đình anh phi công Lê văn Bé nói rằng chiến hữu đã chết bên nhau thì cho đi Mỹ với nhau. Tuy nhiên bình tro của anh Bé chỉ có 1 nửa. Phân nửa gia đình lưu lại quê hương.

Ngày 8 tháng 11-2008 không quân Nam Cali làm lễ truy điệu cho 2 người anh hùng của họ. Có lễ trao cờ lại cho cô Ngọc Di cùng con gái.

Ngọc Di làm vợ lính có hơn 1 năm và làm quả phụ 33 năm mới nhận được xác chồng bằng tro tàn. Bác sĩ Đan Vi không bao giờ thấy được người cha dù ở trên trời hay ở dưới đất.

Khi khai giấy tờ người ta hỏi rằng con đến Mỹ năm nào. Con khai là đi năm 1975. Con đi bằng phương tiện gì. Con nói là con đi trong bụng mẹ. Cha con bây giờ ở đâu. Con không biết. Có thể còn đang bay ở trên trời. Con không có cha làm sao ai nuôi con học thành bác sĩ. Trả lời: Mẹ con.

Đan Vi là loài hoa tường vi đan vào nhau mọc ngoài cổng nhà anh phi công Nguyễn Văn Lộc.

Tuổi của cô là tuổi của cộng đồng. Cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại năm nay 35 tuổi, cũng là tuổi của Đan Vi, một cô gái khác ngày xưa sinh ra trên tàu Trường Xuân, trên biển Nam Hải, tên cô là Chiêu Anh, cũng 35 tuổi.

Chiều văn nghệ 35 năm nhìn lại tại San Jose vào ngày 23 tháng 5/2010 chúng tôi sẽ mời cả 2 cô lên sân khấu CPA. Một cô đi tàu biển vào Mỹ. Một cô đi tàu bay vào Mỹ. Lúc ra đi cả 2 đều trong bụng mẹ.

Cả 2 cô đều không phải là ca sĩ, nhưng vẫn được mời lên sân khấu trình diễn. Hai cô đều không biết hát, chỉ đứng đó cho khán giả vỗ tay. Bởi vì cuộc đời của các cô chính là những bài ca của nửa thế kỷ trầm luân. Đó là những hài nhi của cộng đồng di tản, những công dân của thế hệ mới trưởng thành sau những đau thương của đất nước.

Các bạn hỏi rằng văn nghệ của chúng tôi sẽ có những danh ca nào trình diễn.

Chúng tôi có các nữ danh ca có tên có tuổi nhưng không biết hát.

Vậy ai là những người biết hát thì xin đến giúp một tay.

Và trời đất sẽ trả công cho quý vị.

Tất cả chỉ cần hát có 1 bài: Bài “Cô Gái Việt” của Nhạc sĩ Hùng Lân.

GIAO CHI, SANJOSE




Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 27/Mar/2025 lúc 9:31am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23608
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 28/Mar/2025 lúc 8:38am

Một Y Sĩ Hải Quân Đi Tù Cải Tạo Tại Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa


Tôi thật rất có phước được là một y sĩ Hải Quân, và tôi là y sĩ Hải Quân duy nhứt “được” đi tù cải tạo tại miền Bắc. Nhiều người thương hại cho số phận hẩm hiu của tôi, nhưng tôi coi đó là một hân hạnh. Hân hạnh vì đất nước tôi trong cuộc tranh đấu cho Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ đã trải qua một cuộc chiến anh dũng. Nay vì vận nước nghiêng ngả, đồng bào lâm cảnh lầm than đau khổ, chúng tôi bị đi đày tận miền bắc thì kể như chúng tôi tiếp tục tham dự cuộc chiến trong phần đen tối nhất và đóng góp phần đời và xương máu để cùng chia xẻ với cái nhục mất nước chung của toàn dân.
Sau đây tôi xin ghi lại khoảng đời đó của chúng tôi:

1- Y Bạ trích ngang:
Tôi tốt nghiệp Y Khoa Đại Học năm 1965, và được trưng tập về phục vụ Quân Chủng Hải Quân năm 1966. Được bổ nhậm làm việc tại Vùng 2 Duyên Hải, ở Cát Lở, Vũng Tàu và Bệnh viện Hải Quân ở Saigon và Khối Quân Y thuộc Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Năm 1972, nhà tôi được Bộ Y Tế bổ nhậm làm việc tại Trung Tâm Y Tế Toàn Khoa Long Xuyên. Tôi xin thuyên chuyển về làm tại Bịnh Xá Căn cứ Hải Quân Long Xuyên. Năm 1973, tôi được biệt phái về làm việc ở Long Xuyên.

2- Cuộc đổi đời:
Thế rồi ngày 30/4/1975 đến. Một tiểu đội Việt Cộng từ bắc Vàm Cống rụt rè tiến về thành phố. Không 1 tiếng súng. Không có cảnh đau lòng của bọn cách mạng 30 nhiễu nhương đường phố. Nhưng bỗng nhiên mọi việc đều thay đổi. Một bầu không khí ngột ngạt bổ xuống. Phố xá vắng người. Tiếng ra rả tối ngày của các loa tuyên truyền la vang động duy nhất của một thành phố đang hấp hối trở thành thị xã của tỉnh Long Châu Hà của Việt Cộng, gồm Long Xuyên-Châu Đốc-Hà Tiên cũ.

Công an xử bắn một hai người:
Bịnh nhơn Quân Y Viện Long Xuyên bị đuổi ra đường. Các bạn ở Quân Y Viện bị đưa về đâu không biết. Anh em chúng tôi ở Bệnh Viện Long Xuyên rồi thì cũng bị gom vào trung tâm cải huấn cũ. Nơi đây tập trung đầy đủ Quân-Dân-Cán-Chính của chế độ cũ. Nhanh chóng chúng tôi trở thành tù mặc dù chánh sách “khoan hồng” bảo là “Cải tạo viên”. Chúng tôi sớm biết thế nào là ngoan ngoãn tuân hành nội quy cách mạng.

Ban điều hành trại cho một anh lao công cũ của trại lên nhận thư của một số anh em chúng tôi nhờ chuyển tin tức về gia đình, để rồi nạp cho trại. Chúng tôi bị tập họp lại và bị “lên lớp”. Những anh em gởi thơ lén liền bị điều động đi biệt tích, còn lại chúng tôi bị làm nhục, hăm he đủ điều. Sau nhiều cuộc “biên chế” (sắp xếp), dân số tập trung bị chuyển đi dần mà không biết chuyển đi đâu.

Lối tháng 8/75, chúng tôi gồm 5 Y sĩ Thiếu Tá biệt phái của Châu Đốc, Long Xuyên bị đưa qua trại giam tù binh cộng sản ở Cần Thơ.Lúc này, toàn thể quân nhân thuộc Quân đoàn 4 đều bị tập trung, và cấp Tướng và Đại Tá đã bị chuyển khỏi vùng, còn lại cấp Trung Tá, Thiếu Tá và một binh Nhất. Anh này không biết do ai cố vấn, tự động trình diện cải tạo với cấp bậc Thiếu Tá, hy vọng sẽ được tốt nghiệp như Thiếu Tá cải tạo để le lói với đời. Bị phát giác, nhưng anh vẫn được giữ lại, có lẽ để được xử dụng theo dõi chúng tôi.

Một hôm chúng tôi đang lao động nhổ cỏ, một anh bạn thì thầm nhận xét: Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa sang thiệt, dùng toàn thành phần bác sĩ để làm việc nhổ cỏ. Mà sang thật, họ bắt chúng tôi vào tù, chúng tôi phải tự mình biến chế tự làm ra từ chiếc ghế nhỏ để ngồi đến sạo thiếc để ngủ, từ hội trường đến nhà bếp, từ xây giếng đến đào nhà xí. Bếp núc cũng do chúng tôi xây, dĩ nhiên nấu nướng cũng do chúng tôi. Đồ ăn thức uống thì nói cho có, chỉ toàn rau úng, cá ôi, gạo ẩm đầy sỏi cát. Khẩu phần thì ngày càng hạn chế. Trại cho như vậy là rất tốt để chuẩn bị chúng tôi vào học tập và đón nhận chân lý cách mạng và nếp sống văn minh của Xã Hội Chủ Nghĩa.

Bài học gồm 10 bài. Nội dung và cách giảng dạy rất sơ đẳng. Mục đích không phải là thuyết trình lý luận Chủ nghĩa vô sản, mà chính là để ghép chúng tôi vào tội phản quốc, chống cách mạng, là bắt chúng tôi phải nhận đã gây nhiều tội ác “trời không dung, đất không tha”, và phải thành khẩn khai tội lỗi càng nhiều càng tốt, càng khai nhiều tội thì càng sớm được cứu xét về lại với gia đình. Chúng tôi còn được khuyến khích, bắt buộc phải khai báo, phóng đại những “tội ác” có thật hoặc tưởng tượng của toàn thể các cấp của chế độ cũ. Dĩ nhiên là trại đã thất bại, chúng tôi đã “nín thở qua sông”, khai báo lấy có. Sau cùng gần như toàn thể chúng tôi bị đưa ra miền Bắc. "Học tập cải tạo" hay khổ sai, lưu đày?

3- Một chuyến ra đi, trên đất thù:
Vào tháng 6/1976, giờ “đền tội” đã đến. Giống như Tết Mậu Thân, ở Huế, vì sợ tốn đạn, hơn 3,000 đồng bào bị chôn sống trong những nấm mồ tập thể, giờ này, để khỏi mang tiếng diệt chủng như Pol Pot ở Cao Miên, chúng tôi bị đày ra miền Bắc để chết lần mòn, suy kiệt ở các trại lao tù hẻo lánh của Thượng Du Bắc việt.

Chúng tôi xuống những chiếc tàu sắt dài khoảng 20 thước tại Bình Thủy, Cần Thơ. Qua một khung vuông, chúng tôi leo xuống một hầm bít bùng chật hẹp vừa đủ chỗ để ngồi sát nhau. Suốt 4 ngày đêm, với nắp hầm được khép kín, tàu linh đinh không biết về đâu. Có anh trào phúng cho rằng: “Chúng mình được đưa về phóng thích tại Saigon trước sự chứng kiến của truyền thông quốc tế để chứng minh chính sách khoan hồng của chế độ”. Ai nấy đều ngao ngán, khoan hồng như thế này à? Cảnh người nô lệ thời Trung Cổ không thể tệ hơn.
Anh T.Đ.V, Trung Tá (dường như là bạn cột chèo với Tướng Ng.C.K) huỵch tẹt cho rằng: chúng nó đưa bọn mình ra Bắc chớ không có đưa đi đâu hết. Nghe ra ai nấy đều ngỡ ngàng. Miền Bắc xa vời lắm, đưa ra ngoải để làm gì?

Sau cùng thì đoàn tàu cũng cập bến. Vừa thoát ra khỏi hầm, ánh bình minh làm chóa mắt sau những ngày trong bóng tối. “Xem kìa, rặng núi nơi xa kia là rặng núi Bửu Long Biên Hòa, chúng mình sắp được về Saigon rồi!”. Đó là lần chót chúng tôi nghe nói đến 2 địa danh của miền Nam, vì hiện tại, chúng tôi đang đặt chân lên miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa, thành phố Vinh.
Xế chiều chúng tôi bị dồn vào những toa xe lửa để xuôi ra Bắc. Đường rầy xe lửa Xuyên Việt thời Pháp để lại, chiều ngang rất hẹp nên mỗi lần quẹo cua, thì xe chao đảo tưởng chừng như sắp ngã lúc nào không hay. Từ nay vĩnh viễn xa quê hương, sống chết có nghĩa gì!
Xe lửa chậm chạp đưa chúng tôi qua làng xã miền Bắc. Chúng tôi qua Thủ Đô Hà Nội nghèo nàn, vượt sông Hồng cạn nước, và đến một vùng đồi núi, cây cọ vùng Phú Thọ, đất của Tổ Hùng Vương. Trên toa xe, có một linh mục già nhìn ngọn cây cọ xa xa, mắt chan chứa đổ lệ, vì đây là quê của ngài. Là người đã lìa bỏ quê làng để vào Nam 20 năm trước, nay nhìn lại cố quận qua khe vách cửa của xe tù, bảo sao mà cầm được nước mắt! Cha ơi, con xin chia xẻ và cảm thông với mối xót xa của Cha.

Tối đến, chúng tôi đến một nơi không biết là đâu, đèn đuốc lu câm. Chúng tôi bị lùa xuống, và hối hả bị đốc xuống một chiếc phà gỗ nhỏ. Chiếc phà được kéo bằng dây luộc xuống một khúc sông khá rộng. Đó là phà Yên Bái vượt qua song Hồng. Chúng tôi bị tách rời thành nhiều toán, và rải rác phân phối khắp miền Tháp Bà, Lào Kay, Tuyên Quang, Cao Bằng, Sơn La... Nhóm chúng tôi được chất lên những xe Molotova và vất vả đoàn xe rồng rắn vượt qua núi đồi. Thế là hết, chúng tôi sẽ được đem đi giấu ở những đỉnh núi miền Thượng Du, để rồi như bầy cua bị nhốt cùng chung một rọ, lần hồi gãy gọng gãy càng chết lần chết mòn.
Đang mệt mỏi ngủ gà ngủ gật thì có tiếng quát: “Tới rồi, tất cả xuống hết, khẩn trương tập họp...” Thì ra trời vừa sáng, một khoảng đất trống đầy sương hiện ra trước mắt, chung quanh núi đồi, không thấy nhà cửa, trại lều.. thật là hoang vắng sơn dã.Quá xa lạ, ngỡ ngàng, chúng tôi như con người máy, lũ lượt làm theo lệnh. Tối đến chúng tôi ngã người xuống đất đầy cỏ gai và sâu, ngủ một giấc không hồn.Sáng hôm sau thức dậy, chúng tôi thấy còn sống vì còn nhận ra được mặt mày thân thương của bạn tù. Từng cuộn khói bốc lên sau các ngọn đồi chung quanh. À, bạn hữu mình cũng được phân phối quanh đây.

Chúng tôi thuộc Trại 6, Liên trại 4 của Đoàn 776. Tất cả có 9 trại rải rác ở quận Phú Yên, tỉnh Sơn La, nghe nói cách Điện Biên Phủ 60km về phía Tây. Sau 3 tháng ổn định nơi ăn chốn ở, có nghĩa là làm từ con số không, với 2 bàn tay trắng chúng tôi đã xây dựng được trại, lán, và hàng rào tre chia cách các khu. Chúng tôi sống như những người tiền sử, không đèn đuốc, không dụng cụ, không một cây đinh, khúc sắt.
Tuy nhiên việc tẩy não không hề thiếu vắng. Nào họp tổ, bình bầu, đấu tố (vâng đấu tố) nghĩa là kiểm thảo, tố cáo, vạch mặt, chửi bới, không thiếu mục nào. Những thức ăn chúng tôi giấu được sau nhiều đợt khám xét cạn dần. Cái đói, và bịnh đã xuất hiện.
Trời đã cuối Thu, se se lạnh. Từng cơn gió ào ào thổi qua ngọn cây. Chúng tôi bắt đầu nếm mùi giá lạnh Thượng Du Bắc Việt.

Ngay sau khi đến đây được một tuần, một sáng đang tập họp nhận lệnh công tác lao động trong ngày, một lán báo cáo vắng mặt 4 anh. Anh em xầm xì “trốn trại!” Ai nấy đều cảm phục nhưng đầy lo âu cho 4 anh, thầm mong các anh thoát khỏi.

7 ngày sau, 4 anh mình mẩy sưng vù, máu me, cùm trói như con vật, bị vệ binh kéo xệt về trại, và bị giam nhốt riêng ra. Về sau bị chuyển nào biết nơi nào. Cả năm sau, anh B, 1 trong 4 anh, vì bịnh phong, được chuyển về Bịnh viện Yên Bái kể lại. Ngay ngày đầu, các bạn bàn với nhau và quyết định trốn trại. Các anh tích trữ khẩu phần ăn, muối, phơi khô. Tạm đủ, các anh rời trại vào buổi tối lối 11 giờ, tương đối dễ, vì vệ binh canh gác sơ sài. Nhóm gồm có 1 anh Thiếu Tá Biệt Động Quân, trước có tham dự trận Điện Biên Phủ.Anh hướng dẫn đêm đi, ngày nghỉ, hướng về phía Tây, cố vượt biên giới Việt-Lào, để tìm đường đi Thái Lan... Đến ngày thứ năm bị lộ vì quá đói, đào trộm sắn (khoai mì) của người Mường. Họ phát giác sắn bị đào nên săn đuổi các anh ráo riết và bao vây các anh ở một ngọn đồi. Với giáo mác gậy gộc, họ lăn xả vào các anh, đánh đập, đâm chém, vừa la hét: “Giết, giết bọn hút máu ăn thịt này, chính bọn này đã hãm hiếp, giết người, đốt làng xã của họ”. Toàn là những luận điệu tuyên truyền của nhà nước với người thiểu số.
Sau một hồi, tưởng là các anh đã chết, họ mới giao nộp cho công an xã và bọn này giải giao các anh cho bộ đội trại. Đó là trận đào thoát thất bại đầu tiên mà chúng tôi chứng kiến.

Một buổi sáng, chúng tôi gồm khoảng 14 anh em gồm Y, Nha, Dược Sĩ được chọn từ 9 trại về 1 nhà tráng xi măng duy nhất của liên trại để thành lập bệnh xá. Nhà này nghe nói trước là nhà tù SơnLa của thực dân Pháp, giam cầm các lãnh đạo cộng sản đầu thập niên 40. Cùng với 5 anh em được chuyển về từ các trại khác, chúng tôi bắt đầu vào việc chuyển nhà giam thành bệnh xá. Từ tay không, và không phải tay nghề, chúng tôi đã dựng nên được một nơi mà chúng tôi hy vọng các anh em đồng cảnh tù bị bịnh sẽ tìm được sự chăm sóc hoặc ít nhứt là sự an ủi cảm thông vì chúng tôi thừa biết phương tiện y tế và thuốc men kể như là số không.

Quả vậy, sự hiện diện của chúng tôi, những người áo trắng, giữa cảnh tù tội, đã đem lại cho anh em tù một nguồn an ủi. Vì trong mấy tháng vừa qua, một số chúng tôi đã giúp nhiều đồng đội trong cơn bệnh hoạn, ngay cả đã giải phẫu một, hai trường hợp cứu cấp khá thành công, cán bộ, bộ đội cũng lén lút đến nhờ chúng tôi cứu chữa, hoặc xin thuốc “con nhộng” (Aureomycine, Terramycine...). Phần nào chúng tôi cũng có được sự nể nang âm thầm, nhưng vẫn phải chịu chung sự đối xử nhục nhã, thô bạo của kiếp tù. Nhứt là trong những buổi học tập chính trị không thể thiếu.

4- Lên đồi - xin nhận nơi đây là quê hương:
Anh em bịnh hoạn từcác trại được chuyển về.Có gì đâu để chữa trị, nhưng ít nhất cũng không phải lao động.
Và cái chết đầu tiên xảy ra: đó là một anh Trung Tá bị ung thư phổi giai đoạn cuối. Thật đau lòng. Tuyệt vọng không phải vì không thuốc chữa, nhưng mộng ước được chết giữa người thân yêu xa vời, mặc dù đã nhiều lần xin cứu xét.
Anh ra đi! Một kiếp người. Ai nấy đều tủi cho số phận của anh và cũng của chính mình.

Anh thứ hai là một Trung Tá của Quân đoàn 2. Anh được chuyển đến để làm lao động cho bệnh xá. Anh rất yếu, bị “xơ gan cổ chướng” (Cirrhosis), anh cùng tôi nằm gần bên nhau. Anh rất hiền lành. Tôi không nghe anh than thở, xin hỏi thuốc men. Một tối, anh mửa ra máu và ra đi. Tôi tiễn người bạn tôi lên đồi.

Nhưng có một anh khi ra đi đã gây trong lòng tôi một nỗi buồn sâu đậm. Anh đến bịnh xá vì có vẻ khác thường: thầm lặng và biếng ăn. Một đêm anh lên cơn làm náo động cả bịnh xá. Vệ binh ôm súng lên cò la hoảng: “Tù binh thoát trại”. Chúng tôi giữ yên được anh. Sáng ra, ban quản giáo ra quyết định cách ly (nhốt riêng) anh. Anh hoàn toàn mất trí. Tôi tình nguyện săn sóc anh. Tôi sống với anh 24/24 ở một chòi cách ly. Giữa mùa Đông giá lạnh, sống và chăm sóc một người lú lẫn nặng không phải dễ. Ban ngày đút cho anh ăn chiếm cả thì giờ. Tối lại, anh thường lên cơn, vì bóng tối khiến cho anh hoảng sợ, tôi phải canh anh suốt canh dài. Cả một sự kiên nhẫn, ân cần giữ anh sống được qua ngày. Rồi anh yếu dần và ra đi sau một cơn động kinh. Tôi chăm sóc anh như một người thân. Anh đi rồi, tôi buồn lắm.

Một buổi tối, cận Tết, chúng tôi nhận lệnh đón một bệnh nặng từ trại 9 chuyển đến. Đến 4 giờ sang anh mới được võng đến (anh nằm trên võng do hai anh gánh đến). Anh bị bịnh viêm màng bụng (peritonitis) đã 2 ngày, tình trạng rất nguy kịch. Cán bộ ra lệnh “phấn đấu giải phẫu!” Trại mộc gần bên “khẩn trương” đóng bàn giải phẫu. Anh V.T.A (cựu Thứ Trưởng Bộ Chiêu Hồi) được lệnh đi bệnh viện Phú Yên (cách 7-8 km) xin tiếp liệu y cụ và dược phẩm cần thiết cho cuộc giải phẫu. Phải đến 2 giờ chiều anh mới về trại. Anh kể, anh phải chờ, Bác sĩ bệnh viện đang bận giải phẫu. Và bác sĩ quả thật đang mổ heo, vì ngày hôm nay là ngày bệnh viện được cấp 1 con heo. Bác sĩ mổ thịt chia bán cho nhân viên. Anh A. mang về được 1 chai nước cất, 2 ống ether, 2-3 cuộn bang. Thế thôi.

Chưa có ca giải phẫu nào mà có nhiều bác sĩ, dược sĩ tham dự như vậy, và cũng không có cuộc giải phẫu nào mà y dụng thô sơ đến như thế. Đánh ngủ bằng đổ Ether qua một lớp bông gòn, bịt ngay lỗ mũi. Cuộc giải phẫu rất đơn giản. Thành bụng lép xẹp, không mỡ, bị rạch mà không chảy máu (có máu đâu mà chảy). Ổ bụng có mủ, một cọng rễ (có lẽ là rễ một loại rau dại) đâm thủng thành ruột non mỏng dánh. Phải nương tay lắm mới khâu được lỗ thủng. Và cũng vừa lúc bệnh nhân cựa quậy ra khỏi cơn mê vì đã hết Ether từ lâu. Thành bụng không khâu, sợ bịnh nhân chết vì quá yếu, chịu đau không nổi.
2 ngày sau, khi chúng tôi lao động trên núi, có tiếng kẻng từ Bịnh xá gọi về. Qua khỏi cổng, chúng tôi nghe: “Gi. đã địt được rồi!” Ai nấy đều mừng, đường ruột của anh Gi... đã hoạt động. Và chúng tôi có được những ngày Tết ấm cúng bên cạnh đống củi khô cháy rực giữa phòng, với sự bình phục của anh Gi., một Gi., cựu Tiểu đoàn Trưởng Biệt Động Quân vui tính và rất tiếu. Sau Tết, riêng mình tôi bị “biên chế”. Tôi người trẻ nhứt, bị tách rời để đổi đi Yên Bái. Anh em ái ngại nhìn tôi trèo lên xe Molotova chở đầy bộ đội xa rời liên trại.

5- Bịnh viện Yên Bái - Đoàn 776:
Vào khoảng trưa, tôi qua phà Yên Bái, và được đến một ngọn đồi, mênh mang giữa bao ngọn đồi. Nơi đây tôi gặp lại Ng.Tr.B, Trung Tá Công Binh trước cùng nằm bên nhau ở trại tù Cần Thơ. Anh và một nhóm anh em được điều động đến xây dựng một lều tạm để bắt đầu xây dựng bịnh viện xử dụng chung cho trung đoàn 776 và tù cải tạo. Lần hồi tụ tập thêm một nhóm anh em Hạ sĩ quan Cảnh Sát Quốc gia, trước bị giam ở Phú Quốc, và 3 bác sĩ tuyển mộ từ các trại Tháp Bà, Tuyên Quang, Nghĩa Lộ. Chúng tôi lại xây dựng từ con số không với 2 bàn tay trắng. Đến khi vào sinh hoạt, chúng tôi có 1 khu cho chỉ huy trại, khu cho cán bộ quản giáo, khu giải phẫu và điều trị cho đoàn 776, khu dành cho bịnh nhân cải tạo, một nhà chờ xuất viện, một khu nhà bếp, một gian nhà cho tù cải tạo phục vụ bịnh viện, và một khu cách ly. Chúng tôi xây được một cái giếng ciment, và những cầu xí 2 ngăn.
Không bao lâu, bịnh viện lác đác nhận bịnh, bộ đội, cán bộ riêng, tù cải tạo riêng. 3 anh bạn bác sĩ được phân phối phục vụ Bịnh viện cùng với một số anh em già yếu. Tôi được sắp cùng với số còn lại để lao động nặng. Ngoài ra, có một số được chia ra để làm mộc, đóng bàn ghế, rương hòm cho cán bộ, và một số khác phụ trách trồng trọt tăng gia nuôi cả trại. Tôi ở đây từ đầu năm 1977 đến cuối năm 1978. Nơi đây tôi chứng kiến vực thẳm của tù đày và sự vinh quang của sự đổi mới.

6- Hai bạn trong số bạn hữu lại ra đi:
Đúng vậy, thời buổi này là tệ hại nhất. Thiếu ăn, rét lạnh, và dịch bệnh tàn phá chúng tôi không thương tiếc.
Không thăm nuôi, không tin tức gia đình, lao động nặng, khí hậu khắc nghiệt đã quật ngã chúng tôi. Chúng tôi là những xác không hồn, những sinh vật bò bốn chân, lê lết ba chân. Anh em chúng tôi thi nhau ra đi. Riêng tại bệnh viện, những anh em may mắn được chuyển đến, để rồi cũng tiếp tục ra đi. Làm gì được? Thức ăn không có, lấy gì có thuốc mà cầm cự. Chúng tôi hết đào huyệt rồi lại đào mồ. Chúng tôi liên tục vác các anh em chúng tôi nằm trong 6 tấm ván mục sơ sài xuống đồi. Có lắm lần đường đồi trơn trượt, chúng tôi chúi nhủi, hòm các anh rớt xuống, lăn đè lên chúng tôi. Đâu đó có tiếng cầu nguyện: “Quý anh ơi, xin ra đi thanh thản, chớ bận bịu mà ôm chúng tôi làm gì, tội chúng tôi lắm...”

Tôi nhớ rõ 2 trường hợp: Anh Ph Q T, TrungTá giải ngũ. Anh bị sơ gan cổ chướng. Bụng to như trống chầu, da bụng mỏng tanh. Trong gói quà mà tôi nhận được lần duy nhất từ khi ra Bắc, có một gói bột Bích Chi. Tôi đem tặng anh, anh không nhận, tôi phải thuyết phục anh: “Anh dùng đi, cái này rất tốt, vì theo phương pháp dưỡng sinh Nhựt Bổn, bột gạo lức có rất nhiều chất bổ dưỡng trị được sơ gan”. Anh nhận, nhưng anh biết rõ tình trạng sức khỏe của anh. Một đêm, anh ộc ra từng bụm máu. Tôi ngồi bên anh, giữ anh ngồi để máu không tràn vào phổi, anh thì thào: “Bác sĩ cho tôi nằm”. Anh nằm xuống, gương mặt xanh xao, nhưng tỉnh táo: “Bác sĩ, tôi yên tâm có bác sĩ bên cạnh, tôi chết không tiếc nuối. Bác sĩ có được thả về, nhớ ghé nhà tôi báo tin dùm”.
- Anh T, tôi xin hứa. Anh có muốn tôi rửa tội cho anh không?
- Xin Bác sĩ giúp tôi.
- Tôi rửa tội cho anh Phêrô T, Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Anh T lạnh dần và ra đi.

Trường hợp thứ 2: Anh Trung Tá L V Ng, người hùng Tống Lê Chân. Anh đến bịnh viện từ lúc bắt đầu. Anh bị bướu ác tính vòm họng, di căn qua các hạch ở cổ và vòm họng, bóp nghẹt khí quản và thực quản. Anh thở và ăn uống rất khó nhọc. Dáng anh rất thư sinh, một thư sinh rất ốm đang vật lộn với căn bịnh ngặt nghèo. Sáng nào cũng vậy, anh để cả tiếng đồng hồ để cố khạc nhổ đờm dãi ứ đọng trong cổ, để rồi dùng cả buổi để cố gắng nuốt thử hạt bo bo. Nếu có hình ảnh kiên trường chiến đấu cùng tử thần, thì đó là hình ảnh của anh. Hình ảnh thảm thương của cuộc chiến đấu vô vọng trong thầm lặng anh dũng (gémir, crier, ce n’est que lâche!), anh kéo dài được hơn 1 năm. Ngày cuối của anh là một đêm rất lạnh. Tôi ngồi cạnh anh, anh rất yếu, khó khăn lắm mới rót được một hơi mỏng manh. Anh bảo: “Chắc... tôi... chết”! Tôi ái ngại xoa bóp lưng anh, tôi không biết nói chi.

Chôn cất anh xong, nhớ lại câu trối của anh: “Chắc tôi chết!”, tôi mới hiểu sự quyết tâm của anh chống lại cái chết để anh về với gia đình, cho đến hơi thở cuối cùng anh mới: “chắc tôi chết”. Anh Ng ơi, người chiến sĩ già không bao giờ chết, họ chỉ thoáng qua thôi.

7- Những Tướng VNCH đã qua bịnh viện Yên Bái:
Chuẩn Tướng Ph H Th, Cục Trưởng Cục Quân Y đến bịnh viện không phải để được điều trị, mà chỉ để tạm trú qua đêm để hôm sau xuôi về Nam,có lẽ để được phóng thích. Chúng tôi rất vui mừng, “hồ hởi” vì ông là người đầu tiên thoát khỏi thiên đường Cộng sản.

Thiếu tướng Đ V Qu, cựu Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt đến bịnh viện vì bị đau dạ dày.Là Tướng lãnh của Quân lực VNCH, ông không bao giờ hạ mình tuân lịnh nội quy bịnh viện: nghiêm chỉnh đứng chào cán bộ mỗi khi họ vào phòng. Bọn nhóc tì vô cùng tức giận, hoạnh họe chửi rủa cộc cằn. Chúng liền trả ông về trại cũ. Có sao, ở đây cũng chẳng có thuốc men, khác chi ở trại. Tôi được biết ông mất một thời gian sau đó, và cũng chẳng có thuốc thang gì.
Thiếu Tướng Ng X Tr, Bộ Tổng Tham Mưu, được đưa đến bịnh viện trong cơn đau đớn tột cùng của Acute Glaucoma Crisis (cơn đột phát tăng nhãn áp cấp tính). Ông đến không đúng lúc vì lúc đó bịnh viện đang có một phái đoàn y tế cao cấp đến công tác, phổ biến và nâng cao trình độ y học cho cán bộ bịnh viện. Họ đem trường hợp của ông để giảng dạy và phô trương. Họ đem ông vào phòng mổ, và biểu diễn tài giải phẫu, bằng mổ và móc mắt ông. Đây là cách điều trị siêu hạng Xã hội Chủ nghĩa. Từ nay, một Tướng VNCH nhờ được ta cứu, nhìn vinh quang Cách mạng với một con mắt đầy cảm phục!
Y sĩ Thiếu Tướng V Ng H, cựu Cục Trưởng Cục Quân Y đến vì bị sa bẹn (hernia). Sợ trường hợp của Thiếu Tướng Tr tái diễn, anh bạn bác sĩ Ph T L nài nỉ xin được làm phụ mổ. May phước, Tướng H được tai qua nạn khỏi. Ông được xuất viện trả về trại cũ sau khi được mổ khá bình thường.
Một ông Tướng của Thống Tướng Tưởng Giới Thạch, tình nguyện phục vụ cho Quân Lực VNCH được đưa đến bịnh viện vì bị đái ra máu do nhiếp hộ tuyến bị sung. Ông rất hề hà, nói không rành tiếng Việt. Không thuốc men gì, trả về trại thôi.

8- Một tù cải tạo hào hùng - Một bạn vàng:
Ở bên trại 4 Hoàng Liên Sơn có một cải tạo viên rất nổi tiếng. Từ Nam ra Bắc, anh có cuộc sống rất hào hùng, dọc ngang trời đất, trên đầu nào có ai.Anh sống rất hiên ngang, coi bọn cán bộ không ra gì. Anh có cái hay là lúc nào anh cũng thoát khỏi đòn thù của bọn họ. Đó là Tiểu Đoàn Trưởng Nhẩy Dù Ng L. Tôi được kể lại khi ở trại Sơn La, một sáng ra ngoài lao động, đội đang đi thì có một thiếu phụ người Dao (đồng bào Dao rất nổi tiếng vì cái đầu tóc rất bù xù, một năm mới tắm gội một lần) đi ngược chiều. Anh L bỏ hàng ngũ và bước tỉnh bơ theo gót người đẹp và chung sống được 1 tuần. Nhớ bạn bè, anh lại trở về trại, không nghe nói anh bị hình phạt ra sao, chỉ biết một thời gian sau, anh được chuyển đến bịnh xá của các bạn đồng nghiệp cũ của tôi, vì chảy máu hậu môn (trĩ). Các bạn đồng nghiệp tìm cách chuyển anh về bịnh viện Yên Bái. Anh có đến gặp tôi và chuyển lời chào của các bạn cũ.

Một thời gian sau, anh xuất viện, nằm ở Khu chờ đợi trại cũ đến lãnh về.Một bữa lúc 4g30 sáng anh âm thầm ra trại, đem theo quần áo bạn bè ra chợ Yên Bái đổi lấy thức ăn, bánh trái và ăn uống suốt ngày thoải mái. Đến 11 giờ đêm anh lục tục đi về.Trong nháy mắt,anh quăng phắt tất cả bánh trái cho anh em,vừa đúng vệ binh chạy đến bắt và còng anh đi. Sáng sớm tôi ra giếng rửa mặt, gặp anh bị còng trói phơi người trong đêm lạnh. Tôi nhìn anh đầy thán phục, anh nhìn tôi mỉm cười coi như trò chơi. Anh thật là một hảo hán trong cõi lao tù.

Đồng thời ở bịnh viện Yên Bái có một anh rất được mến mộ, anh Đại Úy Thiết giáp, anh có dáng như một ông Địa, tay chân, bụng, mặt no tròn, sưng phù. Cái miệng như lúc nào cũng cười toe toét. Anh bị viêm thận vô niệu, mỗi ngày chỉ đái được vài giọt nước đỏ lòm. Và cũng không có thuốc men gì cả. Trong gói quà tôi nhận được có ít viên B1 nội hóa, tôi đem cho anh uống. Do sự trùng hợp ngẫu nhiên, trong đêm anh đi đái được và đái rất nhiều. Sau 2 ngày, anh như ông già Michelin bị xì hơi thành một anh hề Hardy ốm lòi xương. Chúng tôi trở thành đôi bạn đầy cảm thông. Chúng tôi không nói gì với nhau nhiều, nhưng mỗi lần gặp nhau chúng tôi thấy vui trong lòng.

9- Một sự hồi sinh:
Thời gian ở bịnh viện Yên Bái là thời gian khổ tâm vô cùng. Tôi tìm lại nguồn an ủi bằng cách ôn lại trong đầu, những bài giảng đạo khi tôi còn học trường Lasan Taberd. Một ông Trung Tá cho tôi mượn đọc một cuốn sách Kinh mà ông giấu được. Hằng đêm tôi đọc kinh thầm và suy gẫm lời Thánh kinh. Lần hồi trong tôi xâm nhập lòng thương xót và hoài niệm về Tình Thương. Cái đói lạnh, cái khổ thể xác và tinh thần vẫn còn đó, nhưng tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Chung quanh tôi có rất nhiều gương của lòng tốt, tình người. Bọn tôi không ai có thể thoát chết mà về được với gia đình nếu không có sự giúp đỡ, chia xẻ, săn sóc và an ủi của anh em đồng cảnh tù. Về sau tôi được chứng kiến nhiều cảnh cảm động của những cụ già, những thiếu phụ xanh xao ốm yếu, những trẻ thơ gầy guộc ngơ ngác, lặn lội từ xa, gồng gánh những gói quà ra nuôi và cứu chữa anh em chúng tôi. Chính tình yêu của gia đình đã vực chúng tôi khỏi vực thẳm của tử thần.

Tôi cũng đã chứng kiến, trong cảnh lao tù thiếu thốn, một số trong anh em chúng tôi đối xử đầy tình người với chính những kẻ đã đối xử chúng tôi như kẻ thù, và chúng tôi cũng giúp đỡ được đồng bào trong những trường hợp hy hữu. Ngược lại, không ít trường hợp chúng tôi cũng nhận được lòng tốt của cán bộ, vệ binh và đồng bào, tuy là lén lút.

10- Một thời buổi đáng ghi nhớ-Sưởi ấm ở Quảng Ninh:
Thuở đó, vào cuối năm 1978, có tin đồn có vấn đề biên giới Việt - Trung. Đoàn 776 có dấu hiệu “biên chế”. Khu dành cho Đoàn bị giải tán. Bên cải tạo thì có nhiều trường hợp chuyển trại. Còn lại một phần nhỏ để thanh toán trại và 40 anh em bịnh nhân quá yếu không thể chuyển trại được. Tôi được trại “bố trí” để lo cho 40 anh em này để chuyển tới một địa điểm mới. Lần đầu tiên trại mướn 2 chiếc xe dân sự loại Volswagen 14 chỗ ngồi, chở chúng tôi về Quảng Ninh, một trại tù dân sự do Công an quản lý. Chúng tôi bị nhốt trong một phòng gạch có 2 hàng băng xi măng, có từng trên bằng gỗ làm giường ngủ. Nơi đây có 2 cụ già rất yếu, còn sót lại sau đợt chuyển trại của các viên chức cao cấp chế độ Cộng Hòa, trong đó có Đại Tá V.V.C cựu Đô Trưởng Saigon. Một cụ là chủ đò Thủ Thiêm, một cụ là Khóm trưởng. Hai cụ vì bị thù oán cá nhân với bọn cách mạng 30 địa phương mà bị đày ra đây. Hằng ngày 1 Trung úy công an với 1 tù hình sự đến mở cửa sắt, điểm danh, cho tù hình sự đem nhiều bó tre đến để cho chúng tôi đan rổ rá. Chiều đến, ông đến kiểm điểm thành quả lao động trong ngày và nhốt chúng tôi lại vào “chuồng” và đương nhiên là không có thuốc men cho mỗi ai. Ông chỉ định tôi chịu trách nhiệm anh em.

Những ngày đầu chúng tôi rất khốn khổ, chia ra từng nhóm riêng rẽ, và có xảy ra hục hặc tranh chấp. 1 bầu không khí nặng nề khó chịu bao trùm chúng tôi, ai nấy nặng chĩu ưu tư lo sợ. Cảnh thế này thì khó tránh được điều tệ hại nhứt. Chúng tôi cùng quyết tâm với nhau:
- Không có thuốc, thì phải cố gắng tránh cho bịnh không trở nên trầm trọng.
- Không ăn uống đầy đủ, thì phải tiết kiệm năng lượng. Làm sao?
- Lao động tối thiểu.
- Ngủ nhiều để dưỡng sức, vì mất ngủ sẽ hao mòn sức khỏe rất nhanh.
- Tránh buồn phiền ưu tư và gây gổ.
- Nâng cao tinh thần bằng vui ca, và tự hào về đời sống “Ngụy” của chúng mình.

Từ đó chúng tôi làm việc cầm chừng. Nhiều anh sinh hoạt làm thơ, học đờn, sáng tác nhạc. Tối lại chúng tôi đờn, ca hát nhạc vàng, kể nhau thành tích quá khứ, truyện chưởng và truyện tiếu lâm. Và chúng tôi đi vào giấc ngủ lúc nào không hay. Chúng tôi có cuộc sống bất chấp kỷ luật và nội qui trại (cùi rồi đâu sợ lở).Cũng may, ông Trung úy và cả trại dường như bỏ bê chúng tôi. Chúng tôi đâu có hay rằng chúng tôi được đoàn 776 chuyển đến đây để tạm trú, trong những ngày tháng giá lạnh của mùa Đông. Chúng tôi đã qua được những ngày lạnh giá mùa Giáng Sinh và mùa Tết 78-79 đáng ghi nhớ nhứt, vì chúng tôi đã sống như con người của chúng tôi trước năm 75. Không một ai trong chúng tôi bị trở bịnh và mệnh hệ.

11- Trại Mễ Nam Định, rửa tội và về Nam:
Ra Xuân,vào tháng 4/79 chúng tôi được trả về trại Nam Hà do công an quản trị.Chúng tôi được đưađến trại Mễ, trại bịnh của hệ thống trại tù Nam Hà.Trại này ở ngoại ô Phủ Lý, Nam Định, cạnh một nhánh của sông Mã. Trại có rất nhiều anh em cải tạo bệnh nặng từ các trại từ Nam Hà chuyển đến. Hằng đêm tiếng còi hú của đoàn tàu xuôi nam làm không ít anh em thức giấc đêm dài. Tại đây chúng tôi bắt đầu được gia đình ra thăm nuôi, và trại cũng bắt đầu kinh doanh làm tiền bằng cuối tuần nấu phở bán cho cải tạo viên, hoặc trao đổi lén lút hàng hóa. Và cũng tại đây bắt đầu có những đợt phóng thích. Mỗi lần thấy một số trong 40 anh em chúng tôi được về xum họp cùng gia đình, trong tôi có một cảm giác mừng vui khó tả. Đặc biệt nơi đây, cha H (tôi gọi thân mật như vậy) linh mục dòng Đồng Công đã rửa tội cho tôi dưới sự chứng kiến của một vài anh em Công Giáo. Ban trật tự sắp xếp tôi làm công tác y tế cho trại. Đó là mỗi sáng sớm khám những anh em khai bịnh để khỏi lao động. Đã nói nơi đây là trại bịnh, nhưng ban điều hành lại vẫn bắt anh em lao động, dù là chẳng có gì, nhưng mục đích vẫn là đày ải. Vì vậy anh em nào không muốn lao động thì tôi cứ ghi thuận “miễn lao động”, cùng lắm thì tôi sẵn sàng bị đuổi, trỏ về cùng với anh em lao động.

Rồi một ngày tôi được kêu lên trại “làm việc”. Tôi bị bắt ký vào 1 tờ giấy khai tôi không bị hành hạ ở trong các trại cải tạo. Hôm sau, một mình tôi bị chuyển trại. Tôi buồn và hoang mang nhưng sau hàng rào sao lạicó một vài anh em vẫy tay chào tôi vui vẻ? Tôi được đưa vào trại A,Nam Hà vào ngày lễ 2/9. Gặp lại 1 vài bạn các trại tù cũ, tôi được biết nơi bịnh xá trại này đã quy tụ các anh em đồng nghiệp đã ở cùng chung trại ở Sơn La.

Sáng hôm sau, chúng tôi độ 14 người được tập họp ở một khoảng sân trống. Nhìn lại toàn là anh em chúng tôi, đều là những Y Nha Dược sĩ của các trại tù miền Bắc. Một cán bộ tuyên bố: “Các anh được tự do, chúng tôi sẽ đưa các anh ra ga Hàng Cỏ, Hà Nội. Chúng tôi sẽ trao các anh vé tàu lửa và tiền lộ phí. Kể từ đây chúng tôi hết trách nhiệm về các anh”.
Chỉ có vậy, vào tù cũng không có lệnh, ra tù chỉ là lời nói! Tôi giữ lại 1 kỷ niệm với Thủ đô Xã hội Chủ nghĩa bằng ăn 1 tô phở ở chợ Đồng Xuân. Tưởng là bát phở nổi danh của Hà Nội 36 phố phường, nhè đâu là tô phở nhạt nhè Xã hội Chủ nghĩa mà ngay cả tôi, một tù cải tạo đói khát cũng không thưởng thức nổi!

12- Từ tù nhỏ ra tù lớn:
Sau 4 ngày 5 đêm thì chúng tôi cũng về được đến Sài Gòn (à quên ************) thân yêu. Ga Bình Triệu hơi vắng. Chúng tôi xuống sau cùng, một vài bạn được gia đình đón rước. Rồi tất cả cũng rời đi, còn lại tôi và một anh bạn nha sĩ trẻ, không tiền, không thân nhân. Một bác phu xích lô máy đồng ý chở chúng tôi về nhà, trả tiền sau. Mà nhà nào? Nhà tôi quanh chợ Bà Chiểu, gần rạp hát Cao Đồng Hưng nay còn đâu! Thôi thì về nhà ông bà già vợ ở đâu đó ở Hóc Môn. Trong thơ duy nhất mà tôi nhận được, ba má nhà tôi bị đuổi ra khỏi nhà ở trong nha Mục Súc, và có về Hóc Môn, ở ấp Cây Sộp làm trại nuôi heo. Bác xích lô máy chở chúng tôi qua Hạnh Thông Tây, đến chợ Cầu. Nơi đây có vài trại nuôi heo, và hỏi thăm trại của bác sĩ Tư. Và đây rồi, chúng tôi cũng tới được: “Ba má ơi, con về đây!”

Tiếng chó sủa rân, một ánh đèn dầu bật sáng. Em vợ tôi bật cửa chạy ra. Vào nhà, ba má già nua thấy rõ, nhìn 2 chúng tôi ngỡ ngàng và thương hại. Hai tin đang chờ tôi: Má tôi và cả gia đình bên tôi đã vượt biên và hiện đoàn tụ cùng 1 người chị và 1 người anh đã ra đi từ 4/75. Ngoại tôi 84 tuổi cũng đi theo vượt biên, bà thở hơi cuối cùng khi vừa đặt chân trên đảo Bidong. Bà đã hy sinh cho con cháu được sống. Ngoại ơi! ngoại... ơi!! Tin thứ nhì là nhà tôi và thằng con trai 10 tuổi đang ở miền Bắc, tìm cách thăm nuôi tôi.

13- Một thiếu phụ và 2 con giữa bầy thú dữ:
Nhà tôi là một trong 2 bác sĩ chế độ cũ còn lại phục vụ cho Bịnh viện Long Xuyên.Nhà tôi phụ trách ngoại khoa và giải phẫu, làm việc rất bận rộn và vất vả. Cùng với toàn thể nhân viên chế độ cũ, nhà tôi được ban giám đốc và lãnh đạo đối xử như những công dân hạng hai (second cl*** citizen). Vào thời bao cấp, ngăn sông cấm chợ, nhà tôi và 2 con sống rất chật vật và thiếu thốn như mọi người. Không được tin tức của tôi là nỗi đau lòng luôn luôn canh cánh bên lòng. Nhà tôi cằn cỗi và tiều tụy trông thấy. Đã vậy có lắm lần bọn cách mạng tìm cách lại ve vãn nhà tôi. Có một anh chàng đến nói thẳng: “Thằng chồng của cô sẽ không bao giờ được thả về, có thế mới bắt cô ở lại phục vụ bịnh viện chớ. Cô nên sớm lo liệu cho cô đi!” Rồi có lần hắn đến dằn một cái cộp, cây súng lục trên mặt bàn và nói: “Nhiều khi lời nói không đem đến kết quả, thì vật này sẽ làm được việc”. Cũng may, hắn ta, có lẽ có quá nhiều thành tích, nên bị chuyển công tác khỏi tỉnh.

Khi chuẩn bị vượt biên, má tôi cũng kêu nhà tôi cùng đi, bảo rằng: “Biết bao giờ thằng Bình mới được thả về!” Nhà tôi vâng lời. Trùng vào ngày nhà tôi và 2 con đi theo chị tôi xuống trước để xuống ghe trốn đi, thì nhận được lá thơ duy nhứt của tôi gởi về từ Yên Bái. Nhà tôi nẩy ra ý: nếu nhà đi vượt biên thì bao giờ tôi mới được ra tù? Vì vậy vào giờ chót nhà tôi ở lại. Cũng may tối hôm đó, thằng con trai lên cơn sốt, nó bị sưng màng óc. Số nó còn hên nên được cứu chữa kịp thời. Có 1 người bạn tôi, bác sĩ Đ.H.Đ làm ở Châu Đốc. Anh bị sắp cho đi tù vì bị kết tội là cố tình mổ chết 1 cán bộ. Nhà tôi cho anh hay và nói anh khai bịnh để chuyển từ Châu Đốc xuống Long Xuyên để nhà tôi gấp rút chuyển anh về Bịnh Viện Bình Dân vì quá khả năng điều trị. Trước khi đi anh kịp thời bảo nhà tôi “chị ráng lo cho thằng Bình, chớ không thì nó sẽ chết ngoài Bắc”. Anh cho nhà tôi địa chỉ của bạn cùng lớp, BS N.V.Tr, anh này là em Thứ trưởng Bộ Y Tế, Sáu Cương. Nhà tôi liền lên gặp anh Tr và Sáu Cương. Ông này nói thẳng “Ai tôi cũng muốn xin về để phục vụ ngành y tế vì rất thiếu bác sĩ, nhưng vừa lãnh xong, vừa về, thì hôm sau lại đi vượt biên tuốt luốt. Coi kìa, Bác sĩ T.Ph.L cũng là bạn của Tr và chồng cô, tôi lãnh về xong thì cũng vượt biên mất rồi. Vậy cô có bảo đảm với tôi rằng nếu được lãnh ra về, anh Bình và cô có hứa sẽ ở lại phục vụ hay không?”


Nhà tôi trả lời ngay tức thì “Danh dự không cho phép tôi hứa những gì trong tương lai thời thế không cho tôi giữ được”. Quả là câu trả lời quá bộc trực của dân miền Nam. Ông Sáu Cương cảm thông và đích thân viết một đơn xin lãnh chồng và đưa cho nhà tôi ký. Vừa về lại LongXuyên thì có 1 cô em đến cho nhà tôi hay “Em mới vừa thăm ba em ở tù ngoài Bắc vừa về. Ba em cho biết Bác sĩ Bình đang ở cùng trại với ba em, và bác sĩ Bình bịnh rất nặng, bà bác sĩ đi thăm mau đi, kẻo không kịp”.
Tin này loan ra mau, rất nhiều người thân đến giúp nhà tôi chuẩn bị đồ đạc để gấp rút ra thăm tôi. Cùng lúc trong bịnh viện có 1 bịnh nhơn già bị thổ huyết nặng vì loét bao tử. Nhà tôi mổ khẩn cấp. Hôm sau trước khi về Saigon để ra Bắc, nhà tôi vào bịnh viện hậu phẫu thăm ông. Con ông cám ơn nhà tôi: “Nghe nói bác sĩ sắp ra thăm ông ở ngoài Bắc, tôi có thể giúp bác sĩ mua vé máy bay”. Thời buổi này mà đòi đi thăm chồng bằng máy bay thì chuyện không tưởng, nhà tôi không chú ý lắm. Cho tới khi tới ga xe lửa Saigon mua giấy, thì được bảo rằng phải đăng ký 1 tuần lễ mới có vé, nhà tôi mới đến nhờ mua vé máy bay, và mua được 2 giấy cho cả 2 mẹ con ra Bắc. Hôm sau nhà tôi và thằng con trai được cô B, một bịnh nhơn cũ đến đưa ra phi trường. Tại đây công an đòi phải xuất trình thẻ công nhân vì trên vé máy bay ghi tên nhà tôi là công nhân công ty xăng dầu đi công tác ở Hà Nội. Cô B liền bảo nhà tôi đứng chờ, cô chạy lên lầu và trở xuống với 1 cán bộ. Ông này là cháu của cô và cũng là trưởng công an phi trường. Ông can thiệp cho nhà tôi được lên phi cơ. Phi cơ rất dơ và chở toán người ngoại quốc, có lẽ là người Liên Xô.

Tới phi trường Nội Bài cũng hơn 9 giờ tối.Phi trường rất tối và đe dọa. Trên xe ca về Hà Nội có 2 thanh niên trẻ măng mặc quần áo bộ đội, 2 em giúp nhà tôi cất đồ đạc lên xe vì quá nặng nề cho mẹ con nhà tôi.Nhân tiện nhà tôi nhờ 2 em xem 2 địa chỉ nhà tôi được giới thiệu để tá túc trong thời gian thăm tôi, và coi nơi nào thích hợp nhứt. Xem xong, 2 em nói “Địa chỉ thứ nhất thì ở giữa Thủ đô nhưng ở tận từng 5 không tiện vì khi chị lên đến đó và trở xuống thì đồ đạc bị chúng khuân đi mất rồi. Địa chỉ thứ hai thì ở ven đô thành tiện hơn và phải đi xe hơi”. 2 em phụ chất đồ lên xe lôi, 1 loại cyclo như trong Nam, nhưng không có gối có đệm.Nhà tôi gởi 2 em một chút tiền để dùng café, 2 em tuyệt nhiên từ chối: “2 em giúp chị vì thấy đồ đạc quá nặng nề, thế thôi”.

Nhà tôi đến nơi, thì đây là một căn nhà rất nhỏ, phía trước chưng bán tạp hóa, phía sau là một cái phản để làm giường ngủ. Anh chủ nhà bảo: “Cô là bạn của cô Minh nhờ chúng tôi giúp đỡ. Như cô thấy chỗ chúng tôi quá chật. Thật tình nếu cô không ngại, chúng tôi sẽ đưa cô đến một người bà con ở ngoại ô, cô có thể tá túc được”.Ông mới cho 1 em bé gái đạp xe hướng dẫn bác xe lôi chở mẹ con nhà tôi đến NgãTư Sở (về sau chúng tôi cố tìm đến để tạ ơn thì không thể tìm ra, Hà Nội biến đổi quá nhanh). Nơi đây là một nhà xưa, có 2 chái. Chủ nhà vui vẻ cho trú ngụ. Nhà giữa thì có 2 phản cho 2 vợ chồng và 2 con. Bà cụ của chủ nhà ở 1 chái, bên chái kia thì vợ chồng em chủ nhà ở. 2 đứa con bị đuổi đi sang qua ở bên chái của vợ chồng người em, để chỗ cho mẹ con nhà tôi. Khoảng 1 giờ đêm, nhà tôi nghe lục đục ở trước và tiếng xì xầm. Ông chủ nhà làm ca đêm vừa về. Sáng ra anh chủ nhà cũng tên Tường trùng tên với nhà tôi bảo: “Cô ra thăm chú ấy ở Phủ Lý, đồ đạc nhiều quá, chuyên chở bất tiện, nếu cô không gấp thì chờ tôi vào sở xin phép nghỉ, ngày mai tôi chở giúp cô vào thăm”. Hôm sau ông cùng người em rể và 1 người bạn chở vợ con tôi vào trại Mễ. Tới nơi, sau khi chờ đợi khá lâu thì được cho biết không có giấy phép thăm nuôi thì họ không cho thăm. Anh Tường phải năn nỉ mãi thì mới được cho biết tôi không còn ở trại Mễ nữa và đã được chuyển vào trại A Nam Hà. Anh Tường bảo: “Trại A ở đường đi Chi Nê, nhiều đồi dốc khó khăn, cô và cháu chịu khó ghì chặt, mình ráng vào cho kịp giờ”. Khổ nhọc lắm chúng tôi cũng đến được trại A, để được cho biết đã hết giờ thăm nuôi. Anh Tường lại năn nỉ: “Cô em tôi ra thăm chú ấy, tôi phải nghỉ phép để đưa cô đi, xin đồng chí thông cảm cho cô thăm chú”. Nhưng vô ích. Nhà tôi quá mệt mỏi và thất vọng, ngồi bẹp xuống đất, nón lá che đầu. 1 công an trẻ đến khều trên nón lá, và ngoắc nhà tôi đến 1 góc phòng. Tưởng là họ muốn làm tiền, nhà tôi đến và được hỏi nhỏ: “Phải nhà chị có tên Nguyễn Vĩnh Bình không? Anh ấy được thả rồi”.Nhà tôi mừng quá cho anh Tường hay, đồng thời nói với anh công an trẻ: “Cho tôi tặng lại anh các gói hàng này, tôi không rinh về được”. Anh công an trẻ vội nói: “Ấy chết, tôi mà nhận,bọn họ biết tôi cho chị tin thì tôichết với họ”.

Chúng tôi lại trở về Hà Nội. Anh Tường đưa nhà tôi lên Bộ Cải Tạo để xác nhận tin tôi được thả về.Nơi đây bảo tuần sau trở lại sẽ có kết quả. Suốt thời gian chờ đợi, chị Tường đưa nhà tôi đi quanh Hà Nội. 1 hôm chị bảo: “Hôm nay cô Tường và cháu đi thăm viếng lăng Bác nhé!” Nhà tôi chối từ. Chị Tường nói: “Ậy, mình đi để được mua mỗi người 1 mẩu bánh mì giá rẻ cơ”. À thì ra thế, người ta bỏ ra một ổ bánh mì rẻ tiền để dựng được huyền thoại lòng sùng kính của quần chúng với lãnh tụ vĩ đại, và để tha hồ tuyên truyền với toàn dân thế giới.

Tuần lễ đã qua, anh Tường và nhà tôi trở lại Bộ Cải tạo và được xác nhận tin tôi đã được thả. Trên đường đi “đăng ký” vé máy bay, anh Tường nói: “Tôi khuyên, có chú ấy được về, cô chú sớm tìm đường ra nước ngoài. Tôi thấy cháu kháu khỉnh tôi thương quá,cháu sẽ không được đi học, không có một tương lai trong xã hội này”. Anh Tường khuyên thành thật. Về sau chúng tôi được tin buồn, anh Tường và con trai bị bắt khi tìm đường vượt biên ở Hải Phòng. Trong xã hội độc tài, nhà tù mà chúng tôi sống qua được là cũng nhờ vào lòng tốt, và tình người cả trong Nam lẫn ngoài Bắc. Trong gian nan khốn khó, lòng nhân đạo được cảm nhận sâu xa và đầy đủ nhứt. Chúng tôi là những nhân chứng sống.

14- Một chuyến ra đi:
Về lại Saigon, chúng tôi quyết định, tôi sẽ ở lại cùng với ba má nhà tôi và nhà tôi tiếp tục làm việc ở LongXuyên, để tiện việc lo vượt biên.Tháng 4/1980, chúng tôi được cố Giám Mục (N.K.Ng) Long Xuyên sắp xếp cho đi vượt biên cùng với tổ chức của ông S. Ông này đã tổ chức thành công nhiều chuyến. Chuyến này là chuyến chót. Ông đem hết gia đình trên 2 chiếc ghe chở khoảng 210 người. Chúng tôi ra đi vào cuối tháng Tư.Ngày trước có giông bão cấp 4.Sáng ngày đi, trời còn âm u và mưa lất phất. Chúng tôi chuyển xuống ghe lớn an toàn, và sau 2 ngày 2 đêm chúng tôi tới Khlong Giai, tỉnh Thái ở sát biên giới Cao Miên. Chúng tôi vào trại tỵ nạn Liêm Sỉnh.

Chúng tôi bị trở ngại khi đi phỏng vấn với phái đoàn INS. Chị hai của nhà tôi hình dáng nhỏ thó rất khác với nhà tôi,quá nhút nhát không chịu trả lời phỏng vấn viên, nên hồ sơ tỵ nạn bị xếp lại. Cũng may, nhờ có 1 nhân viên tòa Đại sứ Mỹ ở BangKok chuyển gia đình chúng tôi về trại Lumfuini ở Bangkok.Tại đây, 1 cô tình nguyện viên làm thân với nhà tôi, và dẫn ông chồng đến gặp chúng tôi. Ông này là người phụ trách toàn chương trình định cư của Mỹ ở Thái Lan. Ông đã giúp chúng tôi nhanh chóng hoàn tất thủ tục để định cư ở Mỹ. Lại một lần nữa, gia đình chúng tôi đón nhận lòng tốt và nhiều sự giúp đỡ trên đường đi tỵ nạn từ nhiều người, thân, lạ, đều có đủ. Đầu tháng Giêng 1981, 11 giờ đêm, phi cơ phản lực American Airway cất cánh, đem chúng tôi lên cao dần,nhìn qua khung cửa,ánh đèn thành phố mờ dần, một quãng đời tôi cũng lùi vào quá khứ, 1 nỗi buồn man mác tràn dâng trong lòng tôi. Phi cơ càng lên cao, ánh trăng bàng bạc soi sáng không trung, lòng tôi thầm cảm tạ ơn Chúa và tri ân lòng tốt và tình người mà nhiều thân, bạn hữu và ân nhân đã tặng cho chúng tôi.

Một vài đám mây nhẹ nhàng trôi, tôi tự nhủ cố gắng sống cho phải đạo để đáp ứng phần nào nghĩa tình mà tôi chắc chắn rồi đây trong khoảng thời gian còn lại, nơi chân trời xa lạ chúng tôi sẽ tiếp tục đón nhận. Con tàu tiếp tục phi đạo vào không gian vô tận, không gian của Tự Do và Tình Người.


Raleigh vào mùa Đông
Nguyễn Vĩnh Bình
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23608
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 31/Mar/2025 lúc 11:14am

Tao Là Ngụy !


Nếu ai đó hỏi tao "Mày là ngụy à?"  Tao sẽ trả lời là phải. Nếu ai đó hỏi tao mày là con cháu ngụy à? Tao cũng sẽ trả lời là phải. Tao ngán phải thanh minh hay giải thích với chúng mày "Ngụy " là như thế nào?, xuất xứ từ đâu ra rồi. Bởi vì ngày hôm nay, tao tự hào tiếng "Ngụy"!

Tụi mày biết không? Tao sống trong chế độ Ngụy, một chế độ đặt Tổ Quốc trên đầu. Khi đi khắp các phố phường, các ngõ hẽm, tụi bây sẽ thấy dòng chữ " Tổ Quốc Trên Hết ".

Tụi mày biết không? Tao sống trong chế độ Ngụy rất nhân văn, văn minh, Y Tế, Giáo Dục miễn phí. Dẫu biết đó là tiền viện trợ hầu như là của Mỹ, nhưng chế độ chúng tao biết cách phải sử dụng tiền đó như thế nào để phát triển đất nước.

Tụi mày biết không? Tao được Giáo Dục bởi chế độ Ngụy, đi học trường Ngụy, nhưng không bao giờ dạy hận thù, hay kích động, dạy cho biết làm người, biết cư xử, biết vị tha. Còn nữa, tụi bây đâu biết rằng Giáo Dục Ngụy họ tàn nhẫn lắm. Sáng nào cũng phát bánh mì và sữa miễn phí. Tụi tao rất ngán, tới nỗi phải trốn. Trong lớp học, thằng học sinh nào mà học  giỏi thì thể như kêu thêm chiếc xích lô để khiên quà về.

Tụi mày biết không? Tao là một công dân của Ngụy , nhưng chúng tao chưa bị ngược đãi bao giờ cả. Chúng tao tự do đi lại, không cần hộ khẩu hay bất cứ thứ gì, muốn đi đâu thì đi, được bầu cử, được tự do biểu tình, được quyền phản đối. Họ đứng ra bảo vệ tao, thì là công dân chúng tao sẽ phải làm việc để đóng góp xây dựng đất nước.

Tụi mày biết không? Tao là Lính Ngụy, nhưng chúng tao luôn chiến đấu vì đất nước, vì dân của tao. Trong những trận chiến, chúng tao luôn đặt mục tiêu phải cứu dân ra hết khỏi vùng giao tranh, dẫu biết rằng muôn trùng khó khăn với tụi bây. Lắm lúc tụi bây giả dân thường, lắm lúc dân cấu kết với tụi bây. Lần lượt nhìn đồng đội bị phục kích, rơi bẫy, và chết tức tưởi.. tao căm thù lắm. Nhưng động lực nào đó khiến tao không thể ngưng lui bước. Chỉ vì một câu " Tổ Quốc, Trách Nhiệm và Danh Dự ".

Tụi mày biết không? Tao là lính Ngụy, nhưng chúng tao luôn vị tha. Chúng tao sẵn sàng đón tiếp tụi mày. Chúng tao sẵn sàng chiêu hồi tụi mày, để quay lại làm người, làm lại từ đầu, đừng lầm đường lạc lối nữa..... Tụi bây luôn luôn tấn công và chúng tao cũng luôn luôn phòng thủ. Nơi nào có tụi bây đi chiếm, thì nơi đó tụi tao sẽ phải tái chiếm.

Dẫu biết rằng chế độ Ngụy kia còn non trẻ, còn nhiều khuyết điểm, nhưng tin tao tin rằng, chế độ Ngụy đó còn hơn cả chế độ tụi mày gấp 10 lần, hay cả 100 lần.

Bây giờ tao là hậu sinh của tụi Ngụy đây. Chúng tao sẽ nối tiếp, sẽ chứng minh, sẽ phơi bày lịch sử, sẽ trả lại danh dự cho họ.  Và Chúng tao tự hào chữ  "Ngụy "!!!


Việt Nam Sử Liệu



Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23608
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 31/Mar/2025 lúc 12:14pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23608
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/Apr/2025 lúc 9:24am


Sóng Bạc Đầu


Hôm nay là sáng Thứ Hai cho nên Bãi Dứa của Vũng Tàu thật hoang vắng. Từng cụm mây đen lơ lửng treo trên đầu làm cho bầu trời thấp xuống và ánh sáng trở nên kỳ dị. Từng ngọn gió lành lạnh từ ngòai khơi thổi vào trên mặt biển đen ngòm, hung dữ. Tít tắp từ xa những con sóng bạc đầu nổi bật trên nền trời xám trông tựa như những con cá mập nhe răng khi nó nhô lên khỏi mặt nước. Từng đợt sóng nhấp nhô chạy vào bờ rồi đập mạnh vào những tảng đá nghe ầm ầm.


Vào những ngày thời tiết xấu như thế này có lẽ chỉ những người điên hay “mát giây” mới mò ra Bãi Dứa để tắm biển. Thế nhưng từ hướng Bãi Trước một cái bóng bỗng xuất hiện từ xa. Đó là thằng Đực Lớn. Hôm nay, hay nói đúng ra từ lâu lắm rồi thằng Đực Lớn lúc nào cũng mặc chiếc quần lính, chiếc áo sơ-mi cụt tay màu cháo lòng. Chiếc áo sơ-mi lại bị đứt một hai cái nút cho nên thỉnh thỏang người ta thấy nó lòi cả rốn ra. Có lẽ vì nó thường xuyên đi chân đất cho nên ngón chân thô kệch của nó bè ra như chân người Giao Chỉ. Theo đúng trào lưu của thanh niên nó cũng để tóc dài nhưng vì bộ dạng nó rất ngờ nghệch và cái trán lại vồ ra cho nên bộ mặt nó trông rất tức cười. Đôi mắt nó lúc nào cũng mở to, ươn ướt như khóc. Qua cái dáng dấp bự con, nếu nhìn từ xa người ta có cảm tưởng nó là một người lớn nhưng lại gần mới biết đó chỉ là một thằng thanh niên ô dề. Nó đi lang thang dọc bãi biển, vừa đi vừa chỉ trỏ cho nên người ta nghĩ rằng nó đang nói chuyện với chính nó. Khi tới mấy tảng đá lớn xếp vòng cánh cung nó nghiêng đầu dòm tới dòm lui rồi cắn móng tay suy nghĩ. Suy nghĩ xong nó cười vu vơ rồi từ từ ngồi xuống, dựa lưng vào một tảng đá lớn. Vừa ngồi xuống nó thu mình, bó gối mắt đăm đăm nhìn ra phía biển xa xa. Nhìn một hồi nó thở dài rồi lấy cát đắp lên đôi chân chè bè. Đắp chán rồi nó bốc cát ra rồi đắp lại. Cuối cùng không hiểu sao nó đạp tung cả đống cát rồi gục mặt vào đầu gối. Giây lát sau nó rầu rĩ nói:

- Chiều nay về thế nào má cũng chửi. Bả lại nói, “Thằng chết bầm sao mày còn vác mặt về đây làm gì? Sao mày không theo đám cô hồn các đẳng cho rồi? Cùng tuổi với mày tụi nó vượt biên rồi gửi tiền về cho cha mẹ nó. Còn mày ở lại đây sang năm tới tuổi thi hành nghĩa vụ thì thấy tía mày. Lại bỏ xác bên Camphuchia thôi. To đầu bằng ấy rồi mà chẳng làm được gì cả. Thật khổ cho cái thân già! Từ ngày cách mạng về tao cũng chẳng nuôi nổi thân tao nữa. Nhớ ngày thằng tía mày còn sống tao đâu đến nỗi nào?”

Nói đến đây dường như bị xúc động bởi cái chết của ba nó cho nên nó lấy tay vẽ chữ “Ba “lên trên cát rồi lẩm bẩm như thể muốn nói với má nó:

- Ba tụi nó là lính ngụy, lính cộng hòa cho nên tụi nó vượt biên. Còn ba mình là Nhân Dân Tự Vệ cao ủy đâu có nhận. Vượt biên qua đó ở mục đảo đó!

Song dường như má nó không chịu cái lý luận này cho nên tự miệng nó lại phát ra những lời chửi rủa của má nó:

- Thằng tía mày! Mày ở lại đây rồi cuối cùng cũng chết ở Campuchia thôi! Mày cứ vượt biên đi. Dù mày có chết trên biển tao cũng mát lòng mát dạ. Chín tháng mang nặng đẻ đau tao đâu có muốn mày chết ở Cam phuchia? Thằng tía mày!

Có lẽ cái lý luận của má nó quá sắc bén khiến nó không thể cãi lại cho nên nó rầu rĩ gục mặt xuống đầu gối. Giây lát sau như để xua đuổi hình ảnh của má nó. Nó đưa tay vuốt mặt rồi lắc đầu vài cái như con chó tắm xong nó rung cả thân hình để lông mau khô. Nó lặng lẽ đưa tay xóa chữ “Ba” mà hồi nẫy nó vẽ rồi dùng ngón tay vẽ chữ “Hường” lên đó. Vẽ xong chữ “Hường” tự nhiên nó bật cười khúc khích. Nó nhớ lại chiều qua nó qua nhà con Hường để chẻ dùm mớ củi. Khác với má nó lúc nào cũng chê nó là đồ vô dụng, con Hường luôn luôn khen ngợi nó. Con Hường nói, “ Anh Đực Lớn dễ thương ghê vậy đó. Bữa nào gánh dùm em ít gánh nước nghe? ”Nghe con Hường khen thế nó mát cả lòng cả dạ. Tuy nhiên nó rất ghét mấy bà lối xóm cứ hay chê bai, chế nhạo con Hường là, “Con trâu nước, đi đến đâu làm đổ đình đổ chùa đến đó.” Hôm qua đi xem phim ở Thắng Tam thấy con Hường đi đôi dép đứt quai phải cột bằng sợi dây kẽm nó thương quá. Nó định bụng khi nào có tiền nó sẽ mua tặng con Hường một đôi guốc Dakao có bán ở Chợ Vũng Tàu. Tuy nhiên nghĩ đến tiền nó lại rầu rĩ. Nó lặng lẽ xóa chữ “Hường” trên cát. Nhưng không hiểu sao lát sau nó lại đưa tay vẽ lại cái tên đó một lần nữa.


Trong khi thằng Đực Lớn ngồi ủ rũ như thế thì từ mé con đường tráng nhựa chạy vòng ngay trên đầu xuất hiện một bóng người thứ hai. Đó là thằng Tư Cụt. Hôm nay thằng Tư Cụt mặc chiếc áo Montague màu huyết dụ thứ dệt ở Chợ Lớn đã bạc màu. Chiếc quần tây màu xám bằng Dacron làm cho nó trông có vẻ như một công nhân viên. Nhưng đôi dép Nhật cũ, đen đúa lại tố cáo nó là một thứ công nhân hạng bét. Thằng Tư Cụt có bộ mặt rất lanh lợi. Sở dĩ người ta gọi nó là Tự Cụt là vì nó tên Tư nhưng ngón tay bóp cò của nó bị cụt mất một lóng. Mới đầu người ta ngạc nhiên là ngón tay trỏ của nó bị cụt đúng vào lúc nhà nước bắt lính đi Camphuchia thế mà công an không hỏi thăm sức khỏe nó. Nhưng sau người ta mới vỡ lẽ ra nó có người chú nằm trong ban chỉ huy quân sự Vũng Tàu. Rồi cũng nhờ thế lực đó nó được tuyển vào hợp tác xã đan và sửa lưới. Nhưng thực ra nó chỉ làm lấy lệ. Chủ yếu sống bằng nghề mánh mung.

Nãy giờ dù đã nhìn thấy thằng Đực Lớn nhưng nó vẫn trầm ngâm với điếu thuốc trên tay. Giây lát sau nó quyết định quăng mẩu thuốc rồi tiến về phía mấy tảng đá là chỗ thằng Đực Lớn đang ngồi ủ rũ. Mặc dù nó đã đến gần sát bên cạnh nhưng thằng Đực Lớn vẫn chưa hề hay biết. Nó yên lặng đứng ngắm thằng Đực Lớn một hồi rồi mới lên tiếng:

- Thằng khùng! Mày đang làm gì đó?

Nghe tiếng người nói thằng Đực Lớn giật thót mình. Nó hốt hỏang nhìn lên rồi vội vã lấy tay che chữ “Hường” mà nó vẽ hồi nãy. Nó ấp úng nói:

- Tui có làm gì đâu!

- Mày không làm gì hả?

Thằng Tư Cụt vừa nói vừa bước tới rồi lấy chân gạt tay thằng Đực Lớn sang một bên khiến chữ “Hường” mà nó đang che dấu lộ ra trên cát. Nó nói với giọng chễ diễu.

- Thế mày làm cái gì đây?

Rồi không để thằng Đực Lớn kịp biện minh, thằng Tư Cụt nói luôn:

- Là bạn mày tao biết quá mà. Hôm đi xem phim ở Thắng Tam tao thấy mày tò tò theo đuôi nó và nhìn nó như đứa mất hồn. Mày mê nó phải không?

- Tui… tui đâu có mê nó. Tui chỉ… thích nó thôi.

Khẽ xì một cái thằng Tư Cụt nói:

- Từ thích đến mê mấy hồi. Nhưng nè… tao hỏi thiệt mày. Mày có biết làm thế nào để con gái mê mày không?

Nghe hỏi thế thằng Đực Lớn bật cười khúc khích rồi nó e thẹn đáp:

- Tui đâu có biết.

- Mày khờ quá! Muốn con gái mê thì mày phải cho nó quà, phải dẫn nó đi ăn rồi tán tỉnh nó. Đứa con gái nào cũng vậy.

- Mẹ ơi! Anh nói đúng quá! Tui sẽ cho con Hường đôi guốc Dakao!

Thằng Đực Lớn háo hức reo lên.

- Phải! Mày sẽ cho nó đôi guốc Dakao. Sẽ dẫn nó đi ăn. Rồi mày khen nó đẹp lia chia. Rồi nó sẽ thương mày. Rồi hai đứa sẽ lấy nhau. Nhưng tới khúc này thì mày lấy tiền đâu ra để cuới nó?

Nói xong thằng Tư Cụt nheo mắt, hóm hỉnh ngắm nghía cái khuôn mặt khờ khạo của thằng Đực Lớn lúc này đã méo mó đi vì câu hỏi quá hóc búa. Giây lát sau thằng Tư Cụt từ từ ngồi xuống bên cạnh nó rồi nói như dỗ dành:

- Đấy mày thấy không? Không tiền thì nguy hiểm lắm. Không tiền thì gái không theo. Mà gái không theo thì làm gì có vợ? Nói tóm lại không tiền thì chẳng có ma nào lấy mày. Mày hiểu không?

Nghe nói thế thằng Đực Lớn lại thở dài. Nó ủ rũ cúi mặt đăm đăm nhìn vào chữ “Hường” nằm trên cát. Giây lát sau nó ngửng đầu lên nhìn thằng Tư Cụt nói như thể van nài:

- Anh chỉ tui đi. Tui phải làm sao đây?

- Phải làm sao à? Phải tìm cách kiếm ra tiền. Mày muốn có nhiều tiền không?

- Tui muốn có tiền cho má tui để bả khỏi chửi và mua đôi guốc cho con Hường.

- Nếu mày biết khôn như vậy tao sẽ giúp mày.

Nói đến đây thằng Tư Cụt dòm trước dòm sau rồi hạ thấp giọng:

- Nhưng mày thấy đó bây giờ làm gì cho ra tiền? Tao đã nghĩ nát óc ra rồi. Chỉ có cách này là đảm bảo.

Nói xong nó kề miệng vào tai thằng Đực Lớn thì thào. Không hiểu thằng Tư Cụt nói gì mà chỉ thấy thằng Đực Lớn lắc đầu quầy quậy:

- Không được đâu anh! Cải tạo mút chỉ đó!

Nghe nói thế thằng Tư Cụt đâm nổi cáu:

- Mày ngu thấy mẹ! Người ta làm có tổ chức sức mấy công an biết được? Bây giờ bao nhiêu đứa làm giàu vì dịch vụ tổ chức vượt biên. Mẹ nó! Nhát như mày thì cứt cũng không có mà ăn chứ đừng nói đến gái!

- Nhưng tui sợ công an lắm!

Thằng Đực Lớn vẫn cứ lắc đầu.

- Phải! Mày sợ công an. Thế nhưng mày có sợ con Hường bỏ mày đi lấy thằng khác không? Mày có sợ má mày chửi mày là đồ vô dụng không?

Nghe nói thế thằng Đực Lớn kinh hỏang la lên:

- Không! Tui không muốn con Hường lấy ai hết!

- Nếu mày không muốn con Hường đi lấy thằng khác thì mày phải có tiền. Đấy tao cho mày suy nghĩ đó.

Tới mức này thì rõ ràng thằng Đực Lớn đã bị giao động rất nhiều. Nó nắm lấy tay thằng Tư Cụt năn nỉ:

- Nói con Hường đừng lấy ai nghe.

- Ừa. Tao sẽ nói nó không lấy ai hết để chờ mày nhưng với điều kiện là mày phải nghe lời tao. Nè, nếu mày bằng lòng thì tao sẽ dẫn mày đi gặp người ta. Tổ chức sẽ chung trước cho mày phân nửa. Khi nào “đánh” xong sẽ nhận phần còn lại. Thôi bây giờ bọn mình ra Chợ Vũng Tàu kiếm cái gì bỏ vào bụng đã. Từ sáng tới giờ tao cũng chưa ăn gì cả.

Cùng với câu nói đó nó lấy tay kéo thằng Đực Lớn đứng dậy. Như một con cừu non, thằng Đực Lớn nặng nề đứng lên rồi hai đứa leo lên con đường tráng nhựa đi về hướng Chợ Vũng Tàu.


Tại một tiệm bán hủ tíu gần khu nhà lồng Chợ Vũng Tàu người ta thấy Thằng Tư Cụt và thằng Đực Lớn ngồi ở một góc. Với điếu thuốc lá trên tay thằng Tư Cụt lúc nào cũng kín đáo liếc ngang, liếc dọc. Còn thằng Đực Lớn thì ngồi ngay như ông phỗng đá. Hai tay nó thòng xuống và dáng điệu của nó trông nghiêm trọng một cách tức cười. Khi chú ba Tàu bồi bàn tiến tới vỗ vào vai nó, nói “Hầy à. Nị dùng cái chi?” thì nó giật thót mình ấp úng nói với Thằng Tư Cụt:

- Mình ăn cái gì?

Thằng Tư Cụt muốn nổi nóng nhưng nó dằn lại:

- Mày muốn ăn cái gì thì mày cứ kêu.

Sau một hồi suy nghĩ thằng Đực Lớn nuốt nước bọt rồi rụt rè nói:

- Tui… tui muốn ăn hủ tíu với một tô xương súp.

Không muốn để mất thì giờ, thằng Tư Cụt nóng nảy nói với người bồi bàn:

- Thôi được rồi! Cho nó hủ tíu với tô xương súp thật bự. Còn tui… cho ly cà-phê, tô hủ tíu và cái bánh bao.

Sau khi người bồi bàn đi rồi, nó hạ thấp giọng nói với thằng Đực Lớn:

- ĐM. ăn cho no vào. Có thể tối nay “đánh” rồi đó. Từ đây tới khuya không được đòi ăn nữa nghe không. ĐM. tao sẽ mua thêm cho mày hai cái bánh bao để phòng xa. Tao biết cái mặt mày quá mà. Hơi đói một tí là kêu ầm ĩ cả lên!

Nghe thằng Tư Cụt nói thế thằng Đực Lớn chẳng nói năng chi. Nó chỉ đưa mắt nhìn láo liên rồi gật đầu. Khi người bồi bàn mang đồ ăn ra, thoáng một cái thằng Đực Lớn đã ăn xong tô hủ tíu và tô xương súp. Tuy vậy nó vẫn còn tiếc rẻ cho nên nó gặm lại mấy mảnh xương heo. Giấy lát sau thằng Tư Cụt cũng ăn xong. Nó lấy tay vói chiếc bình trà bằng nhôm rồi cẩn thận tráng chiến chén rồi đưa lên nhấp nhấp vài ngụm. Nhấp xong nó đổ phần trà dư đó lên mấy ngón tay rồi đưa mấy ngón tay đó lên chùi miệng. Chùi miệng xong nó xoa tay vào nhau, hất hàm ra lệnh cho thằng Đực Lớn đứng dậy.

Sau khi trả tiền xong, hai đứa bước ra khỏi tiệm hủ tíu nhắm hướng bến xe Bà Rịa-Vũng Tàu đi tới. Khoảng mười lăm phút sau hai đứa đã có mặt tại bến xe. Thằng Tư Cụt lanh lẹ chạy tới đám tài xế xe Lam đang tụ tập binh xập-xám. Tại các bến xe bây giờ đang có lối cờ bạc tạm gọi là cờ bạc lưu động bởi vì sau khi chia bài xong, đám con bạc tản mác ra từng gốc cây ngồi binh rồi sau đó tụ hội lại để xem ai ăn ai thua. Lối cờ bạc chợ này mục đích qua mắt bọn công an nhưng xét cho cùng cũng chẳng qua mắt được ai.

Sau khi hỏi thăm đám con bạc xem xe nào chạy trước, thằng Tư Cụt ra hiệu cho thằng Đực Lớn rồi hai đứa leo lên chiếc xe Lam trống đậu ở bên kia con đường. Rải rác một vài bà đi chợ, một vài công nhân, bộ đội đi tới. Họ hỏi thăm rồi cũng lần lượt leo lên xe chờ. Lát sau từ trong đám cờ bạc tách ra một người. Gã vừa đi vừa móc túi đếm tiền vừa làu bàu. Khi đến bên chiếc xe Lam gã lớn tiếng nói:

- “Cho xin tiền nghe bà con.”

Sau khi thu tiền xong gã bắt đầu rồ máy xe. Có lẽ gã phải đạp tới mười lăm hai chục lần thì chiếc xe Lam mới chịu nổ máy. Rồi chiếc xe lật ngược lại phía đằng sau khi gã tài xế sang số, ngả nghiêng lao về phía con lộ chính hướng ra ngã Bà Rịa để lại một đám khói và bụi đường bay mù mịt.

Khỏang hai mươi phút sau chiếc xe lại ngả nghiêng lao vào Bà Rịa rồi dừng lại trước một bãi đất trống bên cạnh chợ. Suốt chặng đường, thằng Đực Lớn ngả lưng vào thành xe ngủ gà ngủ gật và nước dãi của nó nhểu xuống cả ngực áo. Khi thằng Tư Cụt thúc mạnh vào cạnh sườn nó một cái thì nó giật mình thức dậy rồi hối hả bước xuống xe. Nhưng khi nó bước vội lên để đi ngang thằng Tư Cụt thì thằng Tư Cụt quắc mắt nói như rít qua hai hàm răng:

- ĐM. đi lùi lại phía sau làm bộ như tao với mày không quen nhau. Nhớ tao đi đâu thì đi theo đó. Không được hỏi gì nghe không!

Nghe nói vậy thằng Đực Lớn hốt hỏang bước chậm lại và mặt nó ánh lên một vẻ hết sức lo lắng. Dường như sợ có người theo dõi, thằng Tư Cụt đi vào nhà lồng chợ rồi nó loanh quanh giả bộ ghé vào vài sạp bán hàng. Cuối cùng nó băng ngang để đi vào con phố chính. Lát sau nó từ giã con phố để quẹo vào một con đường nhỏ rồi dừng lại trước một cái quán nằm dưới tàng cây bã đậu. Trên thân cây, chỗ ngang tầm mắt có đóng một tấm bảng gỗ với hàng chữ “Sống Ở Trên Đời! Thịt Chó Trứ Danh”. Từ bên trong mùi chả nướng bốc ra làm điếc cả mũi, và làm người ta chảy nước miếng. Dường như để chờ thằng Đực Lớn đang lẽo đẽo ở phía sau cho nên thằng Tư Cụt đứng tần ngần dưới tàng cây ít phút trước khi bước vào. Sau khi đã vào hẳn bên trong nó lựa một chỗ gần ngay quầy tính tiền rồi lặng lẽ ngồi xuống. Chỉ thoáng sau thì cái bóng ô dề của thằng Đực Lớn cũng xuất hiện ở ngưỡng cửa. Sau khi dáo dác dòm quanh, nó hối hả bước lại chỗ thằng Tư Cụt. Sau khi ngồi yên nó đưa mắt thò lõ nhìn thằng Tư Cụt như chờ lệnh. Liếc nhìn một vài thực khách trong quán, thằng Tư Cụt nói vọng vào trong nhà:

- Cho một dĩa dồi chó. Thêm giềng và nhiều mắm tôm.

Từ bên trong một gã thanh niên chạy ra với chiếc khăn lau tay. Hắn bước tới bên thằng Tư Cụt nói:

- Dồi chó đang làm. Xin vui lòng chờ chút xíu được không?

- Rất tiếc bọn này phải đi gấp nên không chờ được.

Thằng Tư Cụt đáp ngay. Trong khi hai người đối đáp qua lại như vậy thì thằng Đực Lớn chỉ há hốc miệng nhìn rồi nuốt nước miếng ừng ực. Nhưng thực ra cuộc đối đáp vừa qua chỉ là dấu hiệu nhận nhau cho nên khi nghe thằng Tư Cụt đáp xong thì gã thanh niên giả bộ cúi xuống lau bàn rồi nói khẽ vừa đủ nghe:

- Chờ chút xíu sẽ có người đàn bà đưa các anh đi.

Nói xong gã bỏ vào nhà trong. Giây lát sau một người đàn bà tay cầm chiếc nón lá từ phía nhà bếp bước ra. Đợi cho bóng người đàn bà khuấg sau cánh cửa trước, thằng Tư Cụt mới đứng dậy bước ra ngòai. Thằng Đực Lớn cũng hối hả bước theo sau.

Với dáng đi rất lanh lẹn, người đàn bà sau khi băng qua một ngã tư chị ta quẹo vào một con đường nhỏ. Đi một đỗi chị ta rẽ vào một con hẻm cây cối mọc um tùm hai bên, rồi cuối cùng dừng lại trước sân một căn nhà cổ. Dường như để chờ thằng Tư Cụt và thằng Đực Lớn, chị ta đi đi lại lại trước sân vừa lấy nón quạt vừa nói vọng vào bên trong:

- Thầy Ba, có người đến thăm bịnh đây!

Độ vài phút sau thì có tiếng lạch cạch mở cửa. Lúc này thì thằng Tư Cụt và thằng Đực Lớn cũng đã xuất hiện ở cổng. Chị đàn bà lanh lẹ bước vào nhà rồi ít phút sau quay ra nói với thằng Tư Cụt:

- Thầy Ba mời anh vào để thầy coi bịnh cho.

Vẻ mặt của thằng Tư Cụt lúc này bỗng trở nên nghiêm trọng. Nó quay qua nói với thằng Đực Lớn:

- Mày ngồi tạm dưới gốc cây nhãn này. Tuyệt đối không được đi đâu. Tao vào “hốt thuốc” rồi ra ngay.

Nghe nói vậy thằng Đực Lớn chỉ biết há hốc miệng rồi lặng lẽ gật đầu. Trong khi thằng Tư Cụt dặn dò thằng Đực Lớn thì người đàn bà cũng đã le te đi về phía sau nhà rồi bóng chị ta mất hút vào đám vườn cây phía sau nhà.

Khi người đàn bà đi rồi thì thằng Tư Cụt mới rụt rè bước vào. Bên trong là một người đàn ông khỏang ngòai ba mươi tuổi đang ngồi trước một cái bàn trên có một cuốn sổ, bao thuốc lá, ly la-de. Phía sau lưng là một cái kệ có bày một vài cuốn sách dạy bào chế thuốc Nam. Rải rác chung quanh là mấy cái bao bố chứa đầy những cây thuốc đã phơi khô như kinh giới, hương nhu, tía tô, cỏ mường trầu, hà thủ ô, xuyên tâm liên, lá xả v.v... Nằm ở trong góc là một con dao cầu và chiếc thuyền tán. Lại có cả vài cái mẹt bên trên đựng cơm nguội để làm thuốc tễ. Da người đàn ông đen xạm, rắn chắc, nét mặt đanh thép và đôi mắt hết sức sắc sảo chứng tỏ gã là một tay bản lãnh dám làm chuyện kinh thiên động địa chứ không có dáng vẻ hiền lành của một thày thuốc Đông Y. Vừa thấy gã thì thằng Tư Cụt đã khúm núm lên tiếng:

- Dạ thưa Anh Ba.

Vẫn dán mắt vào cuốn sổ, gã đàn ông nói:

- Sao? Mày đã tìm được đứa nào chưa?

Thằng Tư Cụt cẩn thận bước tới một vài bước rồi nó lễ phép nói:

- Dạ thưa Anh Ba, em đã kiếm được một thằng. Thằng này nó khờ lắm. Nhưng vì nó khờ thế cho nên nó mới dám làm chuyện nguy hiểm này.

Lấy bút gạch gạch cái gì đó trên cuốn sổ xong gã đàn ông ngước mắt nhìn thằng Tư Cụt nói:

- ĐM. hành khách đi chuyến này trêm trăm người. Mọi chuyện đều êm xuôi cả ngọai trừ vấn đề xăng dầu. Không hiểu có đứa nào đưa tin ra ngòai hay không mà tụi nó báo cáo rằng mấy hôm rày tàu công an lảng vảng ở địa điểm chôn dầu khiến không một đứa nào dám tình nguyện vào đó chở dầu ra “con cá lớn”. Khuya nay “đánh” rồi. Nếu dầu không ra kịp thì chết cả đám.

- Dạ thưa Anh Ba, em đã dụ được thằng ngốc này. Em sẽ giao cho nó một chiếc ghe để nó đào dầu chở ra điểm hẹn. Em sẽ chờ cách đó khoảng hai trăm thước. Khi dầu đã lên ghe an tòan, em sẽ chớp đèn ba lần để Anh Ba cho “con cá lớn” cặp vào. Nếu như em khóat đèn ba lần thì có nghĩa là bị động thì Anh Ba cho “con cá lớn” lui ngay.

Nghe thằng Tư Cụt nói thế gã đàn ông gật gù nói:

- Được lắm! Rủi thằng ngốc đó bị bắt thì nó cũng chẳng biết mẹ gì để khai. Nếu vụ này thành công tao sẽ thưởng cho mày thêm một chỉ nữa. Đây, cầm lấy một ngàn đồng giao cho nó và dặn nó phải cẩn thận. Nhớ khuya nay “đánh” rồi đó.

Thằng Tư Cụt lễ phép đưa tay cầm lấy một ngàn đồng, cúi chào gã đàn ông rồi quay ra ngòai. Khi nó bước ra ngòai thì thằng Đực Lớn đang ngồi bó gối, lưng tựa vào gốc cây nhãn. Lanh lẹ như một con sóc, thằng Tư Cụt xà xuống bên cạnh nó, nói:

- Mọi việc êm xuôi cả rồi. Tao phải năn nỉ gẫy lưỡi Anh Ba mới chịu cho mày cộng tác. Tuy nhiên chuyện này hết sức quan trọng. Nếu mày làm hỏng chuyện thì không những người ta cắt cổ mày mà còn cắt cổ cả tao nữa nghe không?

Nghe nói vậy thằng Đực Lớn kinh hãi la lên:

- Tui sợ quá! Không biết tui có làm được không?

Thằng Tư Cụt vội vàng an ủi nó:

- Mày làm được. Tao biết mày sẽ làm được việc này. Tuy nhiên gặp lúc nguy hiểm mà mày định tháo chạy thì mày nhớ đến con Hường nghe. Chính con Hường sẽ cho mày can đảm. Mày nhớ không?

- Tui nhớ. Tui sẽ nhớ đến con Hường.

- Được lắm! Mày nghe rõ đây.

- Tui nghe.

Thằng Tư Cụt vội bẻ một cành cây nhãn rồi nó vẽ lòang ngoằng một vài nhánh sông rồi nó giải thích cho thằng Đực Lớn:

- Mày còn nhớ cái Vàm Láng không?

- Tui nhớ.

- Tốt lắm!

Thằng Tư Cụt vỗ vai thằng Đực Lớn nói tiếp:

-Ngay chỗ sắp sửa ra cửa có một cái cù lao cây cối rậm rạp. Ngay giữa cù lao có một khỏang đất trống bên trên chất một đống cây bần khô…

Nói đến đây nó liếc vội chung quanh rồi hạ thấp giọng:

- Người ta chôn mười can dầu ở đó. Nhiệm vụ của mày là tới đào lên, đem xuống ghe rồi chở ra “con cá lớn”.

- Nhưng tui không biết “con cá lớn” ở đâu.

- Mày khỏi lo. Tao sẽ chờ mày cách đó khỏang hai trăm thước. Khi nào đem dầu xuống ghe nhớ chớp đèn cho tao hay. Nhưng tao dặn hờ, nếu công an tóm được mày thì mày phải khai là đi bắt cua nghe. Trước sau cứ khai như thế.

Nghe dặn thế thằng mặt thằng Đực Lớn lại căng ra. Nó ngồi ngây một lúc rồi hỏi thằng Tư Cụt:

- Tui ra đó bằng cách nào?

- Mày khỏi lo. Mày còn nhớ Xã Phú Mỹ không? Mày băng qua cái xã đó, tới mé sông, ngay dưới tàng cây da có một chiếc ghe với mọi thứ cần thiết cho mày.

Tới đây thì thằng Đực Lớn không hỏi thêm gì nữa nhưng khuôn mặt nó ánh lên một vẻ hết sức lo lắng. Đưa mắt liếc nhìn thằng Đực Lớn, thằng Tư Cụt từ từ thò tay vào túi móc ra một mớ bạc. Nó ấn mớ bạc vào tay thằng Đực Lớn, nói:

- Đây là 500 đồng. Người ta đưa trước cho mày phân nửa. Khi nào “đánh” xong người ta sẽ đưa thêm. ĐM. nửa chỉ vàng đó. Mày tha hồ hồ mua guốc cho con Hường và dẫn nó đi ăn tiệm nhé.

- Mẹ ơi! Sao nhiều quá vậy?

Thằng Đực Lớn buột miệng la lên.

- Vì tao thương mày. Vì người ta thương mày cho nên mới cho mày nhiều thế. Thôi! Đ.M be bé cái miệng một tí!

Dường như mớ bạc đã làm cho thằng Đực Lớn quên mất bao hiểm nguy cho nên nó vừa đưa tay nhét mớ bạc vào túi nó vừa sung sướng nói:

- Tui sẽ mua guốc cho con Hường rồi con Hường sẽ thương tui rồi má tui sẽ thương tui…

- Mọi người sẽ thương mày! Cả thế giới sẽ thương mày! ĐM. đừng nói lôi thôi nữa. Nghe tao dặn đây.

Nghe thằng Tư Cụt nói thế thằng Đực Lớn mất cả hứng nhưng rõ ràng lòng nó đang rạo rực cho nên nó nhẫn nại nghe thằng Tư Cụt nói tiếp:

- Bây giờ là ba giờ chiều rồi. Mày quanh quẩn ở đây tới năm giờ chiều thì lấy xe đi Phú Mỹ. Đợi lúc chạng vạng tối mới khởi sự nghe chưa. Bây giờ tao cũng phải đi lo chuyện của tao. Thôi bọn mình chia tay. Hẹn gặp lại mày tại Vàm Láng.

Với câu nói đó thằng Tư Cụt đứng dậy rồi bóng nó phút chốc biến mất ở cuối con ngõ.

•••••

Khi mặt trời đã khuất về phía tây và ánh nắng chỉ con thoi thóp trên mấy ngọn cây thì những ngọn gió mát rượi từ hướng biển cũng bắt đầu thổi tới. Ngọn gió đem theo mùi tanh tanh của đất bùn, mùi muối quyện lẫn với mùi thơm ngát của lúa Thần Nông đang trổ đòng đòng. Xa xa chạy dài về hướng Rừng Sát, khu rừng bần bạt ngàn bắt đầu trở nên tím thẫm và trên trời cánh Sao Hôm bắt đầu nhấp nháy. Tiếng cóc nhái, nhá nheng, ễng ương âm vang bốn bề như một bản hợp tấu, vỗ về, dìu Xã Phú Mỹ đi vào đêm đen cô quạnh, đìu hiu, buồn muôn thuở nhưng cũng đầy nghẹt thở, gay cấn bởi những chuyến vượt biên có thể diễn ra bất cứ lúc nào.

Ngay lúc đó từ mé quốc lộ, cái bóng cao lớn của thằng Đực Lớn cũng xuất hiện. Như một tên ăn trộm, nó dòm trước dòm sau rồi hối hả băng qua một đám ruộng lúa. Nếu quan sát kỹ người ta thấy có lúc nó lầm lũi bước đi song có lúc nó đứng lại suy tính. Nó men theo mấy bờ ruộng và cố tránh mấy gò đất cao là nơi mà đám du kích xã hay tụ tập. Khi qua khỏi đám ruộng lúa để đi vào ven xã, nó dừng lại rồi đưa lên miệng nhắc lại lời căn dặn của thằng Tư Cụt, “Nếu công an bắt được thì nói là đi bắt cua nghe. Trong trường hợp nguy hiểm hãy nhớ tới con Hường để có thêm can đảm nghe!”

Nói dứt câu nó hăm hở lao mình về phía trước nhưng nó kinh hoảng dội ngược lại bởi hai cái bóng lù lù xuất hiện ở phía trước. Đó là hai tên du kích xã với hai khẩu súng AK vác trên vai. Về phần hai tên du kích, nhìn thấy cái bóng cao lớn, tàng tàng của nó đâm xầm tới chúng nó cũng hốt hỏang né sang một bên rồi làu bàu chửi:

- ĐM, đui sao không thấy đường? Chút xíu nữa đâm vào tụi ông!

Chửi rồi thấy thằng khùng nào đó không lên tiếng đáp lại, hai tên du kích phá lên cười ngặt nghẽo. Còn thằng Đực Lớn sau khi lướt qua hai tên du kích nó le lưỡi ngóai cổ lại rồi hấp tấp lao đầu về phía trước. Nó băng qua một khu xóm lúc này đã tối thui và rải rác có ánh đèn leo lét. Mặc dù nó cố tránh xóm nhà nhưng có lẽ tiếng chân thình thịch của nó làm kinh động mấy con chó cho nên văng vẳng có tiếng chó sủa dài theo hướng đi của nó. Khi tiếng chó sủa bắt đầu thưa và nhỏ dần thì nó cũng đã bỏ xa xóm nhà và tới gần một đám đồng lầy. Lúc này mặt trăng đã lên khỏi ngọn cây và chiếu sáng cả một vùng ruộng mênh mông mọc đầy những cây bần thấp lè tè. Cách đó không xa, một con sông nằm uốn lượn và thỉnh thoảng phơi mình sau đám lá dầy đặc. Thằng Đực Lớn dừng lại định hướng rồi cuối cùng nó quyết định lao mình về hướng bờ sông. Khi tới bên một gốc cây cao, nó ngó ngang ngó dọc rồi chui vào một bụi cây mọc um tùm ngay dưới gốc tàng cây cổ thụ. Đúng như lời thằng Tư Cụt nói một chiếc ghe tam bản dài chừng bốn thước được dấu ở đó. Nó mừng rỡ nắm lấy thành ghe rồi lần mò tìm mối dây.

Khi đã mò ra được đầu mối, nó tháo sợi dây cột ở gốc cây bần rồi leo lên. Dường như bắt đầu cảm thấy đói, nó thò tay xuống sông rửa tay rồi lấy ra hai cái bánh bao mà nó bỏ vào hai túi trước của chiếc quần lính. Trong bóng đêm tiếng nhai nhem nhép của nó hòa lẫn với tiếng róc rách của con nước ròng cọ vào mấy gốc cây bần mọc dài theo mé sông. Khi ăn xong nó đưa tay chùi miệng, nắm lấy chiếc mái chèo, đẩy chiếc ghe ra xa rồi chèo xuôi theo dòng nước.

Vì giờ này con nước chảy xiết ra hướng biển cho nên chiếc ghe lao đi vùn vụt. Nó khôn ngoan bám sát bờ sông và đôi tai lúc nào cũng vểnh ra để nghe ngóng. Không biết nó đã chèo như thế được bao lâu nhưng người nó đã ướt đẫm mồ hôi và thở phì phò. Khi tới ngã ba là nơi mà nhánh sông mà nó đang ở nhập vào nhánh sông lớn thì nó dừng lại. Đầu óc nó nảy ra một sự suy tính dữ dội. Nó ước lượng với sức chèo của nó ít nhất cũng phải mất năm mười phút mới có thể băng qua bờ phía bên kia. Nếu như trong khoảng thời gian nó đang ở giữa lòng con sông mà tầu tuần tra của công an xuất hiện thì cuộc đời của nó coi như đi đứt. Nó e ngại nhìn khu sóng nước rộng mênh mông rồi đưa tay bốc nước vã vào mặt trong khi mồ hôi trong người nó lại tháo ra. Dưới ánh trăng xuyên qua đám cành lá, khuôn mặt nó trở nên loang lổ và méo mó đi vì lo sợ. Nó rên khe khẽ:

- Má ơi, chắc chết mất!

Nhưng rồi nó nhớ lại lời thằng Tư Cụt dặn nó nhớ tới con Hường cho nên tự nhiên nó thấy vững tin. Nó vểnh tai nghe ngóng xem có động tĩnh thêm gì không rồi nó nghiến răng xiết mạnh tay chèo. Rất may cho nó trong suốt thời gian này bốn bề yên tĩnh. Nhưng khi nó sắp sửa chèo tới bờ thì tiếng máy tàu bỗng vang lên từ xa rồi ánh đèn pha quét ngang, quét dọc và tiếng súng nổ ròn rã, âm vang cả dòng sông. Đó là tàu của công an đang đi tuần tra. Thằng Đực Lớn kinh hoảng giật mạnh tay chèo, cố sống cố chết phóng vào bờ. Thoáng một cái tầu tuần tra đã lại gần và đèn pha quét dọc về phía nó. Nhưng thật hú vía. Có lẽ bọn công an chỉ chiếu đèn phỏng chừng vậy thôi cho nên khi chiếc ghe của thằng Đực Lớn đã lao vào đám bần mọc ở ven sông thì chiếc tàu cũng lướt qua để lại hai làn sóng chạy giạt vào hai bên bờ. Có lẽ phải mất đến năm, mười phút sau thằng Đực Lớn mới hòan hồn. Nó nín thở, vểnh tai nghe ngóng thêm một lần nữa trước khi đẩy chiếc ghe đi về phía trước.

Bây giờ có lẽ cũng gần mười giờ đêm cho nên con nước đã đổi chiều và sóng vỗ vào mạn ghe nghe bì bõm. Càng tiến lên phía trước lòng con sông càng mở rộng và gió thổi lồng lộng. Khỏang độ dăm phút sau thì chiếc cù lao đã nằm trong tầm mắt của nó. Nó ráng sức chèo và cho chiếc ghe tắp vào dưới rặng bần mọc rậm rạp quanh bờ. Vì con nước đã lên cao cho nên chiếc cù lao thu hẹp lại bằng diện tích của mảnh ruộng. Dưới ánh trăng mờ ảo, khung cảnh tứ bề vắng lặng và tỏa ra một cái gì đó rờn rợn. Mặc dù đã cặp sát bờ thằng Đực Lớn vẫn ngồi, nín thở chưa dám động tĩnh gì. Nó chỉ sợ nếu công an đã phục kích sẵn trên đó mà nó mò lên thì chẳng khác nào nộp mạng cho chằng tinh. Cuối cùng nó liều mạng cột chiếc ghe vào một gốc cây bần rồi lội xuống nước. Lội một đỗi nó bắt đầu bước lên phần đất khô và thân hình của nó nhô hẳn lên. Nó hốt hỏang ngồi thụp xuống để quan sát rồi từ từ bò về phía trước. Bò một đỗi thì đúng như lời thằng Tư Cụt, ngay ở giữa là khỏang đất trống với bụi cây rậm rạp. Nó đưa mắt quan sát rồi rón rén đi về phía khỏang đất trống. Khi nó tới gần bụi cây thì đột nhiên nó kinh hỏang la lên:

- Ma! Chết con rồi má ơi! Ma!

Rồi nó cắm đầu cắm cổ chạy và rõ ràng trong lúc thần hồn nát thần tính, nó nghe thấy cả tiếng ma đuổi hùynh hụych sau lưng. Khi chạy tới bìa nước nó cố ngóai cổ lại để nhìn cho rõ con ma. Nhưng cái nó tưởng là ma chỉ là cây bần khô chôn vội vã cho nên bất ngờ đổ xụp khi có ngọn gió thổi tới. Sau màn kinh dị này, ngồi ôm lấy ngực một hồi, nó đưa ngón tay lên miệng lẩm bẩm, “Xuỵt! Không được sợ ma nghe! Khi nào gặp ma phải nhớ tới con Hường!”

Có lẽ câu nói tự trấn an đó đã làm nó thêm can đảm cho nên nó lội tới chiếc ghe tìm chiếc xẻng rồi hùng dũng tiến tới khỏang đất trống. Nó vung tay nhổ phăng đám bần khô, quăng ra xa rồi bắt đầu đào. Đào xuống mặt đất khỏang hơn gang tay, chiếc xẻng bắt đầu đụng phải vật gì cưng cứng. Nó mừng rỡ quăng chiếc xẻng qua một bên rồi lấy tay bốc đất. Lát sau nó lần lượt lôi lên từng can dầu rồi khệ nệ xách xuống ghe. Thoáng một cái nó đã chất xuống ghe đủ mười can dầu đúng như lời thằng Tư Cụt.

Mặc dù mệt đứt hơi nhưng nó cảm thầy phần khởi vô cùng. Nó nghĩ chỉ chút xíu nữa thôi khi nó giao xong mớ dầu cho thằng Tư Cụt là nó có thể thong thả chèo về nhà và bao nhiêu mộng đẹp đang chờ đợi nó. Nó từ từ đưa chiếc mái chèo đẩy chiếc ghe ra khỏi bụi rậm rồi men theo mé bờ. Khi đã tới đầu của cù lao, nó cẩn thận tắp vào đám cây rậm rạp rồi lấy đèn pin hướng ra phía cửa biển chớp chớp ba lần. Nhưng trước sự ngạc nhiên của nó, từ phía cửa vẫn không có đốm sáng đáp lại. Nó lo sợ chớp thêm ba lần nữa rồi hồi hộp chờ đợi. Thật hú vía! Tít tắp từ xa bỗng lóe lên đốm sáng chớp tắt ba lần cả thảy. Nó mừng rỡ xiết mạnh tay chèo để tiến về nơi vừa có ánh đèn lóe lên. Khi chèo được khỏang hai trăm thước thì từ trong bóng tối có tiếng gọi cất lên:

- Đực Lớn! Tắp vào đây! Tao đây nè!

Nghe tiếng kêu nó thất kinh hồn vía nhưng khi nhận ra tiếng nói của thằng Tư Cụt thì nó dùng mái chèo hãm đà chiếc ghe lại rồi từ từ tắp vào bờ. Từ trong bóng tối có tiếng chèo khua bì bõm rồi một chiếc ghe nhô ra cùng với tiếng nói:

- ĐM tao biết mày làm được mà. Giỏi lắm Đực Lớn! Nhưng thời gian gấp lắm. Mày ráng chèo theo tao nghe.

Cùng với câu nói đó thằng Tư Cụt đưa chiếc đèn pin hướng ra phía biển chớp chớp ba lần rồi nó lướt chiếc ghe lên phía trước. Lúc này thì cửa sông đã mở rộng mênh mông, từng cụm bần mọc nhô lên tứ phía khiến chẳng còn phân biệt đâu là bến bờ. Thằng Đực Lớn cố bám theo chiếc ghe của thằng Tư Cụt. Nhưng trong khi hai đứa đang cố gắng tìm cách gần tới “con cá lớn” thì từ phía trước tiếng máy tàu bỗng vang lên ầm ầm rồi ánh đèn pha hung hãn quét đi quét lại trên mặt nước. Thằng Tư Cụt hốt hỏang la lên:

- Tắp vào đám bần ngay Đực Lớn!

Nhưng trong khi hai chiếc ghe còn đang loay hoay tắp vào bụi cây thì tiếng máy tàu áp đến thật gần. Tiếng súng nổ ròn rã và tiếng đạn rít trên mặt nước. Không hiểu cái gì đang xảy ra nhưng từ chiếc ghe của thằng Đực Lớn phát ra một tiếng “hự”. Chỉ trong phút chốc chiếc tàu tuần tiễu lướt qua và tiếng máy tàu nhỏ dần, nhỏ dần để lại sự im lặng đến nghẹt thở cho khoảng trời nước mênh mông. Liệu chừng chiếc tàu tuần tra đã đi xa thằng Tư Cụt lên tiếng gọi khe khẽ:

- Đực Lớn! Mày có sao không?

Im lặng, không có tiếng trả lời. Thằng Tư Cụt lại gọi lớn hơn một lần nữa:

- Đực Lớn! ĐM. mày có sao không?

Nhưng thay vì chờ tiếng đáp lại, nó chèo chiếc ghe tiến về phía thằng Đực Lớn. Khi hai chiếc ghe áp sát nhau thì một cảnh tượng khủng khiếp diễn ra trước mắt. Trong khoang thuyền, thằng Đực Lớn nằm ngoẹo đầu sang một bên và một đùm ruột lòi ra ngòai. Thằng Tư Cụt kinh hỏang leo qua chiếc ghe của thằng Đực Lớn rồi bò tới sát bên cạnh nó, hỏi:

- Mày có sao không Đực Lớn?

Thằng Đực Lớn không trả lời, nó từ từ mở mắt rồi từ miệng nó phát ra tiếng rên khe khẽ. Dù nó đang ở vào tình trạng đau đớn khủng khiếp như thế nhưng dưới bóng trăng khuôn mặt của nó trông rất hiền từ. Trước tình thế bất ngờ như vậy thằng Tư Cụt cũng rất bình tĩnh. Nó lấy đèn pin chớp chớp ba lần về phía cửa biển rồi nó hối hả chèo chiếc ghe về phía trước. Khỏang năm phút sau nó nhận ra một đốm sáng ở phía tay phải. Rồi đốm sáng mỗi lúc mỗi lớn dần. Cuối cùng hình dáng một con tàu hiện ra rõ mồn một. Dường như người ta đã nhận ra được chiếc ghe chở dầu cho nên trên con tàu quang cảnh thật chộn rộn. Khi chiếc ghe của thằng Tư Cụt gần áp sát con tàu thì nhao nhao có tiếng hỏi cất lên:

- ĐM, có lấy được dầu không?

- Dầu lấy được đầy đủ nhưng thằng Đực Lớn bị bắn đổ ruột rồi!

Một phút im lặng rồi trên tàu có tiếng cất lên:

- ĐM. đem dầu lên trước rồi tính sau!

Rồi dưới sự giúp đỡ của mấy người, thằng Tư Cụt lần lượt đưa mười can dầu lên tàu. Xong xuôi nó lên tiếng:

- Bây giờ còn thằng Đực Lớn, Anh Ba tính sao đây?

Người chỉ huy trên tàu không ai khác hơn là gã thày thuốc Đông Y. Sau một vài giây suy nghĩ hắn nói:

- ĐM. nếu để nó chết dưới ghe sáng sớm công an phát giác ra thì bể tổ chức. Bay đâu, giúp đưa nó lên tàu. Nếu may nó còn sống thì cho nó vượt biên luôn. Rủi nó chết thì quăng xác nó xuống biển, ông nội công an cũng chẳng biết đâu mà điều tra.

Thế là một người trên tàu được lệnh leo xuống ghe. Thằng Tư Cụt lanh lẹ cởi chiếc áo nó đang mặc rồi lấy tay ấn chùm ruột vào bụng thằng Đực Lớn rồi lấy tấm áo cột quanh bụng nó. Trên mặt chiếc ghe tròng trành nghiêng ngả, phải chật vật lắm hai người mới xốc được nách nó rồi mấy người trên tàu phụ giúp mới có thể kéo được nó lên. Lúc này người thằng Đực Lớn đã mềm như cọng bún và máu đổ ra làm ướt đẫm cái quần lính. Sau khi kéo được thằng Đực Lớn lên rồi, con tàu được lệnh nổ máy hướng ra ngòai cửa biển.

Giờ đây trời đã vào nửa khuya. Vầng trăng đã xế ngang đầu và con gió bắt đầu trở lạnh. Thằng Đực Lớn nằm ngả lưng vào thành tàu. Dưới ánh trăng sáng bạc, đôi mắt nó nhắm nghiền. Bao nhiêu nét căng thẳng, ngờ nghệch biến đâu mất và vẻ mặt nó trông thật man dại, dễ thương. Dường như nó đang mơ màng thiếp đi vào một giấc ngủ thật yên bình cho đến khi thằng Tư Cụt khẽ vỗ vào má nó rồi gọi khe khẽ:

- Đực Lớn! Mày tỉnh lại chưa Đực Lớn?

Nhưng đôi mắt nó vẫn nhắm nghiền khiến thằng Tư Cụt phải vỗ vỗ như vậy đến hai ba lần thì nó mới từ từ, nặng nề hé mở đôi mắt. Trộn lẫn với tiếng rên khe khẽ, nó cất tiếng hỏi:

- Đây là đâu hả anh Tư Cụt?

- Mày đang ở trên tàu vượt biên. Ba ngày nữa tới đảo rồi. Người ta cho mày đi không lấy tiền đó.

- Ba tui là nhân dân tự vệ Cao Ủy đâu có nhận. Qua đó ở mục đảo đó!

- Bây giờ có lệnh mới rồi. Ai cũng nhận hết. Nhân dân tự vệ cũng kể như lính mày hiểu không?

- Vậy hả? Anh có dối tui không anh Tự Cụt?

- Thiệt đó! Tao dối mày làm chi?

- Nếu vậy má tui bả mừng lắm. Bả sẽ không còn chửi tui là đồ vô dụng.

- Ừa, bả sẽ không còn chửi mày là đồ vô dụng nữa đâu. Bả sẽ thương mày, sẽ mãi mãi thương mày!

- Vậy hả anh Tự Cụt?

Nói đến đây dường như thằng Đực Lớn quá mệt cho nên nó lại nhắm nghiền đôi mắt. Giây lát sau nó gắng gượng mở mắt, hỏi tiếp:

- Trên đảo có bán guốc Đakao không anh Tự Cụt?

- Thiếu gì! Cả triệu đôi cũng có.

- Vậy hả? Tui sẽ mua cho con Hường một đôi guốc Đakao.

- Phải, mày sẽ mua tặng nó. Mó sẽ thương mày, sẽ mãi mãi nhớ mày, rồi mày sẽ…

Thằng Tư Cụt định nói tiếp nhưng không kịp nữa rồi. Thằng Đực Lớn sẽ rướn lên một cái rồi đôi mắt nó trợn trừng rồi đầu lật qua một bên. Tới lúc này thì bao nhiêu cái tinh khôn, lưu manh trong con người của thằng Tự Cụt tựa như tảng băng đang tan rã dưới ánh mặt trời. Nó ôm lấy thằng Đực Lớn, rống lên:

- Đực Lớn! Mày đi rồi hả Đực Lớn!

Rồi nó ôm mặt khóc hu hu như một đứa trẻ.

•••••

Giờ đây con tàu đã ra ngòai cửa biển và gió thổi lồng lộng. Như một con chó bị xiềng xích lâu ngày nay được tháo cũi sổ lồng, nó hối hả, háo hức lao lên để gĩa từ vùng đất ngục tù để hướng về nẻo biên cương tự do đang trải rộng trước mặt. Dưới bóng trăng thằng Đực Lớn nằm ngọeo đầu như một người đang say ngủ. Trên trời một cánh sao băng bỗng vụt rơi xuống biển như để tiễn đưa một linh hồn về nơi an nghỉ cuối cùng.


Đào Văn Bình

Đêm Chôn Dầu Vượt Biển /Như Quỳnh

https://youtu.be/00RkS1EEUuw

<<<<<<




Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 01/Apr/2025 lúc 9:28am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 107 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.398 seconds.