![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Chuyện Linh Tinh | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 109 |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23751 |
![]() ![]() ![]() |
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nước Việt Nam bước vào một chương bi kịch mới – không phải của đoàn tụ, hòa hợp, hay hòa bình, mà là bản án tử hình tập thể. Những trại “học tập cải tạo” ngập mùi chết chóc mọc như nấm - hàng triệu thân phận bị đày đọa trong chính quê hương mình. Từ trong tận cùng tuyệt vọng, người dân miền Nam đã lựa chọn một con đường không có lối về: vượt biển, vượt biên – đánh đổi tất cả để tìm lại tự do. Chưa từng có một quốc gia nào trong thời đại hiện đại chứng kiến hàng triệu công dân liều chết ra đi như thế. Từ năm 1975 đến giữa thập niên 1990, theo các báo cáo của Liên Hiệp Quốc và các tổ chức nhân đạo, có hơn 2 triệu người Việt Nam tìm cách vượt biển. Và trong số đó, ít nhất 250.000 người đã chết – chết vì đói khát, vì bão tố, vì máy tàu chết máy, vì bị hải tặc giết hại, hoặc vì trôi dạt vô vọng giữa đại dương không bến bờ. Họ là những người dân vô tội, là học sinh, sinh viên, là thầy cô, bác sĩ, binh lính, công chức, những con người từng sống giữa phố xá văn minh của Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng… Giờ đây chui rúc dưới khoang tàu đánh cá chật hẹp, hôi hám, rỉ nước, không một bảo đảm, không một cứu hộ, chỉ mang theo một niềm hy vọng mong manh: thoát khỏi bóng tối cộng sản. Trên những chuyến tàu định mệnh, thảm kịch không chỉ đến từ thiên nhiên mà còn từ lòng người. Hải tặc Thái Lan và Mã Lai đã trở thành ác quỷ đội lốt người. Nhiều tàu người Việt bị chúng đuổi theo, giết đàn ông, bắt cóc hoặc hãm hiếp phụ nữ ngay trước mắt cha mẹ, chồng con. Có em bé mới 12 tuổi bị cưỡng hiếp đến chết. Có bà mẹ bị đánh gãy tay khi van xin tha mạng cho con gái. Có người phụ nữ sau khi bị làm nhục đã nhảy xuống biển tự vẫn. Một số câu chuyện vẫn còn khắc sâu vào trí nhớ cộng đồng người Việt hải ngoại. Gia đình anh Lê Văn P. ở Vũng Tàu – gồm 6 người – lên ghe nhỏ vượt biển năm 1979. Khi tàu chết máy giữa biển Đông, không còn lương thực, mẹ anh đã cắt cổ tay mình pha với nước biển cho con uống đỡ khát. Cả 6 người chết vì mất nước, xác dạt vào bờ Mã Lai 12 ngày sau. Hay chuyến tàu tại Rạch Giá năm 1980, bị hải tặc cướp ba lần. Toàn bộ đàn ông bị ném xuống biển. Những cô gái từ 10 đến 20 tuổi bị hãm hiếp, sau đó bị giết hoặc mất tích. Duy chỉ một cô bé tên My sống sót nhờ trốn được trong hầm máy suốt 5 ngày, đến khi được tàu buôn Đức cứu. Có người lính Biệt Động Quân, sau khi ra tù cải tạo, cùng vợ con vượt biển năm 1982. Ông sống sót nhưng mất vợ và hai con gái khi tàu lật gần đảo Palawan. Mỗi năm, ông vẫn đến bờ biển San Diego đốt nhang cho “nấm mộ vô hình” của người thân. “Tôi không bao giờ nghĩ là" Nhưng ông không hiểu – chính ông và những trò chơi địa chính trị lạnh lùng đã ném hàng triệu người vào địa ngục. Ngày nay, hàng triệu người Việt tị nạn cộng sản đã xây dựng lại đời mình trên đất mới – từ Mỹ, Úc, Pháp, Canada đến Đức, Na Uy… Họ là bác sĩ, giáo sư, doanh nhân, nghệ sĩ, là thế hệ thứ hai vươn lên từ đau thương. Nhưng vết sẹo trong tâm hồn cha ông họ vẫn còn đó – như nỗi nhức nhối không bao giờ lành. Bia mộ không tên dưới đáy biển Đông. Những đứa trẻ chết đói trong tay mẹ. Người vợ ôm xác chồng giữa mênh mông sóng nước. Những bóng người trong đêm tối bơi qua sông biên giới Campuchia, bị lính cộng sản bắn gục trong im lặng. Đó là lịch sử – không ai được quyền lãng quên. Cuộc vượt biên vĩ đại sau 1975 không chỉ là một cuộc di cư – đó là bản cáo trạng hùng hồn nhất đối với một chế độ đã khiến hàng triệu người dân phải trốn chạy chính quê hương mình. Và dù những con tàu đã chìm, những xác người đã mục, những tiếng kêu cứu đã tắt – ký ức ấy vẫn sống mãi. Trong lòng biển. Trong trái tim những người còn sống. Và trong lời nguyền lịch sử chưa bao giờ nguôi. ************* April 30 – The Great Exodus by Sea: A Nation’s
Journey Through Blood and Tears. After April 30, 1975, Vietnam entered a new and
harrowing chapter of its history – not one of reunion, reconciliation, or
peace, but of m*** death sentences, of “reeducation camps” reeking of despair
and death, and of millions cast into exile in their own homeland. From the
depths of hopelessness, the people of South Vietnam chose a path with no
return: fleeing by land and sea-sacrificing everything for one desperate hope:
freedom.
Never before in modern history had a nation
witnessed millions of its own citizens risking death to escape their country.
From 1975 to the mid-1990s, according to reports by the United Nations and
humanitarian organizations, over 2 million Vietnamese attempted to flee by sea.
At least 250,000 perished – lost to hunger, thirst, storms, engine failure,
pirate attacks, or simply vanishing into the vast, indifferent ocean. These
were not criminals or deserters – they were students, doctors, teachers, civil servants,
soldiers, mothers and fathers – people who once walked the civilized streets of
Saigon, Huế, and Đà Nẵng. Now they huddled below deck in leaking fishing boats,
suffocating in stench and fear, with no guarantees, no rescues – only the faint
glimmer of escaping the communist abyss. On these ill-fated voyages, the tragedy came not
only from nature, but from the cruelty of mankind. Thai and Malaysian pirates
became devils in human form. Countless Vietnamese boats were chased, their men
slaughtered, their women kidnapped or raped before the helpless eyes of
fathers, husbands, and children. A 12-year-old girl was raped to death. A
mother had her arms broken begging for mercy for her daughter. One woman, after
being brutalized, leapt into the sea to end her torment. These horrors are carved into the memory of the
overseas Vietnamese diaspora. One such story: The Lê Văn P. family from Vũng
Tàu – six people – set off in a small boat in 1979. When the engine died and
food ran out in the South China Sea, the mother slit her own wrist, mixing
blood with seawater to quench her children’s thirst. All six perished. Their
bodies washed ashore in Malaysia twelve days later. In another, a boat from Rạch Giá in 1980 was
attacked three times by pirates. All the men were thrown overboard. Girls aged
10 to 20 were raped and then murdered or vanished. Only one survivor – a girl
named My – hid in the engine hold for five days before being rescued by a
German merchant ship. Or the Airborne Ranger veteran who, after years
in a reeducation camp, escaped by sea with his wife and two daughters in 1982.
He survived. They did not. The boat capsized near Palawan. Every year, he burns
incense on the shores of San Diego – for the “nameless grave” that is now the
sea. What’s even more heartbreaking: while the
victors beat their chests and proclaimed “liberation,” the vanquished were
erased from the land of their birth. No household registration. No jobs. No
education. Only surveillance, discrimination, and prison. From the cities to
the countryside, the fear of “background checks,” of “blacklists” haunted every
former soldier and public servant. Fleeing became the final scream of a people
cornered into silence. Even Henry Kissinger – the architect of the 1973
Paris Accords – coldly admitted: “I never thought the Vietnamese would want to
leave their country so badly.” But he didn’t understand – it was he, and the
cold-hearted games of geopolitics, who condemned millions to hell. Today, those who survived the communist exodus
have rebuilt their lives across the globe – from America, Australia, France,
and Canada to Germany and Norway. They are now doctors, professors,
entrepreneurs, artists. A second generation rises from the ashes. But the
wounds in the souls of their parents remain – raw and unhealed. Tombstones
without names lie at the bottom of the South China Sea. Starving infants died
in the arms of their mothers. Wives clutched the bodies of their husbands in
the endless, silent waves. Shadows of fugitives swam across the Cambodian
border at night, only to be gunned down by communist guards with no witness. This is history – not a tale to be forgotten. The great exodus after 1975 was not merely a
migration. It was a damning indictment of a regime that drove its people to
flee the very soil they once called home. And though the boats have sunk, the
bodies have rotted, and the screams for help have faded into silence – the
memory lives on. In the ocean’s depths. In the hearts of the living. And in the eternal curse of history that will
never be silenced. ── ● ── THUY TRANG Nguyen |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23751 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23751 |
![]() ![]() ![]() |
Lính TrậnHình minh họa Phi trường trực thăng Bình Liên nằm gần sát quốc lộ 1. Đây là một phi trường dã chiến để chuyển quân hay tiếp tế cho các đơn vị hành quân trực thuộc sư đoàn 2 bộ binh. Thường thường bất cứ lúc nào, sáng, trưa, chiều, tối, hay trong đêm khuya khoắc, khi có lệnh ''bốc'' hay ''súp lay'', là y chang chỉ 5-10 phút sau là có tiếng cánh quạt trực thăng vù vù xé gió. Trong chớp nhoáng, những chiếc trực thăng, tùy theo mỗi công tác, hoặc UH1B chuyển quân hay Gunship tấn công, sẽ có mặt ngay tại chỗ ''bốc''. Hoán được xe tiếp tế của tiểu đoàn chở anh đến đây để đợi có chuyến bay là lên vùng hành quân. Anh ra trường mới được hơn 20 ngày, nghỉ phép được 10 ngày về thăm nhà, thăm vợ con, xong anh đến trình diện sư đoàn, được bổ sung về trung đoàn 6 bộ binh, rồi xuống tiểu đoàn tác chiến, tiểu đoàn đang hành quân trên miệt núi Tròn, Sơn Tịnh. Buổi sáng nay, anh đã thức dậy sớm để vào hậu cứ, ba lô súng đạn trên vai, anh theo xe tiếp tế vào phi trường Bình Liên để lên vùng chiến trận. 2 năm học tập ở một quân trường hiện dịch, đến ngày ra trường, bạn bè anh ai cũng nhốn nháo tìm những đơn vị lẫy lừng như dù, thủy quân lục chiến, biệt động quân để về, đến phiên anh lên chọn đơn vị, chỉ còn lại các sư đoàn và tiểu khu, anh đành chọn sư đoàn 2, trong lòng anh ít ra cũng có một chủ đích, là được gần nhà, mỗi lần hành quân về dưỡng quân, anh có thể về thăm mẹ và vợ con anh, sống với mẹ, trên căn nhà cũ bị chiến tranh cày xới, đổ nát, nhưng ít ra, anh cũng tìm được một chỗ nương tựa êm đềm. Ngày ra trường, ông tướng chỉ huy trưởng nói: - Các anh là sĩ quan hiện dịch, các anh phải tỏ rõ khí phách của mình, chỉ có đơn vị tác chiến mới là nơi tôi luyện cho một sĩ quan chỉ huy đầy đủ năng lực. Máu, nước mắt và sự cực khổ ở chiến trường sẽ làm giàu thêm kinh nghiệm của các anh. Muốn làm sĩ quan chỉ huy các anh hãy tự thắng mình và hãy bắt đầu từ một người lính tác chiến'. Lời của ông tướng nghe ra cũng đúng. Chiến trường là nơi tôi luyện tốt nhất cho các sĩ quan chỉ huy,anh không thể là người chỉ huy giỏi khi anh chỉ là một sĩ quan ở văn phòng hay tiếp vận. Không có khổ cực nào hơn khổ cực của một người lính tác chiến, ngày đêm luôn luôn đối diện với địch quân, băng rừng, vượt suối, phục kích, trinh sát, viễn thám, gài mìn, đào hầm, canh gác, tất cả công việc của một người lính tác chiến đầy ứ,thở không ra hơi, ăn không đúng bữa, có nhiều lúc ăn chỉ toàn đồ hộp, cơm sấy, không có một chút chất tươi nào và cái bi thảm nhất là sự cận kề với nổi chết, cái chết rình rập đến không biết lúc nào. Quảng Ngãi, một nơi không hấp dẫn gì mấy với đám lính sư đoàn, Quảng Ngãi với các địa danh: Sơn Hà, Trà Bồng, Sơn Tịnh, Nghĩa Hành, Minh Long, Ba Tơ, đâu đâu cũng đầy ắp những đe dọa, hiểm nguy. Ba Gia, Đồng Ké, nơi anh đã nghe các trận ác chiến giữa hai bên, khi anh còn là chú bé con mài đủng quần trên ghế nhà trường, bây giờ thì anh thực sự đối diện với chiến trường nơi đây. Trước khi lên xe để lên vùng hành quân, người hạ sĩ quan chỉ huy hậu cứ đã nói: - Tiểu đoàn ta đang hành quân ở núi Tròn, bây giờ thiếu úy vào sân bay Bình Liên để theo chuyến tiếp tế lên đó. Thật ra, dù đi lính, và đã được tôi luyện tại một trường hiện dịch sừng sỏ nhất nhì quân lực, với những lần tập sự hành quân dã ngoại vô cùng cơ cực như hành quân thật vậy, nhưng nó vẫn là giả, vì dù sao trong đầu óc anh cũng có những ý nghĩ về sự an toàn. Anh chưa nghĩ được đến một vùng hành quân sẽ ra sao, hiểm nguy đến mức độ nào. Anh cũng vẫn có những tư tưởng lãng mạn về một người lính tác chiến với bao nhiêu nét đẹp của sự oai hùng, hào hoa, như những bài hát ca tụng tình anh lính chiến của các nhạc sĩ đương thời. Anh vẫn nghĩ anh là sĩ quan, sẽ được phát súng colt, được phát ống dòm chỉ huy, không mang ba lô, đạn dược gì ngoài cái bản đồ và máy truyền tin có người “tà lọt” mang. Nhưng khi lãnh vũ khí, quân trang, người hạ sĩ quan tiếp liệu nói: - Đại úy tiểu đoàn trưởng không cho phát súng colt cho các sĩ quan đại đội lẻ, đã ra đơn vị đại đội ai cũng phải mang M16 hết, mà cũng đúng vậy thiếu úy, cầm M16 và đủ cấp số đạn thì yên tâm lắm, có địch là xử dụng ngay, M16 và lựu đạn mới là công dụng thiết thực của chiến trường, thiếu úy tin tôi đi. Phi trường Bình Liên buổi sáng thật đìu hiu, chỉ có tốp lính đứng ngồi la liệt ở bãi đáp và những người lính tiếp tế lo khuân vác những bao hàng được mua từ hậu cứ. Những ration C, những thùng mì ăn liền... Hoán thấy lòng nao nao khôn tả, ngày hành quân đầu tiên là một ngày đáng nhớ, dù là sĩ quan, với chiến trường, anh cũng vẫn chỉ là chú lính mới tò te. Đúng 10 giờ thì máy bay tới, những chiếc trực thăng nhìn đàng xa như một chấm đen bỗng xuất hiện thật ồn ào, cánh quạt bay vù vù lướt gió, mọi người đều xoay lưng lại để tránh gió và khi trực thăng vừa chạm đất thì đám lính xô nhau chạy leo lên. Súng ống được đưa lên trước rồi từng người nhảy lên sau, gió ào ạt theo cánh quạt xoay vòng, tiếng gọi nhau ơi ới như từ xa vọng lại. Khi người lính cuối cùng vừa nhảy lên thì trực cũng rùng mình cất cánh, Hoán ngồi lọt thỏm vào trong giữa sàn máy bay, còn tụi lính, như đã quen cảnh này, chúng ngồi ra sát ngoài và chỉa súng xuống đất. Trực thăng bốc lên cao, nhìn từ trong ra, thật là hàng hàng lớp lớp những mái nhà, đường sá cầu cống, và giòng sông Trà Khúc êm đềm trôi phía dưới như không có cuộc chiến tranh nào đang xảy ra hàng giờ, hàng ngày trên mảnh đất nầy. Hoán từ lòng máy bay trực thăng nhìn ra cảnh núi đồi bạt ngàn. Trường Sơn, Trường Sơn là đây, là dãy núi dài của quê hương, như cái đòn gánh oằn lên vai mẹ. Những đám khói tỏa ra từ những rặng núi xa, đến những đám khói gần của các đơn vị quân đội dưới đất thả lên làm ám hiệu, đánh dấu chỗ cho trực thăng đổ quân. Chiếc trực thăng chao nghiêng, lượn vòng vèo sát bên sườn núi. Những trực thăng gunship bay theo hộ tống bắt đầu nã đạn xuống hai bên triền núi. Tiếng rốc kết nổ ì ầm phá vỡ một khoảng không gian im lặng, làm bùng lên trong lòng Hoán một sự thực là anh đang đi vào vùng lửa đạn, bắt đầu từ bây giờ, khi những trái đạn rốc kết bùng lên, anh như thấy mình đã nhập cuộc, vào một cuộc chơi, dấn thân tàn khốc, bi thảm hay hào hùng đang sẳn sàng đợi chờ anh, cửa ngõ tương lai của một người lính trận. Chiếc trực thăng bay lướt theo hai triền núi thoai thoải, đảo một vòng và bay là là đến chỗ có dấu hiệu đám khói. Hoán nhìn rõ trên núi. Những đám lính nón sắt, balô, cầm M16 đang lố nhố, trực thăng quay tít lại và đậu ngay ở một đám đất trống đã khai quang. Chỉ trong nháy mắt, đám lính nhảy ra từ cao độ khoảng 3m, đồ tiếp tế được hất xuống, xong chiếc trực thăng bay vù lên thì cùng lúc những loạt đạn pháo kích của địch quân ì ầm xô tới, toán lính chạy vào sườn núi trú ẩn, đạn pháo ta bắt đầu bắn trả. Hoán được phân chia về đại đội 3. Đại đội 3 đang hành quân dưới chân núiTròn. Đại úy Châu,tiểu đoàn trưởng, xuất thân khóa 22A trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, ra trường đâu mới 2 năm mà Nguyễn Long Châu đã lên 2 cấp và được đề bạt giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng. Người gầy đét, cao lênh khênh, mang đôi kính cận dầy, trông Châu như một nhà thơ hơn là một sĩ quan tác chiến, tưởng vậy nhưng không phải vậy, khi đụng trận mới thấy rõ được sự bình tĩnh của Châu, vừa cầm ống liên hợp để điều động “con cái”, vừa coi bản đồ để xác định tọa độ của ta, bạn và địch, vừa báo cáo về bộ chỉ huy trung đoàn,Châu rất bình tỉnh, gan dạ và sáng suốt. Hoán được 1 người lính dẫn đường về đại đội 3, toán lính về bộ chỉ huy tiểu đoàn nhận tiếp tế và đưa Hoán đi. Hoán thật bỡ ngỡ với đám lính,không biết phải xưng hô thế nào, khi nhìn những người lính người nào cũng lớn hơn anh, nhưng đã là quân đội, thì cấp bậc và chức vụ là trên hết. Người lính được lệnh tới dẫn Hoán đi, tới trước mặt chàng chào và lễ phép nói: - Trình thiếu úy, em ở đại đội 3, được lệnh của trung úy đại đội trưởng, em lên đưa thiếu úy về đại đội. Hoán mang ba lô, cầm súng, đạn lên nòng và bắt đầu đi theo người lính. Bộ chỉ huy tiểu đoàn đóng trên một ngọn đồi cao, ở đây có thể nhìn xuống khu Ba Gia Đồng Ké, nơi nổi tiếng với những trận đánh của sư đoàn 25 bộ binh, những trận đánh được ghi vào quân sử và địch quân chết để lại không biết bao nhiêu là xác cùng quân trang, quân dụng. Núi Tròn là một ngọn núi nằm lẻ loi, tách ra khỏi dãy Trường Sơn, ngọn núi không cao, như một quả đồi trọc, địch quân lợi dụng địa thế nầy, chúng đào hầm trên núi và đêm đêm mò xuống khu dân cư phía dưới hoạt động. Ở một vùng đất mà địch và dân không phân biệt được, đó là lợi điểm của địch, chúng len lỏi, cải trang, dùng đủ mọi kế sách để đánh quân ta, nên nhìn bề ngoài, những người dân thấy quân ta thì đon đả mời chào, nhưng quay đi, quay lại, họ sẽ cầm mã tấu, rựa hay dao mác chém vào ta lúc nào không hay. Mấy ngày đầu, Hoán nhớ Uyên dễ sợ. Hôm anh về phép ra trường chỉ được 10 ngày thôi, anh sống với Uyên và con trọn vẹn 10 ngày. Đứa con gái Uyên mới sinh được đâu 3 tháng. Hoán và Uyên yêu nhau đã lâu, ngày anh ở quân trường, Uyên từ miền Trung vào thăm, những ngày phép anh ra với Uyên, hai người sống với nhau thật hạnh phúc, nhưng thời gian ngắn ngủi quá, sau chuyến về Uyên viết thư lên nói: “Em mất kinh đã một tháng nay, chắc là dính bầu quá anh ơi!” Anh viết thư trả lời: “Em đừng lo, con của anh, anh sẽ về cưới em.” Nhưng anh chưa ra trường thì Uyên đã sinh cho anh một đứa con gái, gia đình hai bên đều thương nên cũng chẳng la rầy gì, như vậy đó, anh đã có con, thương Uyên và con quá, nhưng lính tác chiến thì có thời giờ đâu nhiều để gần nhau. Về đại đội tác chiến là phải đương đầu với địch quân, Ba Gia Đồng Ké nầy là vùng xôi đậu, dân là dân thường, ban đêm khi lính rút vào đồn thì bọn nằm vùng lò dò về hoạt động nên dân không dám ngã về phe nào. Có cảnh buổi sáng khi lính vô làng hỏi những thiếu nữ, những thiếu phụ: “Chồng chị đâu?” thì được trả lời: “Chồng đi lính quốc gia, trung đoàn 5, đóng tuốt ngoài Tuần Dưỡng hai ba tháng mới về một lần”. Đám lính biết là nói xạo nhưng cũng chỉ nghe cho qua. Có đứa đi hành quân ba bốn tháng, lội suối, băng rừng nên thèm đàn bà rỏ dải, bọn lính mon men đến những nhà có đàn bà sồn sồn gạ gẫm, thừa lúc những buổi trưa nắng chói chan ngoài vườn, tiếng chim cu gáy trong lùm tre kêu cúc cù cu, xóm làng yên ả, người đàn bà nằm trên võng ru con ngủ, đứa con nhai vú mẹ và ngủ say, người lính bước vào nhà nói mấy câu xã giao, rồi sấn lại ôm chầm người đàn bà hôn hít. Người đàn bà không chống cự nhưng cũng làm ra ta đây, đừng anh, đừng anh, kỳ quá! Nhưng đến khi người đàn bà bị kích thích đến độ, làm bộ nói với người lính: Đồ quỷ nà, làm như chết thèm bảy mươi đời vương không bằng, để tui đặt con xuống vỏng đã. Khi người đàn bà vừa đặt con xuống võng, thì người lính lôi ngay lại chiếc giường tre gần đó, và nằm đè lên ngay. Ba bốn tháng không có đàn bà khiến nó ứ lên tận cổ, còn người đàn bà ở vùng xôi đậu thì chuyện nầy là “chuyện thường ngày”,hết lính sư đoàn ban ngày thì ban đêm mấy “trự” du kích trên núi về cũng kéo vào hầm “làm” ngay dưới đất. Cái bất chợt như vậy mà sướng điên người, cảm giác không thể nào tả nổi, nên phần đông con cái được sinh ra ở đây không biết cha là ai, nên được gọi là “con tự túc”. Đã 2 tháng, Hoán bắt đầu quen với không khí hành quân, quen ăn cơm gạo sấy và thức ngủ không chừng. Anh được phân làm đại đội phó, nên thường chỉ huy một cánh quân,đại đội trưởng chỉ huy một cánh. Đại đội trưởng nhận lệnh từ tiểu đoàn, anh nhận lệnh lại của đại đội trưởng. Anh có một thằng tà lọt lo đào hầm, treo võng, căng poncho mỗi tối đi ngủ, một thằng truyền tin nằm ngủ sát bên luôn luôn trực máy, có gì là báo anh ngay. Anh quen chuyện cùng lính đi “phục” buổi tối, cho gài mìn claymore phòng thủ, quen chửi thề và đánh mấy thằng lính ba gai, trễ phép. Thật ra trong tâm anh không bao giờ muốn hành hạ lính nhưng ở một đơn vị tác chiến mà hiền quá thì tụi lính qua mặt vù vù. Nửa đêm, anh đang ngủ ngon giấc thì thằng lính truyền tin đập vào võng anh: - Thiếu úy, thiếu úy, có lệnh của thẩm quyền. Hoán vụt dậy và cầm lấy ống liên hợp: - Trình thẩm quyền, đích thân nghe 5/5. Tiếng trung úy đại đội trưởng bên kia ra lệnh: - Có lệnh của Bạch Long, cho con cái gọn gàng trong 10 phút, có trực thăng tới bốc nhảy diều hâu vào làng, có tin bọn nằm vùng về họp, phải thi hành gấp và có chi tiết gì sẽ báo sau. Hoán đáp: - Trình thẩm quyền, đích thân nghe rõ. Hoán đưa ống nghe cho thằng lính truyền tin và gọi mấy người hạ sĩ quan tiểu đội trưởng dậy, ra lệnh, phân công. Đám lính tất cả đều thức và xếp gọn gàng đồ ngủ cũng như lương thực. 10 phút sau, tất cả sẳn sàng, ba lô, nón sắt, súng đã lên nòng ngồi im trong bóng tối của núi rừng Sơn Tịnh chờ đợi, chờ đợi trực thăng đến bốc. Khoảng 20 phút sau, hàng đàn trực thăng vù vù bay đến. Tiếng gầm rú xé trời. Tất cả đại đội ra tập trung ở bãi đất trống đã được chọn trước.Trực thăng đáp xuống nhanh và bốc đi từng trung đội một, Hoán lên chiếc trực thăng đầu tiên cùng trung đội viễn thám, đại đội trưởng sẽ theo trung đội 3, đi chuyến chót. Lệnh hành quân được ban ra là cả tiểu đoàn được chia làm 4 mũi, nhảy thẳng vào làng phía dưới núi Tròn. Có tin của phòng 2 sư đoàn cho biết là ban bí thư huyện ủy Sơn Tịnh đang về họp trong một nhà dân, chiến thuật diều hâu là đánh chớp nhoáng, như con diều hâu từ trên không nhào xuống bắt gà con vậy. Tất cả tiểu đoàn sẽ áp sát 4 mặt và xung phong vào nhà dân, tất cả thanh niên, đàn ông chạy ra đều bắt hết, không tuân lệnh đứng lại sẽ bị bắn chết ngay tại chỗ. Đêm mù tối mịt mùng, tiếng cánh quạt trực thăng ì ầm, trực thăng lượn sát vào những xóm nhà và ngừng lại đổ quân. Hoán nhảy xuống với toán viễn thám đầu tiên và tấn công thẳng vào những căn nhà âm u trong đêm tối. Toán quân của anh không gặp sức kháng cự nào, tất cả thanh niên đàn ông chạy ra đều bị bắt, toán lính lục soát căn nhà có địch nằm vùng về hội họp. Bọn địch thường dùng hầm bí mật để lủi xuống trốn mỗi khi có nguy ngập. Đêm tối mịt mùng, từng đám lính cầm cái chỉa đi xoi hầm. Lính tác chiến đã quen với cảnh nầy, xoi những chỗ nghe nhẹ tay hay gỏ trên nền đất nghe vang âm âm là biết phía dưới làm gì cũng có hầm bí mật. Một người lính cầm đèn pin và cây chỉa xoi vào khoảng đất trống trong căn nhà và nói lớn: - Trình thiếu úy, chắc hầm bí mật chỗ nầy quá. Hoán ra lệnh: - Tất cả dang ra. Hoán đi tới cùng người truyền tin, vừa đưa đèn pin quét một vòng khoảng tối mờ thì bất chợt từ một khoảng đất trống như vỡ ra, một bóng người từ dưới đất vọt lên, mấy người lính nói cùng một lúc: - Coi chừng Việt cộng, thiếu úy. Hoán chưa nghe hết câu thì một loạt súng nổ, anh bị nhói một bên hông và thấy trời đất trước mặt tối sầm lại, anh ngất đi, không còn biết gì nữa cả. Đó là lần bị thương đầu tiên trong cuộc đời lính trận của anh. Hôm đó, tên Việt cộng bị bắn gục ngay tại chỗ. Sau lần bị thương, anh trở về đơn vị cũ, về đại đội cũ, lên làm đại đội trưởng, thay thế cho đại đội trưởng trước về làm tiểu đoàn phó. Cuộc chiến bắt đầu ác liệt, và anh cũng bị thương mấy lần nữa. Hằng đêm, nằm trên võng, mở radio bỏ túi nghe chương trình Dạ Lan, giới thiệu những ca khúc hát cho lính ở miền xa, rồi giọng Hùng Cường cất lên: “Lạy Chúa con là lính trận ngoài biên, vì xa thành phố, xa quá nên quên...” Hoán nghe mà nhớ Uyên và con quá đổi.
TRẦN YÊN HÒA |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23751 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23751 |
![]() ![]() ![]() |
Tình Chiến Hữu: Chiếc Xe Lăn![]() I. Nhìn qua cửa kính từ bồn rửa tay, bệnh nhân đã được tiền mê. Nhân viên phòng mổ đang chuẩn bị dụng cụ. Tôi dùng vai bên phải đẩy cửa bước vào. Một cô y tá choàng áo cho tôi, rồi đeo găng tay. Luôn luôn là latex số bảy rưỡi. Anh nhân viên gây mê nhìn tôi, nhẹ nhàng nói qua khẩu trang: “Chờ ông”. Dưới ánh đèn sáng rực, tôi nhìn lại một lần cuối đầu gối bên phải của bệnh nhân. Cần phải cắt bỏ một phần ba dưới xương đùi và làm lại mỏm cụt. Sau đó, mới có thể lắp ráp chân giả vào được. Không phải ca mổ cấp cứu nên anh em trong toán phẫu thuật có thể hỏi nhỏ nhau: “Sao để lâu vậy nhỉ.” Không có điều kiện. “Thế ban đầu bị cái gì.” Mìn nổ, bay mất hai cẳng chân, chuyển từ tiền phương về trong tình trạng shock. Bác sĩ lúc đó chỉ có thể tháo khớp gối cứu mạng. Không ngờ bệnh viện đóng cửa, để luôn cho đến nay. “Đau lắm nhỉ.” Ừ không hiểu sao bệnh nhân chịu đựng nỗi. Periosteol, màng xương, là vùng chịu cảm giác đau nhiều nhất. Chuẩn bị và săn sóc thì lâu nhưng ca mổ chỉ kéo dài khoảng 45 phút là xong. Tôi bước ra ngoài, viết hồ sơ bệnh án và thuốc men hậu phẫu. Xong thay áo bước xuống khu hồi sức. Bên ngoài nắng đã lên rất cao. ll. Bác Bảy đánh cộp cốc rượu xuống bàn, hít sâu một hơi thuốc lào. Nhả khói, rồi lên giọng: “Mẹ kiếp! Ông là trung sĩ thủy quân lục chiến, lữ đoàn đóng ở Mỹ Chánh, bảo vệ phía bắc Huế. Đang chỉ huy tiểu đội đuổi theo môt toán Sao Vàng thì mìn nổ. Nó hất tung ông lên tuốt trời xanh. Khói và cát bay mù mịt, thằng em chạy bên cạnh cũng lãnh đạn như thế. Xong chẳng biết gì nữa. Tỉnh dậy trong hầm bệnh viện dã chiến, nghe loáng thoáng các bác sĩ bảo nhau: ‘Bên trái cưa, bên phải tháo khớp. Chờ trực thăng đưa về sau.’ Rồi ông lại mê tiếp. Chẳng thấy đau đớn gì cả. Có lẽ mấy thằng em lụi morphine nhiều quá. Chỉ buồn ngủ. Người lả đi như con bún. Ngo ngoe không nỗi một ngón tay!” Đám thanh niên trong quán chăm chú lắng nghe. Đa số là thanh niên xung phong, đi vùng kinh tế mới. Buổi tối tụ tập, thắp đèn dầu ngồi lai rai với nhau. Có thằng hỏi tiếp: - Rồi sao bác về đây? - Hộ khẩu. - Nghĩa là sao? - Là hậu khổ. Thằng này ngu quá! Chính quyền bắt về địa phương cư trú. À, ông chưa kể xong, mày cứ cắt ngang hông. Còn rượu không. Rót! Không khí vui hẳn lên, giữa đám đông nghèo cùng cực của vùng núi non heo hắt. Mới tám giờ tối. Khí lạnh đã bao trùm cả vùng đồi hoang sơ Tiên Lãnh này. Ban ngày, họ lên rừng cắt dây mây, ôm lại thành từng bó; chiều đem về đếm lại cho hợp tác xã mây tre. Những người không lao động được thì chẻ, gọt, tước ra thành từng sợi nhỏ. Nhóm khác thì đan lại thành những cái quạt, cái đập bụi, ghế mây. Nghe nói nhà nước xuất cảng qua tận Liên Xô! Bác Bảy cao hứng kể tiếp. - Rồi chẳng có trực thăng gì ráo. Tối hai lăm tháng ba, ông được xe cứu thương chở về bệnh viện Mang Cá, Huế. Họ chuyền máu, thuốc men, nói vài hôm sẽ chuẩn bị mổ lại. Súng đạn vẫn nổ ầm ầm ngoài xa. Chiều hôm sau, mở mắt thấy cả khu bệnh xá vắng vẻ lạ thường. Nghe mấy ổng đã quyết định bỏ Huế. Ngồi dậy, choáng váng lắm. Một tay trung uý quân y. Bơ phờ. Có lẽ suốt cả tuần làm việc không ngủ. Cái tay này được lắm. Dễ thương hết sức. Ở lại với thương binh đến giờ phút chót. Cái giờ thứ 25 ấy, bọn bây chả hiểu gì đâu. Rồi sao nữa- Bọn trẻ lao nhao hỏi: - Tay bác sĩ bế ông lên chiếc xe lăn duy nhất còn lại, rồi đẩy vội ra ngoài sân. Cứ vài ba phút lại có tiếng hoả tiễn, đại bác bay lạc qua đầu. Không khí đầy mùi pháo, mùi thuốc súng, một y tá nhét ông lên xe dodge rồi cùng nhiều bệnh nhân khác chạy xuôi về Nam. - Thế gia đình bác đâu? - Tán loạn, biết đâu mà tìm, hỏi cắc cớ! Làm tiếp một điếu thuốc lào nữa, lim dim đôi mắt, ông chậm rãi kể: - Mất hai ngày mới vượt qua đoạn đường trăm cây số. Đến được Đà Nẵng, gặp gia đình vài ngày thì cái thành phố này tiêu luôn. Thật là khỉ gió! Chưa đánh nhau đã tan hàng. Coi như ông gãy súng. Rồi ông hề hà: - Có chiếc xe lăn, đỡ lắm, ban ngày ông nấu cơm, lo việc nhà. Cho đến khi nhà nước bảo phải đi kinh tế mới lập nghiệp. Lưu lạc nơi này. Ấy, mới có chuyện kể các chú nghe. lll. Bác Bảy đến tìm tôi một chiều mưa, quán cà phê nhỏ vàng vọt ánh đèn dầu vắng khách. Co ro và rút người vào trong tấm áo mưa, hai tay chầm chậm giữ xe đứng yên, chiếc xe lăn là tài sản cuối cùng ông có được sau cuộc chiến. Bác lúi húi moi ra một điếu thuốc lá. Nhẹ nhàng để trong lòng bàn tay tôi và nói: - Nhờ bác sĩ, mỏm xương đùi đã hết đau. Từ từ sẽ kiếm cách đi chân giả hoặc đeo nạng gỗ. Có chút chuyện gia đình, cho phép được không? Tôi mỉm cười, lấy điếu thuốc châm lửa cho ông vui lòng. Gió chiều hôm ấy rất lạnh. Có những hạt mưa phùn bay lất phất qua hàng hiên. Miền Trung vào mùa đông thường mưa và lạnh kéo dài cả tháng. - Giúp được gì, tôi sẽ gắng. Ngần ngừ một lát, ông nói: -Tôi cần tiền. Muốn bán cái xe lăn này. Tôi cắn chặt điếu thuốc, nó chợt như muốn rớt. Cái cảm giác tê rần trên môi và cay cay trong mí mắt. Nhìn thẳng vào mắt ông, đôi mắt vẫn sáng rực sức sống. - Nhưng nó là đôi chân của bác. Tôi bảo. - Cả tuần rồi, sáng đi ra chợ Cồn, chiều về tay không. Chả có ma nào dám mua. Tôi biết bác sĩ có nhiều bệnh nhân trong thành phố. - Rồi sống làm sao khi không có nó? Tôi sẽ có cách. Tôi sẽ không chết, nhưng cả gia đình tôi chẳng sống được vì hết gạo. Bọn nhỏ cháo cả tháng nay. Ngày một bữa. Đói rã người! lV. Nhớ lại có bệnh nhân người Hoa ở cuối phố. Vỡ mạch máu não. Liệt nửa người đã hơn mấy năm nay, chữa trị thế quái nào mà hồi phục được. Gia đình cần xe lăn. Một phần cho dễ dàng trong cuộc sống, một phần để đưa vào Sài Gòn, gặp phái đoàn phỏng vấn đi đoàn tụ nước ngoài. Cũng âu do duyên nghiệp. Thế là tôi cho địa chỉ bác Bảy để họ thương lượng nhau. Gia đình người bán vui, có tiền mua gạo qua cơn bĩ cực. Người mua cũng vui. Chỉ có tôi và bác Bảy ngỡ ngàng nhìn nhau. Không nói được gì. Lặng lẽ. Tôi chỉ cho bác cách đệm làm chân giả, chống nạng để tạm sống qua ngày. Chúa ơi, thời 1980, bác sĩ như chúng tôi làm việc chưa đủ sống, hẳn là giúp người khác. Thời gian, cuộc sống cứ thế trôi đi. Tôi cũng ra đi, bỏ lại sau lưng tất cả, những mơ ước và hoài bão, muốn xây dựng một cái gì tốt đẹp hơn cho quê hương mình… Thế nhưng, cái mặc cảm để một chiến binh trên bước đường cùng. Tàn phế. Phải chịu đau khổ hơn. Đày đọa hơn, làm tôi không ngủ yên. Nhiều đêm, trong giấc mộng, tôi vẫn thấy hình ảnh bác Bảy trở về. Không xe lăn, không nạng gỗ. Lê lết trong thành phố bởi thiếu hẳn đôi chân, giữa muôn ngàn người qua kẻ lại vô tình. Năm 1996, tôi điện thoại cho Wheel For Humanity, một tổ chức vô vụ lợi ở Hollywood. Tôi bảo, muốn xin một xe lăn gởi về Việt Nam. Khi đến gặp họ, tôi thấy hàng chục người đang làm việc tình nguyện, không lương. Đây là một tổ chức chuyên đi xin, quyên góp, lượm lặt xe lăn cũ. Xong họ đem về chùi rửa, vô dầu mỡ, sửa sang lại rồi gởi đi khắp thế giới cho người khuyết tật. - Bạn có kích thước, cân nặng của bệnh nhân không? - Tôi nói bừa. Đàn ông, nặng trăm ba mươi pounds, cao năm feet năm. Họ bảo OK, một tuần sau sẽ có, ông bạn có thể tự lo chi phí gởi về được chứ. Nhanh nhất là gởi bằng đường hàng không. V. Sau hơn hai mươi năm xa nhà, tôi đáp máy bay xuống phi trường Đà Nẵng. Thành phố thay đổi chóng mặt với những phố xá và nhà cao tầng. Trông bên ngoài, ai cũng có vẻ no ăn đủ ấm. Chiến tranh đã chấm dứt hơn ba mươi lăm năm rồi. Tôi mua vé tàu lửa đi Huế. Tàu dừng lại ở Lăng Cô vài phút, tránh chuyến từ Bắc đi vào. Không khí ồn ào hẳn lên vì các em bé nhào lên, mời mua kẹo, mua quà. Trời rất nóng và ẩm ướt. Sân ga ngập trong mùi gió mằn mặn của biển. Xen lẫn trong âm thanh ầm ĩ ấy, vang vọng tiếng hát của vài người hành khất bên đường. Có người hát cải lương, có người hát nhạc tự chế. Cái bài hát ngày xưa tôi cho là sến - Xuân này con không về - bây giờ nghe cũng thấy hay hay. Có lẽ nó đi vào đúng tâm trạng mình những ngày xa xứ. Tàu hú còi chuẩn bị chạy. Cửa sổ kính được kéo xuống, có người nào đó bật máy lạnh lên. Rồi tàu từ từ lăn bánh. Tôi vẫn nhìn hai bên vệ đường. Phía trước, tay phải, dưới bóng cây là một người đang đàn guitar, cái microphone nhỏ cột trên vai áo. Tiếng hát vang lên qua một loa thùng, trơ vơ, tróc vỏ dưới chân. Người đàn ông ấy ngồi trên chiếc xe lăn và cụt hai chân. Chỉ vài giây khi tàu lướt qua, tôi nhận ngay ra đó là ai. Tôi dí người chồm sát cửa sổ, la lớn nhiều lần: Bác Bảy, bác Bảy... Nhưng bác không nghe. Bác cũng không nhìn thấy tôi bên trong khung cửa đầy hành khách. Hình như không ai nhận ra ai, giữa cái âm thanh cuồng nộ trong cuộc sống, trên quê hương này. Khi tôi mở được cánh cửa sổ. Con tàu đã vùn vụt lao đi trong buổi chiều tắt nắng. Hình ảnh Bác Bảy không còn đó nữa. Nhưng người thương binh ấy, không bao giờ bị quên lãng trong trái tim tôi.
Nguyễn Phước Bảo Tiên Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 02/Jul/2025 lúc 12:44pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23751 |
![]() ![]() ![]() |
Vỡ Mảnh Tinh Cầu(Gọi là để tưởng nhớ
những vì sao Không Quân) Đó là buổi sáng trời rất đẹp của ngày 26/2, năm 1962. Tôi đạp xe từ Phú Nhuận lên nhà sách Khai Trí tìm mua vài quyển Toán, chạy ngang dinh Độc Lập. Khi vừa qua khỏi ngã tư Hồng Thập Tự - Công Lý, bỗng giật bắn mình, nghe phủ ào qua đầu một tiếng gầm xé thinh không cực lớn và thật gần, ngay trên những ngọn cây sao cao vút bên vệ đường. Tôi thật không biết chuyện gì xảy ra, kinh hoảng đâm xe lủi vào lề, nhảy xuống. Tôi đứng dưới một gốc sao nhìn lên trời, nơi vừa giáng xuống tiếng gầm như trời sập và tim đập loạn. Loáng thoáng qua vòm cây, tôi thấy 1 chiếc máy bay khu trục xé gió bay rất thấp phía sông Saigon hướng về dinh Độc Lập. Nó vút lên cao, nghiêng đôi cánh sắt, lượn gắt một vòng nữa rồi quay lại. Tôi không hiểu chuyện gì xảy ra, hết hồn quẳng vội chiếc xe, ngồi bệt xuống đất, nép vào gốc cây nhìn lên cái bụng sơn trắng của chiếc phi cơ với những trái bom thon dài sáng bạc được nhả ra, loang loáng lướt qua vòm cây, rơi xéo xuống cánh trái dinh ông Diệm. Rồi tiếng nổ, khói bụi bốc lên. Súng phòng không từ trong dinh và từ phía bến Bạch Đằng ròn rã nổ lụp bụp trên trời từng cụm khói đuổi theo con chim sắt. Tôi thấy thêm 1 chiếc khác bay cao và bay xa hơn, phía bến Bạch Đằng, cũng đang bị săn đuổi, chao liệng như chim âu len lách giữa những cụm khói nở hoa đen trên nền trời xanh ngọc bích. Buổi sáng lịch sử, hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử oanh kích dinh Độc Lập, tôi tình cờ chứng kiến từ phút giây đầu. Trước đó, năm 60, cũng chính ngay cổng dinh Độc Lập, tôi đã chứng kiến cuộc nổi dậy ngắn ngủi của quân Dù do các trung tá Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Triệu Hồng chủ xướng và thất bại, người thì chết, người phải lưu vong. Năm cuối cùng của chế độ nhà Ngô, tôi ở trong Tổng Hội Sinh Viên Saigon, tham gia phong trào tranh đấu Phật Giáo, bị mật vụ của Dương Văn Hiếu thuộc Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bắt giam cho đến ngày cách mạng 1/11/63, có lẽ vì ảnh hưởng tinh thần Quốc Cử và vì không khí đấu tranh sôi bùng nhiệt huyết tuổi 20. Sau này tôi gia nhập Không Quân, không biết có phải vì hình ảnh 2 chiếc khu trục sáng ngày hôm đó, cùng những cái tên tôi cho rằng rất đẹp và hùng can dự vào những biến cố làm đổi thay lịch sử, tên tuổi những phi công Nguyễn Văn Cử, Phạm Phú Quốc, Phan Phụng Tiên, Huỳnh Minh Đường... hay hình ảnh ông Kỳ trong bộ đồ bay đen với huy hiệu Thần Phong in trên bìa báo Paris Match đã ảnh hưởng sâu đậm đến quyết định tương lai của tôi. Những người danh tiếng trên, tôi chỉ không biết phi công Huỳnh Minh Đường. Còn các nhân vật Nguyễn Văn Cử, Phạm Phú Quốc, Phan Phụng Tiên, tôi biết là do chơi với Tâm, Phúc, em ông Cử, với Phạm Phú Đê, em ông Quốc, và Phó Quốc Uy, em vợ tướng Tiên. Tôi vốn yêu những mái tóc trung niên bạc mà đẹp, có nét giang hồ từng trải, hào hoa nghệ sĩ như mái tóc Phan Phụng Tiên, Hoàng Hải Thủy, hay tướng Nguyễn Văn Hiếu... Nên khi gặp tướng Tiên lần đầu, tôi thấy rất gần gũi, bởi mái tóc bạc của ông, và bởi ông là một trong những người hùng tham gia cuộc đảo chính hụt ngày nào. Lúc đó là năm 73, ông làm tư lệnh Sư Đoàn 5 Không Quân và tôi được biệt phái về Saigon, đặc trách thành lập Biệt đội Trực Thăng Dạ Thám bảo vệ vòng đai thủ đô và các vùng phụ cận, sau mùa Hè đỏ lửa 1972. Thời gian đó, Việt Cộng mở chiến dịch vừa đánh vừa đàm song song với hòa hội Paris. Saigon là mục tiêu của những cuộc pháo kích để khủng bố và gây tiếng vang. Tôi thành lập biệt đội Night Hawk, đêm đêm bay những phi vụ tuần thám, rọi đèn củ soát những nơi nghi ngờ có đặc công Việt cộng xâm nhập hay xạ kích vào những “trận địa pháo” do địch đặt súng cối hay hỏa tiễn nhắm vào Saigon từ các vùng ven đô như Tân Bình, Vĩnh Lộc, Nhà Bè, Thủ Đức, Gia Định, Thủ Thiêm, Hóc Môn, Bình Chánh, Nhơn Trạch, Gò Vấp, vv... Tôi được chỉ định trông coi Biệt Đội Trực Thăng Dạ Thám vì trước đó, đã thành công trong nhiệm vụ thành lập Biệt Đội Trực Thăng Võ Trang yểm trợ Đặc Khu Rừng Sát, hộ tống các giang thuyền Hải Quân, áp tải tàu bè, các thương thuyền di chuyển trên sông Lòng Tảo từ Saigon ra Vũng Tàu và ngược lại, can thiệp ngăn chặn các cuộc phục kích của Việt cộng... Biệt Đội thuộc quân số Sư Đoàn 3 KQ ở Biên Hòa nhưng nhận lệnh chỉ huy và điều động của nhiều cấp bộ khác nhau: Bộ Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô (Chuẩn tướng Lý Bá Hỷ), Bộ Tư lệnh Không Quân (Thiếu tướng Võ Xuân Lành, Tư lệnh phó). Phòng Đặc Trách Trực Thăng BTL/KQ Sư Đoàn 3 KQ và Không Đoàn 33 Chiến Thuật có nhiệm vụ yểm trợ Biệt đội. Vị thế của tôi rất tế nhị và phức tạp giữa các cơ cấu quyền lực đó. Chiều chiều chúng tôi đem phi cơ vào Tân Sơn Nhứt, đêm bay, sáng hôm sau đem tàu về trả Biên Hòa. Cũng vì mỗi đêm phải vào Tân Sơn Nhứt, chúng tôi được cho 1 phòng trực với đầy đủ tiện nghi, máy lạnh, giường nệm... Tôi lên gặp Chuẩn tướng Phan Phụng Tiên, xin cho Biệt đội mỗi tháng 10 ngàn đồng mua cà phê, nước ngọt để các phi hành đoàn giải khát. Ông ký giấy cho liền và hỏi: “10 ngàn đủ không?” Rồi không đợi tôi trả lời, ông nói luôn: “Tôi biết trực thăng các cậu khổ bỏ sừ!” Tôi cười, nói một câu cám ơn, chào rồi ra về. Tướng Tiên lấy bà Hoàn - Phó Thị Ngọc Hoàn - chị ruột của một người bạn rất thân của tôi, Phó Quốc Uy, cũng là em cố Đại tá Phó Quốc Chụ, 1 trong số 9 sĩ quan bị trực thăng Mỹ “bắn lầm” ngày 1/6/68 sau cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân, trước cửa trường Phước Đức, số 266 đường Khổng Tử, Chợ Lớn, có 6 vị Đại tá QLVNCH tử thương. Năm 82, vợ chồng Uy vượt biển đến định cư ở Orlando, chỗ Chuẩn tướng Tiên và Trung tá Phó Quốc Dũng tự Dũng “Mù” (vì ông đeo kính cận hạng nặng), thuộc Khối Yểm Trợ Hành Quân SĐ5KQ, tôi kéo cả nhà qua thăm. Đó là lần tôi gặp lại tướng Phan Phụng Tiên kể từ sau ngày rờiBiệt đội Night Hawk đi học khóa Chỉ Huy Tham Mưu rồi trở lại Phi đoàn. Anh em nói chuyện xưa, nói đến những ngày cuối cùng, đến giây phút cuối cùng rời bỏ Saigon. Chính lúc đó tôi mới biết chỉ chút xíu nữa tôicó thể cũng kẹt ở lại hoặc bị bắn rớt ngay sáng ngày 29/4, bên hông Câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc, khi tôi hẹn tướng Kỳ để tôi bay về đón vợ con rồi trở lại Nhà Bè trong vòng 30 phút, rồi sẽ đưa anh em xuống Cần Thơ theo lời ông dặn... Tướng Tiên nói: – Sáng hôm đó, anh ngồi trong phòng Hành quân với ông Lành. Phòng Thủ gọi máy báo có chiếc trực thăng đáp sân Câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc. Ông Lành nói, đừng để pilot gây ra “panic”. Cả anh lẫn ông Lành đều nghĩ thằng quản lý Câu lạc bộ đem máy bay về đón vợ con nó. Ông Lành ra lệnh cho Phòng Thủ hãy bắt giữ phi hành đoàn lại, không cho cất cánh, nếu trái lệnh, cứ bắn hạ... Tôi thú vị với những điều ông vừa kể: – Anh biết không, chính em lái chiếc phi cơ đó, đáp xuống Huỳnh Hữu Bạc. Ông cười: – Cậu hên đấy! Anh thấy ông Lành rất serious. Sau này tôi còn xuống Orlando thăm ông lần thứ nhì. Ông vẫn “kỹ” như ngày xưa, trong nhà không có lấy một hạt bụi. Hồ tắm che lưới, lá cây không rớt được xuống hồ. Chị Hoàn ghé tai tôi: – Anh ấy không cho chị nấu nướng trong nhà. Chị phải đặt một cái bếp ở garage, em thấy có khổ không? Cái nhà đó là của vợ chồng Tuấn để cho bố mẹ ở. Vợ chồng Tuấn-Vân ở Dallas vì Tuấn làm việc tại đây. Trong lúc chuyện trò, ông kể cho tôi nghe chuyện ông bị thổ ra hàng chậu máu, phải qua Pháp tĩnh dưỡng sau khi bán cái cửa tiệm buôn vỏ xe hơi ở Cali. – Anh già rồi, trong người không được khỏe. Không ngờ đến cái tuổi này mình xuống sức quá. Ông bà Tiên về chơi Dallas hai lần, ở nhà Tuấn. Tôi vẫn thường qua ăn cơm với ông, đem sách truyện cho ông đọc, dẫn ông đi thăm bạn bè hoặc hai anh em tha thẩn trong khu thương xá, nói với nhau đủ thứ chuyện, nhất là chuyện Không Quân. Ông có vẻ thích Dallas, muốn về Dallas và hẹn nếu bán được cái nhà ở Orlando cho cháu Tuấn, sẽ dọn lên trên này. Nhưng ông vĩnh viễn không bao giờ trở lại thành phố Dallas nữa. Ông bà Tiên về ở với vợ chồng ông Dũng Mù, là anh vợ và cũng là bạn thiếu thời của ông Tiên. Lần này đúng là ông “ngã” xuống, theo nghĩa bóng. Và rồi tối thứ Bảy 21/11/95, ông “ngã xuống” thật, theo nghĩa đen, sau bữa ăn vui vẻ ở nhà cháu Uyển, con gái vợ chồng Uy-Thảo, “Bác Tiên ăn hết bát mì lớn, chuyện trò mãi với chúng cháu tới gần nửa đêm, rất vui vẻ, không có một triệu chứng gì... Bác về, vào phòng tắm, ngã, đi luôn...” Nghe tin ông chết đường đột, tôi điếng lặng đi một lúc.... Cuối tháng 9/95, tôi qua San Francisco, gặp Tuấn trong đám cưới con trai lớn của Uy-Thảo lấy cháu Quỳnh Anh ái nữ của ông Hiệp Cồ, trưởng trường Quân sự ngày xưa. Tôi hỏi thăm tình trạng sức khỏe tướng Tiên. Tuấn nói, “Bố cháu dạo này cũng khỏe.” Tôi nghe, không mấy yên tâm vì ông về Dallas lần trước, có vẻ mệt mỏi, khá mệt mỏi. Ông không còn nhậm lẹ, ngại gió máy, quấn cái khăn phu-la quanh cổ và thỉnhthoảng ho húng hắng. Ông có dáng của một người đã về già, dù rằng mắt còn sáng, gương mặt còn rắn rỏi. Dáng của một con hổ nhớ rừng, trầm mặc, u hoài tưởng tiếc thời oanh liệt.... ------- Thời gian trông coi Biệt đội Night Hawk, tôi gặp tướng Tiên có vài lần. Nhưng với tướng Võ Xuân Lành, Tư lệnh phó Không Quân thì tôi gặp thường hơn và có cơ hội hiểu tính tình ông nhiều hơn.Trước đây, tôi chỉ được nghe biết về ông qua những “huyền thoại”. Hoặc thỉnh thoảng về Bộ Tư lệnh, ghé Câu lạc bộ uống nước với Thế Phong hay Phạm Hồ, thấy ông hay ngồi trầm ngâm một mình một bàn, gói kín, lầm lì khắc khổ trong bộ treillis với ngôi sao thêu chỉ đen trên cổ áo rất khó nhận ra cấp bậc. Như đã nói, tướng Lành trách nhiệm giám trợ Biệt đội Night Hawk do tôi chỉ huy. Ông liên lạc hàng ngày với Bộ Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô, theo dõi hoạt động của Biệt đội và giải quyết các vấn đề trên cấp Tư lệnh. Nhưng thực ra, ông không phải giải quyết gì vì tôi hàng tuần họp và giải quyết trực tiếp với BTL/BKTĐ hoặc với Khối Đặc Trách Trực Thăng của Đại tá Trần Minh Thiện. Là Biệt đội trưởng, tôi có nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy và điều động hoa tiêu, hàng ngày theo dõi các phi vụ, giải quyết các trở ngại hay các vấn đề liên quan đến công tác hành quân, dự các phiên họp hoặc thuyết trình Quân báo, báo cáo phi xuất với Không đoàn 33, với phòng Đặc trách Trực thăng, Bộ Tư lệnh KQ, Biệt khu Thủ đô, và Không đoàn 43 Chiến Thuật. Cương vị tôi hết sức tế nhị và phức tạp, chắc chắn không thể tránh được những đụng chạm với các đơn vị bạn. Biết thế nào cũng có chuyện xảy ra, nên tôi hết sức giữ gìn và kêu gọi hoa tiêu phải tuyệt đối tôn trọng kỷ luật phi hành, tôn trọng các tiêu lệnh hành quân và an phi. Tôi buộc hoa tiêu phải ghi tất cả mọi sự việc, mọi biến cố xảy ra trong đêm, thật đầy đủ chi tiết và các diễn tiến trong sổ Nhật ký Hành quân, phòng khi dùng đến. Quả nhiên, những điều lo xa không phải vô ích. Trong một cuộc họp hàng tháng tại Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, dưới sự chủ tọa của Chuẩn tướng Lý Bá Hỷ, các sĩ quan đại diện đơn vị của Tiểu khu Gia Định, các Chi khu, các đơn vị biệt lập... Khi giải thích lý do tại sao quân bạn bị bắn lầm, tọa độ xạ kích cho sai, phi cơ cất cánh trễ giờ, bay ra ngoài địa giới, chỉ điểm pháo binh không chính xác, vv...tất cả đều quy lỗi về phía phi hành đoàn. Những lời cáo buộc đều mang tính cách chung chung, không ai đưa ra một bằng chứng cụ thể nào, rõ ràng là muốn trút bỏ trách nhiệm lên Không Quân một cách khơi khơi, theo kiểu “khẩu thuyết vô bằng!”. Tôi lên bục thuyết trình sau cùng, với sổ Nhật ký Hành quân trong tay. Tôi cảm ơn các sĩ quan bạn về những điều họ vừa cho biết, xin lỗi và nhận trách nhiệm tất cả những “bê bối”, những lỗi lầm lớn nhỏ đó, nếu quả thực do hoa tiêu gây ra. Tôi trình bày tất cả những sự việc được ghi nhận trên giấy trắng mực đen, những sự kiện có thật, không một lời biện minh, để mọi người dự họp toàn quyền thẩm định mức độ xác thực và giá trị mỗi biến cố. Tôi lật từng trang giấy, đọc to và rõ ràng những việc vụ xảy ra, với tên tuổi của từng vị sĩ quan “ngồi thùng”,đi theo trực thăng dạ thám (mà chúng tôi gọi đùa là phi vụ “soi ếch”), với cấp bậc, số quân, đơn vị, tọa độ cùng đầy đủ chi tiết sự việc xảy ra trong đêm: – Ngày.. Trung úy.. số quân.. lên tàu yêu cầu muốn bay đi đâu thì bay, hết giờ cứ việc bay về, để ông nằm ngủ. – Ngày.. Thiếu úy.. số quân.. không biết coi bản đồ, hỏi, được cho biết là sĩ quan Ban 1, đi thế ông sĩ quan Ban 3 “bận công việc” không đi bay được. – Ngày.. Đại úy.. số quân.. dắt theo 1 cô gái, năn nỉ xin cho đi bay cùng, để xem “Saigon By Night” ra thế nào? – Ngày.. Đại úy.. số quân.. lên tàu ói mửa đầy sàn vì say rượu. Phi hành đoàn phải hủy bỏ phi vụ bởi không người thay thế. – Ngày.. Chi khu.. Phi cơ xuống đón sĩ quan tháp tùng, bị trong đồn bắn lên không cho đáp vì “Máy bay làm ồn không ngủ được!”, vv... và vv... Sau phần thuyết trình của tôi, cử tọa im phăng phắc. Không khí ngột ngạt thấy rõ. Chuẩn tướng Lý Bá Hỷ không nói một lời. Ông cám ơn tôi và cho giải tán buổi họp ngay lập tức. Thiếu tá Phong Già, sĩ quan Liên lạc KQ tại BKTĐ chạy theo níu lấy tôi nhăn nhó: – Ông làm mạnh quá, kẹt tôi! Tôi cười: – Nếu họ không đổ rác lên đầu Không Quân, tôi bao giờ đem những chuyện ấy ra nói công khai? Ông cần xăng nhớt đã đành, nhưng đây là vấn đề danh dự của Không Quân. Các người anh em không có chuyện báo cáo trong cuộc họp, đã đem ra nói khơi khơi làm quà cho ông tướng mà không ý thức như thế là bôi bác danh dự chúng tôi, những thằng Không Quân “chân không tới đất, cật chẳng tới trời”! Ngay sáng hôm sau, Đại tá Trần Minh Thiện gọi tôi vào Bộ Tư lệnh Không Quân trình diện. Vừa thấy tôi, ông cười, hỏi: – Anh biết tôi cho đòi anh vô đây có chuyện chi không? Tôi nhìn vị chỉ huy trưởng cũ hiền như Bụt của mình ngày xưa, nói tỉnh: – Đại tá phạt tôi vì chuyện bên Biệt khu Thủ đô ngày hôm qua chứ gì? – Anh làm gì mà phạt? Mấy ông cố vấn Mỹ đi họp về khen anh lắm đó! Thôi, vào đây. Tôi theo ông bước qua một phòng làm việc khác trong Khối Đặc trách. Đó là văn phòng của một Đại tá Cố vấn Mỹ. Tôi đứng nghiêm chào. Ông Đại tá đứng dậy, bước vòng qua bàn bắt tay tôi. Ông cho biết sáng hôm qua có dự cuộc họp ở BKTĐ, chứng kiến cuộc trần thuyết của tôi. Ông có headset nghe thông dịch nên hiểu tất cả, về, nói chuyện với Đại tá Thiện. Ông khen tôi thẳng thắn dám nói sự thật và tặng tôi mấy thùng bia Budweiser đem về cho Biệt đội để tỏ lòng yêu mến. Tướng Lành cũng biết chuyện này. Môt hôm gặp tôi trong Câu Lạc Bộ, ông hỏi, “Mấy thùng bia các anh uống hết chưa?” Đó là lần đầu tiên tôi thấy ông cười vui một cách rộng rãi. Vì biết ban ngày tôi không đi bay, ông yêu cầu tôi huấn luyện ông bay trực thăng một tuần vài giờ. Trong tất cả những phi vụ huấn luyện đó, lần nào cũng có đàn anh Lưu Văn Trâm thuộc phòng Đặc trách đi theo. Tôi thường đưa tướng Lành đi bay tập ở những nơi gần Saigon và có an ninh, như vùng Thủ Đức hay Chi khu Nhà Bè. Ông Trâm ngồi thùng, mỗi lần thấy tôi để tướng Lành đáp vào các “confined area”, một trảng cỏ có cây cao chung quanh hoặc bãi đáp nhỏ hẹp có rào giây kẽm gai, ông Trâm có vẻ nhột, ngồi sau cứ thấp thỏm, sợ ra mặt, lén vỗ vai tôi, ra hiệu bảo tôi nắm cần lái, đỡ cho ông tướng. Tôi biết đàn anh Lưu Văn Trâm sợ là phải. Nó giống như cảm giác một người lái Honda chở một người ngồi sau. Anh ngồi lái muốn phóng lạng thế nào cũng không sợ vì mình kiểm soát được mình, nhưng anh ngồi sau thì teo bu-di, la chói lói...Tôi cố tình muốn trêu ông Trâm, để tướng Lành muốn bay thế nào thì bay, đáp sao thì đáp.Tôi đốt điếu thuốc, hút phì phèo và ghếch chân lên thành cửa cockpit ngắm trời mây cho ông Trâm lộn ruột chơi, nhất là những lúc tướng Lành vô cận tiến đáp rụt rè vào cái ô nhỏ xíu rào kẽm gai ở Nhà Bè. Tướng Lành rất tỉnh. Ông bay vững hơn Đại tá Tường “Mực” và không nói nhiều, không đòi... uýnh “thầy” như ông Tường, mỗi khi bay ẩu, bị “thầy” chụp cần lái. Đi bay huấn luyện cho Đại tá Tường, ai cũng ớn. Mấy ông Staffs các Phi đoàn Trực thăng ở Biên Hòa, từ ông Lai, Cửu, Luân, Ức, Vân, Lộc, Trọng... ông nào cũng “né”. Cuối cùng họ “bán cái”, đùn cho tôi. Ông Lai dụ tôi: – Tôi biết ở đây chỉ có anh là Đại tá Tường không dám “uýnh” vì ổng nể anh hơn tụi tui. Trực thăng mà ổng làm như khu trục, bay ào ào ghê thấy bà. Mình chụp cần lái, ổng cung tay thúc cùi chỏ, “Bộ mày chê tao không biết bay sao mà làm tàng?” Tụi tui thằng nào cũng rầu thúi ruột. Còn anh, tôi “bảo đảm” ông Tường không dám đụng tới anh đâu! Chẳng hiểu tôi nghe bùi tai hay tò mò muốn biết xếp lớn dữ cỡ nào, bèn nhận lời. Buổi sáng xách nón bay ra phi đạo, check tàu xong, tôi ngồi nghe nhạc đợi xếp. Phi vụ huấn luyện ghi 8 giờ 30 cất cánh. Gần 9 giờ vẫn chưa thấy xếp ra. Tôi gọi máy xin hủy bỏ phi vụ. Cậu sĩ quan trực hốt hoảng yêu cầu tôi đợi thêm vài phút. 10 phút sau xe Jeep đưa ông Tường ra phi đạo. Thấy ông, tôi giả vờ cầm nón bay leo xuống, nói: – Trời đất! Sao Đại tá giờ này mới ra? Tôi gọi Đồng Nai hủy bỏ phi vụ rồi. – Rồi! Cái gì mà càm ràm, bầy đặt làm khó tôi? Đoạn ông cười lớn: – Ủa, mà sao hôm nay anh bay? Bộ mấy thằng kia tụi nó ghét tôi lắm sao? – Ghét thì không ai dám ghét nhưng ông “uýnh” đau quá, họ sợ. – Cha! Ngon lành ha? Vậy chớ anh không sợ sao? – Sợ chứ. Bởi thế tôi phải nói trước với Đại tá, tôi nhỏ con, ông làm ơn tha cho đừng đánh, tội nghiệp. Ông đánh là tôi bỏ bay, đi thưa cảnh sát liền một khi! Đại tá Tường cười khà khà: – Thưa cảnh sát, uýnh theo cảnh sát. Mấy thằng kia khôn tổ mẹ. Tôi mà dám đánh anh? Đứa nào nói vậy? Có lẽ tôi là người duy nhất bay huấn luyện cho ông Tường Mực mà không bị đánh. Trái lại, ông còn có vẻ thích đi bay với tôi để nói chuyện lăng nhăng. Đại tá Nguyễn Văn Tường và Đại tá Trần Minh Thiện có lẽ là sĩ quan cao cấp Không Quân chết sớm nhất ở Mỹ, từ năm 76, 77. Tướng Lành chết bởi bệnh ung thư xương năm 82 ở San Jose. San Jose, có hai ông tướng Không Quân đã ra đi. Đó là Thiếu tướng Võ Xuân Lành và rồi Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính. Tướng Tính là Tư lệnh Sư đoàn 3 KQ, tôi làm việc dưới quyền ông. Phải nói, đời tôi có diễm phúc được làm việc dưới quyền hai vị sĩ quan chỉ huy ngành tác chiến màhiền hậu dễ thương như những ông thánh. Đó là Đại tá Trần Minh Thiện, ông “Thánh Denis”, và Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính, người hiền trong những cấp chỉ huy hiền số một của Không Quân. Tôi du học về, chọn Phi đoàn 215 ở Nha Trang, lúc đó mới rời vào từ Đà Nẵng được vài tháng, do Thiếu tá Thiện làm Phi Đoàn Trưởng. Tôi đeo lon Chuẩn úy vào trình diện, thấy ông người Nam, có nụ cười hết sức nhân hậu, cũng yên tâm. Lúc đó Phi đoàn còn bay H34, to con, kềnh càng, và... bẩn phát sợ. Bên trường bay, phi cơ Mỹ sạch như lau, nên khi nhìn thấy máy bay của Việt Nam cũ kỹ già nua, dầu mỡ, bùn đất dính bệt từ càng cho tới nóc, tôi thật nản.Người bay ckeck-ride cho tôi đầu tiên là Thiếu tá Thiện. Ông dẫn tôi ra bãi đậu, thấy tôi đeo găng mà còn rón rén sợ bẩn, ông cười, leo lên làm tiền phi. Tôi leo theo ông, chỉ sợ trượt chân té gãy cổ! Ông chỉ một cái ống trên nóc phi cơ, hỏi tôi: – Cái này tiếng Mỹ kêu bằng gì? Hồi đó phi cơ lèo tèo mươi chiếc, hư hỏng nằm ụ đến một nửa, bay hành quân còn chưa đủ, lấy đâu mà huấn luyện, nên bỏ lâu không bay dễ quên và lựng bựng. Tôi nhìn cái ống cong cong chìa ra đằng trước, biết nó là cái ống lấy áp xuất gió cho đồng hồ phi tốc nhưng lú lẫn, bị hỏi bất chợt, không tài nào nhớ ra tiếng Mỹ là gì, ấp úng trả lời: – Thưa, là cái “Pi-Tốt”. Nói xong tôi mới biết mình cả quỷnh. Thiếu tá Thiện cười điềm đạm: – Nó là cái Pivot chứ, quên rồi sao? Lúc xuống đất kiểm soát thân tàu, ông lại khảo tôi mục khác: – Anh biết trực thăng có cái bánh đuôi dùng để làm gì không? – Dạ, để... đáp! Bánh xe của phi cơ là để đáp thì đúng quá rồi, ai mà không biết. Nhưng ông Thiện hỏi tôi câu đó là hỏi về một công dụng khác chứ đâu phải để nghe tôi trả lời một câu bà già trẻ con cũng biết, cần gì phải là Pilot? Ông nói: – Cái bánh đuôi là để mấy ông Pilot... đái! Sau này tôi mới biết là ông không hề nói rỡn về công dụng của cái bánh đuôi! Để Pilot đái và để... chó ghếch chân lên đái! Tôi phục vụ dưới quyền Đại tá Trần Minh Thiện một thời gian ngắn nhưng cũng đủ biết thêm về ông trên một vài phương diện khác. Thí dụ như ông còn là một nhạc sĩ chơi nhạc cho phòng trà, đầy nghệ sĩ tính. Bà Thiện rất đẹp và có dáng nét quý phái, mệnh phụ. Ông rời Phi đoàn 215 về Bộ Tư Lệnh năm nào tôi quên rồi nhưng kỷ niệm cuối đáng ghi nhớ với ông ở Phi đoàn là câu chuyện thơ thẩn khiến từ đó ông để ý và khoái tôi. Chuyện thế này, một hôm họp Phi đoàn, ông cảnh giác các hoa tiêu đi bay phải tuyệt đối tuân theo luật An Phi, trên trời cũng như dưới đất, bất cứ lúc nào. Ông nhắc lại các luật lệ và đưa ý kiến nếu làm được thơ hay vè cho dễ nhớ để làm khẩu hiệu thì tốt. Tôi ngồi dưới, nghe ông nói tới đâu là làm một câu thơ tới đó, đầy đủ tất cả mọi điều ông nói đến. Khi chấm dứt cuộc họp, tôi đứng lên yêu cầu để tôi đọc bài thơ “An Phi Trực Thăng” đó cho Phi đoàn nghe. Ông Thiện rất thích bài thơ này, bảo tôi đưa cho Tạ Duy Quý cho vào Bản Tin An Phi hàng tháng của Không đoàn 62. Bài thơ lục bát dã chiến tôi còn nhớ như sau: Tiền phi không kỹ là liều Nhớt xăng không đủ là tiêu cuộc đời Trên trời dưới đất ai ơi RPM giữ kẻo rơi thật phiền Cân bằng là lẽ tự nhiên Đừng bay bướm quá, đừng tin mình tài Cánh mềm chém cũng thành hai Mây mưa gió bão hỏi ai dám cừ? Khi lên, lúc xuống từ từ Bay cao vợ đợi, em chờ biết không? Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính người Nam, gốc Phật Giáo Hòa Hảo. Ông là một cấp chỉ huy thật hiền, thương lính và dễ dãi với binh lính.Tôi đổi về Biên Hòa cuối năm 71, là những ngày sôi động chiến tình mặt trận ngoại biên mà Sư đoàn 3 KQ phải gánh vác.Sau đó là trận An Lộc, Bình Long... Cái địa thế của Vùng 3, vùng đất trấn giữ những con đường bôn tập của địch nhằm xâm nhập Saigon, là gánh nặng luôn luôn chĩu oằn trên đôi vai những lực lượng quân sự Quân đoàn, trong đó Sư đoàn 3 KQ đóng vai trò quan trọng. Tôi đã thấy cảnh tướng Tính mất ăn mất ngủ giữa cái thời nồng độ chiến tranh lên tới mức ngặt nghèo đó. Nhiều khi tôi nhìn ông, bất giác sinh niềm ái ngại. Ông cao, gầy mảnh khảnh, nói mau và lớn giọng, bước đi thoăn thoắt, giải quyết vấn đề rột rột theo lối nhà binh nhưng không hiểu sao, nhìn ông, tôi vẫn không thể nghĩ đó là hình ảnh một ông tướng nắm quyền quân sự, điều động cả một Sư đoàn tác chiến Không Quân. Ông giống một người điền chủ, hay một ông giáo hiền lành hơn 1 người lính chiến đấu. Tôi nhớ có lần, một hạ sĩ quan kỳ cựu, cơ phi của Phi đoàn tôi bị Quân cảnh giam xe vì đi Honda trong căn cứ không có thẻ chủ quyền. Đương sự năn nỉ tôi xin tướng Tính tha. Tôi tìm loanh quanh, rồi đến gặp thẳng ông tại tư thất. Tôi lên lầu. Ông đang nghỉ trưa, mặc bộ pyjama sọc đỏ ra tiếp tôi ngoài hành lang. Ông hỏi: – Gì nữa đây, ông Hùng? – Tôi có thằng em, bị Quân cảnh giam xe vì không có giấy tờ. Xin tướng tha cho nó, tội nghiệp. Ông cầm lá đơn, liếc xem qua, hỏi: – Biết xe không có giấy tờ sao còn mua cho rắc rối? Tôi làm sao trả lời được câu hỏi của ông, nên cười trừ. Ông viết lên lá đơn mấy chữ, đưa cho tôi: – Biểu nó chạy thì chạy ngoài đường, đừng chạy trong căn cứ, Quân cảnh bắt nữa ráng chịu! Tôi suýt bật cười vì câu mắng nhẹ nhàng của ông. Tướng Tính là một cấp chỉ huy có trách nhiệm đối với thuộc cấp và là con người ngay thẳng, đạo đức. Tôi đã chứng kiến ông lúc vui, buồn, hờn giận rất “người”. Như lúc ông tức giận chửi thề trong buổi trưa chinook đón những tù binh VNCH do Việt cộng trao đổi, từ Lộc Ninh về đáp Biên Hòa. Một tù binh ta bị Việt cộng từ dưới đất bắn lên, chết ngay trong lòng chiếc phi cơ khi đang bay trên quốc lộ 13, khúc Bầu Bàng. Phi cơ bay thấp 500 bộ và theo đường do chúng thỏa thuận với Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự, cam kết bảo đảm an toàn. Ông gọi máy kêu Quân cảnh bảo vệ an ninh cho “mấy thằng Việt cộng chó đẻ” kẻo bị đám đông dân chúng, thanh niên học sinh đang tụ tập nơi bãi đậu đón tù binh trở về, phẫn nộ đánh trả thù. Những ngày long đong bay vào An Lộc, ông lên Lai Khê, ăn cơm gạo sấy thịt hộp với chúng tôi,đứng nơi bìa rừng cao su mong ngóng những chuyến bay từ An Lộc trở ra,như mẹ mong con.Ông căn dặn chúng tôi bay cẩn thận, ráng xong phi vụ trở về an toàn. Nhiều lần tôi bắt gặp ông quay đi, che giấu những giọt nước mắt lăn trên đôi má hóp, mỗi lần có tin một phi hành đoàn hy sinh trong vùng bão lửa kinh hồn ấy. Những ngày Phước Long bị vây hãm, ông mặc áo giáp, đội nón sắt, bay với chúng tôi qua Long Bình theo dõi cuộc hành quân, cùng với tướng Hiếu bên Quân Đoàn. Hôm thả Biệt kích 81 vào Phước Long, ngày 4/1/75, ông điện thoại gọi chúng tôi qua Quân Đoàn họp với tướng Hiếu và Đại tá Công lúc nửa đêm hôm trước, đến hơn 2 giờ sáng mới trở về Sư đoàn thảo kế hoạch hành quân KQ. Tướng Tính giao cho Đại tá Lê, Tham Mưu Phó Hành Quân điều động khu trục yểm trợ cuộc đổ quân ngày hôm sau. Phải hiểu tầm mức quan trọng của việc giải cứu Phước Long như thế nào khi tướng Tính quyết định dành 60 phi xuất cho mặt trận, để lại vỏn vẹn có 3 phi xuất cover cho toàn vùng. Buổi sáng, có lẽ đêm qua không ngủ, tướng Tính xuống Phi đoàn tìm tôi rất sớm. Ông cầm máy Motorola gọi “Đồng Nai 3” là danh hiệu Đại tá Lê nhưng không thấy trả lời. Đại tá Lê đã lấy xe bỏ về Saigon ngay sau cuộc họp đêm hôm trước! Tướng Tính giận điên lên. Ông chửi thề và bảo tôi cho anh em cất cánh. Sáng hôm đó, chúng tôi không thấy bóng một chiếc khu trục nào lên vùng. Tôi vẫn cho trực thăng xuống, đáp ngay trên đầu Việt cộng. Mỗi tổ tam tam Việt cộng bị xích chung vào 1 cỗ đại liên nằm chờ quân ta dưới hố, không bắn trước. Biệt Kích ngồi trên tàu dí súng vào tận mặt lính Bắc Việt nảy cò, máu óc bắn tung toé lên phi cơ... Phước Long mất, Bộ Tổng Tham Mưu cử 5 ông tướng xuống điều tra. Tướng Tính họp các đơn vị trưởng, dặn dò: – Trên xuống điều tra, tôi trách nhiện hoàn toàn. Nếu ra tòa Quân sự hay đi tù, tôi đi. Chỉ xin mấy ông một điều, đừng làm chuyện bậy bạ đổ lỗi lẫn cho nhau. Mấy ông nghe rõ chưa? Đại tá Vũ Quang Triệu, xước danh “Pilot Thái Bình” mà Dương Hùng Cường mô tả là “lái máy bay trước khi biết lái xe đạp”, Không đoàn trưởng Không đoàn 43 Chiến thuật yêu cầu tôi đại diện Không đoàn làm “luật sư” trong buổi điều trần trước Hội đồng Tướng lãnh. Đại tá Phan Văn Huấn, Liên đoàn trưởng Liên đoàn 81 Biệt Kích Dù, có một Thiếu úy tùy viên đi theo, vào phòng họp sau cùng. Ông xin được nói trước và hiên ngang nói những lời khí phách: – Mất Phước Long, lý do tại sao, quý vị cũng như chúng tôi đều biết nhưng không ai muốn nói ra. Phần Biệt Kích 81, chúng tôi vào chỗ chết đã đành, bởi nghề nghiệp chúng tôi là tìm chỗ chết để đi vào. Riêng với anh em Không Quân, các phi hành đoàn trực thăng đã làm quá bổn phận của họ, chết lây với chúng tôi thật tội nghiệp. Nay đưa họ ra tòa là điều tôi cho là vô lý. Nếu có lỗi làm mất Phước Long, tôi nhận lỗi. Xin quý vị ở lại tiếp tục họp và cho tôi biết kết quả. Tôi xin phép được ra về vì còn nhiều việc phải làm. Đại tá Huấn đứng nghiêm chào và quay ngoắt đi ra. Ông đến như cơn gió và ông đi cũng như cơn gió. Ông xuất hiện chưa đầy 5 phút, nói một lời ngắn ngủi nhưng tôi ghi nhớ mãi cái giây phút lịch sử và hình ảnh đó của ông. Hội đồng Tướng lãnh ra về, giao việc điều tra cho Đại tá Nguyễn Huy Lợi, nha Quân Pháp, ở lại làm việc. Tôi đã làm trọn vai trò “luật sư”, biện hộ cho Không đoàn 43 Chiến Thuật. Ngày di tản, gặp lại Đại tá Nguyễn Huy Lợi trên boong tàu Mỹ, trước đông anh em, ông đã khen tôi không tiếc lời về việc tôi đã dám nói ra sự thật vụ mất Phước Long. Vụ án Phước Long sau đó hoàn toàn chìm xuồng. Tôi nhắc lại việc trên để thấy tư cách và lòng nhân hậu của Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính mà ngậm ngùi tưởng nhớ đến ông. Nhớ ngày cuối ở Biên Hòa, ông họp các Phi đoàn trưởng, chỉ thị lập danh sách và cho tất cả vợ con hoa tiêu về Saigon, Bộ Tư Lệnh sẽ thu xếp việc di tản. Các ông Triệu, Luân, Lộc ngày nào cũng rủ tôi qua nhà tướng Tính xem có động tịnh gì về vấn đề đi, ở ra sao vì thấy tướng Tính lại đem vợ con lên Biên Hòa. Ngày 26/4, ông họp chúng tôi, nói thẳng: – Vợ con tôi đi rồi, do cố vấn Mỹ lo giùm. Sáng nay tôi chỉ kịp chạy vào DAO vẫy tay chào, không được hôn từ giã. Không ai lo cho ai đâu. Các anh tính liệu cách nào thì tính, nhưng đừng để tụi nhỏ chúng nó “panic”! Tôi đem Phi đoàn di tản về Tân Sơn Nhứt tối 27/4 khi Biên Hòa bị pháo bằng hỏa tiễn 130 ly. Sáng 28, tướng Tính gọi tôi lên Biên Hòa, nằm trong hầm TOC chịu pháo với ông. Buổi trưa, tôi lái chiếc pick-up về nhà lấy cái nồi cơm điện National cho anh em pha cà phê và lấy chiếc áo bay để thay đổi, đoạn xin ông cho tôi về Tân Sơn Nhứt, e anh em tưởng tôi “doọt”, bỏ đơn vị, sẽ tan hàng hết. Sáng ngày 29, Trung tá Trọng, Phi đoàn trưởng Phi Đoàn 221 đáp xuống Nhà Bè gặp tôi. Trọng nằm vật trên vỉ sắt lót phi đạo, gửi anh em PĐ221 cho tôi dẫn bay ra biển. Anh ôm mặt khóc, nhất định quay về với vợ con. Anh bảo Trung sĩ Kiên, tài xế của Đại tá Triệu trao cho tôi một tập hồ sơ sĩ quan dầy cộm, nói Đại tá Triệu “bàn giao” Không Đoàn cho tôi và cho biết Đại tá Triệu đã theo tướng Tính ra Vũng Tàu, di tản. Sau này tôi được biết Trung tá Trọng ở lại, đi học tập và chết trong tù. Đó là ngày cuối tôi chia xa tướng Tính. Năm 85, tôi gặp lại ông ở San Jose, tình cờ, nơi nhà tướng Lâm Quang Thi trong ngày lễ Độc Lập Hoa kỳ. Gặp lại ông, tôi mừng và ông cũng rất vui. Ông vẫn xuề xòa, dáng dấp không khác mấy ngày xưa. Ít năm sau, ông mất... Tôi viết những dòng này, do xúc động bởi cái chết của Chuẩn tướng Phan Phụng Tiên, nhân đó nhắc đến hai ông tướng KhôngQuân cùng một vài người KhôngQuân đã không còn hiện diện trên cõi đời này nữa... để ngậm ngùi trước nỗi nghiệt ngã của thời gian, dần dần cướp mất của chúng ta những mảnh tinh cầu làm nên khối thể Không Quân còn lại nơi hải ngoại sau cuộc bèo mây tan tác. Hôm gặp tướng Minh trong tiệc cưới 2 cháu Quốc Đăng và Quỳnh Anh, con trai Phó Quốc Uy và ái nữ của ông Lê Trọng Hiệp tức Hiệp “Cồ” trưởng trường Quân sự ngày xưa,ở San Francisco,thấy ông sắc diện hồng hào, phương phi hơn lần gặp trước, tôi cảm động, đã nói với ông một lời có vẻ như đùa nhưng vô cùng thành thật: – Thôi qua đây chúng tôi chỉ còn trông vào có mình Trung tướng thôi đấy. Xin ngài hãy bảo trọng mình vàng, kẻo anh em chúng tôi buồn lắm. Ông Minh cười sảng khoái: – Trời kêu ai nấy dạ, toa. Mình biết làm sao mà nói? Con người có số. Vâng, tôi tin con người có số. Như tướng Tiên chết đi, chị Hoàn gọi qua Cali hỏi chuyện thầy bói. Ông hiện hồn về nói rõ ràng là ông tới số chết thì phải chết, không có điều gì phải thắc mắc khiếu nại, coi bói phí tiền. Ông đã chuẩn bị đâu đấy cho cuộc “tử quy” của ông. Ông Dũng Mù kể: – Lúc ông ấy còn sống, 2 anh em nghiên cứu về huyền bí của con người, bao nhiêu sách vở như “Hành Trình Về Phương Đông” đều mua đọc và thảo luận. Ông ấy hiện về luôn, nói lúc chết đâu có biết là mình chết? Mãi hôm sau rước thầy về tụng kinh, mới biết nhưng không đau khổ gì cả. Ông Tiên nói rằng được bà cụ anh và anh Chụ về đón. Xuống dưới đó, ở một cái “level” rất thoải mái, gặp lại đông đủ bạn bè xưa. Gặp cả ông Đề đốc họ Hoàng nữa, họp hành chính trị chính em vui ghê lắm... Ông ấy đúng là “sinh vi tướng, tử vi thần”. Sau hôm hỏa thiêu, ông thường nhập vào cô Hoàn, nói nhiều chuyện, nhưng “điện” yếu dần đi, ông ấy bảo có lẽ phải lâu lắm mới về lại được. Đành rằng mỗi người có một số mạng, không ai cưỡng lại được. Nhưng tôi không chịu nổi cứ ngày một vắng thưa dần những người yêu mến, hoảng kinh lên, thấy mình càng ngày càng cô đơn giữa đám nhân loại quá nhiều ma cạo. Tháng 9/96, Không Quân mất liên tiếp một lúc 3 cánh chim: Chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh, Đại tá Đặng Duy Lạc, và Trung tá Dàng Thiện Ngươn. Anh em đưa tiễn ông Lạc đến nơi an nghỉ cuối cùng rất đông, đầy đủ lễ nghi, quan tài phủ quốc kỳ, thôi cũng gọi là chết vui và may mắn bởi ra đi sớm còn được anh em lo chu đáo, chết muộn màng dễ gì được vậy. Hồi trong năm nghe Nguyên Vũ từ Pháp về cho biết ông Đạo Cù Trần Tam Tiệp ở Paris, khi không chui vào nhà thương, hôn mê hàng tuần lễ, tôi sợ, cứ hồi hộp nghe ngóng... Sau đó thở phào ra trước tin ông Đạo đã hồi dương, trở về Paris “sống chung hòa bình” với hai chị em bà comtesse già độc thân. Tôi gửi cho ông tấm thiệp, thay lời chúc bằng lời năn nỉ, “Lạy ông trăm lạy, ông làm ơn sống lâu lâu một chút, đừng đi vội... Đời mà thiếu ông, tôi mất vui..!”
Đào Vũ Anh Hùng |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 109 |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |