![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Chuyện Linh Tinh | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 112 |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 24081 |
![]() ![]() ![]() |
![]() |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 24081 |
![]() ![]() ![]() |
Người Đàn Ông Chờ NGƯỜI Tại Sân Bay (Đ.Văn) Hình minh họa Câu Chuyện Cảm Động. Suốt 20 năm, ông cụ lặng lẽ sống ở sân bay, như cái bóng giữa dòng người qua lại, ai cũng từng chỉ trỏ, bàn tán. Cho đến một ngày, sự thật về thân phận ông khiến tất cả phải lặng người trong xúc động. Sân bay Tân Sơn Nhất những năm gần đây đã trở nên hiện đại và náo nhiệt hơn bao giờ hết. Hành khách kéo vali lộc cộc, tiếng loa thông báo chuyến bay vang vọng đều đặn, những cuộc chia ly và đoàn tụ nối tiếp nhau không ngừng nghỉ. Giữa dòng người hối hả ấy, chẳng ai không từng nhìn thấy một hình bóng quen thuộc – một ông cụ gầy gò, tóc bạc trắng, khoác chiếc áo khoác cũ kỹ, ngồi lặng lẽ bên góc ghế chờ gần cổng ra vào quốc tế. Người ta gọi ông bằng nhiều cái tên: “ông cụ sân bay”, “người lang thang thời gian”, thậm chí có người đùa gọi là “hồn ma lạc lối”. Có những đứa trẻ chỉ vào ông rồi thầm thì với mẹ cha, người lớn cũng từng ái ngại mà bỏ lại vài gói mì tôm, chai nước, hay đôi khi là tờ tiền lẻ. Nhưng ông chưa từng xin ai bất cứ điều gì. Ông chỉ ngồi đó, mắt nhìn xa xăm như chờ đợi một điều gì đó sẽ đến từ những chuyến bay không ngừng cất cánh và hạ cánh mỗi ngày. Không ai biết ông đến từ đâu. Không ai rõ vì sao ông lại chọn sống suốt 20 năm giữa nơi nhộn nhịp này, nơi mà ai cũng chỉ dừng lại tạm thời, chứ chẳng ai ở lại vĩnh viễn. “Ông ta bị mất trí nhớ.” – một anh bảo vệ từng nói với cô lao công. “Không phải đâu, nghe đâu ông ấy từng là Việt kiều, bị con cái bỏ rơi lúc về nước.” – chị bán cà phê trong sân bay thì thầm. “Cũng có khi là gián điệp thời chiến, không dám để lộ danh tính.” – có người thêu dệt, kèm nụ cười nửa miệng. Mỗi người một giả thuyết, một mảnh ghép vụn vặt để cố ghép nên câu chuyện chưa có hồi kết. Nhưng ông cụ thì chẳng bao giờ giải thích. Ông chỉ lặng lẽ sống – như thể sự im lặng của ông là một phần của những âm thanh ồn ào kia, là tiếng ngân dài của thời gian bị lãng quên. Một ngày đầu mùa thu năm ấy, khi mưa Sài Gòn kéo đến bất chợt, một cô phóng viên trẻ tên là Hà xuất hiện tại sân bay. Cô được giao thực hiện một phóng sự về “cuộc sống thường ngày ở sân bay”, và khi lướt qua góc ghế quen thuộc, cô thấy ông cụ – ướt lấm tấm mưa, tay ôm khư khư chiếc va-li cũ sờn góc. Tò mò, cô dừng lại hỏi chuyện. Lúc đầu, ông không trả lời. Nhưng cô gái trẻ không bỏ cuộc. Cô mang nước, mang bánh mì, thậm chí ngồi cùng ông cả buổi chiều mà chẳng hỏi gì thêm. Cô chỉ kể về mình – một cô phóng viên tỉnh lẻ lên thành phố, làm nghề vì đam mê kể chuyện của con người. Sau ba ngày như thế, ông cụ cuối cùng cũng lên tiếng – bằng một chất giọng trầm, rõ ràng và đầy cảm xúc. “Cháu có tin là có những người sống cả đời chỉ để đợi một người không?” Hà ngỡ ngàng. Lần đầu tiên, ông cụ không còn là một bóng mờ, mà trở thành một con người – với giọng nói, ký ức, và một trái tim chưa bao giờ thôi chờ đợi. Chuyện Của 40 Năm Trước Ông tên là Trần Văn Minh. Năm 1975, ông theo chuyến bay định mệnh rời Việt Nam sang Mỹ cùng vợ và con gái nhỏ, chỉ 3 tuổi. Nhưng giữa cảnh hỗn loạn lúc ấy, ông bị thất lạc vợ con ở sân bay. Máy bay không thể quay lại, và thế là ông đi một mình – mang theo nỗi day dứt, mang theo trái tim bị xé đôi. Cuộc sống ở Mỹ không dễ dàng, nhưng ông luôn giữ hy vọng một ngày sẽ quay lại tìm vợ con. Ông học hành, làm việc, tích cóp từng đồng. Sau 20 năm, khi đã đủ điều kiện, ông trở về – nhưng không còn ai ở địa chỉ cũ, không còn tin tức. Họ đã biến mất như cơn gió năm nào. Ông lục tung hồ sơ, tìm đến từng nơi có thể. Nhưng chẳng có gì. Duy chỉ có một điều ông giữ chắc trong lòng: vợ ông từng nói, nếu một ngày nào đó bị lạc nhau, hãy quay lại sân bay, nơi họ từng bắt đầu chia xa. Và thế là ông trở lại Tân Sơn Nhất – ngày đó ông 60 tuổi. Giờ đã 80. Hai mươi năm ông sống ở đây, mỗi ngày đều dõi theo từng chuyến bay, từng khuôn mặt. Có lần ông tin là đã thấy bà – một người phụ nữ tuổi lục tuần, ánh mắt rất giống – nhưng rồi bà quay đi, ôm tay một người đàn ông lạ. Ông không đuổi theo. Vì ông sợ sai. Và cũng vì, ông nghĩ, nếu là bà – chắc chắn bà sẽ nhận ra ông. “Cháu biết không,” ông khẽ cười, đôi mắt đầy nước, “Mỗi ngày trôi qua, ta sợ không còn đủ thời gian. Nhưng ta vẫn ngồi đây, vì nếu bà ấy còn sống, chắc chắn sẽ quay lại. Chúng ta đã hứa với nhau…” Tin Tức Gây Chấn Động Hà lặng người. Cô quay về với cuốn băng ghi âm, và chỉ trong vài ngày sau khi phóng sự “Người lữ khách cuối cùng” được đăng tải, mạng xã hội bùng nổ. Bài viết lan tỏa với hàng trăm nghìn lượt chia sẻ. Nhiều người cảm động rơi nước mắt, nhiều Việt kiều liên hệ cô để hỏi thêm thông tin. Và rồi Một Điều Kỳ Diệu đã xảy ra. Một người phụ nữ tên là Trần Thị Ngọc Linh – hiện sống tại Melbourne, Úc – liên hệ với Hà, gửi ảnh chụp bà cùng mẹ ngày còn nhỏ. Hà run rẩy khi nhìn thấy cô bé trong ảnh – đôi mắt giống hệt ông cụ, và sau lưng tấm ảnh là dòng chữ “Gửi ba Minh, nếu ba còn sống, con vẫn chờ.” Cuộc gọi video đầu tiên trong 45 năm – giữa ông Minh và con gái – là những tiếng nấc, là những “ba ơi”, “con đây”, là những giọt nước mắt lăn dài trên khuôn mặt già nua và khuôn mặt đã trở thành mẹ. Họ hẹn gặp nhau – không phải ở sân bay – mà ở chính căn nhà nhỏ ông đang được chăm sóc bởi một nhóm tình nguyện sau khi câu chuyện lan rộng. Ngày Đoàn Tụ Ngày hôm ấy, trời Sài Gòn nắng dịu. Bà Linh – giờ đã là một phụ nữ gần 50 tuổi – bước xuống từ xe, tay run rẩy cầm theo chiếc khăn tay cũ màu hồng, thứ duy nhất còn giữ từ mẹ cô – và là bằng chứng cuối cùng của mối liên kết máu thịt. Ông Minh, ngồi trên chiếc ghế gỗ trong sân nhà, nhìn thấy con gái bước vào – không nói được lời nào. Chỉ có hai cánh tay run run dang ra, và cái ôm nghẹn ngào kéo dài mãi mãi như thể thời gian đã ngừng trôi. “Ba vẫn ngồi chờ con suốt 20 năm… ở cái nơi lần đầu ba mất con.” “Con xin lỗi, ba… Con cứ tưởng ba đã không còn…” Và sau đó… Không ai còn thấy ông cụ ngồi ở sân bay nữa. Góc ghế quen thuộc giờ trống trải, nhưng trong lòng mọi người vẫn in hình bóng ông. Người bảo vệ năm xưa cũng thay đổi thái độ, nói với ai đó mới đến: “Nơi đó từng có một người cha, sống bằng niềm tin, chờ đợi suốt nửa đời người.” Hà kết thúc phóng sự của mình bằng một dòng đơn giản: “Không phải ai đi sân bay cũng chỉ để đi. Có người, ở đó, chỉ để chờ.” Phóng viên Hà |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 24081 |
![]() ![]() ![]() |
Gánh LửaTôi đi gánh lửa trên rừng Có hôm lửa táp phừng phừng ngang lưng...!! Rừng xanh thâm u buồn hiu hắt, chỉ có tiếng lá rơi xào xạc khi nhữngcơn gió thoảng qua.Hay tiếng chim đâu đó trên những tàn cây cổ thụ cao ngất trời.Lâu lâu có tiếng vượn hú dội vào vách núi nghe như tiếng người đi rừng gọi nhau khi lạc đường. Nghe não nùng cả gan ruột... Một vạt rừng khoảng trăm mét vuông bị tôi và thằng bạn hạ gục không thương tiếc để lấy cây đốt than. Trừ những cây to cả người ôm trở lên thì chừa lại. Còn lại thì không tha cây nào. Sau khi hạ cây là đến công đoạn chặt cây ra từng khúc có chiều dài từ 2-2,5m. Khi ước lượng số cây đã đủ cho lò than thì 2 đứa xúm nhau đào đất làm lò. Dụng cụ đào đất là cái mai, nó vừa hơi giống xà beng, vừa khác xà beng là nó là cái lưỡi làm bằng thép cỡ bàn tay và có lỗ để tra cái cán gỗ dài hơn 1m dùng để xắn đất. Thêm 1 cái xẻng dùng xúc đất. Chỉ có vậy, còn dụng cụ đốn cây như rựa, rìu... thì không tính. Lò than dài khoảng gần 3m, ngang 1,5m và sâu 50-60 cm. Xung quanh lò, đào 7 ống dẫn khói (không tính miệng lò). Sau đó khoét miệng lò khá rộng để quạt cho lửa bén vô củi. Ống dẫn khói được làm bằng thân cây rỗng ruột lớn độ bắp chân tụi tôi thôi, và cho nó nhô cao hơn mặt đất vài tấc để tránh bị mưa chảy vào làm tắt lò. Thà "tắt lửa lòng" chứ để tắt lửa lò thì hơi mệt. Vì nếu bị tắt lò nửa chừng trong quá trình đốt thì nó cho ra toàn than sống nửa củi, nửa than bán không ai mua. Đào lò xong, 2 đứa vác cây đã chặt khúc sẵn rồi xếp ngay ngắn vô lò cho đến khi đống cây cao hơn mặt lò khoảng 40 hay 50cm. Tiếp đến là đi chặt cành nhỏ còn nguyên lá xanh đắp lên đống cây. Khi cành lá được đắp kín, chỉ việc lấy xẻng thay phiên nhau xúc đất đổ lên như người ta "đắp mộ cuộc tình" vậy.Tác dụng của việc đắp kín là để khói chỉ có thể thoát ra từ mấy ống thoát khói, để lửa không làm cháy lá cây, rồi sẽ cháy ra ngoài làm sụp lò than và đống cây cháy thành tro là công cốc. Coi như tạm xong, việc còn lại là mồi lửa ngay miệng hầm rồi chổng đít thổi (hoặc quạt) cho lửa bén vô củi mồi. Khi thấy khói trắng ra đều 7 ống khói thì xúc đất lấp kín miệng lò. Vậy là coi như hoàn tất công việc. Một lò củi đốt cho đến khi thành than (kể cả công việc hạ cây) hình như khoảng 7-9 ngày (tôi nhớ mang máng vậy).Và cũng còn tùy lò lớn hay nhỏ. Mỗi ngày tôi với nó lên thăm coi lò có bị sụp chỗ nào thì chặt lá cây vá lại rồi đổ đất lên cho kín. Công việc chỉ vậy thôi. Có khi làm lò than khác để gối đầu. Còn không thì chặt củi bó lại và gánh về. Vì làm lò than tốn nhiều sức lực hơn là chặt củi. Khi củi đã cháy hết thành than thì nó xẹp xuống gần ngang bằng miệng lò. Chờ thêm 1 hay 2 ngày cho than nguội. Sau đó chỉ việc khui lò lấy than gánh về. Mùa mưa thì đỡ, vì bụi than không bay lên mù mịt khi khui lò. Còn vào mùa nắng thì thôi rồi Lượm ơi, vừa khui lò, vừa hít bụi than đã đời con dơi. Đến lúc khạc ra thì nước miếng đặc quánh đen thui lẫn đầy bụi than trong đó. Áo quần thì khỏi cần nhuộm cũng đen thui vì bụi than bám đầy lên đó. Dụng cụ đựng than là bao nylon loại bao gạo 50kg. Chất than vô bao là cả một nghệ thuật sắp xếp rất khoa học, chứ không phải hốt than rồi liệng đại vô bao thì không được bao nhiêu cục. Công việc này phải tỉ mỉ, than được xếp theo từng lớp ngay ngắn trong bao như cá mòi trong mấy lon đồ hộp vậy. Và không chỉ xếp tới miệng bao, mà phải chất cao hơn cả gang tay. Xong xuôi, đi chặt dây rừng ràng lại cẩn thận để than khỏi rớt ra ngoài khi gánh đi. Vậy là xong, chỉ việc xỏ đòn gánh quẩy than về nhà. Xui xẻo thường rơi vào mùa nắng nóng bức. Vì tuy than khá nguội, nhưng có thể vẫn còn sót đâu đó vài cục còn âm ỉ nóng. Khi bị xếp lèn chặt trong bao cộng với cái nóng, cộng thêm ma sát khi di chuyển... Và rồi, có khi đang gánh lơn tơn thì thằng bạn đi sau la lên: - Ê, bao than của mầy bị xì khói cháy rồi kìa. Gánh chạy lẹ đi, gần tới suối rồi đó! Vậy là, đang mệt thấy mụ nội, mà phải vừa gánh vừa chạy đặng cho mau tới bờ suối. Đặt gánh than xuống là 2 đứa cởi áo phóng xuống suối túm nước lên dập lửa. Có bữa tôi gánh đi sau, thấy lửa táp lên từ bao than của nó thì tôi la lên báo cho nó. Nhưng khi trở vai thì nhìn thấy bao than của mình cũng đang xì khói trắng. Nhớ lại vui thiệt, và cũng gian nan, khổ ải, trần ai khoai củ quá chừng. Đúng là ăn của rừng rưng rưng nước mắt. Còn mồ hôi thì lênh láng như biển hồ. Chứ không có đẹp tựa như tranh và chỉ nhỏ vài giọt mồ hôi như trong bài hát Biển mặn của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh: "... Đẹp tựa trong tranh, gót bùn lầy cho lúa thêm xanh. Trong bao lần quân hành. Tôi qua vùng khô cằn mồ hôi thành biển mặn trên môi". Hồi nhỏ đọc truyện cổ tích, chỉ thấy người lớn hay người già vô rừng làm tiều phu đốn củi, đốn than... Ai dè, sau 75 thì con nít cũng trầm luân hệt vậy. Một gánh than giá trị bằng 3 hay 4 gánh củi, nên sau này tụi tôi thích làm than bán có tiền hơn. Vì bán gánh củi thì coi như ngày nào xào ngày đó, chứ không dư tiền mua thêm những thứ cần thiết để xài được dăm bảy ngày như bán than. Mỗi ngày trôi qua, chúng tôi như đám thú hoang sống chui lủi trong rừng xanh bạt ngàn để gặm nhấm, tàn phá từng chút một trên thân thể mẹ thiên nhiên hào phóng cho đi mà không hề đòi lại bao giờ. Trước 75 khi còn đi học,chúng tôi được thầy cô dạy yêu thiên nhiên và giữ gìn những gì tổ tiên đã gìn giữ cho đời sau. Chúng tôi ghi tâm khắc cốt những điều nhân bản ấy.Nhưng sau 75, đời sống bị xáo trộn vì thời cuộc. Và rồi, để tồn tại sau khi gần như bị lưu đày không thời hạn, thì chúng tôi buộc lòng "phá sơn lâm" để sinh tồn. Ngày xưa, lính thú 3 năm trấn thủ lưu đồn với những gian nan, khổ ải nơi vùng rừng núi biên thùy: "3 năm trấn thủ lưu đồn Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan. Chém tre, đẵn gỗ trên ngàn, Hữu thân, hữu khổ phàn nàn cùng ai! Miệng ăn măng trúc, măng mai, Những giang cùng nứa biết ai bạn cùng? Nước giếng trong, con cá nó vẫy vùng... Sau 75 chúng tôi không là lính thú nhưng gần như cũng bị lưu đày lên vùng rừng núi xa xôi, cách biệt với nền văn minh nơi thành thị: 3 năm sống bám núi rừng Ngày thì đốn củi, tối giường sạp cây Ăn thì cơm độn ngô khoai Uống ra bờ suối bóng cây soi mình Nửa khuya đường núi gập ghình Gian nan ấy chẳng thương tình trẻ thơ Nước suối trong, con cá nó vật vờ...!!! Một gánh lửa, một gánh than... cũng là một gánh đời, gánh số phận trẻ thơ của bên thua cả cuộc chiến và bại cả cuộc đời. Cao Hoàng Trích Hồi ức kinh tế mới sau 1975 |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 24081 |
![]() ![]() ![]() |
Chân Dung Người Vợ Lính VNCH![]() Kính thưa quí vị, Trong cuộc sống, sự thành công hay thất bại nào cũng có cái giá của nó. Trong chiến tranh cũng vậy, cái giá của những chiến tích lừng danh mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) phải trả, là những đồng đội đã hi sinh, những đồng đội khác đã để lại một phần thân thể trên khắp miền đất nước, và hệ lụy dài lâu là những đứa trẻ vĩnh viễn xa cha, những người vợ vĩnh viễn xa chồng! Người quân nhân hi sinh vì tổ quốc, là sự hi sinh cao cả mà tổ quốc mãi mãi ghi công. Nhưng, hình ảnh người quả phụ, với một nửa tâm hồn, một nửa con tim, một nửa phần hơi thở, theo chồng lên đài tổ quốc ghi công, và những nửa còn lại có trách nhiệm trang bị cho các con một hành trang vào đời, phải được thừa nhận là sự hi sinh không kém phần cao cả như người chồng dũng cảm nơi chiến trường, rất xứng đáng được chúng ta kính trọng. Cũng trong chiến tranh, chồng ở chiến trường, vợ ở nhà quán xuyến công việc gia đình mà công việc gia đình nhiều đến nỗi có những việc chưa kịp đặt tên, nhưng tất cả đều là việc. Chăm sóc các con, chăm sóc tình thân gia đình quyến thuộc, chăm sóc tình bạn bè bằng hữu. Để rồi, những giờ phút yên tỉnh về đêm khi các con chìm trong giấc ngủ, mơ màng nghĩ đến chồng nơi chốn xa xôi, hay đang trong chiến trường khốc liệt, với bao khắc khoải lo âu, sầu muộn! Rồi chiến tranh chấm dứt trong nỗi nghẹn ngào uất hận, bởi đây là cuộc chiến mà cuối cùng “bị chấm dứt để thua trận”! Sau lời tuyên bố của vị Tổng Thống cuối cùng, hàng trăm ngàn đồng bào, quân nhân, viên chức, cán bộ, bỏ của chạy lấy người, tị nạn trên đất Mỹ. Với những thành phần tương tự như vậy gồm 222.809 người, lũ lượt bị lừa vào 200 trại tập trung trên khắp miền đất nước. Người 5 năm, 10 năm, 15 năm, thậm chí 17 năm ròng rã, do lòng thù hận tột cùng của nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Hằng trăm ngàn gia đình di tản ra ngoại quốc, cũng như hằng chục triệu gia đình còn lại trên quê hương, tất cả đều hụt hẫng. Hụt hẫng vì cuộc sống trên đất người với biết bao xa lạ trong một xã hội kỹ nghệ mà bước đầu chưa thể hội nhập. Hụt hẫng vì phút chốc, từ chế độ tự do bị đẩy vào chế độ độc tài trên toàn cõi Việt Nam! Cảnh đời thứ nhất. Trong cuộc đời tị nạn, vợ chồng con cháu có cơ hội bên nhau, cùng chia xẻ khổ đau, cùng gánh vác nhọc nhằn, cùng nhận chung nỗi nhục! Nỗi nhục phải rời khỏi quê hương trong thân phận lưu vong! Với những bà vợ chúng ta, vốn sinh ra và trưởng thành trong xã hội nông nghiệp, nay phải cùng chồng từng bước hội nhập vào xã hội kỹ nghệ nơi định cư, đã phải đêm đêm đếm bước từ bến xe công cộng về nhà trong màn tuyết lạnh sau những giờ nhọc nhằn nơi hãng xưởng. Lạnh đến nỗi không biết giọt nước lăn trên má là nước mắt, hay mảnh tuyết vừa tan! Cảnh đời thứ hai. Trong xã hội mà kẻ thắng trận đầy lòng thù hận, thì gia đình ly tán, sự sống bị bóp nghẹt đến tận cùng của khổ đau, của nước mắt bởi chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng! Cái chế độ mà những người lãnh đạo luôn miệng huênh hoang là “dân chủ gấp trăm lần dân chủ tư bản”, lại bắt mọi người phải sống trong nỗi sợ hãi triền miên với những đôi mắt rình rập quanh năm suốt tháng! Cảnh đời thứ ba. Riêng với những bà vợ ở lại mà chồng đã vào tù, còn tệ hơn nhiều so với hai cảnh đời nói trên. Hằng ngày phải đối phó với bọn cầm quyền địa phương, cái bọn mà đầu óc toàn đất sét và rác rưởi, chỉ biết đàn áp để cướp đoạt. Đồng thời phải chăm lo cuộc sống các con từng ngày, lo nuôi chồng từng tháng! Những bà vợ chúng ta, hải ngoại hay trong nước, thật sự là Những Người Đàn Bà Việt Nam rất can đảm khi phải chịu đựng và vượt qua nỗi đau nỗi nhục đó! Đau đến nỗi không còn nước mắt để khóc, nhục đến nỗi chẳng còn lời để than! Nếu đem so sánh giữa hai cảnh đời trong nước với ngoài nước, thử hỏi: “Ai đau hơn ai và ai nhục hơn ai?” Với tôi, không ai đau hơn ai, cũng không ai nhục hơn ai! Vì nỗi đau nào cũng có cái đau riêng của nó, nỗi nhục nào cũng có cái nhục riêng của nó! Xin những ông chồng diểm phúc, hãy nhìn lại đôi nét về hình ảnh Những Bà Vợ Chúng Ta trong cuộc sống khổ đau thầm lặng đó, mà người viết được những bà vợ trong cuộc kể lại: Một cảnh đau thương. Một bà vợ cùng con cầm giấy phép “gánh gạo” nuôi chồng trên đất Bắc. Ba ngày đi, ba ngày về, 2 tiếng đồng hồ gặp gở! Khi trở về cư xá Bắc Hải, nhà bị niêm phong với dòng chữ “nhà vắng chủ”. Đau đớn biết bao! Xót xa biết dường nào! Bỗng dưng nhà bị mất! Bà gục đầu vào cửa! Bà cùng gia đình định cư tại Houston, Texas từ tháng 4 năm 1991. Một cảnh đau thương khác. Một bà vợ đã bao nhiêu lần bị công an Phường ra lệnh đi khu kinh tế mới, nhưng bà vẫn không đi. Chúng hành hạ bằng cách gọi bà đến văn phòng, bảo ngồi đó từ đầu giờ đến cuối giờ, ngày nào cũng vậy, và ròng rã 6 tháng như vậy. Một hôm, chúng bảo đưa giấy tờ nhà để giải quyết. Khi chụp được hồ sơ, lập tức tên công an ra lệnh trong vòng 24 tiếng đồng hồ bà phải ra khỏi nhà. “Ôi! Còn nỗi đau nào cao hơn nỗi đau này trong cảnh đời thua trận!” Bà xiêu vẹo trên đường về nhà cách đó mấy dãy nhà liên kế cũng trong cư xá Bắc Hải, và gục ngã ngay trước nhà! Bà cùng gia đình định cư vùng bắc California từ năm 1993, nhưng chồng đã qua đời vào năm 2003. Một cảnh đau thương khác nữa. Một bà vợ có chồng bị giam trên đất Bắc hằng chục năm trời, bỗng dưng mất liên lạc. Bà lặn lội khắp các cơ quan tại Sài Gòn, Hà Nội, tốn kém, mệt nhọc, nhưng hoàn toàn bặt tin. Nỗi buồn đến với bà quá sức chịu đựng của người phụ nữ tuổi 50, mà có lúc bà cảm thấy như mình đang bên bờ vực thẳm, rồi ngã dần xuống…… Bà bị tai biến mạch máu não, nằm bất động một chỗ. Nhiều tháng sau đó, bất ngờ, người nhà của bà nhận được giấy cho phép bà thăm chồng. Trại tù chỉ cách nhà vỏn vẹn 1 cây số (khám Chí Hòa). Bạn bè khiêng bà đến nhà tù. Cả hai “chồng đứng đó vợ liệt toàn thân”, chỉ biết nhìn nhau, òa khóc…! Khóc cho mình! Khóc cho cuộc đời! Phải chăng, mọi khổ đau trên cõi đời này đang bao quanh hai con người đau khổ đó? Không. Không chỉ có vậy. Mà là tất cả những bà vợ có chồng bị cộng sản giam giữ trong tù, tiêu biểu qua 3 cảnh đời trên đây trong hàng vạn cảnh đời trên đất nước Việt Nam, đều trong nỗi khổ tột cùng đó! Tình trạng bại liệt đó theo Bà cùng chồng định cư tại Houston, nhưng rồi Bà đã từ trần năm 2004! Sài Gòn-Hà Nội 1.736 cây số, xe lửa tốc hành chạy 72 tiếng đồng hồ, tức 3 ngày 3 đêm. Mỗi người chỉ được mang theo 20 kí lô lên xe lửa, mang nhiều hơn số đó phải hối lộ cho một loạt nhân viên từ cổng vào cho đến nhân viên trên xe lửa. Hành lý ngổn ngang cả trên lối đi giữa toa xe. Ban ngày cũng phải lách từng bước chân vào chỗ trống. Còn ban đêm, thật khó mà tưởng tượng! Hai băng ngồi đối diện, một băng 3 người. Hai băng phía bên kia lối đi, mỗi băng 2 người ngồi. Hai đầu trên của hai băng 6 người, máng được 3 cái võng cho 3 người, 1 người nằm co quắp trên sàn xe đen đúa nhầy nhụa giữa 2 băng đối diện, và 2 người còn lại cũng nằm co quắp trên 2 băng ngồi. Nếu nhìn toàn cảnh của toa xe sẽ thấy, băng ngồi đầy người nằm, những chiếc võng bé xíu che kín trên đầu băng, cả lối đi vốn dĩ đã nhỏ hẹp cũng đầy người nằm chen lẫn trong đống hành lý thật hổn độn. Những bà vợ thăm chồng, mang theo hằng trăm kí lô, biết bao là nhọc nhằn gian khổ! Giả thử, nếu những ông chồng chứng kiến những hành khách nằm cong queo trong cái gọi là chiếc võng kia, hay co quắp giữa những gói quà đầy ấp tình thương trên sàn xe nhớp nhúa đó, là những bà vợ của mình, liệu có cầm được nước mắt không? Nghe nói lại, nghe thuật lại, ông chồng nào cũng đớn đau thương cảm cho tình cảnh những bà vợ quanh năm gánh gạo nuôi chồng! Nhưng không có đớn đau thương cảm nào có thể đem cân bằng nỗi đớn đau thương cảm của những bà vợ trọn tình vẹn nghĩa như vậy được cả! Tôi hình dung những bà vợ chúng ta qua hình ảnh trên đây mà chính tôi trông thấy khi tôi ra trại tập trung cùng với 90 “bạn đồng tù”, từ Nam Định về Sài Gòn bằng xe lửa đúng 72 tiếng đồng hồ hồi tháng 9 năm 1987. Trên đây là một cố gắng dựng lại hình ảnh “Những Bà Vợ Chúng Ta”, nếu không rõ nét thì ít ra cũng là những nét chính của hình ảnh ấy, qua sự kết nối bốn hợp phần sau đây: Hai hợp phần trong chiến tranh, là những bà vợ mà chồng đã hy sinh, và những bà vợ mà chồng đang chiến đấu. Hai hợp phần sau chiến tranh, là những bà vợ cùng chồng con di tản ngoại quốc, và những bà vợ ở lại Việt Nam, vừa nuôi con trong một xã hội đầy hận thù và kỳ thị, vừa nuôi chồng trong những trại tập trung nghiệt ngã! Những cảnh đời bi thương, những khổ đau sầu muộn, những nước mắt, mồ hôi, được khơi lên từ những góc cạnh li ti trong hằng vạn hằng vạn cảnh đời như vậy, mà Những Bà Vợ Chúng Ta đã chịu đựng trong những năm dài thật dài! Quyển “Chân Trời Dâu Bể” của Giao Chỉ, kể chuyện trên đất Mỹ, và quyển “Giữa Dòng Nghịch Lũ” của Duy Năng, kể chuyện trên quê hương Việt Nam. Hai tác phẩm này trong một mức độ nào đó, có thể xem là tiêu biểu cho rất nhiều tác phẩm dưới dạng chuyện kể thật bình thường, nhưng ôm ấp biết bao xót xa thương cảm cho thân phận người phụ nữ Việt Nam sau ngày thua trận, dù sống trong hai xã hội cách nhau nửa vòng trái đất. Với tác phẩm của Duy Năng, người kể chuyện là bà Hàng Phụng Hà. Bà là một trong số hằng trăm ngàn bà vợ thăm nuôi chồng trong tù. Ở phần kết, bà nói: “… Các anh trong tù, khổ về vật chất và đau về tinh thần đến vạn lần, điều đó chúng tôi biết. Nhưng, chúng tôi -những bà vợ của các anh- đau khổ gấp ngàn cái vạn lần của các anh nữa, các anh có biết không? Tôi không đề cao một bà vợ nào, mà tôi đề cao tất cả những bà vợ thăm nuôi chồng trong các trại tù cải tạo. Bởi vì: Họ, đã đứng vững trong phẩm giá Người Vợ Miền Nam. Họ, rất xứng đáng được các anh kính trọng. Và Họ, chính là Vợ của các Anh”. Vì vậy mà một số bạn đồng tù chúng tôi trong trại tập trung, đã không quá lời khi nói với nhau rằng: “Ra tù, chúng ta phải cõng vợ chúng ta đi vòng quanh trái đất, để đền bù đôi chút về sức chịu đựng biết bao nhọc nhằn gian khổ đã nuôi các con và nuôi chúng mình”. Bây giờ nhìn lại, trong một ý nghĩa nào đó, những cựu tù nhân chính trị chúng ta, đã cõng vợ đi được nửa vòng trái đất rồi. Đến ngày Việt Nam thật sự tự do dân chủ, chúng ta sẽ cõng vợ trở về quê hương là trọn vòng trái đất như đã tự hứa, phải không quí vị? Với nét chân dung đó, tôi quả quyết rằng, Những Bà Vợ Chúng Ta rất xứng đáng được vinh danh. Và nếu quí đồng đội và quí vị đồng hương đồng ý với tôi, chúng ta cùng nói to lên rằng: “Chúng ta cùng vinh danh Những Bà Vợ Chúng Ta là những người đàn bà cao cả, rất xứng đáng được kính trọng. Bởi, trong hoàn cảnh nghiệt ngã của chế độ độc tài cộng sản, nhưng đã đứng vững trong phẩm giá Người Vợ Miền Nam, cùng lúc, chu toàn thiên chức làm Mẹ, và tròn bổn phận làm Con”. Vinh danh bằng những tiếng nói ân tình bên tai vợ, trao tặng vợ một bông hồng thật đẹp, hôn vợ những nụ hôn thật dài. Điều đó luôn nhắc nhở người chồng trong cuộc sống thường ngày, phải thể hiện lòng hiểu biết vợ mình nhiều hơn, cảm thông vợ mình nhiều hơn, rồi quàng tay vào lưng vợ mình chặt hơn, để cùng nhau đi suốt chiều dài còn lại trong cuộc sống lứa đôi thật mặn nồng, như chưa bao giờ mặn nồng đến như vậy. Trường hợp vì lý do gì đó mà bạn đang sống một mình, xin bạn hãy gắn bông hồng màu đỏ lên nơi nào mà khi nằm nghỉ bạn đều trông thấy, để trao tặng vợ khi đoàn tụ bên nhau. Hoặc sự trông thấy đó, sẽ giúp bạn có được những giây phút sống lại những năm tháng mặn nồng trong tình yêu vợ chồng thuở chung chăn chung gối, thuở mà hai người dùng chung một tên. Phạm Bá Hoa |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 24081 |
![]() ![]() ![]() |
![]() ĐIỆP-MỸ-LINH - KỶ NIỆM với “CON TÀU MÁU” HQ 505 1. KỶ NIỆM với “CON TÀU MÁU” HQ 505 Đang tưới mấy chậu hoa trên sân thượng, tôi nghe tiếng chân người chạy thật nhanh từ phía cầu thang. Quay lại nhìn, tôi thấy bà giúp việc đang đưa tay vuốt ngực, thở gấp và nói đứt đoạn: - Thưa…cô…c…o…ó…điệ…n…thoại. Vì vội vàng, tôi xách luôn bình nước tưới cây, vừa chạy đến cầu thang vừa hỏi: - Ai vậy, dì Năm? - Dạ…ông. Vừa nói bà Năm vừa quay người chạy theo tôi và đưa tay xách bình nước từ tay tôi. Mấy hôm nay tôi gần như sống trong sự khủng hoảng nào đó, không lúc nào tâm hồn được yên. Mỗi lần chuông điện thoại reng, tôi giật mình, hồi hộp, thở không đều. Bây giờ chạy từ lầu ba xuống, tôi thở nặng nhọc như một tay đua vừa chạy giáp vòng sân Cộng-Hòa. Vừa chụp ống nghe, chưa kịp nói allo, tiếng Minh đã vang lên từ đầu giây bên kia: - Làm gì mà thở dữ vậy, cô nương? Nghe Minh vẫn diễu cợt bình thường, tôi hỏi ngược lại Minh: - Có tin gì khác không, anh? - Có… Minh hơi ngập ngừng. Tôi lắng nghe nhưng Minh không nói tiếp. Ngỡ rằng Minh đang bận nói gì với ai, tôi chờ một chốc rồi dục: - Allo! Anh đang bận, phải không? - Không. Anh nghe đây. - Sao đang không anh im lặng vậy? - Thôi, để anh về anh nói cho nghe. - Thì nói bây giờ đi. Sau một thoáng im lặng, Minh hỏi: - Em còn giữ ý định tìm phương tiện về ngoài đó hay không? - Em phải về, - Anh hiểu. Minh ngưng. Dường như có tiếng thở dài nhè nhẹ. Một chốc, Minh tiếp: - Anh về bây giờ. Giọng Minh có chút gì là lạ. Sau khi gác ống điện thoại, tôi chợt nhớ đến Trí, một sĩ quan Không-Quân đã hứa sẽ tìm phương tiện cho tôi về đem gia đình vào Saigon. Tôi quay số. Bà Trí bắt ống nghe. Tôi nhắc bà về lời hứa của Trí. Bà Trí bảo tôi chờ. Dường như bà Trí đang bịt ống nói để nói gì với Trí, tôi chỉ nghe lao xao. Một lúc sau, giọng Trí có vẻ ngạc nhiên: - Chị Minh! Chị chưa nghe gì hết sao? - Dạ, nghe gì, anh? - Nha-Trang mất rồi! Tưởng mình nghe lầm, tôi hỏi, giọng hơi lớn: - Dạ, anh nói gì, anh Trí? - Nha-Trang mất rồi, bà ơi! Tôi tưởng anh Minh cho chị hay rồi chứ. Tôi thẩn thờ một lúc rồi “rơi” vào lòng ghế xa-lông, đầu óc trống rỗng. Ngoài những người ruột thịt, tôi còn dấu trong khung trời Nha-Trang những nhiệm mầu của tuổi thơ, những xót xa của kỷ niệm và nhiều đắng cay của cuộc tình. Từng này tuổi, nếu phải mất ngần ấy yêu thương thì hồn tôi sẽ thành một bãi vắng mênh mông! Không nghe tôi nói gì, Trí tiếp: - Thôi, chị à! Tôi quý chị lắm, nhưng tôi khuyên chị là…hết rồi! Chị không nên liều mạng như vậy. Tôi khẩn khỏan: - Dù chuyến bay chót cũng được, anh Trí à. Tôi sẽ tìm phương tiện trở về sau. - Bây giờ chỉ còn những chuyến trực thăng ra đến Cam-Ranh thôi. Nhưng tôi cũng không thể để chị đi những chuyến đó; bởi vì chưa biết mình còn giữ được Cam-Ranh bao lâu nữa! Đã đành gia đình là trọng, nhưng chị còn chồng còn con của chị nữa chứ, chị quên sao? - Dạ, tôi biết. Nhưng các cháu có anh Minh lo; còn gia đình của tôi ngoài đó không ai lo được gì cả. - Bộ chị không sợ Việt-Cộng hay sao mà tới giờ này còn đòi bay về ngoài đó? Trí chuyển đề tài bất ngờ khiến tôi hơi lúng túng: - Dạ…dạ… Tôi nghe giọng bà Trí nói chi đó rồi Trí cười lớn từ đầu giây bên kia. Chỉ một thoáng thôi, giọng Trí trở nên hấp tấp: - Allo! Allo! Chị còn đó không? Xin lỗi chị, tôi cười hơi lớn vì bà xã tôi nói tôi “cà chớn”, nhè chị mà hỏi có sợ Việt-Cộng hay không. Tôi cũng cười, chưa biết cách nào trở lại đề tài xin trực thăng đi Nha-Trang thì Minh đẩy cửa, bước vào. Tôi đưa tay che ống nói rồi nói với Minh: - Anh Trí. - Trí nào? - Anh Trí Không-Quân. Minh “a” lên một tiếng rồi đi thẳng lên lầu. Trí hỏi: - Anh về, phải không, chị? Tôi “Dạ”. Trí đổi giọng thân mật: - Thôi, xong rồi. Bà lo cho ông ấy đi. Không đi đâu nữa cả, có gì ân hận lắm đó, bà. Sau khi gác điện thoại, tôi như kẻ mất hồn. Nếu Trí không gửi tôi theo các chuyến bay ra Trung thì đâu còn ai bên Không-Quân tôi có thể nhờ được. Còn Hải-Quân, giờ này có lẽ đâu còn chiếc nào tại bến mà nhờ! Tôi thở dài, tính vào bếp phụ dọn cơm thì Minh từ trên lầu đi xuống: - Trí cho em hay rồi, phải không? Tôi nhìn ra khung cửa lưới. Vạt nắng mong manh trên khóm hoa giấy trước sân khiến tôi nhớ Nha-Trang vô vàn! Tôi như muốn khóc, “dạ” nho nhỏ, trả lời câu hỏi của Minh. Minh ngồi vào xa-lông, gương mặt cũng chẳng vui gì. Một lúc lâu, Minh hỏi: - Em còn muốn về ngoài đó không? - Dạ. Nhưng anh Trí bảo không giúp được. Còn tàu, anh thấy có chiếc nào đi ra Trung nữa không? - Có. Nhưng tới Phan-Rang thôi. Tôi sáng mắt lên: - Vậy cũng được. Chiếc nào vậy, anh? - 505. - 505 là chiếc nào? - LST Nha-Trang. Nha-Trang! Tuy không được sinh trưởng tại Nha-Trang, nhưng âm hưởng nhẹ nhàng của hai tiếng Nha-Trang lúc nào cũng như một ràng buộc vô hình vào đời tôi. - Ai là Hạm-Trưởng, anh? Minh cười, ánh mắt tinh nghịch: - Nhượng đó. Không dấu được vui mừng, tôi reo lên: - A, anh Nhượng khóa 9 đó hả? Anh xin anh ấy cho em quá giang đi. Minh giả vờ lườm tôi, môi hơi mỉm cười. Tôi cũng cười, ngó lơ ra chòm hoa giấy ngoài sân để tránh ánh mắt tinh quái của Minh. Vạt nắng đã tắt, tưởng không còn gì gợi nhớ, nhưng hai chữ “Nhượng đó” của Minh khiến tôi nghĩ nhiều đến người bạn xưa mà cả Minh và tôi đều quen thân và quý mến. Bỗng dưng tôi như cảm nhận được thoang thoảng đâu đây hương Nuit d’Orient ngọt ngào, rồi cánh bướm xanh lấp lánh trên nhánh mai vàng đầy nụ. Thấy tôi có vẻ suy tư, Minh đứng lên, cắt ngang dòng ý tưởng của tôi: - Đi ăn cho rồi, cô nương, ở đó mà mơ mộng. Trong bữa cơm chiều, Minh bàn tính về chuyến “mạo hiểm” của tôi. Minh liên lạc với hai người đàn ông mà gia đình của họ cũng kẹt lại Nha-Trang, bảo họ đi với tôi để lo và giúp đỡ tôi. Chiều hôm sau Minh đưa cả ba chúng tôi sang Thành Tuy-Hạ; vì Dương-Vận-Hạm Nha-Trang, HQ 505, đang nhận đạn tại đây. Trên boong chiến hạm, tôi gặp lại Trung-Úy Trần-Há – người đã lội nát vùng U-Minh trong thời gian anh phục vụ tại Giang-Đoàn 26 Xung-Phong. Tôi nghe tiếng Há phàn nàn nho nhỏ với Minh: - Giờ phút này mà Commandant để chị đi làm chi, Commandant? Minh lắc đầu: - Hồi ở Giang-Đoàn 26 “toa” còn lạ gì tính cương quyết của bả. Thôi, có gì “toa” lo cho bả giùm. “Moi” đã nói với Hạm-Trưởng Nhượng rồi. Nói xong Minh vội vàng rời chiến hạm, vì tàu vừa vào nhiệm sở vận chuyển. Nhìn theo chiếc Jeep lẫn khuất trong đám bụi mờ, tôi bâng khuâng tự hỏi, không biết tôi còn gặp lại Minh nữa hay không! Cần “ăng-ten” cao vút rún rẩy phía sau chiếc Jeep khiến tôi nhớ đến đứa con gái thứ hai của tôi đang nội trú tại trường Régina Pacis. Khi nào thấy chiếc Jeep có “ăng-ten” cao cháu cũng nói: “Con ghét mấy cái xe có cần câu đó lắm.” Nếu ai hỏi lý do, cháu sẽ đáp: “Tại nó làm con nhớ Ba”. Chút ray rứt này đột nhiên làm tôi hối hận về quyết định của tôi. Lòng tôi chùng xuống! Tôi đang nén tiếng thở dài thì giọng Há vang lên từ cửa thông vào phòng ăn sĩ quan: - Chị vào nghỉ, sắp sửa dùng cơm rồi, chị. Tôi xách cái xắc cũ mèm, bên trong đựng vài bộ đồ tây không còn hợp thời trang – Minh bảo ngụy trang như vậy để nhỡ có gì xảy ra, thiên hạ khó biết mình thuộc vào thành phần nào, đỡ nguy hiểm – bước vào phòng ăn. Tôi ngồi vào xô-pha, nhìn các sĩ quan từ từ kéo nhau vào, ngồi quanh bàn ăn, theo thứ tự thâm niên kể từ chiếc ghế dành riêng cho Hạm-Trưởng. Tôi nhận ra Khánh, em của một nhà văn Không-Quân. Tôi hỏi thăm Khánh về “ông anh nhà văn”. Khánh kể cho tôi nghe về cái chết của ông ấy. Tôi không ngờ những ngày cuối cùng của nhà văn ấy bi thảm đến như vậy! Nói chuyện một lúc, Khánh nhắc đến Nha-Trang với những ngày anh em của Khánh còn theo học trường Thống-Nhất. Tôi tuy là “dân” Võ-Tánh, nhưng vì có ý định theo ban “B” cho nên mỗi mùa Hè tôi thường học thêm Toán-Lý-Hóa tại các trường tư; nhờ vậy câu chuyện giữa Khánh và tôi trở nên lôi cuốn vì chúng tôi khơi lại kỷ niệm xưa. Nói chuyện xưa một lúc, Khánh chợt đổi đề tài, kể cho tôi nghe về những hải trình mà Dương-Vận-Hạm Nha-Trang, HQ 505, đã vượt qua trong thời gian di tản miền Trung. Trong câu chuyện, thỉnh thoảng Há và những sĩ quan khác cũng góp thêm nhiều chi tiết mà chỉ nghe không thôi, tôi cũng cảm thấy kinh hoàng! Và, sau cuộc rút quân ở Chu-Lai, Dương-Vận-Hạm Nha-Trang, HQ 505, mang biệt danh là Con Tàu Máu! (1) Câu chuyện sắp đến đoạn ủi bãi Chu-Lai thì Hạm-Phó bước vào. Hạm-Phó ngồi vào ghế đầu bàn, góp chuyện với chúng tôi. Trong khi câu chuyện giữa chúng tôi đang “nổ” dòn, nhà bếp vẫn âm thầm dọn lên bàn một bữa ăn rất đạm bạc. Các sĩ quan đang cười, nói huyên thuyên bỗng im bặt vì Hạm-Trưởng vừa bước vào. Tất cả - trừ tôi – đứng lên chào Hạm-Trưởng. Nhượng nhìn tôi, mỉm cười, rồi mời tất cả sĩ quan ngồi xuống. Thấy bữa ăn chiều trên chiến hạm HQ 505, tôi mới nghiệm ra một điều là: Những người đi tàu giữ đúng nghi thức và truyền thống Hải-Quân hơn những người ở đơn vị tác chiến. Mặc dù đã tham dự không biết bao nhiêu buổi tiếp tân trên chiến hạm, cũng như trong câu-lạc-bộ Hải-Quân, không bao giờ tôi để ý đến cách thức Hải-Quân sắp chỗ ngồi. Bây giờ tôi mới thấy chiếc ghế bên phải của Nhượng còn trống. Nhượng mời tôi dùng “cơm lính”. Tôi cười: - Cơm lính gì, mấy anh ăn sang quá; cơm giang đoàn mới đúng là cơm lính đó, anh. Vẫn tính ít nói như xưa, Nhượng chỉ cười. Khánh bảo: - Chị thiên vị lính giang đoàn rồi đó. Tôi nhìn Khánh rồi nhìn Há: - Đâu có. Anh hỏi anh Há xem, lính giang đoàn cực lắm. Nhượng đưa tay về phía ghế trống, mời tôi một lần nữa: - Mời chị. Lúc này tôi mới chợt nhớ, vội lắc đầu: - Dạ, cảm ơn anh, nhưng tôi xin lỗi, tôi ăn chay. Nhượng tỏ vẻ ngạc nhiên: - Thế à? Để tôi bảo nhà bếp làm cơm chay cho chị. Mời chị ngồi đây. Nhượng đưa tay hơi nhích chiếc ghế trống ra một tý. Tôi đứng lên, đi dần ra cửa: - Dạ, cảm ơn anh. Tôi xuống bếp xin chút xì-dầu. Tuy nói như vậy, nhưng khi vào bếp, tôi nhờ anh nhà bếp ra thưa với Nhượng là tối tôi mới ăn; xin anh nhà bếp để dành cho tôi ít cơm và xì-dầu. Sau đó tôi ra trước mũi chiến hạm, ngồi lặng lẽ, nhìn dòng sông Saigon uốn khúc trong hoàng hôn chập chùng. Ngoài những lần viếng thăm tiềm-thủy-đỉnh hoặc những chiến hạm của Hải-Quân Hoa-Kỳ, đây là chuyến hải hành đầu tiên của tôi trên một chiến hạm của Hải-Quân Việt-Nam. Từ boong tàu nhìn xuống mặt sông, khoảng cách quá xa, khiến tôi nhớ và thèm một mảnh không gian nho nhỏ trong lòng chiếc Fom. Từ chiếc giường treo, lom khom chui ra phía sau của chiếc Fom, tôi chỉ cần hơi khom xuống một chút là có thể dùng tay khỏa mặt nước mát rượi hoặc níu một nhánh bèo có những nụ bông tím. Gió lồng lộng. Trong âm thanh lao xao mơ hồ từ hai bên bờ sông và tiếng máy tàu vi vu, tôi thấy thiếu tiếng “rè rè, rột rột” quen thuộc từ chiếc máy truyền tin PRC25 trên chiếc Command. Nhìn quanh chiến hạm, mọi thứ đều ngăn nắp, sạch sẽ, tôi lại liên tưởng đến lòng chiếc LCM nhuộm máu bên dòng sông đào thuộc quận Gia-Rai! Trên mặt sông lặng lờ, đoàn giang đỉnh đang di động ngược chiều, tạo nên những lượn sóng loáng thoáng màu bạc. Lúc đến gần tôi mới nhận ra đó là đoàn PBR. Đối với tôi, hình ảnh đẹp nhất là từ trên trực thăng, nhìn đoàn PBR lướt nhanh trên những đoạn sông hẹp, bỏ lại phía xa mặt sông cuồn nộ giữa hai hàng dừa nước quằn quại. Bây giờ, trên dòng sông lớn, nhìn đoàn PBR ẩn hiện lờ mờ trong bóng hoàng hôn tôi vẫn thấy có một cái gì đó rất hùng vĩ, rất lãng mạn. Khi chiến hạm ra đến biển, tôi bắt đầu cảm thấy khó chịu. Dựa người vào thành tàu với cảm giác ngầy ngật, tôi nghĩ đến Minh và những ngày Minh đi HQ 3. HQ 3 bề thế, tiện nghi, nhưng sao Minh vẫn thấy tù quẫn hơn chiếc Command nhỏ bé trên những dòng sông có súng thù chực chờ! Đài chỉ huy và ghế Hạm-Trưởng trượng trưng cho uy quyền sao không hấp dẫn Minh bằng những đêm ngồi xổm trên sàn chiến đỉnh, tay bấm đèn, mắt lom lom nhìn vào bản đồ hành quân, tìm vị thế một đồn Nghĩa-Quân vừa kêu cứu! Câu truyền tụng trong Hải-Quân: “Trên biển cả,, sau Thượng-Đế là Hạm-Trưởng” sao không lôi cuốn Minh bằng những lần bay trực thăng trong tầm đạn của địch để thị sát những điểm đổ quân… Bây giờ thì tôi hiểu! * * * HQ 505 đến vịnh Phan-Rang vào một buổi sáng trời trong, biển lý tưởng. Theo hoạch định, tôi sẽ ở trên HQ 505, hai người đàn ông theo tôi sẽ vào bờ, thuê xe đi ra Nhatrang rồi đem cả mấy gia đình vô lại Phan-Rang. Nếu khi họ trở vô mà chiến hạm đã chuyển xong số đạn và không còn ủi bãi nữa thì họ sẽ giăng một tấm vải màu làm hiệu và tôi sẽ nhờ Nhượng cho xuồng đổ bộ vào đón. Thấy hai người đàn ông lộ vẻ vui mừng, tôi đưa cho họ tờ giấy xếp nhỏ và dặn: - Ông đưa giùm giấy này cho Ba tôi. Có chữ của tôi Ba tôi mới tin. Ông nhớ nói giùm với Ba tôi là tôi đang chờ ở đây, trên tàu này… Tôi chưa nói hết câu, Há bước vào, gọi khẽ: “Chị.” Ngẫng lên, thấy nét mặt khác thường của Há, tôi lo âu: - Dạ, có gì vậy, anh Há? - Dạ, Hạm-Trưởng cho biết tàu không được phép ủi bãi. Tôi vội đứng lên, chạy ra cửa. Tôi không biết tôi chạy ra cửa để làm gì? Và sẽ chạy đi đâu? Nhưng ra đến boong tàu, tôi thấy Nhượng từ đài-chỉ-huy chạy xuống. Tôi tựa vào khoanh dây thừng, nhìn bước chân vội vã của Nhượng trên cầu thang. Đến bên tôi, Nhượng chậm rãi: - Ông Minh – Phó-Đề-Đốc Hoàng-Cơ-Minh – không cho tàu tôi vào, chị ạ. - Ông Minh đang ở đâu, thưa anh? Nhượng chỉ một chiến hạm đang neo gần trong vịnh: - Ông ấy đang ở trên HQ 3 đấy. Tôi nhìn HQ 3 với vẻ ngán ngẫm: - Bây giờ làm sao, anh Nhượng? - Chị vào nghỉ, có gì tôi sẽ cho chị hay. Tôi ngồi phịch lên thùng sắt để cạnh, gục đầu vào lòng bàn tay. Một lúc lâu, tôi đến vịn giây cáp ven thân tàu, nhìn xuống lòng biển xanh, cố tìm một giải pháp trong trường hợp HQ 505 được lệnh rời vùng biển này, nhưng nghĩ mãi không ra. Mặt trời lên cao dần. Bóng chiến hạm phản chiếu vào mặt nước long lanh. Gió xuân muộn lùa vào không gian chút hương mai cuối mùa khiến tôi nghĩ đến những cành mai núi, mọc trong kẻ đá, ven làng Vĩnh-Hy. Những lần theo ghe Chủ-Lực đi tuần, đi kích, hồn tôi cảm nhận được tất cả vẻ đẹp đơn sơ, mộc mạc của những vùng biển nghèo; ở đó, người dân thức và ngủ theo ánh mặt trời; ở đó, khi cánh buồm no gió ra khơi, bỏ lại ngôi làng nhỏ với tiếng lao xao trong ngôi trường làng lụp xụp thì người vợ yên lòng ngồi vá lại chiếc lưới cho chồng trong nỗi thanh thảng tột cùng. Những buổi sáng ven biển thường thường rất tươi mát, yên bình và lặng lẽ. Nhưng hôm nay, quanh tôi, tất cả đang bị khuấy động mà tôi nào có hay! Trong khi tôi đang hồi tưởng lại những ngày ở Duyên-Đoàn 26 thì nhiều người đang dồn về phía bên này chiến hạm để nhìn vào bờ. Tôi ngơ ngác nhìn quanh. Bất ngờ một sĩ quan trao tôi ớng dòm: - Chị muốn dùng ống dòm không? Tôi thành thật đến ngớ ngẩn: - Dạ, chi vậy, anh? - Nè, chị nhìn vào bờ đi. Anh tháo sợi giây quanh cổ, trao ống dòm cho tôi. Tôi nhìn vào bờ và thấy vô số ghe thuyền đang bơi ra. Anh sĩ quan hỏi: - Chị thấy gì không? - Dạ, ghe nhiều quá! Tại sao vậy, anh? - Không. Tôi muốn hỏi chị có thầy hai xe tăng hay không? - Dạ có, có. Tăng gì mà lớn quá vậy, anh? - T54 đó, chị. Vì thích tìm tòi, trong nhiều trường hợp, khi nghe tên loại vũ khí, tôi có thể phân biệt được đó là vũ khí của ta hay của địch. Vì vậy, khi nghe “T54”, tôi giật mình, đưa tay che miệng để khỏi phải bật lên tiếng kêu thảng thốt. Như vậy có nghĩa là Phan-Rang mất rồi! Tôi không còn hy vọng gì đưa gia đình tôi đến nơi an toàn được nữa. Tôi lui vài bước, ngồi lại trên thùng sắt, khóc! Không biết bao lâu sau đó, tôi cảm biết có người đứng cạnh. Tôi ngẫng lên. Nhượng lặng lẽ nhìn tôi. Tôi thở dài, ngượng nghịu quẹt nước mắt vào tay áo. Nhượng lắc đầu: - Chị vào trong nghỉ đi. Không làm gì được nữa rồi! - Khi toán ghe đó đến đây, tôi sẽ thương lượng mua hoặc mướn một chiếc để đi vào… Nhượng cắt lời tôi: - Không được. Tôi không thể để chị đi như vậy. - Anh giúp tôi, anh Nhượng. Anh cũng quen thân với Ba Má tôi mà. - Chị Minh! Tôi quý hai Bác lắm, nhưng trong tình cảnh này chị không thể rời tàu. Giọng cương quyết như ra lệnh của Nhượng khiến tôi nhìn Nhượng, thầm nhủ: “Lấy chồng nhà binh, sống gần mấy ông nhà binh, tối ngay chỉ nghe giọng chỉ huy không hà!” Há và Khánh cũng đến khuyên nhủ tôi: - Nếu Hạm-Trưởng để chị rời tàu, rủi có gì làm sao Hạm-Trưởng ăn nói với Commandant Minh. Chị thấy không? Làm thế nào tôi không thấy được điều đó; nhưng tôi vẫn muốn làm một cái gì để cứu gia đình tôi. Như hiểu được tôi nghĩ gì, Nhượng nhỏ nhẹ: - Chị giận thì tôi chịu. Nhưng nếu có anh Minh ở đây, tôi nghĩ anh ấy cũng không để chi rời tàu đâu. Biết mình làm phiền nhiều người, tôi sửa soạn bộ mặt tỉnh táo để khỏi bận tâm những người chung quanh. Khi đoàn ghe đến gần, tôi thấy áo của nhiều quân binh chủng được đưa cao, vẫy vẫy. Bất ngờ tôi nhận ra chiến hạm đang từ từ đổi hướng. Tôi ngạc nhiên, vội quay sang Nhượng thì thấy Nhượng vừa đến chân cầu thang, sắp bước lên đài-chỉ-huy. Tôi gọi: “Anh Nhượng.” Nhượng quay lại. Tôi tiếp: - Anh không vớt mấy ông lính trên ghe sao? Tôi thấy dường như Nhượng đang thở mạnh hay là Nhượng cố nén tiếng thở dài rồi lắc đầu: - Tôi được lệnh không vớt ai cả. Một tàu đạn đầy! Trên những chiếc ghe tròng trành vì sóng, do HQ 505 tạo nên, những thân người gầy gò kêu gào. Và những đôi mắt…Ôi! Những đôi mắt van xin, những đôi mắt buổn thảm, những đôi mắt thất vọng ấy bỗng rực lên những tia phẫn hận khi chiến hạm “bẻ” mạnh một vòng cua ngặt! Gục đầu vào khoanh dây thừng, tôi khóc tức tưởi vì những oan khiên, thảm khốc đang phủ chụp xuống từng phần đất thương yêu và những nghiệt ngã đang bủa vây đoàn người bại trận! Từ buổi sáng hôm đó, trong những bữa cơm đã bớt tiếng nói, thiếu hẳn nụ cười. Dường như ai cũng cảm thấy một nỗi đau nào đó, to lớn lắm, đang đè nặng tâm hồn! * * * Khi HQ 505 vừa qua khỏi Cà-Ná một chút, tôi nghe tin Dương-Vận-Hạm Vũng-Tàu, HQ 503, bị Việt-Cộng bắn ngay đài-chỉ-huy, gây tử thương cho bốn năm người. Thấy vẻ tư lự của Há, tôi tò mò hỏi. Há thở dài: - Một trong các sĩ quan tử thương tại đài-chỉ-huy HQ 503 là thủ khoa khóa tôi. (Khóa sĩ quan đặc biệt). Tôi im lặng. Kinh nghiệm của HQ 503 và các giang-pháo-hạm trên sông thuộc miền Tây cho tôi thấy nhận xét : “Đã Hải-Quân mà còn đi tàu thì đeo chữ Thọ ‘to tổ bố’ rồi, còn lo gì nữa” là sai lầm. Gần đến Phan-Thiết, tin Tướng Nguyễn-Vĩnh-Nghi bị bắt khiến mọi người bàn tán, âu lo hơn. Tôi nhìn ra khơi. Trong khoảng không gian mênh mông của biển tự dưng tôi tưởng như tôi có thể thấy lại được hình ảnh Tướng Nghi và Minh đứng trên mô đất cao quan sát trận địa khi cuộc tấn công của Việt-Cộng vào đồn thứ 9 còn ngùn ngụt khói, vào một buổi sáng khi hơi nước từ kinh Trèm-Trẹm còn đọng trên từng chiếc lá non. Đến Phan-Thiết, HQ 505 neo và cho một xuồng đổ bộ đưa một sĩ quan vào Phan-Thiết đón gia đình của anh ấy. Khi xuồng đổ bộ trở ra, tôi thấy từ xa màu vàng đậm chói lói trên màu biển xanh nhạt. Lúc đưa gia đình của sĩ quan đó lên tàu tôi mới nhận ra màu vàng ấy là chiếc áo cà-sa của một Ni-Cô. Không hiểu tại sao chiếc áo cà-sa của Ni-Cô lại khiến tôi nhớ đến hình ảnh những tăng ni trong các cuộc biểu tình xách động và vạt áo vàng của vị Tuyên-Úy Phật-Giáo bay lất phất bên thành xe Jeep khi Thầy lái xe Jeep chạy “như bay” trên đường Công-Lý, Saigon! Đêm đến. Phan-Thiết bị tấn công. Hỏa châu thắp sáng một vùng đau thương. Lẫn trong vô số vệt sáng đỏ ửng kim loại hoặc xanh lè như màu mắt của thần chết, tôi thấy nhiều vệt sáng thật lớn, xé không gian theo hình cầu vòng rồi tan biến trong đêm. Từ nhỏ, tôi cứ nghĩ chỉ có Nha-Trang và Đà-Lạt là hai nơi tôi yêu mến. Nhưng bây giờ, thấy từng trái đạn cày sâu vào vùng đất hấp hối này, tôi đau lòng. Từ đó tôi nghiệm ra rằng, vì lòng người eo hẹp, phân chia ranh giới, chứ bất cứ vùng đất nào bên bờ đại dương thắm máu này cũng đều là Quê-Hương của tôi cả. * * * Dương-Vận-Hạm Nha-Trang về đến Vũng-Tàu vào một buổi sánh nắng nhạt. Nhượng cho ca-nô đưa tôi vào bờ. Ca-nô rời tàu. Nhìn lại HQ 505, tôi thấy Nhượng đang bước lên đài-chỉ-huy. Nhượng dừng lại ở cầu thang chót, đưa cao tay vẫy, chào tôi. Tôi cũng vẫy tay chào Nhượng. Bóng Nhượng in lên nền trời xanh. Thật đẹp! Vào bờ, khi vừa đặt chân lên cầu tàu, tôi lảo đảo như người say rượu. Các anh thủy thủ cười. Một anh bảo: - Chắc chị…say đất rồi. Dù đang choáng váng tôi cũng phải bật cười: - Say đất? Tôi chưa nghe động từ đó bao giờ cả. Mấy ông Hải-Quân lúc nào cũng có nhiều danh từ rất lạ. Các anh cười, dặn tôi ngồi nghỉ một chốc, trạng thái bình thường sẽ trở lại. Sau khi xe đến đón tôi các anh mới trở lại tàu. Nhìn theo chiếc ca-nô hướng dần về phía chiến hạm 505, tôi thầm nhủ: “Xin cảm ơn các anh, cảm ơn Dương-Vận-Hạm Nha-Trang, cảm ơn biển cả đã cho tôi chuyến viển du cuối cùng để thấy Quê Mẹ quằn quại trong cơn đau, để nhìn Quê Hương lịm dần vào cõi chết!” Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - Ngày hôm qua lúc 3:14pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 24081 |
![]() ![]() ![]() |
Nhảy Vô Bưng Ông ThoànHọc hành dang dở buồn quá tui dự định đi đâu cho thật xa, nhằm để “ẩn cư” như mấy ông đạo sĩ trong những truyện cổ tích ngày xưa mà tui đã đọc qua. Biết ý định của tui nên anh Sanh, một người anh ở cùng xóm mà tui quý mến đã tới nhà an ủi tui, ảnh nói: - Chèn ơi gì mà ẩn cư Phương ơi! học ở trường không xong thì học ở trường đời, thiếu gì cách học hơi đâu buồn. Rồi anh rủ tui ra quán cà phê của chị Văn để tâm sự, chị bán ở bên kia đường nơi đối diện con hẻm vô xóm tụi tui đang cư ngụ. Ngồi bên ly cà phê đá thơm ngon của chị Văn mang ra, hớp một ngụm nhỏ rồi tui hỏi anh Sanh: - Hồi nãy anh nói học ở trường đời là sao em không hiểu? Anh Sanh từ tốn giải thích: - Có thể mình sẽ đi làm để chung đụng thiên hạ, rồi học những điều hay lẽ phải của người đi trước, còn không thì đi lính, chọn đời binh nghiệp rày đây mai đó cũng thú vị lắm nghe Phương. Nghe anh Sanh đưa ra hai lựa chọn tui khá phân vân, không biết chọn cách nào để cho khuây khỏa và nuôi được tấm thân không phải ăn bám gia đình hoài được. Bất chợt tui lại thấy cái phù hiệu Binh chủng anh Sanh đang phục vụ may trên cánh tay áo của anh, tui thấy hình một ngôi sao 5 cánh màu đỏ nhạt, có 1 thanh kiếm nằm chính giữa, chuôi kiếm nằm bên dưới, mũi kiếm chĩa thẳng lên trên hình ngôi sao này, nằm trên một nền trắng hình bát giác ngó thật đẹp, (lúc sau tui mới biết là phù hiệu của Biệt khu thủ đô), tui bèn hỏi anh: - Chèn ơi! Hôm nay anh mặc bộ kaki ủi hồ láng cón bộ dự lễ gì hay sao vậy? Anh Sanh nói: - Lễ lộc gì Phương ơi, lính văn phòng phải vậy thôi, lè phè là bị mấy sếp bố cho một trận, nhẹ thì cảnh cáo, nặng thì đẩy ra mấy Đại đội tác chiến mặc sức mà lè phè. Tui nghe vậy mới hỏi tiếp anh là lính ở đâu, anh cho biết anh quân số thuộc Phòng 1, Tiểu Khu Gia Định, nơi làm việc của anh đối diện với Lăng ông Bà Chiểu, (nơi có lăng mộ và ngôi đền thờ phượng ngài Tả Quân Lê văn Duyệt), anh nói tiếp: - Hay là Phương gia nhập vô làm lính của tiểu khu đi, anh quen biết anh gửi gắm cho mấy sếp thì cũng không phải cực khổ gì đâu. Sau một hồi được thuyết phục, tui nghe theo anh Sanh để gia nhập vào quân ngũ. Sáng hôm sau anh lấy chiếc Gobel của anh chở tui vô nơi anh làm việc để đăng lính, người làm hồ sơ quân bạ cho tui là Hạ sĩ Nại (người Việt gốc Hoa, ông có tiệm mì bà Nại ở gần xóm gà rất nổi tiếng, nay đã nghỉ bán), là bạn thân của anh Sanh, đang ngồi khai hồ sơ thì có một viên Thiếu úy trẻ đến gần bên lên tiếng hỏi: - Có thôi bú chưa mà đi lính vậy ông con? Ai đưa vô vậy? Tui chưa kịp trả lời, anh Sanh bèn lên tiếng cho Thiếu úy Ngạn sếp của anh: - Đây là thằng em trong xóm ở sát bên nhà em đó Thiếu úy, nó đang buồn đời nên muốn đi đây đi đó cho phỉ chí đó Thiếu úy. Ông Ngạn nghe anh Sanh nói vậy ông bèn nói với tui: - Trời ơi! Vô lính là cực khổ dầm mưa dãi nắng chứ không phải nơi để đi du ngoạn đâu ông con, nhiều khi đụng trận không may bị thương hoặc bỏ mạng cũng không chừng, ông con nghĩ kỹ chưa? Không cần suy nghĩ tui đáp liền: - Dạ em muốn đi mà Thiếu úy, cực khổ gì em cũng chịu được. Thiếu úy Ngạn vỗ vai tui một cái, ông nói: - Chú em mầy ngon ta, anh Nại làm hồ sơ xong đưa tui trình ký liền. Sau câu nói này ông móc trong bóp ra tờ giấy bạc một trăm đồng đưa cho tui, Thiếu úy Ngạn nói: - Cho chú em mầy dằn túi vài hôm vô quân trường cần gì thì mua. Tui chưa kịp cám ơn thì ông vội quay gót đi lên văn phòng. Anh Sanh với Hạ sĩ Nại vui mừng với việc này, ông Nại nói với tui: - Số mầy đẻ bọc điều đó nha chú em, lần đầu tiên tao mới thấy ông Ngạn cho tiền Tân binh như vầy. Đêm đó khi nằm trong trại Ngô Tùng Châu, nơi các tân binh chờ khám sức khỏe và lãnh quân trang để đi thụ huấn tui thấy ấm lòng với cách cư xử của ông Ngạn. 3 tháng quân trường mồ hôi đổ quả thật không sai, quân trường Vạn kiếp nơi đám lính sữa tui tui bắt đầu trui rèn để trở thành những người lính thật thụ để bảo vệ biên cương sau này. Thiếu úy Ngạn dẫn đầu đại đội khóa sinh tụi tui, tui mừng vì ông đã dành cho tui chút tình cảm buổi ban đầu, giờ ông chịu trách nhiệm làm sếp đại đội 351 Điền khuyết của nơi quân trường, tui được mang danh số 27 kể từ đây thì không còn gọi tên cúng cơm do cha mẹ đặt cho mình nữa, đi đâu làm gì cũng xưng danh 27 cho đến ngày mãn khóa mới thôi. Đêm đầu ở Vạn Kiếp tui nằm ngủ kế bên thằng Phích và thằng Thế, thằng Phích dân Hốc Môn ở làng Xuân thới Thượng, nó mang danh số 11, thằng Thế mang số 35 nhà ở đường Tùng Thiện Vương bên quận 8, 3 đứa tui thân nhau lắm, lúc giỡn chơi tụi nó kêu tui là con Rùa vì mang danh số 27 theo mấy người đánh số đề đặt cho, thằng Phích thì bị tui ghẹo là chó con, đau nhất là thằng Thế mang số 35 thì là chánh hiệu Dê xồm rồi còn gì mà bàn cãi, cũng vì danh số này khi ra các bãi tập ở quân trường thằng Thế bị mấy em bán hàng nơi bãi tập xúm lại ghẹo quá chừng, ban đầu nó có thái độ không hài lòng, nhưng về sau nó yêu cái danh số 35 này, vì có một cô nàng bán nước giải khát nơi bãi tập đã “Thề non hẹn biển” với nó... Thắm thoát 3 tháng ăn cơm nhà binh ở Vạn kiếp cũng xong, chia tay cô người yêu thằng Thế tặng cô nàng toàn bộ nhu yếu phẩm mua đợt cuối ở quân trường cho nàng, từ đó về sau hai người bặt tin nhau luôn khi tụi tui về đơn vị mới. 3 thằng tui được bổ sung về Đại đội 3/665, một đại đội biệt lập trực thuộc Tiểu khu Gia định, đơn vị tui đóng quân ở đồn tại chân cầu Mỹ Thủy trên con tỉnh lộ đi từ ngã ba Cát Lái xuống xã Thạnh Mỹ Lợi thuộc quận Thủ Đức, Đại đội trưởng là Trung úy Huỳnh một sĩ quan trẻ đầy nhiệt huyết dẫn dắt, trình diện ông xong 3 thằng tui được đưa về trung đội 2 đóng ở nhà dân nơi xóm nhỏ ven đường của ấp Mỹ Thủy,về Trung đội chưa đầy tuần lễ thì bữa nọ Thiếu úy Tạ Mạnh Trường (nhà ở quận 3 Sài gòn) đã thông báo cho cả Trung đội sáng mai sẽ đi hành quân trực thăng vận vô miệt Bưng ông Thoàn, tuy mới về đơn vị nhưng địa danh cầu Vỏ Khế, Xã Bình Trưng, xã Long Trường, Bưng ông Thoàn là những nơi rất nguy hiểm, các đơn vị đóng quân vùng này cũng rất e dè khi hành quân đến đây, vậy mà sáng ngày mai tụi tui sẽ đặt chân vô một trong những địa điểm này. 5 giờ 30 sáng xe GMC đã đưa tụi tui đến trục lộ nằm gần cầu Vỏ Khế chờ hợp đoàn trực thăng đến bốc đi. Lần đầu tham dự cuộc hành quân tăng phái cho Liên đội 3/1 chịu trách nhiệm, tụi tui rất hồi hộp, nhìn hai đứa bạn thân của tui, tụi nó cũng đăm chiêu ra mặt, không biết cuộc hành quân này lành dữ ra sao, thằng Thế thì cầu nguyện Chúa che chở cho nó, thằng Phích thì mân mê Phật đeo nơi cổ miệng lâm râm khấn vái, tui cũng vậy tui mân mê cái bùa Hộ mạng do sư phụ thằng Cảnh bạn tui trong xóm tặng cho. Tiếng trực thăng xé gió đưa tụi tui vô vùng Hành quân, phi công Hoa kỳ bay ra hướng cầu Rạch chiếc ngoài xa lộ Sài gòn, rồi từ hướng này họ bay thẳng vô Bưng ông Thoàn, tui diễn tả dài dòng vậy đó nhưng từ lúc đặt đít lên sàn trực thăng cho tới nơi phóng xuống đất chừng vài phút bay, trong bụng tui nói: “Mẹ họ, ngồi chưa nóng đít thì nhào xuống sình rồi”. Tiếng hai nhân viên xạ thủ trên trực thăng thúc giục liên hồi: Go... go... Ngó xuống bên dưới trực thăng khi còn cách chừng một mét, tui thấy toàn là những bãi sình lầy chen bên cạnh mấy rặng dừa nước, các con rạch nhỏ uốn éo quanh co, thầm nghĩ địa thế này ai sống cho được mà hành quân cái giống gì, chưa kịp định thần tui được viên xạ thủ phi hành đẩy nhẹ vô lưng khiến tui lao xuống sình tức thì, khẩu súng M16 mới cắt chỉ của tui ngậm sình toàn bộ nòng súng, tui chới với cựa quậy trong vũng lầy cố trườn trên mặt sình để di chuyển theo đoàn quân, ác thay đôi giày “Bốt đờ sô” bằng da láng cón “si ra”của tui mang trên chân bây giờ thành kẻ phản chủ, nó quật tui té ngã mấy lần khi đi trên bờ đê trơn trượt, đến một đoạn phải qua con rạch mới di chuyển tiếp đến mục tiêu lục soát được, lần theo sợi dây dù do đồng đội căng sẳn để qua con rạch khá sâu này, lụp chụp tui bị hụt chân, cái nón sắt rơi khỏi đầu mau chóng chìm nghĩm dưới con rạch, tui quơ tay để chụp cái nón sắt dè đâu hụt tay khỏi sợi dây dù, cái ba lô nó kéo tui xuống đáy rạch, vũng vẫy vì uống nước đến ngộp thở, thời may anh quân nhân đồng minh là cố vấn Mỹ đi phía sau thấy tui lâm nạn anh thò tay nắm tóc kéo tui lên đưa vô bờ, anh còn mò cái nón sắt dưới đáy rạch trao cho tui, được anh cứu sống trong chuyến nhảy trực thăng đầu tiên trong đời binh nghiệp, tui Thank you anh ta thật nhiều lần, anh cũng thấu hiểu tâm trạng của tui anh ôm lấy tui như vỗ về khi qua cơn hoạn nạn. Tiếc một điều tui không đủ ngôn ngữ để bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với anh, cũng như biết được tên và đơn vị của anh để gửi lời cảm ơn qua khu bưu chính. Vậy đó, các bạn thấy tui đi hành quân lần đầu tiên trong đời binh nghiệp rất ngu ngơ phải không, cũng may phước là suốt cuộc hành quân không có chạm địch, nếu có thì tui có thể cũng đã theo ông theo bà dạo đó rồi, vì khẩu súng đã bị “bịt mỏ” lấy gì đánh đấm. Cũng nên nhắc lại chút cho vui, ngày xưa mấy ông lính chủ lực quân hay gọi binh chủng tụi tui là “Địa Phao câu” thay vì đúng tên gọi là Địa Phương quân, suy cho cùng gọi gì thì gọi, các anh gọi cho vui thôi chứ không có ý châm chọc chê bai gì,ở đời thông thường được cái này thì mất cái kia, tụi tui vốn là lính địa phương, có kẹt kẹt nhớ nhà thì đón xe lam xe buýt, xe đò vù về nhà vài ba tiếng đồng hồ rồi về đơn vị, xui gặp mấy anh Quân cảnh lấy cái tu huýt réo lại, các anh xét giấy thấy đúng là lính địa phương họ du di bỏ qua không hốt về Quân vụ thị trấn, còn các anh lính chủ lực quân thường xa nhà đăng đẳng muốn thăm nhà phải có phép còn “Đi dù” về thăm nhà thì khó khăn đủ thứ, thôi thì vị trí nào thì ngày xưa cũng vì bổn phận công dân thời ly loạn thôi phải không các bạn. Tui viết câu chuyện này để nhớ lại ơn của anh cố vấn Mỹ năm xưa cứu mạng mình, để hoài niệm về một thời đã qua thôi các bạn nhé. Hai Hùng SG |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 112 |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |