Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: ĐỜI SỐNG GIA DÌNH Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 136
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 24081
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 08/Sep/2025 lúc 10:59am

Quê Nhà Một Góc Nhớ Mênh Mông!


“Đất khách muôn trùng sao nhỏ hẹp

Quê nhà một góc nhớ mênh mông!”

Hai câu thơ của nhà thơ Trịnh Bữu Hoài thể hiện chân thật nhất niềm nhớ, niềm thương và tấm lòng của những người con xa xứ.

“Bắp chuối này cho nồi mì Quảng tối nay” 

Ngay giữa những ngày đông giá rét nhất thì nhà nhà người Việt trên khắp đất Mỹ đã âm thầm chuẩn bị cho những vụ mùa ngày hè của vườn mình.

Những hội nhóm trồng cây, đã miệt mài giữ hạt giống từ mùa hè trước, phơi khô, dành dụm, phân loại để chuẩn bị sẵn sàng cho mùa vụ năm sau.

Ngay những ngày cuối đông, trời rét mướt, có ngày gió lớn, có ngày mưa phùn thì các chị em hội trồng cây Houston đã hẹn nhau một ngày phát hạt giống miễn phí cho các cô bác trong hội. Có cầm những hạt giống trên tay được phân loại trong những bao nhỏ xinh xắn có nhãn viết tay loại cây mới thương công các anh chị dành dụm, phân loại… với mong ước mang đến cho bà con một chút xanh của quê nhà.

Những tuần hẹn phát hạt giống, nhánh cây chiết, cành giâm, khi đến và chứng kiến các anh chị tất bật chuẩn bị mọi thứ chỉn chu, chi li mới thấy xúc động làm sao tấm lòng đồng hương.

Bà con đến với những ngày hội hạt giống, có thể nhận hạt giống bắp nếp, bầu, bí, khổ qua rừng, đậu rồng … hay những giống xà lách, cải bẹ xanh, rau muống, rau đay, dền đỏ… đến những giống hoa thường rực rỡ hiên nhà như cúc, mười giờ, điên điển.

Có cụ già 90 tuổi, ngày ngày cùng con cháu tham gia đập trái đậu rồng để lấy hạt xếp cho bà con. Bao nhiêu công sức, bao nhiêu tấm lòng bà con dành cho nhau trước khi mùa hạ đến từ rất lâu. Đó chính là ánh nắng, khiến những ngày mùa đông ấm áp, khiến bà con ai cũng chuẩn bị gieo hạt và chờ đến ngày hạ thu hoạch của vườn nhà.

Nhờ những tình thương và tấm lòng đó mà vườn nhà tôi có 10 cây bắp nếp cao nhòng, ngọt lịm. Tôi cũng có được giàn bầu, giàn bí, giàn mướp với trái to tròn treo lủng lẳng thấy cưng. Có năm tôi còn có được thêm cây thù lù, cây vả, bụi mía, bụi sả, bụi lá dứa góc vườn. Lá gai, lá lốt, sương sâm, tía tô hay rau sống thì mênh mông góc này góc kia.

Khi vào một tiệm bún mắm mùa hè, bạn sẽ sửng sốt sung sướng khi có được dĩa rau ăm ắp rau đắng, điên điển, ngó súng, so đũa. Đó là món quà quê chính hiệu mà cô bác trồng được sau nhà mang đến tặng bà chủ hội vườn cây của thành phố như một lời cảm ơn ấm nồng, như một lòng san sẻ cho bà con đồng hương cùng thưởng thức. Quê nhà bằng cách đó thấy như gần trong tầm tay với.

“Sao nó không mọc từng nải như ngoài chợ cho dễ bê ta?”

Các đài phát thanh người Việt cũng có những bản tin chia sẻ cách trồng cây, gieo hạt. Trước khi mùa hè vào, ở thành phố chúng tôi – Houston – có chương trình “Vườn ta – trời tây” tên nghe mộc mạc dễ thương mà người dẫn chương trình và bác chủ vườn tham gia góp ý cũng chân chất như nông dân thứ thiệt. Ở đó, bà con lên hỏi bác ơi, bác à, giờ con xuống cây ổi được chưa, cây táo phải nằm cách xa nhà bao xa hay để than thở cây hồng con trồng hổng có bông thì phải làm sao hay bà con chia sẻ cách diệt sâu, chăm lá.

Cứ vậy, mùa hè…là mùa mua đất, chỗ nào, khu nào có đất tốt đất rẻ là nghe bà con Việt Kiều Mỹ í ới rủ nhau, chở nhau đi mua. Đất này là đất tính bằng bao, mua một lần chục bao, chở bằng xe hơi… chứ hổng phải là đại gia mua đất mênh mang như ở quê nhà đâu.

Có dịp đến thăm nhà bà con ở các tiểu bang khác, tôi cũng thấy những góc xanh của từng nhà. Nếu vùng lạnh như tiểu bang Philadelphia có cô cháu thu hoạch trái lê làm mứt, thì em Út tôi ở Michigan lại có vườn tỏi nhiều tới mức chia hoài cho hàng xóm. Người em họ ở Oakland, California thì chăm chút vườn sen đá với nhiều chủng loại từ Mỹ hay nhập từ Hàn Quốc. Miền Nam California thì trù phú với nho xanh, táo tàu, thanh long, bơ. Vùng nắng ấm như Florida thì nổi tiếng với các khu vườn nhãn, xoài, mãng cầu.

Mùa hè, khi cây trái đầy cành, đó là lúc nhà này mang đến tặng nhà kia nhộn nhịp những tấm lòng cây nhà lá vườn. Có nhiều tuần lễ, chúng tôi chỉ nấu nướng từ rau quả trong vườn nhà mình, nhà bạn.

Khi bạn đến thăm nhà bà con người Việt mùa hè, chắc chắn bạn sẽ được dắt ra ngắm vườn cây trái, rau xanh, bông hoa. Chủ nhà Việt sẽ hỏi bạn thích trái này hông, ăn rau kia nhé, để cho bạn tự tay hái một trái to mà họ nâng niu suốt tuần qua. Chủ nhà sẽ dúi vào tay bạn một túi rau mới cắt trong vườn, thơm phức, đủ cho nhà bạn một nồi canh tú hụ sáng mai.

Nếu bạn mời một cô bác người Việt đến chơi vườn mùa hè, bạn sẽ thấy cô bác đó say sưa ngắm cây này cây kia, gọi anh ơi coi nè như họ vừa đi đâu xa nhà về tới quê nhà hay một người đi xa giữa phố xá gặp lại bạn hiền, gặp lại một góc phố, một món ngon quê nhà.

Khi chùa có tiệc bì cuốn, bánh xèo cần rau, bạn sẽ thấy mấy anh chị đóng 1 thùng rau phân loại chỉn chu ú hụ vác tới chùa ngay trước mùa đại lễ.

Còn các bạn trẻ thì miệt mài ươm những gốc mai, gốc đào con. Có bạn nhỏ ăn mít ngon quá cũng giữ lại hạt rồi ươm hạt chia nhau hàng mít con.

Vườn người Việt tại Mỹ gốc cây nào cũng được yêu thương chăm sóc bằng biết bao bàn tay tấm lòng. Chúng tôi luôn chia sẻ nhau những hương vị quê nhà, những góc xanh, những cây trái quê nhà từ rất lâu ngay giữa những ngày đông.

 

Huỳnh Thanh Tú


Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 24081
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 09/Sep/2025 lúc 12:44pm
Chia Ly NGHẸN NGÀO

5551%20ChiaLyNghenNgaoDMLinh

      Đang kể tên các ca nhạc sĩ thuộc thập niên 60/70 của thế kỷ 20 để người bán hàng tìm trên computer, bà Lan chợt nghe ông Mỹ – sắp hàng sau bà – nhắc khẽ:
-Bà tìm những ca nhạc sĩ đó mà tại sao bà không tìm Ricky Nelson, Dean Martin, Frank Sinatra?
Bà Lan cười, nói với người bán hàng:
-Em làm ơn tìm giùm CD của các ca nhạc sĩ mà ông này vừa nhắc – nhất là Dean Martin.
Ông Mỹ phía sau lại tìm cách làm quen:
-Tại sao bà thích Dean Martin?
-Vì tôi thích tiếng Accordéon.
-Đúng. Bà có trí nhớ tốt.
-Cảm ơn ông.
       Sau khi trả tiền, bà Lan cầm bao ny lông có mấy CD bên trong, đi ra cửa. Ông Mỹ vội rời hàng, bước theo, tự giới thiệu:
-Tôi là John Smith. Rất hân hạnh được gặp bà.
Bà Lan bắt tay John:
-Rất vui được gặp ông. Tên tôi là Lan.
-Bà mua những tác phẩm vang tiếng một thời, có lẽ bà chơi đàn, phải không? Bà Lan tránh câu trả lời:
-Ông nhớ tên nhiều nghệ sĩ hơn tôi, điều đó chứng tỏ ông là một người am hiểu nhiều về âm nhạc. Đúng không?
-Đúng. Làm thế nào tôi được hân hạnh đàn cho bà nghe?
-Cảm ơn ông. Ông chơi đàn gì?
-Piano.
-Tuyệt vời! Nhưng tôi có việc, phải đi. Xin lỗi.
Vừa bước theo bà Lan ra xe, John vừa hỏi:
-Thưa bà, tôi rất cần một phụ nữ cùng trang lứa với tôi để thỉnh thoảng đi nghe hòa nhạc. Bà có cho phép tôi…
John dừng lại, nhìn bà Lan với ánh nhìn trìu mến. Bà Lan đáp:
-Rất tiếc!
-Tại sao? Nếu bà là một phụ nữ có chồng thì tôi đã thấy nhẫn cưới trên ngón tay áp út nơi bàn tay trái của bà.
-Thưa ông, chồng tôi bị cộng sản Việt Nam (c.s.V.N.) nhốt tù từ năm 1975. Còn nhẫn cưới, tôi phải bán, lấy tiền mua gạo và vật dụng để mở quán cơm dĩa nơi ga xe lửa ở kinh tế mới!
-Chúa ơi! Sao xót xa đến thế!
      Vừa nói “Cảm ơn” bà Lan vừa bấm nút để mở khóa xe. John vừa mở cửa xe cho bà Lan vừa nói:
-Mong bà hiểu, tôi không còn ở lứa tuổi thanh xuân để bảo rằng tôi  bồng bột, bị “tiếng sét ái tình”. Nhưng không hiểu tại sao chỉ mới gặp bà, tôi lại rất muốn làm quen với bà. Bà là một thiếu phụ đẹp, thông minh và quý phái.
-Cảm ơn ông. Nhưng xin lỗi, tôi phải đi.
-Vâng, chúc bà một buổi chiều tuyệt đẹp.
       Lời chúc của John ngọt ngào như thế, nhưng trên đường lái xe về chung cư Woodlands Senior Independent Living, bà Lan lại cảm thấy tủi thân!
*****
      Từ phòng ăn về đến cửa phòng riêng – trong chung cư Woodlands Senior Independent Living – bà Lan chợt nghe tiếng Piano dìu dặt trong tình khúc None But The Lonely Heart của Tschaikowsky. Bà Lan nhìn quanh rồi đi về hướng phát ra tiếng đàn.                                                     Đến cửa phòng khánh tiết, thấy một phụ nữ ngoại quốc tóc bạc phơ đang say sưa đàn và người đàn ông tóc hói, ngồi trên xe lăng, gục đầu, không biết ông đang nghe nhạc hay là ông đang ngủ, bà Lan đứng lặng một chốc rồi trở về phòng.
          Mở computer, vào “Inbox”, thấy youtube có tựa hơi lạ – Anh Ở Đây – bà Lan mở ra. Tiếng Acoustic guitar dạo phân đoạn đầu nghe trầm trầm rồi tiếng hát nghẹn ngào:
“Anh ở đây, bạn bè anh cũng ở đây.
Áo rách xác xơ vai gầy,
cùng chung kiếp sống lưu đày...” (1)
      Tiếng hát vừa đến đây, màn ảnh computer chợt mờ nhạt! Trong không gian nhạt nhòa vì nước mắt, bà    Lan tưởng như có thể thấy lại hình dáng tàn tạ, đói khổ của bà và các con ở kinh tế mới Xuân Hưng, sau 1975!
       Một buổi chiều, tại ga xe lửa Xuân Hưng, bà Lan vừa gắp vài miếng dưa leo để vào dĩa cơm thịt nướng, chợt nghe Hưng – con trai của bà – đang hát khe khẽ theo âm điệu bài Quốc ca của c.s.V.N.:
“Đoàn quân cộng nô kia như một lũ chó.
Chúng bây từ đâu mang điêu tàn vào Nam.
Từ ngoài Bắc suốt kiếp chúng bây nghèo đói.
Lết vào Nam vơ vét không ngừng tay…”
      Bà Lan hãi quá, run tay, làm rớt mấy miếng dưa leo. Vừa khom xuống lượm mấy miếng dưa bà Lan vừa bảo:
-Hưng! Im đi, con! Ở tù đó, con!
-Bạn con hát thiếu gì. Hát mà cũng ở tù, kỳ thiệt!
      Bà Lan ôm Hưng, giải thích rất ngắn gọn. Hưng xụ mặt, bưng dĩa cơm đến bên cửa sổ toa xe, mời hành khách. Một người đàn ông gầy gò từ cửa sổ toa xe chồm ra nói gì với Hưng rồi ông ấy nhìn bà Lan chăm chăm. Chỉ một chốc sau, ông rời xe lửa, đi nhanh về phía bà Lan, hỏi nhỏ:
-Xin lỗi, phải chị là vợ của thiếu tá Hùng hay không?
-Ông là ai?
-Đúng rồi! Nghe giọng của chị, em nhận ra rồi.
-Xin lỗi, tôi không biết ông.
-Em là Năng, hồi đó ổng và chị đại diện nhà trai, cưới vợ cho em đó.
-Ô, trung úy Năng! Anh gầy và đen quá, tôi nhận không ra. Vợ con anh khỏe không?
-Cảm ơn chị, vợ con của em cũng lam lũ, cực nhọc như chị và mấy cháu vậy. Em thấy cậu bé bán cơm sao giống ổng quá, em hỏi, nó xác nhận. Thế là em rời xe lửa.
-Từ mấy năm qua Mẹ con tôi không được tin tức gì của ông ấy cả; không biết ổng còn sống hay không!
-Chị chưa đi thăm ổng lần nào sao?
-Biết ổng ở đâu mà đi! Mẹ con tôi bị đuổi đi kính tế mới thì dù ổng có viết thư/nhắn tin về địa chỉ cũ cũng chẳng ai biết tôi ở đâu mà chuyển!
-Chuyện hơi dài. Chị bảo mấy cháu coi hàng, chị ngồi đây, em kể chị nghe.
Bà Lan vừa dặn các con vừa chỉ về phía Năng:
-Má phải nói chuyện với chú kia để tìm tin tức của Ba. Nếu anh chị của các con mót khoai/mót củi về sớm, các con nói cho anh chị các con biết, nha!
-Dạ. Con biết rồi.
Ngồi cạnh Năng, trên chiếc ghế nhựa thấp, bà Lan nghe Năng hỏi rất nhỏ:
-Trước khi đi “đăng ký” vào tù, thiếu tá có nói với chị điều gì hay không?
-Khi các cuộc rút quân từ vùng I bắt đầu, tôi thấy ông nhà tôi trở thành một người hoàn toàn khác. Sau khi Saigon thất thủ rồi radio kêu gọi sĩ quan “Ngụy” đi “đăng ký”, chính tôi khuyên ông ấy nên trình diện để được hợp thức hóa tình trạng “rã ngũ” của quân đội miền Nam. Ổng cười “nửa miệng”, bảo: “Em lớn lên trong một xã hội tự do, nhân bản, đạo đức cho nên em dễ tin người. Còn anh đã thấy cảnh ông bà Nội, ông bà Ngoại của anh bị ném đá đến chết trong thời cải cách ruộng đất; Bố Mợ cùng em của anh chết nát thây trên chuyến xe đò bị giật mìn ở Cái Sắn, không thể nào anh tha thứ cho những kẻ đã tạo nên những thảm cảnh đó!”
-Chị có biết là ổng đã thành lập được một nhóm phục quốc khoảng trên dưới 20 người hay không?
-Trời!
-Trưa 28 tháng 04-1975, họp nhau tại văn phòng, sau khi nghe ổng trình bày, thuyết phục, tụi em, gồm thằng Nam, thằng Lành, thằng Hiếu, thiếu úy Phúc, trung úy Quốc, đại úy Đức, thiếu tá Dân đều đồng lòng theo ổng để làm “điều phi thường”!
-Trời! Rồi sao nữa, anh nói nhanh đi, tàu sắp chạy rồi.
-Dạ, không sao. Trễ chuyến này em đi chuyến sau. Em cố ý tìm chị mấy năm qua, nhưng quanh nhà chị chỉ toàn người từ Bắc vô không hà, không ai biết chị. Hôm nay bất ngờ gặp chị, em mừng lắm! Em chỉ muốn chị và mấy cháu biết rõ về ổng để hãnh diện về ổng.
-Bây giờ ổng ở đâu, anh Năng?
-Ngày 05-05-1975, ổng giả vờ đi “đăng ký” học tập; thật ra ổng và tụi em đi ra Đồng Bò – mật khu cũ của Việt Cộng – trốn trên đó để chờ kết nạp với nhóm của ông Đặng Hữu Thân, Hải Quân, nhóm của anh Đức và nhóm của thầy Nguyễn Hữu Dưỡng.
       Sau khi được tin ông Thân bị bắt, vì muốn tất cả rời Đồng Bò để khỏi bị bại lộ, ổng bảo Quốc và em đem tin đến thầy Dưỡng và anh Đức. Không ngờ trên đường đi, Quốc và em bị bắt. Quốc và em bị tụi c.s.V.N. tra khảo, đánh đập rất dã man. Nhưng Quốc – nhờ có võ – tránh né được. Biết Quốc có võ, tụi c.s.V.N. huy động gần 10 tên bộ đội để “dần” Quốc “nát thây” mà Quốc cũng vẫn không khai. Lần cuối cùng, bị tụi c.s.V.N. bảo lên văn phòng “làm việc”, Quốc thấy một vệ binh mang súng ra cổng thay phiên gác. Chờ lúc tên quản giáo và tên vệ binh sơ ý, Quốc quật ngã tên vệ binh, cướp súng, bắn tên quản giáo còn tên vệ binh bỏ chạy. Quốc quay súng, để nòng súng dưới cằm, bấm “cò”, chết!
-Trời! Tội quá!
-Riêng em, em vẫn không khai. Tụi c.s.V.N. cũng “dần” em “nhừ xương” rồi chuyển em về trại tù Nghĩa Phú. Em gặp lại thiếu tá Hùng tại đó…
       Nói đến đây, Năng nghẹn lời! Nhìn chuyến xe lửa khuất dần cuối nẽo xa, Năng tưởng như có thể thấy lại hình ảnh lếch thết của ông Hùng vào những buổi chiều cùng đoàn tù trở về trại sau một ngày quần quật chặt cây, cưa gỗ để xây trại tù, tự nhốt mình!
       Một buổi chiều, khi đoàn tù vừa về đến trại, Năng thấy toán vệ binh áp giải ông Hùng đến phòng quản giáo. Tên quản giáo đứng trước cửa, mắt lườm lườm, nhìn ông Hùng rồi quát:
-Anh “nại” hát nhạc phản động nữa, phải không?
Ông Hùng đáp:
-Âm nhạc là một trong bảy bộ môn nghệ thuật; nghệ thuật thì chỉ có hay hoặc dở chứ nghệ thuật không phản động.
-Anh muốn “ný nuận” với tôi, hả? Anh có biết “nà” “noại” nhạc “nãng” mạn/thương vay khóc mướn ấy nó “nàm” cho tâm hồn con người mềm yếu, mất sức sống hay không?
-Chính cộng sản các anh cũng muốn chúng tôi mềm yếu, mất sức sống mà!
-Này! Này! Để ông bảo cho biết, nhá! Các anh có bao giờ mạnh đâu mà bảo cộng sản chúng tôi muốn các anh yếu?
-Chúng tôi không mạnh tại sao các anh sợ chúng tôi?
-Ai bảo thế? Sợ cái gì?
-Các anh không sợ chúng tôi tại sao các anh ra thông cáo lừa gạc – đem theo tiền ăn cho 10 ngày – rồi nhốt chúng tôi mà không có bản án? Các anh không những sợ chúng tôi mà các anh còn sợ cả thương binh Việt Nam Cộng Hòa (V.N.C.H.). Thương binh đang còn điều trị trong bệnh viện mà ngày 30-04-1975 các anh cũng nhẫn tâm đuổi họ ra đường. Họ phải bò lê bò lết bên vệ đường, về nhà không có thuốc chữa trị, họ phải chết! Bức Tượng Thương Tiếc chỉ là biểu tượng của người Lính miền Nam thương nhớ đồng đội đã bị các anh giết mà các anh cũng sợ, vội đập bỏ. Nhạc miền Nam được người dân miền Bắc yêu thích, gọi là “nhạc vàng”, các anh cũng sợ, cấm, không cho đàn/hát. Sách vở/báo chí miền Nam là kho tàng của văn học/lịch sử, thế mà các anh cũng đốt. Các anh không sợ tại sao các anh hủy diệt? Các anh dùng vũ khí của ai để giết chúng tôi và đồng bào miền Nam? Tụi lính, cố vấn Trung Cộng nhỏ thó, giống người Việt, các anh cho chúng nó mặc đồ giống các anh để ngụy tạo; còn tụi Nga da trắng, mũi cao, to con, khó ngụy trang, các anh cho tụi Nga đóng dọc biên giới để các anh ngụy biện là cộng sản các anh có chính nghĩa rồi các anh gán cho chúng tôi là lính đánh thuê! Cái hèn của các anh là ở chỗ đó!
-Mày là một tên “Ngụy” cực kỳ phản động! Vệ binh! Đấm vỡ mặt nó!
      Ông Hùng bị đòn “hội chợ” trong khi mọi tù nhân cúi mặt! Khuya hôm đó, ông Hùng bị chuyển ra Bắc.
*****
       Nhờ người bạn giỏi âm nhạc viết nhạc phẩm Anh Ở Đây từ youtube thành bản nhạc có notes, chuyển đến bà bằng email, bà Lan rất vui. Sau khi in ra, viết lời ca vào, bà Lan đến phòng khánh tiết.
       Sau khi dạo qua bản nhạc vài lần, bà Lan bắt đầu vừa đàn vừa hát nho nhỏ. Hát đến hai câu: “…Chiều Suối Máu xót xa buồn nhớ con. Tình thương em vẫn đong đầy khoé mắt...” (1) bà Lan tưởng như cảm nhận được sự thương nhớ/sự oán than/sự đau khổ/niềm khóc hận đang xâu xé trái tim của những thành phần ưu tú của Quân Lực V.N.C.H. trong các trại tù của c.s.V.N.
       Đang đắm hồn vào lời ca, tiếng đàn, bà Lan chợt cảm biết dường như có người đang nhìn bà từ phía trên tấm màn nơi của sổ. Ngẫng mặt nhìn lên cửa sổ, bà Lan thấy một bóng người khuất nhanh sau bức tường. Nhìn đồng hồ, bà Lan nhận ra bà đã đàn, hát khá lâu, có lẽ có người đang chờ để được đàn. Bà Lan ngưng đàn.
        Vừa mở cửa bước ra, bà Lan thấy một người đàn ông ngoại quốc đang ngồi lẻ loi. Bà Lan chưa kịp tỏ thái độ thân thiện thì người đàn ông này vội đứng lên, giọng ngạc nhiên:
-Bà Lan! Có phải bà là Lan – người tôi đã gặp tại tiệm bán băng nhạc cách nay vài tuần – hay không?
-Hi, John! Thế giới nhỏ thật!
-Bà dời vào đây khi nào? Từ trước đến giờ tôi chưa hề thấy bà ở đây.
-Cuối tuần vừa qua.
-Thế thì từ nay tôi được nghe bà đàn.
-Có phải từ nãy giờ tôi đàn lâu quá, John phải chờ hay không?
-Không. Từ nãy giờ, qua giọng hát, tiếng đàn của bà – dù không hiểu tiếng Việt – tôi cũng cảm nhận được những giai điệu êm đềm, thiết tha nhưng mang nhiều u uất. Tiếng B*** của Piano như dội thẳng vào tâm thức u hoài, làm bừng sống trong tôi một thời khói lửa ngập trời tại Khê Sanh và các mặt trận dọc biên giới Lào Việt.
-Ô, ông đã từng tham chiến tại Việt Nam! Cảm ơn ông đã giúp chúng tôi chống lại Vi Ci.
-Thôi, quên hết đi để vui tuổi già!
-Vâng. Ông nói đúng.
-Mời bà ở lại, đàn, hát cho tôi nghe bài ấy một lần nữa. Please!
      Hai người trở vào phòng khánh tiết. Bà Lan mở nắp Piano, để bản nhạc trên giá nhạc. John ngồi trên ghế, cạnh Piano. Bà Lan dạo phân đoạn đầu rồi “bắt” vào: “Anh ở đây, bạn bè anh cũng ở đây…” Khi tiếng hát nghẹn ngào như chan chứa nỗi xót xa đoài đoạn của bà Lan đến câu: “…Ôi đời ta, ngờ đâu trăm đắng nghìn cay. Khúc sắn bát ngô vơi đầy, sầu nuôi thân xác hao gầy…” John thấy hai hàng nước mắt chảy dọc cánh mũi thon của bà Lan. John đứng lên, bước đến, khom người, thì thầm:
-Cảm ơn nhiều. Nhưng xin bà dừng lại.
-Tại sao ông không muốn nghe nữa? Có lẽ, vì xúc động, tôi hát dỡ quá, phải không?
-Không. Lúc nào tôi cũng muốn nghe bà đàn và hát; nhưng tôi nhận ra sự vô tình của tôi đã “hành hạ” trái tim của bà!
Cả hai im lặng. Một thoáng sau, John hỏi:
-Hôm trước bà bảo chồng của bà bị c.s.V.N. cầm tù. Thế tình trạng hiện tại của chồng bà như thế nào?
-Khi tôi còn ở kinh tế mới, một sĩ quan từng làm việc và ở tù chung trại với chồng tôi cho tôi hay rằng chồng tôi bị đánh đập rất tàn bạo. Sau đó, chồng tôi bị chuyển ra Bắc cho nên vị sĩ quan này không biết gì thêm.
-Bà có làm đơn khiếu nại với nhà cầm quyền c.s.V.N. hay không?
-C.s.V.N. chứ không phải xứ tự do dân chủ như Mỹ/Canada/các nước bên Châu Âu đâu mà xét đơn khiếu nại của dân. Nhà, đất, tài sản của dân, của nhà thờ, của chùa mà khi người c.s.V.N. muốn thì người c.s.V.N. cũng tịch thu rồi đuổi dân, đuổi tu sĩ đi thì c.s.V.N. xét đơn của dân để làm gì!
-Thật sao? Thế thì, trước khi sang Mỹ, bà có đến các trại tù của c.s.V.N. để tìm chồng bà hay không?
Như được dịp bộc lộ sự đau khổ tận cùng, bà Lan kể:
-Ông có biết là sau 30-04-1975, c.s.V.N. đã tạo nên bao nhiêu địa điểm trắc trở, khắc nghiệt, hung hãng và tồi tệ nhất thế giới để nhốt sĩ quan và công chức V.N.C.H. hay không? Mỗi khi đến những địa điểm đó thì phải có giấy phép của c.s.V.N. cấp chứ không phải ai muốn đi thì đi. Muốn có giấy phép, người xin giấy phép phải hối lộ tiền cho c.s.V.N.. Nhưng, ở kinh tế mới, bo bo và củ mì mà chúng tôi cũng không đủ ăn thì tiền ở đâu tôi có thể hối lộ c.s.V.N. để xin giấy phép và đi khắp các trại tù để tìm chồng? Đó là chưa kể tôi bỏ năm đứa con dại ở kinh tế mới cho ai?
John cúi mặt, đưa tay bóp trán, im lặng. Một chốc sau, John thở dài, hỏi:
-Bà còn giữ ý định tìm chồng của bà hay không?
-Bất cứ lúc nào tôi cũng mong được biết tin của chồng tôi.
-Tôi sẽ giúp bà. Tôi không dám hứa điều gì, nhưng tôi sẽ hết lòng. Bà cho tôi biết tên, họ, ngày, tháng, năm sinh và số quân của chồng bà. Ok!
-Ô, xin Phật/Chúa và các đấng thiên liêng phù hộ ông! Trái tim của ông quả là vỹ đại!
*****
      Suốt thời gian hai gia đình sum họp, Hưng đề nghị sẽ ăn cơm tại nhà hàng để bà Lan, chị em của Hưng và Nở – vợ kế của ông Hùng – khỏi nhọc công. Bà Lan cố ý không đến gần và cũng không tỏ cử chỉ thân mật với ông Hùng. Nở luôn tìm cách lánh mặt bà Lan; chỉ có hai đứa con của Nở và ông Hùng thì lúc nào cũng chơi đùa vui vẻ với cháu nội, cháu ngoại của bà Lan; Hưng thì không rời “Ba Hùng”.
       Thấy “Ba Hùng” chỉ dùng iPad, Hưng mua tặng “Ba Hùng” computer với màn hình khá rộng và một máy in. Sau khi chỉ cho ông Hùng cách thức xử dụng computer, Hưng nói:
-Từ nay, gặp trở ngại gì về computer, Ba gọi hoặc text cho “thằng Hưng của Ba” nè!
Ông Hùng nghẹn lời vì bốn chữ “thằng Hưng của Ba”. Hưng tiếp:
-Ba ngồi, thực hành đi. Con ra phụ dọn dẹp để chiều Má và tụi con ra phi trường.
Rời phòng, Hưng tìm bà Lan, khoe:
-Ba vui lắm. Tội nghiệp Ba!
-Cảm ơn con. Con chỉ cho Ba cách dùng chưa?
-Ba “smart” lắm, Má đừng lo!
       Đang cùng con, dâu, rể cho áo quần vào va-ly, bà Lan chợt nghe tiếng ông Hùng cười vang. Cả nhà ngạc nhiên, chạy đến cửa phòng computer. Hưng hỏi:
-Ba đọc tin gì mà vui quá vậy, Ba?
-Lâu nay dùng iPad, mất công đưa tay “quẹt quẹt” cho nên Ba lười. Xem tin tức trên TV như CNN, Yahoo, Foxnews thì chẳng có tin gì về Việt Nam. Bây giờ có computer, Ba xem tin Việt Nam và thấy tin “động Trời” cho nên Ba vui quá!
-Tin gì mà vui “dữ” vậy, Ba?
-Trong một xã hội độc đảng như Việt Nam mà ngày 20-10-2018, trong khi tiếp xúc với cử tri tại quận II Saigon, bà Nguyễn Thị Quyết Tâm – chủ tịch nhân dân thành phố Hồ Chí Minh – đã bị cô Nguyễn Thị Thùy Dương quăng chiếc giày của cô vào bà Tâm.
Giữa khi mọi người còn ngạc nhiên, ông Hùng tiếp:
-Cái này mới ghê! Ngày 14-09-2018, ông Nguyễn Văn Túc – thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ – bị tòa án c.s.V.N. tại Thái Bình kết án 13 năm tù và 05 năm quản chế vì tội âm mưu lật đổ chính quyền. Ông Nguyễn Văn Túc nhìn quan tòa và nói “Địt mẹ tòa!”
Ông Hùng xác quyết:
-Nếu mỗi người dân Việt trong nước đều can đảm, dám tỏ thái độ để khẳng định lập trường của mình thì đảng c.s.V.N. sẽ không còn!
Nhìn đồng hồ tay, Hưng nhắc:
-Thôi, đi ăn, Ba. Tụi con đói bụng rồi.
*****
Mang giày cho cháu xong, bà Lan chợt nghe tiếng hát văng vẳng:
“… Gọi người yêu dấu xa vời
mà lòng lưu luyến bồi hồi.
Ngày biệt ly đành nhớ nhau thôi
khi chiều nhẹ rơi…” (2)
       Bà Lan đến bên cửa sổ, nhìn về hướng có tiếng hát và thấy ông Hùng đang tựa gốc cây sồi, ánh mắt xa xăm, vừa nhìn về phương trời vô định vừa “ngân nga” nho nhỏ:
“…Gọi người yêu dấu muôn đời,
nghẹn ngào không nói thành lời.
Tình yêu xưa ngày tháng phôi phai
biết bao giờ nguôi…” (3)
Bà Lan thở dài, cúi mặt, quay vào nhà.
       Thấy các con đem hành lý ra xe, ông Hùng vào nhà, giúp mọi người. Sau khi kiểm soát hành lý, Hưng bảo các con và cháu lần lược “hug” ông Hùng, dì Nở và hai em, con của Ba và dì Nở. Bà Lan ôm hôn hai đứa con của Nở và ông Hùng rồi xoay sang ông Hùng – không “hug” – khẽ nói:
-Em và các con rất vui. Từ nay Bố con có thể liên lạc với nhau rồi.
-Em cho anh một phút để anh nói với em những gì cần phải nói.
Bà Lan rơm rớm nước mắt, cúi đầu. Ông Hùng tiếp:
-Anh cảm tạ em đã nuôi dạy các con nên người. Khi mới gặp lại nhau, các con chỉ muốn nghỉ lại tại “nhà Ba” chứ không muốn nghỉ tại khách sạn thì anh biết em đã giáo dục các con theo đạo lý của nền văn hóa Việt Nam thuần túy. Với một phụ nữ đẹp, có tài – như em – mà em cũng vẫn chung tình với anh thì em chính là Thiên Thần của anh. Anh cũng cảm ơn chị Hai đã bảo lãnh em và các con sang Mỹ; nếu không có chị Hai, không biết cuộc đời của các con có thoát được cảnh “xuất cảnh lao động” để con gái đi làm điếm, con trai đi ăn cắp hoặc buôn bán cần sa hay không!
     Về phần anh, sau khi anh được c.s.V.N. thả ra, trở về chốn xưa với tấm thân tàn tạ, đầy bệnh tật và không nơi nương tựa thì chính Nở – cô gái bán bánh mì – đã cho anh từng ổ bánh mì. Thấy anh ngủ bờ, ngủ bụi, Nở đem cho anh cái mền cũ rồi Nở nhận vé số nơi chủ thầu cho anh đi bán. Lúc rãnh, anh dạy Nở học tiếng Anh. Khi làm đơn theo chương trình định cư cựu tù cải tạo (HO), anh đề nghị Nở cùng đi. Qua bên này, anh không đi làm được, vì già và mang nhiều thương tật. Nở làm móng tay để nuôi anh và hai đứa nhỏ…
       Bà Lan tủi thân! Khi mới sang Mỹ, bà phải làm hai việc – toàn thời gian – và đi học lại! Mỗi đêm bà về nhà thì các con đã ngủ say. Các con của bà, đến lớp 12 đều vừa đi học vừa đi làm. Bà Lan buồn, nhưng không biết buồn ai và buồn vì cái gì, đành cắt lời ông Hùng:
-Ai cũng tưởng Mỹ là Thiên Đường! Nhưng muốn lên Thiên Đường thì phải…chết rồi mới lên Thiên Đường!
Bà Lan xoay sang, “hug” Nở và khẽ nói:
-Cảm ơn em đã giúp đỡ, thương yêu, lo lắng cho anh Hùng; nhờ vậy, anh Hùng mới sống được để gặp lại các con của anh ấy.
Nở xúc động, khóc ròng:
-Bộ chị “hỏng” giận em sao?
-Không! Em là người ơn của Mẹ con chị.
Hưng bước đến:
-Sorry, Má, Aunty (Dì)! Má và tụi con phải đi kẻo trễ. Con sẽ gửi vé máy bay cho Ba, Aunty và hai em đến thăm Má và tụi con vào dịp Thanksgiving.
Ông Hùng bước theo Hưng và bà Lan ra xe. Bà Lan ngồi vào ghế bên phải của Hưng.
       Chiếc xe Van từ từ chuyển bánh. Nhiều bàn tay vẫy vẫy và nhiều tiếng “bye, bye” hướng về phía ông Hùng. Trong khi kéo “seat belt”, bà Lan nhìn vào kính bên phải, vẫn thấy ông Hùng đứng lặng nhìn theo. Nhìn dáng ông Hùng nhỏ dần…nhỏ dần…bà Lan tưởng như tiếng hát ngọt ngào của Whitney Houston đang ngân lên từ tâm thức của bà: “… So good bye. Please don't cry… And I will always love you…” (4)
ĐIỆP MỸ LINH
1.- Anh Ở Đây của Vũ Đức Nghiêm & Thục Vũ.
2 & 3.- Gọi Người Yêu Dấu của Vũ Đức Nghiêm.
4.- I Will Always Love You của Dolly Parton


Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 24081
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 15/Sep/2025 lúc 12:58pm

Tật Nói Nhiều Của Phụ Nữ !!!


Đàn%20ông%20sợ%20phụ%20nữ...%20nói%20nhiều?

Đàn ông luôn tỏ ra bất mãn với “Tật nói nhiều" của Phụ nữ, thậm chí coi đó là một giấc mộng kinh hoàng nhất trong cuộc đời !. Trong khi đó, hầu hết Phụ nữ lại cho rằng: Họ buộc phải nói nhiều để "chiến đấu" với tật xấu của bạn đời.

Theo các Chuyên gia về gia đình, thì không có gì hoang tưởng hơn, là chỉ dùng lời nói mà có thể cải tạo được một người Đàn ông. Trái lại, không ít cuộc ly hôn đã là hậu quả trực tiếp, hay gián tiếp, của những cuộc tra tấn bằng ngôn ngữ triền miên ....

Người ta kể rằng: Có một người Đàn ông bị đi tù 2 năm vì tội đánh vợ. Sau khi mãn hạn được tha về đoàn tụ với gia đình mới có một tuần lễ, anh ta lại khăn gói đến xin Ban quản lý nhà tù cho được tiếp tc cải to đến hết đời.

Hỏi vì sao anh không thích ở nhà mà lại muốn vào tù? Anh ta thú thật rằng: Tuy ở trong tù mất tự do thật, nhưng còn sướng hơn ở nhà, vì không bị vợ nói ra rả suốt ngày đêm!

Một cuộc điều tra 3.000 người đàn ông ở Thượng Hải với câu hỏi: 
- "Tính xấu của vợ mà anh ngán nhất?" 
thì 86% người trả lời: 
- "Nói nhiều” !. 

Các nhà Tâm lý học cho rằng: Hầu hết đàn ông đều sợ cái tính nói dai của các bà vợ. Nỗi sợ này có nguồn gốc sâu xa từ hồi nhỏ khi anh ta bị mẹ mắng mỏ. Đàn ông lẩn tránh các lời khuyên của vợ cũng giống như khi còn bé họ lẫn tránh lời dạy bảo của mẹ.  Hóa ra, Đàn ông rất hay bị Đàn bà rầy la : 

Lúc bé thì mẹ mắng.
Lớn lên một tí bị chị mắng. 
Lớn tí nữa, bị người yêu chê trách. 
Lấy vợ bị vợ đay nghiến. 
Về già lại bị con gái kêu ca ....

Có phải Đàn ông bị vợ nói nhiều là đáng đời vì họ lắm tội ? Tiếc rằng thực tế cho thấy: Khó mà có ông chồng nào thoát khỏi những "tội lỗi” ấy : 

- Người làm việc trí óc bị rầy la về đóng cái đinh không nên hồn !. 

- Người khéo léo chân tay lại bị chê là viết cái đơn không xong !. 

- Người giỏi cả chân tay lẫn trí óc lại bị tra tấn, vì không bao giờ biết mua vé đưa vợ đi xem một bộ phim ...

Giải thích tại sao Phụ nữ nói nhiều, có nhà Khoa học cho rằng: Vì khả năng sử dụng ngôn ngữ của họ mạnh hơn Nam giới. Lại có người cho rằng là từ thời tiền sử, Phụ nữ trồng trọt hái lượm nên tha hồ nói chuyện, trong khi đàn ông đi săn bắt phải ẩn nấp không nói được. Thật ra, Đàn bà cũng chẳng thích lắm điều, nhưng vì đa số việc nhà vẫn rơi vào tay Phụ nữ mà những việc đó thì không mấy khi được vừa lòng, do chồng con gây ra, vì vậy Phụ nữ không nói cũng không được.

Tuy nhiên, các nhà Tâm lý cho rằng: Người vợ khôn ngoan nói cái gì chỉ nói một lần thôi. Nếu điều đó không theo ý mình, thì cũng không nói đi nói lại, mà hãy làm thay anh ta. Bởi vì, cũng theo các Chuyên gia về gia đình, thì không có gì hoang tưởng hơn chỉ là dùng lời nói mà có thể "cải tạo" được một người Đàn ông đâu !. 

Bây giờ ta hãy đi ngược thời gian xem khi mới quen hơi bén tiếng nhau, Phụ nữ có thói quen ấy không. Nếu có, có lẽ số cuộc kết hôn phải giảm đi 90%.

Vậy khi mới yêu nhau, phụ nữ cư xử với đàn ông thế nào?
Thường lúc đó họ khen không ngớt. Nào là: "Anh giỏi quá!"; Anh tài quá!"; "Anh thông minh quá!"... 

Thì ra mọi chuyện chỉ bắt đầu từ khi kết hôn. Hãy thử nghe một đoạn băng ghi âm xem một cuộc xung đột vợ chồng thường diễn ra như thế nào? Ăn xong, người vợ nhẹ nhàng bảo: "Bữa nay, anh rửa bát nhá !".

Chồng vừa dán mắt vào ti-vi vừa trả lời: "Được rồi, cứ để đấy!". Mươi phút sau vợ hỏi; "Anh có rửa bát không nào?". Anh ta vẫn không dời mắt khỏi ti-vi, miệng trả lời: “Có !". Nhưng đa số Phụ nữ không chấp nhận như thế !. Họ muốn chồng phải làm ngay, nếu không thì hoặc họ sẽ tự làm, hoặc họ sẽ "trình diễn" một bộ mặt hình sự, mà những người đàn ông yếu bóng vía có thể bị chấn thương tâm lý, đến mức thấy mình đúng là một tên tội phạm. Bộ mặt ấy sẽ tiêu diệt hết cả mọi thú vui của anh ta trong ngày hôm đó.

Suy cho cùng, ai chả muốn nhà cửa sạch sẽ, ngăn nắp, nhưng nếu vì thế mà đánh đổi cả bầu không khí gia đình êm ấm có nên không? Không ít cuộc ly hôn đã là hậu quả trực tiếp, hay gián tiếp, của những cuộc tra tấn bằng ngôn ngữ triền miên này. Để kết thúc bài viết, xin kể một câu chuyện có thật về một đôi vợ chồng người Nga.

Xecgay Ivanovich kết hôn với Lena Xeramova và chỉ còn mấy hôm nữa là đến ngày kỷ niệm đám cưới vàng. Bỗng nhiên bữa nọ đang ăn thì bà vợ phát hiện chồng đánh rơi miếng thịt ra sân nhà, bà ta nghiến răng gầm lên: "Ông ăn uống cái kiểu gì thế?". Xecgay sửng sốt rồi ánh mắt từ từ lạnh lùng nhìn vợ, không nói một lời đứng dậy thu xếp khăn gói ra đi.

Về sau có người bạn thân của ông kể lại lần gặp cuối cùng, ông ta nói: "Lúc nào bà ấy cũng đay nghiến tôi !. Bà ấy nói tôi suốt đời không làm được một việc gì ra hồn !. Lần này, ít nhất tôi cũng làm được một việc ra hồn, là ... ra đi vĩnh viễn … !!!!!

Hết nói !     


Sưu tầm 



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 15/Sep/2025 lúc 1:09pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 24081
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Sep/2025 lúc 7:43am

Lần nào cũng vậy, mỗi khi xe đò sắp tới Đà Lạt là lòng tôi lại nôn nao những cảm giác xao xuyến khó tả.  Nhất là lần này, không hiểu sao bỗng dưng tôi cảm thấy bồn chồn và hồi hộp một cách kỳ lạ… Có lẽ vì tôi sắp đi lấy chồng nên sẽ ít còn dịp trở về thăm lại chốn xưa, nơi đã ghi dấu bao nhiêu kỷ niệm không thể quên. 

Qua khỏi Định Quán, xe bắt đầu tăng tốc độ, gió ào ạt lùa qua cửa xe, mang theo không khí trong lành của miền cao nguyên, làm mọi người đều cảm thấy dễ chịu.  Trời mới vào thu nhưng hãy còn hơi hướm của mùa hè, hoa hồng, hoa tường vi vẫn đang nở rộ, và những hàng cây phong hai bên đường, lá vẫn chưa đổi màu.  Đã quá trưa, mặt trời ngay trên đỉnh đầu, chiếu những tia nắng ấm áp làm tan đi cái giá lạnh của miền rừng núi, tuy vậy nhưng cũng có vài người sửa soạn đem áo len ra mặc.  Xe qua khỏi Bảo Lộc đã lâu rồi, và bây giờ đang trên đường vào thị xã Đà Lạt.  Con đường này, đối với tôi quen thuộc lắm, tôi nhớ từng khúc quanh, con đường đất đỏ, từng khóm cây và những ngôi nhà hai bên đường dọc theo sườn đồi…

Một đặc điểm của Đà Lạt là đứng ở chỗ nào cũng nhìn thấy cảnh vật ở những cao độ khác nhau.  Phía trên dốc cao, nổi bật ngôi nhà thờ mái đỏ với cây thánh giá cao vút, in lên nền trời màu xanh lơ có vài cụm mây trắng trôi lang thang.  Dưới dốc là thung lũng bạt ngàn, nhà cửa mọc san sát, bên kia thung lũng là nghĩa trang của thành phố, nơi Quân đang yên nghỉ.  Phía xa, trên đỉnh một ngọn đồi cao nhất là tu viện Domaine De Marie của dòng nữ tu áo trắng, nơi mà Quỳnh Như, người bạn thân nhất của tôi đang ẩn mình tu tập, hiến dâng đời mình cho thiên Chúa.


Quỳnh Như và tôi là bạn với nhau từ lúc còn nhỏ, học chung trường Couvent des Oiseaux.  Gia đình Như gốc gác ở đây, còn gia đình tôi từ Sài Gòn lên Đà Lạt lập nghiệp từ những năm đầu của thập niên 1960.  Hai gia đình ở gần nhau, chỉ cách một con đường ngắn.  Dạo đó, chúng tôi còn bé lắm, ngày chủ nhật thường theo cha mẹ đi nhà thờ, nhưng chúng tôi không vào bên trong đọc kinh, mà chỉ thích chơi đùa ở bên ngoài, nơi vườn hoa rất đẹp trong khuôn viên của nhà thờ.  Chúng tôi đuổi bắt bướm, hái hoa, hoặc đi lượm những quả thông rơi đầy trong vườn.  Những chiều tan học, chúng tôi thường tụ tập với lũ trẻ cùng tuổi, rủ nhau đi bắt dế, bẻ trộm trái cây, hoặc chơi những trò nhảy dây, bóng chuyền, hay trốn tìm…

Tôi hiếu động, tinh nghịch như con trai, còn Như thì nhu mì, hiền lành.  Mặc dù chỉ hơn tôi một tuổi, Như lúc nào cũng nhường nhịn tôi như một người chị, nên giữa chúng tôi không bao giờ xảy xa những chuyện cãi cọ, hoặc tranh dành.  Như và tôi cùng lớn lên ở đây, và Đà lạt đã ghi dấu bao nhiêu kỷ niệm của chúng tôi khi còn thơ ấu, cũng như khi lớn lên thành những thiếu nữ dậy thì.  Như đẹp lắm, dáng dấp mảnh mai, quí phái, đôi mắt trong suốt như nước hồ thu, khuôn mặt trái soan trắng nõn, và đôi môi mọng đỏ, nhìn là thấy mê.  Như đẹp một vẻ dịu dàng, mong manh như liễu, còn tôi thì khoẻ mạnh, nẩy nở như một thiếu nữ Tây phương, cả hai chúng tôi đều nổi tiếng là những hoa khôi của trường.  Chúng tôi đều không có chị em gái, nên coi nhau như chị em ruột, thân nhau tới độ dùng chung son phấn, mặc áo quần cùng mẫu thời trang, hay đi khiêu vũ, thích ca nhạc, và cùng mê những tài tử chiếu bóng… Ngay cả chuyện tình cảm, chúng tôi cũng không dấu giếm, Như và tôi thường đem những lá thơ tình của mình vào lớp cho nhau đọc, đến khi có bạn trai, chúng tôi cũng thường hẹn hò đi chơi chung.


Năm hai mươi tuổi, Như có người yêu là một bác sĩ y khoa mới ra trường tên Quân, người phương phi cao lớn, vui vẻ, bặt thiệp, và rất đẹp trai.  Quân giống như một thỏi nam châm thu hút sự chú ý của các cô gái mới lớn, anh chàng lại hay nịnh đầm và tính tình rất bay bướm.  Chúng tôi vẫn thường đi chơi chung, Như rất tế nhị trong cách đối xử, nên tôi luôn luôn thấy thoải mái và không hề có mặc cảm thừa thãi trong các cuộc đi chơi tay ba đó, còn Quân thì lúc nào cũng lịch sự, chiều chuộng cả hai.  Như thường tâm sự với tôi về tình yêu và những dự tính trong tương lai.  Hai người yêu nhau dòng dã hai năm mới quyết định làm đám cưới, và tôi được Như mời làm phù dâu.  Gia đình Như và gia đình Quân đều giàu có, nên đám cưới thật linh đình, cô dâu Quỳnh Như yêu kiều, tươi như hoa, e lệ đi bên chú rể đẹp trai, cùng tiến vào thờ trong tiếng vỗ tay vang dội của mọi người, ai cũng khen hai người thật xứng đôi, đúng là một cặp vợ chồng lý tưởng.


Cuộc hôn nhân tưởng rằng hạnh phúc đó, không kéo dài được bao lâu, chỉ ba năm sau ngày cưới, Quân đã ra người thiên cổ trong một tai nạn xe hơi thật rùng rợn.  Như tự cho mình là thủ phạm trong cái chết của Quân, vì đêm hôm cuối cùng trước khi xảy ra thảm trạng, hai người đã cãi nhau thật kịch liệt, và Quân đã giận dữ, đùng đùng lái xe bỏ đi và xảy ra tai nạn, chiếc xe lao xuống vực thẳm, bốc cháy và Quân chết tan xác.

Điên cuồng vì đau khổ và hối hận dày vò, Như thề nguyền sẽ suốt đời ở vậy, sám hối để chuộc tội với Quân, lúc đó Như mới hai mươi lăm tuổi.  Để thực hiện lời hứa, Như đã xin vào ở trong tu viện, quyết tâm xa lánh việc đời.  Sau vụ đó ít lâu, tôi cũng rời Đà Lạt, xin hoán chuyển về Sài Gòn để tiếp tục nghề dạy học.  Trước khi chia tay, chúng tôi hẹn gặp nhau một lần chót.  Như làm một bữa cơm tiễn biệt, nhìn thức ăn ê hề, tôi hỏi:

-         Chỉ có hai đứa mình, sao bồ làm nhiều đồ ăn dữ vậy?

-         Thì mai bồ đi xa, tôi phải làm tiệc tiễn hành chứ.

Như nói với giọng bình thường, nhưng khoé mắt hơi đỏ, tôi cũng nghẹn ngào, gượng cười:

-         Bồ làm như tôi là tráng sĩ Kinh Kha, ra đi không hẹn ngày về… Tôi có đi đâu, rồi cũng sẽ về thăm bồ, vì làm sao tôi có thể dứt khoát xa rời người bạn thân của tôi, và xa rời Đà Lạt là quê hương thứ hai của tôi được chứ?

-         Bồ nói đúng, chúng ta đã có với nhau quá nhiều kỷ niệm, tôi tin rằng bồ sẽ không quên được đâu.

Nói tới đây, Như ngưng lại, nhìn tôi bằng ánh mắt rất lạ, rồi mới buồn rầu tiếp tục:

-         Chúa đã sắp đặt cuộc đời của hai đứa mình có liên quan với nhau.  Chúng ta cùng lớn lên ở đây, là bạn thân của nhau hai mươi năm rồi, cùng chia xẻ mọi thứ, vui cũng như buồn… Quân chết đi là tôi mất tất cả, đời tôi chẳng còn vui thú gì nữa, tôi biết bồ cũng đau lòng lắm, phải không?

Tôi gật đầu, mặc dù trong thâm tôi nghĩ khác, cái chết của Quân có làm tôi bàng hoàng, xúc động thật đấy, nhưng chỉ một thời gian ngắn, rồi đâu lại vào đấy, không như Như đau khổ đến tuyệt vọng, có lẽ vì Như đã yêu quá sâu đậm người đàn ông duy nhất của đời nàng.  Nhìn Như giống như một cái xác không hồn, tôi thầm thương xót cho bạn.  Cá tính của chúng tôi từ thuở nhỏ vẫn không thay đổi, tôi luôn luôn hiếu thắng nhưng nông nổi, hễ thích cái gì thì tìm cách chiếm đoạt cho kỳ được, xong rồi lại chán, không giống như Như âm thầm nhưng sâu sắc.  Như sống về nội tâm nhiều hơn, tình cảm cũng kín đáo, không để lộ ra ngoài, đố ai có thể đoán được những ý nghĩ thầm kín trong đầu của cô nàng qua bộ mặt luôn luôn trầm lặng, khép kín.

Bữa ăn rất buồn, gần như không ai đụng đũa.  Lúc tiễn tôi ra cửa, Như cố gượng một nụ cười héo hon:

-         Đâu có ngờ cuộc đời của tôi lại trở thành thế này? tôi chưa kịp chuẩn bị tinh thần để chịu đựng.  Nhưng bồ đừng lo, tôi sẽ không tự tử đâu, vì tôi còn phải sám hối, còn nhiều việc phải làm trước khi nhắm mắt.

Tôi rùng mình, lời nói sao nghe như một lời nguyền… Tôi cúi mặt, tránh những tia nhìn quan sát toát ra từ cặp mắt rất buồn của Quỳnh Như lúc này trông giống như hai cái giếng sâu thăm thẳm, đầy bí hiểm khiến tôi rờn rợn. Tôi nắm lấy tay bạn một lúc rồi mới buông ra:  

-         Thôi chúng mình chia tay nghe!  Bồ ở lại mạnh giỏi, nhớ giữ gìn sức khoẻ. Thu xếp xong công việc, thế nào tôi cũng sẽ lên thăm bồ, đây với Sài Gòn đâu có bao xa?

Như gật đầu, giọng sũng nước mắt:

-         Bồ thì bỏ đi, Quân cũng đã chết, tôi cô đơn quá, chẳng còn ai để tâm sự, để an ủi… Làm sao tôi chịu đựng nổi đây?

-         Hy vọng thời gian sẽ hàn gắn vết thương cho bồ.  Thôi, tôi đi nhé?

-         Bồ cũng bảo trọng.  Như dặn với, khi tôi bước ra cửa, nhớ giữ liên lạc!

-         Ừ, tôi không quên đâu! Bồ vô nhà đi kẻo lạnh, sương xuống nhiều rồi đó.

Nhìn dáng Như thiểu não, lòng tôi bỗng man mác buồn và tôi thương bạn vô kể.  Giữ lời hứa, chúng tôi vẫn thường xuyên thơ từ cho nhau và mỗi năm một lần, tôi đi thăm Như, đã năm năm rồi, thành một thói quen.


Năm nay lên Đà Lạt, tôi đem tặng bạn một cái áo lạnh có cả khăn quàng màu tím nhạt thật đẹp, một gói nho khô và mấy cái băng nhạc.  Như mọi lần, Quỳnh Như chờ tôi ở phòng tiếp khách của tu viện.  Trông Như bây giờ khác xưa nhiều quá, mái tóc dài mượt mà khi xưa vẫn để xõa xuống vai, ôm lấy khuôn mặt trái soan trắng nõn, bây giờ được vén cao, che dấu dưới nếp mũ vải xám, Như mặc bộ đồ nữ tu cũng màu xám, cổ đeo một chuỗi hạt có cây thánh giá bằng bạc lủng lẳng ở trước ngực. Tôi mỉm cười, nói đùa:

-         Chào sơ Therese Như! Sơ có khoẻ không? dạo này trông sơ gầy đi nhiều.

-         Đừng gọi tôi như thế.  Như vội vã nói, tôi chưa được ơn Chúa cứu rỗi nên chưa được làm phép Chúa, tôi vẫn còn trong thời kỳ thử thách.

-         Trông bồ đạo mạo quá.  Ở tu viện đã lâu, sao không quyết định dứt khoát?

-         Tôi đã nguyện hiến dâng đời mình cho Chúa, nhưng lòng trần còn vấn vương nhiều quá.  Mẹ bề trên cho tôi thêm một thời gian nữa để suy nghĩ cho chín chắn.

Như nói xong, thở dài:

-         Tuần trước, ba má tôi cũng tới thăm.  Tội nghiệp, ông bà đã già rồi và buồn bã hết sức, ông bà chỉ mong tôi sớm quyết định dứt khoát, và bảo tôi nếu không tu được thì trở lại cuộc đời của một người bình thường và đi lấy chồng…

-         Ông bà cụ kể cũng có lý.  Tôi nói, bồ mới ba mươi tuổi, còn trẻ lắm, lại đẹp nữa, sao không làm lại cuộc đời?

Như nói một cách nghiêm trang:

-         Bồ tính làm sao tôi có thể bước đi bước nữa khi lòng đã nguội lạnh và tôi vẫn chưa quên được Quân?  Tôi vào đây là để sám hối tội lỗi mình đã gây ra, chính tôi đã giết Quân, hôm đó nếu tôi không cãi nhau với Quân thì anh ấy đâu có giận dữ bỏ đi và lao xe xuống vực?  Vì tôi mà Quân đã chết, tôi không bao giờ quên được cảnh tượng đêm hôm đó, hãi hùng quá, nó sẽ ám ảnh tôi suốt cả cuộc đời… Đã giết người thì phải đền tội, tuy pháp luật không bỏ tù, nhưng lương tâm tôi khong bao giờ tha thứ.

Như nói xong, nhắm mắt lại, khuôn mặt hằn lên những nét đau đớn không thể tả.  Thương bạn quá, tôi nắm chặt lấy tay Như an ủi, và để cho bạn quên đi những ám ảnh về một tội lỗi tưởng tượng, tôi cố xoay câu chuyện qua một hướng khác.  Đưa cho Như gói quà tặng, tôi nói:

-         Vào thu rồi, Đà Lạt bắt đầu lạnh rồi đấy.  Như xem cái áo này có đẹp không? tôi đã mất cả một buổi chiều để đi chọn cho bồ đó.  Mặc thử đi, ấm lắm.

Như mân mê mãi làn vải dạ mịn màng của cái áo măng tô màu tím nhạt, mắt nhìn lơ đãng vào khoảng không một lúc sau mới quay lại nói, giọng trầm hẳm xuống:

-         Màu này là màu Quân vẫn thích… Bồ còn nhớ không? xưa kia tôi cũng có một cái áo dài màu như thế, mặc vào, Quân khen không tiếc lời, thế là mấy hôm sau, bồ cũng bắt chước, may một cái áo y hệt.

Tôi nói hơi có vẻ ngượng:

-         Ừ, dạo đó tụi mình thích mặc giống nhau.

Như im lặng, nét mặt đăm chiêu như đang nghĩ ngợi, tôi vội vã nói sang chuyện khác, tôi hỏi Như về đời sống ở trong tu viện, Như đáp:

-         Trầm lặng và buồn, mỗi người hình như đều sống trong một thế giới riêng, chỉ trừ những lúc đọc kinh thì tất cả đều hướng về Chúa.

-         Mẹ bề trên thế nào?

-         Mẹ Maria là một người đáng kính, bà chăm sóc phần hồn cho tất cả các sơ và những người tập tu như tôi.

Như vừa nói vừa mở gói nho khô ra nếm vài hạt, khen ngon rồi rủ tôi ra vườn.  Chúng tôi vừa đi vừa nói chuyện, Như hỏi tôi về gia đình, về công ăn việc làm của tôi.  Thong thả, tôi kể cho Như nghe về cha mẹ tôi, về vài người bạn cũ, về Sài Gòn với những biến động chính trị, những cuộc biểu tình… Như chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng mỉm cười.  Nhân một lúc thấy Như vui vẻ, tôi mới nói:

-         Hôm nay tôi tới cho bồ hay một tin vui của tôi, tôi sắp lập gia đình.

Đang đi, Như dừng ngay lại, nhìn tôi một lúc, sắc mặt không hề biến đổi, rồi lại tiếp tục đếm bước.  Tưởng Như chưa nghe rõ, tôi nhắc lại:

-         Tôi sắp lấy chồng, bồ ạ, bọn tôi định Noel năm nay sẽ làm đám cưới.

Bấy giờ Như mới nói:

-         Mừng cho bồ, hai người quen nhau lâu chưa?

-         Mới năm ngoái, tôi gặp Tường trong một buổi dạ vũ…

-         Tên anh chàng là Tường à? anh ta làm nghề gì vậy?

Tôi ngập ngừng:

-         Tường cũng là một… bác sĩ.

-         Cũng là bác sĩ?  Như lập lại, thế anh ta có biết Quân không?

Tôi lắc đầu:

-         Tường học ở bên Pháp và mới về nước.

-         Không, tôi muốn hỏi Tường có biết chuyện giữa bồ và Quân không?

Tôi lạnh toát người, có cảm tưởng như máu vừa đông lại trong huyết quản, lảo đảo vịn vào một thân cây để đứng vững, tôi hỏi không ra hơi:

-         Chuyện gì giữa tôi và Quân?

Như bỗng bật lên một tràng cười dài nghe lạnh mình, tiếng cười vừa mỉa mai vừa có vẻ chế diễu khiến tôi càng thêm nhột nhạt.  Dứt chuỗi cười, Như mới chậm rãi nói:

-         Thôi đi, đừng có vờ! bồ tưởng tôi không biết gì hay sao? Hai người có tình ý với nhau từ thuở vẫn đi chơi chung, dạo đó Quân và tôi chưa làm đám cưới.  Tính Quân vẫn hay lăng nhăng như vậy, chỉ thích bắt cá bằng cả hai tay.

Tôi nuốt nước bọt hai, ba lần, phải khó khăn lắm mới mở miệng được, tôi nói gần như thì thầm:

-         Bồ biết vậy sao còn lấy hắn?

Như thở dài:

-         Tại tôi lỡ yêu Quân rồi. Trong đời tôi chỉ yêu một lần thôi, và cũng tại Quân nữa, Quân nói với tôi bồ khiêu khích hắn trước, hắn thấy bồ dễ dãi nên tán tỉnh chơi, còn lấy làm vợ thì Quân chọn tôi.

Như nói và nhìn tôi với một vẻ thương hại.  Tôi đứng im như trời trồng, đầu cúi xuống, mặt nóng bừng một cảm giác vừa trơ trẽn, vừa xấu hổ, nhục nhã.  Không bút nào tả được tâm trạng của tôi lúc đó, tôi chỉ muốn độn thổ ngay tức khắc, ước gì mặt đất nứt ra, tôi sẽ chun ngay xuống đó… Như vẫn thong thả tiếp tục:

-         Quân đã thề thốt đủ thứ, vậy mà sau khi cưới tôi, hắn vẫn lén lút đi lại với bồ.  Chúa ơi! bồ có hiểu tôi đã đau lòng đến thế nào không? khi người bạn thân nhất của tôi đã phản tôi, cướp chồng của tôi…

-         !?!

-         Nhưng tôi biết tính bồ mau chán, hy vọng rồi thế nào bồ cũng buông Quân ra, và Quân sẽ thuộc về một mình tôi thôi.  Ai dè…

-         !?!

-         Quân nói hắn muốn ly dị tôi để cưới bồ.  Điều đó làm tôi đau đớn đến cùng cực, đêm hôm đó chúng tôi đã cãi nhau một trận dữ dội, tôi không tiếc lời thoá mạ Quân, vì vậy mà Quân đã giận dữ lái xe bỏ đi và xảy ra tai nạn.

Tới đây thì tôi không thể đứng vững được nữa, hai đầu gối tôi lỏng lẻo như chỉ chực sụm xuống.  Như phải dìu tôi ngồi xuống một băng ghế trong vườn, rồi mới tiếp tục câu chuyện còn dang dở.  Như nhìn thẳng vào mặt tôi, thong thả nói từng tiếng một:

-         Tôi nghĩ bồ cũng có một phần trách nhiệm trong cái chết của Quân, vì bồ là nguyên nhân của cuộc cãi vã.

Như ngưng lại một chút, lơ đãng nhìn lên trời cao.  Tôi run rẩy đưa tay quệt mồ hôi đang vã ra trên trán, mặc dù lúc đó trời lạnh, cảm thấy toàn thân rã rời như không còn một chút sức lực nào cả, phải cố gắng lắm, tôi mới mở miệng được, lắp bắp:

-         Tôi… tôi ư?

Như gật đầu, vẻ mặt vẫn không thay đổi, cô ta nhìn tôi quan sát một lúc, rồi mới lạnh lùng buông một câu nguyền rủa thật nhẹ nhàng, nhưng cũng thật là độc địa:

-         Phải, bồ tưởng rằng cứ bỏ đi xa là có thể trốn tránh được tội lỗi? đâu có dễ dàng như thế?  Tôi tin rằng rồi đây trong suốt cuộc đời còn lại của bồ, bồ sẽ bị hối hận dằn vặt vì những gì bồ đã gây ra cho tôi, người bạn thân nhất của bồ.  Tôi bây giờ còn sống, nhưng cũng chẳng khác gì đã chết.  Chỉ trừ khi bồ có can đảm giết tôi, bồ mới có thể xoá bỏ hết tang chứng của cái quá khứ tội lỗi của bồ.  Nhưng dù sống hay chết, tôi vẫn sẽ là một cái bóng ma ám ảnh bồ suốt đời.  Bồ sẽ không bao giờ có thể sung sướng, an tâm hưởng hạnh phúc được đâu, vì lương tâm của bồ sẽ không để yên cho bồ.

 

PHƯƠNG – LAN


Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 24081
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 27/Sep/2025 lúc 3:42pm

Cháu%20bà%20nội,%20tội%20bà%20ngoại


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 27/Sep/2025 lúc 3:49pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 24081
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/Oct/2025 lúc 9:38am

Me Chồng Tôi, Bà Thế Lữ 

Bà lang, mẹ nhà thơ Thế Lữ

Khi cưới tôi về ở với gia đình trong Nam, chồng tôi chỉ có mẹ, chị, và anh thứ hai đã ra ở riêng. Bố và anh lớn của anh ở ngoài Bắc, đã mười tám năm không gập mặt.

Mẹ người tầm thước, vừa người, vấn khăn vải, ăn trầu và còn răng đen. Mẹ là người cổ kính, ăn nói nhỏ nhẹ, không thấy to tiếng bao giờ. Mẹ rất hiền và nghe theo ý của các con, nhất là ý chị lớn. Việc mẹ bằng lòng cho con trai lấy tôi, một cô bạn học của anh, theo đạo Phật, và chấp nhận tôi không phải theo đạo Chúa, được xin "miễn chuẩn dị giáo ", là do các con khuyên được. Mẹ chăm lo cho các con, dù đã lớn, từng miếng ăn, giấc ngủ. Chưa bao giờ tôi thấy mẹ khóc, ngay cả khi tiễn con cháu đi xa không biết bao giờ mới trở lại. Mẹ nói mẹ không còn nước mắt.


Hồi trước năm 1945, gia đình chồng tôi gồm cả bà nội, sống ở Hải Phòng, bố là con độc nhất của bà, bố rất có hiếu với bà. Những năm 1933-1946 bố đi Hà Nội làm báo, mỗi tháng chỉ về nhà độ một hoặc hai lần, mà mỗi lần về chỉ một hai ngày thôi. Khi bố có viêc cần, bố viết thư cho mẹ. Thư chỉ độ một trang giấy hoc trò, mẹ thường phải giấu bà, để tới tối không ai thấy, mới dám mang ra đọc. Mẹ chỉ biết đọc, không biết viết.

Mẹ sinh năm 1905, tại một làng đạo tỉnh Hà Nam. Cha xứ dạy con chiên học đọc để đọc kinh, không dạy viết. Con gái xóm quê, chưa từng đi học bao giờ, học khó quá, thì cha ra lệnh : " Không biết đọc thì không được phép thông công ", nên mẹ biết đọc. Đến khi cần trả lời thư bố, thì mẹ phải nhờ cô em nuôi trong nhà viết dùm, giấu bà. Đến mấy chục năm sau, thỉnh thoảng cô ấy lên chơi nhà, vẫn kể cho chúng tôi nghe chuyện thay mẹ viết thư cho bố. Tuy nhiên, mẹ rất thông minh, thuộc tất cả thơ của bố. Mẹ cũng chịu khó đọc thêm sách, truyện, báo chí ...

Tôi còn nhớ một chuyện xảy ra hôm đám hỏi của chúng tôi. Lúc nhà trai đến, gia đình nhà gái với đầy đủ họ hàng, bạn bè, thân thuộc đang ra tiếp đón vui vẻ, thì một bà bác tôi vì không biết bố chú rể là ai, tới hỏi mẹ chồng tôi rằng : "Thưa cụ, thế cụ ông nhà ta làm gì ạ?", và mẹ đã trả lời : "Dạ, nhà tôi đi diễn kịch".

Một người bạn thân của tôi nghe được, chạy vào nhà trong nói với hai chúng tôi rằng: "Trời ơi, sao cụ bà kỳ thế! Cụ không trả lời là nhà tôi là nhà thơ, là nhà văn,.. mà lại bảo là "nhà tôi đi diễn kịch!". Hai chúng tôi đứng yên lặng nắm tay nhau, chỉ cười không trả lời lại. Vì trong đáy lòng, chúng tôi hiểu rõ rằng, cụ bà răng đen mà ai cũng cho là nhà quê kia, đã tỏ ra rất yêu chồng và hiểu sâu xa những đam mê, những mơ ước cuả cả đời ông. Mẹ không phân biệt nhà thơ hay nhà văn hay người làm kịch, mà nói ra thật đúng điều chồng mình suốt đời say mê trở thành. Đó chính là "được làm kịch, được xây dựng nghề kịch" khi xã hội Việt Nam mới manh nha kịch nói, khi đi hát đi diễn kịch còn là "xướng ca vô loài". Trở lại thời gia đình còn ở Hải Phòng, bà nội rất khó tính, nhất là đối với mẹ. 

Bố đã giải thích cho mẹ hiểu là tại tình duyên của bà gặp nhiều trắc trở, bà khổ quá, bà hành con dâu vì những điều uất ức không nói ra được... Có một lần, bố viết một truyện ngắn, mang về nhà, giả vờ là truyện của văn sĩ khác, đọc cho bà nghe, mong bà thương mà nghĩ lại cho. Đang đọc, thì bà cầm lấy cái tráp đựng trầu, dằn mạnh xuống phản một cái rầm, rồi nói :

" À, thế ra anh lại muốn dạy tôi đấy ! ".

Bố sợ quá, chạy thẳng một mạch không dám trở về nhà nữa. Và người phải chịu đựng mọi thứ chuyện ở trên đời lại vẫn là mẹ.

Ông nội người làng Phù Đổng, từ Hà Nội nhìn ra là "bên kia sông Đuống ", ông học tây học, đi làm sếp ga xe lửa (những năm đầu thế kỷ 20). Ông thuộc dòng trưởng trong họ, đi làm xa không trông nom được nhà thờ họ nữa, nên nhường lại cho dòng thứ, vẫn còn ở trong làng thờ cúng tổ tiên tới bây giờ. Do không bao giờ sống ở trong làng, bố cũng như anh lớn quên mất quê Phù Đổng, luôn luôn khai mình quê ở Hải Phòng. Văn học sử chắc còn sai chuyện đó mãi.

Hồi trẻ, bà đi buôn tơ, nên thường đi lại trên tầu hoả, gập ông sếp ga trẻ, vì thế mới nên duyên. Bà lấy ông nội trước, nhưng "vượt quyền gia đình " nên không được làm vợ cả của ông. Nghĩ lại mà coi, ngay thời bây giờ, có ai lại vui lòng cho con trai giỏi giang độc nhất của mình lấy một cô "đi đạo", hồi đó có nghĩa là "bỏ không thờ cúng tổ tiên nữa ", mà lại không đợi bố mẹ hỏi vợ cho không ? Kết cục là cụ nội cưới cho ông một bà khác làm vợ cả, mang về sống cùng gia đình.


Về sau, ông nội chúng tôi đổi về ga Lạng Sơn, ông mang gia đình tới ở đó. Bà nội vẫn sống một mình ở Hải Phòng, nuôi hai con là bố chồng tôi và một người anh. Hồi bố còn bé, bà cả chưa có con, cụ nội đã tới bắt bố mang về Lạng Sơn, cho làm con nuôi bà cả, để mong bà cả sớm có con. Sau đó, bà cả sinh được ba con trai và một gái. Trong tiểu sử của mình, bố kể lại cho thi sĩ Xuân Diệu viết, có đoạn :

" Khi lớn lên bắt đầu hiểu biết, thì thấy mình sống mà lúc nào cũng thương nhớ, thương nhớ một người gọi bằng mợ, và sống trong nhà với một người gọi bằng u..."

Thỉnh thoảng bà nội lên Lạng Sơn thăm bố, hai mẹ con rù rì nói chuyện. Đến lúc bà đi tầu hoả về, bố đưa tiễn, khi tầu đi rồi, bố cứ áp tai xuống đường ray nghe tiếng tầu chạy vọng lại, vọng lại mãi...

Thế rồi, anh lớn của bố bị bệnh mất mấy năm sau đó, lúc đó còn nhỏ tuổi. Ông nội thương bà nội quá, bà ở có một mình, nên đã ra tay "đánh tháo" cho bố trốn khỏi Lạng Sơn về Hải Phòng với bà. Từ đó, bố mới được sống với mẹ đẻ. Lớn lên, theo nghiệp văn chương, nhiều truyện bố viết còn chịu ảnh hưởng thời kỳ Lạng Sơn này. Bố cũng hay dắt các con về thăm ông và gia đình ở Lạng Sơn.

Lúc bố mới bắt đầu viết văn, ông nội thấy con trai viết được nhiều loại khác nhau, chưa nghiêng hẳn về thể loại nào, đã chọn cho bố tên Thế Lữ (cũng do tên Thứ Lễ nói lái).

Bà nội là bà lang đạo, chuyên chữa bệnh trẻ con nổi tiếng ở Hải Phòng thời đó, vì vậy thường được gọi là " bà lang ". Có lúc, bố đã định sẽ theo nghề lang của gia đình, nếu như thế thật, liệu có còn " Hổ Nhớ Rừng " cho thời niên thiếu của chúng ta không nhỉ ?

Đến khi bố được mười bảy tuổi, bà nội về một làng đạo ở Hà Nam, đi xem mặt các cô gái trong làng, bà chọn mẹ chồng tôi, một cô gái hiền lành ngoan đạo mười chín tuổi cho con trai của bà. Mẹ kể lại là trước đó, có nhiều người đến dạm hỏi mẹ, nhưng cứ có người đến hỏi, là mẹ ốm rất nặng, chỉ khi bà lang đến hỏi cho bố thì không ốm, nên gia đình bằng long gả.

Cưới con dâu về, theo tục lệ, bà nội truyền nghề " bà lang " cho. Vì vậy, mẹ vừa phải lo cơm nước cho toàn gia đình, nuôi con nhỏ, cho con bú, vừa phải làm thuốc để bán, vừa đi khám bệnh cho thuốc, khi có khách mời, (cũng có lúc, gia đình nuôi thêm người giúp việc). Vì phải làm thuốc, mẹ học được tính làm việc rất sạch sẽ, kỹ lưỡng, cẩn trọng khi nuôi trẻ, và làm cơm nước khéo léo, tinh khiết. Và cũng vì đi chữa bệnh cho trẻ con đau ốm tận nhà, nên mẹ có chút tiền dư để riêng, không phải để tiêu cho mình, mà để bù tiền chợ cho bà hài lòng.

Tính bà lang rất hay dỗi, thỉnh thoảng lại lên cơn hờn. Có lần bà hờn rồi bỏ nhà đi mất. Cả nhà sợ quá bổ đi tìm, chẳng thấy cụ đâu cả, đang quá bối rối thì bà về. Bà vào nhà, lên cái phản gỗ, ngồi vào cái võng riêng treo ngay trên đó, lấy trầu ăn, rồi nói :

- Mình ngồi ngay ở nhà ga chứ có đâu xa, mà chẳng đứa nào thèm ra đón mình về, cứ như con chó tiền rưỡi ấy thôi !

Ấy là thời xưa người dân ta hay nói ví von như thế. Có khi bà hành con dâu (mẹ chồng tôi) đủ kiểu rồi, không thấy nó khóc lóc gì, thì lại nói ví :

Nắng mãi mà hoa không héo,

Hoa cứ reo réo hoa tươi.

Mẹ sau này nghiện trầu cũng là tại bà. Mỗi khi đi đâu ra đường, thì bà gọi lại, ấn miếng trầu vào tay, dạy bảo :

- Ăn trầu đi, cho môi nó đỏ, mặt mũi hồng hào lên chứ, đàn bà ra đường mà môi thâm thế kia.

Nhiều lúc mẹ khốn khổ quá, không chịu nổi, đã trốn về gia đình mình. Nhưng về tới nhà, thì bà ngoại lập tức khóc lóc nói :

- Con đã lấy chồng, là con người ta, thì sống chết cũng phải về đó không được bỏ, nếu không, mẹ chết ngay bây giờ đây.

Rồi cụ đưa mẹ về lại nhà chồng.

Mỗi lần mẹ ốm, phải uống thuốc, thì bà nội lại ngấm nguýt :

- Mình ốm rơi răng cũng chẳng thuốc men gì, còn nó thì hơi tí đã thuốc.

Mẹ giận quá, nên đến lần ốm đó, mẹ không uống thuốc nữa, ốm luôn một mẻ vài tháng. Đang lúc đó, mẹ lại mang thai chị lớn, mẹ ốm tới nỗi thai đang lớn lại nhỏ đi, mười một tháng mới sinh, về sau chị lớn lên, rất yếu đuối. Có một chuyện mẹ hay kể cho chúng tôi nghe là :

Nhà có ba gian, ông ấy (bố chồng tôi) ngủ nhà ngoài, bà lang (bà nội) ngủ nhà giữa, còn mẹ ngủ nhà trong. Mà có xong đâu, mỗi khi bà lang đi vào trong Thanh (tỉnh Thanh Hoá) vài ngày, đi mua xương hổ nấu cao hổ cốt, thì gọi mẹ ra dặn :

- Này, nó đang ốm đấy, đừng có lộn xộn !

Thế nhưng khi mẹ có thai thì bà mừng lắm, vì bà rất thích có cháu.

Mẹ vừa cười vừa kể, lần nào cũng đúng từng câu như vậy. Mẹ kể thêm một chuyện nữa, bắt đầu bằng : - Con đã biết chuyện mẹ là người sung sướng nhất đời chưa ? Có một lần, mẹ đi tầu hoả, có nói chuyện với một người trên tầu, khi biết rằng mẹ là vợ ông Thế Lữ, người đó đã nói: "Giời ơi! thật thế à? Chị thật sung sướng quá, chị là người sung sướng nhất đời". Đấy, con đã nghe chuyện mẹ là người sung sướng nhất đời chưa ?

Mỗi lần thấy mẹ kể chuyện, chồng tôi lại ra vuốt lưng mẹ: "Mẹ lại kể chuyện cổ tích rồi ". Các con chúng tôi cũng được nghe dăm ba câu chuyện "cổ tích"như thế. Chuyện cổ tích ngày xưa này, dài mấy chục năm.  

Bố đi làm báo xa, mẹ ở nhà nuôi các con và phụng dưỡng mẹ chồng thay bố. Mỗi tháng bố về một hay hai lần. Nhiều khi bố về là bà kể tội các cháu.. Bố mệt và giận, nên lôi các con ra bắt nằm trên phản, quất cho một trận phất trần, con khóc, vợ buồn... bố lại bỏ đi...

Thế Lữ

Tuy nhiên, nhiều lúc bốn anh em cũng được bố chiều, dẫn đi chơi, có lần trời mưa không dẫn con đi xem xiếc như đã hứa được, bố đã xuất thần hoá trang làm nhân vật sân khấu, làm hề, giúp vui cả nhà...

Anh cả, đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, còn nhớ có lần bố dắt anh đi xe hàng ra Đồ Sơn hóng gió biển... thấy bố dũng mãnh bế mình đứng trên xe, anh rất phục và rất hãnh diện vì bố. Anh cũng là người con duy nhất theo được nghề đạo diễn của bố, được sống gần bố lúc mới lớn, được bố nuôi dưỡng những đam mê về nghề kịch cho anh, được bố dẫn dắt anh lúc bắt đầu. Sau này, hai bố con nói chuyện, bàn bạc về kịch rất tương đắc, bố vẫn là một cố vấn theo dõi công việc đạo diễn của anh suốt đời. Có những vở kịch anh làm theo góp ý của bố, đã rất thành công. 

Bố tính hay pha trò, con cháu ai có tật gì, dáng gì không đẹp, là ông bắtchước, làm như hề, giúp trẻ hiểu cái xấu để sửa lại. Anh thứ hai là người khó ăn, anh không ăn nổi một cọng hành. Có lần, bố vẽ hình anh đang khóc bên cái bát có cọng hành... để dỗ anh ăn.

Cả nhà các con các cháu đều học được tính hay nói đùa, ai cũng thích kể chuyện cười. Hôm nào ăn cơm đông đủ là tranh nhau kể chuyện. Con gái tôi khi còn bé, cháu cũng thích kể lắm, nhưng khi cô bé kể chuyện cười thì vừa được vài câu, đến chỗ buồn cười là cô nàng cười trước, rồi càng lúc càng cười, cười đến nỗi không nói nổi nữa, cả nhà cứ nhìn nó cũng thấy buồn cười rồi, nên người nọ chỉ người kia, ai cũng lăn ra cười. Câu chuyện thì chưa kể xong! Mà có ai cần nghe xong câu chuyện đâu ! Cười là vui rồi.

Trong lá thư đầu tiên anh Nghi gửi cho chồng tôi sau mấy chục năm xa cách, không hề có liên lạc, anh viết: "Hình ảnh cuối cùng của em, mà anh còn giữ mãi, là một chú bé mươi tuổi đang lăn ra cười trên đê. Lúc đó em đang kể chuyện "Ganh đòn bá" (ba đòn gánh) cho anh nghe ở hậu phương".

Mẹ hay nhắc lại là hồi trẻ bố còn hay nóng giận, nhưng khi bố giận, bố chỉ nện giầy nặng thêm lên thôi. Mẹ nghe tiếng giầy là biết ngay, nên tránh không nói gì hết cho đến khi cơn giận của bố tan đi. 

Bố sống xa nhà, phần nhiều ở Hà Nội, bố gia nhập Tự Lực Văn Đoàn, làm thơ, làm báo, viết truyện, viết Tin Văn Vắn chuyên về phê bình thơ... Bố nổi tiếng, bố lập ban kịch, rồi đi trình diễn các nơi... Bố vẫn về thăm gia đình đều đặn hàng tháng. Nhưng rất ít bạn bè, đồng nghiệp của bố quen biết gia đình vợ con bố.

Thế rồi, chuyện phải đến, đã đến. Ngay từ những năm bắt đầu làm kịch 1937-40, bố gập một người cùng chí hướng, bà Song Kim, bà giỏi thiên bẩm về nghề kịch, có cùng những ước mơ những đam mê sân khấu như bố... Bà Kim đã cùng bố xây dựng nền kịch nói, từ đó...
Anh Nghi nhiều lúc nói với chúng tôi :
- Anh là người không có tuổi thơ, vì mới có mười mấy tuổi, đang ở Hải Phòng, nghe tin bố có "bà khác " ở Hà Nội, mẹ khổ quá, mà mẹ không có ai bàn bạc, anh là con lớn nên mẹ chỉ nói chuyện với anh.

Bà nội nghe chuyện ấy rất buồn. Tuy xã hội ta trong những năm xa xôi đó, đa thê là chuyện bình thường và hợp pháp.
Thế rồi Đảo chính Nhật, rồi Cách mạng tháng Tám. Bố cùng ban kịch đang đi lưu diễn vội trở về Hà Nội. Đến khi chiến tranh chống Pháp bắt đầu, cả đoàn kịch đã theo Kháng Chiến, đi khắp các nơi biểu diễn.

Như tất cả mọi người, gia đình ở Hải Phòng gồm bà nội, mẹ và bốn anh em cũng chạy tản cư. Vào một ngày năm 1948, đang ở nhờ trong một nhà dân vùng hậu phương xa thành phố, nghe tin có ban kịch đi qua, các anh đi tìm ngay được bố, đưa bố về gặp gia đình. Bao nhiêu lâu mới được một lần sum họp, mới có một bữa ăn đông đủ cả nhà... Nhưng, người lớn có chuyện quan trọng cần bàn ngay : Nhà đã hết tiền, không có cách sinh nhai, không thể tiếp tục sống ngoài hậu phương được mãi. Gia đình quyết định cho tất cả đàn bà trẻ con về thành, trừ anh lớn. Bố nói : " Nghi đi với cậu, con về thành sẽ bị bắt đi lính cho Pháp ".Từ đó, chia ly hai ngả.

Năm 1954, sau hiệp định Genève, bố và anh Nghi về Hà Nội, nhưng nửa kia của gia đình lại ở trong Nam. Mẹ không hành nghề "bà lang " nữa, vì ít có người bệnh tìm đến, hoặc nếu người ở xa mời đi thì không dám đi vì mẹ không biết đường... 

Thế rồi, mẹ già đi, trẻ con trở thành người lớn...

Thế Lữ và vợ xum họp sau 1975


Tuy vậy anh em chúng tôi vẫn giữ liên lạc rất tốt đẹp với bà Song Kim, tự biết mình là con, mình phải biết chấp nhận gia đình như nó là, và trân trọng những người thân của bố. Mỗi lần về thăm Hà Nội chúng tôi đều tới thăm bà và gia đình, tham dự giỗ tết, cũng như những bữa cơm sum họp... Bà rất quý chồng tôi, vẫn thường nhắc những chuyện cũ như : Ngày ban kịch Anh Vũ (?) xuống Hải Phòng lưu diễn, nhà tôi mới có mấy tuổi, bà còn bế ngồi trên lòng... Bà vẫn thăm hỏi các chú em trai của bố, mất liên lạc từ những năm 1946...Anh Nghi nói riêng với chúng tôi rằng :

Công bằng mà nói, bố sống xa gia đình rất lâu, nổi tiếng như thế, hồi đó rất nhiều các mệnh phụ đẹp như bà hoàng của Hà Nội, mê bố. Cho nên, không có người này thì có người khác. Bố đã gặp được người cùng chí hướng, cùng bố xây dựng, thực hiện những đam mê nghệ thuật, hơn nữa bố có được một gia đình an ổn, hạnh phúc để làm việc trong rất nhiều năm, nhất là trong suốt những năm đất nước chia cắt, có người săn sóc tinh thần cũng như vật chất cho bố, thật là đáng quý. Mình phải kính trọng và cám ơn bà Kim. Vả lại, đây là một chuyện đã được xã hội ngoài này trong bao nhiêu năm nay công nhận, mình nên tôn trọng việc đó. Họ hàng làng nước, ai có nói gì cũng mặc họ.

Bố chúng tôi là người không biết gì tới đồng tiền, có gì dùng nấy, không đòi hỏi. Trong bao nhiêu năm, cụ vẫn có số lương rất nhỏ, vì không biết lên xin, nên người ta quên cho cụ Chủ Tịch hội Nghệ Sĩ Sân Khấu lên lương... Tuy nhiên, khi gặp lại chúng tôi, cụ vẫn cho rằng mình sống rất thoải mái. Trong những năm tháng cuối đời, cụ vẫn giữ thói quen mê đọc sách, cụ đọc 8 tiếng một ngày, thỉnh thoảng xem truyền hình, thích nhất là xem kịch, dĩ nhiên ! Các bạn cũ, mỗi khi đi qua thành phố, đều tìm tới thăm, chúng tôi gặp được những người xưa cũ như thi sĩ Xuân Diệu, thi sĩ Huy Cận... các văn nghệ sĩ lớp sau như nhà văn Nguyễn Khải, hoạ sĩ Lưu Công Nhân... rồi các anh học trò như cac tác giả Tào Mạt, Thế Ngữ... và đặc biệt là nghệ sĩ Bảy Nam, bà rất thương cụ, nghe mấy cụ nói chuyện với nhau anh anh tôi tôi, rất hay ! Đi đâu xa, bà cũng nhớ mang quà về cho, khi thì nải chuối, khi thì ít bánh đặc sản... Đó là tôi chỉ kể được một vài.

Riêng đối với cháu trai nhỏ của chúng tôi, cụ rất yêu chiều cháu. Mỗi khi chúng tôi sắp về thăm, cụ sửa soạn trước ít truyện để kể riêng cho cháu nội nghe, chúng tôi xin ghi âm nhưng cụ không chịu. Về sau, khi cháu lớn lên, cháu hiểu được những việc làm của ông: "Ồ, hoá ra ông nội có viết về truyện kinh dị, nên hồi xưa ông kể cho con nghe những truyện lạ lắm ! ".

Những món quà chúng tôi mang về biếu, được cụ thích nhất là sách và những bó bút nguyên tử giản dị, cụ để dành để biếu bạn bè tới chơi. Hình ảnh cụ cầm cả bó bút giơ lên xuýt xoa nói: " Cậu cảm thấy giầu có quá! ", thật là đẹp. Và món quà cụ muốn được mua riêng cho mình là khăn mùi xoa giấy ! Các bạn có biết tại sao không ? Vì cụ không muốn người khác phải giặt hầu những khăn bẩn (những món này, hồi đó còn chưa mua được dễ dàng ngoài phố).

Có người than thở cho cụ, nói rằng cụ nghèo quá, nếu ở nước khác mà nổi tiếng như thế, tha hồ mà giầu có. Tôi nghĩ khác, tôi nghĩ cụ là người sung sướng nhất, vì một nghệ sĩ như cụ, vừa hơn hai mươi tuổi, ra đời, viết cái gì cũng được bạn bè, đồng nghiệp, độc giả cũng như xã hội đón tiếp rất trân trọng, nồng nhiệt, ngay lập tức: Dưới ba mươi tuổi đã được coi như thi bá thời bấy giờ, đến khi bước sang kịch nói cũng không có gì là không thành công, tuy chưa làm được hết những ước mơ của mình, nhưng không hề thất bại. Cụ đã mở đầu thơ mới, mở đầu kịch nói, đóng góp được bao nhiêu cho văn hoá nước nhà. Tư cách của cụ trước sau vẫn luôn luôn là gương mẫu cho những thế hệ tiếp theo, cụ đã truyền kinh nghiệm, dậy bảo nghề Đạo Diễn cho nhiều lớp học trò, xây dựng cho thế hệ sau với tấm lòng chan hoà hiếm có... Đó là một nghệ sĩ được hiểu, được quý trọng ngay khi vừa ra đời và suốt cuộc đời. Đó là điều hạnh phúc nhất. Văn hoá là chuyện muôn đời, đời nay chưa biết làm rõ công của cụ trong văn học thì đời sau sẽ làm. Chúng tôi tin như thế.

Riêng về mẹ chúng tôi, chúng tôi nghĩ rằng bố chúng tôi đã về với gia đình, với mẹ trong 12 năm cuối đời của cụ, là điều quý nhất cho mẹ. Danh tiếng, mẹ chúng tôi không cần, mẹ biết là "người đi đã trở về " là đủ.

Tới bây giờ, bố mẹ chúng tôi đã mất cả rồi, lâu rồi. Bốn anh em cũng đã ra đi hết. Những người đó chưa bao giờ cần giải thích cho ai cả. Còn tôi, tôi phải viết những dòng này vì cuộc đời âm thầm của mẹ chồng tôi, không nên để âm thầm mãi, như thế không công bằng. Và để các con, các cháu hiểu, thương và hãnh diện vì cụ.

Chúng tôi vừa nhận được tin : Cụ bà Phạm thị Nghĩa, tức Nghệ sĩ Nhân Dân Song Kim vừa qua đời, vào tháng 11 năm 2008. Chúng tôi ở xa không về được, chỉ biết vọng về thương cảm, xin cầu nguyện cho hương linh cụ bà sớm được siêu thoát, thanh thản về cõi tịnh.

Nếu chúng ta do những nhân duyên riêng đã được gần gũi, được hiểu, được sống với một vài vị thuộc thế hệ đã trở thành xưa cũ đó, ta sẽ cảm được số phận riêng của mỗi người... Những người đó sinh ra, lớn lên trong một hoàn cảnh xã hội rất khó khăn, khác của chúng ta ngày nay nhiều lắm. Mong rằng, họ không bị những thành kiến của những người ngày nay xét nét. Họ đã sống qua những vinh quang, những hạnh phúc, cũng như những cay đắng, những tủi hờn... Họ đã khai phá, đã làm việc, đã thương yêu, đã hy sinh, đã chịu đựng những ràng buộc, những khổ đau...

Thương biết bao nhiêu, kính phục biết bao nhiêu.


Phạm Thảo Nguyên
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 24081
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Ngày hôm qua lúc 3:10pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 136
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 1.594 seconds.