Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Lịch Sử - Nhân Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Lịch Sử - Nhân Văn
Message Icon Chủ đề: SƠN VƯƠNG - một hảo hán Gò Công Gởi trả lời Gởi bài mới
Trang  of 2 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Hoang Ngoc Hung
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 14/Jun/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 234
Quote Hoang Ngoc Hung Replybullet Chủ đề: SƠN VƯƠNG - một hảo hán Gò Công
    Gởi ngày: 18/Jul/2007 lúc 6:45am

sonvuong

SƠN VƯƠNG

________________________________

(Chuyện về Trương Văn Thoại – một tráng sĩ đất Gò Công)

Trương Vạn Năng (Trương Văn Thoại) sinh năm 1090 tại Gò Công, lớn lên trong phong trào yêu nước giữa thập niên 20 với thần tượng là chí sĩ Nguyễn An Ninh.

1926, vừa sang tuổi 17, Sơn Vương đã bị Pháp bắt trên đường về sau khi đi nghe Nguyễn An Ninh diễn thuyết ở Xóm Lách. Sau đó , Nguyễn An Ninh viết bài tố cáo vụ bắt bớ này trên tờ báo La Cloche (Tiếng chuông rè) của ông và gửi thư cho Thống đốc Nam kỳ Cognacq báo rằng nếu ai đã nghe ông diễn thuyết mà còn bị giam giữ và chết trong bót Catinat thì Thống đốc phải chịu trách nhiệm; Cognacq e ngại bị tai tiếng ở thuộc địa nên hạ lệnh cho Bazin thả hết những người còn bị giam - thế là cọp núi Gò Công được ...sổ lồng.

Được biết, tại bót Catinat, thanh tra mật thám Bazin cho phạm nhân ăn nhưng không cho uống; ai đòi nước sẽ được uống nước...muối. Ai không chịu nổi thì ký tên vào tờ khai đã lập từ trước để buộc tội Nguyễn An Ninh xúi dân làm loạn – ký xong thì cho về ngay. Số gan lỳ chịu đựng còn khoảng 60 người – trong đó, người Gò Công có: Trương Văn Thoại, Biện Thới (Trương Văn Kinh – anh cả của Sơn Vương) và cũng có những nhân vật đặc biệt như Nguyễn Phương Thảo - thời chống Pháp là Trung tướng Nguyễn Bình

Lớn lên, Sơn Vương mê làm báo. Nhà báo Ngoạ Long kể: "Cậu Thoại từ Gò Công lên thẳng văn phòng Đông Pháp Thời báo và tình nguyện ở lại làm việc, bất cứ việc gì dù có lương hay không, miễn là được tham gia với Đông Pháp Thời báo để"thức tỉnh đồng bào"" (1) Ngoạ Long: Từ 1927 – 1937 mười năm làng báo Sài Gòn; Đuốc Nhà Nam, tr.3, 29/9/1969.

Khi Nam Kiều thành lập Uỷ ban tổ chức lễ truy điệu thấy cậu Thoại là thanh niên nhiệt huyết liền cho ghi tên (14 người) và gia cậu Thoai phát truyền đơn, treo biểu ngữ. Ngay lúc cậu Thoại leo lên cây sao để trương biểu ngữ qua đường thì bị mật thám bắt đầu tiên.

Sau khi ra tù lần này, ông cũng lại sống là hoạt động cùng với Nguyễn Phương Thảo (một trong những người cùng nhịn...uống ở bót Catinat ngày trước).

Về sự làm báo của Sơn Vương, trong hai năm ở sài Gòn, bút danh Sơn Vương xuất hiện trên 20 đầu sách:

1930:

      1. Bạc trắng lòng đen
      2. Lỗi hẹn quên thề
      3. Ngọc lầm với đá
      4. May nhờ rủi chịu
      5. Làm ơn mắc oán
      6. Kẻ thù dân tộc
      7. Thà được làm chó hơn được làm người
      8. Làm nhơn được vợ
      9. Phản bạn vì tình
      10. Chén cơm lạt của người thất nghiệp
      11. Sâu bọ nổi lên làm người

1931:

      1. Ai bạc tình
      2. Ép dầu ép mỡ
      3. Lỗi về tôi
      4. Lạy phật cầu duyên
      5. Lỗ một lầm hai
      6. Nợ duyên gì
      7. Ai kén chồng
      8. Ăn năn đã muộn
      9. Anh bạc tình

Đây là những chuyện nhỏ (khổ: 15,5 cm X 12 cm) cỡ bỏ túi, mỗi cuốn vài chục trang.. Trong đó tác phẩm Chén cơm lạt của người thất nghiệp đã tái bản ngay trong tháng đầu tiên (nhưng lại bị cấm) và bút danh Sơn Vương cũng tuyệt tích giang hồ; lý do, tác giả bận...vào tù khi tuổi mới 24. Cuộc đời tù ngục của con cọp núi Gò Công này rất bi tráng.

Tính khí mạnh mẽ nên hoạt động chống Pháp và sa lưới là bình thường, cái bất thường là những lần Sơn Vương bị kết án thì đều là án thường phạm chứ không là án chính trị, số năm thụ án là ...79 năm, số năm thực thụ ngồi tù là 34 năm:

Lần 1: 05 năm

Lần 2: 10 năm

Lần 3: 32 năm (án chung thân)

Lần 4: 32 năm (án chung thân)

Hai lần đầu bị bắt, hai lần sau tiếp án khi còn tù (án chồng lên án). Nhóm (tạm gọi) Nguyễn Phương Thảo sống bằng trợ cấp của gia đình và ân nhân.

Nghe Nguyễn Phương Thảo muốn mở tiệm giặt ủi số 225 đường Lefèbvre – nay là Nguyễn Công Trứ, quân 1 Sài Gòn, Sơn Vương về xin bố 200 đồng Sơn Vương coi Nguyễn Phương Thảo như người anh đáng nể trọng, có lẽ vì vậy tiệm giặt ủi được đặt tên là Thảo Sơn.

Có lần Sơn Vương mang tiền của Nhóm đi mua gạo cho đồng bào lũ lụt Miền Trung, được chủ Nhà máy xay lúa Nguyễn Thanh Liêm ở đường Tôn Thất thuyết (Khánh Hội – Sài Gòn), vị này cũng là cổ đông của Việt Nam Ngân hanhg, cho thêm 300 bao (?) và cho mượn phương tiện chuyên chở - và dặn Sơn Vương khi cần thì cứ gặp ông tại Trụ sở Việt Nam Ngân hàng ở đường Pellerin (nay là Pasteur). Về sau, có người trong nhốm muốn đi xa cần số tiền lớn, Sơn Vương đến gặp ông Liêm và ông Liêm đã sốt sắng và lịch sự trao đủ số tiền cần thiết cho Sơn Vương. Chỉ 1 lần này vì Sơn Vương ngại tiếng lạm dụng. Tuy nhiên cũng có những hoạt động kinh tế mạo hiểm - lấy (cướp) tiền của ở những người nhiều tiền đã chọn lựa - đây cũng là kiểu trừng phạt kinh tế đối với những người này nhưng không "dứt điểm" như kiểu trừ gian diệt ác; các đối tượng này là:

Paul Daron (Sáu Ngọc) vua cờ bạc Sài Gòn

René Gillard, phó giám đốc Sở Cao su Mimot ở Campuchia (giáp Tây Ninh), đồng thời là Quản trị viên Công ty Cafort ở đường Catinat (nay là Đồng Khởi) quận 1, thường dùng roi gân bò bổ vào đầu công nhân cao su.

Cọp lửa Từ Bi, hỗn danh của viên đội lính ở Phòng điều tra bót Polô Chợ Lớn.

Tiếc là trong nhóm có người tên là Đường có tật nhậu nhẹt, đã phản bội và chỉ điểm bắt Sơn Vương để nhận 5000 đ (do René Gillard treo giải).

Trong khi Bazin và nhất là Gillard đang chờ Sơn Vương với cái roi gân bò trong tay để trả đòn thù thì Sơn Vương xuất hiện với lời lẽ bộc trực của một người dân nén nỗi hờn vong quốc. và thái độ gan góc, dũng cảm của con cọp núi Gò Công lại chinh phục René Gillard đến nỗi khi Sơn Vương chuyển sang khám lớn Sài Gòn (69 La Grandière – nay là Lý Tự Trọng) thì chính vợ chồng René Gillard là người thăm nuôi hậu hĩ.

Mỗi phòng giam ở khám lớn có 1 tù nhân được chọn làm cặp rằn, cặp rằn ở phòng giam Sơn Vương là Ba Nhỏ - anh chị Cầu Muối; cặp rằng là vu của phòng giam.

Khi hai giỏ lớn chứa hàng thăm nuôi của Gillard gửi vào cho Sơn Vương thì Ba Nhỏ lại ra tay như những lần trước nhưng bị Sơn Vương mắng một câu. Ba Nhỏ rút dao thì bị Sơn Vương khoá tay và quật ngã; Sơn Vương đoạt dao vào túi oạtcong bố xoá bỏ chế độ cặp rằn ở phòng giam này. Các anh em trong phòng giam gọi Sơn Vương là Đề lao hiệp khách.

1938 ra tù thì 1939 vào tù do người bạn cũ chỉ điểm, lần này bị án 10 năm. Sơn Vương có một truyện ngắn "Phản bạn vì tình" còn chính anh lại hai lần bị bạn phản vì tiền. Trong tù, Sơn Vương bị vu oan giết một thường dân và chịu án chung thân; lần này ông lần lươt qua các trại giam hà Tiên, Phú Quốc, Bù sặt (Pursat) ở Campuchia.

Từ Bù sặt, ông vượt ngục qua Băng cốc rồi bị bắt đưa về khám lớn và ra Côn đảo; tại Côn Đảo lần này ông gặp lại thần tượng của mình thời niên thiếu là cụ Nguyễn An Ninh.

Cuối tháng 8 năm 1945, phái đoàn của Chính quyền Cách mạng Nam Bộ ra Côn Đảo rước tù chính trị về đất liền. Do Sơn Vương là "thường phạm" chứ không phải "chính trị phạm" nên ông phải ở lại đảo. Chẳng bận lòng, ông lại tự chuẩn bị ghe để về đất liền vào sáng 12/12/1945.

Vào sáng hôm ấy, phái đoàn Chính quyền Cách mạng Nam Bộ lần trước lại ra đảo để đưa ông Giám đốc Lê Văn Trà về vì tù chính trị đã tố cáo ông này phạm nhiều tội. Vậy là phải có người thay thế ông giám đốc Trà. Nhưng 15 ứng viên không đủ số thăm trúng cử, trong lúc người không ứng cử là Sơn Vương lại được quần chúng tín nhiệm ; trước tình thế đó, phái đoàn Chính quyền Cách mạng Nam Bộ khuyên ông nên ở lại với chức danh Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân. Ông cũng chẳng bận lòng khi chấp hành yêu cầu này.

Con cọp núi xứ Gò Công, giờ là Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Côn đảo, đã cho cải táng hài cốt của chí sĩ Nguyễn An Ninh (khi mất, 14/8/1943, ông Ninh - cũng như các tù nhân khác - cũng chỉ được cho hai cái bao bàng để bọc thi hài).

Năm 1953, vì khử một tên đại ác trong tù (tục gọi là cò Út) Sơn Vương bị giải về khám Chí Hoà để ra toà nhận thêm 1 án chung thân nữa. Một chuyện vui ở đây là dù án chồng án nhưng Sơn Vương không ở hết hạn tù mà được thả tự do vào ngày 18/11/1968 (Theo lời ông kể là do "Báo chí phe Dân chủ kêu gào ráo riết"). Ngày ông về mới biết là vợ con đã qua đời. Con cọp núi Gò Công vừa được ra tự do thì bị vào cô độc.

Là người sớm có lòng nước non từ niên thiếu, lại thêm tính cách hiệp sĩ phiêu lưu nên Sơn Vương là người hoạt động, đặc điểm là hoạt động của vị hảo hán này là gần như đơn độc. Sau khi bị bắt vào tù lần thứ nhất thì địa điểm tụ họp của Nhóm Nguyễn Phương Thảo trên lầu tiệm may nam Chấn Hưng (số 02 đường Lefèbvre) cũng ngừng hoạt động – ông mất liên lạc và không biết Nguyễn Phương Thảo có tìm cách liên lạc với Sơn Vương Trương Vạn Năng không.

Cuộc đời sôi nổi của ông trong và ngoài ngục tù có nhiều tình huống đầy kịch tính và phong phú chất liệu văn học. Theo ông Trương Văn Thoại thì Sơn Vương là bút danh của ông dùng từ năm 1929 trên các sách của mình xuất bản ở Sài Gòn, (chữ) Sơn Vương là chiết tự từ chữ Thoại (Thuỵ - 瑞) - chữ "thoại" gồm 3 chữ  (vương 王 : sơn 山 và nhi 而 ) .

Với hồi ức của một đời hoạt động, Sơn Vương dễ dàng đi vào hồi ký, tất nhiên những lao nhọc ngục tù đã làm trí nhớ ông suy giảm. Trong hồi ký của ông có những câu thắm đẩm trí lự của người yêu nước.

...

Khóc để nói những lời chưa nói

Cười để khuây những nỗi chưa khuây

Lửa hồng máu thắm còn đây

Oan kia chưa dứt hận này chưa tan...!

...

Giống nòi chung một giòng sông

Bởi ai tham vọng chia lòng riêng tây ?

...

Ách lệ thuộc – trâu cày ngựa cưỡi

Cảnh tan thương như gửi lòng ta

Khăp trong bốn mặt san hà

Bắc Nam đâu chẳng con nhà Lạc Long

...

Dưới góc nhìn nhà báo đối với trò đời, ông cũng cho thấy cái nhìn hóm hỉnh của người Gò Công. Nói về chuyện "hối lộ - sử dụng Đức Thánh Trần, tờ bạc 500đ trước đây ở Miền Nam có in ảnh Trần Hưng Đạo" - ông viết:

Khi thủ tục hãy còn cứu xét

Thì đừng mong có kết quả mau

Biết điều theo luật xã giao

Thánh Trần xuất hiện – thì tao sẵn sàng.

...

Tráng sĩ cũng nhiều, liệt sĩ cũng lắm nhưng tráng sĩ đơn độc (đáo) như Sơn Vương Trần Văn Thoại thì ...hiếm. Cuộc đời bi tráng của hảo hán Sơn Vương càng làm tỏ rạng cốt cách Gò Công.

 

___________________________________________

Nguồn: Bằng Giang: Sài Gòn cố sự. Biên tập: HNH



Chỉnh sửa lại bởi Hoang Ngoc Hung - 18/Jul/2007 lúc 7:23am
IP IP Logged
Hoang Ngoc Hung
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 14/Jun/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 234
Quote Hoang Ngoc Hung Replybullet Gởi ngày: 18/Jul/2007 lúc 6:47am

SƠN VƯƠNG, người tù thế kỉ

— Nguyễn Q. Thắng

Huyền thoại và sự thật về Sơn Vương Trương Văn Thoại, nhà văn, người tù thế kỉ, từng làm "Côn Lôn chúa đảo".


 

1. TIỂU SỬ


Sơn Vương (1908-1994) là nhà văn, mà cũng là tướng cướp, tự là Vạn Năng, hiệu Sơn Vương, tên thật là Trương Văn Thoại quê làng Bình Nghị, tỉnh Gò Công, (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang).

Xuất thân trong gia đình điền chủ. Thuở nhỏ học ở Gò Công, trình độ Tiểu học Pháp Việt, sau lên học tiếp tại Sài Gòn rồi gia nhập làng báo, viết văn.

Đầu năm 1926 (17 tuổi) khi mới lên Sài Gòn lúc còn nhỏ, ông có mặt trong cuộc diễn thuyết ở xóm Lách – Sài Gòn – bị Pháp bắt giam tại bót Catinat cùng một lần với Nguyễn An Ninh, Cao Triều Phát, Võ Công Tồn, Hòa thượng Nguyễn Văn Đồng, Trương Văn Kỉnh (anh ruột ông) (1)… bị giam mấy tháng sau mới được thả ra.

Khoảng giữa năm 1927 (18 tuổi) ông bị bắt thêm một lần nữa nhân lễ truy điệu chí sĩ Lương Văn Can (2) ở chùa Tập Phước gần Ngã Năm Bình Hòa (nay thuộc quận Bình Thạnh TP.HCM).

Theo Bằng Giang trong Sài Côn cố sự (3) (NXB Văn học, 1999) thì Trương Văn Thoại hồi ấy được biết có chân trong Ban Tổ chức lễ truy điệu. Các vị trong Ban Tổ chức gọi ông là “cậu Thức tỉnh đồng bào” của Đông Pháp thời báo lúc ấy (1926) do Nguyễn Kim Đính điều hành.

Trước năm 1930 ông sáng tác một số “ đoản thiên tiểu thuyết ” được độc giả hoan nghênh, nhưng máu giang hồ trong ông mạnh hơn máu văn chương, rồi nổi danh trong đám “ anh chị ” Sài Gòn thuở đó.

Khi viết báo, làm văn ông tự đi bán tác phẩm của mình với ý đồ chuẩn bị kế hoạch “ đi hát ” (cướp) lấy tiền giúp các nhà hoạt động cách mạng, người nghèo khổ... Trong một vụ cướp tiền của chủ đồn điền Pháp René Gaillard, ông cùng “ đi hát ” với Nguyễn Phương Thảo – tức Trung tướng Nguyễn Bình – hồi năm 1931 mới vô Sài Gòn. Tại đây Nguyễn Phương Thảo kết nghĩa “ anh em ” với ông, ông bị bắt một lần nữa kết án 5 năm, rồi 10 năm (vì có tiền án). Ngày 16-8-1933 ông bị lưu đày ra Côn Đảo với bản án trên.

Trước đó ông bị giam tại Khám Lớn Sài Gòn, Sơn Vương được Gaillard thăm nuôi hậu hĩ vì hắn ta bị khuất phục bởi thái độ của bậc trượng phu và khí phách anh hùng, giang hồ hảo hớn của ông, nên bỏ qua việc cướp tiền của Sơn Vương.

Năm 1936 ông bị đưa về thi hành án tại nhà lao Hà Tiên. Tại đây, ông hô hào tù nhân chống hành động tàn ác của giám đốc nhà máy Hà Tiên nên bị đày ra Phú Quốc (thuộc tỉnh Rạch Giá cũ).

Tháng hai năm 1938, ông bị đưa trở lại Hà Tiên mấy tháng thì đến ngày 16 tháng 8 năm 1938, ông được trả tự do vì đã thi hành xong bản án 5 năm.

Về Sài Gòn thì đúng một năm sau (1939), ông bị bắt lại, vì vô tình đánh ngã một tên mật thám ở Chợ Lớn, bị tòa kết tội là “ du đãng ” đày đi Pursat (Bù Sặt) ở Campuchia. tại Pursat ông vượt ngục trốn sang Thái Lan, năm 1942 ông bị bắt tại Băng Cốc (Thái Lan) đưa về giam tại Khám Lớn (4) Sài Gòn rồi đày ra Côn Đảo. Tại đảo, ông gặp lại thần tượng cũ của mình thời niên thiếu : Nguyễn An Ninh (hoạt động nơi chùa Tập Phước) trước khi nhà cách mạng từ trần vì sự khủng bố và chế độ lao tù tàn ác của thực dân Pháp.

Những năm bị đày Côn Đảo, ông gây được uy tín trong giới thường phạm và viên chức chính quyền ở đảo. Theo một vài nhân chứng ở đảo, đối với chính trị phạm ông có thái độ : “ Kính nhi viễn chi ” ; nhưng đặc biệt ông rất ngưỡng mộ nhà cách mạng Nguyễn An Ninh mà sau năm 1945 khi làm chủ tịch Côn Đảo, điều hành việc an dân tại đảo ông đã thay tên Côn Đảo thành danh Quần đảo An Ninh (Nguyễn An Ninh hi sinh tại Côn Đảo năm 1943) và sau đó ông là người “ hương khói ” mộ phần nhà cách mạng này suốt thời gian ông ở đảo (1933-1968). Và cũng tại đây ông từng đem một tên tội phạm ác ôn (Nguyễn Văn Sô) ra tế trước mộ phần Nguyễn An Ninh (tên này là một trong sáu người trọng tội bị phái đoàn Văn Cừ yêu cầu ông giết!).

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, tất cả tù chính trị được về đất liền, Côn Đảo đặt dưới quyền quản lí của một viên chức chính quyền cũ (Lê Văn Trà). Cuối năm 1945 Ủy ban Hành chánh lâm thời Nam Bộ cử cán bộ, đứng đầu là ông Văn Cừ và một số cán bộ khác ra Côn Đảo quản lí hành chánh tại đây.

Ngày 15-12-1945 phái đoàn tổ chức bầu cử người đứng đầu Côn Đảo, Sơn Vương đắc cử Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Côn Đảo trực tiếp cai quản toàn bộ lãnh thổ đảo này (5). Tuy trước đó (14-2) có cuộc họp chuẩn bị cuộc bầu cử thì Sơn Vương lẩn tránh, sửa soạn lên ghe về đất liền, nhưng Phái đoàn cho người lùng sục tìm lúc ông đang khóa cửa lánh ở một căn nhà. Buộc lòng ông mới chịu ứng cử. Quả nhiên cuộc bầu cử, ngày 15-12-45 ông đắc cử với số thăm áp đảo.

Sau khi cầm quyền ông cùng các viên chức cũ tại đây tổ chức chính quyền trên đảo theo tinh thần “ tứ hải giai huynh đệ ”, gọi Côn Đảo là là An Ninh quần đảo  như một chính phủ có quốc ca, chính quyền như trên có nhắc qua.

Nhưng đến ngày 18 tháng 4 năm 1946, quân Pháp đổ bộ tái chiếm Côn Đảo, ông và các viên chức dưới quyền bị Pháp bắt đưa trở lại nhà giam, tiếp tục thụ án 15 năm (5 + 10) trước. Năm 1946 sau khi tái chiếm Côn Đảo, Pháp và tay sai (cò Út và đồng bọn) vu cáo ông giết một công sự cũ (Già Quít) nên bị thêm một án chung thân mới : 32 năm nữa (già Quít bị giết ngày 14-4-1946). Đến ngày 18-4-1946 Pháp tái chiếm Côn Đảo như đã nói ở trên, nhà cầm quyền Pháp cho ông là người ám sát già Quít trong khi ông đang nằm trong lao cấm cố. Vậy là án chồng lên án lần thứ nhất, (15 + 32) = 47 năm. Đến ngày 8 tháng 8 năm 1953 ông lại giết thực thụ tên tù ác ôn tay sai khét tiếng tại Côn Đảo là Nguyễn Thành Út (tục gọi là Cò Út vì y làm cảnh sát nhà lao cho Pháp). Do vậy, ông bị đưa về Sài Gòn ra tòa Đại hình vào ngày 22-6-1954 với bản án tử hình. Tại tòa ông được luật sư Lâm Quang Trọng biện hộ không nhận thù lao. Kết cuộc, ông bị tòa đại hình Sài Gòn kết án “khổ sai chung thân” và được giảm khinh là “dùng khí giới kẻ thù giết lại kẻ thù” vì hôm giết cò Út ông vẫn có chiếc búa bén ngót dắt sẵn sau lưng (ông) chớ không dùng hung khí ấy giết Út. Ông chỉ dùng gậy của Út để đánh Út cho đến chết trước sự chứng kiến của mấy trăm tù nhân trên đảo kèm với bản án Út. Thế là án chồng lên án lần nữa, 1: 5 năm + 2 : 10 năm + 3: 32 năm, 4: 32 năm, vị chi: 79 năm  mãi đến ngày 18-11-1968 ông được giảm án tù trở về quê nhà.

Theo Hồi kí Máu hòa nước mắt về việc ông giết Nguyễn Thành Út mà ông cho đây là một bản án Ưng, còn vụ án ông bị Út vu giết già Quít là một bản án Oan, vì “kết cuộc buổi xử, tôi (SV) bị ông Tòa Liễu kết an chung thân khổ sai. Nghĩa là : người ta chỉ biết có cái tội tôi đập chết tên Út mà không cần nghị đến cái tội Nguyễn Thành Út là kẻ gây sự đã gieo oan cho tôi cái án chung thân thứ nhứt và còn làm khổ tôi bao nhiêu năm nữa.

Thế là cái án chung thân trước chưa ở tới đâu đã thêm cái án chung thân thứ hai. Nhưng nếu không có cái án Oan trước thì làm gì có cái án Ưng sau này.

Án chung thân trước đã được Tây ân giảm lần hồi, hiện còn đâu chừng hơn một năm nữa. Án chung thân sau mới ân giảm xuống còn 20 năm theo sắc lịnh 19.Q.T kí ngày 23-1-1965. Theo đó tôi phải ở đến năm 1987 mới được mãn án ? ” (6) (Máu hòa nước mắt).

Các năm 1967-1968 các hội đoàn xã hội ở Sài Gòn, nhất là Ủy ban cải thiện chế độ lao tù tranh đấu đòi chính quyền Nguyễn Văn Thiệu “ cải thiện chế độ lao tù ở miền Nam ” nhất là tù Côn Đảo, ông được xét giảm bản án còn lại 35 năm (cả 4 vụ) nên được trả tự do ngày 18-11-1968.

Về đất liền, ông tiếp tục nghề văn, cộng tác với một số nhật báo tại Sài Gòn, tham gia cổ đông công ti giấy Cogiba, (Công ti giấy Blao) Lâm Đồng cho đến ngày thống nhất đất nước. Sau đó ông về sống ở thị xã Gò Công (làng Bình Nghị), tỉnh Tiền Giang.

Trước khi về sống tại nơi nhau rún Gò Công, ông ngụ tại số 137/52 đường Nguyễn Cư Trinh Sài Gòn (nay là số 137/52 đường Nguyễn Cư Trinh, phường Nguyễn Cư Trinh, QI, TP.HCM) tức xóm Trễ ngày xưa nơi ông viết văn... Tại đây ông viết hồi kí Máu hòa nước mắt (2 tập) và hoàn thành trước ngày trở lại cố hương trong những năm 80.

Trước khi về quê ông đã kí tặng chính quyền cách mạng một tập bản thảo đánh máy dày khoảng 600 trang. Tập hồi kí (bản rút gọn) này hiện trân tàng tại Bảo tàng Côn Đảo, một tập tặng cho nhà văn Vũ Hạnh (tập II, chi tiết nay đã thất lạc và một tập ông giữ làm tài liệu, nay cũng đã mất!).

Ông mất năm 1994 tại quê nhà, thọ 85 tuổi đời, có đến 35 tuổi tù (7) (tổng cộng 4 lần nhận án là 79 năm tù).

 

Các tác phẩm của ông gồm: (số tác phẩm này chúng tôi đã giới thiệu trong Tự điển văn học, Bộ mới, 2004, NXB Thế giới và Từ điển Nhân vật lịch sử Việt Nam, Bộ mới, 2006, NXB TP. HCM).

1- Nào ai bẻ thước, Đức Lưu Phương, 1929, Sài Gòn

2- Bát cơm chan máu, Đức Lưu Phương, 1929, Sài Gòn

3- Phản bạn vì tình, Đức Lưu Phương, 1930, Sài Gòn

4- Ngọc lâm giá kí truyện, Đức Lưu Phương, 1930, Sài Gòn

5- Luật rừng xanh (Đức Lưu Phương, 1930) Sài Gòn

6- Bạc trắng lòng đen, Đức Lưu Phương, 1931, Sài Gòn

7- Chén cơm lạt của người thất nghiệp, Đức Lưu Phương, 1931, Sài Gòn

8- Ai bạc tình, Đức Lưu Phương, 1931, Sài Gòn

9- Tướng cướp hào hoa (nt, 1931)

10- Ai kén chồng, Đức Lưu Phương, Sài Gòn, 1931

11- Ăn năn đã muộn - Lửa gần rơm 1931

12- Anh bạc tình, 1931 (nt)

13- Ăn tết cưới vợ (nt)

14- Cưới vợ ăn tết, 1931 (nt)

15- Ép dầu ép mỡ, 1931 (nt)

16- Lạy Phật cầu chồng, J.Viết, 1931, Sài Gòn

17- Nợ duyên gì, J.Viết, 1931, Sài Gòn

18- Lỡ một lầm hai, J.Viết, 1931, (nt)

19- Lỗi hẹn quên thề, Đức Lưu Phương 1931, Sài Gòn

20- Lỗi về ai, Đức Lưu Phương, không ghi năm xuất bản

21- Lỗi về tôi – Mượn bạn thử vợ, Đức Lưu Phương, Sài Gòn, không ghi năm xuất bản

22- Phản bạn vì tình, Đức Lưu Phương, 1930, Sài Gòn

23- Bán buồn mua vui, (bản thảo viết từ năm 1938)

24- Ngọc lầm với đá, Đức Lưu Phương, 1931

Và bộ trường thiên tiểu thuyết Vì sắc vì tiền (3 cuốn) đang quảng cáo trong năm 1931 sau cuốn Anh bạc tình.

Sau khi từ Côn Đảo về Sài Gòn ông có tập hồi kí đăng một số kì  trên một nhật báo ở Sài Gòn trước năm 1975 có tựa Sơn Vương người tù nửa thế kỉ (1973) hay Máu hòa nước mắt 1933-1968 đã dẫn.

2. TÁC PHẨM :

1- Tóm lược các “ đoản thiên tiểu thuyết ” :

Theo thư mục Sơn Vương của tác giả Sài Côn cố sự (8) thì số tác phẩm của ông Trương có 20 cuốn được xuất bản trong hai năm 1930, 1931 tại Sài Gòn.

Tuy nhiên, trong việc sưu tầm của chúng tôi (NQT) thì số tác phẩm Sơn Vương có đến 23 cuốn và bộ hồi kí Máu hòa nước mắt (9) được ông viết khi về đất liền sau ngày 18-11-1968 (theo bút tích ông ghi ở tập I: 190 trang – trang cuối).

Vậy số tác phẩm của Sơn Vương có đến 24 cuốn; nếu kể cả 3 cuốn của bộ Vì sắc vì tiền rao ở cuối cuốn Anh bạc tình xuất bản trong năm 1931.

Trong số 24 cuốn vừa dẫn, hiện chúng tôi có được trong tay tất cả là 14 cuốn, gồm: 12 đoản thiên tiểu thuyết và tập I (190 trang chép tay) cuốn Hồi kí Máu hòa nước mắt I vừa dẫn ở trên (xem lại Thư mục trong phần Tiểu sử).

Sau đây, chúng tôi xin tóm lược nội dung các “đoản thiên tiểu thuyết” có tên trong thư mục Sơn Vương do chúng tôi sưu tầm và nghiên cứu (Phần này có thể dành riêng cho các độc giả không muốn đọc từng truyện của ông, có in ở phần Văn trích) để giới thiệu đến bạn đọc xa gần.

Số tác phẩm của ông hiện nay rất khó tìm (vì chúng tôi bỏ công trong nhiều năm nay để hoàn tất bộ sách có tên Văn học Việt Nam nơi miền đất mới (10) – trong đó có Sơn Vương ; vì chắc có lẽ còn khoảng 10 cuốn đã tuyệt bản! Chúng tôi ước mong độc giả, nhà nghiên cứu nào… còn có số tác phẩm Sơn Vương xin quí vị vì tiền đồ văn học Việt Nam vui lòng mách hộ.

Trước đây chúng tôi đã lặn lội về thị xã Gò Công (làng Bình Nghị) đến quê và nhà cũ nơi ông chào đời để viếng quê cũ tác giả và sưu tầm thêm tư liệu mà vẫn không tìm được gì. Hiện nay (2003) nơi nhau rún của nhà văn chỉ còn vợ chồng người cháu ruột (11) đã hơn 80 tuổi mà trí nhớ không còn khả năng kí tính. Nơi bàn thờ gia đình, tổ tiên chỉ còn trơ vơ chân dung thân sinh nhà văn và ông thôi. Do vậy, chúng tôi xin phép gia đình cố văn sĩ đốt một nén hương trước bài vị và bàn thờ tổ tiên ông trước khi từ giã.

Theo sự hiểu biết của chúng tôi thì khi ông về Sài Gòn, nghỉ dưỡng sức một thời gian, sau đó ông tham gia cổ đông công ti giấy Blao (Bảo Lộc) ở tỉnh Lâm Đồng, và vài tờ nhật báo ở Sài Gòn. Trong thời gian này ông viết bộ hồi kí có tên Máu hóa nước mắt – Hơn 30 năm dưới thời Pháp thuộc tập I này ông viết tại nhà lao Chí Hòa, Sài Gòn, tập II sau khi ra tù, viết tại nhà riêng. 

a- tập I: Máu hòa nước mắt. (Hồi kí rút ngắn) tóm lược các sự việc xảy ra ở Côn Đảo, từ ngày 12-12-1945 – 18-4-1946, cùng các sở tù Côn Đảo và sinh hoạt của tù nhân ở Chí Hòa, Sài Gòn. 

b- tập II: Máu hòa nước mắt kể lại rành rọt từ khi ông lên “ Hòn ngọc Viễn Đông ” cho đến ngày về lại Xóm Trễ (Phường Nguyễn Cư Trinh Quận I, TP.HCM bây giờ), rồi về nơi nhau rốn Gò Công (1987).


3- KHÁI QUÁT VỀ CHỦ ĐỀ TÁC PHẨM

Như những gì tác giả dàn trải trong các tác phẩm (đoản thiên tiểu thuyết) của mình chúng ta thấy những trang văn của ông đã giải bày được tư tưởng, tình cảm và cả hành vi đạo đức, cách sống tác giả (Sơn Vương).

Điều đáng chú ý là thời gian cầm bút của ông rất ngắn (khoảng 2 – 3 năm, từ năm 1929 đến năm 1931), sau đó ông phải nhận hai bản án chung thân (32 + 32 = 64 năm và 15 năm trước năm 1932 ở Sài Gòn = 79 năm).

Trong 4 lần tù với các bản án trên thì chỉ có hai lần tù đầu là thực thọ vì chính đương sự gây án mà chỉ là án thường phạm, (cướp, xô xác). Còn hai lần sau là do thời cuộc và tư thù cá nhân cùng với sự tàn ác của chính sách thực dân; nghĩa là hoàn toàn khách quan và vì thời cuộc mà ông phải nhận các bản án thảm khốc, tổng cộng là 79 năm.

Theo tự truyện của ông, thì Sơn Vương bắt đầu cầm bút từ năm 1928-1933 (12) ; nghĩa là năm ông vừa tròn đôi mươi. Với tuổi hai mươi ấy ông đã từng nhìn đời bằng đôi mắt với một nhãn quan sắc sảo về đời người cũng như người đời.

Khi cầm bút Trương Văn Thoại bắt đầu từ cách đặt bút hiệu, xưng tên nhân vật, chọn nhan đề… cho đến việc xây dựng chủ đề tư tưởng tác phẩm đều có một sự nhất quán giữa tác giả và tác phẩm. Những điều đó có một sợi chỉ xuyên suốt qua tâm thức nhà văn cũng như đứa con tinh thần của mình.

Ngay trong phần mở đầu tác phẩm Máu hòa nước mắt, (bản thảo) có một tiết với nhan đề “Tại sao tôi đi ăn cướp và tại sao tôi phạm tội giết người” khai mào cho tác phẩm, ông viết :

“ Ăn cướp để làm gì? Điều này tôi không cần nói rõ chi tiết vì đã có vong linh ông NAN (13) và một số nhà cách mạng đàn anh quá cố, và một số gia đình lao động ở Bàn Cờ và Xóm Trễ (14) bị cháy nhà từ ba mươi mấy năm về trước (hiện nay còn sống) chứng kiến cho tôi ” (…)

“ Một điều tôi có thể hãnh diện và tự an ủi lấy tôi là hai lần bị bắt về tội cướp, người ta tra tấn tôi đủ thứ cực hình để sát hạch tôi: Ăn cướp lấy tiền để làm gì và trao cho những ai? Thì trước sau tôi vẫn một mực khai rằng: chơi đĩ và thua cờ bạc mà hết; chớ không hề khai một lời nào có thể can danh phạm nghĩa đến các bực đàn anh, vì hành động mạo hiểm đó đều do tôi tự động, chớ không ai xúi biểu; nghĩa là các nhà cách mạng đàn anh không hề hay biết những món tiền tôi đưa ra là tiền ăn cướp ”.

“ Nhà chức trách Pháp hồi ấy không tin, họ khảo tôi là tôi cứ rán chịu đòn. Vì tôi tự xét: các anh ấy mà được tự do hay còn sống là xã hội được nhờ. Trái lại tôi bất quá là một kẻ vô danh tiểu tốt, có chết đi cũng không liên quan gì đến việc đời hay việc nước ”.

“Vậy tôi đi ăn cướp lấy tiền là để chơi đĩ và thua cờ bạc; mặc dù tôi không bao giờ bước đến ngưỡng cửa lầu xanh, cũng như không cầm được bộ bài Cào hay bộ bài Tứ sắc mà chia cho các tay con để chung tiền hay hốt bạc ” (15).

Ngày nay độc giả chỉ cần đọc qua đoạn văn tự bạch trên của ông chắc cũng hiểu khá tường tận về việc đi ăn cướp của nhà văn Sơn Vương cũng như những điều sâu thẳm nhất trong con người bằng xương bằng thịt Trương Văn Thoại. Chính điều đó chứng tỏ nếu không muốn nói ông là một thành phần của quần chúng Việt Nam yêu nước hồi đầu thế kỉ XX trước nạn nước tình nhà (vợ sau là bà Kim Hoa cũng bị chúa ngục Gimbert (Đại úy Hải quân) cưỡng đoạt ở Côn Đảo – nhưng không thành –, rồi cả vợ trước là bà Ngọc Dung và hai con đều mất ở Trà Vinh năm 1942-1943).

Trong việc làm của ông các năm 1926 – 1932 hoặc các tác phẩm viết trước khi vào tù ở Khám Lớn, Chí Hòa ở Sài Gòn (1933) ở đây chưa nói tới nội dung chủ đề tác phẩm mà chỉ với tên các nhan sách cũng đã một phần nào nói lên được nhân sinh quan tác giả đối với xã hội mà nhà văn hiện hữu. Các tên nhan đề ấy có thể là Bạc trắng lòng đen, Lỗi hẹn quên thề, Ngọc lầm với đá, May nhờ rủi chịu, Làm ơn mắc oán, Kẻ thù dân tộc, Thà được làm chó hơn được làm người, Phản bạn vì tình, Chén cơm lạt của người thất nghiệp, Sâu bọ nổi lên làm người, Lỗi về tôi, Ăn năn đã muộn, Anh bạc tình, Bát cơm chan máu… Thậm chí khi xây dựng tên nhân vật ông cũng có một cách gọi tên độc đáo, độc giả khi mới đọc qua đã biết chân diện mục nhân vật ấy, nào Thị Lành, Lê Chung Tình, Đặng Hào Hoa, Hữu Đức, Đức Minh, Nhân Toàn...

Độc giả ngày nay có thể – một số ít người xem khinh tiểu thuyết Nam Bộ trong buổi sơ khai – xem thường, đến nỗi có người bĩu môi, cho rằng các nhan sách ấy chỉ là một kiểu “ thùng rỗng kêu to ” hoặc “ cải lương ”, “ hường chèo ”… Nhưng thực chất các tác phẩm, nếu không muốn nói là hầu hết của Sơn Vương, từ nhan sách, hình thức cùng nội hàm chủ đề tác phẩm có một sự hòa quyện chặt chẽ dẫn người đọc từ khi mới bắt đầu cầm sách cho đến lúc đọc xong dòng cuối đều có một sự cộng hưởng từ chủ đề tư tưởng tác phẩm toát ra. Điều này có thể cho dù những người đọc ấy không cùng một nhân sinh quan, thế giới quan với tác giả cũng có thể đồng tình với những gì Sơn Vương viết nên. Đó là cái đặc thù, độc đáo của nhà văn Sơn Vương qua tác phẩm mình trong khi cầm bút dù cho khi viết tiểu thuyết hay viết hồi kí, tự truyện…

Trong số các cuốn kể trên thì riêng các cuốn: Bát cơm chan máu, Chén cơm lạt của người thất nghiệp, Ai bạc tình, Anh bạc tình, Một lầm hai lỡ… được độc giả tiếp đón nồng nhiệt và tiêu thụ rất mạnh; nhất là các cuốn vừa dẫn trong vòng một tháng đã tái bản, nhưng sách in lần sau thì bị tịch thu thiêu hủy. Và cũng từ đó bút danh Sơn Vương phải tuyệt tích giang hồ, vì ông là kẻ chủ động vụ cướp tiền của chủ đồn điền cao su René Gaillard, Phó giám đốc sở cao su Mimot ở Campuchia – giáp với tỉnh Tây Ninh – đồng thời là Quản trị viên công ty Caffort đường Catinat (Sài Gòn). (René Gaillard vốn người đảo Corse cũng là một tên cướp hoàn lương, sang Đông Dương làm lại cuộc đời).

Vụ cướp tiền của René Gaillard được trót lọt, nhưng sau đó do tài xế Năm Đường phản bội, nên Sơn Vương bị bắt. Từ ấy (1932) ông nghỉ viết cho đến sau năm 1968 mới cầm bút lại với tác phẩm Máu hóa nước mắt như đã dẫn ở trên. Thế cho nên, chúng tôi không ngại mà cho rằng Sơn Vương cùng với tác phẩm của mình (con tinh thần) là một cặp song sinh đúng ngày tháng cả diện mạo cùng máu tủy và gien di truyền. Ấy vậy mà ngày nay kẻ sinh sau đẻ muộn hồ đồ cho rằng :

Khi phái đoàn Việt Minh của Văn Cừ về đất liền, còn lại một mình một cõi, máu giang hồ lại nổi dậy, Trương Văn Thoại tự xưng là Sơn Vương (?) gọi Côn Đảo là Côn Lôn quốc, biến Ủy ban hành chính thành chánh phủ, đặt Quốc ca bắt trẻ con hát. Đường lối 'trị nước' của Sơn Vương lấy câu 'Tứ hải giai huynh đệ' làm phương châm. Hai chữ Sơn Vương vừa là ngoại hiệu giang hồ vừa là 'đế hiệu vậy' ”(16).

Về việc lập gia đình của ông cũng là điều kì thú, tất cả đều do thời cuộc mà thành. Ông cưới cô Kim Hoa – con gái ông Vệ Liễn (Võ Văn Liễn) nguyên giám thị đề lao Côn Lôn thời ấy (1943 – 1945).

Đám cưới ông có đủ thành phần: gia đình, xã hội: mai dong cô dâu, chú rể, chủ hôn, đồ sính lễ… và già Quít (17) lúc ấy ân nhân của ông – người thân của ông Vệ Liễn – chứ không phải như tác giả Ngọc Phan viết một cách tùy hứng trong một cuốn sách nghiên cứu có tên như chú thích dưới. Về việc ông cưới vợ, tác giả vừa dẫn còn bồi thêm:

“(…) Sơn Vương muốn hỏi Huỳnh Hoa (đúng là Kim Hoa, NQT chú) làm vợ, nhưng Vệ Liễn không đồng ý, bèn đem Vệ Liễn ra trói ngoài pháp trường, dọa rằng: đánh dứt ba hồi trống mà không chịu gả con gái thì sẽ bị chém. Một công dân của đảo là Quít bất bình lên tiếng phản đối liền bị Sơn Vương ra lệnh cho thủ hạ giết chết. Huỳnh Hoa sợ quá bèn tự nguyện làm vợ Sơn Vương để cứu cha. (…)

Chắc hẳn Sơn Vương còn nhiều dự định độc đáo khác để biến Côn Lôn thành một vương quốc riêng của mình.

Nhưng giấc mộng chưa kịp thực hiện thì tháng 4-1946, quân Pháp đã đổ bộ tái chiếm Côn Đảo”.

Sơn Vương và triều đình của ông cùng hơn 500 công dân bị Pháp đưa trở lại phòng giam” (18). (xin xem thêm hồi kí Máu hòa nước mắt sẽ rõ).

Có lẽ tác giả trên không đọc cuốn hồi kí Máu và nước mắt (tuy ông có dẫn lại với nhan đề Sơn Vương người tù nửa thế kỉ) và các tác phẩm văn chương của Sơn Vương nên mới có sự phóng bút tự do (!) để chứng tỏ mình có một cách nhìn quảng bác về chế độ tù tội - nói chung - và Sơn Vương - nói riêng. Tuy rằng Sách đã dẫn, là một công trình nghiên cứu nghiêm cẩn của một tập thể tác giả với nhiều tư liệu xác thực…

Đã vậy tác giả còn viết với một giọng trịch thượng, kênh kiệu đối với một nhà văn tâm huyết, một người tù thế kỉ, một người nặng lòng với nước với dân vì chính sách thâm độc, gian ác của thực dân Pháp. Theo chúng tôi, có lẽ tác giả trên chỉ đọc các tài liệu của Pháp thực dân, một vài tác giả Việt Nam nào đó có vấn đề, hoặc các thế lực hắc ám nào khác (19), hoặc cũng để chứng tỏ rằng dưới mắt mình mọi người đều là “mục hạ vô nhân”!

Một vết trong viên ngọc… họ Hòa!

Trong các tác phẩm (trước năm 1931) Sơn Vương viết theo nhiều khuynh hướng, thể loại về nội dung (Trinh thám, ái tình, xã hội, hiện thực, phê phán, đạo lí, thời sự…) tất cả đều toát lên một nội dung lành mạnh, một bức tranh xã hội hiện thực… của đời sống công tư chức – không có viên chức chính quyền – làm thuê ở các xí nghiệp, nhà buôn tư ở thị thành, nông dân nghèo, các cô gái nông thôn, các thiếu nữ ít học vì hoàn cảnh xã hội phải sa vào chốn lầu xanh trụy lạc, cờ bạc đàng điếm… Tất cả các nhân vật – nạn nhân của xã hội – cuối cùng đều được ngoại cảnh cứu vớt, hoặc cá nhân họ tự giác rồi giác tha mà vươn dậy không tự ti mặc cảm và dư luận đang bủa vây họ. Những hiện tượng đó được nhà văn nhắc đến với bao ray rứt về cuộc sống hiện hữu. Trong cuốn Lỡ một lầm hai, ông viết:

Khi dì hứa gả cô cho chàng Armand… thì cô lấy làm bất bình hết sức, bất bình vì sao, việc hôn nhân là việc quan hệ cả đời người mà dì cô chẳng thèm hỏi lại cô một tiếng nào, coi cô có ưng cùng không ưng, rồi sẽ liệu định, lại đi hứa càng hứa bướng như vậy. Đã thế rồi bây giờ Phạm thị còn gọi cô ra ngoài mà nhiếc nữa(20).

Hoặc khảng khái mà kiên cường, bà Cả Ngưu bảo: “Ăn ở theo Tây mà lòng dạ họ đừng Tây thì thôi chớ”! (21).

Lời khẳng định ấy quả họ đã có lòng dạ kiên trinh từ… lâu lắm mới nói ra thành lời được.

Còn thảm trạng của nông dân thì:

Năm vừa rồi từ Nam chí Bắc, nhơn dân xứ nào cũng muốn nổi lên dấy động binh đao… song sức yếu tay không làm sao mà cự nổi với trái phá súng đồng của chánh phủ, kết cuộc đành ôm cái thất bại về mình, mà gây ra không biết bao nhiêu là cảnh tiêu điều ảo não, thật là đáng buồn không sao kể xiết. Nền kinh tế vì đó mà khủng hoảng, dây dưa cho đến ngày nay, nhà buôn đóng cửa rất nhiều. Lại còn cái tăng thuế xuất cảng lúa gạo lên bốn mươi lăm phần trăm (45%)! Nay tuy đã bãi đi rồi, song hết thảy nông dân cũng vì nó mà nghiêng nghèo điêu đứng…” (22).

Hình ảnh và thực trạng của dân nghèo – nói chung – và dân thất nghiệp – nói riêng – vào thời đểm ấy (1930) tại Nam Kì quả là một thế giới ảm đạm. Bữa cơm của mấy cha con Linh Chi trong Chén cơm lạt của người thất nghiệp quả là thực chất của chế độ Nam Kì dưới ánh sáng văn minh Đại Pháp với cái khẩu hiệu: “Bác ái” “Bình đẳng” “Tự do”; hoặc “cần lao, gia đình và tổ quốc” mà họ thường rêu rao!

Bữa cơm của hai đứa nhỏ hôm nay: thầy Linh Chi chỉ chan nước mắt cho chúng nó ăn, chớ chẳng có dưa muối tương rau gì cả! Thế mà chúng nó đói bụng rồi ăn coi cũng ngon lành quá!

Hai đứa nhỏ ăn xong, thầy vét nồi cạo cơm cơm cháy còn được đâu một sét chén! Chén cơm ấy là là phần của thầy, thầy bưng lên toan ăn, chẳng rõ thầy nghĩ sao mà rưng rưng nước mắt rồi nhè nhẹ để chén cơm xuống, thầy ngồi khoanh tay mà ngó chén cơm (…).

Thầy thì vẫn ngồi khoanh tay mà nhìn chén cơm, cho đến chén cơm khô queo, nguội ngắt mà thầy cũng chưa chịu ăn! Tại sao vậy? Không phải không có cá thịt mà thầy ăn không được! Không! Không! Đứng vào cảnh ngộ của thầy, bây giờ cầu có cơm lạt mà ăn, thầy dám đâu đèo bòng những món ngon vật quí nữa. Thầy thèm chén cơm lạt ấy lắm, thầy thèm nhểu nước miếng đi lận! Nhưng thầy lo lắng, nếu thầy ăn đi, lát nữa hai đứa nhỏ kêu đói thì thầy biết lấy chi mà chạy cho chúng nó? Vì vậy mà thầy nuốt không vô, thầy ăn không đành!”.

Thầy đói quá nên ngất đi, rồi gục đầu xuống đất mà ngủ. Thầy vừa thiu thiu ngủ, bỗng nghe có tiếng táp xộc xộc, thầy giựt mình thức dậy thì hỡi ôi! Một con chó ở đâu lén tới mà ăn chén cơm quí hóa của thầy! (…).

Tục ngữ có câu “chó treo mèo đậy”, mình hơ hỏng thì nó ăn, nó có biết phải quấy gì mà hòng chừa cho mình? Chính loài người là loài khôn hơn muôn vật đây, có lễ nghi phong hóa đây, có khi chỉ vì miếng ăn mà còn sát phạt lẫn nhau thay! Huống hồ gì cái thứ chó! Nếu mình giận nó thì chẳng là mình ngu hèn lắm sao”. (23)

Còn đối với người gọi là có học (trí thức) mà tâm địa hắc ám, đời sống thể xác đạo đức, bẩn thỉu, không biết nỗi nhục mất nước, dân chúng đang làm nô lệ cho ngoại bang, thì các nhân vật tiểu thuyết của Sơn Vương cũng lớn tiếng mắng nhiếc, sỉ vả không tiếc lời.

Tôi tưởng ông là người có học thức rộng, biết phân biệt phải quấy, chẳng dè ông có bằng cấp đốc tơ mà tâm địa của ông không sánh bằng một kẻ hạ lưu kia, cha mẹ ông cho ông đi Tây học để làm sự gì vẻ vang cho nước chớ có phải cho ông đi học lấy bằng cấp đốc tơ về lập dưỡng đường để mà ve vản nữ bịnh nhơn đâu! Ông làm như vậy thì từ đây còn ai dám đem vợ con đến đây cho ông chữa bịnh nữa? Ông hãy đi ra khỏi phòng này cho mau mau, rồi kêu chồng tôi đến đây đem tôi về, không thì tôi làm nhục ông bây giờ!(24).

Hoặc trong Bạc trắng lòng đen một nhân vật của giới bình dân đã phải phẫn nộ mà buông lời:

Này bạn ôi! Tôi nghe nói cô thông nào đó phải đi làm đĩ (!) như vậy mới đủ sống thì tôi cảm xúc vô cùng. Những kẻ ở xa lại đây ăn gởi nằm nhờ thì chúng nó ở nhà lầu, đi xe hơi, còn đồng bào ta sinh trưởng trong tổ quốc mà lại lầm than vất vả đủ điều.

Ôi! Cái hạng thầy thông mà còn có người thiếu ăn thiếu mặc đến đỗi phải chia sớt mối chung tình mới đủ sống, rồi tình cảnh của bọn lao động mới khắt khe khốn nạn đến bực nào? Trong lúc nước nhà chìm đắm, trăm họ lầm than, bạn có đồng tâm nhứt trí với tôi mà hi sanh tài sản để làm việc… chăng?”.

Hoặc, khi nói về tư cách, nhân phẩm của người làm việc gọi là thay mặt dân hoặc luật pháp nơi nghị trường. Hãy nghe tác giả kể lại cuộc đối thoại của những người bàng quang:

Cô Hạnh cằn nhằn:

Té ra pháp luật đặt ra để mà trừng trị những kẻ ăn cắp vặt, trộm xăng; chớ không làm gì được đứa đại gian đại ác?

Đứa đại gian đại ác mà có tiền nhiều thì pháp luật cũng phải kiêng nó chớ sao!

Mấy cái vầy mà sao mấy ông Đại biểu mình không kêu ca giùm cho dân sự nhờ. Vậy nói thay mặt cho dân là thay mặt cái gì đâu?

Xí! Thay mặt cho dân để lấy tiền bỏ túi chớ làm gì… Mình nghĩ thử coi: cái ghế nghị viên ở xứ ta bây giờ công chúng coi rẻ hơn cá sình ngoài chợ! Mà các ổng dám mua bạc muôn, mỗi khi đến kì tuyển cử, thì mấy ổng vãi bạc ra như vãi trấu, để mua lòng cử tri tranh ghế nghị viên cho được. Nếu không có lợi ích gì… gì… thì họ dại gì mà dám mua mắc đến thế? Cho nên, trong số mười ông đại biểu ở xứ ta, phần nhiều là kẻ buôn dân bán nước; chỉ có một vài ông là chơn tâm ái quốc mà thôi!

Thế cho nên, đời sống nhân dân Việt Nam lúc ấy thật vô cùng khốn khổ, nhất là tầng lớp nông dân ở nông thôn càng thêm điêu đứng với cảnh một cổ nhiều tròng năm nào:

Năm nay thất mùa, mười mẫu ruộng gặt không được sáu thiên lúa, giá lúa chỉ có năm sáu cắt một giạ, đã vậy rồi bán chẳng ai mua…

Vậy rồi họ làm sao?

Phải bán vợ đợ con, cầm vườn thế đất mà đóng cho đủ chớ sao!

Rồi những người không có vườn đất?

Thì người bảo lãnh phải chịu bồi thường, rồi người bảo lãnh xâu xé lại người mướn ruộng mà trừ (…).

Năm nay ai vô phước vướng phải ruộng công điền thì phải còng lưng mà đóng luôn cho đủ ba năm như vậy!...

Trời ôi! Họ chịu sao thấu? Nhà nước không châm chế cho họ sao?

Tôi thấy có châm chế gì đâu (…) Nếu có đi đến trong chốn thôn quê, tiếp xúc với bọn nhà nghèo thì chắc là mình còn thấy nhiều sự đau đớn hơn nữa. Cũng vì cái nạn nghèo đói đó cho nên chủ nghĩa cọng sản mới dễ đâm chồi nẩy mộng ở xứ ta. Nhơn cùng tắc biến, đói rách quá rồi việc gì mà chẳng dám làm, không làm… thì cũng vì cái nạn đói mà chết! Cho nên chỗ này nổi lên biểu tình, chỗ khác làm cách mạng, trộm cướp lung tung. Bọn có quyền thế thừa lúc rối rắm này mà húng hiếp dân lành để bóc lột cho đầy túi mình… Tình cảnh của bọn bình dân năm nay thiệt là đồ khổ, nói ra khôn cùng! (…)

Họ biết sức yếu tay không khó mà cự nổi với súng đồng trái phá, họ biết lắm chớ. Song vì họ gặp tình cảnh cùng khổ quá, sống mà không cơm ăn no, không áo mặc thì sống làm gì! Họ muốn chết, song không lẽ họ cầm dao mà tự sát, nên chẳng thà họ gây nên việc lớn… mà chết, cái chết ấy có ý nghĩa, cái chết ấy đáng chết hơn…”.

Thực trạng trên không riêng gì ở Nam Kì nơi ruộng “cò bay thẳng cánh” đồng lúa ngút ngàn, mà còn như vậy huống nữa là ở Bắc Kì, Trung Kì, thực trạng ấy sẽ như thế nào!

Thế cho nên, phải chăng tác phẩm Sơn Vương là bản cáo trạng nhằm lên án chế độ thực dân, hay là tờ hịch kêu gọi nhân dân đứng lên lật đổ chế độ hà khắc của ngoại bang và tay sai!

Từ ý hướng trên ta có thể xem Sơn Vương là nhà văn cách mạng khoác áo “tướng cướp” như ông đã tự nhận chứ không phải ông có một “vương quốc riêng của mình” và “triều đình của ông” (SV) như tác giả trên đã “chụp mũ” ông trong sách đã dẫn.

*

Gần đây trong công tác nghiên cứu sử học, Văn học Nam Kì đã có những thành quả nhất định, trong đó có hai vị khi viết về Sơn Vương luôn lấy cá nhân mình làm tâm điểm cho vấn đề. Nhà phê bình khi đánh giá và nhận xét con người có thể trong xã hội hôm qua, và cũng là con người hôm trước để phân tích văn chương hay đứa con tinh thần của nhà văn rồi phê phán này nọ. Trong đó có vị bảo Trương Văn Thoại khi cầm quyền ở Côn Đảo tự xưng là “Sơn Vương” có “đế hiệu” trị vì xứ “Côn Lôn quốc”. Thậm chí, tác giả trên có lẽ không thèm đọc tác phẩm của đương sự, nhất là không hiểu cách đặt bút hiệu, bút danh của nhà văn rồi phóng bút theo ý chủ quan của mình để đánh giá nhà văn, cho Sơn Vương đã tức vị làm vua Côn Lôn quốc có cả “triều đình” và “đế vị”.

Trong khi đó có vị đứng trên khía cạnh văn học để nhận xét con người văn chương Sơn Vương. Như chúng ta đã biết (xem lại tiểu sử) trước khi cầm bút Sơn Vương là một chiến sĩ có hoài bão muốn tham gia vào các hội đoàn xã hội mong “thức tỉnh đồng bào”. Hoài bão ấy được Bằng Giang ghi lại trong tác phẩm Sài Côn cố sự của ông như sau:

Người bị bắt trước nhất là Trương Văn Thoại (về sau khi cầm bút mới có bút danh Sơn Vương), hồi được biết trong Ban Tổ chức là cậu Thoại hay cậu “Thức tỉnh đồng bào”. Theo lời kể của nhà báo Ngọa Long:

Cậu Thoại từ quê quán ở Gò Công lên thẳng nhà báo Đông Pháp thời báo và tình nguyện ở lại làm việc, bất cứ là việc gì và có lương hay không có lương không thành vấn đề, miễn là được tham gia với Đông Pháp thời báo để “thức tỉnh đồng bào”.

Đến khi Nam Kiều thành lập Ủy ban Tổ chức lễ truy điệu thấy cậu Thoại là thanh niên nhiệt huyết nên cho ghi tên vào sổ… Phong thần 14 người và hôm ấy giao cho Thoại phần phân phát truyền đơn và treo “băng-đô-rôn” (biểu ngữ); chính ngay lúc Thoại leo lên cây sao để trương biểu ngữ qua đường thì mật thám theo vào chùa Tập Phước và Thoại đã bị mời… lên “xe cây” trước hơn ai hết”;

Giáo sư, viện trưởng viện Sử học Việt Nam Trần Huy Liệu (1901-1969) người bị bắt một lần với Sơn Vương và cũng là tác giả Ngục trung kí sự, (Gia Định, 1928), viết: Trương Văn Thoại cũng bị bắt một lần vô đó, ngày 26-Juin tức là ngày hôm qua cậu đã thân hành đến chùa Tập Phước ở Gia Định để làm lễ truy điệu Lương chí sĩ (...), cậu trèo lên cây để treo câu đối thì bị lính bắt ngay (...) cậu Trương Văn Thoại bị bắt về bót, ngày hôm sau dẫn lên Bồi thẩm (Juge Instruction) rồi tống vô khám (25).

Theo đấy, chúng ta thấy trước khi làm văn sĩ, tướng cướp thì Sơn Vương đã là một người đi “thức tỉnh đồng bào”, “hiệp khách đề lao”, “tù vượt ngục”... Nói theo ngôn ngữ hôm nay thì “cậu Thoại đã là một nhà hoạt động xã hội, nhà yêu nước!” Chứ không phải ông là “Tiếng nói phản kháng, nếu có, trong các đoản thiên tiểu thuyết của Sơn Vương lại thường là tiếng nói từ kiểu nhân vật nam giới có máu phiêu lưu hay máu liều lĩnh” (26) như cách đánh giá của một Tiến sĩ văn học giảng dạy văn chương Quốc ngữ Nam Kì cuối thế kỉ đến năm 1945 ở Đại học Quốc gia TP.HCM.

Nói tắt, Sơn Vương là một nhà văn có khuynh hướng xã hội từng nặng lòng với nợ nước tình nhà, ông đã khoác áo một nhà văn, một tướng cướp lâm thời. Hoài vọng đó ông mong đạt cứu cánh của mình: độc lập cho tổ quốc, xã hội thanh bình và công bằng để ai ai cũng được thẳng lưng nhìn ánh sáng mặt trời giữa đất nước thân yêu! Cứu cánh đó nhà văn chưa đạt được trọn vẹn! Giờ đây nơi thế giới thăm thẳm bên kia ắt hẳn ông vẫn còn ray rứt khôn nguôi!

Gia Định cuối tháng 12-2006
(tiết Đông Chí)

Nguyễn Q. Thắng



(1)Tham khảo, Nguyễn Q. Thắng, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, nxb TP.HCM, 2006 có tiểu truyện các nhân vật trên.

(2)Bằng Giang, Sài Côn cố sự, NXB Văn học, 1999.

(3)Bằng Giang Sđd viết:

      “Nguyễn Phương Thảo không sống bằng một nghề chuyên nào trong lúc cần phải có thu nhập để tồn tại. Tiền từ gia đình và Mạnh Thường Quân thì ít, từ kinh tế mạo hiểm thì nhiều (mười hai lần) (...)

      Trong quá trình hoạt động, có lần Sơn Vương mang một ít tiền của nhóm đi mua gạo để phát chẩn cho đồng bào bị lũ lụt ở miền Trung. Được biết mục đích của việc mua gạo này, ông chủ nhà máy xay lúa Nguyễn Thanh Liêm ở đường Tôn Thất Thuyết (Khánh Hội), đồng thời là cổ đông của Việt Nam ngân hàng mới cho thêm 300 bao (ba trăm bao) và cho mượn luôn phương tiện chuyên chở bằng đường biển. Ông còn dặn dò Sơn Vương khi cần thì cứ đến gặp ông ta tại trụ sở Việt Nam ngân hàng lúc đó ở đường Pellerin (nay là đường Pasteur).

      Một lần có người trong nhóm ngỏ ý muốn đi xa cần đến một số tiền lớn, Sơn Vương đến gặp ông Liêm, ông này sốt sắng và lịch sự trao đủ số tiền cần thiết cho Sơn Vương. Chỉ có một lần này thôi vì Sơn Vương ngại mang tiếng lạm dụng, nhưng cũng còn lại một cách “thu nhập” khác được tiến hành, nhiều lần là kinh tế mạo hiểm, lúc sống chung với Nguyễn Phương Thảo cũng như sau khi Thảo đã xa cách Sơn Vương. Ăn cắp quen tay, ăn cướp cũng quen tay. Động cơ của hành động cướp bóc có nhiều. Vì nghĩa cả trong một tổ chức là làm kinh tế mạo hiểm, còn đơn thuần vì cá nhân chỉ là ăn cướp”. (Sđd tr 98).

      Thực tế trên phù hợp với những gì Sơn Vương sau này viết trong lời mào đầu có tên “Tại sao tôi đi ăn cướp?...” tức đi ăn cướp giúp người hoạt động CM) trong Hồi kí “Máu hòa nước mắt” mà chúng tôi vừa trích dẫn ở trên.

(4) Khi bị giam tại Khám Lớn Sài Gòn, Sơn Vương nhiều lần từng trừng trị các tên cặp rằn (bây giờ gọi là Đại bàng) ăn hớt đồ thăm nuôi của thân nhân người bị giam giữ, như có lần ông trị tên cặp rằn Ba Nhỏ. (Nguyễn Văn Thiện) Một hôm Gaillard gởi đồ thăm nuôi Sơn Vương hai giỏ đồ ăn lớn và ngon. Sơn Vương định dùng 2 giỏ đồ ăn ấy chung vui với anh em đồng cảnh. Ba Nhỏ bảo để y làm điều đó cho, nhưng thật sự chỉ dành cho y và cặp rằn khác. Sơn Vương hỏi, liền bị Ba Nhỏ chưởi ngay.

Ba Nhỏ đang cầm một con dao định ra tay như xưa nay thì “nhanh như chớp”, Sơn Vương khóa chặt tay Ba Nhỏ, đoạt lấy dao bỏ túi, tức khắc Ba Nhỏ trở thành thằng nhỏ dưới tay Sơn Vương. Từ ngày đó phòng giam này không còn chế độ cặp rằn. Anh em tù từng bị ức hiếp lâu nay tặng Sơn Vương cái biệt danh “Đề lao hiệp khách” (theo Bằng Giang: bài Sơn Vương trường kì gian khổ trong tù ngục 1933-19689, in trong Sài Gòn cố sự NXB Văn học, 1999.

(5) Danh xưng trong cuộc bầu cử ngày 15-12-1946 dưới sự chủ tọa của Trưởng Phái đoàn Văn Cừ giao cho Sơn Vương chính thức là Giám đốc An Ninh quần đảo, tham khảo Máu hòa nước mắt.

(6) Sđd.

(7) Năm mất này (1987) chúng tôi biết hồi đó và được thân nhân gia đình xác nhận vào năm 2003 lúc chúng tôi ghé thăm thắp nhang tại bàn thờ ông ở Bình Nghị thọ 80 tuổi (vì năm sinh chính thức của ông là 1907 tuổi Mùi (Đinh vị).

(8) Bằng Giang, sách đã dẫn, NXB Văn học, 1999.

(9)Tham khảo Nguyễn Q. Thắng, Văn học Việt Nam nơi miền đất mới, 4 tập khổ 16x24cm, mỗi tập trên dưới 1500 trang.

(10) Nguyễn Q. Thắng, Văn học Việt Nam nơi miền đất mới, 4 tập khổ 16x24cm, mỗi tập trên dưới 1500 trang.

(11)Người cháu gọi ông là chú ruột tên Trương Văn Nhứt (1915-) trưởng nam ông Trương Văn Kỉnh (1892-1984) anh ruột Sơn Vương.

(12) Phần lớn các tác phẩm của ông đều xuất bản trong vòng 3 năm 1929-1930-1931 và đến năm ông bị Pháp bắt giam từ Khám Lớn đến Côn Đảo ông gác bút luôn – trừ thời điểm làm báo ở Côn Đảo. Đến năm 1968 ông mới cầm bút lại.

(13) Ông NAN: Tức nhà yêu nước Nguyễn An Ninh (1900-1943) tác giả cố ý viết tắt.

(14) Xóm Trễ: Tức khu vực mả Lạng (nay thuộc phường Cầu Kho và phường Nguyễn Cư Trinh Quận I TP.HCM.

(15) Sơn Vương: Máu hòa nước mắt.

(16) Ngọc Phan, trong Côn Đảo Kí sự và Tư liệu, NXB Trẻ, TP. HCM, 1996.

– Theo tù nhân Trương Văn Thoại, thì Sơn Vương là bút danh ông chứ không phải “đế hiệu” của “triều đình Trương Văn Thoại”, vì từ (chữ) Sơn Vương là chiết tự từ chữ Thoại (Thuỵ) : 瑞 . Từ (chữ) Thoại gồm 3 chữ  : vương 王 : sơn 山 và nhi 而 ; Đây là phép chiết tự của chữ Thoại mà ra. Vậy biệt danh, bút hiệu Sơn Vương là do ông kí từ năm 1929 trên các sách của ông ở Sài Gòn. Vậy bảo Sơn Vương là đế hiệu của Trương Văn Thoại là sai !

(17) Già Quít là tù thường phạm sau trở thành kẻ thân tín của ông Vệ Liễn. Năm 1946 ông Trương điều hành Côn Đảo thì già Quít là nhân viên dưới quyền Sơn Vương.

(18) Ngọc Phan, “Khi Côn Đảo nằm trong tay những người thường phạm” in trong cuốn Côn Đảo Kí sự và Tư liệu, (sđd), trang 134, 135. Về cách viết của tác giả này xin độc giả đọc Máu hòa nước mắt để thấy sự thật. Thực tế là ông bà Vệ Liễn đánh tiếng gả ái nữ của mình (Kim Hoa) cho Sơn Vương, lúc đầu ông từ chối. Sau đó người mai mối cố thuyết phục ông mới khứng chứ không phải “đánh dứt ba hồi trống mà không chịu gả con gái thì sẽ bị chém”; nhất là “Huỳnh Hoa sợ quá bèn tự nguyện làm vợ Sơn Vương để cứu cha!” như Bđd mà câu nói có nội dung trên là do chính Sơn Vương bảo vợ mình (Kim Hoa) sẽ trả lời với Pháp khi Pháp tái chiếm Côn Đảo. “bắt buộc phải gả con, không gả là bắn” là câu của Sơn Vương bảo ông bà Vệ Liễn nói với Pháp.

      Nếu quả thật cô Kim Hoa bị Sơn Vương cưỡng bức cô làm vợ mình thì tại sao sau khi chiếm lại Côn Đảo Giám đốc Gimbertmuốn o bế nàng thì bị nàng mắng cho một câu: “Bắt chồng hạ ngục để đoạt vợ; đó là tư cách của một người Đại diện cho nước Pháp phải không?” ”

      (...) Nếu cô giáo Hoa có bị tôi cưỡng bách thì cứ để cho cô lên tiếng, tại sao cô không nói gì, mà một số người ngoại cuộc không biết lối nào về tình hình nội bộ trong gia đình chúng tôi mà lại rêu rao dư luận nọ kia?

      Miệng đời ăn mắm ăn muối nói sao thì nói, nói trong khi tôi không có quyền ăn nói, vì tôi còn đang ở tù làm sao có thể viết một bài báo để có trả lời?

      Hiện nay bà 15 Linh hãy còn sống nhăn đó, người có công tâm, muốn biết sự thật như thế nào, thì hỏi ngay bà 15 thì biết mớ đồ sánh lễ do tay bà trao lại cho tôi đó là của ai?

      (Máu hòa nước mắt, bản thảo, trang 115).

(19) Sơn Vương, Lỡ một lầm hai, nhà in Đức Lưu Phương, Sài Gòn 1931.

(20) Sơn Vương, Ai kén chồng, nhà in Đức Lưu Phương, Sài Gòn 1931.

(21) Sơn Vương, Chén cơm lạt của người thất nghiệp, Nhà in Đức Lưu Phương, Sài Gòn, 1931, xem toàn văn nơi phần Tác phẩm ở sau.

(22) Sơn Vương, Lỗi về tôi, Nhà in Đức Lưu Phương, Sài Gòn, không ghi năm xuất bản.

(23) Sơn Vương, Bạc trắng lòng đen, Nhà in Đức Lưu Phương, Sài Gòn, 1931, bản in lần thứ nhì.

(24) Sơn Vương, Chén cơm lạt của người thất nghiệp, 1931, Sài Gòn.

(25) Trần Huy Liệu, Ngục Trung Kí sự, Gia Định, 1928.

(26) Đào Ngọc Chương, Sơn Vương – Khảo luận tác phẩm, in trong Văn học Quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỉ XIX – 1945, (Tập Tham luận Hội Nghị Khoa học) do Khoa Ngữ văn Báo chí Trường Đại học KHXH và Nhân văn TP.HCM, 2006.

IP IP Logged
Hoang Ngoc Hung
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 14/Jun/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 234
Quote Hoang Ngoc Hung Replybullet Gởi ngày: 18/Jul/2007 lúc 6:48am

biasonvuong

 
IP IP Logged
Hoang Ngoc Hung
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 14/Jun/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 234
Quote Hoang Ngoc Hung Replybullet Gởi ngày: 18/Jul/2007 lúc 6:53am

....Trích ...

"ĐÊM TRONG TÙ" của tác giả THỦY LAN VY
http://diendan.edu.net.vn/forums/48/345819/ShowThread.aspx

___________________________________________________

 

Trời tháng mười, Hà Tây đã bắt đầu vào thu...Đêm nay cuối tuần, trong phòng ồn ào hẳn lên, vì ngày chủ nhật được nghỉ phè cánh nhạn, tôi nằm yên một mình nhìn đỉnh mùn giăng sẳn vén lên ; năm nầy đã là năm thứ sáu rồi...Tất cả quây quần trên hai chiếu của Giai và Lâu, một bếp dầu 8 tiêm đang đun một lon gô nước, mấy lon nhôm thịt họp dùng làm ly uống nước, có thuốc lào ba số 8, Tiên Lãng, có kẹo đậu phọng, đường tán ... Lâu và Giai cùng quê và cùng trường Gò Công với tôi, tôi học khoá 5, Lâu khoá 6, Giai khoá 8, Cò Củ là trưởng cuộc quê ở Long An, Thành Đỏ cũng là tù trước 75 bị bắt ở Cai Lậy ...tất cả cùng sinh hoạt chung từ đội chăn nuôi (trong tù thường chia ra từng nhóm ăn cơm chung với nhau, dĩ nhiên vẫn có người ăn cá thể )
- Ê Mỏng, hôm nay mầy kể chuyện Sơn Vương nghe chơi Mỏng...
Thằng Lâu vừa kéo xong điếu thuốc lào vưà lên tiếng
-Kể thì kể, mầy dân Giồng Nâu ( Hoà Nghị, An Hoà) mà biểu tao kể chuyện Sơn Vương, mầy ở Hòa Nghị, mầy phải rành hơn tao chứ
Tôi vừa cầm lon nước trà xin thêm chút nước trắng, vì trà đậm quá, vừa trả lời Bích Lâu .
- Thằng Mỏng nó ở ngành CTCT, nó nói dóc có tiếng, thằng Giai vừa nhai kẹo vừa cười nói...
-Thằng Giai mầy phá máy hoài, để nó nói dóc nghe chơi ...
Tiếng thằng Lâu góp ý, tôi biết thằng Lâu nó rất nhớ nhà, nó là con một, được cưng chiều từ nhỏ, với lại thêm một vợ mấy con ...ghệ nên nó rất sợ nằm một mình, nên nó thích uống trà nghe nói dóc để giết thì giờ .
Tôi thư thả đốp một miếng kẹo nhai nghe dòn khứu, chiêu một ngụm trà, thong thả cầm " ba dô ca ", ngắt một bi thuốc lào, đóm cật tre bắt lửa sáng rực, tôi kéo một hơi thuốc dài, ém khói, chiêu một ngụm nước trà ...

         Ngày còn bé, tôi vẫn thường nghe Ba tôi kể chuyện về Sơn Vương, tôi cũng có dịp đọc truyện" Côn Sơn khói lửa " lúc còn học tiểu học, đến trại Hà Tây được hơn 5 năm thì chú Chín Khương, nguyên phó đảo Côn Sơn, từ Hỏa Lò chuyển về Hà Tây, Chú nằm cách tôi một chiếu nên tôi có dịp hỏi nhiều chuyện về Côn Sơn, Chú Chín là thư ký tại đảo Côn Sơn từ thời Tây, Ông đã từng chứng kiến cảnh xử bắn Võ Thị Sáu ...Từng đêm từng đêm tôi khai thác dần cái vốn sống Côn Đảo nằm cạnh bên , từ chuyện tù của nhóm chính trị Ca - ra - ven, đến những tay một thời lừng lẫy của đệ nhất Cộng Hòa như Anh Tư Dư, trưởng ty CS Huế, Th/ Tá Đặng Sĩ,, THái Đen ...cho đến Sơn Vương, Điền Khắc Kim ...., chuyện kho tàng Nguyễn Ánh, chuyện thú lạ tựa như khỉ, thường ăn ếch nhái, chuyện nhân sâm ...một trong những loài sâm quý nhất thế giới có mặt ở Côn Sơn ... Trong buồng có mấy anh thấy tôi rù rì với Chú Chín, cũng thường dừng lại góp ý
-Thằng Mỏng nó nói dóc lắm, nó hỏi chú Chín để ghi nhận làm vốn đi nói dóc đó, đừng kể cho nó nghe .
Trong buồng tôi, đa số đều là những người lớn tuổi, đều là những người từng giữ những chức vụ quan trong của chế độ Cộng Hòa, nên đối với cấp úy trẻ như tụi tôi cũng được các chú bác dành cho một cảm tình đặc biệt, các chú các bác đã nhìn chúng tôi như những kẻ thiệt thòi của chế độ .
- Ê , nhớ tới đâu kể tới đó nghe, kể nghe cho đã rồi lại bảo tao nói dóc ...

***


        Sơn Vương tên thật là Trương văn Thoại, sinh quán tại làng Hòa Nghị, tỉnh Gò Công, Chúa Nguyễn thua liên tục quân Tây Sơn, phải trôi dạt ẩn náo tại Côn Sơn, quân Nguyễn Lữ vẫn không tha , bao vây truy kích rất gắt, biết không thể nào chống lại quân Tây Sơn nên Nguyễn Vương quyết định chôn dấu kho tàng tại núi Ma Thiên Lãnh , đang đêm lén dùng thuyền nhỏ, nhân trời đang mưa bão cùng vài bộ hạ thân tính ra khơi tìm đất sống . Người chỉ huy của quân Tây Sơn có lẽ là tướng Phạm Bá Điềm, trong một đêm mưa giông tối trời đã để hở vòng vây nên Nguyễn Vương vượt thoát, thuyền ra khơi nhắm hướng đất liền tiến thẳng, khi không còn thấy dấu vết quân Tây Sơn rượt đuổi, Nguyễn Vương chưa kịp mừng, thì một cơn lốc ập tới, thuyền bè tan tác, Nguyễn Vương tưởng phen nầy bị chết vì nước ...biển, thời may có hai con cá Ông cặp hai bên ghe đưa riết vào bờ ... Điểm lại tùy tùng còn lại, đếm chưa giáp mấy đầu ngón tay, Nguyễn Vương được dân địa phương cho biết , đây là Vàm Láng , thuộc Huyện Tân Hòa. Lần vào đất liền, Nguyễn Vương liên lạc được với Võ Tánh, lúc bấy giờ đang trú đóng tại Hòa Nghị . Trong đám thân tính của Nguyễn Vương có Ông tổ của Sơn Vương, Ông nầy giữ được một phụ bản của kho tàng được chôn dấu tại Côn Sơn. Khi Nguyễn Lữ kéo quân vào Gò Công truy kích, Nguyễn Vương phải chạy lên Mỹ Tho, Võ Tánh ở lại Hòa Nghị tiếp tục mộ lính đánh Tây Sơn, Ông tổ của Sơn Vương cũng ở lại với một mục đích riêng . Bản đồ nầy truyền qua tay Ông Nội tới cha của Sơn Vương, nhưng không có ai lên đường tìm kho báu .


        Thời thuộc Pháp khoảng cuối thập niên 20 , người anh ruột của Sơn Vương lên đường tìm kho tàng, cầm theo bức hoạ đồ, nhưng rồi người đi như sương như gió, ngày ra đi thì thấy mà tin tức về thì không. Trương văn Thoại là một thanh niên có nhiều tham vọng, lại nhiều bản lãnh, học võ chân truyền từ ông nội và cha, học gồng từ các sư chống Pháp ở Bà Rịa, Vũng Tàu, lại biết thuật thôi miên, tính điềm đạm, cương nghị, có theo học chương trình trung học Pháp nhưng không rõ ông đổ đạc bằng cấp gì. Ông có khiếu viết truyện, làm thơ ... Với khả năng đó, ông quyết định nối gót người anh, dù không còn bản họa đồ, nhưng trong ký ức ông vẫn còn nhớ vì ông có dịp xem qua nhiều lần . Lên Sài Gòn, Ông sống bằng nghề viết sách và bán sách, thật ra đây là nghề tay trái, nghề chánh là ...cướp. Chuyên cướp nhà giàu, trọc phú ...
- Mầy kể chi tiết một vụ cướp nghe chơi, chứ mầy nói khơi khơi hoài vậy Mỏng ...Lại tiếng của thằng Giai ...
- Dễ thôi, tụi mầy có nghe cái tên Nguyễn Bình của Việt Minh không?, để tao kể vụ cướp điển hình của Sơn Vương cho nghe.


        Nguyễn Phương Thảo (sau nầy là Tướng Nguyễn Bình) từ Bắc vào Nam có kết bạn với Sơn Vương, cả hai tính tình cùng tầng số nên rất hạp nhau, thuê một căn gác trên tiệm may Nam Chấn Hưng làm nơi tá túc ở đường lòi phèo ( Lefebre) cạnh ngả tư Chaigneau. Một buổi sáng, Sơn Vương mời Phương Thảo đi xem anh đánh cướp ...


       Sơn Vương với tính hào phóng, thu nạp được nhiều em út thuộc đủ mọi giới, xuất quân lần nầy, Sơn Vương được Năm Đường là tài xế của một Ông chủ hảng xuất nhập cảng, thừa lúc chủ về Pháp, Năm Đường lấy xe chủ chỡ Sơn Vương đi, chiếc xe hiệu Clément Bayard bóng loáng đời mới . Từ Bắc vào Nam, lần đầu tiên Phương Thảo được ngồi trong một xe hơi sang trọng bóng loáng , có tài xế cẩn thận, vốn là người có tâm hồn của bốn phương nên Thảo chỉ nhìn mà không hỏi. Sơn Vương mời cả ba đi ăn sáng tại một tửu lầu sang trọng của người Tàu làm chủ trên đại lộ De la Somme.Tại đây Phương Thảo được Sơn Vương mời ăn hủ tiếu đặc biệt, xiếu mại gan heo, há cẩu Sóc Trăng ...uống cà phê sửa đá, hút thuốc con mèo đen họp thiếc tròn, ăn hút no đủ rồi, cả ba lên xe nhắm hướng Tân Sơn Nhất trực chỉ .
- Anh Năm có nhớ thay bảng số xe chưa ?
Sơn Vương vừa phả khói thuốc vừa hỏi anh Năm Đường tài xế .
- Khỏi lo mà Anh Hai .
Tới một cầu sắt nhỏ, bề ngang chỉ vừa hai xe tránh nhau, Năm Đường đậu xe giữa đường, xuống xe, mở nắp thùng xe ra làm như xe đang hỏnh máy, Sơn Vương cũng xuống xe, xem đồng hồ
- Còn 15 phút nửa, đủ thì giờ hút một điếu thuốc .
Nguyễn Phương Thảo rất ngạc nhiên và nôn nóng, Anh muốn chứng kiến một pha cướp do một tướng cướp khét tiếng Sài Gòn dàn dựng, Thảo hỏi:
-Vụ nầy chắc ăn không Anh Hai, trông anh bình tỉnh quá vậy, sao không thấy anh mang súng mang dao theo ?
Sơn Vương nghe hỏi liền cười ha hả, tay móc cây súng giả lận trong người ra đưa cho Thảo xem :
-Súng đây nè, súng giả mà đánh súng thiệt mới đã chứ !
        Thực ra Sơn Vương đã điều nghiên rất kỹ, những sáng ngồi bán sách trên lề đường Sài Gòn Ông đã theo dõi rất kỷ các con mồi của Ông,Ông biết tên giám đốc đồn điền cao su Minot sáng thứ bảy nào cũng tới nhà băng rút tiền để đem lên sở phát lương cho công nhân, ông biết hắn đi xe gì , theo lộ trình nào ... Sơn Vương hút tàn điếu thuốc thì từ xa một chiếc xe PEUGOET đang chạy tới tung bụi đỏ mịt mờ phía sau . Thấy đường bị nghẻn ở đầu cầu thằng Tây rà thắng quát to : Nép vô lề cho người ta qua cầu !
Năm Đường vờ lăng xăng sửa xe còn Sơn Vương thì thong thả trả lời thằng Tây :
-Xe pane, chúng tôi đang sửa, nếu ông muốn qua cầu thì xuống xe phụ đẩy với chúng tôi .
Thằng Tây sừng sộ :
- Tao mà đi đẩy xe cho tụi bây à?! Hắn nóng nảy mở cửa xe bước xuống, vẻ mắt hằm hằm đầy bực tức
Sơn Vương lanh bước chận ngay trước mặt thằng Tây :
- Mầy là thằng nào mà phách lối quá vậy mậy.Thằng Tây đang bất ngờ trước thái độ ngang tàng của Sơn Vương , thì Sơn Vương đã sử dụng bộ pháp " lăng ba vi bộ " tiến sát người thằng Tây , tay rút súng giả chỉa vào ngực hét to : -Dơ tay lên !!
        Rất bất ngờ và theo phản ứng tự nhiên, thằng Tây dơ hai tay lên trời, một lần nữa, Sơn Vương sử dụng " Cầm nả thủ " chụp cây súng sáu của thằng Tây bỏ trong túi quần đồng thời sử dụng " di ảnh kỳ hình " phóng lại cửa xe chụp luôn va li bạc thảy cho Thảo giữ . Năm Đường chỉ chờ cho Sơn Vương và Phương Thảo lọt vào trong xe là nhấn ga ...vọt.
Sơn Vương ném khẩu súng giả qua cửa sổ và nói lớn :
- Cho mượn đở tháng lương nghe Ông Gaillard , giữ cây súng cây làm kỷ niệm .
Sau gần cả phút mới tỉnh hồn, Thằng Tây lên xe đuổi theo nhưng phiá trước chỉ là một đám bụi mờ ...
- Thằng Mỏng chắc lúc đó đứng đâu đó nên thấy được mấy thế võ của Sơn Vương, mà sao mấy thế võ nầy tao nghe tên sao giống Võ của Kim Dung và Lệnh Xé xác quá vậy .
Thằng Giai vừa nhấp trà vừa cười vừa nói
- Kệ nó mà, sao mầy cứ phá máy hoài vậy Giai ...Thằng Lâu lầu bầu ...
- Rồi sao nữa Mỏng, trót lọt không mậy ?
-ờ , xe chỡ Sơn Vương chạy theo hướng Bà Quẹo, tới chợ thì Sơn Vương và Phương Thảo xuống xe bao một cổ xe thổ mộ về Sài Gòn, Năm Đường lái xe về nhà chủ, thay lại bảng số, chùi rửa cẩn thận. Sơn Vương trích một số tiền lớn cho Phương Thảo mở một tiệm giặt ủi ở Da kao để sinh sống ...


        Tụi mầy phải biết, thời đó xe hơi ở sài Gòn quá ít, sở mật thám cho điều tra từng chiếc xe một, hiệu nầy chưa tới 10 chiếc ở Viêt Nam, Năm Đường thấy khó thoát nên tự ra đầu thú, một tháng sau, Sơn Vương bị còng giải về sở mật thám
         Bắt được Sơn Vương, cò Ba Zin điện cho tên Gaillard đến bót Ca ti na ngay :
- Ông treo giải thưởng 5000 đồng cho ai bắt được tên cướp, bây giờ tôi giao tên cướp cho Ông, muốn đánh đập làm gì thì làm cho đã nư đi, nói xong Ba Zin bỏ ra ngoài để Gaillard ở lại toàn quyền với kẻ cướp. Thằng Tây chụp cây roi kẹt bò trừng mắt nghiến răng nhìn Sơn Vương
- Mầy cướp của tao 50.000 đồng, tao tính rẻ, 50 roi thôi, mầy sẳn sàng chưa .
Sơn Vương bình thản: - Xin mời Ông !

        Ngọn roi kẹt bò chạm vào người Sơn Vương nghe đánh trót, chiếc áo sơ mi bằng lụa rách ngọt một đường, năm ngọn roi liên tiếp ghi năm vết đỏ thẫm nổi vòng trên lưng Sơn Vương. Sơn Vương vẫn đứng vững vàng, mặt không đổi sắc. Thằng Tây thở hổn hển, vừa tức vừa sợ, trên đời có lẽ nó mới gặp một người như Sơn Vương. Hắn quăng roi:
-Tao cho mầy thiếu số còn lại .
Sơn Vương cười nói :
-Tôi quen sòng phẳng, ông cứ đánh tiếp.
Thằng Tây khoát tay :
- Mầy ngon hơn bọn tao rồi, tao bỏ số còn lại không đánh mầy nữa đâu .
Càng lạ hơn, Gaillard bỏ ra ngoài tìm Bazin nói :
-Xong rồi tôi đề nghị Ông thả tên ăn cướp đó đi ,
Bazin rất đổi ngạc nhiên :
-Sao lạ vậy ? thả à ?!
Thằng Tây rút thuốc ra châm lửa ;
- Dân đảo Corse chúng tôi có câu : Anh hùng phải phục anh hùng, Ông muốn xử nó ra sao thì xử, còn tôi coi như huề, tôi cám ơn Ông .


         Sau buổi đầu quá đổi ngạc nhiên, Bazin cho sưu tra lại lý lịch của Gaillard thì được biết, Gaillard cùng vời một người em là hai tên cướp khét tiếng, có nhiều tiền án, đã từng nhiều lần vượt ngục khỏi nhà tù khét tiếng của Pháp ở Nam Mỹ : La Cayenne, vụ cướp gần nhất là đánh cướp một xe chỡ tiền của nhà băng Mỹ, vượt thoát với số tiền nầy, René Gaillard mua cổ phần của hảng Terres Rouges và trở thành giám đốc đồn điền cao su Minot.
Ra toà, Sơn Vương lảnh án 15 năm, lưu đày Côn Đảo .

 

***


- Xin quý vị giữ im lặng, chương trình văn nghệ cuối tuần của đội rau già sẽ bắt đầu ...Và để mở đầu chương trình, chúng tôi xin giới thiệu một giọng ca chưa lên mà sắp xuống, đó là anh Khưu Vĩnh Biệt, ủa ủa xin lỗi, Khưu Vĩnh Thám (Đại đội trưởng biệt lập Sóc Trăng), sẽ mở đầu chương trình bằng ca khúc " Tình Thư của Lính ", và cũng xin giới thiệu ban nhạc đêm nay ; Phong cầm, anh Vũ Thành An , Guitar , Anh Khiêm, Violon Anh Định, muỗng Anh Niệm...Xin quý vị cho một tràng pháo tay ...
Giọng của Bình thầy chùa, MC đêm nay .
Tôi kéo một bi thuốc lào ..
- Thôi tuần sau kể tiếp , xuống nằm nghe nhạc mấy cha , kể cho nghe mà thằng Giai cứ chọc quê hoài
Thằng Giai cười hề hề :
- Thằng Mỏng nầy câu giờ hết biết, nó tính uống vài chục bình trà móc câu mới kể hết chuyện Sơn Vương . 



Chỉnh sửa lại bởi Hoang Ngoc Hung - 18/Jul/2007 lúc 6:58am
IP IP Logged
Hoang Ngoc Hung
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 14/Jun/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 234
Quote Hoang Ngoc Hung Replybullet Gởi ngày: 18/Jul/2007 lúc 6:54am

Từ: haidaihiep (nguyengiathieu.net) - "NGƯỜI CỦA GIANG HỒ - Nguyễn Hồng Lam" - NXB Công An Nhân Dân

Với 34 năm ngồi tù, trong đó có 32 năm khổ sai ở Côn Đảo, có lẽ Sơn Vương Trương Văn Thoại người Gò Công là người phải thụ án lâu nhất Việt Nam. Ko chỉ có thế, ông còn là một nhà văn được hâm mộ, một tên cướp khét tiếng trượng nghĩa và hào hoa. Cách mạng tháng Tám thành công, ông trở thành Chủ tịch Ủy ban hành chính Côn Đảo; rồi lại tiếp tục sông hàng chục năm sau song sắt,....

Có thể nói, cuộc đời Sơn Vương là một lăng kính phản ánh khá trung thực và đậm nét về khí phách ngang cường trọng nghĩa, yêu tự do, ý chí quật cường hào sảng. Quan trọng hơn hết, ông là một nhân chứng sống của nhà tù Côn Đảo suốt hai thời Pháp thuộc và Mỹ - Ngụy.

Hồi 1: KIẾP PHONG SƯƠNG

Trước khi đổ ra cửa Tiểu, dòng chảy của sông Soài Rạp đột nhiên trở nên mạnh mẽ lạ thường. Từ nhiều đời, người dân làng Bình Nhị (tỉnh Gò Công) vẫn tự hào bảo nhau: chính dư ba của trận Rạch Gầm - Soài Mút đại phá giặc Xiêm đã tiếp sức cho dòng sông tuôn ra biển lớn. Những câu chuyện truyền miệng hào hùng ấy đã hun đúc thêm cho những người nông dân xứ này một khí phách kiên cường, trượng nghĩa và trọng lẽ công bằng.

Ở trong làng, điền chủ Trương Đình Cung Anh là một người danh giá, được trọng vọng. Tuy giàu có và có học thức nhưng lòng ông vẫn luôn hướng về phía những người nông dân khốn khổ, luôn sẵn sàng giúp đỡ người nghèo và bênh vực kẻ yếu. Khi đã lớn tuổi, ông là thêm nghề bốc thuốc Nam giúp dân chúng quanh vùng.

Năm 1909, người con trái thứ năm của vị điền chủ hào hiệp này chào đời. Lần đầu tiên nhìn thấy mặt con, điền chủ Trương Đình Cung Anh đã đứng lặng hồi lâu. Trán rộng, nhân trung sâu, mắt sâu mũi khoằm, dáng dong dỏng, đứa bé mang tướng mạo một Kim Thánh Thán, hẳn sau này sẽ chọc trời khuấy nước nhưng có lẽ suốt đời lận đận. Ông đặt tên cho con là Trương Văn Thoại.

Ngày thôi nôi, trước vô số đồ chơi được bày trước mặt, cậu bé đã vồ lấy và nắm rất chắc hai tay hai món: một quản bút, một thanh gươm. Nét mặt vị điền chủ rạng lên nhưng ông vẫn ko ngăn nổi một thoáng rùng mình lo lắng.

Đến tuổi cắp sách, Thoại tỏ ra thông minh, sức học hơn hẳn bạn bè cùng lớp. Nhưng chỉ học hết chương trình Cours Supérieur (lớp Nhất tiểu học, khoảng lớp 5 hiện nay) đủ vốn tiếng Pháp để đọc sách Tây; cậu bé đã bỏ ngang, chuyển sang luyện võ và học thêm chữ Hán.

Thời gian còn lại Trương Văn Thoại vùi đầu vào sách, đọc toàn kiếm hiệp Tàu và tiểu thuyết Tây viết về những tên cướp nghĩa hiệp, từ Robin Hood của A. Dumas đến Carmen của Merimée. Đặc biệt, Trương Văn Thoại cực kỳ say mê nhân vật Bách-xi-ma lái ... "Khúc dồi" phóng như bay đuổi theo Hoàng Ngọc Ẩn đang cưỡi trên ... "Điếu Xì Gà" . Những nhân vật nổi loạn trong sách vở và truyền thống hào sảng, bất khuất của quê hương đã thắp dần lên trong lòng cậu bé một ước mơ cháy bỏng về lẽ công bằng và con đường giúp dân bớt bị bóc lột, hà hiếp. Nhưng giữa khi nước mất, ách đô hộ của thực dân Pháp đè nặng, Thoại chưa đủ sức nhìn thấy con đường sáng, chỉ ngọn lửa tang bồng hồ thủy trong lòng là ngày một cháy rực lên.

Cuối năm 1925, mới hơn 16 tuổi, Trương Văn Thoại đã quyết chí bỏ làng lao theo tiếng gọi giang hồ. Anh thanh niên giàu nghĩa khí đã bỏ ra hơn 6 năm trời lăn lộn khắp các ngọn núi Thị Vải, núi ông Trịnh, núi Mây Tào vùng Long Hải, Bà Rịa theo một Đại lão sư mai danh ẩn tích học võ và học đạo. Năm 1931, vị Đại lão sư viên tịch, Thoại hạ sơn về Sài Gòn, sống lăn lóc cùng giới thợ thuyền khốn khổ. Anh ở trọ trên căn gác gỗ rộng chừng 20m2 của tiệm may Nam Chấn Hưng ở số 2 đường Lefebre (nay là đường Hồ Tùng Mậu, quận 1). Ông Tư Chiêu, chủ tiệm Nam Chấn Hưng vốn là bạn bè của ông Trương Đình Cung Anh, cha Thoại. Ngoài sách vở, tài sản của Thoại chỉ có thêm một chiếc bao kiểu lính thủy bằng vải kaki. Ban ngày trải bao bên lề đường, Thoại hành nghề bán sách. Đêm, chắp thêm hai đoạn dây, bao kaki trở thành chiếc võng nóp cho kẻ giang hồ chợp mắt qua đêm.

Những năm đầu thập kỷ 30, lề đường De la Some (Hàm Nghi) được coi là nơi tập trung của đủ hạng người. Trên nhũng tấm đệm bàng 7 tấc, một dãy thầy bói sắp hàng, kính râm che mắt, bộ bài cáu bẩn xếp ngay ngắn trước mặt. Bên cạnh đám thầy bói là các văn nhân, chủ báo, cũng bày "sản phẩm" của mình trên những vuông chiếu trải cạnh lề đường. Trong số những người bán báo đó, Trương Văn Thoại đặc biệt chú ý đến một người: Ông Nguyễn An Ninh, chủ bút tờ La Cloche Fêlée (Tiếng Chuông zrè) kiêm thủ lĩnh đảng Thanh niên cao vọng, hơn Thoại chẵn 10 tuổi.

Cảm phục ý chí và sự nghiệp của Nguyễn An Ninh, Trương Văn Thoại đã dần dần bước vào nghiệp cầm bút, trở thành một cộng sự đắc lực của tờ La Cloche Fêlée và nhà cách mạng Nguyễn Anh Ninh.Theo chữ Hán, chữ "Thoại" được ghép bởi 3 chữ Sơn, Vương và Nhi. Bút danh Sơn Vương được Thoại khai sinh từ đó. Ngoài ra, Thoại còn ký tên khác là Trương Vạn Năng, tự bộc lộ ý chí và tham vọng của mình.

Chẳng bao lâu, tên tuổi Sơn Vương đã khá nổi danh trong nghề cầm bút. Những bài báo của ông thổi vào công luận một dư âm lạ, đầy màu sắc bình dân và nỗi cảm thông sâu sắc tầng lớp bần cùng.

Khoảng những năm 1932-1933, Sơn Vương Trương Văn Thoại - mới 23 tuổi - đã danh nổi như cồn ở khắp Sài Gòn - Chợ Lớn và vùng lục tỉnh, chủ yếu nhờ những tác phẩm trung thiên tiểu thuyết đăng tải trên báo. Có thể xem Sơn Vương như một người tiên phong có công trong việc cách tân nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Vẫn là tiểu thuyết võ hiệp kỳ tình, song tác phẩm của Sơn Vương đã có sự thay đổi lớn lao về mặt hình thức. Nhân vật tướng cướp nghĩa hiệp cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo của Sơn Vương đã đoạn tuyệt hẳn với thanh gươm lưng ngựa, thay vào đó là các trang công tử lái xe hơi như bay, bắn súng lục bằng cả hai tay và ném tạc đạn ùng oàng. Đáng kể nhất là 3 cuốn: Luật rừng xanh, Chén cơm lạt và Tướng cướp hào hoa.

Rất đông nhà văn, nhà báo thế hệ sau đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của Sơn Vương, cả về khí phách chống cường quyền, áp bức, ủng hộ dân nghèo lẫn lối hành văn bình dân trong sáng và giản dị. Nhưng ít ai biết rằng, tất cả những nhân vật tướng cướp nghĩa hiệp ấy chính là hiện thân của tác giả Sơn Vương. Thay vì tìm tư liệu để viết, Sơn Vương đã tự ... tạo ra tư liệu .

Trong hơn hai năm, từ 1931-1933, Sơn Vương đã đơn thương độc mã, gây ra hàng chục vụ cướp kinh thiên động địa nhăm vào các phú hộ, địa chủ gian ác khắp các vùng từ Đồng Nai đến Sài Gòn, Long An nhưng tung tích vẫn ko hề bị lộ. Người ta chỉ thầm ngưỡng mộ một Sơn Vương - nhà văn - cao gầy dong dỏng nói năng nhỏ nhẹ, thường ngồi trọn buổi sáng bên lề đường với một bộ xá xẩu bằng lụa Tân Châu để bán sách của chính mình.

Giữa năm 1933, Sơn Vương dời địa điểm bán sách sang lề đường Charner (Nguyễn Huệ). Tại đó, ông gặp gỡ và kết nghĩa huynh đệ với một thanh niên tên là Nguyễn Phương Thảo, người sau này nổi danh với cái tên Trung tướng độc nhã Nguyễn Bình - Tư lệnh các lực lương quân sự Nam Bộ những năm đầu cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp (1945-1954).

Nguyễn Phương Thảo thua Sơn Vương 6 tuổi, quê ở Yên Phú, Hưng Yên. 17 tuổi, THảo bỏ dở năm thứ hai trung học xuống Hải Phòng, đáp tàu Pélican của hãng Messagering để "hành phương Nam" lập nghiệp. Vốn khâm phục chất hảo hớn của người Nam bộ, Thảo đã nhanh chóng làm quen và mê sách của Sơn Vương. Được một người thợ cũng chỗ trọ giới thiệu, anh đã nhanh chóng tìm được tác giả cuốn truyện yêu thích. Sơn Vương cũng tỏ ra cảm kích trước ý chí giang hồ của người bạn nhỏ tuổi, đồng thời cũng muốn làm quen với một tính cách Bắc nguyên gốc nên tiếp Thảo khá nhiệt tình. Gặp Thảo, Sơn Vương khen:
- Người phương Bắc mến mộ trời Nam, hai mươi năm sau tất có thêm một tay hảo hớn

Luôn miệng tấm tắc "kỳ ngộ! kỳ ngộ", Sơn Vương bỏ dở buổi bán sách kéo Nguyễn Phương Thảo sang một quán Chệt (quán ăn Tàu) ở đường Colonel Grimaud (Phạm Ngũ Lão) để đãi một chầu hủ tiếu xí quách. Đó là lần đầu tiên trong đời, anh thanh niên Nguyễn Phương Thảo biết đến vị cay của zượu. Nhưng Thảo chỉ uống 3 ly con, phần còn lại một mình Sơn Vương từ từ nốc cạn. 

Mới vào Nam, việc làm chưa có, Nguyễn Phương THảo ngỏ ý nhờ Sơn Vương tìm giúp. Sau một hồi suy tính, Sơn Vương khuyên người bạn vong niên sang Đa Kao mở tiệm 'giặt là' (từ miền Bắc) phục vụ cho đám công chức, thầy thông, thầy ký. Để có thêm vốn cho Thảo mở tiệm, Sơn Vương quyết định đi ... CƯỚP, làm một vụ thật đậm ...Nhưng chọn ai để ...cướp !?
 

IP IP Logged
Hoang Ngoc Hung
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 14/Jun/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 234
Quote Hoang Ngoc Hung Replybullet Gởi ngày: 18/Jul/2007 lúc 6:55am

Từ: haidaihiep (nguyengiathieu.net) - "NGƯỜI CỦA GIANG HỒ - Nguyễn Hồng Lam" - NXB Công An Nhân Dân.

Để xác định con mồi, Sơn Vương đã ôm chiếc bao lính thủy ra góc đường De La Some, chỗ đối diện Nhà băng Đông Dương ngồi bán sách suốt nhiều buổi. Cuối cùng thì một con mồi lớn cũng đã lọt vào tầm ngắm của Sơn Vương. Cứ vào sáng thứ Sáu của tuần đầu tiên mỗi tháng, René Gaillard, Giám đốc hãng cao su Mimot lại cùng một tài xế và một vệ sĩ phóng chiếc Peugeot đến Ngân hàng Đông Dương để lĩnh bạc về phát lương cho công nhân, số tiền mỗi kỳ lên đến 50.000 đồng. Theo tính toán, Sơn Vương quyết định sẽ chặn xe cướp vali tiền khi tên Giám đốc quay trở về. Ông quyết định rủ Nguyễn Phương Thảo đi theo để biểu diễn cho xem, nhưng tuyệt đối lại ko nói một câu với "cậu bé" về kế hoạc đã định.

Đầu tháng 7 năm 1933, vụ cướp đã diễn ra đúng như kế hoạch. Sơn Vương "dụ dỗ" được Năm Đường, tài xế của một chủ Tây tham gia vào cuộc. Lợi dụng ông chủ và vợ con về Pháp nghỉ phép, Năm Đường đã "mượn" chiếc xe Clément Bayard của chủ và thay biển số theo Sơn Vương đi cướp. Xe chở Sơn Vương, Năm Đường và Nguyễn Phương Thảo chạy thẳng theo con đường đất đỏ dẫn về Tân Sơn Nhất (nay là đường CMT8). Đến một chiếc cầu nhỏ ở Bà Quẹo, Năm Đường cho xe quay lại, dừng ngay trên cầu, vờ hư xe lúi húi sửa.

15 phút sau, chiếc Peugeot của René Gaillard đã xuất hiện từ xa, cuốn bụi đỏ bay theo mù trời. Đến nơi, thấy cầu bị kẹt, Gaillard tức tối nhảy xuống la hét om sòm. Sơn Vương đầu đội nón nỉ, mang bộ complet trắng, nhàn nhã như một công tử Bạc Liêu ôn tồn tiến lại, nói bằng tiếng Pháp:
- Xin lỗi ông, xe tôi bị panne, ông chờ cho chút xíu.
Đang bực, Gaillard quát:
- Muốn sửa, đẩy qua chỗ khác!
Quát chưa dứt câu, Gaillard đã trợn mắt, bởi Sơn Vương trả lời rất xấc xược:
- Được thôi, phiền ông lại đẩy đi!
Nhưng hắn chưa kịp chửi thề, một họng súng đen ngòm đã xuất hiện ngay trước mặt, kèm theo là tiếng Sơn Vương quát khẽ:
- Giơ tay lên
Theo phản xạ, cả chủ lẫn tớ trong xe đều giơ tay quá đầu. Điềm nhiên, Sơn Vương tiến lại bên chiếc Peugeot giật lấy cặp tiền vứt vào xe mình co Nguyễn Phương Thảo giữ. Ông còn tước luôn khẩu súng của tên vệ sĩ và quay lại nói với Gaillard mấy câu nhã nhặn:
- Phiền ông Giám đốc cho mượn đỡ một kỳ lương, tôi đang có việc cần xài.
Sơn Vương vừa nói, vừa vứt luôn khẩu súng trên tay vào xe của Gaillard và nhanh chân tót lên chiếc Clement Bayard giục Năm Đường chạy thẳng ... 

Sau vài phút hoàn hồn, Renes Gaillard kịp nhìn lại, mới phát hiện ra rằng khẩu súng mà Sơn Vương "kỷ niệm" chỉ là khẩu súng giả. Cáu tiết, hắn quát tài xế phóng xe đuổi theo. Nhưng tốc độ của chiếc Peugeot cũ kỹ ko thể đua kịp tốc độ của chiếc Clément đời mới, máy rất mạnh. Đuổi đến Hoà Hưng thì địch thủ đã biến mất tăm dạng, Gaillard đành tiu nghỉu quay xe trở lại. Cách đó ko xa lắm, Sơn Vương cũng xách cặp tiền kéo Nguyễn Phương Thảo đang há hốc ngạc nhiên bước xuống, giục Năm Đường đưa xe về rửa và thay biển số. Sơn Vương và Thảo bao nguyên một chiếc xe thổ mộ, giong thẳng về gác trọ phía Sài Gòn (Híc ... Hồi xưa Sài thành cũng có cái gọi là "thổ mộ xe" sao híc ...)

Vụ cướp táo tợn được đồn lan khắp Sài Gòn chỉ sau đúng một ngày. Dân nghèo được một phen hả dạ, bởi kẻ bị trừng trị là một "thằng Tây" khét tiếng tàn ác. Giới lục lâm Sài Gòn - Lục tỉnh cũng thầm khen tác giả của vụ cướp - dù chẳng biết là ai - bạo gan và chơi rất bảnh, khiến tên chủ Tây vừa mất tiền vừa bẽ mặt. Nhưng với Sơn Vương, đó lại là tai hoạ và là vụ cướp cuối cùng trong cuộc đời ngang dọc.

René Gaillard - kẻ bị hại, vốn cũng xuất thân từ một tên cướp khét tiếng của đảo Corse và nước Pháp. Cùng với tên anh ruột là Charlles Gaillard, hắn đã gây ra hàng chục vụ cướp của giết người. Bị kết án chung thân khổ sai, hai anh em hắn đã tìm cách khoét vách ngục La Santé ở Paris và trốn sang Tân Thế Giới, tiếp tục gây tội ác. Được ít lâu, anh em Gaillard lại bị tóm cổ, thụ án khổ sai tại nhà ngục La Cayen - địa ngục trần gian của Pháp tại Nam Mỹ. Ngồi đó chưa ấm chỗ, chúng lại vượt ngục trốn vào Hoa Kỳ. Tại đó, René cùng anh tiến hành đánh cướp một xe chở bạc. Lần này, Charlles Gaillard bị bắn chết ngay tại trận. Còn lại một mình với một đống tiền, René Gaillard trốn sang Đông Dương, dùng một sô tiền ăn cướp được mua cổ phần của đồn điền cao su Terreves Rouges và nghiễm nhiên trở thành Giám đốc hãng cao su Mimot.

Tuy đã giã từ nghề thảo khấu nhưng trong huyết quản Gaillard, máu "đảo Corse" vẫn còn ngùn ngụt. Bị Sơn Vương cướp tiền và bỡn cợt, hắn ko chịu nổi. Gaillard tuyên bố: Thưởng 5000 bạc Đông Dương - một phần mười số tiền bị cướp - cho bất cứ ai tìm ra tung tích thủ phạm. Lúc này, Bazin - tên mật thám khét tiếng tàn ác sau này - đang là một cò tập sự ở bót Catinat. Y xua hết mã tà, lính kín dưới quyền ra sức điều tra, lùng sục, quyết giật cho được món tiền 5000 đồng mà Gaillard đã rêu rao.

Vốn thông minh, cáo già, lại rành tâm lý người Việt, Bazin rất quan tâm đến những chi tiết như nhỏ nhặt. Y nhanh chóng nhận ra rằng, loại xe hơi Clément Bayard, cả Sài Gòn chỉ có ko hơn 10 chiếc. Do đó, y liên tục gọi tài xế và chủ nhân của những chiếc xe hơi loại này lên làm "ăng kết". Bị tra hỏi quá nhiều lần, Năm Đường biết chắc sẽ bị lật tẩy nên hoảng sợ đã ra đầu thú, nộp lại 10000 đồng được chia sau vụ cướp đồng thời khai ra tên Sơn Vương.
Ngày 16/8/1933, Sơn Vương bị bắt (mình nhớ Long Tứ trong Bến Thượng Hải cũng ở tù trong khoảng thời gian này .

Nhận được điện thoại của cò Bazin, tên giang hồ đảo Corse phóng xe tới bót Catinat ngay tức khắc. Được thưởng tiền, Bazin tỏ ra khá biết điều. Y bảo Gaillard:
- Giao nó cho ông một buổi, muốn làm gì thì tùy thích.

Cởi trần, xách roi gân bò vào phòng tra tấn, nơi Sơn Vương đang bị xích hai tay lên trần nhà, Gaillard nhìn đối thủ mảnh khảnh từ chân tay tới đầu và bảo:
- Mày cướp của tao 5 vạn, tao tính rẻ, cứ một ngàn đồng tao lấy lại một roi. Mày tính chịu được mấy roi?
Ko một chút sợ hãi, Sơn Vương cười và trả lời:
- Ông thích bao nhiêu cứ lấy bấy nhiêu. Bao nhiêu tôi cũng chịu, chỉ sợ ông mệt.
Điên tiết, Gaillard xông vào quật liên tiếp lên người Sơn Vương. Chỉ sau 5 roi, chiếc áo lụa của Sơn Vương đã bị xé nát, rách tơi tả. Nhưng Gaillard vẫn ko ngừng tay. Sơn Vương oằn oại gồng người vận khí chịu đòn nhưng ko hề hé răng kêu rên nửa tiếng. Đến roi thứ 16, Gaillard đã quá mệt, mồ hôi vã ra như tắm. Thấy mình mẩy Sơn Vương đã nát bét, máu tuôn ra như suối, nhưng vẫn ko nao núng, Gaillard bèn vứt roi, khen:
- Mày chịu đòn quá giỏi, tao thua. Số roi còn lại, tao cho mày nợ.
Khạc ra một bụm máu, Sơn Vương cười mà miệng sưng vêu, méo xệch:
- Khỏi, ông cứ lấy cho đủ. Nếu thiếu, tôi sẽ đi cướp của những thằng giàu như ông (để trả lại) chứ chẳng cần phải vay nợ ai hết, ông nên đáng tiếp đi, kẻo tiếc. 
Đến đó, René Gaillard chỉ còn biết phục sát đất. Hắn đổi giọng:
- Ông đúng là gan dạ hơn dân đảo Corse. Tôi kính phục ông. Số còn lại, coi như tôi xoá nợ cho ông hết.
Bỏ ra khỏi phòng, Gaillard nói với Bazin:
- Tao ko kiện nữa, thả nó đi.
Bazin ngạc nhiên. Hắn bảo:
- Luật là luật, ông tha nhưng tôi ko tha.
Ko thuyết phục được Bazin, tên giang hồ đảo Corse tỏ ra khá áy náy với Sơn Vương. Hắn lại quay trở vào. Đứng trước mặt Sơn Vương hắn hứa:
- Để tỏ lòng kính trọng ông, ngày mở phiên toà tôi sẽ ko đến dự.
Và hắn đã giữ lời.
Một tháng sau, Sơn Vương bị Toà tiểu hình kết án năm năm khổ sai và bị đày ra Côn Đảo

IP IP Logged
Hoang Ngoc Hung
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 14/Jun/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 234
Quote Hoang Ngoc Hung Replybullet Gởi ngày: 18/Jul/2007 lúc 6:59am

Từ: haidaihiep (nguyengiathieu.net) - "NGƯỜI CỦA GIANG HỒ - Nguyễn Hồng Lam" - NXB Công An Nhân Dân.

Hồi 2: 16 tháng 8 - ngày định mệnh!!!

Đến Côn Đảo, Sơn Vương bị tống vào banh II, buồng giam tù thường án. Vụ cướp táo bạo của Sơn Vương khiến đám thường phạm nể phục dù so với đa số bạn tù, ông ít tuổi hơn nhiều. Lẫn giữa đám đầu trộm đuôi cướp, Sơn Vương nổi trội hơn cả bởi là người có học, thuộc nhiều tích xưa chuyện cũ, lại giỏi tiếng Pháp. Vì vậy, mỗi lần có việc cần đề đạt gì với bọn gác ngục, cả buồng giam đều phải cậy đến Sơn Vương. Sau chưa đầy 1 tháng, Sơn Vương đã được coi như "sếp" buồng giam. Ở các buồng bên cạnh, nhiều chính trị phạm - cả tù Cộng sản lẫn tù Quốc dân Đảng - cũng có nhiều người từng quen biết Sơn Vương trong thời gian viết báo, in sách, đôi người còng tỏ ý ngưỡng mộ. Thấy ông có uy tín với bạn tù, lại nói năng nhỏ nhẹ, cử chỉ đĩnh đạc, bọn gác ngục cũng tỏ ra vì nể.

Cuối năm 1933, giám thị Nguyễn Văn Liễn (Vệ Liễn) quyết định tổ chức một cuộc thi chữ đẹp tại tù Côn Đảo. Kết quả, Sơn Vương giành giải nhất, đẹp hơn cả chữ của các thư ký trên đảo cùng dự thi. Vệ Liễn bèn vận động chúa đảo cho ông ra làm thư ký giúp việc tại Ty Ngân khố của tỉnh đảo Côn Lôn. Kể từ đó, Sơn Vương ko phải ngồi xà lim và làm khổ sai nữa. Ban ngày ông lo ghi chép giấy tờ ở Ty Ngân khố, buổi tối dạy bé Nguyễn Thị Kim Hoa, 9 tuổi, con gái Vệ Liễn học đến 9 giờ đêm. Sau đó, ông được cắp chiếu về ngủ cùng chỗ với các nhân viên của Ty Ngân khố.

Lúc mới ra đảo, ngoài Nguyễn An Ninh, Sơn Vương tỏ ra ngưỡng mộ các tù chính trị Quốc dân Đảng. Máu giang hồ của ông bị mê hoặc bởi gương trung liệt của Nguyễn Thái Học, và một số chiến công của Đảng này. Nhưng dù ở tù, những người Quốc dân Đảng vẫn thẳng tay khủng bố những người bất đồng chính kiến với họ trong đường lối đấu tranh cách mạng. Trước mắt Sơn Vương, Quốc dân Đảng đã tiến hành một số vụ ám sát, khủng bố ngay tại Côn Đảo chủ yếu nhắm vào tù Cộng sản. Trong khi đó, những người tù Cộng sản, dù rất căm giận vẫn ko hề tìm cách tra đũa. Ngược lại, họ vẫn đoàn kết, nhất trí, luôn tìm cách hòa giả những mối bất đồng, cố hàn gắn mối đoàn kết giữa tù Cộng sản và tù Quốc dân Đảng. Thần tượng cũ sụp đổ, lòng ngưỡng mộ của Sơn Vương dần dành hết cho số tù là Đảng viên Cộng sản. Lợi dụng công việc ở Ty Ngân khố, ông thường tìm cách chuyển giấy, mực vào và giúp những người Cộng sản liên lạc với nhau.

Năm 1936, nền chính trị nước Pháp biến động mạnh. Nội các Léon Blum và phong trào Mặt trận bình dân lên nắm chính quyền, tiến hành hàng loạt cải cách dân chủ ở Đông Dương, trong đó có cả việc đặc xá tù chính trị. Tháng 7/1936, một số tù nhân ở Côn Đảo được phóng thích. Sơn Vương cũng được xét trả về đất liền, tiếp tục thụ hình tại Hà Tiên.

Cạnh nhà tù ở Hà Tiên có một bungalow (nhà gỗ 1 tầng) dành cho các ông Tây bà đầm nghĩ mát. một hôm, tên Giám đốc bungalow người Pháp bị mất 200 đồng. Nghi cho một anh bồi người Việt lấy cắp, hắn đã tự tay tra khảo anh dã man. Anh bồi ko nhận bị tên Giám đốc tàn ác đã đốt đèn cầy và nhỏ sáp nóng vào mũi. Anh bồi chết ([EM'] dân VN mà nó làm như gà... [EM nó] ... gõ tới đây thấy sôi gan quá :cry ) ..., dân chúng kéo nhau biểu tình. Trong tù, Sơn Vương đã hô hào tù nhân đập phá khám và la ó dữ dội để ủng hộ. Vì vậy, chủ tỉnh Hà Tiên đã quyết định đày Sơn Vương ra đảo Phú Quốc
Tội ác của thực dân Pháp đi đâu cũng gặp, tên Tây Đoan (quan thuế) kiêm quận trưởng Phú Quốc đã nhiều lần tác oai tác quái ức hiếp dân trên đảo. Biết chuyện, Sơn Vương đã âm thầm thu nhập tài liệu và viết bài, bí mật gửi về cho một số tờ báo ở Sài Gòn . Các báo cử người ra điều tra và đăng bài lên án mạnh mẽ. Tên Tây Đoan khát máu bị đuổi đi nơi khác. Tháng 2/1938, trùng ngày trùng tháng với ngày bị bắt, Sơn Vương được thả ...
Nhưng .....

Hình như định mệnh đã trói chặt cuộc đời Sơn Vương với ngày 16/8. Đúng một năm sau, ngày 16/8/1939, Sơn Vương lại bị tống vào tù (à à ... pha này thì hơi khác Long Tứ ... Shanghai lúc này đã thuộc về Long Tứ). Lần này ông bị bắt vì một lý do hết sức quái gở. Tại ghi-sê bán vé của một rạp chiếu bóng ở Chợ Lớn, Sơn Vương bị một gã người Việt hung hăng đạp giày đau điếng. Ông đẩy hắn ra, tên này lập tức nhảy vào đánh Sơn Vương. Cáu tiết, ông xô mạnh, tên gây sự bật ngửa ra sau ngã chỏng gọng. Rất kô may, kẻ gây sự lại là ... sếp mật thám của bót Polo (Chợ Lớn). Bẽ mặt, hắn móc ngày tu huýt cho lên miệng thổi một hồi. Mã tà, lính kín lập tức bu lại, còng Sơn Vương dẫn về.

Xuất thân từ một võ sĩ đấm boxe (quyền Anh) có hạng, tên phó cò bót Polo cũng hung hăng kô kém gì sếp chánh. Bất cứ ai mới bị bắt, hắn cũng đòi phải ... cạch tay đôi . Thông thường, cuộc đấu chỉ dừng lại khi kẻ mới vào đã máu me bê bết và bất tỉnh nhân sự ... . Vì vậy, người ta gọi hắn bằng biệt danh Cọp Lửa.
Thấy Sơn Vương mảnh khảnh nhưng có vẻ ngang tàng, Cọp Lửa hất hàm hỏi cộc lốc:
- Biết võ kô?
Sơn Vương cũng đáp cộc lốc:
- Chịu đòn được.
Cọp Lửa đòi đấu. Sơn Vương nhã nhặn từ chối:
- Đây là bót cò, đâu phải sàn boxe ở hội chợ? Nếu ông cò muốn, tôi đứng cho ông đấm. Tên cò tức lắm, xông vào ngay. Sơn Vương kô đánh trả, chỉ xuống tấn vạn nội công chịu đòn. Đấm liên tục 10 phút, Sơn Vương vẫn kô nhúc nhích, Cọp Lửa đành ôm hai tay buốt nhức lỉnh sang chỗ khác.

Ra toà, Sơn Vương bị kết tội du đãng, bị đưa đi giam giữ tại Căng Pursat (Campuchia). Nhờ giỏi ăn nói, Sơn Vương xin được một lưỡi cưa, cưa còn và trốn qua Thái Lan. Kô lâu sau, ông lại bị bắt khi tìm cách về lại Sài Gòn . Lần này ông bị kết án 10 năm tù vì tội vượt ngục, bị tống vào phòng 17 bót Catinat, nơi đặt máy chém . Đầu năm 1942, ông bị đày ra Côn Đảo lần thứ hai.

IP IP Logged
Hoang Ngoc Hung
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 14/Jun/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 234
Quote Hoang Ngoc Hung Replybullet Gởi ngày: 18/Jul/2007 lúc 7:00am

Từ: haidaihiep (nguyengiathieu.net) - "NGƯỜI CỦA GIANG HỒ - Nguyễn Hồng Lam" - NXB Công An Nhân Dân.

Hồi 3: Những năm sôi động

Giai đoạn 1942-1946, quần đảo - nhà tù Côn Lôn xảy ra rất nhiều biến động. Đặc biệt, quyền cai trị liên tục bị thay đổi. Tháng 9/1942, phát xít Nhật đã cho quân đổ bộ lên đảo lần đàu tiên, nhưng chúng chỉ ở lại ít hôm rồi rút. Ba năm sau, ngày 6/2/1945, tàu chiến Nhật đã chĩa đại bác vào quần đảo, yểm trợ cho một trung đội vũ trang đoor bộ lên, bất chấp sự phản đối của bọn Pháp trên đảo

Đám lính Nhật đoor bộ tiến hành ngay việc khống chế đàu vô tuyến điện và tịch thu toàn bộ radio của bọn Pháp, ra sức tìm cách tiếp xúc với tù nhân, tiếp tế, cung cấp thông tin và truyền bá thuyết Đại Đông Á cho đám chính trị phạm thân Nhật. Kô dám công khai ngăn cản lính Nhật, lính Pháp đã tìm cách di chuyển nơi làm việc của đám tù thân Nhật, ngăn kô cho những cuộc tiếp xúc diễn ra. Bị chúng thẳng tay khủng bố, đánh đập dã man, những tù nhân thân Nhật đã bóng gió bắn tin đe dọa bọn giám thị người Pháp, đồng thời ấm ức chờ gió đổi chiều để có cơ hội tra thù.

Sáng ngày 9/3/1945, thêm hai tàu tuần duyên Nhật từ từ tiến vào Côn Đảo. Mặc cho đám lính Pháp ngơ ngác, bọn Nhật đã ngang nhiên chất lên bờ một số thiết bị, khí tài chiến tranh. Xong việc, hai chiếc tàu tuần duyên kô những kô rút lui, lại còng kê tất cả nòng pháo hướng thẳng vào đất liền. Đánh hơi thấy chuyện chẳng lành, đích thân Tyssery, Giám đốc Nhà tù Côn Đảo đã đến trại Nhật, yêu cầu được giải thích. Tên sĩ quan chỉ huy Nhật Bản ngang nhiên trả lời:
- Chúng tôi đưa hàng lên đẻ lắp đặt một trạm vô tuyến. 
Đồng thời hắn ra lệnh:
- Mời ông Tysserry ở lại.
Thực chất bọn Nhật muốn giam lỏng Tyssery ko cho quay về. Ngay đêm đó, kô tốn một phát đạn, Nhật đã tước hết toàn bộ vũ khí của lính Pháp, chiếm giữ trại lính, dinh giám đốc, đài vô tuyến và toàn bộ vị trí phòng thủ trên đảo. Bốn ngày sau, Giám đốc Tyssery và viên đại úy chỉ huy lính Pháp ở Côn Lôn được tàu chiến Nhật đưa về đất liền. Quyền cai quản nhà tù, Nhật giao cho phó giám thị Hilaire đồng thời giữ nguyên bộ máy giám thị Pháp - Việt như cũ.

Chỉ sau đó ít hôm, máy bay đồng minh đã tiến hành nhiều đợt oanh kích Côn Đảo. Bom đạn Mỹ đã đánh sập Hải đăng hòn Bảy Cạnh, Nhà đèn, Sở lưới và một số cơ sở sản xuất trên đảo, giết chết hàng chục tù nhân đang lao động ở các khu vực này. Một số tù nhân đã lợi dụng lúc tình hình nhốn nháo, thoát ra khoẻi vòng rào trại giam. Đám tù thân Nhật trong trại cũng bắt đầu trỗi lên phá phách, gây yêu sách.

Đòi hỏi của chúng đã được bọn Nhật đáp ứng bằng một hành động mị dân: trao quyền chuá đảo cho Lê Văn Trà - nguyên thư ký của Tyssery, đồng thời tiến hành cái gọi là "lễ trao tra độc lập" và biến quần đảo Côn Lôn (tiếng Pháp: Poulo Condore) thành cái gọi là "Quốc gia tự do Nông dân huynh đệ quần đảo Côn Lôn (Etat libre agricole et fratemel d' Archipel de Poulo Condore)". Trong buổi lễ, Lê Văn Trà đã kô tiếc lời ca ngợi công lao của quân đội Thiên Hoàng và Thống đốc Minoda.Sau đó, Trà đã công bố đạo dụ của Chính phủ Trần Trọng Kim về việc các chính trị phạm kể từ ngày này được Chính phủ Việt Nam trả lại tự do và được coi như mọi người khác trong nước. Nhưng thực chất, chỉ có 150 tù thân Nhật là được đi lại tự do và được phóng thích sau hai tuần. Những người khác, ngay sau buổi mít tinh đã bị xua trở lại, lại vào khám, tiếp tục bị giam giữ như cũ.

Ngay sau khi thoát cũi sổ lồng, bọn tù thân Nhật đã đi ngay vào cuộc trả thù những cai ngục Pháp - Việt. Chúng cũng thừa cơ hội khủng bố, hành hạ một số tù nhân Cộng sản (???), tù thường phạm dám công khai phản đối chúng. Để ủng hộ tù Cộng sản, Sơn Vương đã đứng ra vận động một số thường phạm, công khai âm mưu của bọ tù thân Nhật, đồng thời vạch mặt tuyên bố nếu đám này còn có hành động quá khích, họ sẽ đứng ra chống lại.

Giỏi ăn nói và có uy tín, Sơn Vương đã được khá đông thường phạm có lương tri ủng hộ. Do đó, bọn tù thân Nhật cũng chùn tay, kô dám đối xử tàn ác với những bạn tù khác. Mũi nhọn khủng bố của chúng dồn hẳn sang hươ'ng đám cai ngục cũ. Một số gác ngục hung hãn hồi trước như Toustou, Lantali, đã bị đánh trọng thương, phải vào nhà thương Côn Đảo điều trị. Sau này được những người Cộng sản kiên trì thuyết phục, kô ít người trong số họ đã ngả sang chủ trương liên minh giữa những người Cộng sản và các lực lượng dân chủ, tiến bộ chống phát xít, bình tỉnh đổi phó với các hành động khiêu khích của đám tù thân Nhật đang được chính quyền bù nhìn dung túng.

Thấy uy tín của khối Đại Đông Á đang bị rơi rụng dần, bọn Nhật trên đảo và chính quyền Le Văn Trà bèn tìm cách đối phó bằng cách thực hiện một số cải cách dân chủ. 8 chiếc ghe bầu được gửi từ đát liền ra đẻ rước đám tù thân Nhật thuộc các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Thiên Chúa giáo, Phật giáo về. Trên đảo, Trà cho mở lại trường tiểu học và ra tờ báo : "Tiếng nói tự do". Sợ tù Cộng sản sẽ biến tờ báo thành diễn đàn chống phát xít, Lê Văn Trà đã giao cho Sơn Vương phụ trách. Sau khi nhận chức chủ bút, Sơn Vương đã được đi lại khá tự do. Lấy lý do đảo đã được tự do, tù nhân cần và được quyền biết tin tức, Sơn Vương đã thuyết phục được Lê Văn Trà cho tù nhân được sửa lại một chiếc radio hỏng. Dù không muốn, song Lê Văn Trà cũng kô thể phản đối.

Dưới sự chỉ huy của Tôn Đức Thắng - người lính thợ nổi tiếng từng kéo cờ phản chiến trên biển Hắc Hải trong chiến tranh Thế giới lần I - một tốp thợ tù đã sửa chữa xong chiếc radio, sau đó sửa luôn được một chiếc cano hỏng. Qua sóng radio, tin CMT8 đã thành công, Chủ tịc ************ đọc tuyên ngôn độc lập đã khiến cả đảo hồ hởi reo mừng. Bọn gác ngục và bọn thân Nhật bắt đầu co vòi lại kô dám lộng hành.

Tối ngày 16/9/1945, tàu Phú Quốc và 32 ghe bầu chở theo 10 tấn gạo tiếp tế của CM đã cặp bến Cỏ Ống. Rạng sáng hôm sau, cờ đỏ sao vàng đã phất phới bay rực cầu tàu Côn Đảo. Tham tá Lê Văn Trà nộp con dấu của nhà tù cho chính quyền CM.

Sau một tuần lễ sửa chữa, đoàn tàu, thuyền lại quay mũi ra khơi. 1800 chính trị phạm được giải thoát đưa về đất liền. Đến đầu tháng 12/1945, Ủy ban hành chính Nam Bộ lại gửi một đoàn ghe ra Côn Đảo rước tù do đồng chí Văn Cừ làm trưởng đoàn. Ngày 11/12/1945, dưới sực chứng kiến của phái đoàn Văn Cừ, Lê Văn Trà đã đứng ra tổ chức một cuộc bầu cử dân chủ trên đảo. 12 người trong đó có sáu giám thị sáu tù nhân đã được bầu vào bộ máy chính quyền mới. Ngày 15/12, Ủy ban hành chính mới của Côn Đảo chính thức được công bố, Sơn Vương Trương Văn Thoại chính thức trở thành Chủ tịch Ủy ban.

Ở cương vị mới mẻ này Sơn Vương tỏ ra là một vị chủ tịch năng nổ và có khả năng lãnh đạo. Ngay sau khi nhậm chức, Sơn Vương đã sốt sắng bắt tay ngay vào việc tổ chức lại sản xuất, từ thu họac lúa, đánh bắt hải sản đến khai thác củi, đá, làm vệ sinh ... Ông đã đề ra một số biện pháp khuyến khích lao động như chia một phần thành quả cho người làm ra sản phẩm. Mặt khác, việc lao động sản xuất dưới thời Sơn Vương lãnh đạo được coi như là bắt buộc, cả các thành viên Ủy ban lẫn các công chức, giám thị cũ cũng phải trực tiếp tham gia. Ông cũng tỏ ra kịp thời và chính xác khi xác định những việc cần làm cấp bách, giao đúng người đúng việc, từ tổ chức một tổ y tế vào núi tìm thuốc trị bệnh đến việc xuất tòan bộ vải vụn trong kho giao cho tổ phụ nữ may quần áo cộc cấp tốc để phát cho một số tù nhân thiếu thốn.

Giai đoạn đầu, uy tín của Sơn Vương khá cao. Khi phái đoàn Văn Cừ đón tù về đất liền ông đã đồng ý ở lại, tiếp tục cùng chính quyền mới khôi phục cuộc sống và trật tự của đảo, dù trong lòng rất nôn nao mong được trở lại đất liền. Ngoài tinh thần trách nhiệm, việc đồng ý ở lại Côn Đảo của Sơn Vương có một phần níu kéo của một lý do khác, đó là tình yêu. Người tạo ra sức hút mãnh liệt ấy là Lệ Hoa tức Nguyễn Thị Kim Hoa, con gái của Vệ Liễn và là cô học trò nhỏ tại đảo của Sơn Vương từ hơn 10 năm trước
.

IP IP Logged
Hoang Ngoc Hung
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 14/Jun/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 234
Quote Hoang Ngoc Hung Replybullet Gởi ngày: 18/Jul/2007 lúc 7:02am

Từ: haidaihiep (nguyengiathieu.net) - "NGƯỜI CỦA GIANG HỒ - Nguyễn Hồng Lam" - NXB Công An Nhân Dân.

Khi Sơn Vương bị đày ra Côn Đảo lần thứ 2 (1942), cô bé học trò 9 tuổi ngày xưa đã trở thành một thiếu nữ 18 tuổi, đẹp rực rỡ, được coi như hoa khôi của Côn Đảo. Có học thức, thích thơ ca, đặc biệt là ngâm vịnh Kiều, Lệ Hoa tỏ ra cảm phục tài năng của huyền thoại Sơn Vương. Lúc này Lệ Hoa cũng đang là một cô giáo tiểu học trên đảo. Cô thường bí mật đem những thắc mắc trong sách vở nhờ Sơn Vương giải thích giúp. Là người có chữ, từng đọc nhiều sách chữ Hán, đối với Sơn Vương, Lệ Hoa hội đủ cả tám tiêu chuẩn của một mỹ nhân  với :
- "Hoa diện" (mặt tươi như hoa)
- "Nguyệt thần" (thần thái trong sáng như ánh trăng)
- "Điểu thanh ngôn" (tiếng nói trong trẻo như chim hót)
- "Liễu thái (dáng dấp mềm mại như nhành liễu)
- "Băng tuyết bì" (da trắng như tuyết)
- "Ngọc cốt" (tinh thần kiên định như ngọc)
- "Thu thủy tư (tâm hồn tĩnh lặng như nước hồ thu) 
- "Thi thư tiên (có học thức, coi trọng chữ nghĩa)


Khi phụ trách tờ Tiếng nói tự do, Sơn Vương lại sáng tác một bài thơ dài có tựa "Vịnh Hai Bà Trưng" để thổ lộ lòng mình với Lệ Hoa. Sợ chưa đủ cho người đẹp hiểu thấu tâm tình, ông lại bỏ ra cả ngày trời, dùng chiếc bút máy hiệu Kaolo mang từ đất liền ra tỉ mẩ chép bài thơ dài hơn 400 chữ này lên mặt sau của vỏ một bao diêm và gửi cho Lệ Hoa. Quả nhiên, bức thư tình đọc bằng ... kính lúp độc đáo ấy đã khiến trái tim cô hoa khôi chao đảo. Vài ngày sau, cô học trò xưa đã trả lời thầy giáo cũ bằng hai hàng chữ nắn nót:

Sa trương chí nhượng tài trai
Phòng xuân trỗi gót dăm ngoài có em



Tình cảm đã trở nên sâu đậm, nhưng vẫn đang là một người tù, nên Sơn Vương đành nén lại, chờ đợi. Cuối cùng, ông cũng đã tìm được thời điểm. Khi trở thành Chủ tịch Ủy ban hành chính Côn Đảo, Sơn Vương lập tức chỉ định ngay Lệ Hoa làm Hội trưởng Hội Phụ nữ của đảo. Từ đây, người tù đã có thể công khai trò chuyện với người yêu mà kô sợ sự ngăn cấm của ông bố Vệ Liễn - người gác ngục ...

(... đúng là :
Thu thủy đào nguyên thùy tri vị
Anh hùng nan quá mỹ nhân quan
   

IP IP Logged
Hoang Ngoc Hung
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 14/Jun/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 234
Quote Hoang Ngoc Hung Replybullet Gởi ngày: 18/Jul/2007 lúc 7:03am

haidaihiep

Hồi 4: ĐẢO QUỐC CÔN LÔN và


Công bằng mà nói, trong thời gian nắm quyền lãnh đạo quần đảo Côn Lôn, Sơn Vương đã làm được khá nhiều điều tốt đẹp, góp phần ổn định cuộc sống và giữ gìn an ninh trật tự trên đảo. Nhưng đó là chỉ giai đoạn đầu, khi những người Cộng sản còn có mặt . Ngay sau khi khi phái đoàn Văn Cừ trở về đất liền, kô còn ai kiềm giữ, bản chất anh hùng cá nhân trong con người Sơn Vương lại bộc lộ.

Đầu tiên, Sơn Vương cho sửa sang lại phần mộ của nhà Cách mạng Nguyễn Anh Ninh và tổ chức một lễ tế ká rình rang. Trước bàn thờ mới lập, khói hương nghi ngút, Sơn Vương tuyên bố:
- Từ nay, quần đảo Côn Lôn chính thức trở thành "quốc gia trung lập dân chúng quần đảo An Ninh" (Etat neutre des Insulaire de L' Archipel d' An Ninh)

Đồng thời, ông tự xưng là ... Quốc vương của "quốc gia" mới lập. Không ít người trên đảo tỏ ý kô phục, Sơn Vương tìm cách giải thích bằng cách tung ra luận điệu:
- Tên tôi là Sơn Vương, có nghĩa là "Vương" của đảo Côn Sơn, mệnh ấy do trời định 
Giải thích xong, Sơn Vương tuyên bố:
- Bất cứ ai chống lại mệnh trừoi người đó sẽ bị trừng trị.
Chưa hết, dù các ban bệ trên đảo đều được thành lập bằng con đường bầu cử, nhưng Sơn Vương vẫn cố tình biến nó thành một thứ triều đình. Mỗi một buổi họp, Sơn Vương chễm chệ trên chiếc ghế bành kê ở thềm cao, bá quan văn võ xếp hai hàng ngồi thấp phía dưới. Trước khi muốn báo cáo, mọi người đều phải tiến ra giữa hai hàng người chấp tay trước mặt Sơn Vương và mở bằng câu "Thưa thủ lãnh ..."

Sau ngày 15/12/1945, kô còn người tù chính trị nào ở lại, cả đảo chỉ còn lại toàng thường phạm cũ, cho nên triều đình phường tuồng của Sơn Vương kô bị ai phản đối. Nhưng, đám lưu manh cũng nhân cơ hội đó ngóc đầu dậy, hành hung sách nhiễu dân chúng trên đảo. Cảnh sát trưởng Nguyễn Thành Út vốn xuất thân là một tên du thủ du thực, bị kết án 10 năm khổ sai, đã nhiều làn ngang nhiên vào nà dân giở trò cướp bóc, trêu ghẹo phụ nữ. Biết chuyện, thay vì đưa Út ra kỷ luật công minh, Sơn Vương lại có cách xử sự quái chiêu và đẫm chất giang hồ. Trước văn võ bá quan, ông thẳng tay giáng cho Nguyễn Thành Út một tát tai và nsm ra lời thách thức:
- Tôi với anh giao đấu tay đôi. Nếu thắng, anh muốn làm gì mặc sức. Nếu thua, tôi sẽ chặt một cánh tay để anh khỏi làm bậy.  Làm mình nhớ tới đoạn trong Bến Thượng Hải ... Xung Thiên Báo Từ Đại Sơn thách đấu bài với Long Tứ : "Nếu tôi thắng mạng của anh thuộc về tôi nếu anh thắng mạng của tôi thuộc về anh ... đánh 5 ván, 3 thắng !!!" 

Tự lượng sức ko thắng nổi Sơn Vương, Nguỹen Thành Út đã dập đầu lạy như tế sao, xin Sơn Vương tha tội. Từ đó, nạn cướp bóc, sách nhiễu dân chúng mới lắng xuống.

Trở thành "quốc vương" của quần đảo, Sơn Vương bắt đầu nghĩ đến việc thực hiện giất mơ của ông: cưới Lệ Hoa làm vợ ...
...
Tình thâm của Sơn Vương, con gái người gác ngục ko từ chối. Nhưng Vệ Liễn, cha cô thì vẫn khăng khăng cự tuyệt, ko chịu gã con gái cho "tên tù kẻ cướp". Thuyết phục mãi kô được, Sơn Vương đành phải lập kế. Ông cho hàng loạt đàn em thảo đơn tố cáo tội ác của giám thị Nguyễn Văn Liễn đối với tù nhân của chế độ trước. Lá đơn tố cáo với hàng chục chữ ký được đệ trình lên cho "quốc vương" yêu cầu minh xét. Nắm cớ, Sơn Vương sai Cảnh sát trưởng Nguyễn Thành Út bắt Vệ Liễn tống giam để "điều tra"

Cha bị bắt, Lệ Hoa hoảng sợ, vào gặp Sơn Vương khóc lóc năn nỉ xin thay cha chuộc tội Chỉ đợi đến đó, Sơn Vương liền sai  một tay Hội đồng dân biểu là Nguyễn Văn Đây (Hai Đây) vào khám gặp Vệ Liễn. Hai Đây vạch cho viên cựu giám thị rõ:
- Ông chỉ còn một con đường, gả cô Lệ Hoa cho Sơn Vương, nếu kô sẽ tử. Nếu gả con gái, ông nghiễm nhiên đã là nhạc phụ của chúa đảo, tất nhiên kô ai dám đụng đến ông, mọi tội lỗi xưa coi như xoá sạch.

Vệ Liễn suy nghĩ hồi lâu, sau đó xin được gặp con gái và đem toàn bộ thiệt hơn hỏi ý Lệ Hoa. Dù trong lòng cờ mở trống giong  nhưng Lệ Hoa cũng vờ tỏ ra miễn cưỡng khi gật đầu, ko quên kèm theo lệ chảy hai hàng. Cô muốn tỏ rõ một sự hy sinh đành nhận lời bán mình chuộc cha cho thật giống Thúy Kiều, dù trong tim cô kô còn mơ ước nào lớn hơn là được làm vợ Sơn Vương.
Ngày 28/2/1946, đám cưới của Sơn Vương - Lệ Hoa được tổ chức. Lúc này trên đảo còn lại 200 bao gạo, một phần ba trong đó đã mục nát. Sơn Vương cho xuất một phần số gạo mục này ra xay bột làm bánh hỏi, bún, bánh bò rễ tre, nấu rượu và cho bắt heo quay là tiệc đãi khách. Để xứng đáng với địa vị một quốc vương, ông sai người dọn dẹp quét vôi trang trí lại ngôi nhà của chúa đải Hilaire để làm tổ ấm hạnh phúc đón dâu. Chiếc xe Jêp của chúa đảo cũng được sơn lại và kết hoa để làm xe rước dâu. Xe hoa chở cô dâu chú rể chạy lòng vòng khắp đảo suốt cả buổi sáng. Trẻ con trên đảo chạy theo la hét inh ỏi. Trên xe, Sơn Vương liên tục vẫy tay chào đám "thần dân". Đến tận sáng hôm sau, mọi người vẫn tha hồ ăn uống và nhảy múa. Có lẽ, đây là đám cưới lớn nhất có một không hai Côn Đảo.
...
...
Pháp tái chiếm Nam Kỳ, chiến tranh quay trở lại ...Côn Đảo bị cô lập và viễn cảnh bị Pháp tái chiếm đã kô còn xa xôi nữa ...
...
...
...ngày 25/3/1946, Sơn Vương đã tập trung dân chúng để nghe ông đọc một bài diễn văn xin nhường quyền cai trị lại cho những người Pháp trên đảo. Nhưng, những người Pháp có mặt đã kô nhận. Ông lại phái thêm 3 người về đất liền đi sứ, yêu cầu Pháp tiếp tế lương thực cho Côn Lôn, đồng thời xin cho mình một bộ đồ, 1 súng lục, 1 nón nỉ và 1 xe đạp. Giấc mơ "định bá đồ vương" trong tuyệt vọng đã teo lại thành vài món đồ vặt vãnh, song Sơn Vương cũng kô được toại nguỵên. Thay vì trả lời, quân Pháp đã tống giam 3 sứ giả của Sơn Vương vào bót Catinat và phái tàu ra tái chiếm Côn Đảo.


Ngày 8/4/1946, đại úy Gimbẻt chỉ huy ba chiến hạm chở 2 đại đội lính hỗn hợp gồm cả Pháp, Âu - Phi và lính bản xứ tiến vào Côn Đảo theo đường Bãi Nhà Thờ. Mờ sáng, nghe đại bác Pháp bắn lên bãi để dọn đường, Sơn Vương đã dẫn toàn bộ "triều đình" chờ sẵn ở bậc thềm trụ sở để nghênh tiếp. Nhưng, ông kô còn đủ thời gian để đọc bài diễn văn cuối cùng của đời mình. Theo lệnh của Gimbert, Sơn Vương và toàn bộ tù thường phạm còn lại (gồm 400 người) đã bị tống giam ngay tức khắc. Riêng Lệ Hoa và gia đình cô, Pháp vẫn cho tự do ở trên đảo.


Khi 3 chiến hạm Pháp vừa tiến vào Bãi Nhà Thờ, một tên Việt gian là Đinh Công Thành đã bí mật lẻn ra Sở Muối cung cấp tin tức và dẫn đường cho quân Pháp đổ bộ. Sơn Vương bị tống ngục, tên Thành mượn gió bỏ măng, đứng ra tố cáo ông là phần tử nguy hiểm, cần phải canh gác cẩn thận. Vì vậy, Sơn Vương bị quân tái chiếm đối xử hết sức tàn tệ, suýt nữa bị đem ra hành hình tại chỗ. Nhờ có Lệ Hoa và giám thị Toustou đứng ra xin giúp, ông mới tránh được cái chết đã kề gang tấc 

Vào tù, Sơn Vương lại gặp thêm một đại nạn. Bị tát tai sỉ nhục dạo trước, tên lưu manh Nguyễn Thành Út nung nấu chờ cơ hội trả thù ... ...Hắn đã kô ngần ngại bịa ra chuyện Sơn Vương đang giữ bản đồ kho báu của Gia Long giấu lại trên đảo khi chạy trốn quân Tây Sơn năm 1783 . Tưởng thật, chúa đảo Gimbert và tên cò Pellier đã tra tấn Sơn Vương hết sức dã man để bắt ông khai nơi giấu bản đồ. Bị đánh đập quá đau, Sơn Vương đành nhận bừa là có kho báu và vẽ lại một tấm bản đồ ma. Vì tội đó ông lại bị thêm hàng chục trận đòn dã man khác. 

Năm 1947, Sơn Vương bị điệu về Sài Gòn đê? hầu toà. Với hai tội danh mới là cưỡng hôn Lệ Hoa và chủ mưu giết ông già Quýt (trong men say trong ngày sau lễ cưới Sơn Vương đã sai đệ SÁT ông già Quýt bởi vì ông tố cáo Sơn Vương dùng quyền ép hôn Lệ Hoa & lãng phí) ... Sơn Vương bị án tù chung thân khổ sai.  Sau đó, ông bị đưa ra lại Côn Đảo để thi hành án, trở thành tù nhân mang thẻ số 313C, giam tại hầm số 8, khu biệt lập lao 2. Vào tù, ông viết thư cho vợ Vệ Liễn (mẹ vợ Sơn Vương), yêu cầu bà thuyết phục chồng mình về Sài Gòn làm việc để Lệ Hoa có cơ hội tái giá, và quên hẳn mình đi.

6 tháng sau, Sơn Vương nhận được thư, một số nhu yếu phẩm và 2000 đồng do Lệ Hoa gửi người quen cầm vào. Sau đó, chim trời cá nước, cản hai bặt tin nhau cho đến tận cuối đời ...

Sáu năm sau, ngày 8/8/1953, trong một buổi được ra ngoài lao động, Sơn Vương đã bất ngờ chạm trán với Nguyễn Thành Út, kẻ đã vu oan giá họa cho ông trong chuyên "kho vàng". Lúc này, Út đã được bọn gác ngục cho làm "cặp rằng" để hành hạ tù nhân. Máu hận thù sôi lên đẩy Sơn Vương xông tới. Nắm chặt cổ áo tên chó săn đã vu oan giá hoạ cho mình, Sơn Vương bảo:
- Mày là con chó kô đáng sống. Nhưng nếu bây giờ tao giết mày, người ta lại bảo là tao trả thù kô quân tử. Thôi thì tao cho mày cơ hội cuối cùng, mày với tao quyết đấu. Muốn chơi bằng thứ vũ khí gì, mày hãy chọn đi. 

Kô còn đường trốn tránh, Sơn Vương vừa quay lưng, Nguyễn Thành Út đã vớ ngày một khúc cây, từ phía sau nhắm thẳng đầu ông bổ xuống. Cú đánh lén kô đạt mục đích. Chỉ một cú xoay người Sơn Vương đã tước được vũ khí của tên lưu mạnh mạt hạng. Thuận tay, ông giáng cho hắn một gậy nằm quay đơ. Vốn căm ghét tên "cặp rằng" tàn ác, các tù nhân đã kô can thiệp để mặc cho Sơn Vương đập nát thây Nguyễn Thành Út...

Vì tội mới, Sơn Vương lại phải nhận thêm một án chung thân khổ sai nữa. Theo quy định án chung thân hồi đó được tính là 32 năm. Tổng cộng, đời Sơn Vương đã 4 lần nhận án gồm 1 lần 5 năm, 1 lần 10 năm và 2 án chung thân khổ sai (32 năm). Tính tổng cộng, ông phải nhận mức án những 79 năm tù ...

Mãi cho đến năm 1968, sau đúng 34 năm ngồi tù (từ 1933), Sơn Vương mới được ân xá. Trước đó, năm 1967, tờ Tin Sáng và một số tờ báo đối lập ở Sài Gòn đã liên tục đăng bài điều tra về chế độ hà khắc, phát xít của nhà tù Côn Đảo. Cũng trong năm này, liên minh Thiệu - Kỳ đã đắc cử Tổng thống & Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hoà. Để mị dân, Thiệu - Kỳ hứa sẽ tìm hiểu và cải thiện điều kiện sinh hoạt ở Côn Đảo. Biết Sơn Vương ngày xưa từng là một nhân vật khác có tiếng tăm, trong khi hiện tại gần 60 tuổi, đã sức tàn lực kiệt, kô còn khả năng gây nguy hại cho bộ máy quyền lực Việt Nam Cộng Hoà, Thiệu - Kỳ quyết định giả thoát cho Sơn Vương, hòng lấy lòng dân chúng. Ngày 18/11/1968, ông được phóng thích. Thiệu - Kỳ đã điều hẳn một chiếc trực thăng quân đội bay ra đảo đón ông về.

Trở lại đời thường Sơn Vương được khá nhiều báo chí thời đó săn đón. Thiên phóng sự "Sơn Vương - Người tù thế kỷ" mà ông cho đăng feilleuton trên một số báo chỉ khiến dư luận ồn ào được một thời gian ngắn. Chiến tranh đang ngày một khốc liệt, người dân miền Nam còn nhiều chuyện đáng để quan tâm hơn một số phận Sơn Vương.

Bị cuộc đời quên lãng, Sơn Vương lặng lẽ lui về sống ẩn dật ở một ngôi nhà nhỏ trong con hẻm ngoằn ngoèo, này là nhà số 137/52 Nguyễn Cư Trinh, quận 1, Tp.HCM. Tại đó, ông mưu sinh bằng nghề bốc thuốc Nam gia truyền. Căn nhà nhỏ có gác gỗ này do bà Phạm Thị Hoa - người vợ gá nghĩa lúc tuổi đã xế bóng - tậu cho ông. Năm 1978, Sơn Vương ly dị bà Hoa, tiếp tục gá nghĩa với Nguyễn Thị Tám, một người đàn bà thua ông 30 tuổi

Thỉnh thoảng, một vài người khách, thường là nhà văn, nhà nghiên cứu sử học, những người có quan tâm đến lịch sử nhà tù Côn Đảo có ghé đến ngôi nhà nhỏ thăm hỏi Sơn Vương. Thời gian còn lại, ông sống trong cô độc kô bạn bè, ko gia đình và kô cả hồi quang quá khứ. Mỗi lúc có khách, ông già Sơn Vương ngày thường sống âm thầm, lặng lẽ lại tỏ ra hoạt bát hẳn. Trong những lúc hồi tưởng lại thời quá vãng, Sơn Vương thường tỏ ý tiếc nuối bởi thời trai trẻ dọc ngang kô gặp được cách mạng, kô đem được tài năng nhiệt huyết cống hiến cho dân tộc. Ông thường ngửa mặt than:
- Vì máu anh hùng cá nhân, đời tôi vĩnh viễn chỉ còn lại huyền sử quá gần tội lỗi, kô còn dịp để bước vào chính sử như sở nguyện.

Những lúc như vậy, Sơn Vương thường để khách ngồi lại một mình bên bàn trà, chạy xuống bếp, xách lên một con dao yếm. Vén áo, phơi bụng và vận công, Sơn Vương mạnh tay chém dao bình bịch vào bùng, mặc cho khách trợn mắt, tái mặt vì kinh sợ và thầm phục. Sau đó khẽ vuốt lại những đường lằn nổi đỏ trên khoang bụng, tay giang hồ tóc bạc nở một nụ cười buồn và tự huyễn hoặc mình, rằng:
- Bụng vẫn còn cứng!

Năm 1984, Sơn Vương trở lại quê nhà Gò Công và mất tại đó vào năm 1987 ...

IP IP Logged
Trang  of 2 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.164 seconds.