Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn
Message Icon Chủ đề: Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương Gởi trả lời Gởi bài mới
Người gởi Nội dung
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Chủ đề: Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương
    Gởi ngày: 26/Dec/2009 lúc 3:34am


Giai thoại văn chương :

Nàng Tố của Vũ Hoàng Chương


 

Tô Vũ


 

<!--[if !vml]--><!--[endif]-->Thủ bút của Vũ Hoàng Chương :

 

Ta đợi em từ ba mươi năm

Uổng hoa phong nhụy hoài trăng rầm

Heo may chớm đă lên mùa gió

Ngăn ngắt chiêm bao lạnh chiếu nằm.

(Bài Chờ đợi hoài công)

 

Người đọc thơ Vũ Hoàng Chương đều chú ư đến một nhân vật mà VHC gọi là Tố.

 

Trong bài thơ ‘Mười Hai Tháng Sáu’, Vũ Hoàng Chương  gọi Tố của Hoàng ơi ! Tố của Hoàng ơi hỡi nhớ thương ! Tố của Hoàng ơi Tố của anh !...người đọc có cảm tưởng VHC vừa khóc vừa gọi Tố.

 

Khi người ta thất tình, khi người yêu trẻ đẹp bỏ  đi lấy chồng, nghe tiếng pháo nổ ṛan, nh́ìn người ḿình mơ ước lên xe hoa , mà từ bao tháng năm tưởng tượng đó là xe hoa chở ḿình và người người đẹp về sống bên nhau, trăm năm hạnh phúc, ai ngờ lại là xe hoa của người khác, chở t́ình địch, một t́ình địch chẳng hơn ǵì ḿình, nhưng được bố mẹ người đẹp chọn, v́ì bằng cấp, v́ì giàu có, v́ì đi học ở ngoại quốc về.

 

Vũ Hoàng Chương, con quan tri huyện, học trường Tây Albert Sarraut ở Hà Nội, một trong hai trường lít-xê (lycée) lớn nhất Đông Dương thời bấy giờ, thập niên 30, đỗ bằng tú tài, (thời bấy giờ rất ít người có bằng tú tài, ngay cả ở bên Pháp cũng vậy), bấy giờ ở VN rất ít người được học trường Tây nghĩa là học cùng trường với con các quan Tây, con nhà nghèo, b́ình dân, có giỏi cách mấy, có là thần đồng cũng chẳng mơ tưởng được vào học trường đó.  

Vũ Hoàng Chương đỗ tú tài Tây, chỉ cần theo học trường Luật vài năm nữa là ra làm quan tri huyện, tri phủ, hoạn lộ thênh thang, tương lai huy hoàng xán lạn. Thế mà đi hỏi vợ, hỏi một cô con gái mê mết từ 10 năm, con một nhà buôn gạo ở thành phố Nam Định, mà bị từ chối. Làm ǵì mà không bị ức, làm ǵì mà không bị đau, làm ǵì mà chẳng khóc lóc , chẳng kêu gào :

Tố của Hoàng ơi ! Tố của Hoàng ơi !

Tố của Hoàng ơi hỡi nhớ thương

Tố của Hoàng ơi Tố của anh....

Thương th́ì thương, nhớ th́ì nhớ, đau th́ì đau, nhưng chẳng lẽ kêu gào măi, Vũ Hoàng Chương chỉ khóc thổn thức trong hai bài thơ,-  hai bài thơ trong mấy trăm bài, - nói về Tố : bài Mười Hai Tháng Sáu và  Bài Ca Hoài Tố.  Bốn lần VHC gọi  đích tênTố Trong bài Mười Hai Tháng Sáu  :

Trăng của nhà ai trăng một phương

Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường

Ờ đêm tháng sáu mười hai  nhỉ

Tố của Hoàng ơi hỡi nhớ thương

 

Là thế là thôi là thế đó

Mười năm thôi thế mộng tan tành

Mười năm trăng cũ ai nguyền ước

Tố của Hoàng ơi Tố của Anh.

 

Tháng sáu mười hai -- từ đấy nhé

Chung đôi -- từ đấy nhé ĺa đôi

Em xa lạ quá đâu c̣òn phải

Tố của Hoàng xưa Tố của Tôi.

 

Men khói đêm nay sầu dựng mộ

Bia đề tháng sáu ghi mười hai

T́ình ta ta tiếc cuồng ta khóc

Tố của Hoàng nay Tố của Ai  (...)

Bài Ca Hoài Tố, chắc phải làm ở một thời điểm không xa lắm để ngọn lửa nhớ thương vẫn c̣n âm ỷ đốt cháy tâm gan chàng thi sĩ trẻ tuổi thất t́ình, để cơn đau c̣òn đủ sức làm chết lịm. Sắp đến ngày cưới năm cũ, ngày 12 tháng 6, sắp đến mùa gió thổi nhẹ để cho những con chim ô-thước  bắc cầu Ngân Giang, sắp đến mùa heo may làm quay cuồng những lá muôn màu ĺa cành,

Từ vào thu đến nay

Gió thu hiu hắt

Sương thu lạnh,

Trăng thu bạch

Khói thu xây thành.

Lá thu rơi rụng đầu ghềnh

Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly (...)

(ThơTản Đà)

Chàng thi sĩ trẻ tuổi Vũ Hoàng Chương, vết thương rớm máu vẫn c̣òn đau nhói trong tim, trí  óc vẫn c̣òn chưa phai mờ cảnh xác pháo hồng đưa người đẹp e lệ lên xe hoa.

 

Nhớ nàng Tố, nhưng trong bài ca này VHC không gọi là Tố nữa,  mà gọi là  Kiều Thu : Tháng sáu mười hai rồi, em hỡi Kiều Thu :

Mùa đă sắp thu rồi, trăng ướt sương

Nến bụi chiêm bao, nằm xa nhớ thương

Hơi tiếng xưa, c̣ơn gió thơm canh trường

Em Kiều Thu giờ, lầu ai phấn hương

Ôi tóc xõa buông mây -- trầm, tuổi nguyệt tìṛn gương

Mỏi mắt tương tư hoài, riêng đầu sông Tương

Máu rụng cánh hoa lề phố cũ

Tan tác thuở ân t́ình chớm nụ

Trăng xế lan can -- ồ, vai kề yêu đương

Nửa giấc cô miên -- này, bóng hoa động tường

 

Một phen tan vỡ miếu đường

Ôi mây mùa thu, nguyệt mùa thu

Dĩ văng sầu cao vời vợi

Tháng sáu mười hai rồi, em hỡi Kiều Thu (.....)

 

(.......) Ta đă mất em rồi, Kiều Thu ngày xưa

Hào quang đă phai rồi, tóc mun ḍáng thơ

Đă hết t́m em, dù chỉ t́m trong mơ

Thuở trước tinh anh mà thể phách bây giờ

(Trích Bài Ca Hoài Tố)

Hai bài thơ này  mở đầu cho một nghi vấn. Giống nhu nghi vấn TTKh tác giả bài thơ Hai sắc Hoa Ti gôn đăng trong Tiểu Thuyết Thứ bảy năm, sáu chục năm trước

 

T.T.Kh. với những câu thơ xót xa cảm động :  

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời

ái ân lạt lẽo của chồng tôi

Và từng thu chết, từng thu chết

Vẫn giấu trong tim một bóng người...

Vậy T.T.Kh. là ai? Nam hay nữ? Bút danh này chỉ thấy ghi ở ba bài thơ đăng trong Tiểu thuyết thứ bảy và một bài trên báo Phụ nữ, rồi thôi, không thấy xuất hiện nữa.

 

Ông Hoài Thanh, năm 1941, có soạn cuốn Thi nhân Việt Nam cũng trích dẫn T.T.Kh. với lời ghi chú: ‘Sau khi bài thơ kia đăng rồi, xóm nhà văn bỗng xôn xao, đến mấy người nhất quyết T.T.Kh. chính là người yêu của ḿình. Và người ta đă phê b́nh rất náo nhiệt. Có kẻ không ngần ngại cho những bài thơ ấy là những áng thơ kiệt tác...’ (trích Đặc Trưng)

 

Vấn đề Nàng Tố chẳng phải là bí mật để giải quyết khó khăn như vấn đề TTKh. Trước 1975, Vũ Hoàng Chương vẫn c̣òn sống ở Sài g̣on (VHC mất năm 1976, sau khi bị CS bắt giam cải tạo ở  khám Chí Hoà), chẳng có ǵì là bí mật cả, VHC là tác giả hai bài thơ về Tố,  nhân vật Tố là nhân vật có thực, bằng xương bằng thịt, và mối hận t́ình cuả VHC là một mới đau có thật, nhưng TỐ là ai th́ì không ai biết, ngoại trừ  VHC  và nàng Tố.

 

Củng có người thêu dệt nói Tố là Tố Loan, Tố Lan, Tố Tâm,  đoán là tên một nhân vật giả tưởng nào đó. Nhưng cho đến lúc VHC chết th́ì chẳng  có văn hữu thi hữu nào hỏi VHC Tố là ai, và chắc nếu có  hỏi th́ì cái chuyện t́nh ngắn ngủi của tác giả từ hồi c̣òn niên thiếu , tác giả cũng giấu kín trong ḷòng không nói ra, v́à bây giờ, nàng Tố cũng chẳng c̣òn nữa và nếu có  sống th́ì cũng chẳng c̣òn son trẻ ǵì, cứ để cho nàng đẹp măi trong ký ức với tên Tố của Hoàng.

 

Thế nhưng, có một người, một nhà văn tên tuổi, một nhà văn nổi tiếng, đă viết những điều phát giác về Tố của Hoàng, mới viết gần đây thôi, trong năm 2007.  Đó là nhà văn Thế Uyên mà Tô Vũ may mắn được đọc tác phẩm của ông viết về nàng Tố, một bài viết ngắn với tựa đề là ‘Tố của VHC’, do ds Trường Hà gửi đến cho TV. (Cảm ơn Trường Hà). TV xin phép nhà văn Thế Uyên đưa bài viết của ông ra đây để cống hiến độc giả mạng congdongnguoiviet.fr  một giai thoại văn chương kỳ thú viết về một thi sĩ có tên tuổi sáng chói trên văn đàn VN, thi sĩ Vũ Hoàng Chương. 

 

Trước 1975, nhà văn Thế Uyên  đă xuất bản 21 tác phẩm ở trong nước. Sau khi học tập cải tạo, ông định cư ở Hoa Kỳ, tiếp tục học lại, đỗ bằng MA, và tiếp tục viết. Những sách của ông xuất bản gần đây như : Sàig̣on sau 12 năm, Con Đường qua mùa Đông, Nghĩ trong mùa Xuân, Tuyển tập truyện ngắn Thế Uyên, Khu Vườn Mùa Mưa, Những người Mỹ chung quanh chúng ta, v.v...

 

Tô Vũ rất thích thú được biết một điều bí mật mà  Thế Uyên bật mí,  Tô Vũ coi đó là một phát giác trong văn học sử, một tài liệu quý giá. Xin cảm ơn nhà văn Thế Uyên.

 

Mong rằng quý độc giả hài ḷòng về câu chuyện hấp dẫn tuyệt hảo này, bây giờ xin mời quý vị nghe nhà văn lăo thành Thế Uyên kể : 

 

Nàng  Tố

của  Vũ  Hoàng  Chương

 

Đáng  lẽ  là  một  lời  vào  đề,  xin  thay  bằng  một  thắc  mắc:  chính  người  viết  không  biết  nên  định thể  loại  cho  bài  này  như  thế  nào.  Kể  về  các  lớp  quá  khứ  chồng  chất  lên  nhau  không  theo  thứ tự  thời  gian,  thường  là ký  —  hồi  ký,  thuật  sự,  tự  thuật...  Ký  nào  cũng  bao  hàm  sự  kiện  tác  giả tôn  trọng  sự  thật  tối  đa  có  thể  được.  Bài  này  không  đạt  được  điều  ấy  v́ì  người  viết  kể  lại  khá nhiều những ǵì được nghe  từ một bà mẹ kể lại cho cô con gái là vợ của người viết, cô gái nghe xong  bèn  suy  diễn  đôi  ba  điều  trước  khi  kể  lai  cho  chồng,  chưa  kể  óc  tưởng  tượng,  chủ  quan của  người  viết  tự  động  điền  khuyết,  t́ìm  hiểu  hoặc  tô  điểm  thêm  những  chỗ  khuyết  trong  bức tranh  của  quá   khứ  ráp  nối.  Như  vậy  giống  truyện  quá,  nhưng  vẫn  không  là  truyện  b́ình thường,  v́ì  nhiều  nhân  vật  mang  tên  giả,  lại  là  có  thực  ngoài  đời.  Hay  là  gọi  luôn  là  truyện (chuyện)  ký  chăng...  Thôi,  xin  để  vấn  đề  đó  lại  cho  các  chuyên  gia  văn  học.  Bây  giờ  vào  đề thôi.

Nàng Tố là ai

Ngày xưa, chuyện xẩy ra  từ đầu thế  kỷ  20, nhưng  thế tạm  đủ để  gọi  là ngày xưa được rồi, bởi v́ một hai thế hệ bây giờ qua đi, là kể như lâu rồi, không như thời gian chậm  rì rì của các cụ... Vậy  th́ì  trong  cái  tạm  là  ngày  xưa  ấy  có  một  ông  cự phú  làm  giàu  nhờ  buôn bán  thóc  lúa  vùng châu thổ sông Hồng, ở trong một dinh cơ đường  Bến Thóc thành phố Nam  Định. Ông lấy nhiều vợ  v́ì  Việt  Nam  thời  đó  theo  chế  độ  đa  thê,  bà  vợ  đầu  sinh  ba  cô  con  gái,  cô  út  nổi  tiếng  xinh đẹp  nhất  thành  phố,  sau  này  trở  thành  nàng  Tố  của  Vũ  Hoàng  Chương.  Nói  về  các  người  con gái  nổi  tiếng  trong  văn  chương,  bảo  rằng  các  nàng  đẹp  là  dư  thừa,  v́ì  xấu  xí,  thiếu  nhan  sắc không  gây  được  sóng  gió  hào  hứng  ở  đâu,  cho  ai  cả  —  trừ  những  trường  hợp  hăn  hữu  như Chung Vô Diệm.

Ở  cùng  đường  Bến  Thóc  có  một  chàng  bạch  diện  thư  sinh  —  tôi  không  dùng  sáo  ngữ  đâu  v́ì chàng này có bộ mặt trắng thật sự, trắng đến nỗi như có thêm sắc xanh lợt — tên là Vũ Hoàng Chương  con  một  ông  tri  huyện,  gia tư cũng  khá,  vào  loại  bậc trung. Tôi  không  bịa chút  nào  về cái  “bạch  diện”  của  chàng  ấy  đâu  v́ì  đă  từng  là  học  tṛò  môn  Văn  lớp  đệ  nhị  (lớp  11)  của  nhà giáo  Vũ  Hoàng  Chương.  Bản  thân  người  viết  cũng  là  một  nhà  giáo  dạy  Văn  xuyên  nhiều  chế độ,  nhưng  khả  năng  tả  người  th́ì  loàng  xoàng  thôi,  nên  nhường  mục  tả  ông  thầy  thi  sĩ  không giống ai này cho nhà văn Song Thao, cũng từng là học tṛò cũ của Vũ Hoàng Chương:

Áo sơ mi màu mỡ gà. Quần nâu với hai đường li thẳng tắp. Giày da nâu bóng loáng, mũ phớt màu nâu nhạt. Và một chiếc cà vạt màu nâu hồng có điểm những nụ hoa nhỏ xíu màu hồng nhạt. Mầu sắc từ trên xuống dưới ăn khớp với nhau một cách rất nghệ thuật. Như một bức hoạ. Chưa hết. Một chiếc kẹp cà vạt mạ vàng cùng với cặp nút măng sét làm cho bộ quần áo thêm phần “vương giả”. Không phải chỉ trong buổi học “ra mắt” học sinh thầy Chương của chúng tôi mới diện như vậy. Trong suốt năm học, lúc nào thầy cũng chải chuốt một cách lạ thường. Những ngày nóng bức nhất cũng không làm chiếc cà vạt rời khỏi cổ thầy. Những ngày se lạnh chỉ thêm dịp cho thầy đóng nguyên một bộ đồ lớn loại sang.

Người thầy mỏng lét. Bộ ngực lép kẹp được chúng tôi gọi là ngực Omega... Nước da trắng xanh cùng với khuôn mặt gầy g̣ò, ngoài rất nhiều vết nhăn quanh miệng và quanh hai khoé mắt... chúng tôi không t́ìm thấy ở thầy những dấu hiệu của một người ghiền. Cặp môi không thâm... người không toả ra mùi khét lẹt, dáng điệu không so bại, quần áo không lếch thếch dơ dáy... 

(Song Thao, “Thầy Chương”, Thế Kỷ 21, số 213, tháng 1 năm 07, tr. 37)

Chàng  thư  sinh  mặt  trắng  tả  trên  đây  với  nàng  Tố  xinh  đẹp  không  xa  lạ  ǵì  với  nhau  v́à,  chưa đến  nỗi  là  hàng  xóm  sát  vách,  đôi  trẻ  ở  khá  gần  nhau,  và  vào  cái  thời  “nam  nữ  thụ  thụ  bất thân”  (có  vị  đă  dịch  là:  trai  gái  trao  cái  ǵì  cho  nhau  không  được  trao  liền  tay;  nhưng  đó  là chuyện  bên  Tàu,  c̣òn  các  cụ  nam  nữ  bên  ta  chạm  chân  tay  nhau  một  chút  trong  giao  thiệp hàng  ngày,  không  là  vấn  đề),  nàng  Tố  chàng  Vũ  thiếu  ǵì  dip  nhin  thấy  nhau  tỏ  tường.  Khi nàng  đến  tuổi  dậy  th́ì,  chàng  Vũ  cũng  lấy  được  bằng  Tú  tài.  Thời  đó,  đầu  thế  kỷ  20,  bằng  cấp ấy  bảo  đảm  dư  nuôi  vợ  con  thoải  mái,  kể  cả  vợ  lẽ  con  thêm.  Chàng  Vũ  liền  trầu  cau  đi  hỏi nàng  Tố  bé  con  nhưng  nhan  sắc,  cỡ  15,  16  tuổi.  Bất  ngờ  ông  bố  nàng  từ  chối.  Bà  chị  S  kể  lại có lẽ là do tài chính: ông bố chê nhà trai hơi nghèo.

Thực  ra  có  lẽ  ông  đang  chờ  một  mai  mối  được  hơn  chàng  bạch  diện  thư  sinh  họ  Vũ:  đó  là  con trai   ḍòng   họ   Trần,   một   họ   lớn   nhiều   khoa   bảng   trong   tỉnh.   Chàng   này   vừa   tốt   nghiệp Polytechnique  ở  Pháp  về, ngoại  h́ình  khác  hẳn  chàng  Vũ, khoẻ  manh,  nét  mặt  rất  đàn  ông.  Vũ manh  dẻ  bao  nhiêu,  Trần  vạm  vỡ  khoẻ  mạnh  bấy  nhiêu.  Khỏi  phải  nói  thêm  cũng  biết  ông  bố thuận  gả  cô  con  gái  cưng  cho  họ  Trần.  Đoàn  xe  rước  dâu  đông  tới  30  xe  hơi,  theo  tiêu  chuẩn hồi  đó,  là  “thứ  nhất  Bắc  kỳ,  thứ  nh́ì  Đông  dương”.  Đoàn  xe  để  lại  trên  vỉa  hè  đâu  đó  xác  pháo tươi  hồng  và  vài  chàng  thất  t́ình  v́ì  người  đẹp  đă  đi  lấy  chồng,  trong  đó  có  chàng  Vũ.  Nhưng khác  với  mọi  chàng,  chàng  Vũ  biết  làm  thơ  từ  nhỏ,  bây giờ  sự  thất  tình,  như  một  chất  xúc  tác kỳ diệu, làm chàng trở thành một thi sĩ lớn của Việt Nam.

Dĩ  nhiên đề  tài  quan trọng nhất  thời  kỳ đầu là mối thất  t́ình v́ì  nàng  Tố. Ông  than ông  tiếc ông gọi  tên  nàng  ầm  ầm  náo  nhiệt  trong  thơ,  thí  dụ  như  trong  bài  “Tháng  sáu  mười  hai”.  Mười  hai tháng  sáu  là  ngày  nàng  lên  xe  hoa  về  nhà  chồng,  “Tố  của  Hoàng  ơi  Tố  của  Hoàng,  Tố  của Hoàng  nay  Tố  của  ai...”  Cần  chú  giải  ngay  là  Tố  không  phải  là  tên  thực  của  nàng,  nhũ  danh của  nàng  bắt  đầu  cũng  bằng  chữ  T  nên  chàng  Vũ  phóng  tác  ra  tên  Tố,  tha  hồ  réo  gọi,  khỏi  lo bị  kiện  hay  ông  chồng  to  khoẻ  đến  gõ  cửa  nhà  hỏi  thăm  sức  khoẻ...  Cứ  việc  than  thở:  “Ta  đợi em từ ba mươi năm, Uổng hoa phong nhụy hoài trăng rằm...”

Chàng  họ  Trần  (tên  tạm  gọi  là  Tú)  và  nàng  (cứ  kêu  bằng  tên  văn  chương  là  Tố,  để  khỏi  làm phiền ḷòng  con cháu ở  quốc nội  hay  hải  ngoại) đă mở  đầu cuộc sống  chung  tốt đẹp. Chàng  tuy đỗ  kỹ  sư  nhưng  về  một  ngành  chưa  phát  triển  ở  Việt  Nam,  nên  chàng  xuất  chính  và  nhờ  có căn  bản  quân  sự  trong  học  trình  trước  kia,  chàng  được  người  Pháp  tin  dùng,  được  bổ  nhiệm, lúc  làm  quan  châu  vùng  thượng  du,  lúc  làm  tỉnh  trưởng  Hải  Dương,  có  lúc  làm  Phó  Thủ  Hiến Bắc  Việt.  Hoạn  lộ  có  thể  nói  là  hanh  thông  và  cô  bé  con  xinh  đẹp  mười  bảy  tuổi  xuất  xứ  Bến Thóc  Nam  Định  cứ  thế  làm  phu  nhân  liên  tục.  Trong  khi  đó  chàng  Vũ  thất  tình  sâu  đậm,  bỏ  cả học Đại  học Hà Nội, gia nhập  ngành Hoả xa, xin một  nhiệm  sở  xa nhất  phía bắc là Lào  Cay. Là thi sĩ thất tình, ở nơi biên giới ấy chàng làm rất nhiều thơ về nàng Tố và nỗi niềm thất t́nh của ḿnh,  những  bài  thơ  đưa  chàng  đến  chỗ  danh  tiếng.  Nhưng  phiền  một  nỗi  nơi  biên  cương  ấy nằm  trên một  trục lộ  chuyển thuốc phiện từ  Tam  giác vàng  vào  Đông  dương  thuộc Pháp,  chưa kể  nguồn  sản  xuất  từ ngàn xưa trên các cao  nguyên  lớn nhỏ  của  Bắc  Việt. Và  hồi  đó  không  hề có  lệnh  cấm  hút  thuốc  phiện  ở  Việt  Nam.  Nằm  cạnh  ngọn  đèn  dầu  lạc  hít  làn  khói  xanh  vào phổi,  nghe  thân  thể  nhẹ  dần  như  đi  mây  về  gió,  thi  hứng  văn  hứng  dâng  lên  tràn  đầy.  Một người  thường  còn  dễ  nghiện  thuốc  phiện,  nữa  là  thi  sĩ  thất  tình  Vũ  Hoàng  Chương,  chưa  kể một  side  effect  khá  hấp  dẫn  khác,  là  thuốc  phiện  làm  trì  hoăn  việc  xuất  tinh  trong  thời  kỳ  mới hút.

Vậy  Vũ  Hoàng   Chương   trở   thành  người   nghiện  lúc  nào   không   hay.  Không   như  hít,  chích cocaine  hiện  nay  khoảng  5  năm  là  chết,  nghiện  thuốc  phiện  chỉ  gầy  đi  dần  dần,  sợ  nước  sợ tắm,  quần  áo  dơ  dáy  hôi  hám...  nằm  nhiều  quá  một  bên  nên  lâu  dần  dễ  bẹp  một  bên  tai  nên dễ  có  biệt  danh  “dân  làng  bẹp”.  Bởi  thế  những  người  nghiện  có  nghề  nghiệp  ngoài  xă  hội,  khi ra  ngoài  thường  thay  quần  áo  mới,  đẹp...  đúng  như  nhà  văn  Song  Thao  đă  miêu  tả  tác  phong của  “thầy  Chương”.  Sau  một  thời  kỳ  nghiện  ngập  bệ  rạc,  trở  về  Hà  Nội,  gặp  lại  bà  S.  chị  của nàng  Tố,  Vũ  Hoàng  Chương  than:  “Thân  tôi  ra  thế  này,  tại  Tố  hết!”  Nghe  kể  lại,  cô  cháu  sau này  thành  vợ  người  viết,  đă  “hứ”  một  tiếng  phản  đối:  “Đàn  ông  nghiện  ngập  là  tại  chính  họ, đừng có đổ tại đàn bà!”

Ở  bên  ta  các  cụ  xưa  thường  có  câu  “miệng  đàn  bà  con  trẻ  lắm  lúc  cũng  thiêng”.  Ở  bên  Tàu chưa lâu lắm có một ông Lỗ Tấn nào đó có viết cả một bài văn đả kích cái thói đổ tại đàn bà về chính  trị  của  các  vị  tiên  hiền  tiên  liệt,  bên  Tàu  tất  nhiên.  Nhà  Hạ  nhà  Thương  Chu  mất,  tại  các nàng  Muội  Hỉ,  Đát  kỷ,  Bao  Tự...  Rồi  các  nàng  Tây  Thi,  Dương  Quí  Phi,  các  bà  hậu  này  hậu  nọ, Lữ  Hậu,  Vũ  Hậu,  Từ  Hi  Thái  Hậu...  thành  tích  cũng  khá  lắm.  Theo  Lỗ  Tấn,  một  triều  đại  một vương  triều  khi  đă  suy,  phạm  nhiều  sai  lầm  đối  nội  đối  ngoại,  nên  mới  sập  tiệm,  lại  không muốn nhận lỗi, không chịu tự phê, hậu duệ mới kiếm một nữ nhân mà đổ tại... Vũ Hoàng Chương đă thành danh, cuộc đời của ông, các thi phẩm, các vở kịch đă viết, đă đóng hay  dàn  dựng,  đều  thuộc  văn  học,  được  các  nhà  biên  khảo  t́ìm  hiểu  và  ghi  chú.  Người  viết  bài này trở lại cuộc đời khiếm tốn nàng Tố.

Mặc  dù  lấy  chồng  giàu  có  bằng  cấp  quan  chức,  cuộc  sống  thầm  kín  của  hai  vợ  chồng  cũng  có trục  trặc,  như  những  cặp  vợ  chồng  khác  và  hơn  các  cặp  vợ  chồng  khác.  Không  biết  ông  chồng Trần  tạm  gọi  tên  là  Tú  ấy  có  tính  bạo  dâm  hay  không, một  lần  bà  chị  S.  dẫn  con  gái  lại  thăm, cô  em  Tố vạch cho  coi  một vết  thương  do  đầu thuốc lá cháy đỏ  dí  vào... Chưa hết, c̣òn chuyện con  cái.  Không  biết  thời  kỳ  làm  quan  ở  thượng  du,  ông  Tú  Trần  có  lợi  dụng  quyền  lực  áp  bức, gây  ân  oán  giang  hồ  với  con  gái  địa  phương  hay  không,  mà  bà  vợ  trẻ  cứ  đêm  trước  nằm  mơ thấy người  đàn bà xoă tóc giành con với  ḿình, th́ì  đêm sau đứa con mới  sinh chết. Cứ như  thế tới  bốn  đứa  con  đầu.  Riêng  đứa  thứ  tư,  Tố  kể  với  chị  là  “em  giằng  co  với  con  mụ  xoă  tóc, không  cho  đụng  tới  đứa  nhỏ.  Vậy  mà  hôm  sau  bồng  con  ngồi  xe  đ̣ã  gặp  một  tai  nạn  nhỏ,  cả xe không ai làm sao, mỗi con em bồng trên tay lại va vào thành ghế chết.”

Vụ  đánh  lộn  với  người  đàn  bà  xoă  tóc  trong  mơ  không  cứu  kịp  được  đứa  con  mới  sinh,  nhưng kể  từ  đó  Tố  tiếp  tục  sinh  con  trai  con  gái  b́nh  thường.  Sự  kiện  này  gợi  nhớ  tới  phim  ma  quái Ring  II  vừa  tŕnh  chiếu  khắp  thế  giới:  người  mẹ  trẻ  trong  phim  quay  theo  một  phim  ma  Nhật, do tài tử xinh đẹp Naomi Watt  đóng, đă phải liều mạng  nắm  lấy hai tay ma tóc dài, theo nó  về tận  hang  ổ  ở  đáy  giếng  để  đánh  lộn,  đạp  ma  xuống  giếng  rồi  đậy  nắp  lại,  mới  cứu  được  đứa con đă bị ma nhập.

Nhưng tới đây chưa hết sự trù ẻo của gia đ́nh cô Tố vì đứa con trai đầu gửi gia đình bà S. nuôi hộ  cho  dễ  học,  không  biết  có  cảm  tình  quá  mức  với  cô  em  họ  xinh  xắn  mới  lớn  (sau  này  là  vợ người  viết)  hay  không,  nhưng  cả  hai  gia  đình  cùng  đồng  ý  “con  ai  người  đó  nuôi”,  trả  chàng thiếu  niên  về  với  bố  mẹ.  Được  ít  lâu,  sau  một  buổi  căi  lộn  với  bố,  “chàng”  tự  tử  chết.  Đọc  đến đây không  nên ngạc nhiên  về  sự trù ẻo  thư phù gì  mà ghê  thế, vì  có  như thế  đă thấm  vào  đâu với  sự  trù  ẻo,  curse,  của  giòng  họ  Kennedy.  Không  biết  cụ  cố  Kennedy  khi  xưa  tạo  sự  giầu  có, có  chà  đạp,  gây  đau  khổ  cho  ai  không  mà  sau  này  các  con lănh  đủ  lời  nguyền  trù  ẻo.  Con  trai đầu  lái  khu  trục  chiến  dấu  ở  Normandie  (Pháp)  chết  mất  xác  trong  một  phi  vụ  như  nhà  văn Pháp  Saint-Exupéry.  Con  thứ  hai  lái  PT  bị  tàu  Nhật  húc  ch́m  suýt  chết,  sau  trở  thành  tổng thống  Hoa  kỳ,  bị  một  sát  thủ  bắn  chết  trong  khi  kinh  lý  Dallas.  Người  con  thứ  ba,  nguyên  bộ trưởng  Tư  pháp  cũng  bị  giết  trong  khi  tranh  cử  Tổng  thống.  Người  cuối  cùng  chở  cô  bí  thư  “về đồng  quê  ăn  chè”,  không  biết  ma  dẫn  lối  quỉ  đưa  đường  ra  sao  mà  lao  xe  xuống  sông.  May  là tay  bơi  giỏi  nên  sống  sót,  để  lại  người  tình  dưới  đáy  sông  lạnh.  Sau  vụ  này  gia  tộc  Kennedy quyết  định ông út  không  được ra tranh cử tổng thống  nữa, phải  sống  sót để lo cho  thế  hệ  mới. Dù  vậy  cũng  chưa  yên:  gần  đây  người  con  trai  duy  nhất  của  cố  tổng  thống  Kennedy,  một  dân biểu  trẻ  tuổi  đẹp  trai  như  bố,  lái  máy  bay  đưa  vợ  và  người  chị  về  điền  trang  ven  biển  ăn  cưới cô  em  họ,  máy  bay  đâm  xuống  biển  chết  cả  ba.  Cô  em  họ  sợ  quá  cùng  hai  họ  bay  sang  tận một  ḥòn  đảo  tít  bên  Hi-lạp  làm  đám  cưới.  Gần  đây  ông  út,  đă  già,  chắc  chán  làm  thượng  nghị sĩ,  tuyên  bố  sẽ  ra  ứng  cử  tổng  thống  kỳ  này.  Chúng  ta  ít  người  mê  tín,  ít  sợ  ma  quỉ,  nhưng  cứ chờ xem... 

“Tố của Hoàng” tại miền Nam

Khi  đất  nước  chia  đôi  và  người  Pháp  rút  quân  dần,  ông  Tú  Trần  rút  khỏi  hoạn  lộ,  nhận  một chức  giám  đốc  một  trường  chuyên  môn  ở  Huế,  sống  cùng  vợ  con  tại  đó.  Do  đó khi  tôi  vào  làm rể  gia  tộc  Nguyễn-huy,  dù  cô  vợ  trẻ  kể  thiếu  gì  chuyện,  huyền  thoại  về  gia  đ́ình  “cô  Tố”  đến nỗi  quen  thuộc,  tôi  chỉ  thực  sự  biết  mặt  chồng  cô  Tố  khi  ông  vào  Sài  G̣on  công  tác.  Thời  gian này tôi đă là nhà văn và lính miền Nam nên khi ngồi cạnh ông trong bữa cơm trưa, tôi đă ngạc nhiên  thú  vị  khi  biết  ông  đă  đọc  khá  nhiều  văn  tôi  viết.  Ông  tán  đồng  quan  niệm  sống  hùng sống  mạnh  thời  chiến,  “làm  trai  thời  loạn  mà  lui  lủi  trốn  lính  giữa  chốn  ông  đi  qua  bà  đi  lại,  là quê, là xoàng  xĩnh...” của  tôi. Ông  đọc vài  câu thơ  hùng  bằng  tiếng  Pháp  của  Victor Hugo, bộc lộ  thái  độ  sống  của mạnh,  thích làm  công  việc vĩ  đại,  kiểu “Chí  làm  trai”  của  Nguyễn  Công  Trứ. Cũng  có  một  chút  bất  đắc  chí  đâu đây  vì ông  cũng  có  ḷòng yêu nước như ai,  nhưng  sinh không đúng  thời  nên  tuổi  trẻ,  tuổi  hành  động  của  ông  trôi qua  trong  phục  vụ  người  Pháp  thời  chuyển tiếp. Trước khi bắt tay giă từ, ông đột nhiên hỏi: “...Cái thằng Vũ Hoàng Chương hiện ra sao?”, tôi  khoát tay nhẹ  nhàng:  “Vẫn dạy học đâu đó...” Chỉ  một  câu hỏi  đó  tôi đoán ông  vẫn còn ấm ức cái thằng thi sĩ mang vợ ḿnh ra làm đối tượng thất tình ồn cả nước... Một  lần vợ  tôi  kể  con gái đầu ḷòng  của cô  chú Tú xinh và sexy, có  hai  b́ình sữa  bự như thế  này này...  nàng  để  tay  trước  ngực  diễn  tả.  Lời  nói  của  vợ  làm  tôi  tò  mò,  hơi  háo  hức  nữa,  nên  lần đi công tác vùng Huế, mượn được xe jeep, tôi tà tà t́m nhà cô chú Tú (đến lúc đó tôi vẫn chưa biết  mặt  cô  Tú hay bị chồng  đánh, “nàng  Tố  của Hoàng”, ra sao). Số  tôi  vô  duyên với  gái đẹp  xứ  Huế  vì  căn  biệt  thự  kiểu  bungalow,  thềm  khá  cao  chống  lụt  thường  niên  vùng  này, hoàn  toàn  vắng  lặng.  Tôi  tiến  vào  pḥòng  khách  ở  chính  giữa:  tất  cả  vẫn  vắng  lặng  và  mọi  sự sạch  như  lau  như  ly.  Tôi  lên  tiếng  một  lần  nữa,  vẫn  không  ai  trả  lời.  Tôi  đợi  thêm  vài  phút  rồi ra về. Mặc dù lúc đó  đương  là công  cán ủy viên một  Bộ, tôi  cũng  chẳng  dám  tiến vào  sâu hơn, nhà nhiều gái đương th́ì xinh đẹp, chưa kể bà mẹ nôỉ tiếng giai nhân một thời. Nhỡ có nữ nhân nào đương thay áo, tôi dễ tình ngay lý gian, bể tiếng tăm mấy hồi.

Năm  đó  quân  Mỹ  kéo  sang  khá  đông,  kéo  theo  một  bầy  dân  sự  túa  đi  thuê  nhà  trong  đô thành, để ở (tất nhiên vì đâu có doanh trại như lính) và để hẹn bồ, chứa “vợ for rent”... làm tôi phải  vất  vả  ghê  lắm  mới  thuê  được  một  căn  nhà  làm  thêm  cuối  dẫy  trong  một  cư  xá.  Hoàn toàn  không  biết  gia  đình  chú  Tú  cô  Tố  cũng  dọn  nhà  từ  ngoài  Huế,  chú  đă  về  hưu,  vào  thuê căn  nhà  gỗ  hai  tầng  ở  đầu dẫy  đằng  kia.  Hai  nhà  cách nối  nhau  bằng  một  hẻm  nhỏ  dài.  Trong bữa  ăn  hàn  huyên  giữa  hai  gia  đình,  bây  giờ  là  gia  đình  cô  chú  và  gia  đình  nhỏ  nhiều  con  nít của  vợ  chồng  tôi,  lần  đầu  tiên  tôi  biết  mặt  thật  rơ  ràng  “cô  Tố  của  Hoàng”,  cô  gái  của  huyền thoại  thi  ca,  cô  gái  đă  khởi  hứng  bao  nhiêu  câu  thơ  truyệt  vời  của  Vũ  Hoàng  Chương:  Ta  đợi em  từ  ba  mươi  năm,  Uổng  hoa  phong  nhụy  hoài  trăng  rằm...  Ôi  ta đă  làm  chi  đời  ta,  Cho  lòng tàn tạ, tình băng giá... Cô  có  đôi  mắt  đẹp,  úng  thủy,  màu  nâu  dịu  dàng  như  vợ  tôi  nhưng  khác  ở  chỗ  trong  mắt  có một  nốt  ruồi.  Hai  cô  cháu  có  mắt  đẹp  và  da  trắng  như  nhau  nhưng  cô  mắt  buồn  và  mệt  mỏi, làm  gái  đẹp  như  thế  trong  bao  nhiêu  năm,  lấy  phải  ông  chồng  hay  ghen,  lại  có  tí  máu  sa-đích nhập  cảng  từ  Pháp  về,  hơi  một  chút  là  lôi  vợ  ra  đánh  đòn,  mắt  vui  sao  được...  Tôi  mỉm  cười thầm: lấy được vợ đẹp cũng thú nhưng cũng dễ sùng  máu ghen khi có một tên thi sĩ lâu lâu lại mang  vợ  ḿnh  ra  làm  đối  tượng  than  thở  này  nọ.  Tức  trào  máu  được  nhưng  làm  ǵ  được  “nó”, chỉ  có  vợ  ở  gần  tiện  chân  cho  một  đá  cho  hả!  Sau  đó  mất  công  dỗ  dành  tán  tỉnh  nhưng  làm t́ình với  nhau đạt hơn. Chứng  tỏ đă bao nhiêu năm  trôi qua, vợ  chồng  vẫn bền vững, đi  đâu về hơi trễ là cô đă lo lắng về bữa cơm của chồng.

Nhìn  lên  bàn  thờ  nhà  cô  chú,  tôi  nhận  thấy  có  một  vật  bất  thường,  là  một  bức tượng  bán  thân bằng  đồng  đen  hình  một  cô  gái  Thái  hay  Mường  Mán  chi  đó.  Hỏi  lai  lịch,  không  ai  trả  lời,  chỉ biết  chú  có  nó  lâu  lắm  rồi,  thuyên  chuyển  đi  đâu  cũng  mang  theo  và  tỏ  vẻ  quí  một  cách  đặc biệt.  Tự  bức  tượng  đồng  đen  đă  mang  một  vẻ  bí  mật,  óc  tưởng  tượng  của  tôi  thêu  dệt  một  sự tích  ly  kỳ,  thân  thể  cô  gái  thiểu  số  trắng  nơn  nà  bị  treo  lên  xà  nhà,  miệng  thốt  ra  những  lời nguyền  rủa  không  ai  hiểu... chú đă từng  làm  tri  châu một  miền thượng  du Bắc  Việt  lúc trẻ, cái gì cũng  có  thể  xẩy  ra  trong  một  lúc  say  rượu  cần,  cognac.  Ông  bố  của  Hồ  Chí  Minh,  đang  làm một  chức quan tương  đương, cũng  có  lần say rượu đánh chết  tù nhân, bị  cách chức lang  thang đến  chết  vùng  Hậu  giang,  bỏ  bê  gia  đình  nên  cậu  Nguyễn  Tất  Thành  không  được  học  nhiều, phải  xin  làm  phụ  bếp  trên  một  tàu  biển  của  Pháp  để  tìm  đường  tiến  thân.  Các  nịnh  thần  sau này  biến  sự  kiện  phiêu  lưu  nhỏ  của  một  thiếu  niên  thành  “Bác  đi  tìm  đường  cứu  nước”.  Nhà viết  sử  Nguyên  Vũ  đă  công  bố  bản  sao  đơn  xin  học trường  Thuộc  Địa  chính  quyền  Pháp  nhưng bị  bác  của  Nguyễn  Tất  Thành  khi  lênh  đênh  đâu  đó  trên  biển.  Không  cần  giàu  óc  tưởng  tượng cho  lắm  cũng  thấy,  nếu  đơn  được  chấp  nhận,  Nguyễn  Tất  Thành  ra  làm  quan  như  Ngô  Đình Diệm,  lịch  sử  Việt  Nam  cận  đại  đă  không  như  hiện  nay.  Có  thể  ông  quan  Nguyễn  Tất  Thành vẫn  sẽ  làm  cách  mạng  chống  Pháp,  nhưng  chắc  không  nhập  cảng  chủ  nghĩa  Mác  Lênin  về Đông dương... Cuộc chiến tranh 30 vừa qua có thể tránh khỏi...

Kể  những  điều  suy  nghĩ  loanh  quanh  trên  cho  người  vợ  vui  tính  nghe,  bà  ngẫm  nghĩ  một  chút rồi  thêm  thắt:  “Dám  người  đàn  bà  xoă  tóc  trong  mơ  đă  hại  bốn  đứa  con  của  cô  Tố  là  cô  gái trong tượng lắm...”

Đôi trẻ

Cô gái đầu lòng của cô Tố  dĩ nhiên được ông bố cưng  đặc biệt, sự kiện đó cũng  là bình thường, nhưng  bà  chị  S.,  sau  này  là  một  cô  giáo,  chê  cái  lối  cưng  con:  “Bố  gì  mà  bế  bổng  con  gái  lên mà  cắn  vào  chỗ  đó...”  Tôi  đă  từng  thấy  các  bà  mẹ  quê  đưa  tay  nghịch  chim  con  hoặc  để  dỗ cho  nó  nín khóc, nhưng  bố  cắn lên mu con gái  bé, tôi đồng  ý với  bà S. là ít thấy. Cô  Tố  về  sau sinh nhiều con nữa nhưng ông chồng ngắm nghía đứa nhỏ, thỉnh thoảng nổi cơn ghen, bảo sao nó giống “thằng này thằng nọ” bạn của chú, và dĩ nhiên cô lại lănh một trận đòn ghen mới 

Khi  cô  gái  đầu  lòng  này,  tam  gọi  tên  là  Nhất,  yêu  một  sinh  viên  “quyết  tử”  của  phong  trào Phật  giáo  đấu  tranh  miền  Trung,  lập  tức  sóng  gió  nổi  lên  trong  gia  đình,  dĩ  nhiên  vì  ông  bố không  chịu.  Ông  doạ:  “Thằng  đó  còn  chui  rào  vào  gặp  con  Nhất  nữa,  sẽ  bắn  cho  bể  sọ...”  Tôi hỏi  Nhất  khi  cô  nàng  đến  thăm  vợ  chồng  tôi  ở  Sài  G̣on:  “Thế  cô  cậu  tính  sao?” Nhất  cười  ngỏn ngoẻn:  “...thì  em  chui  hàng  rào  ra,  chứ  sao!  Hai  đứa bàn  tính  bắt  chước  anh  chị  ở  Sài  G̣n,  cứ có bầu đại đi, là bố phải cho cưới.”

Mọi  sự diễn ra đúng  như vậy và đôi trẻ  cũng  vào  Sài Gon, thuê  một  căn nhà gỗ  giản dị  cuối cư xá  để  bà  S.  dễ  trông  cháu.  Như  đă  kể,  Nhất  khoẻ  mạnh  và  sexy,  còn  ông  chồng  Lực  (không phải  tên thực) đẹp trai  như đa số  con trai  Huế, và cũng  như không  ít  trai  Huế, dưới  khuôn măt khôi  ngô,  thường  chứa  đựng  một  tiềm  năng  bạo  động  câm  nín,  khi  bùng  ra  có  thể  giết  người như  không.  Lực cũng  đương  có  vấn đề  b́nh thường  thôi của lớp  trẻ  —  đi  lính hay không  đi  lính —  mang  ra  bàn  cùng  tôi.  Dĩ  nhiên  tôi  khuyên  nên  đi  lính,  lính  bộ  binh,  đỡ  mất  công  chạy  chọt về  những  binh chủng  có  chữ thọ  to  tướng, yếu người  đi... Tôi  nói  như  đùa:  “Chết  cũng  hơi  khó vì  đạn  tránh  người  mà,  như  anh  lặn  lội  ra  tiền  tuyến  cho  biết  rồi  lại  trở  về  nguyên  vẹn  với  vợ, có  sao  đâu...”  Không  biết  hai  vợ  chồng  Lực  tính  toán  ra  sao  mà  một  buổi  sáng  tôi  dẫn  vợ  đi chơi  chợ  Bến  Thành,  gặp  Lực  mặc  đồ  sinh  viên  sĩ  quan  Cảnh  sát  của  một  học  viện  mới  mở, trông  diêm  dúa,  có  lẽ  đẹp  hơn  đồ  của  sinh  viên  sĩ  quan  Thủ  đức.  Khi  ngồi  nhâm  nhi  ly  cà  phê đá,  tôi  bàn  với  vợ:  “Đang  là  sinh  viên  quyết  tử  chống  chính  quyền,  nay  sắp  biến  thành  ông cảnh sát dă chiến mang lựu đạn khói và dùi cui di dẹp biểu tình, Lực sẽ  còn khổ nhiều vì lương tâm mình.”

Tôi  có  lẽ  cần  ngừng  một  chút  để  tả  cho  rõ  những  nhân  vật  họ  hàng  sống  cùng  trong  cư  xá  lọt thỏm  giữa  thành  phố  rộng  lớn  này.  Vợ  chồng  Lực  cuối  cư  xá,  ở  gần  giữa  là  gia  đình  đông  con của  cậu  K.,  dĩ  nhiên  là  cậu  của  vợ  tôi,  một  cấp  tá  quân đội  miền  Nam,  rồi  mới  đến  gia  dình  cô Tố,  đối  xứng  đầu  bên  kia  dăy  nhà  là  gia  đình  tôi.  Lộ  trình  di  dạy  học,  đi  chơi  của  bọn  tôi  hầu như  băng  qua  nhà  cô  Tố  cũng  như  cậu  K.,  rất  tiện  cho  việc  qua  lại  khi  tang  lễ  hiếu  hỉ  và chuyện gossip  đủ loại của các bà. Một  buổi  đi  dạy học về, đi  xe  gắn máy một ḿnh qua nhà cô Tố, thấy cô  vẫy tay goi tôi đứng  lại. Cô nói nho  nhỏ dù không  ai  có thể  nghe  ké: “Anh nhớ  bảo cái Thi phải... ăn mặc kín đáo hơn, bớt suồng să khi sang chơi cậu K. Mợ ấy vừa sang đây than phiền...”  Tôi  trả  lời  “Vâng  ạ”  môt  cách  ngon  lành,  thấy  chút  gì  ngộ  nghĩnh  đâu  đây,  một  bà  cô nổi  tiếng  đẹp  một  thời  lại  nhờ  tôi  “dạy  bảo”  thêm  cho  vợ  tôi  là  cô  cháu  gái  xinh  đẹp  của mình...  Vậy  thì  ta  “chấp  hành  tốt  yêu  cầu”,  vì  đôi  khi  chọc  quê  cô  vợ  ngây  thơ  của  ḿnh  cũng vui.  Vả  lại,  mới  tuần  trước  đây  thôi,  mới  dừng  xe  trước  hiên  nhà,  cô  người  làm  đă  nhô  đầu  ra nói:  “Cô  dặn  cậu  sang  đón  cô  bên  nhà  ông  K.”  Tôi  rồ  ga  sang  liền,  tìm  nhà  dưới  không  thấy, lên  lầu  tìm  phòng  để  giàn  âm  thanh  Akai  khá  tốt,  và  kiếm  thấy  vợ  liền:  Nàng  đang  nằm  tình tang  trên  chiếc  nệm  lớn  để  dưới  sàn,  mặc  sẵn  quần  áo  đi  ăn  tối,  một  cái  mimi-robe  màu  rượu vang hở cổ hơi rộng, mái tóc dài xoă trên gối. Nàng gác hai chân trắng tròn trịa không vết gợn lên vách tường, tai quàng ống nghe. Tôi quì xuống gỡ ra, dục: “Đi thôi em, chiều rồi.”

Chiều đó tôi đưa vợ tới ăn ở quán nàng thích và chọn những món nàng ưa, và đợi đến khi nàng no  bụng  (chẳng  nên  nói  những  điều  khó  nghe  với  đàn  bà  khi  họ  đói  bụng),  tôi  kể  những  điều cô  Tố  đă  nói  buổi  sáng,  và  đúng  như  dự  đoán,  nàng  kêu  lên:  “Em  với  cậu  K.  thân  nhau  từ nhỏ...  Ăn  nhằm  gì  chút...”  Nàng  đỏ  mặt,  ngưng  nói.  Tôi  nhắc  lại  cảnh  nàng  nằm  ghếch  chân lên tường nghe nhạc tôi đă thấy tuần trước: “Cậu với cháu lúc nhỏ thôi, bây giờ em lớn rồi”, và tôi  dùng  một  thành  ngữ  Pháp  (hồi  nhỏ  nàng  học  trường  các  soeur):  “Le  penis  n’a  pas  de conscience” (Dương  vật  không  có  lương tâm). Nàng  nhăn  nhó: “Sao  anh nói  giống  mẹ  em thế. Mẹ bảo đến bố mình cũng còn không tin được, nữa là...”

Dòng  sông  vẫn  chảy  đều  đều  ven  quán,  chiến  tranh  vẫn  diễn  tiến  ngoài  thành  phố  với  nhiều máu  và  nước  mắt,  nhưng  bọn  tôi  vẫn  ngồi  đây  nhậu  nhẹt  trong  buổi  chiều  tắt  nắng,  bàn  đến những  tác  động  cặp  đùi  trắng  mịn  có  thể  gây  ra  và  những  linh  tinh  lang  tang  về  tinh  yêu  và tình  dục.  Ai  đổ  máu  gục  xuống,  cứ  việc;  ai  gục  đầu  vào  đùi  đàn  bà,  cứ  tự  nhiên.  Có  một  nhà văn  phương  Tây  đă  nói:  “Một  thời  để  yêu,  một  thời  để  chết.”  Riêng  tôi  chẳng  có  chi  để  thắc mắc  đụng  đậy  lương  tâm  khi  “đêm  nằm  nghe  súng  đại  bác, nhìn  ánh  hoả  châu  xa”  bởi  vì  cách đây  chưa  lâu  gì  tôi  còn  lang  thang  vùng  chiến  trận,  tiếng  đại  bắn  yểm  trợ  chiến  trường  cho bọn  tôi,  hoả  châu  tôi  ra  lệnh  lính  bắn  để  soi  rừng  rậm  băi  hoang  trước  mặt...  Một  thời  để  yêu và một thời để chết hẳn hoi, dễ dàng.

“Một thời để chết”

Ngành  Cảnh  sát  coi  bộ  lên  lon  hơi  nhanh,  chẳng  mấy  lúc  Lực  đă  lên  trung  úy  và  thường  tránh không  giao  thiệp  với  tôi.  Nhưng  tôi  với  hai  tai  lơ  đăng  nghe  biết  là  về  gia  cảnh  của  Lực  không mấy  vui:  Lực  không  thuận  hoà  với  gia  đ́nh  bên  vợ,  nhất  là  bà  mẹ  vợ  và  đứa  con  trai  đầu. 

Chuyện  thường  tình  thôi.  Bởi  thế  một  buổi  sáng  tôi  đang  ngồi  đánh  máy  bài  văn  bỗng  nghe tiếng chân dồn dập ngoài đường, tiếng đàn ông vừa khóc vừa gào: “Thằng Lực bắn chết mẹ tôi rồi,  bà  con  ơi...”  Kế  đó  đứa  con  trai  nước  mắt  nước  mũi  chan  hoà  cố  vùng  vẫy  khỏi  tay  một đàn  ông  thoáng  trông  cũng  biết  là  công  an  thường  phục.  Tôi  đưa  mắt  cho  viên  công  an  buông người con ra, đi theo đương sự đến nhà Lực và lên thẳng lầu.

Cô  Tố  nằm  ngă  ngửa  sau  chiếc  ghế  đẩu  bị  đổ,  hai  mắt  nhắm  lại  như  ngủ,  một  viên  đạn  nhỏ xuyên  gọn  gàng  qua  cổ.  Tôi  biết  là  cô  đă  chết  rồi,  êm  ái,  nếu  có  thể  dùng  chữ  này  diễn  tả. Không  còn  điều  gì  có  thể  làm  cho  cô  được  nữa,  tôi  tiến  sang  phía  Lực  nằm  nghẹo  đầu  tan hoang  vào  vách  gỗ.  Tôi  cúi  xuống  Lực  hai  mắt  đă  khép  nhưng  còn  ngáp  vài  cái  cuối  cùng. Khẩu  súng  colt  rouleau  lăn  lóc  cạnh  tay.  Tôi  quơ  vài  miếng  vải  lớn,  phủ  lên  cô  Tố,  thế  là  xong điều  cuối  cùng  có  thể  làm  cho  cô.  Nghe  tiếng  gắt  gỏng  phía  ngoài,  tôi  bước  ra  ngoài  hiên  gỗ: ngồi  bệt  xuống  sàn  ỉ  ôi  khóc  là  cô  gái  út,  đứa  con  đầu,  kẻ  đă  chạy  đến  nhà  tôi  báo  tin,  đang ôm  lan  can  hờ  mẹ  như  một  phụ  nữ;  còn  chú,  ông  chú  của  bọn  tôi  vẫn  đứng  thẳng,  vững  chăi như thường  lệ, đang  la đứa con trai đương  khóc: “Sois un homme!” (Hăy cư xử  như một  người đàn  ông  coi  nào!).  Nhưng  tôi  biết  đứa  con  trai  không  sao  có  thể  nghe  lời  bố,  vì  tôi  đă  đọc  đâu đó  rằng  những  ông  bố  áp  chế,  đánh  đập  con  nhiều,  những  đứa  trẻ  ít  hi  vọng  lớn  lên  bình thường: hoặc sướt mướt ủy mị, hoặc lạnh lùng tàn nhẫn ít thương xót ai.

Tôi  tiến  lại  phía  ông  chú  già,  đưa  tay  bắt  theo  kiểu  chia  buồn  giữa  đàn  ông  với  nhau:  một  tay nắm  chặt  bàn  tay,  một  tay  vỗ  nhẹ  lên  cánh  tay  chú.  Không  nói  một  lời  nào  bởi  biết  chú  sẽ không  thích,  sois  un  homme,  quoi!...  Tôi  vào  nhà,  bước  qua  xác  Lực,  chậm  răi  xuống  cầu thang  gỗ  khá  dốc.  Vợ  tôi  đang  ngồi  trên  ghế  cạnh  một  phụ  nữ  đứng  tuổi,  chắc  bà  con  lối  xóm đâu đây. Nàng đang nhìn đăm đăm chậu thau nhôm ai đă để ra để hứng những giọt máu từ cổ họng  cô  Tố  trên  sàn  gác  gỗ  rỏ  xuống.  Không  cần  nhìn  tôi  cũng  biết  nàng  đang  khóc  theo  lối của  nàng,  từng  giọt  nước  mắt  tròn  lăn  trên  má  xuống.  Trong  im  lặng.  Tôi  vòng  tay  ôm  kéo nàng  đứng  dậy  ra  về:  “Về  thôi  em,  trước  khi  mọi  người  kéo  tới...”  Nàng  đang  nuôi  đứa  con nhỏ, không nên ở lâu nơi máu me và chết chóc.

Đến  hôm  đưa  đám  cô,  tôi  mặc  áo  sơ  mi  trắng  và  cổ  đeo  chiếc  cà  vạt  thẫm  màu  nhất  tìm  ra được  trong  tủ  áo  và  đầu  cũng  chít  khăn  trắng  hàng  cháu  như  Thi,  vợ  tôi,  mặc  dù  tục  lệ  không đ̣i  hỏi.  Xong  đám  tang  về  đến  nhà,  nàng  mới  kể:  “Vũ  Hoàng  Chương  có  đến...”  Tôi  ngạc nhiên:  “Sao  anh  không  thấy?”  Nàng  nói:  “Ông  đứng  sau  một  mộ  bia  khá  khuất.  Im  lặng  một mình. Em không chỉ cho anh thấy vì không muốn anh tiến lại chào. Chú sẽ thấy...”

Một  lần  nữa  cô  vợ  bé  nhỏ  tỏ  ra  khôn  hơn,  tế  nhị  hơn  tôi.  Chú  mà  biết  “cái  thằng  Vũ  Hoàng Chương”  ám  quẻ  vợ  chồng  ông  từ  bao  nhiêu  năm,  làm  ông  nghi  oan  tức  giận  đánh  vợ  nhiều lần hồi c̣n trẻ, bây giờ cũng đến đưa đám nàng Tố của ông sao, chịu gì nổi...

Ngày hôm sau vợ chồng tôi cũng đi đưa đám Lực ở một nghĩa trang khác, gọi là nghĩa tử nghĩa tận. Sau đó  không  lâu lắm, các biến cố  xưa bây giờ  khá hỗn độn trong  kho  trí  nhớ  dài  hạn của tôi,  chú  cũng  mất  vi  một  tai  nạn,  cố  tình  hay  vô  ý,  làm  chú  bị  nhiễm  trùng  đường  máu.  Tôi nhớ  mang  máng  là  tôi  trùng  giờ  dạy  học,  không  đưa  đám  được,  nhưng  nhớ  rất  rõ là  sau  khi chôn  cất,  con  lớn  của  chú  lại  nhà  và  nói:  “Bố  dặn  là  tặng  anh  chị  bức  tượng  đồng  đen  vẫn  để trên  bàn  thờ...”  Không  cần  phải  hỏi  ý  kiến  nhau,  hai  vợ  chồng  tôi  cùng  khiêm  tốn  từ  chối.  Tôi tuổi  Hợi,  bạn  bè  hay  bảo  tôi  cầm  tinh  con  heo  rừng  bạ  đâu  cũng  đến  cũng  húc,  nhưng  còn  lâu mới thích rước về nhà môt thứ đồ cổ như thế... Đôi khi ngồi quán cà phê uống bia với nhau, tôi bàn  với  vợ:  “lời  nguyền”  đi  kèm  có  ở  trong  bức  tượng  đồng  đen,  giả  thử  là  như  thế,  có  chấm dứt  với  cái  chết  của  chú  chăng.  ...Tôi  không  biết  vì  sau 1975,  cũng  như  nhiều  gia  đình  ở  miền Nam,  các  con  cái  cô  chú  phân  tán  khắp  nước  Mỹ  rộng  lớn  và  trái  đất,  nói  gì  thì  nói,  cũng  còn bao  la  lắm  cho  con  người.  Dù  họ  ở  đâu,  tôi  cũng  thành  thực  chúc  lành,  bởi  vì  họ  đă  lănh  chịu một tuổi thơ thiếu hạnh phúc, nhiều áp bức bạo lực.

Sau  đó  một  thời  gian  không  đo  lường  được,  vợ  tôi  một  chiều  nào  đó  nói  các  con  chú  có  kể  là sau  cùng  có  một  ông  cụ  quần  áo  tươm  tất  râu  tóc  như  một  người  đời  xưa,  đến  xin  lại  bức tượng đồng đen “đă gửi đây lâu rồi”. Các con của chú đă trao liền

Chàng Vũ Hoàng Chương

Cùng  là những  người  viết  sống  cùng  thời  với  nhau nhưng  tôi  ít thân với  Vũ Hoàng  Chương  vì lư do, như nhà văn Song  Thao  đă tả rõ, sự chênh lệch giữa hai  thế  hệ, thế  hệ làm  thầy và thế  hệ làm  trò.  Trong  giới  văn  nghệ  văn  học  miền  Nam,  có  tục  lệ  trong  giao  thiệp  hàng  ngày  không phân biệt tuổi tác, toàn anh với chị, dĩ nhiên khi dùng các nhân vật đại danh tự như thế vẫn có một  sự,  một  âm  sắc  kính  nể  người  trên  tuổi,  hoặc  một  chữ  “thưa”  mở  đầu.  Trong  một  phiên họp của hội Văn Bút miền Nam, Nhất Linh dặn người cháu Duy Lam: “Chúng ta bác cháu ở nhà thôi  nghe...”  Phần  tôi,  đang  ngồi  “anh  anh  tôi  tôi”  với  nhà  văn  Nguyễn  Đức  Quỳnh,  người  con lớn  ký  giả  Duy  Sinh  chợt  về,  tôi  giơ  tay  bắt  “chào  anh,  dạo  này  khoẻ  không?”,  không  một  ai hiện diện thấy là chướng. 

Vậy  thì  vào  thời  gian  trước  tháng  4,  1975  sự  giao  thiệp  giữa  “anh  (hay  chàng)  Vũ  Hoàng Chương”, nhà thơ trước lăng mạn sau cổ  kính và một nhà văn trẻ (tôi), một viên “đá lăn trầm” (nói  như T.C. Sơn) của thế  hệ  chiến tranh, chỉ  có thể sơ  sài thôi, không  đến nỗi nhạt  như nước lă,  nhưng  cũng  chẳng  đậm  đà  hơn  nước  lèo.  Măi  tới  sau  1975,  cơn  gió  đỏ  chứa  toàn  nghèo  và đói  và  kết  tội  phi  lư  từ  phương  Bắc  thổi  tới,  mới  làm  chúng  tôi  gần  nhau,  sống  chung  khoảng khắc trong một trang giấy.

Trong  một  chuyến  lên thăm  nuôi  ở  trại  cải  tạo  tập  trung  trên rừng  miền  Nam,  bà vợ  Tú  Xương của  tôi  mang  lên  một  tờ  tạp  chí  Văn  Nghệ  thành  phố  Hà  Nội  do  thân  nhân  của  nàng,  hơi  hốt hoảng,  mang  từ  ngoài  Bắc  vào  tặng,  kèm  câu  nói:  “Như  thế  này  chắc  anh  ấy  quét  trại  cải  tạo quá...”  Các  bạn  đồng  cải  tạo  với  tôi,  sau  khi  đọc  xong  hai  bài  trong  tạp  chí  đó,  cũng  đồng  ý, nhất  trí  mọi  sự  dám  là  như  vậy.  Có  ông  bạn  trẻ  trước  ở  ngành  truyền  thông  còn  mở  một  cuộc phỏng vấn tưởng tượng để cùng cười chơi cho đỡ bi thảm: “Xin cụ cho biết tại sao lại ở lại quét trại  vậy?”  Cụ  vuốt  bộ  râu  dài  bằng  râu  “bác”  Hồ,  thều  thào  trả  lời:  “Anh  em  được  tha  về  hết lâu rồi, lá rụng nhiều quá nên ‘trên’ bảo tôi quét cho quang vinh...”

Bài  thứ  nhất  trong  tạp  chí  ấy  do  công  thần  miền  Bắc  Chế  Lan  Viên  viết  (lâu  lắm  rồi  nên  tôi không  nhớ  tên  bài)  nhằm  mục  đích  phê  phán  và  hạ  bệ  văn  học  miền  Nam.  Sau  phần  nói chung,  đến  phần  dẫn  chứng,  Chế  Lan  Viên  đưa  ra  bốn  người  tiêu  biểu:  Vũ  Hoàng  Chương, Doăn Quốc Sĩ, Phan  Nhật  Nam  và Thế  Uyên. Đủ mặt  tiền chiến, hậu chiến và đương  chiến, già trẻ  lớn  bé  đều  bị  kết  án  không  phản  động  thì  đồi  trụy,  đôi  khi  cả  hai,  nên  “Cách  mạng”  phải “giúp  đỡ”  cả  nước  bằng  cách  triệt  tiêu  ngay  bè  lũ  tay  sai  CIA  này:  con  người  nhà  văn  bị  tống giam,  tác  phẩm  bị  cấm  tàng  trữ  lưu  hành  dưới  bất  cứ  h́nh  thức  nào,  kể  cả  trong  các  thư  viện. Tất  cả  cái  gì  là  sách  đều  bị  đốt,  xay  thành  bột  giấy.  Vụ  “phần  thư  khanh  nho”  dưới  thời  Tần Thủy Hoàng không thấm vào đâu.

Doăn  Quốc  Sĩ.  Sau  5  năm  bị  giam  ở  Pleiku,  ông  được  tha  về  để  bị  bắt  lại,  tha  ra  bắt  lại  nhiều lần,  sau  cùng  mới  được  tới  Mỹ  đoàn  tụ  với  con  trai  ở  Houston.  Những  người  thích  văn  ông  và con  người  chất  phác  giản  dị  của  ông  mới  tổ  chức  một  buổi  vinh  danh  sách/con  người  nhân  dịp ông  84  tuổi.  Trong  bài  văn  của  Chế  Lan  Viên  có  đoạn  ghép  Doăn  Quốc  Sĩ  thêm  tội  bất  hiếu  vì bố vợ là Tú Mỡ chết mà Doăn Quốc Sĩ không chịu đến đưa đám. Khi gặp lại nhau ở Sài G̣on, tôi hỏi  về  kết  án  này,  Doăn  Quốc  Sĩ  cười  hồn  nhiên:  “Tôi  đang  bị  nhốt,  ở  đó  mà  đi  đâu...  Họ  thế đấy.”

Phan  Nhật  Nam.  Trong  nhiều  năm,  tôi  tưởng  nhà  văn  gắn  bó  cuộc  đời  và  văn  nghiệp  mình  với binh  chủng  nhẩy  dù  quân  đội  miền  Nam  là  người  sẽ  quét  trại  cải  tạo,  nhưng  không  phải:  sau 15  năm  anh  đă  được  tha  về  (người  quét  trại  ở  tới  18  năm).  Gặp  nhau  ở  Seattle,  tôi  hỏi:  “Anh chỉ  là một  đại  úy, đă làm gì  để  đến nỗi  đảng  Cộng  Sản hành hạ anh dữ vậy?  Trong  15  năm  cải tạo (đă dài ghê), anh đă bị kiên giam tới 8 năm, tức là bị nhốt một mình dưới hầm trong thùng Conex  trong  một  nơi  riêng  biệt,  tay  chân  đều  bị  còng...”  Anh  trả  lời:  “Tại  tôi  viết  văn  làm  thơ. Bị  nhốt  cũng  làm,  nhốt  nữa  làm  nữa.”  Tôi  thở  một  cái  khá  dài:  phục  tinh  thần  văn  nghệ  của ông bạn này quá...

Thế  Uyên.  Lâu  rồi  tôi  không  nhớ  nổi  Chế  Lan  Viên  nhà  thơ  công  thần  của  Đảng  đă  đàn  hặc  tôi ra  sao,  nhưng  trong  bài  báo  thứ  hai  hài  tội  văn  học  miền  Nam,  do  Lữ  Phương  viết,  chỉ  viết  về riêng  Thế  Uyên,  coi  như  tội  phạm  tiêu  biểu.  Tôi  còn  nhớ  được  có  câu  chót  đại  khái  như  sau:

“Tiếc thay một nhà văn có tài như thế, chỉ vì lầm đường lạc lối nên bị bánh xe lịch sử xô xuống vực thẳm  không  một  đồng đô  la dính túi.” Với  các bạn cải  tạo, tôi  thường  đưa câu này ra để  hi vọng Đảng Cộng Sản sẽ không cử tôi vào chân quét bất trại cải tạo nào từ Hoàng Liên Sơn đến Cà Mau.

Vũ  Hoàng  Chương  là  người  đầu  tiên  được  nhắc  tới  trong  bài  đàn  hặc  của  Chế  Lan  Viên.  Không biết  khi  hạ  bút  viết  những  lời  kết  án,  Chế  Lan  Viên  có  biết  Vũ  Hoang  Chương  đă  bị  bắt  nhốt  ở Chí  Hoà,  tuổi  cao  sức  yếu  chịu  không  nổi  lao  tù  nên  ban  quản  lư  trại  giam  cho  về  chết  ở  nhà, hay không?  Vợ  tôi  báo  tin đó  ở  ven rừng  Katum, tôi ngậm  ngùi  đôi  chút, thế  thôi. Phải  đợi  đến khi  được  tha  về,  tôi  mới  có  dip  lên  thăm  mộ  ông  ở  bên  trái  tượng  Địa  Tạng  của  nghĩa  trang Giác  Minh,  và  kể  từ  đó  mỗi  khi  trở  lại  thăm  thân  nhân  ở  nghĩa  trang  này,  tôi  luôn  luôn  dành nén  hương  chót  cắm  lên  mộ  Vũ  Hoàng  Chương.  Khi  nghĩa  trang  bị  giải  toả,  tro  tàn  của  ông được vợ con mang gửi ở một ngôi chùa nào đó.

Đôi khi chợt thoáng nhớ tới vài câu thơ của ông, tôi thấy chút khôi hài đâu đây, bởi ông bị chết vì những  người  xuất  phát  từ  Hà  Nội,  nơi  mà trong  một  phim  ảnh  thời  kỳ  ấy  xưng  tụng  là “đỉnh cao trí tuệ nhân loại, trung tâm phẩm giá của loài người”.


Thế Uyên

Seattle, tháng 2, 2007.




Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 13/Dec/2010 lúc 7:27pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 11/Jun/2010 lúc 8:03pm
 
 
 
Sáng nay vào diễn đàn , đọc "Chúc mùng sinh nhật chị NGUYỄN THỊ LANG , ngày 12 tháng 6" của anh Thy Lan Thao.
 
Bài thơ "Lòng em gửi chị", món quà Sinh Nhât dạt dào thương yêu của NgườiEm ThyLanThao gửi về NgườiChị Nguyễn thị Lang , người đã cưu mang anh một thời khổ nhục theo vận nước . Người đọc cũng nao lòng !
 
Nhân dịp anh ThyLanThao có nhắc đến bài thơ "Mười hai tháng sáu" của Vũ Hoàng Chương , mk xin gửi lên diễn đàn, mời anh Thy Lan Thao, chị Nguyễn thị Lang và cả nhà thưởng thức.
 
 

Mười hai tháng sáu

Tác giả : Vũ Hoàng Chương

Diễn ngâm : Tô Kiều Ngân
 
Diễn ngâm : Hoàng Oanh
 
 
 
Trăng của nhà ai trăng một phương
Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường
Ờ, đêm tháng sáu mười hai nhỉ
Tố của Hoàng ơi ! Hỡi nhớ thương

Là thế, là thôi, là thế đó
Mười năm thôi thế mộng tan tành
Mười năm trăng cũ ai nguyền ước ?
Tố của Hoàng ơi ! Tố của anh

Tháng sáu mười hai – từ nay nhé
Chung đôi – từ đấy nhé lìa đôi
Em xa lạ quá - đâu còn phải
Tố của Hoàng xưa, Tố của tôi

Men khói đêm nay sầu dựng mộ
Bia đề tháng sáu, ghi mười hai
Tình ta ta tiếc cuồng ta khóc
Tố của Hoàng nay Tố của ai !

Tay gõ vào bia mười ngón rập
Mười năm theo máu hận trào rơi
Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp
Khúc Cổ Bồn Ca gõ hát chơi

Kiều Thu hề Tố em ơi
Ta đang lừa dối tơi bời Mái Tây
Hàm ca nhịp gõ khói bay
Hồ Xừ Xang Xế...bàn tay điên cuồng

Kiều Thu hề trọn kiếp thương
Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô
Xừ Xang Xế Xự Xang Hồ
Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên

Kiều Thu hề Tố hỡi em !
Nghiêng chân rốn bể mà xem lửa bùng
Xế Hồ Xang ...khói mờ rung
Nhịp vương sầu tỏa năm cung ngút ngàn

 


Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 11/Jun/2010 lúc 8:07pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 13/Dec/2010 lúc 7:19pm
 
Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương nổi tiếng với những bài thơ SAY.
Ông còn được... phong tặng  "Đệ Nhất Thi Sĩ Thơ Say"(!)
 
Mời cả nhà thưởng thức bài thơ SAY... 'tiêu biểu' của Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương
mk
 
 
 
 

Say Ði Em

Khúc nhạc hồng êm ái

Ðiệu kèn biếc quay cuồng

Một trời phấn hương

Ðôi người gió sương

Ðầu xanh lận đận, cùng xót thương, càng nhớ thương

Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo?

Hồn ngã lâu rồi nhưng chân còn dẻo

Lòng trôi nghiêng mà bước vẫn du dương

Lòng thiêng tràn hết yêu đương

Bước chân còn nhịp nghê thường lẳng lơ...

Ánh đèn tha thướt

Lưng mềm não nuột dáng tơ

Hàng chân lả lướt

Ðê  mê hồn gửi cánh tay hờ

Âm ba gờn gợn nhỏ

Ánh sáng phai nhạt dần

Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân

Lui đôi vai, tiến đôi chân

Riết đôi tay, ngả đôi chân

Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió

Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ

Hãy thêm say còn đó rượu chờ ta

Cổ chưa khô đầu chưa nặng mắt chưa hoa

Tay mềm mại bước chân còn chưa chuếnh choáng

Chưa cuối xứ Mê Ly chưa cùng trời phóng đãng

Còn chưa say, hồn khát vẫn thèm men

Say đi em, say đi em

Say cho lơi lả ánh đèn

Cho cung bậc ngả nghiêng điên rồ xác thịt

Rượu, rượu nữa, và quên, quên hết

Ta quá say rồi

Sắc ngã màu trôi

Gian phòng không đứng vững

Có ai ghì hư ảnh sát kề môi?

Chân rã rời

Quay cuồng chi được nữa

Gối mỏi gần rơi

Trong men cháy giác quan vừa bén lửa

Say không còn biết chi đời

Nhưng em ơi

Ðất trời nghiêng ngửa

Mà trước mắt thành sầu chưa sụp đổ

Ðất trời nghiêng ngửa

Thành sầu không sụp đổ, em ơi!

 
Vũ Hoàng Chương
 
 


Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 13/Dec/2010 lúc 7:24pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 20/Dec/2010 lúc 10:00pm
 
Mời diễn đàn thưởng thức bài thơ của  Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương ca ngợi Tráng Sĩ Kinh Kha.
Nghệ sĩ Lệ Ba diễn ngâm .
Lệ Ba là cựu học sinh trường nữ trung học Gia Long , ngâm thơ và diễn kịch rất giỏi.
Khoảng năm 1969 hay 1970 (mk không nhớ rõ) , ban kịch trường Gia Long có vở "Tây Thi". Lệ Ba đóng vai Ngủ Tử Tư Smile
mk
 

Bài ca sông Dịch
(Vũ Hoàng Chương)

 
 
 
Lệ Ba diễn ngâm : 
 
           Đời lắng nghe đây trầm tư hồn bể dâu

Bàng bạc trường giang lạnh khói

Đìu hiu điệp khúc ly sầu

Đã mấy thời gian nằm u hoài sông Dịch

Tiễn kẻ một đi người kiếm khách Đông Châu

Ôi sông ngát dư linh! trải bao đời có biết

Hào khí ai xưa giờ vang bóng nơi đâu

Phải chăng ngươi! phải chăng kìa dấu vết

Tình anh rờ rỡ ngàn sau

Nước trôi đây nước trôi bờ cõi Việt

Âm u gợn tiếng ghê màu

Ai tráng sĩ bao năm mài gươm dưới nguyệt

Còn tưởng nghe hồn thép múa sông sâu

Kinh Kha hề Kinh Kha

Vinh cho người hề! ba nghìn tân khách

Tiễn người đi tiếng trúc nhịp lời ca

Biên thùy trống giục

Nẻo Tần sương sa

Gió thê lương quằn quại khói chiêu hà

Buồn xưa giờ chưa tan

Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn

Bạch vân! Bạch vân! kìa ngang rừng phất phới

Ôi màu tang khăn gói lũ người Yên

Nhịp vó câu nẻo Hàm dương tung bụi

Ta nghe, ta nghe! này cuồng phong dấy lên

Tám phương trời khói lửa

Một mũi dao sang Tần

Ai trách Kinh Kha rằng việc người đã lỡ

Ai khóc Kinh Kha rằng thềm cao táng thân

Ai tiếc đường gươm tuyệt diệu

Mà thương cho cánh tay thần

Ta chỉ thấy

Tơi bời tướng sĩ thây ngã hai bên

Một triều rối loạn ngai vàng xô nghiêng

Áo rách thân rung hề ghê hồn bạo chúa

Hùng khí nuốt sao Ngâu hề nộ khí xung thiên

Một cánh tay đưa mà danh lừng vạn cổ

Hiệp sĩ Kinh Kha hề người thác đã nên

Ta há quan tâm gì việc thành hay bại

Thế gian ơi kìa bãi bể nương dâu

Cung điện Hàm dương ba tháng đỏ

Thành xây cõi dựng là đâu

Nào ai khởi nghiệp đế

Nào ai diệt chư hầu

Ca trùng lửa đóm cùng hoàn phản không hư

Dù lăng ngà hay cỏ khâu

Riêng tồn tại với thời gian việc làm chính nghĩa

Tranh sáng với trăng sao tấm lòng trượng phu

Một nét dao bay ngàn thuở đẹp

Dù sai hay trúng cũng là dư

Kìa uy dũng kẻ sang Tần không trở lại

Đã trùm lấn Yêu Ly hề át Chuyên Chư

Ôi Kinh Kha

Hào khí người còn sang sảng

Đâu đây lòa chói giấc mơ

Nước sông Dịch còn trôi hay đã cạn ?

Gương anh hùng vằng vặc sáng thiên thu!

            (VHC)
 
 
 
 
Mời đọc thêm bài thơ này .....
 
 

Nguyện Cầu
(Vũ Hoàng Chương)


Ta còn để lại gì không?

Kìa non đá lở, này sông cát bồi.

Lang thang từ độ luân hồi

U minh nẻo trước xa xôi dặm về.

 

Trông ra bến hoặc bờ mê

Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương

Ta van cát bụi bên đường

Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này.

 

Ðể ta tròn một kiếp say

Cao xanh liều một cánh tay níu trời.

Nói chi thua được với đời

Quản chi những tiếng ma cười đêm sâu.

 

Tâm hương đốt nén linh sầu

Nhớ quê dằng dặc, ta cầu đó thôi!

Ðêm nào ta trở về ngôi

Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian.

 

Một phen đã nín cung đàn

Nghĩ chi còn mất hơi tàn thanh âm.

(VHC)
 
 
 
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 22/Nov/2011 lúc 10:15pm




Vũ Hoàng Chương



http://www.vinhhao.info/Doctho/u-y/vuhoangchuong.htm

 

 

 

Thơ ông đầy men rượu trong thi phẩm đầu tay: Thơ Say. Mình không có kinh nghiệm say thì cảm không hết được ý thơ của ông đâu. Dầu vậy, cái men say ấy vẫn cứ lan sang lòng mình như thường.

 

Ông là một thi sĩ nghiện ngập. Người ta nói thế. Mà tôi cũng biết thế khi tôi đến nhà thi sĩ Mộng Tuyết (Thất Tiểu Muội), một người bạn thơ của ông. Có một thời gia đình ông tá túc nơi nhà nữ sĩ Mộng Tuyết. Không nhớ khoảng thời gian nào, sau năm 1975; lúc đó ông ở tù ra, một thời gian ngắn rồi mất. Tôi không được gặp ông. Chỉ nghe nữ sĩ Mộng Tuyết nói, kể về ông, thương tiếc một con người tài hoa, không làm sao sống thích nghi với xã hội mới. Theo nữ sĩ Mộng Tuyết kể sơ, ông bị công an kêu lên kêu xuống tra vấn hạch hỏi liên tục; còn bị giam nhốt để "cải tạo" tư tưởng lẫn cái bệnh nghiền của ông nữa. Sau ông bệnh quá, công an phải tha về, sống những ngày cuối cùng với vợ con rồi mất tại Sài-gòn.

 

Người ta nhớ ông nhất ở hai câu:

Em ơi lửa tắt bình khô rượu

Ðời vắng em rồi say với ai!

Bốn chữ đầu của câu sau được ông lấy làm tựa đề cho bài thơ dài say tiễn cuộc tình chia xa. 

 

Ðời vắng em rồi


Sóng dậy đìu hiu biển dấy sầu

Lênh đênh thương nhớ giạt trời Âu

Thôi rồi - tay nắm tay lần cuối

Chia nẻo giang hồ vĩnh biệt nhau.

Trai lỡ phong vân gái lỡ tình

Này đêm tri ngộ xót điêu linh

Niềm quê sực thức lòng quan ải

Giây phút dừng chân cuộc viễn trình

Tóc xõa tơ vàng nệm gối nhung

Ðây chiều hương ngát lả hoa dung

Sóng đôi kề ngọn đèn hư ảo

Mơ kiếp nào xưa đã vợ chồng.

Quán rượu liền đêm chuốc đắng cay

Buồn mưa trăng lạnh nắng hoa gầy

Nắng mưa đã trải tình nhân thế

Lưu lạc sầu chung một hướng say

Gặp gỡ chừng như truyện Liêu Trai

Ra đi chẳng hứa một ngày mai

Em ơi lửa tắt bình khô rượu

Ðời vắng em rồi say với ai

Phương Âu mờ mịt lối quê nàng

Trăng nước âm thầm vạn dặm tang

Ghé bến nào đây người hải ngoại

Chiều sương mặt bể có mơ màng.

Tuyết xuống phương nào lạnh lắm không

Mà đây lòng trắng một mùa đông

Tương tư nối đuốc thâu canh đợi

Thoảng gió trà mi động mấy bông.

 

Người tình đi xa. Tận trời Âu. Cách chia nhau mà chẳng hứa được điều gì chắc chắn. Ngồi đây chuốc rượu mà uống thâu canh. Nghĩ tưởng đoạn đường dài em đi. Phương ấy trời đã rơi tuyết chưa mà sao nơi đây, lòng tê dại như phủ cả một màu tang. Màu trắng ở đây là màu trắng của tang, của niềm tê tái giá băng, của niềm cô đơn vô tận.

 

Ðời vắng em rồi, anh vẫn say. Có em thì uống say với em cuộc tình nồng. Vắng em thì say nỗi niềm cô độc. Say với những cốc rượu đắng, giết cả tâm hồn. Cố tình say như thế để mà quên, để nén niềm đau cứ chực dâng trào. Chỉ khi hết say rồi mới nằm khóc được tình mộng ban đầu. 

 

Một phút ngừng say


Bấc trĩu hoa đèn nhựa úa nâu

Phai say nằm khóc mộng ban đầu

Bước chân song sóng vòng tay mở

Dạo ấy người ơi xa lắm đâu

Chớm nụ tiếc cho tình quá ngát

Mà thương trời bể quá cao sâu

Tiếc thương lẻn khói vào tâm trí

Mưa gió tàn đêm lộng quán sầu.

 

Một thi sĩ chung tình đến thế! Suốt một đời chỉ sống với thơ, rượu, bàn đèn và tình yêu ban đầu. Cuộc tình ấy không bao giờ thành, dù ông đã chờ đợi, ước mơ... với bao nhiêu năm tháng mỏi mòn trong men say và nghiện ngập.

 

Ðã có lúc ông tìm quên trong những quán rượu, uống say, nhảy múa với những vũ nữ, lảo đảo quay cuồng theo điệu nhạc... vừa cám cảnh thân phận nhạt nhòa hương phấn của người, vừa đau xót cuộc tình không phai mà không thành của mình. Dù nhảy nhót, uống say thâu đêm suốt sáng, cả một "thành sầu" như tảng núi, vẫn kiên cố nằm ì trong lòng, chẳng làm sao phá vỡ đi được. Niềm đau, nỗi sầu vẫn còn đó. Ông nói với người vũ nữ, mà cũng là nói với ông: sầu này không thể nào phai đi được.

 

Ðây là bài luân vũ tuyệt nhất của một gã tình si thở tràn hơi rượu:

 

Say Ði Em


Khúc nhạc hồng êm ái

Ðiệu kèn biếc quay cuồng

Một trời phấn hương

Ðôi người gió sương

Ðầu xanh lận đận, cùng xót thương, càng nhớ thương

Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo?

Hồn ngã lâu rồi nhưng chân còn dẻo

Lòng trôi nghiêng mà bước vẫn du dương

Lòng thiêng tràn hết yêu đương

Bước chân còn nhịp nghê thường lẳng lơ...

Ánh đèn tha thướt

Lưng mềm não nuột dáng tơ

Hàng chân lả lướt

Ðê  mê hồn gửi cánh tay hờ

Âm ba gờn gợn nhỏ

Ánh sáng phai nhạt dần

Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân

Lui đôi vai, tiến đôi chân

Riết đôi tay, ngả đôi chân

Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió

Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ

Hãy thêm say còn đó rượu chờ ta

Cổ chưa khô đầu chưa nặng mắt chưa hoa

Tay mềm mại bước chân còn chưa chuếnh choáng

Chưa cuối xứ Mê Ly chưa cùng trời phóng đãng

Còn chưa say, hồn khát vẫn thèm men

Say đi em, say đi em

Say cho lơi lả ánh đèn

Cho cung bậc ngả nghiêng điên rồ xác thịt

Rượu, rượu nữa, và quên, quên hết

Ta quá say rồi

Sắc ngã màu trôi

Gian phòng không đứng vững

Có ai ghì hư ảnh sát kề môi?

Chân rã rời

Quay cuồng chi được nữa

Gối mỏi gần rơi

Trong men cháy giác quan vừa bén lửa

Say không còn biết chi đời

Nhưng em ơi

Ðất trời nghiêng ngửa

Mà trước mắt thành sầu chưa sụp đổ

Ðất trời nghiêng ngửa

Thành sầu không sụp đổ, em ơi!

 

Ðời ông là cả một chuỗi đợi chờ. Ðợi chờ cái điều không thể xảy ra, nhưng vẫn cứ đợi, vẫn cứ chờ. Ðôi lúc nản lòng, gần như không còn tin tưởng nơi người tình nữa, như trong bài "Cánh Buồm Trắng"; ở đó ta thấy sự mỏi mòn, gần như cạn kiệt của ông, và lời thơ đã có giọng phiền trách:

 

.......

Em ơi ta trằn trọc

Khắc khoải đã bao đêm

Nhớ mong rồi ngờ vực

Ðến cả tấm tình em

Vì những điều mơ ước

Của tuổi trẻ yêu đời

Thắm tươi như ánh nắng

Ðã phai rồi em ơi,

Giấc uyên ương liền cánh

Mộng trăm năm lứa đôi

Êm đềm như tiếng hát

Ðã tan rồi em ơi

Trong lo buồn chán ngán

Trong hoàn cảnh éo le

Tuy ta còn nhận rõ

Lòng em yêu xưa kia

Nhưng mai ngày bóng tối

Thẫm mãi trên đường đi

Biết đâu còn có nữa

Lòng em yêu xưa kia

Ta đâu còn giữ được

Lòng em yêu như xưa

Em ơi cánh buồm trắng

Sắp biến trong đêm mờ.

 

Ông ví cuộc tình mà ông chờ đợi như cánh buồm trắng ngoài dặm khơi. Mỗi ngày ông quan sát, chờ đợi cánh buồm ấy. Cánh buồm ấy không bao giờ quay về bến nhưng nó luôn thoáng hiện lúc gần lúc xa, nhấp nhô theo sóng nước; dầu đã có những lúc nó khuất dạng ngoài dặm xa, ông vẫn ôm hy vọng là nó không bao giờ mất, và đinh ninh một ngày nào đó nó sẽ quay lại. Chỉ khi nản lòng lắm ông mới bộc lộ vẻ lo sợ về viễn ảnh là cánh buồm trắng sẽ thực sự "biến trong đêm mờ."

 

Nhưng dầu thế nào thì ông vẫn tiếp tục chờ đợi, chờ đợi. Bao năm phòng lạnh chờ đợi người tình đầu. Không thấy ai ghé thăm, ngoại trừ ánh trăng. May mà hãy còn trăng, hãy còn thơ. Một đời tình, một đời thơ.  Một cuộc tình thật sầu thảm mà cũng vừa bi tráng. Bi tráng nơi sức chịu đựng kiên trì của một người lặng lẽ chờ đợi, gào thét chờ đợi, say khướt chờ đợi... mà không thấy sự đáp trả nào trong suốt ba mươi năm: 

 

Chờ đợi hoài công


Ta đợi em từ ba mươi năm

Uống hoa phong nhụy hoài trăng rằm

Heo may chớm đã lên mùa gió

Ngăn ngắt chiêm bao lạnh chiếu nằm

Cúc tả tơi vàng mộng xác xơ

Hiên sương ngõ lá vẫn trông chờ

Ðêm dài quạnh hé đôi song lớn

Nguyệt đọng vòng tay úa giấc mơ

Ngai trống vàng son lợt sắc rồi

Lòng ta Hoàng hậu chẳng về ngôi

Hồ ly không hiện người không đến

Chỉ ánh trăng vào khuôn cửa thôi

Hiu hắt tình trai một kiếp suông

Mênh mông nệm gối rét căn buồng

Lệ sa bạch lạp ngàn đêm trắng

Thơ vút sầu say rượu nhập cuồng

Ðã mấy canh khuya nụ ngát nhài

Kết chưa thành mộng ý Liêu Trai

Lung linh nguyệt thấm vàng trang sách

Ðợi chẳng bừng sen nhịp gót ai

Thôi thế hoài thơm tuổi dịu hiền

Cánh khô mầm lụi trót hoa niên

Chương đài, ca quán, ôi hồng liễu

Nửa cuộc trần gian lợm yến diên

Khắp đã nghe tìm mỏi núi sông

Ðâu vương vó ngựa, gió mui hồng?

Gió sương giờ vẫn buồng đây lạnh?
Em hỡi! Phương nào em có không?

 

Phải ba mươi năm sau, ông mới biết là hoài công. Sự chờ đợi chẳng kết quả gì. Nhưng lời thơ, và tình yêu của ông thì bất tử.

 

Ðó là một vài bài thời tiền chiến. Về sau, thơ ông không say men rượu nữa, mà say trong lẽ huyền vi, trong Thiền. Những bài thơ rất siêu thoát, xuất thần. Ðây bài:

 

Nguyện Cầu


Ta còn để lại gì không?

Kìa non đá lở, này sông cát bồi.

Lang thang từ độ luân hồi

U minh nẻo trước xa xôi dặm về.

 

Trông ra bến hoặc bờ mê

Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương

Ta van cát bụi bên đường

Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này.

 

Ðể ta tròn một kiếp say

Cao xanh liều một cánh tay níu trời.

Nói chi thua được với đời

Quản chi những tiếng ma cười đêm sâu.

 

Tâm hương đốt nén linh sầu

Nhớ quê dằng dặc, ta cầu đó thôi!

Ðêm nào ta trở về ngôi

Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian.

 

Một phen đã nín cung đàn

Nghĩ chi còn mất hơi tàn thanh âm.

 

Và bài Lửa Từ Bi, ông ghi là Kính dâng lên Bồ tát Quảng Ðức, như bài điếu văn bất hủ mà nhiều người trong giới Phật giáo thuộc lòng:


 

Lửa Từ Bi


Lửa! lửa cháy ngất tòa sen!

Tám chín phương nhục thể trần tâm

hiện thành THƠ, quỳ cả xuống.

Hai Vầng Sáng rưng rưng

Ðông Tây nhòa lệ ngọc

chắp tay đón một Mặt-trời-mới-mọc

ánh Ðạo Vàng phơi phới

đang bừng lên, dâng lên.

 

Ôi! Ðích thực hôm nay trời có mặt;

giờ là giờ Hoàng đạo nguy nga!

Muôn vạn khối sân si vừa mở mắt

nhìn nhau: tình Huynh đệ bao la.

 

Nam mô Ðức Phật Di Ðà

Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay?

Thương chúng sinh trầm luân bể khổ

NGƯỜI rẽ phăng đêm tối đất dày

bước ra, ngồi nhập định, hướng về Tây;

gọi hết lửa vào xương da bỏ ngõ,

Phật Pháp chẳng rời tay.

 

Sáu ngả Luân hồi đâu đó

mang mang cùng nín thở,

tiếng nấc lên ngừng nhịp Bánh xe quay.

Không khí vặn mình theo

khóc òa lên nổi gió;

NGƯỜI siêu thăng

giông bão lắng từ đây.

Bóng NGƯỜI vượt chín tầng mây,

nhân gian mát rợi bóng cây Bồ Ðề.

 

Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc

lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi;

chỗ NGƯỜI ngồi: một thiên thu tuyệt tác

trong vô hình sáng chói nét Từ Bi.

 

Rồi đây, rồi mai sau, còn chi?

ngọc đá cũng thành tro

lụa tre dần mục nát

với Thời gian lê vết máu qua đi.

Còn mãi chứ! Còn Trái-Tim-Bồ-Tát

gội hào quang xuống tận ngục A-tỳ.

 

Ôi ngọn lửa huyền vi!

thế giới ba nghìn phút giây ngơ ngác

từ cõi Vô minh

hướng về Cực lạc;

vần điệu của thi nhân chỉ còn là rơm rác

và chỉ nguyện được là rơm rác,

THƠ cháy lên theo với lời Kinh

tụng cho Nhân loại hòa bình

trước sau bền vững tình Huynh đệ này.

 

Thổn thức nghe lòng trái Ðất

mong thành quả Phúc về cây;

nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật;

đồng loại chúng con

nắm tay nhau tràn nước mắt,

tình thương hiện Tháp-Chín-Tầng xây.

(Sài-gòn tháng 5, Phật lịch 2507, tháng 6-1963)

 

Có lúc thơ ông thể hiện vẻ hùng tráng ngất trời. Chẳng hạn ở Bài Ca Sông Dịch:



Bài Ca Sông Dịch

 

Ai tráng sĩ bao năm mài gươm dưới nguyệt

Còn tưởng nghe hồn thép múa sông sâu

Kinh Kha hề Kinh Kha!

Vinh cho ngươi hề ba nghìn tân khách

Tiễn ngươi đi, tiếng trúc nhịp lời ca.

Biên thùy trống giục,

Nẻo Tần sương sa,

Gió thê lương quằn quại khói chiêu hà.

 

Tám phương trời khói lửa,

Một mũi dao sang Tần.

Ai trách Kinh Kha rằng việc người để lỡ

Ai khóc Kinh Kha rằng thềm cao táng thân.

Ai tiếc đường gươm tuyệt diệu

Mà thương cho cánh tay thần.

Ta chỉ thấy

Tơi bời tướng sĩ, thây ngã hai bên.

Một triều rối loạn, ngai vàng xô nghiêng.

Áo rách thân run hề ghê hồn bạo chúa,

Hùng khí nuốt sao ngưu hề nộ khí xung thiên.

Một cánh tay đưa mà danh lừng vạn cổ,

Hiệp sĩ Kinh Kha hề ngươi thác đã nên!...

(Tâm Sự Kẻ Sang Tần)

 

Ðôi khi thơ ông u uất nỗi sầu chung của đất nước và thời thế, muốn vươn đến những cõi cao rộng xa xăm khác. Mấy mươi năm, số phận nhỏ nhoi rồi bệnh tật của ông, không vươn khỏi những biến động của xã hội, cũng như gông cùm xiềng xích của chế độ cộng sản, nhưng thơ ông đã từ lâu, và mãi mãi, như cánh phượng hoàng (ý của Viên Linh), chạm đến cái chỗ chóp đỉnh cao vời của nền thi ca Việt-nam. Ở nơi chốn ấy, không ai trói buộc ông được. Một mình tung cánh giữa trời cao rộng.

 

Ðây là một vài bài khác nữa của ông, trích từ Chiêu Niệm Văn Chương - Vũ Hoàng Chương của Viên Linh:

 

Phương Xa


Nhổ neo rồi thuyền ơi xin mặc sóng

Xô về Ðông hay giạt tới phương Ðoài.

Xa mặt đất giữa vô cùng cao rộng

Lòng cô đơn cay đắng họa dần vơi.

 

Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa

Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh.

Bể vô tận sá gì phương hướng nữa

Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh.

 

Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ

Một đôi người u uất nỗi trơ vơ.

Ðời kiêu bạc không dung hồn giản dị

Thuyền ơi thuyền xin ghé bến hoang sơ.

 

Men đã ngấm, bọn ta chờ nắng tắt

Treo buồm cao, cũng cao tiếng hò khoan

Gió đã nổi, nhịp trăng chiều hiu hắt

Thuyền ơi thuyền, theo gió hãy cho ngoan.

 

 

Mười Hai Tháng Sáu


Trăng của nhà ai trăng một phương

Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường

Ờ đêm tháng sáu mười hai nhỉ

Tố của Hoàng ơi hỡi nhớ thương.

 

Là thế là thôi là thế đó

Mười năm thôi thế mộng tan tành

Mười năm trăng cũ ai nguyện ước

Tố của Hoàng ơi Tố của Anh.

 

Tháng sáu mười hai - từ đấy nhé

Chung đôi - từ đấy nhé lìa đôi.

Em xa lạ quá đâu còn phải

Tố của Hoàng xưa Tố của tôi.

 

Men khói đêm nay sầu dựng mộ

Bia đề tháng sáu ghi mười hai.

Tình ta ta tiếc - cuồng - ta khóc

Tố của Hoàng nay Tố của Ai.

 

Tay gõ vào bia mười ngón rập

Mười năm theo máu hận trào rơi.

Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp

Khúc Cổ Bồn Ca gõ hát chơi.

 

Kiều Thu hề Tố em ơi

Ta đang lửa đốt tơi bời Mái Tây

Hàm Ca nhịp gõ khói bay

Hồ Xừ Xang Xế... bàn tay điên cuồng.

 

Kiều Thu hề trọn kiếp thương

Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô.

Xừ Xang Xế Xự Xang Hồ

Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên.

 

Kiều Thu hề Tố hỡi em

Nghiêng chân rốn bể mà xem lửa bùng.

Xế Hồ Xang... khói mờ rung

Nhịp vươn sầu tỏa năm cung ngút ngàn.

 


Một trong vài bài thơ ông làm trong tù:


 

Nét Ðau Mặt Chữ


Chẳng dùng chi được văn tài

Thân này lụy áo cơm ai bất ngờ

Phút giây chết điếng hồn thơ

Nét đau mặt chữ đến giờ còn đau.

 

Chắc gì ba trăm năm sau

Ðã ai vào nổi cơn sầu nằm đây

Nếu không cơm áo đọa đầy

Nhủ thân nào thịt xương nầy bỗng dưng.

 

Chết theo vào đến lưng chừng

Say từng mảnh rớt mê từng khúc rơi

Nửa chiều say ngất mê tơi

Khúc đâu lơ láo một đời Thi Vương.


http://www.vinhhao.info/Doctho/uy/vuhoangchuong.htm




Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 22/Nov/2011 lúc 10:31pm
mk
IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.176 seconds.