![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Thơ Văn | |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
Người gởi | Nội dung |
thylanthao
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 02/Jun/2007 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 1051 |
![]() ![]() ![]() Gởi ngày: 20/Dec/2007 lúc 8:46pm |
Chiêu Niệm *
Tuổi thơ của tôi êm đềm như giòng nước con kênh trước nhà , con kênh với nước phèn trong vắt khi thủy triều lên và khi ròng sát đáy trơ màu sình đen , Bên kia bờ là những đám lá dừa nước được trồng dọc theo bờ ôm lấy ranh nhà Ông Đốc Phủ Tường kéo dài ngang qua nhà Bác Tám Hải , Bác Năm Cần ..Đólà.hình ảnh rất quen thuộc từ ngày tôi còn bé ; chiều chiều tôi theo Ông Nội tôi ra chơi ngoài ngỏ dưới hàng hoa Ngọc Cẩn trồng leo làm hàng rào , một loại hoa chùm rủ xuống màu trắng chen lẫn màu hồng phấn để đổi thành màu đỏ khi gần tàn , mỗi khi chiều xuống , hoa toả ra một mùi hương thoang thoảng rất dễ chịu Ông Nội tôi thường ngồi trước cổng nhìn về hướng bờ sông , thuở bé tôi không thể thấy được tầm nhìn của ông , vì bên kia bờ sông là nhà Ông Đốc Phủ Tường , con đường trước nhà Ông Phủ là trục lộ chính dẫn lên Sài Gòn , trên con đường nầy cách tỉnh lỵ hơn 3 Km là làng Tân Niên Trung , nơi Ông Nội tôi đã tạm cư tại đây , sống bằng nghề dạy học , hưu trí ra làm làng , giữ chức Hương Cả sau lên đại Hương Cả , với một thời gian dài hơn nửa đời người , cuộc sống của Ông tôi đã gắn bó với làng Tân Niên Trung . Để rồi sau năm 1945 , có vài vụ khủng bố trong làng , nạn nhân bị giết chết trên ngực áo có kèm theo một bản án , tội phải chết là tội chỉ điểm làm tay sai cho Pháp , mà đâu phải người chết nào cũng làm tay sai chỉ điểm đâu , có người vì con em làm việc trong tòa Bố hay đi lính gạc thường ra tỉnh thăm con em ...để rồi phải nhận chịu một bản án mà cái chết thường rất dã man , Hai tay bị trói thúc ké ,đầu bị đập bằng cuốc , hay ngực bị đâm bằng boa nha , có người bị cắt lưởi , mổ bụng ...hình thức cái chết thường rất đa dạng mà người chứng kiến không khỏi không kinh hoàng ... Chức Đại Hương Cả trong làng chẳng qua là một chức vị cố vấn cho Ông Hương Cả người đứng đầu trong ban hội tề trong làng , thừơng là những vị Hương Cả đã lớn tuổi muốn thôi việc quan về nghỉ hưu. Ông Nội tôi thường chỉ xuất hiện trong nhà làng vào những dịp lể Tết , hay thù tiếp phái đoàn thăm viếng , thanh tra từ tỉnh đến , nhưng Ông Nội tôi không muốn chứng kiến cảnh trái tai gai mắt mà bọn người tự mệnh danh là cách mạng đã gây ra bằng những cuộc thảm sát trong địa phận làng ông cư ngụ , ông cảm thấy mình bất lực , và cảm thấy rất khó chịu khi phải nhìn thấy thằng Đực trước kia giữ trâu cho Ông Cai Tổng Trà , Thằng Trọn , tá điền của Ông Giáo Huỳnh , nói chung , những thằng chẳng ra gì của xả hội làng nay thỉnh thoảng đêm về mang súng , mang mả tấu , lấy máu người để tự tạo nên quyền thế . Từ năm 1948 , Ông bỏ làng dời nhà vô chợ Gò Công . Có tránh được cái gai mắt , nhưng lòng ông vẫn thương vẫn nhớ , mặc dù ở đó tài sản ông bỏ lại không còn gì để tiếc . Ông nhớ cái không khí nhà làng , bên cạnh có cái hồ nước , cái ao làng mà mỗi buổi chiều , gái trai kẻo kịt gánh đôi nước sóng sánh đùa giởn bên nhau , ông nhớ đôi trâu già của vợ chồng anh Ba Quý , người tá điền trung thành của gia đình vẫn thường nằm nhơi cỏ bên khóm tre Mạnh Tông , nước bọt thắm đầy cả mỏm , ông nhớ đến những chiếc xe hơi từ hướng Sài Gòn trở về Gò Công rẽ vào làng , nếu không phải là con trai của Ông Hương Sư Kỷ thì cũng là con của Ông Giáo Huỳnh , họ làm việc ở Sài Gòn , đôi tuần về thăm nhà vào những ngày cuối tuần , và hầu hết những người nầy trước kia đều là học trò của Ông nội tôi , thuở bé tôi chỉ biết lẽo đẽo theo bên ông hỏi hết cái nầy đến cái nọ , những lúc ngồi một mình , ông vuốt râu chầm chậm , mắt mơ màng , hình như có một cuộc sống từ xa xưa đang gợi lại ở lòng ông . Những buổi cúng đình mà ông là người chủ toạ , sau khi tắm gội sạch sẻ , ở nhà ông mặc áo dài khăn đống chỉnh tề , sang đình làng trang nghiêm thỉnh sắc , sắc thần của vua ban được đựng trong một hộp gổ sơn son đỏ chói , ông trịnh trọng thắp ba nén nhang to vái lạy trước bàn thần , sau đó với đôi tay kính cẩn ông trịnh trọng mang họp sắc thần ra cho mọi người được nhìn thấy rồi mới thong thả mở hộp sắc thần , một thếp vải điều có viết chữ nho màu nhủ ghi tên vị thần được vua ban sắc .Ông xổ thẳng xắp nhiểu cho mọi người xem rồi cẩn thận xếp các thứ vào hộp để tại vị như lúc ban đầu . Ba đêm hát bộ ( bội ) cúng thần , đích thân ông cầm chầu , tuồng hát thường cũng là ý kiến của ông đóng góp , thường phải có vở tuồng "Ngủ sắc châu " mà ông rất thích , Ông tôi thường nói , vở tuồng nầy không thấy ghi trong các pho truyện Tàu nhưng mà tình tiết rất hấp dẫn; tôi biết được những điều nầy là cũng nhờ chạy chơi quanh quẩn trong nhà nên được nghe những lời đối đáp giữa ông Nội và Ba tôi . Lúc đó Ba tôi vì làm ăn thất bại , thua buồn ở nhà coi như tạm nghỉ hưu non , sáng nào cũng vậy , sau khi ăn sáng xong , từ nhà dưới ba tôi lên nhà trên , làm công việc lau bàn thờ , đôi câu liển , và các bộ ghế cẩn xa cừ ...Trong thao tác quen thuộc hàng ngày , Ba tôi vừa làm , miệng vừa trò chuyện với Ông Nội tôi .Ông tôi ngồi trên bộ ván gỏ , một bàn tròn mặt cẩm thạch được kê sát bên , Ông tôi thường ngồi nói chuyện với ấm trà nóng . Câu chuyện thường xuyên được nhắc lại vẫn là câu chuyên lấy bối cảnh từ làng Tân Niên Trung , tôi nghe quen tai đến thuộc lòng , từ tên tuổi các bậc trưởng thượng , đến các sự cố xảy ra trong làng , tôi đều nghe rỏ dù không từng biết mặt , không từng chứng kiến , chuyện gia đình của Ông Hương Sư Kỷ là học trò của Ông Nội tôi , Ông Hương Sư có hai người con song sanh là chú Khương và Chú Vi , hai chú nầy cũng là học trò của Ông Nội tôi , lần hai chú cùng thi sơ học , đậu bài viết vào oral ,Chú Khương vô thi trước , sau đó tới chú Vi , Giám khảo Tây rầy rà quá , cho là gian lận thi giùm , Chú Khương phải trở lại phòng , giám khảo Tây trông thấy hiểu ra cười ngất . Thường câu chuyện giữa ông và Ba tôi không ngoài triết lý " Thiện ác đáo đầu chung hữu báo ..."làm thiện gặp lành , làm ác gặp dử , những người có danh phận , về làng cũ thăm lại thầy xưa , cũng được Ông tôi nhắc tới nhiều lần , nhất là người học trò câm mà Ông tôi dạy viết rành rẽ chữ quốc ngử , thời thập niên 1930 mà Ông tôi làm được việc nầy thật đáng hoan nghênh . Chú câm sau lên Sài Gòn làm việc , hàng năm đến Tết vẫn về thăm làng cũ , cũng trà bánh kính viếng thầy xưa , người học trò nầy đến thăm thầy không chuyện trò rôm rả như những người thành danh khác , mà câu chuyện diễn ra trong khung cảnh trang nghiêm , thầy viết câu hỏi , trò viết câu trả lời ... Tôi sống êm ả dưới mái gia đình cho đến năm 18 tuổi , sau khi học xong trung học , tôi phải lìa quê lên Sài Gòn tiếp tục học , tôi lớn dần lên theo từng khúc quanh của lịch sử xả hội , năm thi trung học đệ nhất cấp tôi còn làm đề luận , bình giải lời của Ngô Tổng Thống phát biểu trước nông dân của một tỉnh miền Tây , để sang năm đệ tam tôi phải chứng kiến cảnh những học sinh cùng trường hô hào bỏ lớp , ủng hộ hội đồng quân nhân cách mạng , phá bỏ tàn dư của chế độ gia đình trị , đả đảo Thầy Đài ,tổng giám thị đương nhiệm , một vị giáo sư khả kính của Trường Trung Học Gò Công nói riêng , và của tỉnh Gò Công nói chung , Bởi Thầy còn là giáo sư Pháp Văn của nhiều trường tư thục khác trong tỉnh , tôi lãng đãng đi dọc theo hành lang trường ghi nhận những khuôn mặt phản thầy , sau nầy lớn lên tôi mới thấy tội nghiệp cho những người đó , trong đó cũng có nhiều người học cùng cấp với tôi , tuổi trẻ bị CS xúi dục , lợi dụng tình hình chính trị bất ổn ở trung ương , bọn CS nhân cơ hội tạo cảnh xáo trộn , gây hiềm khích chia rẻ để đạt mục đích phá hoại của chúng , sau vụ nầy tôi nhớ là tôi có viết một lá thư gửi cho người anh thứ ba của tôi , trước đây anh là giáo sư Việt Văn của trường , động viên khoá 16 Thủ Đức , ra trường được bổ nhiệm về trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp , làm huấn luyện viên vũ khí , Trong thư , tôi cũng kể rõ những khuôn mặt gọi là lảnh đạo học sinh làm cuộc "cách mạng " cho trường , mà những người học trò nầy hầu hết đều là học trò cũ của anh tôi ; tôi còn nhớ mấy tuần sau tôi nhận được thư của anh tôi từ Bà Rịa gửi về , bây giờ sau gần 40 năm , tôi vẫn còn nhớ một câu trong bức thư anh viết ..." Anh rất vui mừng khi biết em đứng bên lề cuộc biểu tình của trường , Anh mong rằng em sáng suốt nhận định đúng hướng đi của mình , những vị thầy của trường đều là những bậc khả kính... Là con út trong gia đình với một anh và bốn chị , người chị thứ hai lớn hơn tôi 15 tuổi , người anh thứ ba của tôi sau nầy là thầy dạy việt văn của tôi năm học đệ lục , thuở tôi còn bé , các anh chị của tôi lên Sài Gòn học , còn tôi ở lại nhà , tình thương của Mẹ dành hết cho tôi , thuở chưa đi học , tôi vẫn thường lẽo đẽo theo bên Mẹ , đi đâu mẹ cũng dắt tôi theo , về cúng giổ bên ngoại ở làng Bình Xuân , đi Sài Gòn chửa răng , đi chợ hàng ngày ...Đi chợ về nhà là tôi cũng quanh quẩn trong nhà bếp , có lẻ cũng vì vậy mà công việc bếp núc đối với tôi không có gì là lạ , tôi vẫn thường phụ mẹ lặt rau , nhóm bếp , những buổi mưa dầm , mẹ đi chợ về sợ tôi chạy chơi dẫm bùn sình , người thường lựa hai con tôm đất thật to , ngang tầm vóc nhau , đặt mỗi con vào một cái dĩa kê sát vào nhau , mẹ tôi đổ nước vào một cái dĩa , đặt cho hai con tôm châu đầu vào nhau , để trên bộ ván tạp cạnh bếp , tôi ngồi chăm chú theo dõi hai con tôm chuyền nước , dĩa nước đầy dần cạn và dĩa cạn dần đầy , cứ như vậy mà hai con tôm chuyền nước qua lại , tôi ngồi nhìn say mê , đến khi nồi cơm cạn , lửa được dập tắt , chỉ còn lại bếp than hồng thì hai con tôm cũng được mẹ tôi dùng que xỏ lụi , nướng chín trên lửa than hồng , mùi tôm nướng thơm lừng ,thịt tôm dai , ngọt ngào .Sau nầy trên bước đường xuôi ngược trong quân ngủ; những lúc rổi rảnh nhớ về mẹ thì hình ảnh hai con tôm chuyền nước lại hiện ra trong trí của tôi ; trò chơi nầy tôi ít có dịp thấy lại khi tôi lớn , nhớ lại tôi thương mẹ tôi vô cùng , nhà nghèo , mẹ bày cho trò chơi đơn giản mà rất hấp dẩn. Từ cổng trại giam Nam Hà đi vô sân trại , phòng của tôi nằm bên tay phải sau một giếng nước đường kính khoảng 10 mét, trại nằm ở lưng chừng dãy núi đá vôi mà tạo được một giếng nước to rộng như vậy thì không phải là chuyện dễ , bởi nước sông , công tù mà . Nước dưới đáy trong veo , thường mực nước chỉ lên từ một tới hai tấc nước , buổi chiều đi lao động ở thung về , tù chúng tôi vẫn tập trung quanh miệng giếng để tắm , gào múc nước tự làm lấy , nước lại cạn nhanh , thường phải chờ nước rịn ra mới đủ mà tắm tiếp , mùa mưa thì dễ chịu hơn , mực nước cao hơn . Buổi chiều sau khi điểm danh vào buồng , tôi thường đứng hút thuốc bên cạnh khung cửa sổ với song sắt to bằng cổ tay , tôi đã từng qua nhiều trại tù , chuyển qua nhiều buồng , nhưng chỉ có buồng nầy là có một khung cửa sổ đặc biệt , phải nói là cửa rất rộng , cao khoảng 3 thước , ngang phải 2 thước , nếu đứng từ bên ngoài nhìn vào , thì cửa trông giống như cửa sắt của chuồng gấu hay chuồng cọp của sở thú Sài Gòn . Nhìn qua cửa sắt , bên ngoài là một triền dốc thoai thoải dẫn xuống một thung đất mà trên các thung đất nầy , các đội tù canh tác rau màu , dùng làm thức ăn cho trại , xa hơn chút là một giòng sông hẹp chảy ngoằn nghoèo theo triền núi , đây là nơi phát nguyên của con sông Đáy ; buổi chiều trời chưa tối hẳn , nhưng thường có sương mù , chập chờn trên sông là mấy thuyền con đánh dậm , mà nhịp khắc gỏ vang đến phòng nghe rõ lồng lộng , thỉnh thoảng cũng thấy được một vài con cá nhảy vụt khỏi mặt nước rơi vào lòng thuyền , xa xa là miếu Ba Cô , dân ở đây kể lại , miếu được dựng lên để thờ oan hồn của ba cô gái thác oan , mà xác trôi tấp vào đây , mấy lúc rổi rảnh , nhiều anh em tù cũng lội đến đây khấn vái , đêm về phòng cầu cơ... Chiều nào tôi cũng đứng nhìn cảnh vật rất quen thuộc , đêm dần xuống , cảnh mờ sương thật buồn ...Trước mắt tôi , nhiều khi tôi không còn thấy thuyền đánh dậm , thấy miếu Ba Cô , mà tôi lại thấy Sài Gòn . Sài Gòn không phải của riêng tôi , cũng không phải của riêng ai , với tôi , Sài Gòn rất dễ thương dễ nhớ , Sài Gòn với tôi có nhiều kỷ niệm , kỷ niệm thời đi học , thời đi lính ... Tôi như nhìn thấy con đường Cường Để vẫn hàng cây rợp bóng , đối diện cổng trường Dược Khoa là cổng vào trường Văn Khoa , qua khỏi cổng là một bãi đậu xe nằm dưới bóng mát của một tàng cây phượng , ngày còn ôm cặp đến đây tôi vẫn cảm thấy bồn chồn vào mỗi buổi trưa khi trời mưa vừa ngớt hột , nắng rực rở của Sài Gòn trở lại sau cơn mưa , tôi vẫn muốn rời khỏi lớp ra ngoài hành lang sau giảng đường 4 để ngắm cảnh nắng lên sau cơn mưa , nhưng lại sợ thầy phiền . Từ phía hành lang sau giảng đường 4 , đứng tựa lan can nhìn xuống sẽ thấy toàn cảnh bải giữ xe , nhất là gần mùa thi , hoa phượng vỹ trổ hồng rực rở cả một góc trời , khi cơn mưa vừa ngớt hột , hoa lá cây phượng còn trĩ u nước , nắng buổi trưa lại rực rở sau cơn mưa , từ trên nhìn xuống , ánh nắng phản chiếu lấp lánh qua những giọt nước tụ trên lá , trên hoa , đẹp vô cùng , tôi vẫn thường lãng mạn đứng cả giờ nhìn hoa phượng lấp lánh giọt nước mới mưa , đôi lần cô bé có cặp mắt màu nâu cùng lớp bắt gặp , bé cười chọc tôi - Anh đang làm thơ hay đang ngắm chân dung mỹ nhân nào đấy . Cuối năm 1974 tôi từ Pleiku về phép , ghé qua trường cũ tìm cô bé mắt màu nâu , vừa quẹo vô cổng trường , tôi sửng sờ như muốn khựng lại , cây phượng của tôi đâu rồi , bải đậu xe đâu rồi , cảnh cũ thay thế bằng một giảng đường hiện đại đang xây dở dang . TÔi gửi xe vội vàng vào một bải tạm bên hông trường, bước vội lên lầu hai , cô bé cũng vừa từ trong lớp bước ra , mừng vui tay trong tay dìu nhau đến đứng tựa lan can phía sau giảng đường , cùng nhìn ra hướng đường Cường Để , mất cây phượng , tôi thấy lòng tôi thoáng buồn như vừa đánh mất một cái gì mà tôi biết sẽ không bao giờ tìm lại được . - Trường mình từ trước đến nay vẫn chưa có làm lể cấp phát văn bằng cử nhân , tiến sỹ. giảng đường đang xây sẽ khánh thành vào niên khoá 75 - 76 , tất cả các cô cậu cử , ông bà nghè của các niên khoá trước đều sẽ về đây để dự lể phát bằng , sẽ được mặc áo mảo cử nhân , tiến sỹ , sẽ được chụp ảnh kỷ niệm cho bằng thích . Cô bé tựa sát bên người tôi , khẻ giải thích về sự hiện diện cửa ngôi giảng đường mới xây - Chừng đó anh xin về phép với em nghe anh , chúng mình sẽ cùng mặc áo , cùng chụp ảnh , vui lắm nha anh ! . Hồi kẻng báo ngủ vang lên , đột ngột cắt mất hình ảnh Sài gòn đang sống dậy trong tôi .Kẻng ơi là kẻng , hàng ngày cứ phải nghe kẻng , con người rồi trở thành quán tính như con chó trong thí nghiệm tiết tâm linh của nhà nghiên cứu Nga , kẻng báo thức , kẻng tập họp , kẻng đi lao động , kẻng giải lao , kẻng báo động , kẻng ngủ ... Tôi vào mùng , mắt vẫn còn ráo quảnh , vì chứng mất ngủ , tôi nhớ tới ông nội tôi , chiều thường ra ngỏ ngóng về hướng làng xưa , tôi nhớ tới hai con tôm đất vỏ nướng cháy đen , thịt săn cứng lại , gạch tôm béo thơm ngon vô cùng , nhớ tới con bé mắt màu nâu , với niềm mơ ước sẽ được sóng đôi cùng mặc áo cử nhân , ngày tháng đã được xác định rỏ ràng mà nay trở thành viễn mơ ... Tôi nhớ tới mẹ tôi , giờ nầy , ở quê nhà , buổi tối sau khi đốt nhang bàn thờ ông bà xong , có lẻ bà ra đứng dựa cột trước hiên nhà , mắt nhìn về phương Bắc , nơi có đứa con trai út của bà đang sống cảnh tù đày tại đó , đứa con út , còn là niềm hy vọng rất lớn của gia đình và của riêng bà , mà đã 7 , 8 năm vẫn biền biệt không về , Mẹ tôi chắc sẽ ứa lệ khi nghĩ đến tôi , bà không có cách nào để chia sẽ được những nổi khổ cực cùng tôi , và nhất là bà không hiểu rõ tôi bị tội gì mà phải bị lưu đày ra đất Bắc ... Viết Tại KỲ ĐÀ ĐỘNG Đầu Xuân 1999 THỦY LAN VY ( |
|
Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
|
|
![]() |
|
nguyenhoainam
Groupie ![]() ![]() Tham gia ngày: 02/Dec/2007 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 30 |
![]() ![]() ![]() |
Sơn sống với kỷ nuệm nhiều quá ! Hảy quên đi và sống với hiện tại cho chính mình ! Nói thế chứ nhiều lần tôi muốn khóc vì những bài viết của Anh. Anh đã vửng vàng trong tư tưởng, trong thơ văn và lớn nhanh hơn tôi nghĩ. Tôi vẫn sống trong kỹ niệm do Sơn gợi lại; từ mái trường THGC thân yêu, từng nỗi khắc khoải, đau đớn ngục tù...
Cám ơn Anh về những gì đã thể hiện, tôi sẻ đọc nhiều văn và thơ của Anh...
nguyenhoainam
|
|
nguyenhoainam
|
|
![]() |
|
thylanthao
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 02/Jun/2007 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 1051 |
![]() ![]() ![]() |
CHÚT NHỚ
ĐỜI TÙ * - Viết để nhớ
những tháng ngày trong lao tù CS, gửi các anh em trong đội chăn nuôi và đội rau
trại Hà Tây Cô em gái đọc mấy bài ký của
tôi viết nhớ lại những ngày tháng sống trong lao tù Cộng sản, đã không dẳn được
nhiều thắc mắc nên gọi phone nói chuyện với tôi thật lâu, đại để cô bé hỏi tôi
tại sao viết chuyện lao tù mà người đọc thấy cảnh sống thoải mái quá vậy, hay
là huynh muốn đề cao chế độ lao tù của Cộng Sản....!? .
Đừng vội đội nón cối cho huynh muội ạ! Một câu nói đã có không biết từ bao đời
:"Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại " thì có người tù nào được
sống cảnh sung sướng đâu, nhất là ở tù Cộng Sản. Bạn bè của tôi vượt thoát qua
Mỹ ngay sau ngày trời sập, nói chung những người không bị Cộng sản giam cầm khi
đọc những bài văn tôi viết đều đã có nhận xét giống như nhau, ở tù Cộng Sản sao
mà …vui thế!! Ngày
30 tháng tư đã đến với người miền Nam như một cơn đại hồng thủy,Biết bao thảm
cảnh đã xãy ra, nhà nào không có người đi cải tạo, nhà đó không là Cộng Sản nằm
vùng thì … cũng là gia đình …không giống ai. Trong
Cung Óan Ngâm Khúc có hai câu mà tôi càng đọc càng thấy thấm thía trong những
tháng ngày sống trong lao tù Cộng Sản: ‘
Giết nhau chẳng phải Lưu Cầu “ Giết nhau bằng cái ưu sầu độc chưa Trong cảnh tù ngòai tâm lòng buồn đau
thương nhớ, người tù cải tạo còn bị hành hạ về tâm trí lẫn thể xác, biết bao
nhiêu lần tự khai, bao nhiêu lần tự kể tội mình, nhiều người có cha tử trận
phải đau đớn tủi nhục viết nên câu.”Bị cách mạng trừng trị” Ôi! Còn gì đau tủi
cho bằng. hàng ngày phải lao động khổ sai… Tôi nhớ tới những bài học lịch sử
khi còn ngồi dưới mái nhà trường…. Quân Tàu tàn ác bắt dân ta lên rừng tìm ngà
voi, xuống bể mò ngọc trai, hay thực dân Pháp tàn ác giết hại dân lành vô tội…Tôi
cười trong nỗi đau đớn thấm thía, Tàu và Tây là người ngọai quốc, tụi nó có
chung huyết thống với mình đâu mà bảo chúng phải thương dân mình, Cộng sản, hay
giặc Bắc phương, cùng chung một huyết thống mà họ lại có trái tim, suy nghĩ
khác hẵn người miền Nam, có thể gọi họ là bọn người dã man, man rợ, thú đội lớp
người… đều đúng cả. Có
vào sống trong địa ngục trần gian mà tặc quyền Cộng Sản gọi bằng cái ngụy danh
Trại cải tạo, mới thấy được nỗi lòng của những người tù không bản án, không
được xét xử, không được tự biện hộ cho mình…đếm tháng ngày trong tù trôi qua
bằng những ngày lao động khổ sai, làm hơn trâu mà bụng lúc nào cũng đói… Tất
cả những chuyện khổ nhục trong tù đều đã được anh em đồng cảnh viết lại dưới đủ
mọi hình thức…Trong cảnh sống tội tù như vậy mà cứ “ngồi…rù, gãi háng”… thì
trước sau gì cũng phát uất mà chết…chỉ sớm ra an nghỉ nơi hàng dương( nghĩa
trang tù) Nên trong cảnh khổ cần phải tìm thấy cái vui, phải xây niềm tin và hy
vọng, được như vậy mới có đủ sức chịu đựng mà đếm ngày tháng trôi qua … Có
người mới vô tù một vài tháng đã ra người thiên cổ, Có người gỡ từ tờ lịch , gỡ
hơn 17 cuốn mà khi giặc thả về vẫn sống bình yên cho tới ngày nay, điển hình
như Thiếu tá Phan tấn Ngưu, trưởng F Tây Ninh, Nguyễn Đức Thắng, Phủ đặc ủy
Trung Ương Tình báo, Tướng Lê Minh Đão…cái tâm, cái chí của người sống trong tù
Cộng sản một phần nào quyết định mạng sống của người tù… Trong cảnh khổ nào
cũng có cái vui dù là… vui ra nước mắt. Tôi
vào tù năm 28 tuổi, ở cái tuổi tương đối đẹp nhất của đời người, rồi cũng thong
thả lật từng tờ lịch, lật hơn 8 cuốn giặc mới thả về… Cho tới ngày hôm nay, sau
gần 30 năm cảnh sống trong tù vẫn còn đến với tôi trong nhiều giấc mơ đầy kinh
dị, tỉnh giấc mà trán và lưng còn đẫm mồ hôi, để rồi biết mình đang nằm cạnh vợ
trong căn phòng ấm cúng… lòng thật sự biết mừng vui. Cô
em kết nghĩa rất ý họp tâm đồng,Cô bé tiểu muội thường thêm bớt một vài chữ
trong bài viết làm cho câu văn sáng và rõ nghĩa hơn ra,tiểu muội thường bảo tôi
kể lại cảnh sống trong tù cho cô nghe… Thời gian nơi đất tạm dung nầy quá sít
sao, nợ áo cơm, tuổi ngày càng chồng chất, thể xác đã quá mệt mỏi sau những
biến động quá lớn lao trong đời người, trí nhớ một phần nào đã suy giãm, đó
cũng là sự tự nhiên của đời sống con người… Tôi vẫn hứa hòai mà không có dịp kể…
Bây giờ ngồi viết lại một khỏang thời gian ngắn tôi đã trải qua trong trại tù
Hà Tây ( Trại nằm tại xã Mỹ Hương, trong phủ Quốc Oai, thuộc tỉnh Hà Sơn Bình,
gần con sông Nhuệ…) Trong
trại Hà Tây có 3 đội tương đối được no đủ, đó là đội nhà bếp, đội xay xát và
đội chăn nuôi, đội nhà bếp( khỏang 25 người) có no đủ thật nhưng ăn no trong sự
bớt phần của bạn tù đói, đội xay xát( chỉ có 3 người): thường được bồi dưỡng
bằng gạo hay tấm, đội chăn nuôi no đủ là nhờ sự tháo vát của người tù, chăn
nuôi có 2 nhóm ( khỏang 20 người) Một nhóm nuôi heo, một nhóm nuôi cá, nhóm
nuôi heo chỉ quẩn quanh bên chuồng heo, tóan cá trông coi 5 ao cá trại, phải
kiếm rong, cắt cỏ hàng ngày cho cá ăn nên được đi thong thả trong trại để tìm
cỏ, hết cỏ được đi ra ngòai làng dân , vào mùa đông nhiều hôm phải lên tới
Thường Tín mới có rong, cỏ…Mùa hè nước cạn sửa lại bờ ao,trám lại những chỗ rò
rỉ, dưới lòng ao là cát , trong lớp cát nầy có nhiều con trai , luôn vỏ mỗi con
trên kí lô,ruột trai thường được nấu cháo … món ăn rất ngon khó tìm trong tù…Trai
ẩn mình dưới lớp cát mỏng rất dễ bắt Nhờ đi đây đó tìm cỏ, nhóm nuôi cá nầy
được biết nhiều làng chung quanh trại như làng Phượng, làng Rùa… Những ngôi
làng mà thuở còn đi học đọc tiểu thuyết của Thanh Thủy hay của các tác giả
ngòai Bắc, bây giờ mới được tận mắt nhìn thấy ..Chung quanh làng cũng lủy tre
bao bọc, có ngỏ vào, có trạm canh, đường đi có nơi lát gạch tàu, tôi thấy thật
quen, Đất Hà Tây lại có nhiều di tích lịch sử,do khí hậu ở Hà Tây tương đối tốt
nhất đất Bắc, lại cách Hà Nội chưa tới 30 km, nên khi quân Tàu sang đánh chiếm
được Thăng Long thường trú quân ở hà tây, nhờ biết chút đỉnh chữ Hán, nên tôi biết được nhiều ngôi cổ mộ của một vài vị
tướng thời xa xưa, nhiều cái giếng nước có từ xưa( giếng thơi), cứ 2 tù dẩy một
xe cải tiến, ra tới ruộng đồng thì anh em thương lượng chia ra một tù cắt cỏ,
một tù đi bắt rắn, cá, ốc…/ Thu gom quần áo của anh em tù ra bán ngòai dân, mua
trà, gạo, đường đem về bán lại cho anh em, trót lọt vài chuyến cũng bị bắt một
chuyến, dù đã đút lót cán bộ an ninh trại cũng như võ trang, các vụ mua bán
linh tinh bị bắt thì làm kiễm điểm, hàng bị tịch thu, móc nối với dân nhờ ra Hà
nội bỏ thư sau khi thu gom chừng vài chục lá thư, chuyện nầy rất nguy hiễm, bị
phát giác là bị biệt giam ngay…Dân ngòai đó nghèo, nên đồng tiền cũng rất dễ
mua chuộc. Tóm lại các cách kiếm sống của tù đội cá đều tự lực làm bằng công
sức, nhiều khi bị trả giá cũng rất đắc, biệt giam,cấm nhận quà hàng quý, cấm
thăm nuôi… Cuối
năm 1981, đội chăn nuôi giải tán, bàn giao cho hình sự, anh em bị phân tán về
nhiều đội khác nhau, tôi và gần 10 anh em khác bổ sung về đội 3 rau xanh do Anh
Trung tá Nguyễn Hữu Hải, nguyên trường E vùng 2 làm đội trưởng…Anh Hải rất khéo
léo trong đời sống thường ngày, cán bộ không bắt bẻ, anh em không phiền hà …Tay cặp chiếc chiếu kèm theo một xách trĩu nặng,
tay còn lại cũng một xách cồng kềnh, tôi đứng trước vị trí mà anh buồng trưởng
đã chỉ định chỗ nằm, hai chiếc chiếu còn liền sát mí nhau, một anh đang ngồi
tay cầm ống diếu cày, tôi biết tên, Anh Riệp khóa 10 Đà lạt,cạnh chiếu của anh,
dưới mắt tôi là một chú bé con đang say sưa ngủ, thế nằm cong như con tôm càng
kho, mặt áp xuống chiếu, tôi đo thử bằng mắt, chú bé nầy cao chưa tới 1m55,
lòng tôi lại thắc mắc, sao lại có chú bé con trong đội nầy?? Anh Võ văn Ca, đội
phó đang ngồi cạnh chiếu nầy với tay khều chú bé -Dậy,
Dậy xích chiếu cho thằng em đội cá nằm, ngủ hòai mậy. Tôi
thấy chú bé trở mình ngồi dậy hết sức gọn gàng, tay dụi mắt , mặt tự nhiên: -Đại
Úy Khanh, bộ Tổng Tham Mưu chào thằng em mới về đội. Thì
ra tôi lầm, người mà tôi tưởng là chú bé đã có gương mặt già dặn, lớn hơn tôi
cũng phải bốn năm tuổi, tôi nghe cách chào hỏi hơi lạ trong cảnh tù, sau giây
phút ngỡ ngàng, tôi khẻ gật đầu chào lại anh : -Tôi
là thằng Mỏng, đội cá bây giờ là láng giềng của anh. Anh Riệp xích một chút,
Khanh xích một chút, một khỏang trống khỏang 3 tấc hiện ra, vẫn thường quen với
cảnh đổi phòng, tôi cũng chẳng cần thắc mắc về bề mặt quá hẹp cho một thằng cao
1m72 dù là thật ròm, thật mỏng như tôi, cứ trải chiếu rồi …đâu cũng vào đấy
thôi. Đời
ở tù có hai điều khổ, thứ nhất tự khai, thứ hai đổi nhóm… nỗi khổ thứ nhất không
ảnh hưởng tới tôi nhiều, với gần 7 năm lính, qua 3 quân trường và 2 đơn vị, qua
3 cấp bậc và duy nhất một chức vụ, nên bản tự khai của tôi chưa kín hết 2 trang
giấy học trò. Điều khổ nầy chỉ thực sự đúng với mấy anh trong ngành tình báo và
với số tuổi lính trên 10 năm, bởi phải thận trọng trong lời khai, bút sa gà
chết…Còn chuyển nhóm thì gia tài tù chẳng có gì đáng giá nhưng lại đều là những
vật dụng cần thiết, những vật bén nhọn cất dấu nay phải mang ra, cán bộ thấy là
tịch thu phải bỏ công tìm lại cái khác, người bạn tù láng giềng đã quen hơi nay
phải nằm gần người lạ , lại phải mất một khỏang thời gian dài mới hiểu được tâm
tính nhau, trời sinh mỗi người mỗi tính, gặp phải người khó chịu, không vệ
sinh, làm ăn ten… thì rất phiền cho cuộc sống đời tù… Chỉ
trong vòng gần nửa giờ, vật dụng chiếu mền đâu rồi cũng ra đấy, tôi cầm bao
thuốc rê ra vấn, mắt nhìn quanh buồng, buồng nào cũng vậy, cũng người nằm ngủ
dật dờ, người lăng xăng bếp núc, cũng có nhiều kỳ thủ đang khom lưng ghìm nhau
từng nước cờ, từng trên là sòng xì phé, tôi nhận thấy hầu hết người trong sòng
là những tay dân cử thuộc hai nền nhất nhị Cộng Hòa, như dân biểu họ Vũ, dân
biểu họ Lý, dân biểu Mô Lô Tu, nghị viên bắp sú… Dãy đối diện với tôi là Quốc
vụ Khanh Phạm Thái, nhạc sĩ Vũ Thành An , dân biểu Trần cảnh Chung…Tôi thả từng
ngụm khói, đã hơn 5 năm trong lao tù… Lòng tôi bỗng thấy nhớ rất nhiều về những
ngày sống ở Sài Gòn…Cô bạn mắt nâu bây giờ đi dạy học, chữ thủy chung của thời
mạt vận nầy biết có còn giá trị hay không, ở đây tình vợ chồng mà người ta còn
dứt bỏ được huống chi chỉ mới là tình yêu …Trong cảnh tù cải tạo, viễn ảnh
tương lai thật mịt mờ bởi người tù không có bản án, ngày trở về thật mờ mịt. Hiện
trường đội rau, nằm bên hông phải trại, cách một cái ao là khuôn viên của các
đội mộc, rèn và cưa xẽ, từ ngày trại cho thăm nuôi, cho nhận quà thỏai mái thì
cảnh tù cũng trở nên dễ chịu hơn, những cơn đói không còn kéo dai dẳng nữa, với
lại đã hơn 5 năm rồi, người nào cũng tự nhận được vị trí của mình, lè phè được
lúc nào hay lúc đó, lao động tà tà, có chút quà cáp quản giáo cũng trở nên dễ
tính;tôi và anh Riệp với anh Ca chung tổ hai, Khanh thuộc tổ một,về đội nầy tôi
biết thêm rất nhiều cán bộ trong phủ đặc ủy trung ương tình báo, cũng như sĩ
quan cao cấp bên ngành Cảnh Sát, tháng 10 trời Hà Tây còn nóng lắm, bầu trời trong veo chưa có nét gì biểu hiệu
mùa thu sẽ đến, tôi thấy Khanh đang cuốc trở mấy luống rau muống, làm đất chuẩn
bị trồng su hào, hôm nay trông Khanh vui lắm, vừa cuốc vừa hát liền miệng, anh
Hải đội trưởng và cán bộ Bội ( Trunh Úy) quản giáo đang đứng bên cạnh ao rau
cần, cạnh luống của Khanh, bàn tính vét ao trồng rau cần cho mùa đông sắp
tới…giọng Khanh hát càng lúc càng lớn, từ Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Khanh
bắt qua Mùa Xuân Trên Thành Phố ************, Tôi nghe Khanh lái sang Tiếng chày
trên sóc Băm Bo…. “Người dân Băm Bo, cái bụng không no, chỉ lo đánh giặc” Khanh
chống cuốc nhìn tôi cười cười rồi hát tiếp….”đánh như con kẹt…”. Bội quản giáo đang vui vẽ với Anh Hải bỗng nghiêm
sắc mặt -Anh
Khanh hát bôi bát gì thế, không có văn hóa chi cả vào ngay văn phòng viết kiễm
điễm…, mấy anh em tôi đang cuốc đều ngưng tay cười thỏai mái. Khanh
là vậy đó, tôi nằm cạnh nên có dịp chứng kiến nhiều cảnh vui bất ngờ, nhiều
buổi tối Khanh đang nằm chèo queo, chợt ngồi lên ngay ngắn, tay khỏ khỏ vào
không khí làm động tác như đang thử micro rồi diễn giảng: -Đây
là bài diễn văn của chủ tịch mặt trận tổ quốc tỉnh Tiền Giang đọc trong ngày lễ
Phật Đản, Khanh cười cười : -Thằng
Mỹ nó đi rồi mà nó còn cài lại nhiều cái độc địa, bàn máy đánh chữ thì không có
dấu, bọn cán ngố thì luôn tỏ ra thông manh… ……Kính thưa quý vị! Hôm nay là ngày lễ Phát Đạn, trước mặt chúng tôi có
rất nhiều Dao như Dao Phát,dao Thiến Chúa, Dao Cạo Dái, dao Cò Dọc, dao Bà
Hai…Dao Củ Sì…cũng đều là Dao. Anh ba Ca khều tôi thắc mắc -Ê Dao
Củ Sì, Dao Cò Dọc là đạo gì vậy Mỏng -Tịnh
độ Cư Sĩ và Cơ Đốc đó Anh Ca. Anh đang uống nước chợt cười ngang, sặc sụa nước
văng đầy mặt Khanh. Trời
mùa Đông Hà Tây có đêm xuống 3, 4 độ C, Anh em tù thường lấy mùng may cập vào
mền , sau vài đợt thả, mùng mền dư nhiều… tối mùng giăng 2 lớp, phủ mền trùm
kính, phải nửa giờ mới tìm được hơi ấm, vài tiếng đồng hồ phải đi tiểu, hí mền
chun ra để khi chun vào còn giữ được hơi
ấm, có đêm, tôi đang thả hồn về Sài Gòn, Honda đang lên dốc cầu chữ Y thì bị
Khanh khèo cẳng dậy -Ê
Mỏng dậy coi ban nhạc Cảnh Sát đang hòa tấu, còn gì bực mình cho bằng đang ngon
giấc mà bị khều dậy nhưng nghe đề tài cũng lạ nên không càm ràm, Khanh ra vẽ bí
mật chỉ lên tầng trên.. thì ra tầng bên nầy là thiếu Tá Trân, trưởng F áo quần lùm xùm tay cầm chai thuốc bơm mũi đang
ngước mặt lên trời thở rò re vì cơn suyển, bên kia là Cò Ngưu, trưởng F Tây Ninh cũng không khá
gì hơn, đang lấy hơi lên..Cũng từng trên góc cuối là Thiếu Tá Nguơn trưởng E
vùng 3 cũng đang thở như kéo đờn cò;thật tình giận cha Khanh hết sức , đang ngủ
ngon mà bị phá, trở lại dỗ giấc không phải dễ giữa đêm trường lạnh như cắt da.Khanh
còn bình luận nho nhỏ -Tuổi
còn trẻ mà có nhiều quyền hành dễ sinh ra sa đọa, hậu quả bây giờ là…đủ thứ
bệnh Tôi
để ý thấy Khanh ít giao du với ai, thường lủi thủi một mình, miệng thì nghêu
ngao đủ đề tài, lúc đầu mới về đội, tôi hơi bực mình vì cái miệng của Khanh,
rồi thời gian cũng quen đi, Khanh thường hát những bản nhạc với lời thay đổi
nghe ngồ ngộ -‘
Anh đi đâu về mà lòng thòng trên cu dưới dái, Anh đi đâu về mà lòng thòng dưới
dái trên cu, chỉ 2 câu mà Khanh láy đi láy lai cả chục lần , mắt mơ màng ngó về
hướng trời xa bên ngòai cửa sổ, anh Ca nhiều khi phải lên tiếng -Thôi
Khanh nó thòng xuống tới đầu gối rồi mà mầy còn ca hòai.Chưa chịu im, Khanh hát
tiếp:lặng nghe tiếng pháo tiễn ai qua cầu, đời lắm phong trần…cu có gai. Hát
xong Khanh còn cười hi hí rồi tự diễn giải, trơn lui mà còn bắt chuồn chuồn ,
có thêm gai thì …hết sẩy hén Anh Ca Tô
Ngọc Riệp nói thều thào vừa đủ tôi nghe; Bác Hồ chết nhằm giờ thiêng, cho nên
con cháu đứa điên đứa khùng. Bác Hồ chết nhằm giờ trùng- Cho nên con cháu đứa khùng
đứa điên Đổi đề tài, Khanh kể chuyện
..dài Cộng Ngố, thường Khanh mở đầu câu chuyện bằng 1 nụ cười rồi đến 2 chữ vui
lắm. -Thằng
cán bộ vào -Tôi
mới vào Lam, trong đó cũng chả có gì ( Thói dóc láo không chừa)… -Thế
cán bộ vào -Có
xơi, nhưng trái cây trong Lam cũng tàm tạm..Kể tới đây Khanh cười, Anh Du giận
lắm , mới hỏi từng lọai trái, sầu riêng thì chê thối bỏ mẹ, măng Cụt, lôm chôm,
ổi , bười 5 Roi, sơ ry… Thằng cán bộ đều cho tàm tạm. Anh Du hỏi tiếp -Thế cán bộ có xơi Trái Dứng không… Hà trái lầy cũng
tàm tạm…tên cán bộ trả lời. Trời
mùa đông, buổi tối trong phòng thường yên ắng hơn mùa hè vì lạnh nên anh em vô
mùng sớm… nằm đó chớ đâu có ngủ nghê gì, chốc chốc lại vén mùng làm một bi
thuốc lào… năm bảy năm xa nhà ai không thương không nhớ, nầy cha mẹ, anh chị
em, người vợ đầu ấp tay gối, rồi những đứa con… cảnh cũ biết còn không? Người
xưa biết lòng có thay đổi?…trong ánh sáng nhá nhem, có người lấy hình vợ con ra
xem lén lút trong mùng, thỉnh thỏang cũng nghe tiếng thở dài não nuột… Tôi thấy
Khanh vén mùng , vạch chiếu lấy cây đóm, nhồi thuốc vào nỏ, Khanh không hút ngay
mà nhìn qua ngó lại, mặt trông buồn lắm… sau khi kéo 1 hơi ém khói rồi chiêu một
ngụm nước, Khanh treo ống điếu vào đinh … Khanh đang ngồi yên như say thuốc
….Đột nhiên Khanh không nói lối mà xuống ngay một câu vọng cổ…” Không, Hòang
hậu Tô Nương không phải là người mang dú dã, vì chính ta đây đã thấy bả thay ….đồ
- Và ta cũng trông rõ mặt Bác ..Hồ.Tôi thấy Anh Riệp nằm cạnh lồm còm ngồi dậy
vạch mùng hỏi Khanh: -Ê, Bác có nhiều râu không mậy?! Tôi với ba Ca nghe hỏi mà cười ngất. Con
trai mụ Sửu ( thượng sĩ) năm đó 9 tuổi chơi quanh quẩn làm sao lọt xuống giếng,
tụi nhỏ la lên, Thuần( thiếu úy ANQĐ) đang nấu cám heo trong đội chăn nuôi gần
trại gia đình, nghe tiếng ồn ào chạy ra xem, biết chuyện Thuần nhảy xuống vớt
thằng nhỏ lên, nó đà bất tỉnh, Thuần vác lên vai chạy mấy vòng xóc nước cho
thằng nhỏ nhờ vậy chú nhỏ mới tỉnh dậy, Thượng sĩ Sửu cám ơn rối rít sao đó có
mang 2 cần đường cho Thuần bồi dưởng nhưng Thuần nhất quyết không nhận.. Từ
việc đó anh em trong đội gọi Khanh là con trai bà Sửu( có lẽ mụ tuổi sửu sinh
năm 1949) vì tướng tá nhỏ con của Khanh. Nghe gọi như vậy Khanh cũng chẳng phản
đối gì. Khanh là vậy
đó, tôi cũng ít khi nghe anh nhắc chuyện gia đình, thỉnh thỏang thấy anh có
nhận quà , anh sống rất giản dị,ăn uống dễ dàng, những bản nhạc anh hát thường
không có bản nào đúng lời.. với Những Đồi Hoa Sim anh đã hát…” những người con
gái, ôi những người con gái nghèo mà ham làm bà…Chuyện một hôm nàng mê ông
Thiếu úy mang bầu nên phá thai…Với thơ TTKh thì anh ngâm: Nếu biết rằng em đã
có chồng, anh về lắt kẹt thả trôi sông, kẹt anh trôi giữa dòng sông lạnh , em
đứng trông theo nát cửa lòng… Có khi anh nghiêm trang ngồi thẳng lưng giả giọng cụ
Hương đọc bài diễn văn bàn giao chức tổng thống cho Dương văn Minh,giả giọng
già chậm rải…” vận mệnh quốc gia không phải là cái khăn mu soa mà muốn giao cho
ai thì giao; có lúc anh nhái giọng tông tông Thiệu làm nguyên bài diễn văn Tổng
Thống đã đọc trước ngày ngưng bắn…” Cộng Sản dùng dao, ta dùng súng, chúng dùng
súng ta dùng trọng pháo, chúng dùng trọng pháo ta cho máy bay dội bom lên đầu
chúng. Thường
buổi tối chúa nhật anh em tù thường vô mùng sớm vì phải dưởng sức cho thứ hai
còn đi lao động, Khanh thì cả ngày ngủ gà ngủ gật, đêm anh em vô mùng Khanh
thức nằm đó, mắt ráo hỏanh..Có lần Khanh khều tôi kể chuyện lính sinh Bắc tử -Ê
thằng Mỏng biết không, tụi lính chính quy Bắc Việt xâm nhập vùng bốn, có giao liên
dẫn đường, mà vùng bốn có rất nhiều sông, kinh đào, một lần tới kinh Dương văn
Dương gần khu trù mật Mỹ Phước Tây, mấy anh sinh Bắc mới hỏi giao liên làm sao
qua sông -Thì
lội qua chớ còn làm sao nữa. Thế
là mấy anh sinh Bắc xoắn ống quần, vác ba lô từ từ lội xuống nước, kinh sâu
trên 2 thước cha con chúng té uống nước lớp ngớp bò lên. Tới bờ liền xổ tiếng
Đan Mạch -ĐM.
Sâu bỏ mẹ không bảo bơi mà bảo lội…Khanh cười thỏai mái, rồi khóat tay ra hiệu
bảo tôi nằm yên -Chưa
hết đâu, tối trời chúng cần xử lý nhu cầu khóai thứ tư, bò ra đồng trật quần
ngồi nhìn sao trời, xong việc bức cỏ chùi, đứng dậy còn nghe thoang thỏang mùi
thơm…bèn chặc lưởi: -Trong Nam, cả cơm lắm tiền,
tới cỏ chùi đít cũng thơm. Thằng Mỏng mày biết tại sao không? Chúng ra ngồi
trúng chỗ rau mò om mọc…Miệt Đồng Tháp Mười có nơi rao om mọc kín cả khu ruộng. Một buổi chiều chúa nhật,
Khanh ra hội trường xem anh em trang hòang chuẩn bị cho ngày lễ 2 tháng 9, tối
đêm đó Khanh có đề tài mới: -Chiều nầy ở ngòai hội
trường vui hết sức, Mỏng mày biết không, khi Anh Ry họa sĩ đang khắc mấy chữ
dưới hình Bác Hồ, anh mới khắc chữ chưa bỏ dấu câu Đời đời nhớ ơn Bác; mày biết
Trung Tá Đào Mỹ Ngọc, chỉ huy trưởng pháo binh sư đòan vùng 3, chấp tay sau đít
đứng nhìn một hồi, ông cười cười đọc chậm chậm mà lớn -Đói đói nhớ ớn Bác. Mắc cười lắm, mấy tay yếu bóng
vía đứng gần ông Ngọc bỏ lãng đi hết, tiếng Việt mình hay thiệt, chỉ khác dấu
là nghĩa trái nhau liền. Trại Hà Tây có một điều làm
anh em tù thắc mắc và có lẽ tới giờ phút nầy cũng không ai tìm ra dược giải đáp
đó là những số hiệu của mỗi tù viên. Tất cả tù cải tạo đều có số tù, trước con
số là 2 chữ , phần nhiều là CT rối tới 3 số, cũng có nhiều anh mang 2 chữ CP,
có anh CU, CR… mà những tù có cùng số chữ giống nhau cũng đều thuộc ngành nghề
khác nhau nên không thể nào đóan ra ngầm ý của 2 chữ tắt nầy, Chữ CT tạm thời
giải thích là cải tạo. thế thì những chữ kia có nghĩa là gì.bản thân người viết
bài nầy mang số CT 919, số nầy được đóng vào lưng áo khổ cao khỏang 2 tấc.Trại
cả mấy ngàn tù cán bộ chỉ nhìn và ghi tên số tù là truy ra tên tù ngay chứ làm
sao cán bộ trại biết tên hết được.Trong một buổi tối, Khanh nghe anh em thắc
mắc chuyện nầy, đang nằm đắp mền, Khanh ngồi dậy -Chuyện nầy có gì đâu mà
không hiểu, CT là cá tra, CU là cá út, CR là cá rô, CP là cá phi, tụi mình là
cá đang ở trên thớt Cộng sản…Nói xong Khanh cười hí hí rồi nằm xuống tiếp tục
kéo mền đắp như không có chuyện gì xảy ra… Ngày tháng cứ dần trôi,
thỉnh thỏang trong năm, trại cũng có thả năm mười người, cứ sau mỗi đợt thả là
anh em uể ỏai ra thấy rõ, thừa dịp khai bệnh ở nhà cũng thỏai mái được ít hôm,nhớ
hôm thả tướng Lâm Văn Phát, cán bộ giáo dục đọc quyết định thả … Lâm văn Phát
can tội thiếu tướng, có tiến bộ trong quá trình học tập cải tạo …Anh em tù ngồi
nghe đều cười rút rít, mới có hơn 5 năm mà tướng được thả còn hàng hà cấp úy
ngồi đây, Cộng sản là vậy đó, nhiều cái nghịch lý Cộng Sản vẫn làm được, tôi đã
chứng kiến biết bao nhiêu cảnh chia tay, có người nằm cạnh chiếu, có bạn đồng
hương, cùng khóa, ăn cơm chung, cùng đơn vị, nếu chia tay là vui thì Quốc văn
Giáo Khoa Thư không viết” Ôi! Cảnh biệt ly sao mà buồn vậy”,Cứ sau mỗi đợt thả,
gia tài tù của tôi có thêm vài món, khi thì cái cgảo, lúc là cái mền… Năm tháng
chất chồng đời tù cứ trôi, người tù đều đã biết rõ mình là ai, một số làm ăn
ten nay cũng hồi chánh trở về với chính nghĩa quốc gia, những tay cần cù lao
động để được hưởng mức ăn cao nay đều thấm mệt một số bị cụp lưng, rồi thấy
lòng hối hận vì đã trót ngu nghe lời lao động tốt, tiến bộ tốt để được tha về
sớm.. Từ mất lòng tin( Trong lúc Tổng thống đã từng nói “Đừng nghe những gì CS
nói…’) trở nên lao động lè phè … cảnh sống tù trở nên thỏai mái nhiều nhờ diệt
bớt ăn ten. Mỗi
ngày ra lao động là cũng có ý đồ, ít ra cũng có dịp tìm rau, củi, đóm để tối về
nấu nướng…trưa chiều thu quân, sau khi báo cáo số tù, anh em xếp hàng đôi lột
nón cầm tay bước qua cổng trại với cặp mắt công an nhà nghề của cán bộ trực
trại, nhìn từng người một, bởi ở lâu năm nên nhóm cán bộ trực rành rẻ từng cá
tính tù viên, thường nhửng ngày cuối tuần hay trước khi có lễ lớn là các đội
đều bị nhóm thi đua khám xét từng người. Ở trại Hà tây anh em không thể nào
quên được tên trưởng ban thi đua Đổ Công Thành ( Quốc gia hành chánh). Đây là
một tên chó săn rất thính mũi, tổ chức hệ thống báo cáo dày đặc, và tên Thành
sau hơn 5 năm được giặc thả về…Sau nầy có Triệu râu, Trung tá trưởng một phòng
thuộc Quân Trấn Sài Gòn, xin xỏ cán bộ an ninh mấy lần để được đề cử làm nhân
viên thi đua…đây là một con người bần tiện nhất trại tù Hà Tây, không thể nào
kể hết những việc làm nhơ nhớp của tên nầy. Trại
xét mặc trại, anh em lận vào cứ lận …Anh em thường nói…”qua không qua thì hóat Một
buổi trưa đi làm về , cán bộ Từ trực trại ( thượng sĩ) và trung sĩ Hùng an ninh
cùng với 4,5 nhân viên ban thi đua chận ngang cửa xét từng tù viên, Tùng thuộc
đội ngói, lận trong lưng một vật gì khá lớn, cán bộ Hùng chộp ngay anh ra khỏi hàng,
thò tay vào áo lôi ra…Tất cả anh em tù chứng kiến đều bật cười …, thì ra một con truyền giống nam mà
ngòai Bắc gọi là con Bùi Giái được nắn rất công phu trong trạng thái hùng dũng
thuộc lọai …đai gia trông rất sống động, có cả hai trứng vịt thật gồ ghề, cán
bộ Hùng giận xanh mặt bắt Tùng vào ngay phòng an ninh viết kiễm điểm..Trưa đó
Khanh thích lắm ngồi cười hòai, chốc chốc lại khen Tùng có hoa tay nắn thật
giống , thấy cả gân. Đất sét hầm chín màu đỏ gạch nặng khỏang 1 kilô. Khanh kết
luận câu chuyện bằng hai chữ “quá đã… Qua
tin tức thăm nuôi, người nhà cho biết ở Hàm Tân mới thiết lập trại tù mới, đã
có nhiều nhóm anh em tù ngòai Bắc được chuyển về Nam bằng xe lửa và nhốt tại
trại Z30D thuộc Hàm Tân, nghe tin nầy anh em thấy phấn khởi, tù đâu cũng là tù,
nhưng dù sao về Nam không khí cũng dễ chịu hơn, gia đình gần gủi hơn, dễ thăm
nuôi hơn, đề tài trong câu chuyện hàng ngày của anh em tù là việc chuyển trại,
bao nhiêu “thầy bàn “ trong trai được dịp bình luận, nào là về Nam để chuẩn bị
cho Mỹ bốc đi, nào là về Nam để rồi sẽ thả hết… Sáng
thứ hai, ra sân chờ đi lao động, anh em thấy có 1 cái bàn đặt trước sân ( cái
bàn nầy mỗi khi xuất hiện được an hem gọi là bàn hương án, lập bàn nầy thường
để cán bộ giáo dục nói chuyện hay trai trưởng muốn dặn dò với tù ,đọc lệnh tha,
đọc quyết định kỷ luật, thế là anh em nhao nhao bàn tán, có đợt tha ? có anh
nào bị kỷ luật?... Tới
giờ kẻng đáng xuất trại, anh em tù ngồi chồm hổm theo thứ tự từng đội trước cửa
hội trường như thường lệ, cổng trại mở ra, anh em thấy thiếu úy Bốn, cán bộ
giáo dục( tên Bốn nầy là cán bộ giáo dục có giọng nói ngọng, thường bị anh em
nhái giọng nhạo báng), thượng úy Nhận, Trại phó ( tên nầy ốm, cao da thâm đen,
mặt lúc nào cũng đằng đằng sát khí, anh em tù gọi hắn là Thiết Chưởng Thủy
Thượng Phiêu Cù Thiên Nhận, tên một nhân vật võ lâm của kim Dung)) Anh em bàn
tán xù xì, chỉ có hai tên nầy mà không có Đại Tá Mô trưởng trại thì chắc không
có gì quan trọng. Sau
một vài thủ tục nghi thức, Bang Nhận bắt đầu nói, Nhận khẳng định với anh em là
trại nào chuyển về Nam chứ trại Hà Tây nầy không có, và sau một vài câu quen
thuộc về nội quy và lao động, anh em bắt
đầu xuất trại. Đêm
tối chờ đánh kẻng ngủ, thường trong buống có nhiều hình thức sinh họat, chỗ thì
bàn thời cuộc, chỗ thì cờ tướng, giải đóan tử vi xem trong tuần có quà không?
Đêm nay gần đi ngủ mà tôi chưa thấy Khanh có mục gì mới, vẫn mãi miết cầm tờ
báo xem say sưa… Tôi không phải chờ lâu, tôi thấy Khanh ngồi bật dậy… ngó qua
ngó lại rồi bắt đầu đọc lớn; -Cuộc
họp quốc phòng tối cao được tổ chức tại thủ đô Mút Ku giữa Nhật và Liên Sô,
Trưởng phái đòan Liên Sô là Nguyên Sóai Móoc-Ku-Ra-Đốp, trưởng phái đòan Nhật
là Đại Tướng Đút-Ku-Dzô-Mu-Kô, ngòai ra còn có phó thủ tướng Liên Sô, đồng chí
móoc-Ku-dra- Koi… Phải có một màn trật trờ Khanh mới chịu đi ngủ. Hai
ngày sau, trưa thứ tư tan tầm buổi trưa trời bắt đầu đổ cơn mưa lớn, mưa dai
dẳng cho tới giờ lao động chiều, anh em vui vẻ, mưa khỏi lao động, khỏang 3 giờ
chiều trời còn đang mưa, cán bộ giáo dục đi vào từng buồng kêu gọi anh em yên
lặng nghe đọc tên chuyển trại về Nam và không quên dặn dò anh em nào có tên
phải khẩn trương gọn nhẹ đồ đạc chuyển đến buồng 8( Buồng mà trước đây anh em
Biệt Kích ờ , tù hình sự cũng thường ở đây) . Đội
rau có 2 anh có tên :Thiếu tá Minh( Phi công vận tải) Đại Úy Khanh( Bộ Tổng
Tham Mưu), Đại úy Phạm Văn Quý( phi đòan Thần Phong) bên đội Phạm Thái Anh
em phụ sắp xếp đồ đạc cho mấy anh di chuyển, Khanh vừa xếp đồ vừa nói: -Mới
thứ hai Bang Nhận nói không chuyển trại mà nay lại chuyển, Ông Thiệu nói không
trật được,đã bảo đừng nghe những gì…Khanh bỏ lững câu không nói tiếp mà nhìn
anh em cười Trời
ngớt hột mưa và dần tạnh hẳn, anh em lao nhao bàn tán, rồi cũng biết được chính
xác con số chuyển về Nam, tất cả có 100 anh, bạn bè phụ khuân giúp, cảnh trông
ồn ào rộn rịp, cán bộ trại cũng không nói gì, khỏang hơn 1 giờ sau, các anh em
chuyển về Nam đều đã yên vị khu vực bị cách ly. Anh em đứng bên nầy tường rào,
trèo lên nóc nhà tắm nhìn sang khu buồng 8, tôi thấy anh Nguyễn Phu, chỉ huy
trưởng Trung Tâm 3 tuyển mộ đang hướng về Anh Trung tá Hùynh Hữu Đức, trưởng
ban quân kỷ bộ tổng tham mưu, xá dài 3 xá từ giã, người đi, người ở dặn dò từ
giã nhau, trời mới tạnh mưa , cảnh vật còn ủ rũ lắm, cảnh chia tay lại càng thêm buồn, buồng 8 cách
ly hẳn với các buồng còn lại, chỉ có anh em thi đua mới được ra vào, chiều hôm
đóThếng ( đại úy trong ban thi đua) mang đến cho tôi một gói thực phẩm , anh
trung tá Đức nhờ chuyển lại cho tôi, tôi mở ra thấy có nhiều lạp xưởng, gạo và
vài lọai thức ăn khác… Đêm
đó trong buồng thật yên ắng, anh em âm thầm hút thuốc, ít tiếng cười giỡn,mọi
động tác trở nên nhẹ nhàng cẩn trọng, hầu hết cùng chung tâm trạng, ngày mai
rồi đời mình sẽ ra sao?? Sáng
hôm sau, ngày thứ năm, một trăm anh em xách hành lý ra cổng, anh em còn lại bị
nhốt trong buồng,toán về Nam cứ 2 người chung một còng ( đồng hồ xã hội chủ nghĩa)…Tới
gần 9 giờ sáng cửa buồng mở , xe đã chở anh em đi mất, tù còn lại tiếp tục
chuẩn bị xuất trại như thường ngày. Khanh
đi rồi , đêm nằm tôi thấy vắng vẻ, thấy nhớ từng câu hát của Khanh, mọi xáo
trộn trong cảnh tù phải năm mười ngày sau mới bình thường lại. Sau
ngày ra tù, thỉnh thoảng tôi có gặp lại bạn tù năm xưa, riêng Khanh tôi chưa
một lần gặp lại, không biết Khanh có vượt biên, có đi theo diện HO hay là ở lại
Việt nam sống với lũ gặc cuồng… Mười
năm sau hay cả cuộc đời, cảnh sống trong tù tôi không thể nào quên được, rất
nhiều đêm trong giấc mơ tôi thấy tôi đang lao động trong trại khổ sai, tôi thấy
tôi đang bị công an địa phương hạch hỏi
tôi, tôi thấy bạn tôi bị thương mình đầy máu trên con đường di tản trên tỉnh lộ
7B…tôi thấy tôi đang bốc vác cải cà trong chợ Trương Quốc Cường, công việc làm
kiếm sống của tôi sau tù, đồng tiền kiếm được bằng mồ hôi vừa đủ nuôi thân.
Những lúc tỉnh giấc biết mình đang nằm yên ấm trong nhà trên đất tự do, tôi
không khỏi cám ơn Phật Trời đã hộ trì tôi thoát khỏi cảnh sống kinh hoàng…mà
tôi vẫn nghĩ cuộc sống đó là… Địa ngục trần gian. Bây
giờ nơi xứ lạ quê người, nhìn lại cuộc đời đã qua tôi thấy mình đã đi trên đọan
đường quá nhiều chông gai, hơn tám năm trong lao tù Cộng sản tôi còn sống tới
ngày hôm nay cũng là điều may mắn trong cuộc đời. Mẹ của tôi, chị của tôi đã
thăm viếng nuôi nấng tôi suốt trời gian tù tội, người đàn bà Việt Nam thật đáng
trân quý, bỏ qua một thiểu số không giữ được lòng kiên trinh, gió xóay cờ xoay,
lòng người chao đão.. còn lại hầu hết là những người mẹ, người chi, người em
gái, người vợ…sống đạm bạc chắc chiu từng đồng bạc để nuôi con, nuội em, nuôi
anh, nuôi chồng trong những trại khổ sai xa xôi mịt mù đầy nguy hiễm …Vĩnh Phú,
Nam Hà, Hà Tây, Tân Kỳ, Thanh Phong… Những
người mẹ già thương quý đó nay còn đâu, nỗi thương, nỗi nhớ, lòng khắc khỏai
trông chờ…những người mẹ đó đã mang theo bao nhiêu thương nhớ sang cõi vĩnh
hằng. Người đàn bà thương tôi nhất trên cõi đời nầy là mẹ, mẹ bây giờ ở đâu?
trong cõi vĩnh hằng bên ba, mẹ có hiểu được lòng con, đất người tuy nắng tự do,
đời sống vật chất tuy đủ đầy nhưng làm sao nhìn lại đựơc dáng mẹ hiền thân
thương cũng như những ảnh hình kỷ niệm mà ngày ra đi phải đọan đành bỏ lại, để
nơi xứ người vẫn luôn mong có một ngày quang phục, được trở về sống những ngày
cuối đời nơi quê cha đất tổ, nhìn lại lá cờ vàng phất phới bay trên khắp nẻo
đường quê hương…!! THỦY LAN VY (Kỳ Đà Động- Hè 2005) |
|
Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
|
|
![]() |
|
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |