![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Lịch Sử - Nhân Văn | |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
Người gởi | Nội dung |
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() Gởi ngày: 02/Oct/2011 lúc 6:42am |
Gió O phỏng vấn nhà văn Văn Quang ![]() nhà văn Văn Quang qua nét vẽ của hoạ sĩ Đinh Cường **** Nhà văn Văn Quang sinh năm 1933 tại Thái Bình.
Tốt nghiệp Khóa 4 Sĩ Quan trừ
bị Thủ Đức, sau đó phục vụ trong ngành Tâm Lý Chiến. Đã một
thời làm Quản Đốc Đài phát thanh Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà. Cấp
bậc Trung Tá.
Tác phẩm đã xuất bản: Ngàn
Năm Mây Bay, Những Tâm Hồn Nổi Loạn, Nét Môi Cuồng Vọng, Đời
Chưa Trang Điểm, Tiếng Gọi Của Đêm Tối, Tiếng Hát Học Trò, Vì
Sao Cô Độc, Người Yêu Của Lính... Các phẩm Nguyệṭ Áo Đỏ
(1963). Chân Trời Tím (1964) được Liên Ảnh quay thành phim, tạo nên
tên tuổi nhà văn ở Miền Nam thời bấy giờ.
Sau tháng 4 năm 1975, ông trải
qua nhiều năm tù ở K 5 Vĩnh Phú và K 2 thuộc Z 30 tại Hàm Tân.
Ra khỏi tù Văn Quang không tị nạn sang Hoa Kỳ theo diện HO như hầu
hết các tù nhân chính trị khác. Năm 2002, ông rời bỏ Sài Gòn và dọn
lên Lộc Ninh sinh sống. Ở đấy hàng tuần, Văn Quang cho ra loạt ký sự
"Lẩm Cẩm Saigòn Thiên Hạ Sự", và chỉ gửi ra cho các báo Việt Nam ở hải
ngoại. Loạt bài này rất được độc giả hải ngoại ưu ái đón nhận.
Lê Thị Huệ: Ông có thể mô tả cho độc giả gio-o nghe về nơi chốn ông đang làm việc. Có máy computer, có internet, có cây xanh đất đỏ mùi quê, cảm xúc cô độc và không cô độc ? Văn Quang:
Trước khi quyết định chọn một nơi nào đó làm chỗ sinh sống, chắc chắn
người nào cũng phải cân nhắc xem nơi đó có những điều kiện gì, có thích
hợp với cuộc sống và công việc của mình không. Tôi cũng phải làm như
thế. Khi tôi đến Lộc Ninh, được dẫn vào một khu nhà vườn cách thị trấn 3
cây số, ở đây đã có điện, nước, có đường truyền internet rồi. Đó là 3
điều kiện đáp ứng được nhu cầu của tôi. Thứ đến là điều kiện an ninh như
thế nào. Sau cùng là khung cảnh yên tĩnh, bởi nơi này một nửa là thôn
ấp, một nửa là vùng đồi núi. Song, tất cả lại phải tùy thuộc vào giá cả.
Vậy nên nó trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu. Tôi đã đi xem đất ở
một số thị trấn như Long Khánh, Chơn Thành… cuối cùng kết luận là không
nơi nào có giá đất vườn rẻ hơn Lộc Ninh.
Ở ngay thị trấn LN, giá đất khá cao, tôi lui vào xã Lộc Thái, một nơi “nhà không số, phố không tên”. Tuy nhiên đã có sẵn con đường làng, trải nhựa, dẫn vào tận nhà, có đèn đường, có điện, xài nước giếng khoan. Đường truyền internet hồi đó là dial up chạy tành tạch, chậm, nhưng vẫn có thể làm việc được. Cách đây một năm mới có đường dây ADSL khá nhanh, nhưng có lẽ chỉ mắc đến xã của tôi ở là xa nhất so với khu trung tâm thị trấn. Căn nhà vườn này của người chủ cũ, trồng tiêu lâu ngày, nay con cái lớn nên muốn về Sài Gòn cho con đi học. Vả lại trồng tiêu cũng không còn có lời như xưa nữa nên họ bán lại toàn bộ diện tích nhà vườn với 5.400m2. Trong đó có sẵn một số cây ăn trái, một cái nhà gỗ, dụng cụ làm vườn, bơm nước… Nếu mua có thể ở và khai thác ngay. Giá cả lại rất rẻ. Tất cả 165 triệu đồng VN (10 ngàn USD). Đến nay, giá đất ở thôn xã này cũng không đắt hơn bao nhiêu. Nhưng theo tôi biết, giá đất vườn ở đây rẻ hơn tất cả những nơi khác. Nếu Gio-O muốn mua, hoặc bất cứ độc giả nào muốn mua, tôi xin tìm giùm, cam đoan không biết làm “cò”, không mất hoa hồng, tôi chỉ muốn thông báo tin này và muốn có thêm hàng xóm cũng như mình. Tuy nhiên cũng cần nói thêm là nơi này chỉ thích hợp cho những vị muốn “dưỡng già”, muốn tìm một chỗ yên tĩnh, an ninh, thảnh thơi. Hầu như không thể làm ăn buôn bán gì được. Nhưng nhà vườn thì không bao giờ chết đói và cũng chẳng bao giờ giàu được. Cuộc sống thanh đạm, yên bình. Lộc Ninh là một thị trấn bị bao vây bởi những lô cao sư từ xa xưa, hiện nay chưa phát triển được hoặc không thể phát triển được, nên cũng rất ít tệ nạn xã hội. Không thể nói không có trộm cắp, nhưng rất ít và cũng không có những vụ thanh toán ly kỳ. Hơn 2 năm nay, tôi chưa hề thấy một vụ “trấn lột” giữa đường nào như ở các thị trấn phát triển ồ ạt khác. Cứ 7 giờ tối là con đường trước mặt nhà tôi không còn ai qua lại, không một tiếng xe, không một tiếng người. Khoảng 9 giờ tối là thôn xóm vắng ngắt, mọi nhà tắt đèn ngủ sớm, cứ như khuya khoắt lắm rồi, chỉ có những ngọn đèn đường còn thức với những vườn cây, ao cá um tùm ngút ngàn. Nghe thì có vẻ như xa lắm, nhưng thật ra Lộc Ninh cách Sài Gòn 123 cây số - vừa bằng đường ra Vũng Tàu. Nếu đường sửa xong, đi xe hơi chỉ mất khoảng 2 giờ. Hiện nay, Quốc lộ 13 đang sửa nên từ Sài Gòn đi, khoảng 3 tiếng là đến nơi. Có 2 lý do chính tôi chọn Lộc Ninh Thứ nhất: Ngoài yếu tố tất nhiên là giá đất rất rẻ như tôi đã nói ở trên. Với số tuổi của tôi, không còn thích hợp với đời sống ở thành phố nữa. Cái chung cư tôi ở Sài Gòn, như cái tổ chim, suốt ngày ồn ào, ngột ngạt, ô nhiễm năng nề. Làm việc chừng vài tiếng đã thấy mỏi mệt, rã rời, đầu nhức, mắt hoa. Thuốc nhức đầu, cảm cúm như cơm bữa đối với tôi. Do đó tôi quyết định phải chọn một vùng quê yên tĩnh cho cuối đời. Cái khúc quanh này trong cuộc sống quả là có khó khăn, quyết định thực hiện được với mỗi người không dễ dàng. Song tôi vẫn phải cố gắng vượt qua nó như đã từng vượt qua những khó khăn hơn thế. Lần này thì dễ dàng hơn vì nhà chỉ có 2 người, bàn bạc với nhau là xong. Tôi cũng xin nói thêm là nhờ bạn bè giúp đỡ khá nhiều, con cháu tôi cũng góp phần cho tôi có đủ điều kiện thực hiện ước muốn. “Rách” như ông Hoàng Ngọc Liên hồi đó cũng “khuyến khích” tôi bằng 1000 USD, bố con ông Tạ Quang Khôi, Vũ Đức Vinh, Hà Túc Đạo, Nhất Giang, Vi Túy, Hồ Ông, Lê Thị Kim, Bạch Quyên, Hồng Oanh cũng góp phần không nhỏ cho tôi “về nhà mới”. Hầu như tất cả những tiện nghi trong nhà tôi ở đây đều do bạn bè tặng. Thứ hai: Tôi vẫn nghĩ: một nhà văn, nhà báo, phải biết “làm mới mình”. Ở thành phố mãi, đề tài quen thuộc sẽ cùn dần. Quay đi quay lại “nó vẫn thế”. Về nhà quê, có lẽ là cách tốt nhất để “làm mới” mình. Nơi này từ năm1972, người dân Lộc Ninh đã sống trong vùng được gọi là “giải phóng”, nói thẳng ra là họ sống trong vùng của miền Bắc kiểm soát nhiều hơn, dưới cái tên “Mặït trận Giải Phóng miền Nam”. Bên cạnh đó là chiến trường đẫm máu An Lộc, Bình Long năm 75 và những vùng nghèo khó, giáp ranh biên giới Campuchia… Tôi có thể tìm hiểu được thực chất đời sống cùng tâm tư của họ. Người dân quê đã mất gì, được gì, từ năm 1975 đến nay? Đích thực họ nghĩ gì, làm gì, hy vọng gì? Những biến chuyển sâu sắc nhất trong từng gia đình như thế nào? Từ đó so sánh với cuộc sống ở những thành phố, từ đó tìm biết được những mảnh đời khác với những gì tôi đã biết. Từ đó cho tôi một cái nhìn sâu hơn, xa hơn, thật hơn, về toàn bộ những gì dân tộc mình qua những triều đại mà tôi đã sống. Còn nói về sự cô đơn: Phải thú nhận rằng đôi khi cũng cảm thấy thiếu trò giải trí chứ chưa hẳn là cô đơn. Ở đây không có một thú vui nào, không có một phòng trà ca nhạc, không có một tiệm karaoke và cũng chẳng có một quán cà phê có nhiều “bóng hồng chiều chuộng”. Hàng xóm toàn là những ông già, chất phác, chân thật, năm thì mười họa mới sang nhà nhau một lần. Đôi khi gặp nhau trong một đám hiếu hỷ, chuyện trò rôm rả, nhưng toàn là thứ chuyện mình mù tịt. Ngồi im mà học cách họ chăm bón cây ăn trái, mỗi cây có một cách chăm sóc riêng. Muốn có một cây đu đủ đực thì phải làm thế nào. Muốn dừa ngọt thì phải làm gì… Đại khái như thế. Tuy nhiên, đôi khi lại thấy thích thú vì sự cô đơn ấy. Được “tự do” suy nghĩ cả buổi mà không ai thèm nói với mình câu nào. Và để làm dịu bớt cô đơn, nhớ bạn bè hoặc có bạn bè, con cái từ nước ngoài về thăm, tặng quà cho anh em TPB VNCH thì lại lên xe đò về Sài Gòn một vài ngày, hoặc nếu muốn, có thể sáng đi chiều về cũng chẳng sao. Ở đây có loại xe đưa đón tận nhà, giá chỉ có 50 ngàn đồng VN một lượt. Hoặc ngồi buồn, gọi điện thoại qua internet nói chuyện với các ông bạn ở Mỹ, ở Canada, ở Úc… nhanh như điện thoại di động, rõ và rẻ hơn di động. 60 ngàn đồng VN, nói chuyện được 200 phút. Có khi cả tháng tôi chưa dùng hết một card điện thoại internet. Trong hơn 2 năm qua, bạn bè và con cháu tôi từ nước ngoài về VN, lên chơi Lộc Ninh cũng khá nhiều. Như thế thì không còn cô đơn nữa và luôn quyết định được thời gian của mình. Tôi nghĩ “quỹ thời gian” của mình cũng chẳng còn nhiều. Một người bạn tôi, anh Nguyễn Đình Toàn, từ Cali về chơi, nói đùa “nhà này chỉ còn thiếu bốn chữ “Văn Quang chi mộ” nữa là hoàn hảo. Tôi nghĩ ngày đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Vui vẻ chấp nhận nó với cuộc sống hiện tại. ![]() Lê
Thị Huệ: Tại sao ông lại chọn lối viết "Lẩm Cẩm Sài Gòn Thiên Hạ Sự" .
Qua cách viết này, ông viết rất sung sức, rất khoẻ, rất bén nhạy. Tại
sao ông không chọn lối sáng tác tiểu thuyết như trước 1975
Văn Quang: Về câu hỏi thứ hai, tôi chọn lối viết “lẩm cẩm Sài Gòn thiên hạ sự” bởi mỗi đề tài, tôi chọn một lối viết khác để độc giả dễ dàng chia sẻ những cảm xúc, những ý tưởng của mình. Trước đây tôi cũng thường viết nhiều loại. Tiểu thuyết, tiểu thuyết phóng sự, phóng sự, truyện ngắn. Tiểu thuyết để diễn tả những đề tài về nội tâm, sâu sắc hơn, về tính thời đại chứ không phải thời sự. Tính thời đại có thể nói về những sự việc, những tâm trạng, những hình ảnh cách đó 5- 10 năm. Nhưng thời sự thì chỉ diễn tả những sự kiện xảy ra gần nhất trong tuần hoặc trong tháng. “Lẩm cẩm” là một lối viết có tính thời sự. Bởi tính cách “đặc thù” của thời hiện tại nơi tôi đang sống, nên buộc phải viết theo một cách nào đó để không bị gây phiền lụy. Tôi “xông” vào những đề tài xã hội “nóng” nhất, có tính điển hình nhất mà người dân đang chú ý. Một nhu cầu khác nữa là hướng đến độc giả hải ngoại, đang quan tâm tới điều gì? Nói cho rõ hơn, Việt kiều của chúng ta đang muốn biết điều gì đang xảy ra tại quê hương mình. Chắc ai cũng muốn có những thông tin chính xác, không bị vo tròn bóp méo bởi bất cứ lý do nào, đôi khi chỉ là sự “tam sao thất bản” nên thông tin thiếu độ trung thực. Tôi chọn lọc những sự kiện ấy, tìm kiếm thông tin chi tiết và làm thế nào càng chính xác được càng tốt. Nó không phải là một bản tin thuần túy mà đưa vào những nhận định, quan điểm của riêng mình như một lời bàn bạc, nói chuyện với độc giả một cách bình thường chứ không là lý luận. Từ đó bạn đọc có thể hiểu rõ vấn đề hơn và có thể suy luận, nhận định riêng. Do đó, người ở xa quê hương, vẫn có thể biết rõ những sự việc xảy ra tại quê nhà. Tuy nhiên như chị đã thấy, “lẩm cẩm Sài Gòn” không chỉ là những chuyện lẩm cẩm. Nó có cả những mặt trái, mặt phải của xã hội, chuyện khôi hài và chuyện đau thương, những bản tường trình thẳng thắn vượt qua mọi áp lực. Miễn là chuyện xảy ra có thật. Cái nhìn xoáy về phía sau những sự việc đã và đang xảy ra chứ không phải chỉ có “bề mặt” sự việc, tôi nghĩ đó mới thực sự cần thiết cho bạn đọc ở nước ngoài vốn không có nhiều thì giờ theo dõi. Tóm lại, “lẩm cẩm Sài Gòn thiên hạ sự”, nếu tổng kết lại, nó sẽ là một bức tranh toàn cảnh của xã hội tôi đang sống. Nó phản ảnh được trung thực mọi vấn đề ở bề mặt đời sống của người dân thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội. Từ một anh nông dân “lừa được cả nước” đến một đại gia lương thiện và bất luơng, từ lớp thanh niên đến các quan chức, từ cô gái tỉnh lẻ đến các cô gái chân dài thành thị. Từ nỗi đau thương cơ cực của “những người bị bỏ quên” như anh em thương phế binh VNCH đến những cảnh trác táng cùng cực, hoang phí vô cùng của lớp người ăn trên ngồi trước… Cái khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, những điều phi lý bất công, những điều cần nói mà người dân không nói được… Tất nhiên, trong hoàn cảnh của tôi, có những hạn chế mà ai cũng hiểu được. Cho nên viết và “lách” vẫn là điều phải nghĩ tới. Tôi làm cái gì mà luật không cho phép cũng không cấm. Tôi làm với lương tâm của một người cầm bút. Dù ở đây chẳng ai công nhận, tôi vẫn là người cầm bút. Người làm báo có thẻ làm báo, nhưng tôi chẳng có gì ngoài những tìm tòi của mình, tự mình lựa chọn thông tin. Còn những “rủi ro” bao giờ tới và tới lúc nào, đành chấp nhận như một số phận an bài. Nếu cứ nghĩ tới những thứ đó thì chẳng làm được việc gì đáng làm. Tôi không tham gia bất kỳ tổ chức nào, tôi không thích “làm chính trị” như bản tính tôi từ xưa tới nay. Tôi chỉ biết cầm bút, độc lập và hành xử theo tiếng gọi của lương tri. Mặt khác, tôi cũng không quên viết tiểu thuyết hoặc tiểu thuyết phóng sự. Tiểu thuyết tôi dành cho những đề tài thuộc về tâm tư, tình cảm sâu sắc hơn. Như “chân trời tím” trước những năm 75 và sau khi đi tù cải tạo về, tôi đã hoàn thành “Ngã tư hoàng hôn” vào năm 1990. Đó là một thời kỳ “nửa đóng nửa mở” cánh cửa sắt. Hoặc trước kia, phóng sự tiểu thuyết “những ngày hoa mộng” đăng trên báo Kịch Ảnh, “Sài Gòn tốc” đăng trên nhật báo Chính Luận những năm 60-70. Gần đây nhất là tiểu thuyết phóng sự “Lên đời” về “mặt nổi” những khung cảnh nháo nhác giữa Sài Gòn - Hà Nội của cái cảnh “đổi đời” rất đặc trưng của những nhà “tư sản mới” trong xã hội Việt Nam. Nó được hình thành như thế nào, bắt đầu từ đâu và sự cấu kết “thâm cung bí sử” cùng với cánh giang hồ khét tiếng một thời. Tôi nghĩ đó cũng là hình ảnh sống động nhất của một giai đoạn lịch sử trong xã hội Việt Nam. Đó là “thiên chức” của người cầm bút, chứ không phải viết lia viết lịa, viết “văng tê bạt mạng” mà chẳng nói được điều gì đáng nói. Có những đề tài trong phạm vi cuộc sống tâm tư, tình cảm của những thành thị cũng như nông thôn, tôi dành để viết tiểu thuyết. Như một cô gái tỉnh lẻ trong thời đại này đã và đang sống như thế nào, ước vọng thầm kín nhất của họ là gì? Tiến tới một “xã hội công bằng giàu đẹp” như khẩu hiệu hay một cái gì khác? Lớp “đại gia” và lớp nông dân khác nhau như thế nào? Cái khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ước chừng bao xa? Nền kinh tế phát triển mang lại lợi ích thiết thực gì cho mọi con người. Cái gì đang phá sản và cái mới đang hình thành trong con người như thế nào? Trước hết phải là trong tận cùng ý thức, nó có tính quyết định cho toàn xã hội. Nếu không mọi sự chỉ là giả tạo. Vấn đề khá tế nhị và sâu sắc nên tôi viết tiểu thuyết hoặc tiểu thuyết phóng sự là thích hợp. Thật ra đề tài tôi đang hướng tới là sự tiếp nối của “lên đời”, nhưng chú trọng vào chiều sâu. Nhiều độc giả cho tôi biết “lên đời” vẫn còn thiếu một cái gì đó, chưa tròn vai. Nhận xét đó rất đúng. Đó cũng là dụng ý của tôi. Một cuốn truyện đã lên tới 100 kỳ, hơn 1500 trang A4, đã là quá dài. Đề tài sẽ tiếp tục dưới một dạng khác. Có thể ví von như “Lên Đời” chỉ là cái áo mới của cô dâu, cái “mặt nổi” của thời cuộc. Tiểu thuyết tiếp theo sau là những rung động, những biến chuyển tâm lý của sự thay đổi từ đêm tân hôn và trở thành thiếu phụ.. Nhưng quá bận rộn với những công việc khác nên chỉ có thể hoàn thành trong một vài tháng sắp tới. Tôi hy vọng trả lời như thế cũng là tạm đầy đủ cho những điều độc giả Gio- O muốn biết về cách viết của tôi. Mỗi đề tài thích hợp với một lối diễn tả. “Lẩm Cẩm” là một tổng hợp về những tin tức thời sự “nóng”, những điều trông thấy và những dư luận cùng quan điểm của người viết. Làm thế nào để người đọc dễ dàng chia sẻ được với những gì mình muốn nói. Lê Thị Huệ: Hình như trước 1975, ông chuyên viết "phơi tông" cho các báo Sài Gòn.
Văn Quang: Đúng là những năm trước 1975, tôi thường xuyên viết feuilleton cho các nhật báo và tuần báo ở Sài Gòn như tôi đã trả lời ở phần trên. Lê
Thị Huệ: Những tiểu thuyết của ông ngày trước có những cái tên rất lãng
đãng như "Nguyệt Áo Đỏ", "Chân Trời Tím", "Tiếng Hát Học Trò", tại sao
ông lại thích đặt những cái tựa như thế
Văn Quang: Những cái tên … lãng đãng như “Chân trời tím”, “Tiếng hát học trò”, “Nguyệt áo đỏ…” như chị hỏi, bởi hồi đó tôi còn trẻ, và bây giờ nhìn lại cũng thấy… hơi ngây thơ, mơ mộng nên nó “lãng đãng” như chính cái tên tiểu thuyết vậy. Mỗi lần đặt tên cho một cuốn tiểu thuyết hoặc bất kỳ một truyện nào của mình cũng không giản gị đâu. Làm sao cho “nó” thể hiện đúng đề tài mà không “khô cứng” như một cuốn lý luận, không sa đà, không gây “sốc”. Tôi chắc nhiều nhà văn cũng gặp tình cảnh này. Có khi nghĩ nát óc cũng chẳng ra, có khi bỗng dưng nó “bật” ra lúc nào không hay. Cũng như lúc này, cuốn tiểu thuyết tôi đang viết cứ “dùng dằng nửa ở nửa về” với những cái tên. Thí dụ “phá sản” thì quá “khô” và cứ như có màu sắc “chính trị chính em”, cái tên “cô gái tỉnh lẻ” lại có vẻ “lãng đãng” như chị nói và không phản ảnh được bao quát vấn đề muốn diễn tả. Tôi muốn lấy hình ảnh về những thăng trầm, biến chuyển của cuộc đời một cô gái tỉnh lẻ đến những hoạt động về nhiều mặt của nhân vật làm tượng trưng cho những vấn đề xã hội “nóng nhất” đang diễn ra công khai hoặc âm thầm. Thật ra những con người đó là đa số trong xã hội bây giờ, là hơi thở của thời đại. Tên truyện chỉ là phụ, song không kém phần quan trọng. Tìm được một cái tên truyện thật khó khăn đối với tôi. Thú thật là có khi phải tạm bằng lòng với cái tên chưa hoàn toàn thích thú. Lê Thị Huệ: Ông bị đi tù một thời gian dài sau 1975. Ông có thể nói gì về điều này ở đây và bây giờ chăng ?
Văn Quang: Có rất nhiều điều đáng nói về những ngày tháng trong nhà tù. Và cũng đã có rất nhiều những cuốn sách viết về chuyện này rồi. Nhiều chi tiết đã được trình bày cụ thể. Vì thế, lúc này tôi nghĩ ở vào vị trí của tôi, nên chuyên tâm về những vấn đề xã hội hiện tại mà tôi đang có điều kiện tìm hiểu tường tận hơn các bạn khác. Tôi chỉ có thể nói là nhà tù vẫn là nhà tù, không có chuyện cải tạo gì ở đây. Điều này tôi cũng đã viết trong “ngã tư hoàng hôn”. Một lúc nào đó, nếu còn thì giờ, có thể tôi sẽ viết lại toàn bộ những sự thật mà tôi đã được chứng kiến. Lê
Thị Huệ: Ông từng là nhà văn quân đội ở Miền Nam, ông có so sánh nào
cho nền văn chương quân đội của hai miền Nam Bắc trong thời chiến?
Văn Quang: Nói về văn chương quân đội giữa hai miền Nam Bắc có lẽ hơi quá tổng quát. Nhưng sự khác biệt căn bản vẫn là mang tính văn học nói chung. Một bên, dù anh là thành phần nào khi hoạt động văn hóa đều phải đi theo một đường lối chung, không thể khác được. Do đó người viết dù ở trong hay ngoài quân đội cũng thế thôi. Họ quan niệm văn hóa là tuyên truyền giáo dục quần chúng nhân dân (trong đó có cả quân đội) thực hiện một chủ trương chính sách trong một giai đoạn nào đó. Còn ở miền Nam thì những nhà văn quân đội không bị lệ thuộc bởi bất cứ điều gì. Tôi làm ở Tổng cục chiến tranh chính trị rất lâu, nhưng chưa hề thấy một “chỉ thị” nào cho những quân nhân viết văn. Họ được tự do sáng tác theo cảm hứng của mình về mọi mặt trong đời sống. Những nhà văn xuất thân từ quân đội hay hơn nữa là từ những chiến trường như Nguyễn Đạt Thịnh, Phan Nhật Nam, Huy Phương, Thế Hoài, Phạm Huấn… viết những gì họ đã trải qua. Hoặc như Mai Trung Tĩnh, Vương Đức Lệ, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng cứ việc làm thơ tình, lãng mạn, không cần Tây Tiến hay Nam Tiến. Cho nên so sánh hai nền văn hóa quân đội giữa hai miền như thế tôi cho là khập khiễng, nên tôi không thể so sánh được. Lê
Thị Huệ: Ông đã từng tiểu thuyết hoá dày cộm những người lính thành phố
Sài Gòn trước 1975. Bây giờ nhìn lại ông có thấy là trật búa hay OK ?
Văn Quang: Tiểu thuyết hóa những người lính không phải là “thần thánh hóa” những người lính. Chị đọc lại “Chân trời tím” và “Người yêu của lính” sẽ thấy tôi tiểu thuyết hoá đời thường của họ. Người lính không đi tu, không là “người con trai khác với những người con trai không đi lính”. Ngoài cuộc sống chiến đấu, ngoài tình đồng đội, họ có cuộc sống của mình. Cũng yêu thương, ghen hờn, lãng mạn như những ghệ sĩ chính hiệu. Nói cách khác, tôi diễn tả rõ hơn, tỉ mỉ hơn về cuộc đời quân ngũ. Không phải tất cả đều tình nguyện đi lính, có những người “bị động viên” hoặc được đồng hóa. Nhưng tình đồng đội đã làm họ thay đổi quan niệm, ý chí chiến đấu đã tô đậm lý tưởng yêu nước của họ. Vì thế họ trở thành một khối vững chắc cho đến tận ngày nay. Tại sao tôi lại thấy “trật búa” được? Tôi vẫn cho là tôi đã làm đúng, làm được những gì tôi cần làm. Một điều cần nhấn mạnh, đó là xuất phát từ những rung động chân thành của tôi sau những ngày tháng làm phóng viên thời kỳ chiến tranh ác liệt đầu tiên, qua một số chiến trường thời đó, không vì một chỉ thị nào, một lý do chính trị nào. Lê
Thị Huệ: Nếu cuộc đời biến thành những chương tiểu thuyết. Hãy thử nói
về cuộc đời như là những chương tiểu thuyết. Cái chết nào cũng là một
cái chết. Cái chết của Miền Nam là một cái chết tức tưởi nhưng nó có cái
đẹp tuyệt vời của một cái chết tức tưởi. Ông nghĩ đấy là một bất hạnh
hay là một may mắn
Văn Quang: Cái chết của miền Nam, như chị nói, tôi đã có nhiều thời gian gậm nhấm nó trong tù và ngoài đời, sau khi ở nhà tù ra. Tôi thường nghĩ, chẳng ai muốn tự tử cả. Cái chết bất đắc dĩ được báo trước đó không do miền Nam tạo ra. Người bạn “đồng minh thân thiết” của chúng tôi bỏ bạn, trong khi đối phương có tới 6 nước vẫn trung thành tiếp súng đạn thì “sáu thằng đánh một chẳng chột cũng què”. Và những “panic” từ Huế đến Pleiku, Đà Nẵng, Nha Trang, Bình thuận vào đến TP. Sài Gòn đều do người bạn đồng minh của chúng tôi tạo ra. Gây hoảng loạn khắp nơi để tẩu thoát như một ván cờ thua. Điều đó rõ như ban ngày. Tôi so sánh với cuộc rút lui của quân đội Pháp sau khi ký hiệp định Geneve, dù sao thì mọi tổ chức cũng chu đáo hơn, có tình có lý hơn, nhân đạo hơn. Nếu người Mỹ vẫn tuyên truyền rằng “cộng sản chiếm được miền Nam thì Sài Gòn sẽ là một biển máu”. Vậy mà họ đã để lại chúng tôi bơi trong cái biển máu ấy, sau khi bí mật bắt tay đối phương. Có thể coi họ là đồng minh được không? Vậy thì cái chết của miền Nam chỉ có thể coi là bất hạnh. Một kinh nghiệm cho những ai còn nuôi mộng lãnh đạo đất nước này. Lê
Thị Huệ: So sánh đời sống của ông bây giờ với đời sống trước năm 1975,
ông phát biểu như thế nào. Tôi hỏi ông câu này với một thái độ rất trân
trọng, vì ông là một tác giả hiếm hoi, ông sống sót và sống qua những
giai đoạn khốc liệt ấy, mà vẫn viết với cái tên Văn Quang. Một Văn Quang
lừng lững không thoả hiệp. Hình như ông là 1 tác giả độc nhất vô nhị
viết và viết được trong cái thế sống vô cùng chênh vênh ấy
Văn Quang: Thật ra ngay từ đầu, khi trả lời lá thư của Gio-O tôi đã thành thật thưa rằng “không thích nói về mình”. Nếu cần nói thì có rất nhiều điều phải nói, phải trả lời. Một người cầm bút nên để độc giả phán xét về mình hơn là những gì mình tự nói hoặc bị kẻ thù xuyên tạc. Xin cảm ơn về những nhận xét của Gio-O dành cho riêng tôi. Vâng, tôi sống như vậy đấy. Chẳng có gì phải che giấu, chẳng có gì phải khiếp sợ nữa. Còn gì nữa đâu mà khiếp sợ và tôi không làm điếu gì xấu, không “phá hoại”… thì cứ lừng lững mà làm. “Danh chính ngôn thuận” và “đường ta ta cứ đi”. Cái gì có thật thì tôi viết. Không bới móc lung tung, không phao tin đồn nhảm. Quyền phê phán là của người dân. Quyền bất bình cũng là của người dân về những điều có thật đã và đang xảy ra. Cũng có một số người viết như tôi đang có mặt ở miền Nam như Nguyễn Thụy Long, Đoàn Dự, Hàm Anh… và một số người không ký tên rõ rệt như người Tân Định, Người Sài Gòn… Và còn cả những người viết không thường xuyên, thỉnh thoảng mới có một vài bài. Những anh em đó cũng là những cây bút hoàn toàn độc lập. Mỗi người có một cách viết, cách lựa chọn đền tài và mức độ khác nhau. Chúng tôi có gặp nhau như những người bạn bình thường, nhưng không thảo luận về những gì mình sẽ viết. Do đó đôi khi có những đề tài trùng hợp, song mỗi người nhìn theo quan điểm của riêng mình. Được độc giả đón nhận như thế nào lại là chuyện khác. Có cố gắng tìm cách “ngoi lên” cũng chẳng được. Cách tốt hơn hết là cứ thành thật với chính mình, cứ thảnh thơi mà làm được việc mình muốn làm. Như tôi đã nói ở trên, sẵn sàng chấp nhận điều “rủi ro” sẽ đến vào bất kỳ lúc nào. Chấp nhận cả đòn hiểm của kẻ thù, của những kẻ đố kỵ, ghen ghét sảng. Cứ lo nghĩ đến nó thì thà xếp quách computer lại hoặc chỉ để ngồi chơi games, chơi “meo” cho xong. Xin tiền con hay đi đánh vi tính, làm lay-out thuê cũng đủ sống. Có thể nói tôi đã tập được thói quen, không còn ngồi đó tiếc nuối dĩ vãng. Thời gian không bao giờ trở lại được. Tôi bằng lòng và thích ứng với những gì tôi đang có. Trước kia sống sung sướng hay bây giờ, tôi cũng chẳng biết nữa. Một điều đáng nói là không thể quên những người bạn cũ, dù còn sống ở bên kia hay đã mất. Đôi lúc ngơ ngẩn chỉ vì những thứ đó thôi. Lê Thị Huệ: Một cách công bằng, ông có nhận xét gì về nền sáng tác Miền Nam 1955-1975.
Văn Quang: Về những sáng tác từ ở miền Nam từ 55-đến 75, tôi cho đó là thời kỳ sung sức nhất của những sáng tác của văn học Việt Nam từ trước tới nay. Kể cả về số chất lượng cũng như chất lượng, những vị đàn anh lớn tuổi cũng như những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, ca sĩ… mới xuất hiện. Một số tác phẩm văn học khổng lồ đã được trình diện, một số báo chí về mọi mặt từ trình độ cao đến bình dân đua nhau tự do cạnh tranh. Một số ca khúc trở thành “bất tử” dù cho nó đã bị khai tử nhiều lần. Cho đến bây giờ ở Việt Nam, rất nhiều tác phẩm từ thời đó vẫn còn nguyên giá trị, nó xuyên suốt qua mọi thời đại. Độc giả, khán thính giả từ thành thị tới thôn quê vẫn thưởng thức những món ăn tinh thần đó, chẳng cần ai khuyến khích, khuyến mãi. Cách công bằng nhất để nhận định thì nhãy nhìn vào thị trường, nhìn vào sự trân trọng của người dân. Mặt khác, việc xuất bản những tác phẩm văn học nghệ thuật hồi đó hình thành một trật tự hơn bây giờ. Kể cả sách xuất bản ở nước ngoài cũng như ở trong nước. Hầu như bây giờ, một số tác phẩm không còn mang đúng giá trị đúng như văn học định nghĩa. Nó là sách lam nham, ai có tiền thì cứ in. Vàng thau lẫn lộn, trong đó có những cuốn không đáng gọi là sách, có những bài không đáng gọi là bài. Điều này rất có hại cho những người trẻ tuổi, nhất là lớp mới lớn ở nước ngoài. Nếu đọc một cuốn sách lem nhem như thế họ sẽ nghĩ gì về những tác phẩm khác của ông cha, của những người đi trước? Vì thế nên tôi vẫn cho rằng 20 năm văn học miền Nam 55-75 có nhiều tác phẩm giá trị hơn, dù cho có những tác phẩm chỉ có giá trị trong từng thời kỳ. Lê Thị Huệ: Nhà văn Văn Quang, Giám đốc đài phát thanh Quân Đội, viết tiểu thuyết Chân Trời Tím, đi cải tạo mút mùa lệ thủy, không đi Mỹ theo diện HO (mà những người như Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên còn không cưỡng lại sự tự do ở chân trời kia), còn Văn Quang không đi. Ở lại Việt Nam. Văn Quang là ai thế? Văn Quang: Tôi vẫn cho rằng những người bạn tôi đi định cư hầu hết vì lo cho tương lai của con cái, cho cuộc sống gia đình hơn lo cho chính bản thân mình. Họ có lý do chính đáng để ra đi. Còn tôi, hầu như chẳng có lý do gì cả. Khi tôi ở trại tù ra, các con tôi đều đã định cư ở Mỹ, đi theo “diện vượt biên” và đi học ở Mỹ trước năm 75. Chỉ còn lại mình tôi. Đời sống kinh tế cũng lại bắt đầu ổn định, bằng việc học computer rồi ra “hành nghề” đánh vi tính thuê và làm lay-out cho các tiệm sách báo. Những nhà xuất bản tư nhân, những nhà làm quảng cáo chuyên nghiệp và cả những ông làm “báo lẻ” như Thanh Thương Hoàng, Thái Phương cũng đều thuê “công ty gia đình” của tôi làm hết. Hồi đó Sài Gòn chỉ có rất ít computer và người làm được công việc này càng hiếm. Cái may mắn của tôi là ngay khi ở trại tù ra, tôi đã tò mò đi học khóa computer đầu tiên vào những năm1989-90-91. Kể về chuyện đi học computer của tôi chẳng qua cũng là chuyện “bất đắc dĩ” và khá dài dòng, cười ra nước mắt. Tôi sẽ kể lại vào một dịp khác. Sau khi học xong vài khóa, tôi đã được các cháu ở Mỹ yểm trợ cho mấy cái computer và máy in laser để hành nghề. Công việc kiếm ăn khá phát đạt. Vì thế tôi thấy không cần phải đi đâu nữa cả. Hơn thế, bà xã của tôi và các cháu cũng đã “yên bề gia thất” nên tôi không muốn khuấy động cuộc sống của gia đình mình, gây thêm những thắc mắc vướng bận cho những người thân. Ở đây cũng còn một số anh em sĩ quan cũ, sau khi ở tù ra rồi, cũng không đi theo diện HO. Dường như vấn đề kinh tế quyết định tất cả. Hầu hết những người ở lại đều có một cuộc sống tương đối ổn định hoặc có những trở ngại về gia đình, như con cái có vợ có chồng rồi không được đi theo… Mỗi người một hoàn cảnh. Mặt khác, tôi nghĩ anh em ra đi nhiều rồi, tôi muốn ở lại để chứng kiến cho hết, cho đầy đủ những đổi thay. Đời sống lúc đó ở đây bấp bênh, rồi chao đảo vì Liên Xô tan rã, vì Đông Âu lập lờ… Cuộc sống “lên voi, xuống chó” quay quắt, nếu nhìn như một kẻ ngoài cuộc, nó sinh động hơn một sân khấu với đầy đủ bi hài kịch thú vị. Có quá nhiều đề tài mới lạ cho mình ghi nhận. Làm một nhân chứng sống có lẽ hay hơn. Và cũng vì sự “gậm nhấm” của tôi về “người bạn đồng minh” nên tôi quyết định ở lại. Mãi tới sau này, một số không ít những người bạn tôi cho rằng tôi đã lựa chọn đúng. Riêng tôi, cho là một điều may mắn chứ chẳng ai tiên đoán trước được điều gì sẽ xảy ra. Nhưng nếu có sai, có bất cứ điều gì xảy ra, tôi không ân hận. Tôi hoàn toàn bằng lòng vì sự lựa chọn của mình. Và, tôi cũng vẫn cứ tiếp tục sống và viết như từ bao năm nay. Sẽ mãi mãi như thế cho đến khi bạn về đây sẽ gặp tên tôi với hai chữ “chi mộ”. Xin cảm ơn bạn đọc đã đọc những hàng này. Đây cũng là dịp tôi có cơ hội được tâm sự với bạn đọc. Tôi cũng xin nói thêm là một tờ báo của người bạn tôi, sau khi đã có bài phỏng vấn tôi, đã gửi thêm một số câu hỏi khác đến, nhưng tôi chưa trả lời được. Tôi không viết hồi ký như một số bạn tôi thúc giục, trong một ngày gần đây, tôi sẽ dành cho tờ báo của người bạn tôi những chi tiết khác trong cuộc sống của tôi, thay cho cuốn hồi ký. Cám ơn nhà văn Văn Quang
Lê Thị Huệ
http://www.gio-o.com/VanQuangPhongVan.html Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 04/Oct/2011 lúc 9:05am |
|
mk
|
|
![]() |
|
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
VĂN QUANG Số 198 ngày 04-3-2007 Văn Quang Sau
1975, ông ngưng bặt một thời gian dài. Mới đây ông xuất hiện trở lại
với lá thư từ bàn viết "lưu vong" từ thị trấn đất đỏ Bình Phước, có tên
là " Những bài viết đăng lại trên trang Ảo Ngôn của gio-o đã được sự chấp thuận của nhà văn Văn Quang http://www.gio-o.com/vanquangnguyenthanhthu.html
|
|
mk
|
|
![]() |
|
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
http://www.congdongnguoiviet.fr/XaHoi2/1110ThoiDaiDoDeuH.htm Thời đại “đồ đểu” tình nghĩa không còn! Internet 2011/10/04 ![]() Văn Quang Từ hơn 2 năm nay tôi mới được ông bạn già đến thăm, không cần hỏi nguyên do, tôi hiểu vì sao ông không đến. Nhưng ông bạn vốn tính bộc trực, mới bước chân vào nhà, ông đã thanh minh ngay: “Xin lỗi bác, tôi không đến bác vì nghe thiên hạ nói bác bị “làm phiền” nên anh nào đến cũng có thể bị ghi sổ bìa đen hoặc bị sờ gáy. Có ông khuyên tôi không nên đến. Tôi không tin hẳn là như thế, nhưng cứ cẩn tắc vô áy náy”. Rồi ông cười khành khạch triết lý vụn: “Cuộc đời là thế, anh nào cũng muốn yên thân, nhắm mắt, bịt tai cho qua mọi chuyện. Lắm lúc nghĩ đất nước cứ như thế thì làm sao mà khá được”. Tôi mời ông ngồi và nói dỡn: “Vậy bác đến tôi hôm nay là muốn làm cho đất nước khá lên hay sao?” Ông bạn già của tôi xua tay giẫy nẩy: “Tôi
là cái thá gì mà dám mon men vào chuyện nước non, dù tôi biết cái thế
hệ già mình mà như thế là hỏng, hỏng lắm nếu không muốn nói là nhát, là
hèn. Anh nào cũng muốn giữ nồi cơm, khư khư ôm lấy cái mình đang có,
sống chết mặc bay. Làm sao dạy con cái sống cho ra con người. Tuy nhiên,
người ta thế cả, tôi cũng thế thôi. Gặp thời thế, thế thời phải thế,
bác hiểu cho”. Tôi thân mật vỗ vai ông: “Tôi không trách bác đâu, mỗi người có một cách sống, bác cẩn thận như thế cũng không phải là thừa”. Ông gật gù, dù tôi biết trong lòng ông vẫn có một chút gì đó như sự ân hận nhỏ nhoi. Ông thở dài lảng chuyện: “Thôi không nói chuyện nước non làm gì cho mệt, hồi này bác sống thế nào, sức khoẻ ra sao ?” Tôi ừ ào cho qua chuyện bởi tôi quá rõ, ở VN bây giờ, có những ông rất hăng nhưng có những ông “thủ” rất kỹ. Ông bạn già của tôi chậm rãi uống nước rồi thú nhận: “Tôi vừa qua cửa hàng vàng, hôm nay giá xuống 44 triệu một lượng, nhưng chờ mỏi mắt chưa mua được, chen chúc như đi ăn xin, giá cả mỗi giờ lại một tăng, không dám mua vội. Tiện đường ghé thăm bác thôi”. Sơ lược về cuộc đời một ông bạn “tư sản” Ông bạn tôi, trước năm 1975 khá giàu. Tôi chỉ biết ông có 2 cái hotel thuộc loại trung bình ở Chợ Lớn và 1 cái garage xe hơi ở Tân Định. Ngày 30 tháng 4 năm 75, ông chui vào phi trường Tân Sơn Nhất, yên trí kiếm được một chỗ trên máy bay ra đi. Nhưng ông bị bỏ rơi như một số ông tư sản khác chui vào không đúng chỗ. Ông kẹt lại, sau tháng 4 năm 1975 ông bị quy vào thành phần “tiểu tư sản thành thị”. Chẳng hiểu lúc đó ông có “rét quá” mà đem “hiến” hai cái khách sạn và cái garage xe hơi cho “Uỷ ban Quân Quản” hay không. Tôi chỉ biết ông nhanh chân chuồn về quê vợ ở tuốt Năm Căn - Cà Mau sống. Ở đấy ông có người em vợ đi “tập kết” trở về được làm một chức khá lớn trong huyện che chở. Có thể nhờ vậy ông không bị “đánh tư sản”, không phải đi tập trung “học tập cải tạo” như những người khác. Tuy nhiên, theo lời khuyến cáo của người em vợ, ông phải làm ra vẻ đói rách cho phù hợp với “nhân dân lao động”. Ông mặc áo tơi lá đi cấy mạ, mặc quần áo vá, đi dép lốp. Ông có vẻ thú vị vì đã đóng vai “than nghèo kể khổ” rất giỏi. Thật ra thì gia đình ông chưa đến nỗi phải túng thiếu, ông còn mang được chút vàng và đô la về cho vào bao ni-lông giấu kỹ vào cái vại sau vườn, sát vách nhà. Lâu lâu lại mở lên xem có bị thấm nước hoặc mối mọt gì không. Mỗi lần như thế cứ như đi ăn trộm của nhà mình, vợ con phải canh gác rất cẩn mật. Nhờ vậy ông mới có chút vốn mang về Sài Gòn làm ăn. Nhưng ông không lấy lại được sản nghiệp cũ của mình. Bây giờ những nơi đó đã là trụ sở của mấy cái cơ quan lớn, sân sau là mấy cái biệt thự mua đi bán lại đến nay là của ai chẳng biết, ông theo đuổi vụ lấy lại nhà, làm hàng trăm lá đơn cũng chẳng đi đến đâu. Ông chán, chẳng thèm nhắc đến những của cải đã bị mất trắng này. Nhưng ông vốn là dân làm ăn buôn bán ở Thành phố Sài Gòn nhiều năm nên chỉ một thời gian sau, ông trở lại Sài Gòn nhờ có “chỗ dựa”, ông lại phất lên khá nhanh, so với đống gia tài cũ, có lẽ cũng không kém là bao nhiêu. Cho nên ông chú trọng đến việc giữ của, thời buổi này mà không biết giữ của thì chẳng mấy lúc mà sạt nghiệp vì nhiều lý do khác nhau. Ông kể: “Nhà nào có máu mặt cũng phải đề phòng trộm cướp, giết người, lừa lọc, quỵt nợ, hàng gian hàng giả, chạy cửa trước cửa sau nộp những khoản “phí” không tên, chi những khoản quyên góp “không tự nguyện”, mua bảo hiểm trời ơi, chung vốn vào những công trình “bắn vịt trời”… Nói ra có hàng trăm thứ chuyện rắc rối chỉ thời nay mới có. Ép lãi suất và lách lãi suất như chạy loạn Trở lại chuyện tuần này ông đến thăm tôi vì ghé qua một cửa hàng vàng gần đó. Ông giãi bày: - Bác biết không, tôi phải lấy tiền gửi ngân hàng ra mua vàng, lúc này hầu hết những bạn hàng của tôi đều tính như vậy. Bởi Ngân Hàng Nhà Nước nghiêm ngặt hạn chế lãi suất đầu vào của ngân hàng chỉ còn 14%. Vậy mà tốc độ lạm phát, trượt giá hay nói cho đúng là đồng tiền mất giá cứ tính trung bình là 20%. Như thế gửi ngân hàng (NH) chỉ lời có 14% là mỗi năm anh mất toi 6% chứ có lời đâu. Anh mà tiêu vào tiền lời gửi ngân hàng là anh “tự cắn vào tay mình”, anh phải tính đó là tiền bù vào khoản mất giá. Không biết mấy ông ở NH nhà nước có tính đến khoản này không mà cứ “ép” lãi suất như vậy? Ai kêu thì mặc, “ép” được cứ “ép”. Vấn đề cốt lõi là giảm lạm phát, giảm bão giá rồi mới hạ lãi suất chứ sao lại làm ăn ngược đời như thế! Thế nên từ anh giàu đến anh nghèo, anh nào cũng chết. Ngân hàng cũng rối bời cứ như chạy loạn, tìm đủ cách lách lãi suất, lãi suất ngày, lãi suất tuần, lãi suất tháng để hòng giữ chân khách cũ, câu khách mới. ![]() Ông ngừng lại một chút rồi lắc đầu nói tiếp: - Nếu không gửi ngân hàng, anh còn mất nhiều nữa. Anh có 100 đồng để dành, mỗi năm trượt giá, anh mất 20 đồng, hai năm mất 40 đồng, chỉ còn lại 60 đồng. Như thế anh nghèo có tí tiền để dành mua nhà, sắm cái xe gắn máy cũng thiệt, có khi vài năm sau tiền để dành 3-4 năm chỉ còn mua được cái lốp xe đeo vào cổ đi chơi chứ làm sao mua được xe. Còn anh có nhiều tiền càng “chết” nặng hơn. Có mười tỉ chỉ còn 6 tỉ, buôn bán gì cho lại? Có nhiều mất nhiều, có ít mất ít, nói tóm lại thằng nào cũng chết nhăn nếu cứ giữ tiền trong tủ hoặc gửi ngân hàng. Phải tìm cách xoay xở đường khác thôi. Người rút tiền mỗi lúc một đông. Tôi lo ngân hàng sẽ có lúc phá sản vì thiếu vốn. Khi ngân hàng thiếu vốn thì cũng chẳng thể cho doanh nghiệp to hay nhỏ vay được, dù có sản xuất hay phi sản xuất với bất kỳ lãi suất nào. Nếu chẳng may, một ngân hàng phá sản thì tôi cam đoan với bác, một loạt sẽ phá sản theo. Người dân sẽ ùn ùn kéo đến rút tiền cho chắc ăn. Bác còn nhớ vụ “Nước Hoa Thanh Hương” chứ? Vỡ nợ, dân kéo đến làm loạn, có anh đến đòi tiền, chỉ còn bộ bàn ghế, cũng phải nhặt. Rồi chuyện tối hôm trước thông báo không đổi tiền, sáng sớm hôm sau ra lệnh đổi làm người dân trắng mắt. Người ta bị “cái dớp” đó rồi nên lúc nào cũng phòng thủ. Tốt nhất là không nghe ai cả, nghe mình thôi”. Ông nhắc đến chuyện một anh giám đốc ngân hàng vừa bị một anh bạn thân chơi một vố khá đau. Cú chơi “độc” của ông giám đốc ngân hàng Tây Ninh Xin tóm lược về vụ chơi xấu này của ông “bạn” cùng là giám đốc ngân hàng. ![]() Ông
Nguyễn Thái Hậu Giám đốc chi nhánh Đông Á Tây Ninh, bị tổng giám đốc
Ngân hàng Đông Á đình chỉ công tác từ ngày 14/9 do không tuân
thủ “chỉ đạo về việc giữ trần lãi suất huy động”. Sự việc xảy ra như sau: Vào lúc 8g sáng ngày 8/9 ông Nguyễn Thái Hậu, Giám đốc chi nhánh ngân hàng Đông Á Tây Ninh nhận được điện thoại của người bạn là ông Nguyễn Lê Nam, Giám đốc Ngân hàng Á Châu (ACB) chi nhánh Tây Ninh (cùng địa phương), đề nghị được gửi một tỷ đồng kỳ hạn một tháng với lãi suất 15,5% một năm. Vì là bạn bè ông Hậu đồng ý. Đến 11g trưa cùng ngày, vị giám đốc Nguyễn Lê Nam, Giám đốc Ngân hàng Á Châu (ACB) chi nhánh Tây Ninh đem tiền đến gửi và yêu cầu chi nhánh Tây Ninh của Đông Á ngoài sổ tiết kiệm ghi lãi suất 13,94% thì phải có giấy xác nhận sẽ trả lãi suất 15,5% một năm cho số tiền trên. Giấy xác nhận này sau đó đã được ông Nam chuyển cho Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Tây Ninh để tố cáo làm ông Hậu bị giáng chức! Dư luận đang râm ran về chuyện bạn bè gài bẫy nhau trắng trợn như thế này. Trước đó hai người không hề có xích mích gì nên giao thiệp khá thẳng thắn thân tình. Vậy mà bỗng dưng “ông bạn” trở mặt. Chỉ có ông NH Nhà Nước khen, dân thì chê Ngày 28/9 vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản về sự việc này. “Ngân hàng Nhà nước ủng hộ việc phát hiện sai phạm và cho rằng không nên xem đây là hành vi chơi xấu của các ngân hàng thương mại mà nên coi đó là cách tích cực phát hiện sai phạm”. Ông Ngân Hàng Nhà nước phải khen là việc tất nhiên rồi. Vì đó là về “phương diện quốc gia”, có khi trong bụng chính ông này lại nghĩ rằng: “Thằng cha này chơi với bạn thế thì chỉ có nước chơi với cọp. Có khi nó tố cả mình cũng chưa biết chừng! Phải cẩn thận với loại người này”. - Bạn Tuấn Anh trả lời ngay trên diễn đàn báo chí: “Mọi người đều đồng ý việc gài bẫy bạn là chơi xấu! Xét kết quả cuối cùng thì là tìm ra sai phạm trong việc vượt trần lãi suất của các nhà băng, đương nhiên ngân hàng nhà nước phải nói vậy rồi. Nhưng xét đến việc cố tình đưa người ta vào bẫy, thì đó là hèn hạ. - Bạn Mạnh mỉa mai: “Hay quá, vì vị giám đốc chi nhánh Á Châu làm "đúng" quá nên tôi và họ hàng mình cùng những người bạn và nhiều người truyền tai nhau cùng rút sạch tiền gửi ở ngân hàng Á Châu đem gửi ngân hàng khác rồi. - Bạn Hoa Cỏ May đã viết trên báo: “Thực chất là xấu. Giám đốc ACB rõ ràng chơi xấu. Là bạn nên mới hỏi và trả lời thật lòng, nếu thấy rủi ro cho bạn phải nhắc nhở bạn còn ông ta đã cố tình gài và tố bạn. Thật là xấu xa cho loại bạn như vậy. Con người ta ai cũng đi làm thuê để đổi lấy chén cơm cho gia đình, con vật còn biết thương nhau con loài người thì không. Giám đốc ACB khi thấy bạn vì sự dối trá của mình mà mất việc có cảm thấy thoả mãn hay không? Thật đáng khinh! Lãnh đạo cấp cao của ACB cũng không nên dùng loại người này vì đến 1 ngày nào đó chính họ sẽ là nạn nhân của con người này.” - Bạn Chu Văn Khường cho rằng đó là một cách cạnh tranh trong kinh doanh ngớ ngẩn. “Những người dân, và những người có tiền không kinh doanh để ở ngân hàng thì ai cũng muốn được lãi cao, để kịp với những chi phí cho giá tiêu dùng tăng cao, bảo đảm cuộc sống sinh hoạt của họ. Vị giám đốc của ngân hàng Á Châu làm như vậy thì làm sao được lòng những người dân gửi tiền. Không khéo bây giờ tiền ở trong chi nhánh của vị giám đốc ACB bị rút sạch gửi ngân hàng khác rồi. Thật là cách làm ngớ ngẩn trong kinh doanh cạnh tranh” - Bạn Lê Công Bách: “Rùng mình vì hành động ích kỷ của người có học. Đã là 1 người đứng đầu 1 chi nhánh ngân hàng cổ phần Á Châu lẽ ra vị giám đốc kia nên hành xử 1 cách có học hơn. …Bây giờ chắc chắn ông thắng được Giám đốc Đông Á Bank nhưng nhìn trên tổng thể chắc chắn ông thua rất nhiều, bạn bè, nhân viên cấp dưới, cấp trên chắc sau này ai cũng phải dè chừng ông. Có lẽ đây là bài học xương máu cho những người làm ngành ngân hàng nói riêng và mọi người nói chung. Thời đại “đồ đểu” không còn tình nghĩa? Còn ông bạn đến thăm tôi, lắc đầu thở hắt ra: “Vì thế nên không chỉ có các ngân hàng cạnh tranh mà ở đâu cũng có thể có sự cạnh tranh rất bẩn. Cái thời buổi buộc con người phải sống chụp giựt là thế. Các bạn tôi nửa đùa nửa thật cảnh báo: Hồi xưa mày là tư sản xanh, bây giờ mày là tư sản đỏ, coi chừng nó luộc mày lúc nào không biết. Cái thời đại đồ đá, đồ đồng, con người đối với nhau có tình có nghĩa, đến cái thời đại đồ đểu này tình nghĩa không còn đâu”. Tôi không tin hẳn như thế, trên đời này vẫn còn những trái tim nhân hậu. Tuy vậy khi ông bạn tôi ra về, để lại cho tôi nỗi buồn như mất mát một cái gì rất lớn trong cuộc đời lúc xế bóng. Sài Gòn 01-10-2011 |
|
mk
|
|
![]() |
|
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |