Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn
Message Icon Chủ đề: Từ chín dòng sông vọng cổ Gởi trả lời Gởi bài mới
Người gởi Nội dung
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Chủ đề: Từ chín dòng sông vọng cổ
    Gởi ngày: 21/Jul/2008 lúc 3:41am

Tập thơ Từ chín dòng sông vọng cổ

Trần Ngọc Hưởng 






Tập thơ được xuất bản tại Nhà xuất bản Văn Nghệ năm 2007
Xin chúc mừng nhà thơ Trần Ngọc Hưởng và xin trân trọng giới thiệu đến những người yêu thơ xa gần trong và ngoài nước.


 
 
(từ: Thanh Trắc Nguyễn Văn)
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 21/Jul/2008 lúc 3:42am
Thanh Trắc Nguyễn Văn
“Hòa âm điền dã” trong thơ Trần Ngọc Hưởng

Có tập thơ đến với ta như một người tình xa lạ, ta đọc nó như khám phá, chinh phục một đỉnh núi cao đầy hào hứng, ngoạn mục nhưng cũng lắm khi cảm thấy mệt nhoài.

Lại có tập thơ đến với ta như một người tình cũ, tuy lâu ngày gặp lại, nhưng vẫn ẩn hiện những nét gần gũi, thân quen, ta đọc nó như cùng người đi dạo dọc theo những con đường, bờ sông kỷ niệm, và trên từng chặng nhàn du, ta cũng như gặp lại chính tuổi trẻ mình.

Với tôi, tập thơ Từ chín dòng sông vọng cổ của Trần Ngọc Hưởng là thuộc vào trường hợp thứ hai.

Sở dĩ tôi nói như vậy vì tôi đã đọc thơ Trần Ngọc Hưởng từ khi còn học ở một trường huyện miền Trung và là độc giả của báo Tuổi Hoa mà anh là cộng tác viên thường xuyên. Trần Ngọc Hưởng hồi đó là một cây bút của Nhóm Thơ 20, cùng với Dạ Huyền, Đan Dạ Uyên, Trần Anh Tài, Như Uyên Thuỷ… Đây là bút nhóm xuất phát từ Gò Công vào giữa những năm 60 mà tác phẩm đã được giới thiệu khá rộng rãi trên các nhật báo và tạp chí thời đó: Dân đen, Diễn đàn, Cảo thơm, Thế giới, Tin điển, Tin sống, Tin, Phụ nữ Việt….

Từ miền Trung, qua thơ Trần Ngọc Hưởng và các thi sĩ miền Nam đương thời, tôi cảm nhận được tình người và hơi thở đất đai vùng đồng bằng sông Cửu. Nhưng phải đến khi vào sống ở vùng đất này, tôi mới thực sự lý hội được vẻ đẹp của sự chân thành và giản dị trong thơ các anh. Khác với văn xuôi, cảm nhận về thơ hình như cần có một bầu khí tình cảm riêng nào đó. Chẳng hạn chỉ đến khi đi về dạy học ở miền Tây, đứng trên chuyến phà qua sông Tiền dạo cầu Mỹ Thuận chưa xây, tôi mới hiểu được những điều ẩn chứa trong mấy câu thơ Trần Ngọc Hưởng:

Bồng bềnh mấy dải sông trôi,
Một thời xoã xuống vai người chiều hôm
Cho ai lấp loáng trong hồn,
Từng con sóng réo, từng cơn khát thầm.
(Riêng với sông Tiền)

Thơ Trần Ngọc Hưởng vốn hiền lành, sóng có réo cũng chỉ là sóng nhỏ và tình có khát cũng chỉ là khát thầm. Nhưng ai bảo con sóng đó, cơn khát đó không âm ỉ đến nao lòng!

Cảm giác của tôi khi đọc thơ Trần Ngọc Hưởng giữa màu khói đốt đồng hay mùi phù sa sông Tiền không giống cái cảm giác như ngày xưa, khi là cậu học trò xứ Quảng đọc trên trang báo mà tưởng tượng về đồng bằng Nam bộ. Nó cũng gần giống như khi tôi nghe một bài vọng cổ qua giọng ca “cải lương chi bảo” giữa đất Sài Gòn vẫn không xúc động bằng một buổi trưa hè kia trong căn nhà gần bờ biển Dương Tơ, Phú Quốc, nghe tiếng xuống xề của một bà mẹ trẻ ru con mà thấy gai lạnh vì cảm thấu nỗi lòng của người xa xứ.

Trần Ngọc Hưởng quê ở Gò Công, tốt nghiệp trung học rồi lên Sài Gòn vào đại học, ra trường về Long An lập nghiệp, dựng xây tổ ấm. Từ Tân An về Gò Công đâu mấy khúc đường, vậy mà nỗi cách trở làm ray rứt hồn anh, người tự ví mình như kẻ lỡ “ăn phải bùa mê thị thành”:

Mười năm khuất một nẻo về,
Mòn đôi mắt ngóng bên lề phố khuya.
(Tiền Giang)

Không lạ gì, khi sông Tiền, Cầu Nổi, Gò Công, Mỹ Tho, Vĩnh Bình… cứ mãi hiện về trong thơ anh như một nguồn suối mát múc hoài không cạn nước. Anh viết về ngôi trường tỉnh lỵ:

Nhớ trang vở cũ thương trường tỉnh,
Thương tiếng chuông tan, nhịp thước buồn.
(Qua đò Cầu Nổi)

Làm ta liên tưởng đến hai câu thơ trong bài Trường huyện của Nguyễn Bính:
“Em đi phố huyện tiêu điều quá
Trường huyện giờ xây khác kiểu rồi”.
Nhưng kết cục của trường-huyện-Nguyễn-Bính là chia xa biền biệt, còn kết thúc của trường-tỉnh-Trần-Ngọc-Hưởng là một happy-end: đôi bạn ngày xưa tái ngộ thành đôi lứa trên một chuyến phà đời:

Lòng ta nhớ mãi thương ngày đó
Áo tím bay hoài mưa bụi rơi
Đôi mảnh lòng son cùng sánh bước
Trăm năm trên một chuyến phà đời.

Trần Ngọc Hưởng tin, và ta cũng tin cùng với anh, là bao lâu anh còn cầm bút, thì bấy lâu anh còn cho ra đời những câu thơ viết về quê mẹ:

Tôi còn gửi tặng ngàn câu
Khi còn lớ ngớ bên cầu nhân gian
Gò Công ơi! Nắng mơ tan!
Tôi đem kỷ niệm dát vàng Gò Công.
(Tôi còn gửi tặng)

Đó là ánh nắng toả xuống trên dòng sông Tiền, cũng là ánh nắng phản chiếu vào lòng anh và toả ra trên những dòng thơ anh. Như cách nói của Trần Ngọc Hưởng, đó là cái “hồn rơm rạ” vẫn đi theo anh qua những nẻo đường quê, lạc vào chốn thị thành:

Xa lâu ngày lạc mất quê
Chỉ giùm tôi một lối về nhà xưa
Đâu rồi vách gió phên mưa
Đâu bờ cỏ mịn? Đâu mùa trăng ngân?
……
Rạt rào lá cỏ vẫn xanh
Tôi đi tìm nhặt bóng mình đánh rơi
Chiều im cố nín lặng lời
Đâu màu hoa của một thời đã xa?
(Rơm rạ thoảng hương)

Cho nên dù viết về quê hương mới Tân An, về Cần Thơ, Đồng Xoài, Vĩnh Hưng, Cần Giuộc, Đức Hoà hay Mộc Hoá…, thơ Trần Ngọc Hưởng vẫn thoảng mùi hương thơm rơm rạ và ánh lên màu nắng mơ tan đó. Để mượn lại nhan đề một tác phẩm của André Gide, có thể nói thơ Trần Ngọc Hưởng cũng là một khúc “hoà âm điền dã”. Đường thơ của anh đi xa hơn, về với sông Hồng, sông Hương vẫn mang theo tâm hồn ấy, tâm thức ấy của một nhà thơ đồng bằng sông Cửu Long:

Tôi mang đủ chín dòng sông
Sáu câu vọng cổ xuôi dòng Hương Giang
Thuyền ai mắc cạn thơ Hàn
Về thăm Vỹ Dạ muộn màng đêm nay.
(Đêm Vỹ Dạ)

Nhưng đừng ai nghĩ rằng trên hành trình thơ của mình, cảm hứng và tình điệu thơ Trần Ngọc Hưởng không hề thay đổi. Khi viết về Huế, chẳng hạn, cảm hứng thiên nhiên của anh được thể hiện khác hẳn và quan trọng hơn là cảm nhận về chính bản thân mình cũng không còn như cũ:

Lá vèo trước cổng vào thu
Quanh đây lãng đãng sương mù nghìn năm
Mưa trời tiếng vọng âm âm
Một tôi tâm thức đôi phần quạnh hiu.
(Mưa Huế)

Hẳn nhiên cái tâm thức “đôi phần quạnh hiu” đó ta không dễ tìm trong những bài thơ viết giữa đồng bằng lộng gió.

Có thể nói con người Trần Ngọc Hưởng sinh ra là để cho thơ. Đời anh miệt mài làm thơ, hoạ thơ, bình thơ. Từ khi được thi sĩ Kiên Giang giới thiệu trong mục “Mái nhà thơ” trên báo Tia sáng năm 1964, đến khi được thi sĩ Trinh Đường chọn in trong tuyển tập Thơ Việt thế kỷ XX, Trần Ngọc Hưởng đã trải qua một chặng đường dài của sáng tạo, với không ít giải thưởng văn chương. Nghề nghiệp và năng khiếu đã giúp anh trở thành một trong những người bình thơ cổ điển và hiện đại có uy tín trong nhà trường. Thơ, với Trần Ngọc Hưởng như nước uống, như khí trời. Không sợ quá lời nếu nói rằng anh không thể sống mà thiếu thơ.

Tôi đặc biệt thú vị với những bài cảm tác về những nhà thơ tiền bối. Anh có một cách riêng để thâm nhập và phác hoạ những thế giới nghệ thuật đã gián cách qua thời gian. Trong tập này, cũng như tập Chân dung thơ trước đây, khi viết về Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử…, Trần Ngọc Hưởng đã tìm được một ngôn ngữ tương thích với phong cách của nhà thơ. Xin dẫn vài khổ thơ trong bài Trăng Phan Thiết làm thí dụ:

Tiếng sóng gào man dại
Tiếng gió rít hoang sơ
Lòng ai xưa bão cát
Quặn thắt đến bao giờ?Trăng thất tình ứa máu
Hắt hiu lầu Ông Hoàng
Từng giọt từng giọt nhỏ
Lãng đãng trên đồi hoang.

Nhưng dù có thỉnh thoảng đi xa khỏi chính mình, Trần Ngọc Hưởng vẫn sớm quay về với bản thân anh. Người đi xa lâu ngày, khi trở về, có ai hỏi cũng bảo chỉ quê mình là đẹp nhất. Huống chi Trần Ngọc Hưởng, cả đời gắn bó với mảnh đất đã nuôi nấng thơ anh, nuôi nấng tình yêu của anh. Đọc Trần Ngọc Hưởng, ta cầu cho tình yêu và tình thơ đó suốt đời được nuôi dưỡng và đơm hoa kết trái.

Huỳnh Như Phương

TỪ SUỐI NGUỒN XANH

Hơn 30 năm nay, chưa từng đọc hết một tập thơ. Cũng một phần nào vì hoàn cảnh. Một người suốt mấy mươi lăm lao động cực nhọc thì “cơm áo không đùa với khách thơ” cũng là sự thường tình.

Chiều nay, đi đồng về thấy trên bàn có một tập thơ : “Chắc có lẽ con gái đem về từ đâu đó; cô bé muốn ba phải đọc chăng”. Thoáng mở thấy 99 bài tứ tuyệt lại đắn đo. Một lượng thơ khổng lồ chỉ trong một tập thơ khiến người muốn đọc cứ ngại ngần.

Bỏ qua những lời giới thiệu đập vào mắt là “Gánh nặng đường chiều”; chữ dùng thấy quen quen – Phải rồi “Đường xa gánh nặng” biểu trưng của nhà thơ Sông Đà Núi Tản giáo chủ của đạo “Thiên Lương”.
“Đường xa gánh nặng xế chiều,
Cơn giông, biển lớn, mái chèo thuyền nan”.

Đọc qua bài thơ và tự nhủ lòng nên đọc nghiêm chỉnh và ghi ra giấy những gì hiểu được gọi là chút lòng thành trân trọng với tâm huyết người thơ.

Bốn câu thơ đã làm khơi dậy hồi ức thuở ấu thơ bên dòng sông Vạn thẩn thờ đón mẹ buổi chiều sương. Đường xa, bóng xế mẹ thường dọn hàng khi hồi chuông Thiên Mụ gõ tiếng đầu tiên. Đường làng Kim Long, Phú Xuân, Vạn Xuân ngày xưa lợp toàn cây lá. Mẹ oằn vai gánh nặng liêu xiêu trong bóng chiều nhạt nhòa nôn nóng về nhà với lũ con thơ trước khi tiếng cuối cùng của hồi chuông chấm dứt. Hình ảnh mẹ ngày ấy chính là :

Chợ tan ngày xuống liêu xiêu,
Lưng oằn gánh nặng đường chiều, mẹ ta.

Và cứ thế, năm qua tháng hết, sáng tinh mơ, chiều tối lặng, mẹ đã vấp ngã biết bao lần giữa hai hồi chuông triêu mộ. Hồi chuông giục giã, khuyến khích kẻ tục trần men mùi đạo và chính hồi chuông bổng bay thanh thoát đó cũng đày ải bao kẻ thương sinh ! Nhịp mỏ nay, tiếng chuông xưa; thân phận của mẹ ta sao mà da diết. Cái vấp ngã ở đây phải chăng đó chính là thân phận của bào ảnh nhân sinh hay thực thể của kiếp người nhân thế.

Đi qua nhịp mõ chùa xa ..
Bồn chồn vấp tiếng ni già tụng kinh !

Xin cảm ơn nhà thơ những đêm “thắc thỏm mộng” đã khơi dậy cho người đọc những xuyến xao, thao thức cõi hoang tàn vắng lạnh thê lương mà vốn dĩ vì cơm áo mưu sinh đã chai lò theo năm tháng.

Hương tàn khói lạnh … khu nhà cũ
Lau xám chiều hoang mộ mẹ già

Chỉ 14 chữ rất bình thường nhưng vẽ được một bức tranh thủy mặc tiêu điều, ảm đạm làm da diết hồn người. Nhớ thuở thiếu niên đọc trong “Tang thương …” bài thơ cổ vô danh thường cho là khó có cảnh nào sầu thảm hơn :
“Túc thảo phần tiền thê muội hận
Hoang khâu nhất lũy táng tam hồn”
(TTNL)
Nhưng so với “lau xám chiều hoang” e rằng kém phần thê thiết tiêu sơ.

Bước qua “Trăng quê” tâm tư nhà thơ đang khắc khoải giữa hoa đèn phố thị. Cảm nhận được cái bức rức, quay quắt xốn xang của nhà thơ với ánh trăng vàng chốn cũ – Người đọc cũng từng thèm một ít sợi vàng, sợi trắng để trung hòa bớt cái nhợt nhạt, kiêu kỳ của ánh điện vàng chói chang chốn thị thành hoa lệ – ở đây xin cảm nhận sự chung thủy và tâm hồn nhã đạm của nhà thơ qua mấy câu :

Sao lòng ai cứ xốn xang
Cứ quay quắt nhớ ánh vàng trăng quê …

Phải nhận ra rằng ở đây nhà thơ cùng Tố Như chính là những tri âm. Cũng tiếc cho nhà thơ không sinh cùng thời để cùng với thiên tài so lời hoa gấm. Cũng trong cảnh xa quê và quay quắt với vầng trăng chốn cũ tâm sự của Tố Như có khác chi.
“Lòng quê lai láng gương thềm rọi
Lệ cũ đầm đìa tiếng nhạn qua”.
(ND-Thơ chữ Hán)
Vì là tri âm nên nhà thơ đã thấm đậm nỗi đau của nhà thơ qua mười năm gió bụi đất khách quê người.

Một đời gió bụi khuya thao thức
Giằng xé tâm can đến tận giờ !

Và có lẽ đoạn trường tân thanh được thai nghén trong những “khuya thao thức” đó và phiên bản cuộc đời Tố Như được thể hiện qua thân phận nàng Kiều với mười lăm năm phong trần gió bụi, đắm nguyệt chìm hoa mà:
“Tiếng kêu như cắt ruột người
Xốn xang vọng đất, vọng trời ngàn thu !”
Tiếng kêu đó phải chăng :
“Ôi Kim lang, hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây !”

Ngỡ ngàng đến “Tình si” với câu :
Mắt nghìn sau ướt lệ người nghìn xưa.

Người đọc rất thích hai từ “ướt lệ”. Ngoài sự đồng cảm với vị quân vương tài hoa lãng mạn còn chứng tỏ nhà thơ giàu lòng nhân ái và nhiều tài hoa trong ngữ nghĩa ngôn từ. Trong văn chương nhiều người đã sáng tạo nhiều từ như “từ lệ”, “dư lệ”, “thùy lệ”, “nghiêm lệ”, “u lệ”; còn từ ướt lệ đã được sử dụng nhiều nhưng cũng chỉ cho một nghĩa ướt + lệ (tính từ + danh từ). Ở đây có thể chẻ đôi từ “ướt lệ” và câu thơ này tùy theo cảm nhận mà có các cách đọc khác nhau.
Mắt nghìn sau ướt lệ – người nghìn xưa
Mắt nghìn sau- ướt lệ – người nghìn xưa
Mắt nghìn sau ướt- lệ – người nghìn xưa
Trong câu thơ này “ướt” ngoài nghĩa của một tính từ còn có thể hiểu ngầm ướt như là một động từ (ướt tương đương với khóc, chảy, ứa). Tác giả không hướng dẫn cách đọc cho câu thơ này bằng các dấu; nhưng từ đứng trước nó “mắt nghìn sau” đã cho ta hiểu và cách đọc (mắt nghìn sau ướt lệ vì lệ người nghìn xưa).

Nói đến “tình si” lại gặp nhà thơ si tình Phạm Thái. Viết đến đây trước mắt người đọc hiện lên hình ảnh chàng thi sĩ đa tình dưới lốt nhà sư, vai mang bầu rượu đang quỳ trước mộ Quỳnh Như kể lể “ta hăm hở chí trai hồ thỉ, bởi đợi tình cho nấn ná nhân duyên; mình long đong thân gái liễu bồ, vì giận phận hóa ngang tàng tính mệnh” và tâm đắc với câu thơ táo bạo rất mới của nhà thơ.

Chẳng mê chuông mỏ hay kinh kệ
Chỉ niệm người tình, niệm rượu thơ

Nhà sư “niệm tình”, “niệm rượu” ý tưởng lạ chẳng kém gì “Bồ tát Lỗ Trí Thâm niệm mộc tồn”.
Đi đến với “gió Vũng Tàu” người đọc miên man với câu thơ xưa của vị minh quân Hồng Đức khi đến đèo Ngang.
“Thà là cúi xuống cây đòi sụt
Xao xác trông lên sóng muốn trèo”.
(HĐ.QATT)
“Cây đòi sụt”, “sóng muốn trèo” ở đây chỉ là trạng thái tự nhiên của thiên nhiên được nhân cách hóa qua “mắt nhìn” của vị vua tài hoa. Trong “gió Vũng Tàu” khi :

Tóc cũng sổ bung theo sóng biển
Chồm lên từng đợt cứ nôn nao

Thì người thơ đã thả hồn mình vào đó. Ở đây có một sự đè nén, dồn ứ của tâm thức lãng mạn, một sự nôn nao chờ đón để rồi vỡ òa khi

Tóc bay để mặc, em đừng buộc
Dẫu rối lòng anh, gió Vũng Tàu

Sao lại không ghen được, gió thường suồng sã và hay trêu hoa ghẹo nguyệt. Đã từng có
“Vô tình để gió hôn lên má”
(HMT)
và “Tóc em dài sao em không bối
Để tóc dài bối rối dạ anh”
(Ca dao)
Nên mặc dù rối lòng, rối dạ nhưng biết làm sao ngăn được mắt thế nhân trước hình ảnh tuyệt vời, làm sao không bồn chồn khi trong cõi mơ hồ nào đó niềm lo sợ vu vơ chợt hiện về trong tâm thức.

Anh lo bỗng chốc thành hư ảo
Chốc bỗng mây theo gió của trời

Mây theo gió và biết đâu một ngày lỗi hẹn em quên luôn cây đa, bến cũ, bóng chiều xưa; “quên câu hẹn núi”, “thề sông” và
“Quên luôn bến cũ bão giông
Bỏ luôn tình cũ, phiêu hồng biển dâu”
Và khi ấy anh chỉ còn “Lòng anh cái bãi vàm Bao Ngược
Từ phút xuồng lui giữa dấu dầm ..”
Chỉ còn “dấu dầm” như một chứng tích kỷ niệm cuối cùng sau khi đã :

Đầu sông cuối bể cũng liều
Bước trèo, bước trật liêu xiêu bóng mình !

Đó là phận số để rồi kẻ ngược người xuôi sông hồ cách trở tình đã chia xa. Nhưng … tạo hóa đã không nỡ vô tình với khách tài hoa nên đã cho những kẻ
“Cùng một lứa bên trời lận đận”
(TBH)
“Nổi trôi một lứa bên trời gặp nhau”
Cho bổng trầm đàn phách hòa âm hợp nhịp. Và hạnh phúc lứa đôi của đời thường được tận hưởng trong “suối nguồn xanh”

Gặp em rồi suối nguồn xanh
Bao năm đủng đỉnh - đạo tình, duyên thơ
Chập chờn khói mộng, sương mơ
Thắm vườn mai cũ, mượt bờ cỏ xưa

Giang hồ đã mỏi, rũ áo phong sương sau những tháng năm “lấn chen khói phố bụi phường”; thi nhân đã được đắm chìm trong suối nguồn khói sương, mơ mộng, tình thơ yên ả.

Chợt yên ả một suối nguồn là em …”

Có gì đẹp hơn, hạnh phúc hơn khi thực mộng bây giờ đã hòa quyện nhau làm một. Bây giờ không còn cảnh “ước cũ duyên thừa”, “đá mòn, rêu nhạt”, “nước chảy hoa trôi” mà là một miên viễn một bến bờ hạnh phúc và
“Mãi mãi em là ngọn lửa”
Ngọn lửa sẽ lặng lẽ, âm ỉ cháy bất tận giữa bếp nhà khơi nguồn cho bao mạch sống của lứa đôi được ủ bởi hương đồng gió nội và cùng nhau

Buộc ràng dần bạc mái đầu
Tóc xưa giờ ngã trắng màu tóc sương

Tuy tóc đã ngã màu sương nhưng thủy chung vẫn bền chặt và hình ảnh trong mắt nhau chẳng khác lúc đầu.

Anh xưa, nay đã làm ông
Sao em nhìn mãi vẫn không thấy già
Em xưa, nay đã thành bà
Sao anh nhìn mãi vẫn là trẻ trung

Trong cuộc sống thường có những lúc trầm, lúc bổng, bao lo toan tất bật của đời thường và những đắng cay ngọt bùi đan xen là lẽ thường tình nhân thế. Thơ “Tặng vợ” của người rất dung dị nghĩa tình và thực cảm. Có lẽ không còn một lời nịnh đầm, ân hận nào đáng yêu hơn.

Một đời làm vợ làm chồng
Chưa mời em chén rượu nồng đầy vơi
Nhưng cay đắng lẫn ngọt bùi
Biết bao lần đã sẻ đôi vơi đầy

Tập thơ nhiều ngôn từ dung dị, biểu cảm, còn rất nhiều hình ảnh sống động, gợi nhớ rất dễ thương trong tình yêu và cuộc sống.

Gió day dứt tiếng chuông chùa
Em về nón mỏng chiều mưa nghiêng buồn

Day dứt là một từ biểu cảm diễn tả tiếng chuông đang bị gió giật đứt khúc, vừa diễn tả ray rứt nội tâm giữa thanh thoát và tục lụy của không gian, thời gian u buồn, trầm lắng, mong manh, lẻ loi.
Ai riêng khép mở một đôi tà
Đôi tà khép mở này với : “Gói vào giấy mỏng trang thư
Cho ai bấn bíu nhận từ tay nhau”
Để cho :
Mắt ai lúng liếng sau vành nón
Và làm cho người :
Quên khuấy trống trường giục nẻo xa
làm gợi nhớ thuở thiếu thời của một thế hệ đầy lãng mạn của những chàng trai, cô gái chưa vẫn đục bởi vật chất văn minh.

Đọc qua toàn bộ tập thơ, người đọc thấy người thơ sao có vẻ lạc lỏng giữa dòng đời hoa gấm. Phải chăng vì thiếu khách đồng điệu, thiếu bạn tri âm nên nhà thơ phải mãi tìm kẻ thẩm âm trong kho tàng văn học cổ. Nhiều dáng xưa rõ nét trong tư tưởng nhà thơ. Có lẽ với tâm hồn bình dị, không thích bon chen giữa chốn thị thành nên nhà thơ đã mỏi mệt thật rồi. Có lẽ nên quay về thôi, quay về thôi !… quay về với thú điền viên, hóa thân vào thiên nhiên cây cỏ sống cuộc đời ẩn sĩ để “ươm ca dao, trồng tục ngữ” vui thú với gió bãi trăng ngàn.

Men nồng chuếnh choáng ngùi nhân thế
Ngước mắt trông vời … khói trắng bay

Rất mong một ngày nào đó nhà thơ sớm tròn ước nguyện. Riêng người đọc xin gửi tặng hai câu thơ gọi là đa tạ người thơ:

Tiếng được mất mặc bon chen trần thế
Đàn không dây âm trãi núi sông dài.

Tuyên Thạnh, Mộc Hoá : 29.09.07

Đạm Thuỷ

Ghi chú :
* Trời u lệ đìu hiu sao Bắc Đẩu (NV-Hoa Lệ)
* Nhìn nghiêm lệ lòng con quay quắt (LL)
* Giận anh tôi ép dòng dư lệ (T.T.KH)
* Ta van những đóa sao thùy lệ (Đ.H)
* Từ lệ theo lần những bước đi (ĐT)
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
đông quyên
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 04/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 267
Quote đông quyên Replybullet Gởi ngày: 21/Jul/2008 lúc 8:50am
 
        Trang giấy học trò, xếp làm tư, mấy dòng thơ, chữ rất nhỏ, xóa sửa đôi ba chỗ.
        Dưới bóng dừa của nhà hàng xóm, nắng trưa, gió phơn phớt từng đợt, vẫn hắt nóng.
        Tôi thấy người học trò nhỏ Trần Ngọc Hưởng đang làm thơ. Những câu lục bát (thuở đó, Hưởng thích làm thơ lục bát), như ca dao và ca dao Hưởng có Mẹ trên dòng sông sáng, dòng sông chiều, dòng sông đục ngầu  phù sa; ca dao Hưởng có người yêu, người yêu đang chảy tóc bên hiên nhà, người yêu biết lắng nghe tiếng guồng sa.
        Tôi có nghe con Hưởng tên Trần Thị Tiền Giang, Trần Tước Nguyên. Thật. Hưởng đã đem quê hương quện vào thơ và vào cả những đứa con mình. Hưởng ơi, mấy ai là Trần Ngọc Hưởng?
bx
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 21/Jul/2008 lúc 7:54pm
Người thầy cũ không thể nhận ra tôi, tôi phải tự giới thiệu công việc sắp làm và xin được cho tham khảo tài liệu trước khi ra Trường Sa. Ông vui vẻ nhận lời, mời về nhà. Ông đưa các con ra chào khách, giới thiệu tên từng đứa: Quang Ảnh, Hữu Nhật, Duy Mộng. Đêm ấy, ở khách sạn, tôi chong đèn đọc tập bản thảo của ông - người đã lấy tên 3 hòn đảo ở Trường Sa để đặt tên cho con.
 
 
Những cái tên không được phép lãng quên
22/03/2008
Ngô Thị Kim Cúc
Nhà văn Vĩnh Quyền - Ảnh: T.Đ
Hoàng Sa và Trường Sa là một phần thịt xương của Tổ quốc dẫu xa xôi giữa biển Đông nhưng chưa bao giờ mờ nhạt trong trái tim người Việt. PV Thanh Niên có dịp trò chuyện với một người cầm bút đã dành nhiều trang viết cho Hoàng Sa - Trường Sa, nhà văn - nhà báo Vĩnh Quyền.

* Nhiều năm rồi, từ diễn đàn quốc tế đến quán cà phê góc phố, với người quen kẻ lạ, anh thường mở các hội thảo mi-ni về Hoàng Sa - Trường Sa. Tại sao anh lại tự nhận vai trò người đưa tin của biển đảo Tổ quốc?

- Trước hết là để chuộc tội bản thân. Làm con dân một nước có đặc điểm địa lý đất dài tới đâu biển ôm theo tới đấy cùng với hàng nghìn đảo lớn nhỏ mà phải đến năm ngoài bốn mươi tuổi (1993), tôi mới giật mình nhận ra mình chẳng hiểu gì nhiều về biển đảo của Việt Nam, trong khi quần đảo Hoàng Sa và một bộ phận quần đảo Trường Sa đang nằm trong tay Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia, Philippines... Đó là một trọng tội. Gần đây, tôi sung sướng thấy trên mạng hàng nghìn trang viết tâm huyết của các blogger dành cho Hoàng Sa - Trường Sa, trên mặt báo xuất hiện nhiều bài về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa - Trường Sa, trong đó có loạt bài rất quý của TS Nguyễn Nhã...

* Anh nhận ra điều đó từ khi nào?


Nhà văn Vĩnh Quyền ở Trường Sa (1993) - Ảnh: Do nhân vật cung cấp

- Năm 1993, tôi ra Trường Sa. Nghề viết phóng sự, bút ký dạy tôi phải kiểm tra kiến thức về nơi sắp đến. Và tôi có dịp nhận ra mình không đáng là con dân một nước có Hoàng Sa - Trường Sa: trong đầu và trong tủ sách gia đình tôi chẳng có gì đáng kể về hai quần đảo cửa ngõ biển Đông của Tổ quốc! Chưa hết, trước khi xuống tàu ra Trường Sa, tôi ngủ lại Nha Trang một đêm và ở đấy tôi nhận được một bài học nhớ đời. Trên bãi biển Nha Trang, tôi tình cờ gặp lại người thầy cũ trước 1975. Ông là một giảng viên thỉnh giảng. Sau khi tốt nghiệp tiến sĩ hải dương học ở Nhật Bản về, ông bị động viên, trở thành sĩ quan giảng dạy ở học viện hải quân của quân đội Sài Gòn.

Trong 2 giờ của môn nhiệm ý Con người và môi trường sống, ông đã để lại trong tôi hai câu nói không thể nào quên: “Du khảo địa lý cho ta thấy được, sờ nắn được lịch sử, cho ta tình yêu nước rất cụ thể”. Và: “Đề nghị các anh chị  dùng từ đất nước thay cho từ sông núi - giang sơn vốn là khái niệm Tổ quốc của lục địa Trung Hoa, nơi có núi cao sông dài. Việt Nam đất tới đâu biển theo tới đó, đất nước mới là khái niệm Tổ quốc của người Việt ta”. Người thầy cũ không thể nhận ra tôi, tôi phải tự giới thiệu công việc sắp làm và xin được cho tham khảo tài liệu trước khi ra Trường Sa. Ông vui vẻ nhận lời, mời về nhà. Ông đưa các con ra chào khách, giới thiệu tên từng đứa: Quang Ảnh, Hữu Nhật, Duy Mộng. Đêm ấy, ở khách sạn, tôi chong đèn đọc tập bản thảo của ông. Và tôi đã trào nước mắt trước một trang văn khoa học không hề màu mè văn chương.

Nhà văn Vĩnh Quyền tên đầy đủ là Nguyễn Phúc Vĩnh Quyền, sinh năm 1951 tại Huế.

Tốt nghiệp ĐH Văn khoa Huế, ĐH Sư phạm Huế năm 1974, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Đã xuất bản 10 đầu sách: tiểu thuyết lịch sử, truyện ngắn, bút ký... Hiện là Trưởng VP đại diện Báo Lao Động khu vực miền Trung - Tây Nguyên.

Tôi biết tôi đã đắc tội với Tổ quốc. Tôi đã dửng dưng không hề biết gì về những Quang Ảnh, Hữu Nhật, Duy Mộng... Mà đó lại là tên những đảo lớn của quần đảo Hoàng Sa, phần lãnh thổ của đất nước tôi đang bị Trung Quốc chiếm đóng! Tài liệu cho biết, liên tục hai năm 1815, 1816 vua Gia Long cử Suất đội thủy quân Phạm Quang Ảnh đưa đoàn khảo sát ra Hoàng Sa. Liên tục những năm 1833, 1834, 1835, 1836 vua Minh Mạng cử các Suất đội Phạm Hữu Nhật, Lê Duy Mộng, Trương Phúc Sĩ, Phạm Văn Nguyên cùng Đội Hoàng Sa ra Hoàng Sa, Trường Sa cắm trụ chủ quyền, dựng bia, lập miếu, trồng cây, đo đạc, vẽ bản đồ... Các đời vua Nguyễn sau đã lấy tên người có công đặt tên cho đảo, những cái tên Việt Nam của người Việt Nam. Gần hai trăm năm sau, tôi đã gặp một người yêu đảo đến mức lấy tên đảo đặt tên con, để nhắc mình không được phép quên những hòn đảo đang đau đáu chờ ngày trở về với đất mẹ Việt Nam. Đêm ấy tôi đã viết trong nhật ký: “Hãy nhớ lấy những cái tên không được phép lãng quên”.

* Tại sao có sự thiếu thông tin về biển đảo Tổ quốc trong phần lớn chúng ta?

- Đó là hậu quả của một nền giáo dục lệch lạc. Chúng ta từng bị sốc trước thông tin hàng nghìn thí sinh đại học năm 2006 có điểm 0 môn sử: 3.656 em ở  ĐH Thái Nguyên, 655 em ở ĐHSP Hà Nội, 923 em ở ĐHSP TP.HCM... Thực ra, đó chính là điểm 0 dành cho những người có trách nhiệm về khoa học lịch sử, cho Bộ Giáo dục - Đào tạo, cho cả xã hội. Khi tuổi trẻ một đất nước nghèo nàn cảm xúc và cảm hứng về quốc sử thì đất nước ấy ắt phải trả giá đắt. Giới trẻ hiện nay có được chút ít hiểu biết, cảm xúc gì về Hoàng Sa - Trường Sa chủ yếu nhờ báo chí, chứ không phải từ hệ thống sách giáo khoa văn - sử, từ những giờ dạy sử địa hết sức vô cảm ở nhà trường. Về Hoàng Sa - Trường Sa, chúng ta phải tăng cường bài vở, tận dụng các buổi ngoại khóa, các sinh hoạt đoàn thể để truyền đến các chủ nhân tương lai của đất nước những tài liệu khoa học khẳng định chủ quyền của Việt Nam.

* Là người theo học ngành Hán Nôm, đọc được các văn bản cổ, lại viết tiểu thuyết lịch sử, anh có thể nói gì về tình trạng chưa phổ biến một cách đúng mực tài sản văn hóa do ông cha ta để lại hiện nay?

- Có tình trạng trên bởi sự đứt gãy trong lộ trình kế truyền văn hóa - lịch sử, từ khi chúng ta bỏ văn tự Hán Nôm. Chữ Nôm đã được sáng tạo để bù đắp vào phần mà chữ Hán không đảm đương được (như sổ đinh, sổ điền cần ghi đúng tên người, tên đất thuần Việt, sớ cầu siêu, cầu an trong tôn giáo...). Sau năm 939, khi thoát khỏi ách đô hộ của Trung Hoa, chữ Nôm trở thành biểu tượng tinh thần Việt. Thế kỷ 13 đã có dòng văn học chữ Nôm. Và triều đại thể hiện ý thức độc lập văn tự nhất là Tây Sơn. Trong 24 năm (1778 - 1802), toàn bộ văn kiện hành chính triều Tây Sơn được viết bằng chữ Nôm.

Từ năm 939 đến 1920, chữ Nôm song song với chữ Hán, là phương tiện ghi chép, truyền tải một khối lượng khổng lồ tư liệu lịch sử, văn học và tri thức của ông cha trên nhiều lĩnh vực: địa chí, pháp luật, y học... Con cháu đời sau không đọc hiểu được sách của ông cha trong cả một nghìn năm lịch sử chẳng phải là điều khủng khiếp hay sao? Theo khảo sát mới nhất, trên thế giới hiện nay, kể cả ở Việt Nam, chỉ còn khoảng 100 người đọc được chữ Nôm! Trong khi đó, Triều Tiên và Nhật Bản cũng vận dụng chữ Hán để sáng tạo chữ riêng của mình nhưng họ đã không phải chịu đựng tổn thất như chúng ta. 

* Để tuổi trẻ Việt Nam gần gũi hơn, có trách nhiệm hơn với Hoàng Sa - Trường Sa, theo anh còn phải làm gì nữa?

- Rất mừng là giai đoạn này có rất nhiều người Việt trẻ đã dành tình yêu và sự quan tâm lớn cho biển đảo Tổ quốc, như trong nhiều blog của họ. Nhưng đó chỉ là ý thức cá nhân. Phải tổ chức cho lớp trẻ vượt sóng ra Trường Sa, phải cho sống lại các Đội Hoàng Sa như thời Nguyễn. Quá ít thanh niên được đặt chân ra đảo, để khắc ghi vào tâm khảm hình ảnh máu thịt thiêng liêng của Tổ Quốc. Vạn trang sách báo không bằng một lần đến Trường Sa. Từ Trường Sa chúng ta lại tổ chức những hoạt động hướng về Hoàng Sa... Sao chúng ta không đặt tên cho những con tàu biển mới là Hoàng Sa 1, Hoàng Sa 2...? Sao chúng ta không có những ngôi trường mang tên Hoàng Sa, Trường Sa...? Tại sao mỗi tỉnh thành không đặt tên những đường ven sông ven biển là Hoàng Sa, Trường Sa...?

Ngày nào Hoàng Sa - Trường Sa còn bị xâm phạm, sự toàn vẹn lãnh thổ còn bị đe dọa, thì mỗi người trong chúng ta, mỗi ngày, phải thường xuyên hướng về biển đảo, chứ không đợi đến ngày tết, ngày lễ mới nói đến. Càng không đợi đến khi nước này nước kia mở rộng hoạt động xâm phạm thì mới cấp tốc đưa tin, phản ứng...

Ngô Thị Kim Cúc (thực hiện)



Chỉnh sửa lại bởi Hoang_Ngoc_Hung - 21/Jul/2008 lúc 8:40pm
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
đông quyên
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 04/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 267
Quote đông quyên Replybullet Gởi ngày: 22/Jul/2008 lúc 11:19pm
  thơ trầnngọchưởng
 
 
           TƯỚC NGUYÊN
 
 
    Gò Chim Công: Khổng Tước Nguyên
    Mượn tên đất để đặt nên tên người
    Tên con đó Tước Nguyên ơi
    Cho ba xanh mãi khoảng trời ngày xanh
 
    Ngồi gom lại dấu chân mình
    Bao nhiêu cỏ dại đã thành hoa thơm
    Mười năm trọ học ly hương
    Ngổn ngang mây trắng mái trừơng lá xanh
 
    Chú ve kim, khản giọng tình
    Gió lồng lộng thổi dỗ dành giấc ba
    Mười năm trọ học xa nhà
    Gò Công đất lạ đã là cố hương!
 
    Cũng là quê ngoại của con
    Ngược tìm về lại cội nguồn dấu yêu
    Bên bờ lục bát thơ gieo
    Má còn đọng nét yêu kiều dáng xưa
 
    Một đời sá kể nắng mưa
    Vần thơ như thể bỏ bùa vì yêu
    Thương bao nhiêu, nhớ bao nhiêu
    Một đời dẫu lại gieo neo đất người
 
    Hồn thơ xưa vẫn khôn nguôi
    Tóc thề áo trắng một thời dấu yêu
    Cho ba hóa gió làm diều
    Tên con chan chứa bao điều thẳm sâu
 
   
bx
IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.094 seconds.