
![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Chuyện Linh Tinh | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 109 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | ||||||
giodocgocong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 12/Jan/2011 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 132 |
![]() ![]() ![]() |
||||||
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
|
|||||||
![]() |
|||||||
giodocgocong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 12/Jan/2011 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 132 |
![]() ![]() ![]() |
||||||
Tâm Sự Người Vợ H.O.![]()
Tôi
không bao giờ quên được ngày 30 tháng 04 năm 1975, ngày quốc hận và
cũng là ngày biến cố quan trọng của đời tôi. Bọn cộng sản tàn ác, vô
lương tâm xâm chiếm miền Nam. Chúng gieo rắc bao chết chóc, tang tóc cho
biết bao gia đình! Con phải mất cha, vợ phải xa chồng, gia đình phải ly
tán nhau! Bao nhiêu máu đổ thây phơi, bao nhiêu trái tim tan nát...
Chúng
gọi những quân nhân trong quân lực Việt nam Cộng Hòa là ngụy quân.
Chúng bắt họ ra trình diện và đưa đi “học tập cải tạo” một tuần lễ. Một
tuần lễ đối với chúng nó mà kéo dài tới hai, ba năm hoặc tới hai mươi
năm, tùy theo cấp bực.
Tôi
nhớ lại lời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nói với quân, dân miền Nam:
“Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì chúng nó làm.”
Thật không sai! Chúng nó nói một đàng mà làm một nẻo.
Chồng
tôi, Nguyễn Văn Quy, bị gọi đi trình diện và bị đi học tập cải tạo ở
Cây Cầy (Tây Ninh). Một mình tôi ở nhà, vừa làm cha vừa làm mẹ, nuôi dạy
bốn đứa con còn nhỏ dại, đứa con trai lớn nhứt mới mười một tuổi, đứa
con gái nhỏ nhứt mới năm tuổi.
Tôi
dạy ban ngày ở trường tiểu học Bạch Đằng. Ban đêm thì dạy lớp bổ túc
văn hóa cho quý cô, quý bác lớn tuổi thất học (mù chữ). Chủ Nhật thì dạy
kèm tại gia cho các học sinh học kém. Ông bà ta thường nói “nhất nghệ
tinh nhất thân vinh.” Thân vinh đâu tôi không thấy mà tôi thấy tôi cực
như trâu. Mà đúng vậy các bạn ạ. Tôi tuổi Sửu. Mà con trâu thì ban ngày
kéo cày, tối được nằm nghỉ ngơi. Tôi còn cực hơn trâu các bạn ạ. Người
ta thường nói “trâu ruộng bộn bề không bằng một nghề trong tay.” Với
nghề dạy học, tôi bán chữ nuôi cha mẹ bịnh tật già yếu, nuôi chồng đang
học tập cải tạo trong lao tù khổ sở, nuôi bốn đứa con nhỏ dại tiếp tục
cấp sách đến trường.
Cha tôi, tám mươi lăm tuổi, bị té gẫy xương hông nên đã nằm liệt giường
suốt năm năm qua. Mẹ tôi tám mươi tuổi, bị mổ bướu buồng trứng ba lần
nên sức khoẻ rất yếu. Gánh nặng gia đình oằn xuống trên đôi vai gầy yếu
của tôi.
Có
một lần nọ, bốn đứa con lần lượt bị ban đỏ (bệnh sởi). Nhìn các con
nằm rên xiết trên giường, tôi đau lòng quá! Tôi quẫn trí, định đưa các
con lên cầu Bình Triệu (Thủ Đức) để mẹ con cùng nhảy xuống sông chết hết
cho rồi!! Nhưng tôi sực nhớ lại, tôi còn cha mẹ già yếu đang cần đến
sự chăm sóc của tôi, còn chồng tôi đang học tập cải tạo, đang cần đến
sự thăm nuôi của tôi và nhứt là, bốn đứa con yêu quí của tôi đang rất
cần đến bàn tay mẹ hiền. Tôi tự nhủ thầm rằng “ Tôi Phải Sống.” Bổn
phận làm con, tôi phải báo hiếu cho mẹ cha. Bổn phận làm vợ, tôi phải lo
tròn đạo phu thê. Bổn phận làm mẹ, tôi phải nuôi dạy các con khôn lớn
nên người. Ròng rã suốt bảy năm trời thì cũng có ngày chồng tôi được trả
tự do.
Ngày
21 Tháng Giêng năm 1982, ngày mà chồng tôi được ra khỏi tù cộng sản,
ngày mà cả gia đình tôi đều nở nụ cười mừng rỡ. Nhìn chồng gầy ốm xanh
xao, tóc đổi màu bạc trắng, tôi cay đắng, nghẹn ngào.Tôi chạy đến ôm
anh, chỉ thốt ra được hai tiếng “Mình ơi,” rồi nước mắt tuôn ra thắm
đẩm gò má và loang lổ trên ngực áo. Anh thì cũng chẳng thốt được lời
nào, chỉ ôm chặt lấy tôi với khóe mắt rưng rưng đầy lệ.
Ôi làm sao tả xiết cảnh đoàn tụ sao bao năm dài xa cách. Tôi thở phào
nhẹ nhõm. Kể từ bây giờ tôi sẽ có người bạn đời bên cạnh để chia sẻ vui
buồn, để chung nuôi con cái, để phụng dưỡng cha mẹ già.
Mỗi tháng anh phải viết báo cáo và trình diện tại phường 24 quận Bình
Thạnh (nơi cư trú của gia đình tôi). Sau một năm, anh đi làm thư ký cho
khách sạn bên Khánh Hội dưới sự kiểm soát của phường. Đến năm 1984,
tôi nhờ một chị bạn làm tại bưu điện Saigon gởi hồ sơ của chúng tôi tới
tòa đại sứ Mỹ bên Thái Lan, xin đi Mỹ theo diện H.O.. Chờ đợi mỏi mòn
mười năm, hồ sơ được chấp thuận cho cả gia đình gồm cha mẹ và ba đứa
con qua Mỹ (đứa thứ tư đã vượt biên năm 1988 và định cư tại Canada).
Làm sao để ta có thể giải thích được phước họa ở đời? Ngày 30 Tháng
Chín năm 1994, vợ chồng con cái chuẩn bị đi phỏng vấn cho một cuộc đổi
đời thì sự thay đổi oan nghiệt lại lù lù hiện tới: Mẹ tôi đột ngột qua
đời! Hỡi ôi, thân nầy ví xẻ làm hai được! Tôi nên đi theo chồng con,
hay ở lại lo hậu sự cho mẹ hiền? Thôi thì tùy duyên. Anh và con hãy đi
trước đi. Anh ơi hãy cho em… Các con ơi hãy cho mẹ…một lần cuối cùng
nhỏ lệ khóc thương đấng sanh thành.
Ngày 17 Tháng Mười, năm 1994, anh và ba đứa con ngậm ngùi từ giã quê
hương. Đại úy Nguyễn Văn Quy của sư đoàn 25 Bộ Binh, dẫn theo ba con
lên máy bay, đi Mỹ theo diện H.O. 23, để lại người vợ héo hon, người mẹ
nát lòng. Sự sống của tôi đã theo đường bay trong đám mây ảm đạm kia mà
mất dần, mất dần…Tôi ngã xuống trong chiếc xe mang tôi trở về. Cấp cứu
của người bạn bác sĩ làm tôi tỉnh lại và bao lời khuyên lơn của bạn bè
lối xóm, làm tôi thuyên giảm nỗi đau lòng. Tôi tự nhủ, thôi thì chỉ có
xa nhau sáu tháng. Lo cho mẹ mồ yên mả đẹp rồi gia đình lại sẽ gặp
nhau.
Anh và các con qua California ở nhờ nhà người bạn thân mà anh đã kết
nghĩa anh em trong tù! Cùng nhau chia sẻ hoạn nạn, dằn vặt, nhục nhã,
đói khát, anh và Thạch đã coi nhau như anh em ruột.
Thạch
và Bảo, vợ Thạch, cùng các con đã đem hết tấm lòng thương yêu ra, giúp
đỡ cho gia đình tôi. Cả nhà đi học ESL. Con trai tôi vì đã học hết hai
năm tại trường sư phạm, môn Anh Văn, nên dễ dàng kiếm được việc làm.
Cháu đạp xe đi làm nên người bạn Mễ cùng sở thương tình cho cháu quá
giang khi mùa đông lạnh tới. Tuy không phải là người cùng chung huyết
thống mà cậu ta xem con tôi như người bạn đã thân quen lâu đời. Rồi dần
dần cả anh và hai đứa con gái cũng đều có việc làm.
Thế là Chủ Nhật cuộc gọi phone tưng bừng diễn ra. Ôi đại dương ơi, dù
mi có xa xôi muôn trùng nhưng cũng không có quyền lực cách ngăn tình
chồng nghĩa vợ, tình mẫu tử thiêng liêng. Nhưng hãng điện thoại thì có
đủ quyền lực gởi cái “bill” đến với giá sáu trăm đô la! Ôi Chúa ơi,
những lần sau tôi đều luôn miệng ngăn cản: “Thôi stop đi anh ơi. Thôi
stop đi con ơi …” Tôi xin được phỏng vấn lại sau bốn tháng xa cách.
Ngày 17 Tháng Hai, năm 1995, tôi rời Việt Nam với một tâm hồn nặng trĩu,
lớp lưu luyến nơi chôn nhau cắt rún, lớp lo lắng cho bệnh tình của cha
già. Tôi không dám đến từ giã người, vì tôi sợ tôi bị xúc động rồi ngất
xỉu đi thì sẽ không đi Mỹ được. Tôi bị bịnh cao máu nặng, mỗi khi tôi
bị buồn rầu hay xúc động thì tôi bị ngất xỉu rất lâu mới tỉnh dậy. Máy
bay cất cánh rời khỏi phi trường Tân Sơn Nhứt lúc 12 giờ rưỡi và sau 20
tiếng đồng hồ, gia đình tôi xum họp lại tại Mỹ.
Ngày
ngày tôi đến trung tâm St. Alsem để học Anh văn. Sau sáu tháng tôi
phải đi mổ mắt. Trước khi đi mổ, tôi quỳ gối trước bàn thờ và thành tâm
khấn nguyện: “Xin Đức Mẹ cho con thấy được rõ ràng sau khi mổ mắt. Nếu
con bị mù chắc con tự tử chết quá, vì con không muốn làm khổ chồng và
các con của con !” Có lẽ vì quá thương chồng và các con nên tôi mới có ý
nghĩ điên cuồng như thế.
Đức
Mẹ đã nhận lời cầu nguyện của tôi nên sau khi mổ, đôi mắt tôi rất sáng
và trông thấy rõ ràng. Tôi có thể đọc sách mà không cần mang kiếng lão
nữa. Con xin cám ơn Mẹ Maria, tôi xin cám ơn bác sĩ Minh, người đã mổ
mắt cườm cho tôi. Tôi đặt chân lên đất Mỹ ở cái tuổi năm mươi tám, cái
tuổi dở thầy, dở thợ, và không muốn đi ở đợ. Ở Việt Nam tôi làm cô
giáo, qua Mỹ tôi “tháo giầy.”
Làm
cô giáo 35 năm, hôm nay đổi đời tôi trở lại làm học trò! Thật là một
kinh nghiệm sâu sắc và quí giá. Chồng tôi học Anh văn và Spanish vào
buổi tối. Tôi học buổi sáng. Ban ngày anh đi làm việc ở tận Long Beach.
Chiều về ăn vội vài chén cơm rồi đi ngủ để đến 10 giờ tối thì vợ chồng
tôi lại đến xưởng phân phát báo Los Angeles Times, để xếp báo. Đến 5 giờ
sáng thì cùng nhau đi bỏ báo. Địa điểm bỏ báo của chúng tôi ở gần biển
nên mùa Hè thì dễ chịu, còn mùa Đông thì lại vất vả, khổ sở. Gió biển
lạnh thấu xương. Tay xách, vai mang bị đựng báo, chúng tôi lê bước bỏ
báo đến từng nhà, vì chúng tôi tuổi già, sức yếu, tay run nên không thể
ngồi trên xe mà quăng báo một cách điệu nghệ như đám trẻ. Xong việc,
anh đưa tôi tới Golden West để tôi tham gia lớp học, còn anh lại đi làm
thêm.
Tôi
học Anh văn rất khó khăn, nên mấy tháng đầu nghe thầy giảng mà như vịt
nghe sấm! Phần lớn tuổi, phần đầu óc chậm tiếp thu, nên thay vì học
lớp cắm hoa chỉ có hai năm, tôi phải mất bốn năm. Sau bốn năm miệt mài
tôi cũng ra trường vào mùa hè 2001 với chứng chỉ Floral Design &
Shop Management. Dù có chứng chỉ trong tay nhưng với số tuổi đời đã
muộn nên không có tiệm hoa nào mướn tôi hết. Tôi đành ở nhà lo cơm nước
cho chồng và các con. Đêm đêm cùng chồng đi bỏ báo cho đến lúc hưởng
tiền già.
Tôi thuộc loại “Giamaha” (già mà ham). Ham học, ham làm chớ không ham
đi shopping. Vì tiết kiệm ngân quỹ gia đình, tôi chỉ mặc đồ hiệu
‘”DOMIBO” (đồ Mỹ bỏ ) và “DOREMI” (đồ rẻ Mỹ). Ba đứa con tôi tiện tặn để
dành tiền trong ba năm và mua được một căn nhà ba phòng ngủ, hai phòng
tắm, giá $158,000 mà chỉ đặt tiền trước có $ 10,000.
Trước khi mua nhà chúng tôi tạm trú với Thạch. Sau một năm chúng tôi
muớn một căn hộ hai phòng đường Magnolia để ra riêng. Sau khi ở được hai
ngày, đứa con trai lớn xuống garage thì thấy xe đã mất. Tôi bủn rủn cả
chân tay. Chiếc xe chưa trả hết tiền mà đã mất.
Nỗi
khổ mất xe còn nóng hổi thì anh cả tôi bên ViệtNam kêu qua, báo tin ba
tôi vừa mới qua đời sáng ngày 05 Tháng Tư, năm 1995. Con người có thể
chịu đựng được bao nhiêu đau khổ dập dồn trong một thời gian ngắn ngủi
hả bạn? Lòng tôi ray rứt, ăn năn. Phải chi tôi nán lại Việt Nam hai
tháng thôi thì tôi đã có cơ hội mang chiếc khăn tang tiễn đưa ba tôi
đến nơi yên nghỉ cuối cùng. Phải chi tôi đừng vội vàng, tôi đã có thể
quỳ bên giường bệnh và vuốt mắt đấng sanh thành trong lần tiễn biệt. Tôi
khóc như mưa và khấn nguyện: “ Cha ơi, xin hãy tha cho con tội bất
hiếu. Con không thể nào vẹn vẻ cả đôi đường…Xin cha hiểu cho con. Con
thương cha nhiều lắm…” Tôi không thể về VN được nên gởi tiền về cho anh
tôi lo ma chay. Trong sáu tháng tôi mồ côi cả mẹ lẫn cha !
Tôi
ở nhà lo việc nội trợ, nấu nướng để khi chồng và các con về sẽ có bát
canh nóng, chén cơm dẻo. Cả nhà sống trong hạnh phúc giản dị, chân
thành. Các con ban ngày làm việc, tối học thêm ở Golden West College.
Chúng hiện đã hoàn thành “ Giấc Mơ Mỹ” với công việc ổn định, nhà cửa
đàng hoàng. Vợ chồng tôi chỉ ao ước sớm có cháu nội ngoại để ẵm bồng
cho vui tuổi già. Các con tôi đều hiếu thảo, hiền ngoan. Gia đình tôi
rất hạnh phúc. Cuối tuần xum họp, ăn uống và cùng nhau đi lễ ở nhà thờ
Westminster. Chúng tôi tập cho các con biết thương yêu, chia sẻ và nâng
đỡ nhau trong những khi tối lửa tắt đèn.
Sau
mười sáu năm cùng nhau chia sẻ tất cả thăng trầm, buồn vui, khổ đau và
hạnh phúc, ngày 14 Tháng Giêng, năm 2009, chồng tôi bỏ tôi ra đi, về
với Chúa. Anh trút hơi thở cuối cùng tại bệnh viện Fountain Valley vì
nhồi máu cơ tim. Trước khi hôn mê, anh đã thì thầm với tôi: “Loan ơi,
anh mệt lắm.” Nghe anh nói mà tim tôi đau nhói. Tôi cảm thấy như có
muôn ngàn mũi tên đâm vào trái tim tôi. Tôi nắm tay anh, cố nén tiếng
khóc. Đau khổ ơi, hãy chảy ngược vào tim đi, hãy nằm đó rã tan và thấm
đậm. Rồi một ngày nào đó, chúng ta sẽ cùng nhau gặm nhắm từng phút,
từng giây, từng nét rạch, từng đường vỡ để cho nước mắt nhỏ từng giọt
xuống mộ bia lạnh lẻo, để người nằm đó nhắm mắt thở dài…Anh chăm chú
nhìn tôi rất lâu mà không nói được cho đến khi hoàn toàn chìm vào hôn
mê. Bác sĩ mời mẹ con tôi ra ngoài để họ dùng máy nhồi tim. Mẹ con tôi
ngồi chờ trên đống lửa. Sau cùng ông ra, buồn rầu và nghiêm trang, nói:
“Xin lỗi bà, chúng tôi đã làm hết sức. Ông nhà quá yếu…”
Các
con dìu người mẹ khổ đau ngồi xuống ghế. Tình yêu, hạnh phúc, xum họp,
chia lìa… Như những bọt nước…như những chiếc lá vàng… mênh mông… bềnh
bồng… vô tận…
Chúng
tôi được phép xuống phòng ICU để nhìn mặt anh lần cuối cùng. Sau khi
Cha làm phép xức dầu và đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn Gioan
Baotixita sớm về với Chúa thì y tá đến rút ống oxy. Tôi nắm bàn tay mềm
mại và còn chút hơi ấm của chồng mà nước mắt tuôn rơi. Tôi than thầm: “
Mình ơi, sao mình nỡ đi trước, bỏ em lại bơ vơ một mình. Mình nhớ cầu
xin Chúa sớm rước em đi theo mình nghen mình!!”
Chúng
tôi quàn anh tại nhà thờ Dilday Brothers ở đường Beach. Chúng tôi xin
cảm tạ tất cả quý Cha, quý thân nhân, bằng hữu đã an ủi, thăm viếng và
tiễn đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Chúng
tôi cũng không quên cám ơn nước Mỹ đã cho những gia đình cựu quân nhân
của quân lực Việt Nam Cộng Hoà được tị nạn trên miền đất tự do nầy...
được tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tự do ứng cử và
bầu cử, và được tự do biểu tình v..v..
Chúng
tôi nguyện chọn nơi đây là quê hương thứ hai và chúng tôi cũng sẽ gởi
nắm xương tàn tại non nước nầy, giống như người chồng, người cha yêu
quý của chúng tôi vậy.
Nguyễn Kim Loan
|
|||||||
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
|
|||||||
![]() |
|||||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||||||
![]() |
|||||||
giodocgocong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 12/Jan/2011 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 132 |
![]() ![]() ![]() |
||||||
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
|
|||||||
![]() |
|||||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23789 |
![]() ![]() ![]() |
||||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||||||
![]() |
|||||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23789 |
![]() ![]() ![]() |
||||||
|
|||||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||||||
![]() |
|||||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||||||
Để Tưởng Niệm Một Người AnhLần cuối cùng tôi gặp lại anh, khoảng tháng 7 năm 1978 tại Nghĩa Lộ. Trong những người tù ốm o đang vác những bó nứa, băng qua khu ruộng khô mà đám tù chúng tôi đang “lao động” , bất ngờ tôi nhận ra anh, khi anh hỏi xin bọn tôi một ngụm nước. Tôi ngỡ ngàng đứng nghiêm đưa tay lên chào: - Đại Tá! Anh nhìn lên, nhận ra tôi và nở nụ cười: - Mi ở đây à? Chừ còn tá với tướng chi mi. Mi khỏe không? Tôi đưa cho anh lon guigoz nước rồi nắm lấy tay anh. Anh gầy hơn xưa nhiều, chỉ có nụ cười vẫn vậy, không thay đổi. Chưa kịp hỏi anh ở trại nào và vợ con ra sao, thì tên vệ binh hét: “không được quan hệ linh tinh, khẩn trương về trại”. Tôi phụ đưa bó nứa lên vai anh. Bước đi, anh nói vọng lại một câu: - Mi nhớ giữ gìn sức khỏe hỉ! Vào đầu tháng 4/75, QĐ II&QK2 lần lượt lọt vào
tay giặc, sau những cuộc triệt thoái tồi tệ và bi thảm nhất trong
lịch sử chiến tranh. Hầu hết quân nhân các cấp thuộc các Sư Đoàn và
Tiểu Khu thống thuộc còn sống sót đã tiếp tục di tản vào Bình Tuy,
Vũng Tàu, Sài gòn. Được lệnh của Bộ TTM truyền đi trên các đài phát
thanh, truyền hình, kêu gọi “đến trình diện tại Trại Chí Linh, Trung
Tâm Huấn Luyện XDNT Vũng Tàu” để sau đó được bổ sung tái lập một sư
đoàn duy nhất: Sư Đoàn 22BB với Thiếu Tướng Phan Đình Niệm tiếp tục
làm tư lệnh, đặt dưới quyền xử dụng của Quân Đoàn III. Tôi tìm đến dãy nhà số 4, nơi đặt BCH Trung Đoàn 47 (tái lập). Vội vàng tìm gặp anh, để xem người hùng của trận chiến Ban Mê Thuột bây giờ ra sao. Anh ngồi trên dãy bàn dài với một vài sĩ quan cấp trung tá, có nhiều vị tôi quen biết. Tôi đưa tay chào, chưa kịp trình diện lời nào, thì anh đã phất tay bảo tôi ngồi: -Tau được chỉ định tái lập gấp Trung Đoàn 47 này. Mi về đây với tau cho vui. Anh em 23 nhiều lắm. Tụi mình “đánh đấm” tiếp. Thoáng một chút xúc động. Nghĩ mình là một sĩ
quan đàn em cấp thấp, cũng chẳng tài cán gì, chỉ gặp gỡ một vài lần
và được anh quí mến. Vậy mà hôm nay, trong cái cảnh chợ chiều, hổn
tạp rối ren này, anh vẫn còn nghĩ đến mình. Trong hầu hết những bài viết về các trận chiến cuối cùng của QLVNCH, dường như chưa có ai nói đến sự kiện này. Tại sao những sĩ quan cấp tá, cấp úy lại sẵn sàng nhận lãnh những chức vụ quá nhỏ nhoi như thế, trong lúc tình hình nguy ngập, chiến trường đang từng giờ thu hẹp lại, mà mọi bất lợi, hiểm nguy đang chờ họ đối mặt? Hơn nữa hầu hết đều bỏ lại gia đình ở miền Trung mà bây giờ đã thuộc vùng địch chiếm. Bao nỗi ưu tư canh cánh bên lòng. Nếu không phải là “Tổ Quốc, Danh Dự. Trách Nhiệm”, sứ mạng cao cả mà họ đã tuyên thệ nhận lãnh khi quì xuống vũ đình trường trong ngày mãn khóa? Ngay tại BCH Trung Đoàn, ngoài Đại tá Võ Ân Trung đoàn trưởng, còn có đến 4, 5 trung tá. Trung tá Nguyễn Thắng Phùng, chỉ huy trưởng TTHL/SĐ 23BB nhận lãnh chức vụ Phụ Tá Hành Quân kiêm Trưởng ban 3. Vai trò này anh đã từng làm cách đây trên 10 năm, khi còn mang cấp bậc thiếu úy. Tôi vẫn còn nhớ, khi mới ra trường vài tháng, dắt trung đội biệt phái đến trình diện BCH Trung Đoàn 45BB của Trung tá Võ Văn Cảnh, đóng trại giữa rừng để chỉ huy trận chiến Quảng Nhiêu đang hồi khốc liệt nhất, tôi được gặp Thiếu Úy Nguyễn Thắng Phùng, đang là Trưởng Ban 3 Trung Đoàn. Anh rất vui vẻ, niềm nở hướng dẫn trung đội tôi ra nằm giữ an ninh cho một Pháo Đội Pháo Binh 155 ly, đóng bên cạnh BCH Trung Đoàn. Anh dặn dò chỉ vẽ những điều cần thiết. Chỉ với câp bậc thiêu úy, nhưng tôi nghĩ anh là một Trưởng Ban 3 nhiều kinh nghiệm, khả năng. Tôi có cảm tình với anh kể từ ngày ấy. Anh đã đảm trách chức vụ này từ khi còn thiếu úy, bây giờ mang đến cấp bậc trung tá, anh lại trở về với cái chức vụ hơn 10 năm trước. Vậy mà anh rất vui vẻ, bình dị, thường thân tình đùa cợt với anh em và chu toàn trách nhiệm của mình. Anh bảo: - Được làm việc với Đại Tá Ân là vui rồi! Tôi rất nể phục thái độ và tư cách của anh. Tôi được anh Ân thương mến, giao cho một chức vụ cũng không có trong bản cấp số: Sĩ Quan Hành Quân & Tiếp Vận. Thực chất, đó chỉ là một loại “thượng sĩ thường vụ” của Trung Đoàn, chạy ngược chạy xuôi lo đủ thứ việc. Ngày 17/4/1975, chưa kịp trang bị xong, một số quân nhân chưa có cả súng đạn, Trung Đoàn được lệnh di chuyển xuống Long An, đảm trách hành quân an ninh trong vùng Bến Lức. Ban đêm, từng đoàn xe từ Tổng Kho Long Bình chở vũ khí, quân trang quân dụng xuống để đơn vị vừa hành quân vừa trang bị tiếp. Đạn thì thiếu nhưng súng lại thừa. Một người có thể được trang bị một khầu M16 và thêm một súng Colt 12 nếu muốn. Ngày 22/4/75 có khoảng 10 tân sĩ quan hai khóa 28
và 29 của Trường VBQGVN vừa tốt nghiệp “non” tại Trường Bộ Binh Long
Thành, đến trình diện. Các anh vẫn giữ đúng nề nếp, cử một đại diện
chỉ huy trình diện đơn vị trưởng theo đúng lễ nghi quân cách. Nhìn
họ mà tất cả chúng tôi ai nấy cũng đều cảm kích, chạnh lòng. Những
sinh viên đã từ bỏ học đường chọn binh nghiệp bảo vệ giang sơn tổ
quốc. Bây giờ giang sơn đang như sợi chỉ mành trước gió, tổ quốc lâm
nguy, vậy mà họ vẫn đến đây, để chấp nhận một cuộc chiến ở giờ thứ
25, trong một hoàn cảnh hoàn toàn bất lợi, khi chưa hề có được một
ngày kinh nghiệm chiến trường. Trong những đôi mắt nhuốm chút ít ưu
tư ấy vẫn tỏa ra đầy khí phách, sẵn sàng nhập cuộc. -Thay mặt đơn vị, anh cám ơn và hoan nghênh các em đã đến trình diện. Các em đã cho chúng tôi một nguồn sinh lực mới, sau thời gian trải qua những mất mát, giao động. Điều đó cũng đã là một góp phần xứng đáng rồi. Anh biết các em chưa nghỉ phép sau khi làm lễ ra trường. Còn đơn vị lại đang trong thời kỳ tái tổ chức. Bây giờ theo thông lệ, anh cấp cho các em giấy nghỉ phép mười ngày, để các em về thăm gia đình. Mong là các em hiểu sự quyết định này của anh. Hầu hết các tân sĩ quan nhất quyết xin ở lại để
chiến đấu cùng đơn vị. Có anh bảo là gia đình ở ngoài Trung, không
có ai ở đây. Nhưng tất cả sĩ quan chúng tôi có mặt lúc ấy đều thấy
quyết định của ĐạiTá Ân là có cân nhắc và có tình có lý, nên khuyên
các anh nên chấp nhận quyết định của Đại tá, nếu anh nào gia đình ở
miền Trung có thể về Sai gon tạm nghỉ ngơi chờ lệnh, sau khi hết
phép trở lại đơn vị cũng chưa muộn (?) Tất cả chúng tôi đều đến từ Vùng 2, nên không ai biết rành địa thế và tình hình trong khu vực lạ lẫm này. Để tránh chậm trể và nguy hiểm, Trung Đoàn được biệt phái một toán Cảnh Sát do một Thiếu Tá chỉ huy, dẫn đường. Khởi hành từ 10 giờ tối, cho mãi 5 giờ sáng đơn vị mới tới địa điểm. Toán Cảnh sát “hướng lộ” đã dẫn chúng tôi đi sai lộ trình. Rất may là tất cả an toàn, không đụng độ với bất cứ lực lượng nào của địch. BCH Trung Đoàn đóng tại Trường Trung Học Cần Giuộc. Phía trước là đồng ruộng, sau mùa gặt nên đất đã khô và trơ những gốc rạ. Tổng Kho Long Bình có lệnh phân tán quân trang quân dụng, nên đã đưa xuống đây cả mấy chục chiếc xe GMCvà xe jeep các loại, kèm theo một lệnh miệng: “ Mỗi xe chỉ có đầy bình xăng, xử dụng chiếc nào đến hết xăng là bỏ luôn.” Vừa xe, vừa gạo, và quân trang chất thành những đống cao giữa trời, trên những đám ruộng khô. Trung Đoàn có ba tiểu đoàn, không có đại đội trinh sát và đại đội chỉ huy công vụ. Một tiểu đoàn đóng chung với BCH Trung Đoàn, làm lực lượng trừ bị, hai tiểu đoàn bung ra xa. Trong đó có một tiểu đoàn hành quân tái chiếm xã Mỹ Lộc, một khu trù phú của quận Cần Giuộc, bị một tiểu đoàn địa phương của địch xâm nhập, truy giết các nhân viên xã ấp và các trung đội nghĩa quân. Giữa một cuộc chiến không nhìn thấy tương lai, và phải chỉ huy một đơn vị như chiếc áo cũ mục nát,được vá víu bằng những tấm vải đủ màu, nhưng Đại tá Võ Ân cùng tất cả chúng tôi đã sống với nhau thật vui vẻ, chí tình. Với tôi, đó lại là thời gian đáng ghi nhớ nhất trong cả mười một năm binh nghiệp. Cái ranh giới chỉ huy gần như nhỏ lại, để nhường cho cái tình huynh đệ. Điều này có được phần lớn là nhờ vào anh - Đại tá Võ Ân. Ngày xưa, khi còn chỉ huy các tiểu đoàn, trung đoàn hùng mạnh, tham dự nhiều trận chiến cam go ở Bình Định, Pleiku, Kontum, Quảng Đức, anh vẫn vui vẻ thân tình như hôm nay. Với bạn bè hay đàn em, thuộc cấp lúc nào anh cũng dùng hai chữ “mi, tau”. Sĩ quan trong đơn vị thực sự xem anh như một người anh, hay một ông thầy của thời trung học. Tháng 11 năm 1973, Phóng viên chiến trường Dương Phục, trong một lần đặc biệt đi theo đơn vị của anh, khi ấy là Trung Đoàn 53 thuộc Sư Đoàn 23BB, đang quần thảo với địch trong một trận chiến vô cùng khốc liệt tại Quảng Đức, đã viết: “Tôi vác ba lô ra xe và hai tiếng đồng hồ sau
có mặt bên cạnh đơn vị có nhiệm vụ tái chiếm hai tiền đồn Bu Prang
và Bu Bong đã lọt vào tay địch quân trong cuộc tấn công ngày 4.11
vừa qua. - Có Đại Tá Ân trong đó không? - Trình Trung Tướng, có . Tôi trả lời và mời ông lên xe, nhưng ông từ chối, bảo là ông muốn đi bộ. Có thể là ông có ý cho tôi chạy vào trước để báo cho đại tá Ân, tôi đoán thế. Tôi vội vã lái xe chạy vào BCH la lớn cho Đại Tá Ân và mọi người biết: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng tới thăm chứ không phải phi hành đoàn. Tất cả vội vã mặc áo và sửa soạn lại tấm bản đồ
lớn được treo trên bảng đen (của lớp học). Tôi xếp mấy chiếc ghế lại
cho ngay ngắn. Khi Đại Tá Ân chưa kịp bỏ áo vào trong quần thi Tướng
Trưởng đã bước vào phòng. Anh chỉ còn kịp đứng nghiêm hô to: “vào
hàng, phắc” rồi đưa tay lên chào. Đại Tá Ân đưa cây que chỉ bảng lên tấm bản đồ,
định trình bày tình hình, thì Tướng Trưởng đưa tay ngăn lại. Ông chỉ
nói một câu ngắn ngủi: Sau khi đưa tay bắt từng người có mặt trong TTHQ,
Tướng Trưởng cho biết ông không có nhiều thì giờ vì chỉ mượn được
trực thăng trong một thời gian ngắn, và bảo Đại Tá Ân lái xe chở ông
sang thăm ông Quận trưởng Cần Giuộc. Tôi gọi toán cận vệ lên một xe
jeep khác chạy theo, nhưng Tướng Trưởng khoát tay, bảo không cần.
Sau này Đại tá Ân cho biết, anh Trung tá Quận Trưởng này cũng là một
thuộc cấp được Tướng Trưởng tin cậy và quí mến, thời Ông còn làm Tư
Lệnh QĐIV. Sau nhiều lần tấn công bất thành, do lực lượng địch trú ẩn bám trụ trong các giao thông hào kiên cố và chống trả mãnh liệt. Lệnh của Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn, tránh tối đa việc xử dụng phi pháo có thể gây thiệt hại cho khu nhà thờ và nhà cửa của dân chúng. Hơn nữa, Pháo Binh khó cận yểm vì khoảng cách giữa địch và dân quá gần, tiền sát viên của ta khó tiếp cận để điều chỉnh cho thật chính xác. Anh lệnh cho các đại đội tạm rút ra, lựa chọn các binh sĩ trẻ và có năng lực tác chiến, chỉ trang bị súng nhẹ, không mang theo ba lô, chia thành nhiều toán nhỏ, làm lực lượng xâm nhập, tấn công. Các binh sĩ lớn tuồi hay yếu kém theo sau, làm lực lượng tải đạn, tản thương và án ngữ. Anh tâp trung cơ hữu và xin chúng tôi tăng cường thêm cho anh nhiều súng cối 60 ly (ít được các đơn vị xử dụng) với đầy đủ đạn dược, cùng một số xạ thủ có kinh nghiệm về loại vũ khí này. Tôi được Đại Tá Phùng Văn Quang, Trung Đoàn Trưởng 44, chỉ định đảm trách công việc này. Anh và tôi cùng hướng dẫn cấp tốc các tiểu đội trưởng cũng như xạ thủ, điều chỉnh súng cối từng mét một. Khi các tiểu đội bò vào tiếp cận các hầm hố của địch, đích thân anh điều động trên 20 khẩu súng cối 60 ly tác xạ theo sự điều chỉnh của các tiểu đội trưởng. Kết quả thật không ngờ. Địch quân bị tiêu diệt bởi các khẩu súng cối 60 ly này, số còn lại bị thương và bị bắt sống, bên ta không có binh sĩ nào tử thương. Sau trận chiến, trước khi trở về đơn vị gốc, anh gọi tôi ra ăn bữa cơm chia tay, cùng với vài sĩ quan của anh ngoài tiệm Thiên Nam Phúc. Và có lẽ do chiến công này, chỉ một thời gian ngắn sau đó anh được thuyên chuyển về Sư Đoàn 23 BB để giữ chức vụ Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 53 thay Đại Tá Trần Văn Chà. Sau này, tôi cũng được nghe kể lại, anh Ân là người chưa từng giữ cấp “phó” bao giờ. Anh tốt nghiệp Khóa 12 Thủ Đức, là người thăng
cấp trung tá sớm nhất và cũng là người duy nhất của khóa mang cấp
bậc đại tá . Hầu hết những sĩ quan giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng dưới
quyền, đều là khóa đàn anh, có người xuất thân trường Võ Bị đồng
thời với anh. Nhưng tất cả đều nể phục và kính mến anh. Anh bảo tôi tâp trung tất cả tài xế lái các xe GMC khả dụng chở anh em về cầu chữ Y. Không đủ xe, tôi chạy đi mướn thêm hai chiếc xe đò. Tôi nghiệp hai anh tài xế đến giờ này vẫn còn chí tình với lính, tình nguyện chở giúp bọn tôi về đến Sài gòn. Tôi đưa anh về nhà (chị Ân thuê để cùng các con tạm trú ở đây, sau khi theo đoàn quân di tản từ miền Trung). Anh bắt tay tôi thật chặt, nhìn tôi rồi bỗng nở một nụ cười, như chưa hề có chuyện gì xảy ra: -Mi về xem vợ con ra sao. Cẩn thận hỉ. Tôi nhìn anh, chưa biết nói lời gì để an ủi anh, thì lại nghe tiếng anh đùa: -Que sera sera! Chừ tau chỉ tội nghiệp cho vợ con, còn tau thì phó thác số phận cho ông trời! Tính anh là vậy đó, lúc nào cũng bất cần, cũng
cười đùa, mặc dù trong lòng đang rối như tơ vò. Anh ra đi, nhưng không hề chết. Tên tuổi Võ Ân
vẫn còn vang vọng mãi trong tâm khảm của mọi người đã từng quen biết
và sống chết cùng anh. Lịch sử dân tộc chắc chắn còn ghi đậm tên
anh. Một người lính đã sống hết lòng với đồng đội anh em, và chiến
đấu bằng tất cả danh dự cùng cả trái tim mình.
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 24/Mar/2015 lúc 8:13pm |
|||||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||||||
![]() |
|||||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||||||
CÕNG MẸ
Huế,
![]()
![]()
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 26/Mar/2015 lúc 9:08am |
|||||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||||||
![]() |
|||||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||||||
![]() |
|||||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||||||
![]() |
|||||||
<< phần trước Trang of 109 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |