![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Tâm Tình | |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 133 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23632 |
![]() ![]() ![]() |
Rời khỏi thiên đường![]() Mưa phất phới buồn. Cái buồn của một địa phương đìu hiu với những căn nhà rải rác xa xa. Bất động mờ mờ trong làn nước mỏng. Trời trong vắt những cơn mưa quái dị cứ rả rít, lê thê. Con đường đất, bao nhiêu ngàn người khổ công nện đắp mấy tháng trước, gặp cơn mưa nhão ra, sình đỏ kẹo sệt dính vô bánh xe đóng một lớp dày dưới vè làm Tuấn còng lưng hơn dưới sức cản. Tôi áy náy vịn tay lên hông Tuấn vấn đề từ lúc xuống xe đò tới giờ như một thắc mắc liên tục trong trí nhỏ nhẹ đề nghị: “Tuấn này, hay mình tạt vô đâu đó đụt đỡ,” “Chuyện! Có cơn mưa này mới dễ bán mua.”
“Hường lạnh à! Cố gắng thêm tý nữa. Đến nơi bán gạo mình trú mưa luôn, may ra tìm được tý nước nóng uống đỡ lạnh.” Tự ái được vuốt ve bằng sự săn sóc nhỏ nhoi ân cần đó, tôi nép sát vào lưng Tuấn hơn. Hơi ấm từ người Tuấn phả vào mặt tôi gợi cảm giác bừng bừng như va chạm đầu tiên trong rạp hát Kim Châu mà tôi đã nghiêm khắc giới hạn lại để tránh những quá trớn có thể hiểm nguy trong khung cảnh tối đen vốn thuận tiện cho những bước đầu khó nói. ‘Nghĩ gì đấy Hường?” “Về cuộc sống. Tại sao phải hành hạ mình như thế này để đem một nhúm gạo nhỏ nhoi vô Sài gòn? Hai người và một cái xe hơi hữu hiệu hơn chúng ta còng lưng trong mấy tháng” “Còn nhiều chuyện vô lý hơn xày ra chung quanh hằng ngày! Biết bao người đã nằm xuống để đem laị hiện trạng bi thảm này của đất nước… Hàng chục triệu ngày công thủy lợi đổ ra mà cuối cùng như nước đổ lá môn cả, còn lại gì đâu? Chuyện nhỏ nhoi thôi, như con đường này đấy.” “Tất cả đều bị bắt buộc thôi. Như mình lao động kiểu này đây.” Tuấn lặng thinh, có lẽ cũng như tôi, đang liên tưởng đến số phận mình. Rồi đây dưới áp lực của cuộc sống, biết bao nhiêu điều vô ích khác phải cắn răng làm. Câu chuyện và sự thân thiết tin tưởng khiến con đường rút ngắn lại. Cơn mưa rả rích tưởng chừng như chấm dứt từ lâu, lâu lắm. Người nông dân bán gạo chui sau khi cho mượn tấm nylon, ân cần khuyên chúng tôi rời ngay địa điểm để tránh phiền nhiễu cho cà đôi bên. Đường về như đường vào Ba Thục. Tuấn mệt nhọc còng lưng chăm chú đẩy chiếc xe bướng bỉnh, bây giờ chỗ tôi ngồi là mấy bao cát chứa gạo căng tròn, không có tay ôm ngang hông để chia sẻ nỗi mệt nhọc trớ trêu. Mưa đập vào mặt đau điếng. Tôi co ro lầm lũi theo sau, bối rối không biết phải giúp Tuấn cách nào. Túi gạo trên vai và con đường trơn trợt làm tình làm tội. Đôi guốc nặng trĩu dưới chân như tạc bằng đá. Tôi lột ra cầm tay. Đầy bùn đất, dềnh dàng như đôi giày trận. Hai ống quần dầy cộm vướng víu đôi chân lóng ngóng, tội nghiệp. Vừa bực dọc vừa đau xót. Câu nói của mẹ ngày nào thật thấm thía: phải đổ mồ hôi mới có bát cơm. Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi. Giờ đây một sự đổ mồ hôi vô lý, phạm pháp tuy rằng không động chạm đến ai. Tôi muốn bật khóc vì tức tưởi và xót xa cho thân phận. Tiếng Tuấn thúc hối, xuyên qua âm thanh ồn ào nước trút xuống không gian: “Hường đi nhanh đến gian nhà trước mặt đứng đợi. Tôi sẽ đến sau. Môi Hường tím ngắt kìa.” Câu nói nhẹ nhàng, nhưng như ra lệnh. Tôi ngó Tuấn, chần chờ. Đi chầm chậm theo sau như nãy giờ thì cũng ích lợi gì đâu, nhưng bỏ đi mau, đụt mưa một mình để Tuấn tội tình dưới cơn mưa quái ác, chịu sự hành hạ của mấy bao gạo nặng nề và chiếc xe giở chứng quả vô tình đến độ. Tuấn thúc thêm, như hiểu tôi đang nghĩ gì. “Hường đến đây tạm rửa guốc, rửa chân, nếu mưa to hơn mình mới trú lâu. Coi bộ “căng” rồi đa. Khoảng sáu giờ là hết xe đấy, trời lại tối nữa. Kẹt xe là “gay” lắm.” Hai tiếng “căng”, “gay” mới tiếp thu được đem ra dùng ở đây mang một khôi hài tính đặc biệt khiến tôi suýt cười thành tiếng. Tôi sang túi gạo qua vai khác, xăng xái bước mau về ngôi nhà trước mặt. Cửa nẻo im ỉm, vắng tanh. Ở mái hiên, những giọt mưa theo mái lá đào một dải lỗ nhỏ thẳng băng trên mặt đất, buồn buồn. Tôi tìm chỗ có giọt nước lớn rửa chân, vuốt lại mái tóc, gụt sơ gấu quần. Đàng xa, Tuấn vẫn ì ạch với cái xe bây giờ như con lừa cứng đầu. Đường trơn, sình nhão càng lúc càng nhiều hơn, bánh xe không lăn được để lại trên đường một vết dài tự mãn, thách đố xót xa lòng tôi. Tôi vượt mưa chạy ra. Đường trơn khiến tôi suýt té mấy lần. Tuấn vẫn chăm chú đẩy, tới chừng tôi tới gần, chàng mới nhìn lên gắt gỏng: “Đã biểu Hường đứng đấy trú mưa, còn ra đây làm gì? Về cảm lạnh cho xem.” Tôi bực tức nhưng không nói gì, chỉ lầm lũi đẩy phụ. Cái lưng tội tình mỏi dừ. Đôi chân xấu số tê cóng. Áo quần dính sát vào da thịt đến ngượng ngùng. Tất cả kêu gọi tôi bỏ hết để trở về Sài gòn nằm trong căn nhà nghe tiếng rả rích mưa rơi, thoải mái thưởng thức một vài khúc nhạc tình. Thỉnh thoảng Tuấn liếc mắt nhìn tôi, ngờ ngờ, áy náy. Thoáng thấy điều đó nhưng tôi giả tảng như không. Chuyện bán buôn lời lỗ chưa thấy, chỉ thấy toàn bực mình. Tôi vẫn bướng bỉnh đủng đỉnh đi trong mưa để hành hạ sự xót xa của Tuấn. Căn nhà trú mưa hiện ra với cái thở nhẹ nhõm của hai đứa. Chàng lúc thúc dựng xe, mông lung ngó trời rồi nhẹ cười giả lả với tôi. Tôi nghiêm mặt lầm lũi tìm nước rửa mặt, gụt quần. Khi ngó lên, Tuấn đã đứng bên cạnh từ lúc nào, đưa cho tôi cái khăn tay. Khăn còn khô vài lớp bên trong, phảng phất mùi nước hoa của một anh chàng đang yêu làm dáng. Tôi lách người sang bên né tránh, mặt lạnh như tiền. “Tôi chỉ muốn Hường không cực khổ vô ích thôi. Một người dầm mưa được rồi, đâu cần phải cả hai. Cuộc đời giờ đây thật nhiều bất trắc, hãy dành năng lực cho những chuyện cần thiết sau này.” Một tiếng sét và mấy làn chớp soi rõ đường đi xiên xiên của những giọt mưa bắt đầu thưa hột ngoài kia. Tôi ngó Tuấn bằng cặp mắt oán hờn, kéo dài sự thống khổ làm tình làm tội người yêu. “Xin lỗi Hường về việc đã không kềm chế được xúc động vừa rồi”, Tuấn cười cầu tài trở giọng, “ tại hạ muôn vàn có lỗi với quý cô nương.” Chàng chìa khăn cho tôi lần nữa. Tôi đi guốc trong tâm trạng chàng lúc đó. Muốn đổi cách xưng hô nhưng chưa đủ can đảm. Cung cách Tuấn giống như ông hoàng tử quyết tâm, chịu khó, khôn ngoan trong phim truyện cổ tích Ba Lan “ Trẻ mãi không già” chúng tôi mới xem gần đây. Dường như chúng tôi đang cười để mặc nhiên xí xóa tất cả nỗi giận hờn phóng đại thỏa mãn nữ tính của mình nãy giờ. Cái khăn ấm thơm mùi đàn ông gây gây, là lạ. Tôi lau những giọt nước nhỏ trên mũi để nghe lại lần nữa cái mùi đặc biệt mới gặp đầu tiên trong đời. Ngoài kia trời bỗng trút nước ào ào, gió thổi mạnh như muốn bật tung mái lá mỏng manh ẻo lả. Bức màn nước rũ xuống mái hiên càng lúc càng dầy hơn, che kín không gian bên ngoài. Mây đen kéo tới lúc nào đang phủ lên khung cảnh cô tịch thân thiết, đang làm nền cho một tình cảm lâng lâng êm đềm trong tôi. Mấy chùm tóc sũng nước kết lại trước trán Tuấn có vẻ gì hay hay lãng mạn nhưng đầy nam tính. Tôi hết giận và xao xuyến khi bắt gặp cặp mắt năn nỉ của Tuấn, đành đánh trống lảng: “Trời mưa lớn quá! Mưa nhà quê nhớ kỷ niệm thời thơ ấu nô đùa với những cái bọt nước….” Tuấn cướp lời: “… Thầm chỉ một cái nào đó coi nó là mình và cầu mong nó lâu vỡ”, chàng nói trong khi mỉm cười, “ trò chơi đó thú vị ở chỗ ta có thể bắt đầu lại bất cứ lúc nào bằng cách tiếp tục chọn một bong bóng khác, và cứ như thế mãi… Đến tạnh cơn mưa. Thực tế mình chỉ có mỗi một đời thôi, không có gì để thay thế.” Không biết cơn mưa kéo dài bao lâu và những nụ hôn thiếu kinh nghiệm nhưng bóc được lớp vỏ tình yêu e ấp kia đã lập lại bao nhiêu lần. Tôi đẩy Tuấn ngỡ ngàng khi cảm thấy âm thanh tiếng mưa khang khác và trời bên ngoài đang xụp tối mau lẹ. Thần kinh cảm giác vẫn ứng chiến trên má. Mật ngọt vẫn lảng vảng trên đôi môi tê dại, đôi môi hết còn trinh nguyên con gái. “Trời tối quá rồi, mưa cũng dứt…Anh quá tham lam!” “Như là một sự “đặt cọc” khoảng đời còn lại của anh bên cạnh Hường.” “Nếu không có những nụ hôn kia, anh sẽ bỏ rơi Hường chắc.” Tuấn xụ mặt không nói gì. Câu đùa vô duyên chạm tự ái Tuấn. Sự yên lặng lâng lâng, sảng khoái hòa lẫn với nỗi thắc mắc lẩn quẩn trong trí tôi trên đường về. Tuấn có khinh mình sau lần này? Làm sao giới hạn lại những lần khác? Con đường lộ ra cái như chịu ảnh hưởng của gậy thu đường, ngắn lại, đẹp ra. Tôi nghĩ đến tiền lời cho lần tải gạo này. Cha tôi sẽ có thêm vài viên thuốc ngoại quốc đang lưu hành lén lút đầy rẫy trên đường Nguyễn Huệ. Tôi đỏ bừng mặt khi nghĩ đến câu: “Đồng vợ đồng chồng tát biển Đông cũng cạn”. Tuấn vẫn chăm chỉ đẩy xe, thỉnh thoảng liếc nhìn tôi trao đổi những nụ cười tình. Trong sự hân hoan thơ thới đó tôi như rơi từ chín từng không gian xuống khi nghe tiếng kêu của mấy tên công an mang súng vừa túa ra từ một căn nhà lá lụp xụp bên đường…
Tháng ngày mệt mỏi cằn khô mau lẹ con người tôi. Mắt thâm quầng, mặt đầy mụn, kết quả của những sự lo âu vô vọng, mất ngủ thức khuya… Ba tháng sống trong sự đợi chờ tin tức dài như ba thế kỷ. Sau lần đi buôn thất bại ở Trảng Bom tôi như nhuốm bịnh luôn. Cuộc bán buôn lỗ lã ngút ngàn: những nụ hôn xác nhận tình yêu ràng buộc đời nhau như một thứ dây leo chằng chịt trói buộc không cho vùng vẫy. Cuộc đời tôi như rẽ ngang vì cơn mưa ở tụ điểm hiền hòa mà Tuấn gọi đùa là vùng Tam biên Việt – Miên Lào đó. Một lần đánh bạo ghé nhà mượn cớ bán buôn hỏi thăm xa gần chỉ được biết mập mờ Tuấn bị cuỡng bách nhập ngũ và đang phục vụ đâu đó trên chiến trường đầy bất trắc ngoài nước Việt Nam. Em gái chàng thương hại nhìn cặp mắt lo âu của tôi nói nhỏ: “Anh có gởi thơ về nói chiến trường không xa nhà một người cùng làng tên Thái, và anh sẽ tìm dịp ghé thăm để chứng tỏ không có gì gọi là định mệnh vì lý do loài người áp đặt muốn chia rẽ anh em”. Tôi linh cảm cuộc đời không giản dị như ước vọng của Tuấn. Có những ngã rẽ tàn khốc sanh ra do những dữ kiện hết sức tầm thường và phi lý. Tầm thường như một cơn mưa nhưng đủ kết nối một cách nghiệt ngã đời tôi với chàng. Rồi biết đâu sẽ có cái phi lý như động tác bấm cò súng trước hay sau một tíc tắc đồng hồ. Chớp mắt ngó xuống đôi tay đầy gân xanh của mình, tôi cố giấu một xúc động mãnh liệt đang nghiền nát con tim. Đàn bà con gái với nhau, làm sao che mắt được, tôi lùi về vị thế thủ, nói vài câu an ủi ngược, lòng cảm thấy trơ trẽn, dối trá. Chắc gì khi nhận được những lời như vậy tôi đã yên lòng? Nói để nói. Tự vẽ ra hình ảnh mà chính mình cũng ngờ ngợ, không tin. Chợ búa càng ngày càng ế. Bữa nào cũng như bữa nấy chỉ những khuôn mặt võ vàng đó chùm nhum tán gẫu giết thời giờ. Người bán người mua thưa thớt, chúng tôi buồn tính sang qua sớt lại mấy món hàng ế ẩm để chờ đợi một khoảng thời gian tươi sáng không biết bao giờ mới có. Sắc diện tôi xuống mau như mặt trời tháng Mười, chưa cười đã tối, thuốc men cho cha tôi dần dần được thay thế bằng mấy thứ lá cây cỏ mọc hoang dại ở hàng rào nhà bên cạnh, tác dụng tinh thần nhiều hơn mục đích chữa trị. Nếu tình trạng này kéo dài, hoặc tôi, hoặc cha tôi sẽ ngã xuống nay mai. Có lẽ cả hai một lúc không chừng. Tháng ngày có Tuấn, sự có mặt của chàng mặc dầu lúc đó hiện diện trong tôi một cách khiên cưỡng… Đã, như những cơn mưa trái mùa đến bất chợt nhưng vắng lâu ta mới thấy sự hiện hữu trước đây là cần thiết. Muốn đánh bạo lại lần nữa để hỏi đơn vị chàng nhưng nhớ lại rồi thư từ sẽ bị xem trước nên ngại ngùng. Riêng tư, người ngoài kiểm duyệt, xăm xoi, chẻ làm tư làm tám từng chữ nhỏ khác nào phũ phàng chà đạp lên mối tình thần thánh của tôi. Tôi nén lòng chờ đợi đến bực dọc sự im lặng lâu lắc đến tàn nhẫn của Tuấn. Tại sao anh không viết cho em mấy dòng? Anh biết địa chỉ của em mà. Anh ở quá xa mà em thì cô đơn. Viết như một cách thể kéo gần lại không gian, gần gũi nhau trong trí tưởng tượng. Đọc thư nhau như chúng ta đối diện tâm tình. Để em khỏi lo âu, mong nhớ. Để anh quên được nỗi chết vô lý rình rập từng giờ. Để em an lòng rằng cho đến ngày tháng đủ đời chưa đến nỗi hung bạo kéo anh ra khỏi tầm tay ngắn ngủi nhớ nhung của em. Mỗi ngày về nhà sau khi vấn an một cách chiếu lệ người cha đau khổ trên giường bệnh, tôi nhìn quanh quất chờ đón câu nói: “Con có thơ”, nhưng bữa nào cũng như bữa nào, người không nói gì, tôi biết nếu mình hỏi hôm nay, ngày mai sẽ hỏi nữa và sẽ hỏi hết quãng đời còn lại không chừng. Sự thống khổ sẽ tăng gia cho cả hai. Tôi nuốt đắng sự háo hức, dồn nén câu hỏi để làm tròn bổn phận đứa con ngoan trong hoàn cảnh vô cùng bất lợi đang tuyệt vọng chờ đợi một kết thúc bi thảm như một người bị kẹt trong hố sâu chờ lúc những hòn đá trên cao rơi xuống lấp chôn… “Mắt Hường đẹp thế kia, nếu đời Hường không hạnh phúc quả trời không có mắt”. –”Đừng nịnh đầm. Trong thiên hạ biết bao nhiêu chuyện bẽ bàng xảy ra rồi. Trời đất vô tình, coi con người như chó rơm. Nếu trời có mắt đất nước này đã chẳng như ngày nay” –”Đó là lý do chính khiến anh yêu mà chưa dàm nghĩ đến chuyện cầu hôn. Thời gian yêu thương tiền hôn nhân đẹp tuyệt vời. Và nếu có xảy ra chuyện không may cho một trong hai người, người còn lại đau khổ, nhưng sẽ không trách nhiệm trong vấn đề thủy chung”. Tôi nhớ mình đã bực tức gần như bật khóc trước cách đặt vấn đề của Tuấn. Tính chất thực tế của câu nói, cách tách tôi ra khỏi những bất trắc có thể đến với chàng làm tôi nghẹn ngào. Tuấn coi tôi là gi của anh ta mới được chứ? Giờ đây trong cơn đau xé lòng tôi mới hiểu được sự lo xa đó. Tôi nhỏ nhoi trước tình yêu của chàng. Tôi thấy mình phải có hành động tương xứng: bám chặt vào sự đợi chờ, tuy rằng mỗi ngày qua quá trình hủy diệt Tuấn càng có cơ thành tựu. Nghĩa vụ chiến trường liệt sĩ. Bước thứ hai. Rồi sẽ bước thứ ba. Biết tôi có sống nổi để nhận được cái tin đó? Một cái tin tôi biết trước sau gì cũng có. Trong hai mươi năm của cuộc chiến vô lý nhất thời đại, trong mấy năm của cuộc xâm lăng điên rồ mà dân tộc tôi phải gánh chịu, Tuấn đâu phải là người đầu tiên bị đốn ngã và tôi đâu phải là người con gái cuối cùng khóc khô dòng lệ cho sự nằm xuống của người tình? Nhưng sao tôi vẫn hy vọng lý luận của mình sai và bằng vào sự tin tưởng ở một sác xuất vô cùng nhỏ nhoi, tim tôi mong Tuấn thoát được. Thà rằng “sinh ly còn hơn tử biệt”. Tôi, tôi sẵn sàng chấp nhận mất Tuấn vĩnh viễn ở phương trời xa với người tình mới và những cuộc vui mới còn hơn được tin chàng ngã xuống vì một viên đạn căm hờn. Buổi chiều về nhà thấy là lạ. Một chiếc xe Honda dựng trước cửa. Mừng như tết. Kỳ thiệt, không tìm ở chỗ cũ. Chỗ thường gặp nhau, chỗ có niềm vui đầu đời. Đến chi đây cho đời rắc rối thêm ra. Ai cũng biết bộ quần áo anh đang mặc tượng trưng cho bất trắc. Tôi sửa soạn nụ cười. Nụ cười chưa mở hết bỗng héo úa khi người thanh niên trong nhà không là Tuấn. Hắn lụp chụp đứng dậy chào, lắp bắp không thành tiếng. Dại gái thế này, chắc hẳn đến đây không thiện ý. Tôi gật đầu chiếu lệ rồi giả tảng như không, quay ra nói chuyện với cha… Hồi lâu hắn mới móc túi chìa ra một tờ giấy ronéo đen bẩn, nhỏ bằng nửa tờ giấy học tró. “Cô Hương, có giấy báo trên quận chấp thuận cô xung phong công tác thủy lợi hai mươi ngày. Cô sửa soạn ngày mốt lên đường.” Nghe như sét đánh bên tai. Trước mặt tôi không là một người, mà là một con sát tống đạt giấy dẫn độ tôi về địa ngục. Cha tôi bỗng lên cơn ho rũ rượi. Người co chân vào ngực, gập mình, giật giật theo từng âm thanh xé nát phổi người và bóp nhẹp tim tôi. Tôi như muốn ngã lăn quay xuống đất. Chạy ăn từng bữa muốn hụt hơi, cả tháng dầm mình trong bùn đất lại phải tự túc đem cơm nước làm sao mà tôi lo xuể? Mà ai ở nhà chăm sóc cha tôi? Cơn bịnh của người đã đến thời kỳ trầm kha, sống nay chết mai. Sáu mươi tính tháng, bảy mươi tính ngày. Người đã gần bảy mươi, đang tuyệt vọng chống lại những con vi trùng quái ác, chờ ngày bị chúng quật ngã để cả hai đàng cùng đi vào lòng đất. Tôi lòng dạ nào bỏ đi cho đành. Muốn sao thì sao, tôi phải ở nhà. Tiếng hắn, giọng lấy điểm: “Trước khi đến đây, tôi đã trình bày với trên Quận và được trả lời rằng công tác của Quận phải được đặt lên hàng đầu. Những khó khăn giới hạn của mỗi gia đình sẽ được từng bước giải quyết.” Tôi lợm giọng. Thức ăn trong ngày như muốn trào ra. Cổ tôi trơn nhờn như cảm giác lúc thấy cha tôi ườn cổ uống tro, những con giun đất, để “trừ ho và trừ đàm theo phương pháp ngoại khoa”. Tôi nói, cố giấu đi sự lạnh lùng thường nhựt: “Anh thấy đó”, tôi quay về phía cha tôi, mắt hắn cũng đảo theo, “làm sao Hường có thể yên lòng công tác được!” Mắt tôi chớp chớp diễn tả sự ngây thơ và đau khổ. Hắn đực mặt ra. Trái táo Adam chạy lên chạy xuống theo động tác nuốt nước bọt. Hắn đang xếp những điều muốn nói lại trong trí, đang đánh lưỡi bảy lần để đưa ra một lời đề nghị đổi chác nào đó. Mong cho đề nghị có thể chấp thuận được. Còn cái nhẫn vàng năm phân. Hy vọng của đi thay người. Hắn nhìn trân trân bàn tay tôi đang chống cằm, liếm môi nhiều lần trước khi nói: “Cô Hường… Tất cả chuyện khó trên đời này đều có thể giải quyết được nếu ta chịu giải quyết và biết cách giải quyết”. Tôi chồm đến gần hắn hơn. Thực tình tôi chỉ nóng lòng chờ đợi để biết hắn muốn nói gì. Hắn vồ vỗ lên mu bàn tay tôi, nói trong một sự cố gắng tối đa chừng như ngoài lúc này sẽ chẳng bao giờ có đủ can đảm. Tôi tròn xoe mắt ngạc nhiên. Té ra bấy lâu nay mình là con mồi hắn rình rập bổ lưới. Tai tôi lùng bùng không nghe rõ hắn nói gì, chỉ lờ mờ hiểu rằng mình được mời tối nay, hay tối mai đi đâu đó. Tức giận ước chừng muốn lật cái bàn trước mặt đập lên người hắn. Giá trị một người con gái chỉ bằng tờ giấy lộn cưỡng bức hai mươi ngày lao dịch kia thôi sao? Tôi có thể có nhiều cách khác để khỏi đi, đâu cần phải bán thân cho hắn. Một lần đi chung, hai lần đi chung, một lần đi ăn, hai lần đi ăn, tới lúc nào đó mình biến thành gái bao hay vợ nhỏ của hắn mà không hay. Tôi tức tưởi muốn khóc, trừng mắt nhưng kịp dằn. Hắn không đáng thấy được yếu tố nữ tính của mình, cũng không là người để mình giận dữ. Giận dữ là muốn cho hắn một bài học sửa đổi. Tôi đâu đến nỗi vô công rỗi việc để làm chuyện đó. Mặc xác hắn. Tôi trả lời thật nhẹ: “Thật tình đi chơi với anh, cũng không có gì ngại. Nhưng mà anh để cho khi khác”. Thấy hắn ngần ngừ, tôi nói thêm: “Hường ở đây. Anh làm việc ở đây. Còn nhiều thì giờ. Vội gì. Cha Hường lúc này cần người săn sóc”. Khi hắn ra về tôi bực mình với chính tôi. Mình đã đầu hàng hoàn cảnh, đã biết môi miếng đẩy đưa lời nói, đã biết ngoác mồm uốn lưỡi học xuôi kẻ có thế quyền. Đời đang biến thể mình từ từ. Lanh lẹ, lẻo mép, đãi bôi ở chợ trời. Đong đưa ừm ờ với những con dê xồm dơ dáy ở địa phương. Tôi đã từ từ lột xác để bắt đầu hư hỏng ra, không phải kiểu con tằm hóa bướm mà hóa thành một loài sâu đáng ghê sợ hơn? Hay chính tôi đang bước đầu vong thân vì hoàn cảnh? Khép hờ cánh cửa, tôi bước ra sân sau khi liếc nhìn cha già đang thở những hơi mệt mỏi thiêm thiếp trên giường. Chuyện tình nguyện thủy lợi bắt buộc làm bịnh trạng người nặng hơn, làm tôi ngột ngạt khó chịu tới muốn nhuốm bệnh: phải hít thở một chút không khí bên ngoài. Mặt trời chưa khuất sau dãy nhà đằng xa nhưng mây đen như đang vần vũ quanh đây. Một chiếc xe buýt cũ kỹ ì ạch chạy ngang chất chứa một số người quá với khả năng phát ra tiếng kêu than lụp bụp chói tai. Tôi nhìn đám hành khách chen chúc trong xe vừa thương hại vừa buồn đau số phận đất nước. Chắc họ cũng như tôi một vài lần trước đây cũng vui mừng vì không lỡ chuyến xe chót trong ngày. Sự chật chội, chen lấn cộng với mùi mồ hôi sau một ngày làm việc mệt nhọc khiến mọi người mệt nhọc hơn. Nhưng rồi họ lại tự an ủi rằng có còn hơn không. Họ bằng lòng với cái được nho nhỏ càng ngày càng teo tóp bớt lại, dần dần quen đi để cuối cùng khổ mà không tự biết. Cũng như tôi rồi sẽ lém lỉnh, đãi bôi đến lúc nào đó những thâu lượm để sinh tồn sẽ biến thành bản chất. Tôi sẽ biến dạng, lột xác thật sự, sẽ không là một nữ sinh viên chân thật, rụt rè ngày nào nữa mà là một phụ nữ sản phẩm đặc trưng của cái xã hội nầy. Như cây xương rồng phải có lá dầy và gai nhọn để có thể sống được ở sa mạc. Tôi sẽ… Tôi không dám nghĩ xa hơn. Tất cả chỉ là một sự bẽ bàng đến độ đáng thẹn. “Những hình nộm nhan nhản đang hợp xướng hàng ngày như bầy ễnh ương ộp ộp, oang oang kia trước đây vẫn tưởng vô hại khi nói theo chúng một lần, hai lần…Nói để sống, nhưng đến lúc nào đó họ sẽ đánh mất linh hồn mà không tự biết. “ Đó là tác dụng của sự lập đi lập lại để tạo thành tập quán rồi bản năng.” –” Vâng, tụi nó áp dụng định luật Parlov. Cách hay nhất là mình ý thức rằng họ đương điều kiện hóa mình để bẻ gãy quá trình đó.” Tôi bước những bước mơ màng trên con đường thiếu điện, tối om. Bước chân vô thức dẫn dắt vào xóm nhà Tuấn. Con đường hẻm như rộng hơn vì vắng bóng trẻ con chơi đùa. Một bà kia còn ngồi nán lại bên gánh chè ế khách đưa mắt mời gọi. Một vài ngọn đèn vàng vọt tỏa ánh sáng yếu ớt từ những căn nhà xa xa. Nhà Tuấn đó hôm nay có vẻ gì khác thường trong sự lặng thinh của những người ra vào. Tất cả như bước những bước hụt hẫng khẩn trương. Tôi tò mò đến trước cửa, hững hờ như khách nhàn du. Tiếng người khóc ấm ức, nghẹn ngào bên trong. Sao con bỏ cha mẹ đi mà không một lời từ biệt. Một người đàn ông trong nhà bước ra. Quay lưng về phía tôi, tay vịn cánh cửa, chân tìm dép trong đống dép đủ màu, đủ loại úp ngửa ngổn ngang. Ông ta thủng thẳng quay ra, chép miệng nói bâng quơ, “Mới thấy đó liền mất đó, mới có ba tháng chứ lâu lắc gì! Thời buổi này nghĩa vụ là nghĩa địa”. Tôi bỗng nghe mình dửng dưng, lạnh lùng. Toàn thân như được cấu tạo bằng chân không, không biết xúc động. Tuấn, trước sau gì cũng mang tin đó về gia đình thôi. Tôi còn tình cảm đâu để buồn? Tôi vô thức bước sâu hơn trong hẻm tối, chẳng cần để ý con đường trước mặt dẫn về đâu. Đường hẹp dần, càng lúc càng gồ ghề, loang lổ, trơn trợt. Gió đồng nội mát lạnh bắt rùng mình. Tôi cho tay vào túi quần jean quần bò nói theo kiểu của họ, để đỡ lạnh, vô tình tay chạm vào tờ giấy thủy lợi, đưa lên mắt liếc nhanh bằng ánh sáng ngôi sao hôm nhấp nháy trên trời cao, rồi vò liệng trên đường đê. Chân tôi vẫn bước đều, nhẹ nhàng phơi phới như bông như mây. Con đường đất ngoằn ngoèo trước một khung cảnh bao la chung quanh như một thứ nam châm hút tôi bước về phía trước, bước mãi… Một cơn gió lạnh quật ngang, phũ phàng như một ngọn roi cá đuối siết vào da thịt. Tôi rùng mình, xây xẩm, cơ hồ ngã lăn quay xuống đường… Đất trời như nghiêng nghiêng dần rồi phủ ập xuống ruộng có tôi đang đứng trên bờ đê. Giây lát tất cả đều trở về trạng thái bình thường như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Trên trời ngôi sao Hôm lấp lành vẫn còn đó, chơ vơ. Gió đâu thổi ù ù bên tai tôi, vạt áo đập phần phật. Tôi đưa tay kéo lại, bỗng cảm giác tay mình quá nhẹ nhàng thanh thoát, như người phi hành đang lơ lửng trên tầng xa của vùng chân không bất tận. Tôi ngạc nhiên khi thấy mình càng lúc càng bay bổng lên cao, hai tay đang khép hờ vạt áo và hai tay khác đang với lên bờ ruộng trong khi chính một tôi khác đang nằm sõng soài trên bờ đê, hớ hênh hai chân thòng xuống mặt ruộng xâm xấp nước, một cái nút bóp ở giữa ngực bung ra. Từng cụm, rồi từng cụm mây lướt nhanh qua mặt tôi… Khi tiếng ù ù hết, những cụm mây lơ lửng cũng không còn, tôi đã đứng trước một khung cảnh chưa từng gặp nhưng thân thuộc như đã nằm trong tôi từ muôn ngàn kiếp, tràn đầy hoa thơm cỏ lạ, suối róc rách chảy trên nền đá muôn màu, điểm tô đó đây lâu đài kiến trúc tân kỳ bằng những sợi mây chiều óng ánh. Lòng tôi thanh thản lạ lùng, sự buồn phiền đã tan biến từ lúc nào đó xa xôi. Hình ảnh Tuấn tức tưởi chết cũng như hình ảnh cha tôi đang nằm oằn oại trên giường không còn xoáy tim tôi nữa. Tôi mơ hồ mường tượng mình đã hoàn toàn tách ra khỏi không gian vô lý của cuộc đời. Phía dưới đất thấp thoáng Dinh Độc Lập lững lờ chen giữa rừng cờ màu đỏ sẫm đầy yêu khí. Qua mái “bê tông” tôi thoáng thấy từng cặp ngỗng khổng lồ đang chui vào vỏ trứng. Từng cặp, từng cặp, lác đác đó đây trong gian phòng diễm lệ như những cặp số không tròn trĩnh trên quyển vở tính đố của đứa học trò hư. Tôi dõi mắt cố tìm khu nhà mình, không thấy gì ngoài đám mây đen dày đặc. Nhưng kìa, Tuấn mặt tươi rói. Cả cha tôi nữa, mạnh khỏe hồng hào. Cả mẹ tôi nữa, khuất núi khi tôi còn lẫm đẫm. Và nhiều, nhiều người khác, quen hay không, đang tách mây mù tiến về phía tôi chào đón, trên môi mỗi người, nụ cười tươi thắm nở rộ, thân thiết, tưng bừng… Tôi vẫn thấy một tôi khác nằm hớ hênh trên bờ đê bây giờ lại thêm hàng chục người bu chung quanh. Lại có tiếng ai đó kêu thất thanh: “bà con ơi làm ơn mau ra giúp cô này nè. Trúng gió lạnh lắm, sợ nhập thổ rồi đi luôn đó. Mau bà con ơi!”. Mây vẫn bay và tôi thấy mình quyến luyến với cái tôi nhẹ nhàng thanh thoát hơn là cái tôi thiểu não nằm kia. Nguyễn Văn Sâm Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 12/Sep/2023 lúc 11:22am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23632 |
![]() ![]() ![]() |
Có Thì Vui. Không Cũng Vui. Được Mất Đều Vui
Ông Tư thường hay đùa, trêu chọc bạn bè rằng: “Đời người đàn ông có hai
lần sung sướng: Lần cưới vợ, và lần vợ chết. “Bây giờ vợ chết, ông mới ý
thức được cái câu đùa nghịch đó vô cùng bậy bạ và bất nhân, không nên
nói. Có lẽ anh chàng nào nghĩ ra câu nầy là kẻ độc thân, chưa có kinh
nghiệm chết vợ. Ông ân hận và tự giận mình.
![]()
Sau khi chết vợ, ông như mất hồn, lãng đãng, trí óc để trên mây. Nhiều
lần trên đường về nhà, ông đi lạc, lái xe qua khỏi nhà rồi mà không
biết. Ngày xưa, ông hay bực mình mỗi khi được bà nhắc nhở đi lối nầy,
quẹo góc kia, và bà cũng nổi nóng la nạt ông mỗi khi đi lạc đường. Bây
giờ, mong được nghe lời cáu kỉnh gây gổ đó, mà không có được. Ông thở
dài và đau nhói trong tim như có vật nhọn đâm vào. Không thể ngờ, vợ ông
không còn trên đời nầy nữa. Bây giờ bà nằm ngoài kia, nghĩa địa hoang
lạnh âm u. Không còn chầm chập kiểm soát từng hành động của ông để mà
phê bình sửa sai.
Mở cửa, bước vào nhà, ông nói lớn như khi bà còn sống: “Em ơi! Anh đi
làm về.” Trước đây, nếu không nghe tiếng trả lời, ông chạy vụt lên lầu
tìm vợ. Bây giờ, ông lẳng lặng đến thẳng bàn thờ, thắp ba cây nhang, lạy
bốn lạy. Ông thầm nghĩ, người ta chỉ lạy vợ khi vợ đã chết rồi, tại sao
không ai lạy vợ khi vợ còn sống? Dù có gây nên tội lỗi tầy đình, cũng
không ai lạy vợ bao giờ.
Ông nhìn tấm hình màu, ảnh bán thân của bà, có nụ cười thật tươi, hai
vành môi uốn cong, đôi mắt sáng tinh anh, có ánh tinh nghịch. Ông thấy
bà còn đẹp lắm, nét đẹp dịu dàng. Thế mà bao nhiêu năm nay, ông không hề
biết, và chưa một lần nhìn ngắm kỹ cái nhan sắc của vợ. Sống lâu ngày
bên nhau, thấy nhau, nhưng quên nhìn ngắm, chỉ thấy hình thể tổng quát
của nhau. Cũng như nhiều ông có vợ thiếu nhan sắc, cũng không bao giờ
biết vợ họ xấu. Những ông lấy được vợ đẹp, lâu ngày, cũng chẳng còn biết
vợ mình là đẹp. Nhiều bà đi xâm môi, xâm lông mày xong, về nhà, ông
chồng cũng không hề biết có sự thay đổi trên mặt vợ.
Ông Tư gieo mình nằm vật ra tấm ghế bành, hai tay ôm mặt khóc rưng rức
như đứa bé đi về vắng mẹ. Tiếng khóc buồn bã vang dội trong căn phòng
vắng. Ông ước sao chuyện thật hôm nay là một giấc mộng dữ, để khi ông
thức dậy, thấy còn có bà bên cạnh. Có thể ông sẽ bị vợ cằn nhằn trách
móc một điều gì đó như thường ngày, nhưng thà còn có những phiền hà của
vợ, còn hơn là nằm đây một mình.
Ông đã khóc như thế cả tháng mấy nay, mỗi lần đi làm về. Bước vào căn
nhà vắng vẻ lạnh lẽo, không còn bóng dáng người vợ thương yêu, làm trái
tim ông se sắt, tâm trí ông trống rỗng mịt mờ. Nỗi đau cũng tan dần theo
giòng nước mắt, rồi ông thiếp đi trong một giấc ngủ buồn, ngắn. Khi
thức dậy, ông nhìn quanh, đâu đâu cũng có bóng dáng, có kỷ niệm với bà.
Tất cả đều còn đó. Vật dụng, đồ đạc của bà trước khi chết, vẫn còn để y
chỗ cũ, giữ nguyên trạng. Ông không muốn thay đổi chuyển dịch gì cả.
Trên bàn trang điểm, vẫn còn chiếc lược nằm nghiêng nghiêng, thỏi son
dựng đứng, hộp phấn, những chai thuốc bôi tay cho mịn da, tất cả đều
không xê dịch, không sắp xếp lại. Ông tưởng như hương tay của bà còn
phảng phất trên từng món vật dụng.
Mỗi bữa ăn, không còn ai thúc hối, hò hét dục ông ngồi vào bàn ngay, sợ
cơm canh nguội lạnh. Bây giờ, ông tha hồ lần lửa, không tha thiết đến
bữa cơm. Có khi chín mười giờ mới bắt dầu ăn, qua loa cho xong, miệng
nhạt phèo. Thường ông để thêm chén dĩa đũa muỗng đầy đủ cho bà. Rồi thì
thầm mời vợ ăn, tưởng như bà còn sống, ngồi đối diện và cùng chia vui
hạnh phúc trong từng giây phút của thời gian. Ông có ảo tưởng như bà còn
ngồi đối diện, đang lắng nghe ông nói. Hôm nay bà làm biếng phê bình,
không mắng trách khi ông làm rơi cơm canh ra bàn. Với cách đó, ông tự
dối lòng, để có thể nuốt trôi những thức ăn, mà vì buồn chán, ông không
còn cảm được hương vị ngon ngọt.
Nhiều khi thức giấc nửa đêm, vòng tay qua ôm vợ, ôm vào khoảng trống,
ông giật mình thảng thốt, chợt hỏi thầm, bà đi đâu rồi? Khi chợt nhớ bà
không còn nữa, nước mắt của ông chảy ra ướt cả gối. Có khi úp mặt khóc
rưng rức, khóc cho đã, cho trái tim mủn ra, và thân thể rã rời. Chiếc
giường trở thành trống trải, rộng thênh thang. Ông vẫn nằm phía riêng,
bên kia còn để trống, dành cho bà. Ông ôm hôn cái gối, mùi hương của bà
còn phảng phất gợi bao kỷ niệm của tháng ngày hạnh phúc bên nhau. Khi
không ngủ được, ông bật đèn nằm đọc sách, bây giờ ông không sợ ai cằn
nhằn, ngăn cấm đọc sách giữa đêm khuya. Trước đây, nhiều khi ông tha
thiết thèm đọc vài trang sách trước khi đi ngủ, mà vợ cứ cằn nhằn mãi,
làm ông mất đi cái thú vui nầy. Bây giờ ông nhận ra vì thương chồng, sợ
ngày hôm sau ông buồn ngủ, mệt, nên bà ngăn cản, bảo là chói mắt không
ngủ được.
Ông tiếc, vợ chồng đã hay cãi vã những chuyện không đâu, chẳng liên quan
gì đến ai, mà làm mất đi cái vui, cái hòa hợp của gia đình. Có khi chỉ
vì tranh luận chuyện con khỉ bên Phi Châu, mà đi đến to tiếng, giận hờn,
khóc lóc, làm vợ chồng buồn giận nhau, dại dột như hai đứa trẻ con ngu
dại.
Tại sao phải gắt gỏng, đâu có được gì, mà làm nhau buồn. Bây giờ muốn
nói lời ân hận, thì làm sao cho bà nghe được. Ông tự xét, ông là một con
người tệ mạt, thiếu hiểu biết. Khi có hạnh phúc trong tay thì không
biết trân trọng, để đến khi mất đi, mới ân hận, mà không còn kịp nữa.
Nếu được làm lại, ông sẽ đối xử với bà tử tế hơn, nói nhiều những lời êm
ái dịu dàng. Sẽ không nổi giận khi bà làm chuyện ngang phè, sẽ nhường
nhịn bà nhiều hơn, và sẽ phớt tỉnh mỗi khi bị bà chê bai, mai miả. Nhất
là bày tỏ cái lòng ông, nói ông yêu thương bà, yêu thương lắm lắm. Đâu
có gì ngăn trở, mà những ngày bà còn sống, ông không nói được những điều
đó. Ông chợt nhớ có ngưòi viết rằng, vợ chồng phải đối xử như ngày mai
thức dậy sẽ không còn nhau. Vì chẳng ai được sống mãi, và cũng không
biết chắc chuyện gì sẽ xảy ra trong giờ sắp tới, cho ngày hôm sau. Cuộc
đời con người vốn bấp bênh trong định mệnh.
Lấy kinh nghiện đó, nhiều lần nói với những người bạn mà vợ chồng còn
được sống bên nhau, cho họ biết rằng, họ đang có hạnh phúc quý báu, họ
nên trân trọng giữ gìn, kẻo mai đây, khi chiếc bóng, thì tiếc thương
cũng đã muộn màng. Đa số có lắng nghe, và tin lời ông là đúng, nhưng họ
quên phứt ngay sau đó, và không thực hành điều hiểu biết.
Mẹ ông mất trước vợ sáu tháng. Ông cũng buồn, thương. Nghĩ rằng mẹ già
thì chết là chuyện thường tình. Nhưng khi mất vợ, ông cảm thấy đau đớn
và buồn khổ vô cùng tận. Buồn hơn mất mẹ mười lần. Ông tự cảm thấy xấu
hổ, vì mất mẹ mà lại không đau buồn bằng vợ chết! Có phải ông đã thương
vợ hơn thương mẹ chăng? Có phải ông là đứa con bất hiếu? Ông cũng không
biết, và không so sánh được hai cái đau vì mất mát. Nhưng rõ ràng, ông
đã ngã gục khi chết vợ.
Có khi quẩn trí, ông muốn chết theo bà. Sao cuộc sống vô vị quá chừng.
Rồi mai mốt cũng già, bệnh, đâu có thoát được cái chết. Chết bây giờ,
nếu còn linh hồn, thì còn gặp lại vợ ngay. Nhưng ông sực nhớ nhiều lần
bà nói không muốn gặp ông lại trong kiếp sau. Bà đâu có thù ghét ông mà
nói câu đó nhỉ. Nói chi cho ông đau lòng lúc nghe, và còn đau cả đến tận
bây giờ. Ông nghe nói, có một loài chim, khi một con chết đi, thì con
kia ngày đêm kêu thương, bỏ ăn bỏ ngủ, than gào cho đến chết. Chim còn
chung tình đến thế, mà ông thì còn sống, còn ăn, còn ngủ, còn đi làm,
còn giữ tiền bạc. Chẳng bằng được loài chim sao?
Trong căn nhà nầy, đâu đâu cũng có dấu vết của bà. Mở tủ đựng ly chén
ra, ông đứng nhìn xem, bên trong sắp đặt thứ tự, gọn gàng. Có những thứ
mà bây giờ ông mới thấy, và không biết công dụng nó làm gì, khi nào thì
dùng đến. Bà đã mua sắm, sắp đặt cẩn thận. Ông cầm một cái ly, biết vật
nầy đã có bàn tay vợ đụng đến, ông ghé môi hôn, tưởng đang hôn bàn tay
bà. Ba bộ ấm pha trà xinh xắn, bà mang về trong dịp đi du lịch bên Nhật,
để cho ông thù tiếp bạn bè. Bà thương ông đến như vậy đó.
Hơn cả chục chai rượu nho, rượu mạnh trong tủ kiếng, cũng do một tay bà
mua. Bà không biết uống, nhưng hễ nghe ai khen rượu ngon, rượu quý, thì
bà cũng cố mang về cho chồng một vài chai. Ông thường dặn nếu không biết
uống rượu thì đừng mua, vì khẩu vị của mỗi người khác nhau. Cũng như
mình khen mắm nêm thơm ngon, nhưng cho Tây ăn, thì họ bịt mũi mà oẹ ra.
Bây giờ đứng đây, đưa tay sờ vào những chai rượu màu nâu sẫm, lòng ông
đầy ân hận, đáng ra lúc đó, ông phải nói những lời tử tế ngọt ngào cám
ơn, và bày tỏ cái hân hoan với tình thương chăm sóc của vợ. Những khi
đó, ông đã nói những lời chân thật như đất ruộng, làm phụ tấm lòng yêu
thương của bà. Ông định nhấp vài hớp rượu để tưởng nhớ đến ơn vợ, nhưng
rồi đặt chai xuống, và thì thầm hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương: “Em ơi!
lửa tắt bình khô rượu. Đời vắng em rồi say với ai?” Mắt ông cay cay,
tim đập sai nhịp.
Tủ áo quần của bà còn nguyên vẹn đó. Những chiếc áo giản dị, màu sắc
khiêm tốn. Bà phải chờ cho đến khi bán hạ giá thấp nhất mới dám mua. Bà
cần kiệm, không dám hoang phí. Đi đám cưới, tiệc tùng, bà không cần phải
thay đổi áo mới, kiểu nầy, kiểu kia. Bà nói: “Ngay cả ông chồng, còn
chưa nhớ được kỳ trước mình mặc áo nào, màu gì, huống chi thiên hạ. Họ
đâu có dư thì giờ mà vớ vẩn nhớ đến cách phục sức của cả trăm người
trong bữa tiệc. Mà dù cho họ có nhớ đi nữa, cũng không sao, đâu có gì
quan trọng. Chắc cũng chẳng ai chê mình không có áo quần mới khi tham dự
tiệc tùng.” Cái đơn sơ giản dị chân thành của bà làm ông thương và mến
phục.
Áo quần của ông, cũng do bà tìm tòi mua giúp. Khi thấy cái áo quần tốt,
màu sắc trang nhã, giá cả tương đối được, bà hối hả kêu ông chạy gấp đến
tiệm thử liền. Ngay cả áo quần lót, vớ, cà-vạt, cũng do bà mua cho ông.
Bà đem áo quần đã cũ sờn vất đi, thay vào các thứ mới. Ông cứ tự nhiên
dùng, chưa bao giờ biết kích thước đúng của chính ông. Đã có bà lo hết.
Bây giờ không còn bà, ông mới thấy rõ ràng hơn những gì đã nhận được xưa
nay mà vô tình không nghĩ đến. Cầm chiếc quần được lên lai trong tay,
nhìn đường kim mũi chỉ cẩn thận, ông thấy rõ tình thương của bà gói ghém
trong đó. Áo quần mùa đông, mùa hè của ông cũng được bà sắp xếp riêng
từng ngăn cẩn thận. Bà đã cho giặt sạch, kỹ lưỡng trước khi được treo
xếp vào ngăn tủ áo quần, để dành mặc vào mùa sau. Từ khi có bà trong
đời, ông mất dần đi khả năng tự lo, tự lập mà ông vô tình không biết.
Ông nhớ những khi tham dự tiệc tùng, trong lúc ăn uống, khi có chút rau,
thịt mắc vào kẽ răng, không dùng lưỡi cạy ra được, bà nhìn ông, biết
ngay. Bà len lén mở ví, kín đáo chuyền tay cho ông một cây tăm bọc trong
giấy. Ông xem đó như chuyện tự nhiên. Cũng có khi ông quay qua bà hỏi
khéo: “Em còn cây tăm nào không?” Bà mở ví, đưa cho ông ngay. Trong lúc
ăn, có món ngon vừa ý, bà thì thầm nhắc ông. Hoặc khi lấy thức ăn, bà
chọn cho ông miếng ngon nhất. Những lúc đó, ông hơi ngượng, liếc mắt
nhìn quanh bàn. Phần ông, thì cứ dặp đại, chưa bao giờ phân biệt miếng
ngon, miếng dở. Gắp được cục xương không dính chút thịt cũng cứ vui.
Trong bữa ăn, khi thấy ly nước của ông cạn, bà châm, thêm, ông hoàn toàn
không quan tâm đến.
Bà biết rõ ông ưa thích món ăn gì, để mỗi ngày nấu nướng. Khi nghe ông
khen món nào đó, thì hôm sau, bà nấu ngay cho ông ăn. Ông chỉ lờ mờ nhận
ra hảo ý của bà, nhưng không biết nói một câu nịnh cho vui lòng vợ.
Nhiều lần ông bà rủ nhau đi du lịch xa, ông có nhiệm vụ lên mạng mua vé
máy bay, đặt khách thuê sạn. Thế là xong. Phần bà lo cho tất cả các mục
còn lại. Từ áo quần thường, áo lạnh, áo ngủ, đồ lót, vớ, giày phụ, dép,
bàn chải răng, kem, kiếng phụ, tăm, thuốc cấp cứu, thuốc dùng ngừa bệnh,
điện thoại di động, giây cắm điện thoại, máy hình, máy điện toán xách
tay và các thứ phụ tùng cần thiết. Danh sách của bà đủ bốn mươi tám món.
Bà cũng không quên mang theo một ít thức ăn khô, phòng khi lỡ đường.
Nhiều khi thấy va-li căng kè, nặng nề, ông gào to: “Đi chơi chứ đâu phải
là dọn nhà? Sao không mang theo cả cái tủ lạnh cho tiện.”
Một lần đi Âu Châu, cuộc đình công kéo dài, điện tắt và trời bão tố. Ông
bà bình tâm nằm trong khách sạn, không chút nao núng, vì đã có sẵn một
ít thức ăn khô mang theo. Thường trước khi đi, bà đọc kỹ và kiểm soát
lại chuyến bay, lộ trình, các hãng đưa đón, khách sạn, ngày giờ của các
‘tua’ du lịch. Bà bắt ông xuất trình giấy thông hành, căn cước, thẻ tín
dụng, tiền bạc, kiểm soát lại từng chút một, để khỏi quên bất cứ vật gì.
Ông cảm thấy khó chịu vì bị vợ xem như đứa trẻ con. Nhưng khi vợ mất
rồi, ông đi xa mà để quên đủ thứ, nghĩ lại càng thương bà hơn.
Ông thường ham mê xem các trận đấu thể thao. Nhiều lần ông đang đi chơi
với bạn, bà sợ ông bỏ mất trận đấu, kêu điện thoại nhắc nhở: “Anh nhớ
chiều nay 5 giờ có trận chung kết bóng rổ đó nghe!” Ông cám ơn bà, và
thu xếp về cho kịp giờ khai đấu.
Từ khi có gia đình, ông phụ thuộc quá nhiều vào vợ. Không có bà, ông như
rơi xuống một vực sâu, tối tăm mù mịt, ngày tháng tẻ nhạt. Không gian
và thời gian dường như thành trống rỗng.
Mỗi chiều tan sở, ông bâng khuâng không biết đi đâu,về đâu cho đỡ thấy
quạnh hiu. Khi vợ còn sống, phải lo về ngay, không dám ngồi quán cà phê
lai rai, về nhà vợ hạch hỏi không dám trả lời thật. Có khi ông điện
thoại cho bạn, hỏi chiều nay ông đến chơi được không, và xin được ăn cơm
tối. Bạn biết ông đang buồn, đơn lẻ, nên thường niềm nở chấp nhận.
Nhiều lần, ông mua một vài món ăn ở tiệm, đem đến nhà bạn góp vào mâm
cơm chiều và sau bữa ăn, uống trà, cà phê. Ngồi trong ghế bành, đôi khi
không nói gì, cầm tờ báo lật qua lật lại, thế mà thấy bớt cô đơn trong
lòng yên ổn. Rồi cũng phải về cho gia chủ đi ngủ. Ông ra xe, nỗi buồn
lại dấy lên thấm thiá. Trời đất như rộng thênh thang. Đường về nhà hiu
quạnh. Nghĩ đến căn nhà trống vắng, lòng ông rưng rưng.
Mỗi khi mở tủ lạnh tìm thức ăn, thấy trống không, chẳng có thứ gì ăn
được. Vài ba cây trái đã đen điu thồi? rữa thối. Mấy bó rau đã đổi màu
đen, khô quéo. Chai nước lọc cũng cạn. Không còn gì. Trong nhà không có
bàn tay đàn bà, thì xem như chẳng còn có cái gì cả. Ông thầm thán phục
những người bạn độc thân. Không biết làm sao họ có thể sống sót đến tuổi
già, mà vẫn vui vẻ, yêu đời, nói cười. Họ đã làm gì cho tiêu tán quãng
thời gian trống rỗng sau giờ tan sở nhỉ?
Như một thói quen, những chiều tan sở, ông chạy thẳng ra nghĩa địa, thơ
thẩn bên mộ bà. Trong nghĩa địa hoang vắng nầy, ông thấy bớt cô đơn hơn
là về nhà một mình. Cắm vài bông hoa, thắp nén hương. Rồi ngồi trò
chuyện, như khi bà còn sống. Nói đủ thứ chuyện, nói nhiều hơn cả khi ông
bà còn bên nhau. Ông độc thọai, và ông cứ tin ở dưới lòng đất, bà đang
lắng nghe ông tâm sự. Khi có người lạ đi đến gần, ông hơi xấu hổ, nói
nhỏ lại, chỉ thì thầm thôi. Ông sợ thiên hạ lần tưởng ông đau bệnh thần
kinh. Rồi ông hát cho bà nghe. Hát những bài kỷ niệm, mà ngày trước, ông
bà cùng song ca trong những buổi “Karaoke” tổ chức tại nhà bạn bè. Tai
ông, vẫn còn văng vẳng giọng bà thánh thót hoà lẫn với tiếng hát trầm ấm
trên môi ông. Ông hát từ bài nầy qua bài khác đến khô ran cả cổ. Nhiều
khi ông nằm dài trên cỏ, bên tấm bia mộ ngang bằng, nhìn lên trời cao
mênh mông và tưởng tượng có bà đang thân thiết nằm bên cạnh. Nghe được
cả hơi thở của bà. Hơi thở có mùi hương quen thuộc của ngày nào. Ông
thèm nghe vài lời cằn nhằn trách móc của bà.
Khi bóng đêm bắt đầu phủ xuống trên nghĩa địa, ông mới uể oải đứng dậy
ra về. Ông nấn ná không muốn khu mộ, nhưng vốn yếu bóng viá và sợ ma,
không dám ở lại khi đêm đen bao trùm khu nghĩa địa hoang vắng. Ông thì
thầm: “Ngày mai anh sẽ đến thăm em.” Có những ngày chủ nhật, ông cứ mãi
thơ thẩn quanh khu mộ. Ông nhận ra rằng, bây giờ ông yêu thương yêu vợ
hơn nhiều lần khi bà còn sống. Tình cảm ông tha thiết, nồng nàn hơn xưa
rất nhiều.
Mùa đông mưa dầm dề, gió thốc từng cơn trên nghĩa địa trống trải, ông
trùm áo mưa, ngồi co ro run rẩy trong buốt giá bên mộ bà. Ngày nghỉ ông
ngồi từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều. Tâm trí miên man mơ hồ vô
định.
Chỉ mới một năm thôi, ông hốc hác, gầy rộc, vì mãi miết đắm chìm trong
thương nhớ, khổ đau. Nhiều người khuyên ông nên đi bác sĩ tâm lý để điều
trị, để tránh sa vào tình trạng suy sụp trầm trọng. Ông nghĩ, bác sĩ
cũng không giúp gì được khi trong lòng ông thương nhớ bà. Bác sĩ không
thể làm bà sống lại, không thể làm phép lạ cho ông quên buồn.
Một buổi sáng khi nắng vàng rực rỡ nhảy múa trên khu nghĩa địa, gió mát
mơn man cỏ cây, tiếng chim kêu văng vẳng. Ông Tư rầu rĩ mang bó hoa hồng
đến đặt lên mộ bà, định than vãn vài câu cho bớt nỗi buồn thương không
dứt được trong lòng. Ông ngạc nhiên thấy một tờ giấy cuộn tròn trong
bình đựng hoa. Ông giật mình, ô kià, lạ chưa, có nét chữ của bà. Ông mở
tờ giấy ra đọc. Một bài thơ của ai chép tay chữ viết giống hệt nét chữ
bà. Những chữ h, chữ g và cả cách đánh dấu hỏi ngã. Ông run run đọc:
“Đừng đứng khóc lóc bên mồ em. Bởi em đâu còn dưới đó nữa. Em đang là
ngàn gió bay cao trên đồng nội, là ánh dương quang lóng lánh giữa biển
trời. Em đang tắm trong mưa thu mát dượi. Em đang trên cao, ngàn sao của
giải ngân hà. Và một sáng mai kia, tiếng chim đánh thức anh. Thì hãy
biết đó là tiếng em kêu anh. Thôi đừng khóc bên mồ em, chúng ta sẽ gặp
lại nhau sau…”
Ông đọc đi đọc lại đến ba lần, và chợt nhớ ra đây là lời bản nhạc phổ từ
bài thơ của bà Mary Elizabeth Frye viết trong cơn xúc động trên một mẫu
giấy vụn. Trước đó bà Frye nẩy chưa hề bao giờ làm thơ. Bài thơ nầy về
sau rất nổi tiếng, phổ biến rộng rãi trên khắp thế giới, được phỏng dịch
ra hàng chục ngôn ngữ khác nhau. Ông đã từng nghe trong các đám tang
người Mỹ. Nhưng khi đó, ông chẳng hề để ý. Bây giờ được đọc lại, ông
thấm thiá và ngộ ra: Đúng. Bây giờ bà đâu còn nằm dưới đó nữa. Bà đang ở
trên miền cực lạc. Bà đang sung sướng trong một thế giới khác, không có
khó khăn, vất vả, không giận hờn ganh ghét, không có chiến tranh giành
giựt, và không phải “Đổ mồ hôi trán mới có được miếng cơm vào mồm.” Thế
thì, tại sao lâu nay ông phải âu sầu thương tiếc khóc lóc. Ông đã tự làm
khổ ông, tự đọa đày trong vũng đau thương. Nếu bên kia thế giới mà bà
biết được ông khổ sở rầu rĩ như thế nầy thì bà vui hay buồn? Ông tự hỏi,
ông đau đớn vì thương bà hay tự thương mình? Bà đang hưởng lạc phúc,
thì ông phải mừng, chứ sao lại sầu khổ? Nếu ông tự thương mình, thì phải
chống tay đứng dậy, làm cho ngày tháng còn lại nầy được vui vẻ, hạnh
phúc và lành mạnh hơn là chìm đắm trong tối tăm mịt mù. Ông đến trước
bia mộ và thì thầm: “Đúng, em đâu còn nằm dưới lòng đất nầy nữa. Thân
xác là cát bụi phải về với cát bụi. Không còn là em nữa. Em đã bay cao
với gió trên mây vàng long lanh, đang rong chơi nơi thiên đường cực lạc.
Anh phải biết mừng cho em. Phần anh, phải đi nốt tháng ngày còn lại
trên hành tinh nầy với những bước chân vững vàng, vui vẻ và hạnh phúc
cho riêng mình. Đó là bổn phận cấp thiết đối với bản thân.”
Ông lái xe ra về, lòng nhẹ thênh thang. Con đường có nắng vàng reo vui,
cây cỏ xanh ngắt yêu đời. Tiếng nhạc vui rộn rã vang vang trong xe, ông
đã tìm được ý nghiã cho tháng ngày vắng bóng vợ. Ông tin rằng, nếu chết
là chưa hết, chưa vĩnh viễn tan biến, thì ông sẽ gặp lại bà trong tương
lai, ở một nơi an bình hạnh phúc hơn ở cõi trần thế nầy. Nhưng nếu chết
là hết, là xong, thì cũng khỏe. Bà đã khoẻ, và mai đây ông cũng sẽ theo
bước bà tan vào hư không.
Về nhà, ông ngồi vào bàn, lập một chương trình sinh hoạt mới cho ngày
tháng còn lại. Trước đây ông không dám về hưu vì sợ cô đơn, sợ không có
việc chi làm bận rộn rồi sinh ra quẩn trí mà phát bệnh. Nhưng bây giờ,
ông đã có một chương trình năng động, phủ kín thời gian trong tuần, còn
sợ không đủ thì giờ để thực hiện. Nhưng không sao, với ông thì thi hành
được chừng năm mươi phần trăm cũng đã là thành công rồi.
Mỗi sáng ông dậy sớm, đi đến phòng tập thể dục, chạy bộ trên dây?, cử
tạ, bơi lội, tập yoga, tắm nước nóng. Sau đó họp bạn già uống cà phê,
bàn chuyện trời đất thời thế. Về nhà đọc vi thư bạn bè, giải quyết các
công việc lặt vặt. Rồi ngủ ngay một giấc ngắn. Tự nấu nướng lấy, mặc dù
có thể đi ăn tiệm, hoặc mua thức ăn về. Ông học cách nấu ăn trong liên
mạng vi tính. Đọc bốn năm bài dạy khác nhau, rồi chọn lựa, kết hợp, tìm
ra cách nấu hợp với khẩu vị mà ông nghĩ là ngon nhất. Từ đó, ông ghiền
xem truyền hình dạy nấu ăn, Ông nấu được những món ngon tiếp đãi bạn bè.
Có một bà góa ỡm ờ đề nghị: “Anh nấu ăn ngon thế nầy, mà ăn một mình
cũng buồn và uổng quá. Hay là nấu cơm tháng cho em đi, mỗi ngày tới bữa
em đến ăn. Hôm nào anh bận, thì báo trước, em sẽ đi ăn tiệm.”
Ông cười lịch sự đáp: “Cám ơn chị quá khen và đề nghị. Xin cho tôi suy
nghĩ lại, xem có đủ sức phục vụ chị không, rồi sẽ trả lời sau.”
Ông bóng bẩy nhấn vào hai chữ ‘phục vụ” làm bà kia đỏ mặt e thẹn. Ông
không thể tưởng tượng nổi có người nào đó thay thế được vợ ông. Mỗi khi
nói chuyện thân thiết với bà nào đó, mà trong lòng ông có dấy lên một
chút cảm tình, thì ông thấy như mang tội với người vợ đã khuất, ông đã
thiếu chung thủy. Cứ áy náy mãi.
Ông tham gia các chương trình du lịch xa, đi chơi trên du thuyền. Ông
gặp nhiều bạn bè, đàn ông, đàn bà, cùng vui chơi. Tham dự các trò đùa
tập thể trên du thuyền. Nhiều bà góa thấy ông cô đơn, nhắm muốn tung
lưới bắt mạng, nhưng ông cũng đủ khôn ngoan để né tránh. Ông nói với bạn
bè rằng, mình già rồi, khôn có lõi, không còn ngu ngơ dại dột như thời
trai trẻ, để nhắm mắt chui đầu vào tròng. Đôi khi ông cũng muốn có bạn
gái, có chút chất “mái”, dù không làm gì được, nhưng mơ hồ thấy có sự
thăng bằng nào đó trong tâm trí.
Ông đã cùng bạn bè tham gia các chuyến du lịch xa, Âu Châu, Ấn Độ, Phi
Châu. Bây giờ còn đủ sức để đi, có điều kiện tài chánh thong thả, tham
gia kẻo mai mốt khi yếu bệnh, khỏi luyến tiếc. Đi theo đoàn đông đảo bạn
bè, thì giờ rất sát, eo hẹp, làm ông không kịp nghĩ, kịp buồn.
Trên du thuyền, gia đình người bạn giới thiệu bà Huyền cho ông, bà đẹp,
duyên dáng, hơi trầm tư, đôi mắt mở to như khi nào cũng ngạc nhiên ngơ
ngác, cánh mũi thon, môi hình trái tim chúm chím. Bà Huyền xa chồng đã
hơn ba năm. Lòng ông Tư mơ hồ dấy lên chút cảm tình vì bà đẹp, hiền
thục, ít nói. Mấy lần hai người ngồi gần nhau trong bữa ăn. Bà Huyền hé
lộ một chút tâm sự riêng tư cho ông nghe, rằng bà may mắn chạy thoát đến
Mỹ vào năm 1975, bà lặn lội thân cò nuôi chồng theo đuổi đại học trong
bao nhiêu năm. Nhờ may mắn trong thương trường, tiền bạc có thời vô như
nước. Gia đình vui vầy tràn đầy hạnh phúc. Rồi tai họa đổ xuống, chồng
bà say mê một cô nhỏ tuổi hơn con gái ông, cô nầy làm công cho cơ sở
thương mãi của gia đình. Ông chồng li dị bà để vui duyên mới. Bà nói
rằng, chẳng trách gì ông, một phần cũng lỗi tại bà không phòng xa, để
cho ông chồng và cô gái có dịp tiếp xúc thường xuyên. Lửa gần rơm thì
phải cháy. Chia đôi gia tài, bà cho ông cơ sở kinh doanh, bà không cần
làm nữa, tài sản có thể sống đến khi già chết.
Ông Tư cũng cảm mến bà Huyền vì cái giọng nói dịu dàng ngọt ngào, trái
tim nhân áí, và tâm từ bi của bà cùng tấm lòng cao thượng. Khi nhắc đến
ông chồng cũ phản bội mà không thù hận, không gay gắt giận hờn.
Bà Huyền biết kiên nhẫn lắng nghe, tôn trọng ý của người khác, dù có khi
bất đồng quan điểm. Ông Tư cảm thương cho một người đàn bà biết điều
như thế mà gặp phải hoàn cảnh không may. Cái tình cảm trong lòng ông đâm
mầm nhú mộng êm ái. Đôi khi ông cũng giật mình, sợ trái tim ông yếu
đuối, đổi cái quan hệ bạn bè với bà Huyền thành tình yêu. Ông không muốn
mang mặc cảm phản bội bà vợ bên kia thế giới. Nhưng cũng là chuyện lửa
gần rơm, mối giao hảo thân thiết của ông với bà Huyền càng ngày càng
khắng khít. Đã có vài lần ông toan tính thổ lộ cho bà Huyền mối tình cảm
chân thành của ông, nhưng rồi vốn nhát, nên lại thôi. Ông tự cười, đã
chừng nầy tuổi, trên đầu tóc trắng nhiều hơn tóc đen, mà vẫn còn nhút
nhát như thời mười sáu tuổi. Cuối cùng, chính bà Huyền đã mở đường dẫn
ông vào cuộc tình già. Khi ông đi gần đến quyết định mời bà Huyền về
sống chung, thì bạn bè can gián, cho ông biết bà Huyền là một trong ba
người đàn bà nổi danh đanh đá độc ác nhất của thành phố nầy. Ai cũng
biết, mà chỉ riêng ông Tư không biết mà thôi. Ông không tin một vài
người, nhưng phải tin khi nghe nhiều người khác nói. Ông quyết tâm tìm
hiểu, và vô tình gặp ông Duẫn là người chồng cũ của bà Huyền trong một
buổi họp mặt. Ông lân la đến làm quen. Thấy ông Duẫn hiền khô, không
rượu, không trà, không cả cà phê thuốc lá, và nói năng lịch sự dịu dàng.
Bạn bè lâu năm của ông Duẫn cũng xác nhận anh nầy là một ‘ông Phật
đất’. Hoàn toàn không hề có chuyện gian díu với một người đàn bà nào. Bà
Huyền cũng không nuôi ông Duẫn một ngày trong đời như bà nói, bà đã đặt
chuyện, cứ nói mãi, nên tin là có thật.
Ông Tư mạnh dạn hỏi thẳng Duẫn: “Anh nghĩ sao, nếu tôi cưới bà Huyền, vợ cũ của anh?”
Ông Duẫn gãi đầu, và nói ngập ngừng: “Ô… ô, không nghĩ sao cả. Đó là
chuyện riêng của bà ấy với anh. Tôi không can dự gì. Chúng tôi đã li hôn
lâu rồi. Tại sao anh hỏi tôi câu đó?”
Ông Tư hạ giọng: “Không phải tôi xin phép anh, mà tôi muốn hỏi ý kiến
của anh về bà ấy. Nhận xét của riêng tôi, thì bà Huyền là một người đoan
trang, trinh thục, hiểu biết, có trái tim nhân ái. Nhưng theo nhiều
người khác thì đó là một trong ba bà ác độc nhất của thành phố nầy. Có
thật vậy không?”
Ông chồng cũ của bà Huyền ngửng mặt lên trời mà cười ha hả: “Khoan
khoan, đừng nói thế mà tội cho người ta. Phần tôi, nếu không nói tốt cho
bà ấy được, thì cũng không có quyền nói xấu. Tôi không dám có ý kiến gì
cả. Có thể bà ấy không hợp với tôi, nhưng lại hợp với người khác. Có
thể tại tôi bất tài, không tạo được hạnh phúc cho gia đình. Biết đâu, bà
ấy với anh đồng điệu, hai người có thể tạo nên thiên đàng dưới trần thế
nầy.”
Ông Tư ngại ngần và chùn chân, âm thầm lảng xa dần bà Huyền. Bà nầy biết
được ý định, mắng ông Tư một trận nên thân, chửi ông hèn nhát, bần
tiện, keo kiết, không đáng xách dép cho bà. Ông Tư nghe xỉ vả chửi mắng
mà mừng húm. May mà chưa có cam kết gì với bà Huyền. Từ đó, ông đâm ra
có thành kiến với bất cứ người đàn bà nào muốn tiếp cận với ông.
Ông Tư đã hết suy sụp tinh thần, tự tổ chức cho ông một đời sống có ý
nghĩa, có nhiều niềm vui nhỏ nhặt trong đời sống, tránh xa mọi phiền
toái của thế gian. Trong nhà ông treo một tấm biển lớn, chữ viết theo
lối bút họa, ghi lời của một người bạn:
“Có thì vui. Không cũng vui. Được mất đều vui.”
Tràm Cà Mau
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23632 |
![]() ![]() ![]() |
Sau Cơn Giông BãoTôi tỉnh dậy trong tiếng reo mừng rỡ của Phổ: -Thảo Anh, em tỉnh rồi hả? Cái trán đau buốt và lồng ngực tức thấu ra phía sau lưng …. Tôi ôm đầu cố nhớ lại … …
Lúc ấy, tôi chạy nhanh ra cửa, nhảy phốc vào xe, chân phải nhấn ga thật
mạnh, chiếc xe rú lên giữa đêm thanh vắng, phóng như điên dại, vượt qua
không biết bao nhiêu là đèn đỏ … rồi xe cảnh sát ở đâu vọt ra … đèn
chớp vùn vụt … tôi càng phóng nhanh … Tiếng nhạc điện thoại reo lanh
lảnh, tôi chồm qua chụp lấy, tay lái lạc đi, chiếc xe quẹo sang trái,
thốc mạnh vào lề đường quay ngược sang phải … rầm … rầm … và tôi không
còn biết gì nữa…. Tôi khóc oà lên: -Em sợ quá, em sợ quá. Phổ xiết chặt tay tôi: -Thảo Anh, bình tĩnh đi. Mọi chuyện đã qua rồi. Anh sẽ làm thủ tục xuất viện rồi đưa em về nhà !!! Tôi gục đầu vào cánh tay Phổ khóc nức nở: -Em không muốn về nhà. Em không muốn gặp ai nữa hết. Phổ vỗ nhẹ lên vai tôi: -Chắc là hai bác đang tìm em, anh gọi mãi mà không ai nhấc điện thoại. Về nhà đi, đừng làm cho hai bác lo lắng tội nghiệp Tôi xoay người, lồm cồm ngồi dậy: -Em không muốn … em không muốn … Anh ép em trở về nhà em sẽ chết cho anh xem … tránh ra để em đi. Phổ giữ chặt vai tôi: -Được, được … không trở về nhà. Đến nhà anh vậy. *** Tôi
nhìn vào gương. Hình ảnh đứa con gái xốc xếch, mặt mũi tèm nhem nước
mắt với đôi mắt sâu hoắm, thâm quầng làm tôi muốn khóc thét lên. Tôi mở
vòi nước, ném thật mạnh những vốc nước vào tấm gương, rồi dùng hai bàn
tay xóa mạnh vào mặt gương. Hãy biến đi. Hãy trôi cái hình hài, cái thân
xác gớm ghiếc này … Những động tác không thể kềm chế được của tôi cứ
tiếp tục … tiếp tục … Nhưng làm thế nào thì cuối cùng bộ mặt thiểu não
của tôi vẫn hiện ra lồ lộ. Tôi gục xuống bồn nước khóc ngất. Có tiếng
Phổ đập cửa: -Thảo Anh, em có sao không? Tôi vẫn tiếp tục khóc … Phổ đẩy cửa bước vào: -Trời ơi! sao khổ thân em thế này hả Thảo Anh? Phổ
dìu tôi ra ngoài, lấy chiếc khăn, lau từng sợi tóc cho tôi. Qua cơn xúc
động tôi ngồi im bất động. Phổ vào bếp, nấu ấm nước. Ly trà nóng có pha
chút gừng làm tôi tỉnh táo hơn. Phổ thay tấm trải giường mới cho tôi,
nhẹ nhàng nói: -Dù sao, em cũng
nên để anh báo cho hai bác biết là em vẫn bình an. Anh sẽ không nói em
đang ở đây. Đừng để hai bác lo lắng tội nghiệp. Bác gái gọi anh, vừa
khóc vừa nhờ anh tìm em … Phổ
chưa dứt lời có chuông điện thoại. Tiếng Ba vang lên trong máy nhắn
nghe thật buồn bã “Phổ, con có tin tức gì của Thảo Anh không? nhớ gọi
cho bác”. Phổ quay ngược lại cho
tôi nghe rất nhiều nhắn tin của Ba Mẹ từ khuya đến bây giờ. Tôi nhìn Phổ
bằng một cái nhìn vô hồn. Tiếng Phổ vẫn vang lên vỗ về: -Em
đừng tự hành hạ mình như vậy. Cũng đừng làm khổ hai bác bằng cách im
lặng. Hai bác không có lỗi. Em cũng không có lỗi. Với những gì đã xảy
ra, cả ba đều đau buồn như nhau … -Em mệt lắm, em đau lắm. Em muốn được ngủ yên một chút. Phổ nhìn tôi thật dịu dàng. Anh dìu tôi nằm xuống, đắp nhẹ tấm chăn mỏng lên người tôi, rồi bước ra, khép nhẹ cánh cửa. Tôi nhắm mắt, làm dấu thánh giá và cầu xin Đức Mẹ ban cho tôi sự bình an trong tâm hồn …. *** Thảo Anh của Ba, Trước
hết, Ba xin tạ ơn Chúa đã gìn giữ đứa con gái yêu quý của Ba và cám ơn
Phổ đã cho biết tin tức của con, dù đến giờ phút này Ba vẫn không biết
hiện con đang ở nơi nào? Ba không
biết phải bắt đầu từ đâu, bởi đầu óc Ba bây giờ đang hoang mang và buồn
bã vô cùng. Ba chỉ sợ những lời lẽ không mạch lạc của Ba lại làm con
đau đớn và oán hận hơn. Ngày
đó… đã xa lắm rồi, Ba và Mẹ, hai người hoàn toàn xa lạ cùng có mặt trên
một chuyến tàu để rời bỏ quê hương đi tìm tự do. Trên đường đi, chẳng
may tàu bị cướp. Biết bao thảm cảnh đã xảy ra trong giờ phút kinh hoàng
đó. Có người đã bị ném xuống biển với một thân thể mang đầy thương tích
đớn đau. Còn Mẹ con là một trong số rất nhiều phụ nữ đã phải hứng chịu
bao cay đắng nghiệt ngã nhất bởi những con người tàn ác, vô lương tâm. Sau
trận cướp, tàu lênh đênh trên biển không lương thực, không nước uống
ròng rã hai ba ngày mới được tàu Mỹ vớt và đưa lên trại tỵ nạn. Tại đây,
vô tình Ba được sắp xếp ở cạnh Mẹ con. Bằng tấm lòng chân thật và sự
quan tâm đặc biệt, Ba đã cố gắng giúp Mẹ con quên dần mặc cảm để trở lại
cuộc sống bình thường. Khi nhận biết con đã tượng hình trong bụng Mẹ,
Mẹ con đã phải tự đấu tranh với chính mình để đi đến quyết định giữ lại
con. Câu nói của Mẹ con đã đánh động trái tim Ba “Nó là con của em. Dù
thế nào em cũng nhất định phải bảo vệ và yêu thương nó”. Mẹ con, người
phụ nữ nhân hậu ấy đã khiến Ba thương yêu lúc nào không biết. Rồi
con chào đời trong niềm hạnh phúc vô biên của Ba Mẹ. Suốt hai mươi năm
trôi qua, Mẹ con vẫn không thoát khỏi nỗi ám ảnh oan nghiệt đó. Có những
đêm Mẹ con vùng vẫy, la hét hoảng loạn trong giấc mơ. Ba đã cố gắng đem
tất cả lòng yêu thương để giúp Mẹ con vượt qua sự khủng hoảng đó. Con
còn nhớ không, có lần con đem về nhà quyển sách “Hành Trình Biển Đông”
gồm nhiều câu chuyện kể lại những chuyến vượt biên kinh hoàng. Con vô
tình đâu biết, Ba đã vội vàng phải đem đi thiêu huỷ. May mà con không
nhớ để hỏi lại Mẹ. Với
Ba, con là đứa con gái yêu quý nhất của Ba, Mẹ con là người vợ chung
thủy nhất, hiền ngoan nhất của Ba, dù gia đình Ba không chấp nhận Mẹ con
là con dâu, bởi thành kiến sai lầm về quá khứ oan nghiệt của Mẹ con.
Nhưng điều đó không làm nao lòng Mẹ con, dù Mẹ con phải đối diện với bao
nhiêu sự châm chích, khinh bạc của bà Nội, của cô Sáu. Nhưng bây giờ
thì trái tim Mẹ con đã thật sự tan nát. Và con. Chính con đã làm nát tan
trái tim của Mẹ. Chính con đã làm Mẹ con đi đến quyết định trở về Việt
Nam, sống trong một cái am nhỏ với bà Dì Năm ở miền quê hẻo lánh, để
quên hết mọi chuyện đau buồn. Khi
con lên tiếng trách Mẹ “tại sao Mẹ giấu con? Tại sao Mẹ nói dối con?
Sao Mẹ không nói cho con biết con là đứa con không có cha …?” là con
cũng đã làm tan nát trái tim của Ba. Ba cảm thấy đau đớn, bởi vì mình là
một người cha bị con từ chối. Thảo
Anh ơi! sao con không nắm giữ cái hạnh phúc ấm áp mà con đang có. Sao
con lại muốn quay về cái quá khứ đau thương ấy làm gì để cuộc đời thiếu
vắng nụ cười. Con hãy nhìn lại con. Từ đôi mắt đến nụ cười, từ dáng dấp
đến mái tóc, con giống Mẹ không sai một nét. Vì con là con của Mẹ. Thịt
da, máu xương Mẹ đã ôm ấp hình hài của con. Trên thân thể con không có
một dấu tích nào của người cha. Nhưng nói cho cùng thì người đàn ông xa
lạ không có tính người ấy cũng đâu phải là cha của con. Ba
sẽ không khuyên con hay yêu cầu con một điều gì. Ba nghĩ con đã đủ
trưởng thành để biết mình nên làm gì để khỏi phải ân hận về sau. Con mãi mãi vẫn là đứa con gái yêu quý nhất của Ba và Ba rất hạnh phúc khi được con gọi bằng tiếng “BA”.” Cầu xin Chúa Mẹ giữ gìn và ban cho con sự sáng suốt, khôn ngoan. Ba của con. Tôi đưa tờ thư cho Phổ rồi ngồi bệt xuống sàn nhà khóc không thành tiếng. *** Câu chuyện bắt đầu từ khi Xuân -con của cô Sáu- và tôi cùng quen biết với Phổ trong một buổi sinh hoạt ở trường đại học UTA. Từ
thuở bé, Xuân chẳng ưa gì tôi bởi ảnh hưởng của bà Nội và cô Sáu. Xuân
thường có thái độ khiêu khích đối với tôi, nhưng nghe lời Mẹ nên tôi cố
nhịn nhục để giữ hòa khí. Đến khi Phổ chính thức công khai tình cảm anh
dành cho tôi thì Xuân phản ứng mạnh mẽ. Xuân nói xấu mẹ con tôi không
tiếc lời. Mới đây, Phổ nói thẳng với Xuân rằng anh yêu tôi, còn với
Xuân, anh chỉ xem là một người bạn, nên yêu cầu Xuân đừng rêu rao với
bạn bè là tôi đã cướp tình yêu của Xuân. Tối hôm đó cô Sáu sang nhà tôi và nặng lời xỉ vả Mẹ tôi. -Thì ra con Thảo Anh nó cũng giống cô, chỉ biết đi quyến rũ đàn ông. Mẹ tôi sững sờ nhìn cô Sáu: -Sao chị nói thế, em đã làm gì sai để chị nghĩ như vậy. Bao nhiêu năm em sống trọn tình với anh Khang chưa một lần có lầm lỗi. Cô Sáu cười khẩy: -Chứ
chẳng phải cô quyến rũ thằng em tôi để nó quên lời dặn dò của cha của
mẹ là ra đi để tìm tương lai. Tưởng qua Mỹ nó sẽ học hành đỗ đạt để làm
ông này, ông nọ. Rốt cuộc, chỉ vì cô mà nó phải đánh đổi cả cuộc đời. Đã
vậy cô còn không sinh được cho nó một đứa con trai để nối dòng, nối
dõi. Ba tôi không thể im lặng như sự hiền lành cố hữu, ông gắt gỏng lên tiếng: -Đã bao nhiêu lần em nói với mẹ và với chị rằng, không có con là do em chứ không phải do Thảo. Cô Sáu quay lại nhìn tôi từ đầu đến chân bằng đôi mắt và nụ cười diễu cợt: -Vậy thì con Thảo Anh là con của ai vậy hả? Mặt Ba tôi đổi sắc. Giọng nói ông có vẻ mất bình tĩnh: -Chị hãy để cho gia đình tôi yên. Cô Sáu cao giọng giận dữ: -Vậy
còn cái đại gia đình có ba má, có chị em và có cả mày trong đó thì sao.
Đừng tưởng chuyện làm của mày có thể giấu nhẹm được mọi người. Từ khi
mày dính vào con đàn bà này là ở Việt Nam mọi người đã biết hết, nhưng
không ai muốn nói, vì biết có nói cũng không cản được khi mày đã si mê
một cách mù quáng. Thằng Trọng đã viết thư về kể không sót một chi tiết.
Ba má thật xấu hổ khi mày có một con vợ không …. còn gì, tanh bành hết
trơn. Đã vậy lại còn phải nuôi con của cái đồ bá vơ. Câu
nói cuối cùng của cô Sáu làm tôi cảm thấy choáng váng. Tôi nắm chặt hai
bàn tay mà vẫn không kềm chế được cơn sốc bất ngờ, tôi lay mạnh cánh
tay Ba: -Ba Mẹ, chuyện gì đã xảy ra? Cô Sáu nói vậy là sao? Ba tôi đẩy mạnh cô Sáu ra phía cửa la lớn: -Chị ra khỏi nhà tôi ngay. Tôi quay sang mẹ đang ngồi bất động như một pho tượng đá trắng bệch trên sofa. -Mẹ, thật sự con là ….. Cái cảm giác hụt hẫng đến kinh hoàng làm tôi nghẹn ngào không nói được. Cô Sáu vừa bước ra cửa vừa gằn mạnh từng chữ: -Mày muốn hỏi mày là con ai hả? Ba tôi giơ tay cao, một cái tát tai bất ngờ giáng vào mặt cô Sáu. Cô quay phắt lại giọng chanh chua: -Hừ! đồ hỗn láo, tao sẽ cho gia đình mày tan tành … Thảo Anh mày có biết cha mày là ai không? Ánh mắt sắc lẽm và câu nói tàn nhẫn như lưỡi dao cứa từng nhát vào trái tim tôi. -Mày chỉ là con của một thằng cướp biển vô lương. *** Ngày
đám cưới của tôi và Phổ, trong lúc cử hành nghi lễ rước dâu, Ba cầm tay
tôi đặt vào tay Phổ và rút từ trong túi ra chiếc lược con màu hồng mà
Ba đã mua cho từ lúc tôi năm tuổi. Lâu lắm rồi tôi không còn nhớ đến nó
nữa. Ba nói với Phổ bằng giọng trầm trầm xúc động: -Đây
là chiếc lược Ba vẫn chải tóc cho Thảo Anh lúc nó còn bé. Đứa con gái
cưng của Ba hay lén Mẹ làm điệu, lấy dây thun cột hai đuôi tóc, nhưng
lúc gỡ ra thì lại bị rối beng, nên cứ phải chạy đi tìm Ba để nhờ tháo
sợi dây thun và chải tóc dùm. Ba nhớ khi được Ba chải tóc, Thảo Anh
thường thỏ thẻ “Thảo Anh thích Ba chải tóc, Ba chải tóc không có đau”.
Ba rất sung sướng vào ao ước được chải tóc cho Thảo Anh hoài, như có lần
nó nhìn Ba bằng đôi mắt đen láy tròn xoe, rồi đưa ngón tay lên nói “con
muốn Ba chải tóc cho con tới hồi con 100 tuổi luôn”. Tất cả yêu thương
Ba đã gửi gắm vào chiếc lược này, nay Ba giao lại cho con. Ba tin rằng
con sẽ thay Ba dùng chiếc lược này để tháo gỡ những rối rắm trong cuộc
sống của hai con một cách nhẹ nhàng. Con đã làm được và Ba tin tưởng con
sẽ tiếp tục làm được. Suốt đời, Ba mãi nhớ ơn con, nhờ con mà Ba mới có
được ngày hạnh phúc này. Ba rất an tâm và rất sung sướng để trao cho
con đứa con gái Ba thương yêu nhất. Phổ ôm chầm lấy Ba tôi, đôi mắt đỏ hoe. Không ai hiểu vì sao Phổ khóc ngoài Ba Mẹ và tôi. *** Tôi muốn kể lại câu chuyện này để …. Cám
ơn Ba, người không tạo ra tôi nhưng đã yêu thương tôi bằng tấm lòng của
người cha vĩ đại. Người đã dám bước qua bức tường dư luận, dám chấp
nhận những lời phê phán độc ác để cùng Mẹ tạo dựng hạnh phúc trên những
bước đường đầy chông gai, thử thách. Cám
ơn Mẹ đã chịu đựng bao nhiêu tủi nhục, đớn đau để tôi được sinh tồn và
lớn lên trong tấm hình hài khô héo của Mẹ. Mẹ đã lặng lẽ nuốt nước mắt
vào tim để cố sống, cố vui cho tôi được trưởng thành với tất cả niềm tin
đối với cuộc đời. Cám
ơn Phổ đã yêu tôi bằng mối tình chân thật, chịu đựng những cơn sốc nổi
điên loạn của tôi từ mặc cảm thân phận, để vực tôi đứng dậy từ hố sâu
tuyệt vọng khốn cùng. Nếu tôi không may mắn có được Phổ bên cạnh, chắc
chắn Ba Mẹ và tôi đã phải chìm trong nỗi đau buồn của sự chia ly nghiệt
ngã mà chỉ vì tuổi trẻ nông nổi, thiếu suy nghĩ chín chắn tôi đã tự mình
tạo ra thảm cảnh. Ngân Bình
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23632 |
![]() ![]() ![]() |
Những Lá Thư Cũ ![]() Con
và chồng con có xích mích lớn vì con nghi anh ấy vẫn gặp gỡ với người
bạn gái cũ. Con bực mình bỏ nhà chồng về khóc lóc với mẹ. Tối ấy mẹ mang
từ trong chiếc hòm cũ ra một tập thư đã ố vàng. Đó là những lá thư của
người yêu cũ gửi cho bố con trước đây. Mẹ
bảo khi bố quyết định lấy mẹ, bố định đem hết đám thư và ảnh của người
yêu cũ ra đốt đi để chứng minh sự “một lòng một dạ với mẹ”. Mẹ đã ngăn
lại và bảo: “Thư anh đốt mà lòng anh còn nhớ cũng chẳng ích gì. Hãy cứ
để em giữ lại làm kỷ niệm...! Thỉnh thoảng anh đọc lại cũng thấy vui. Dù
sao đấy cũng là những kỷ niệm gắn bó với anh một thời, sao lại cạn tàu
ráo máng như vậy”. Bố sững sờ và ôm chầm lấy mẹ cảm động lắm. Thỉnh
thoảng bố mẹ còn đọc lại những lá thư ấy, nhưng bố cả đời thuỷ chung với
mẹ...! Hôm
ấy con đã khóc thật nhiều và con tự tìm về nhà làm lành với chồng. Mẹ
nói ít nhưng mẹ dạy nhiều. Chính mẹ đã lấy lại cho con hạnh phúc...! st. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23632 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23632 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23632 |
![]() ![]() ![]() |
Đi MỹHình: Ba dắt con đi ... (1993) Khi tôi trở về Cai Lậy từ trại Mỹ Phước được vài tháng thì trong thị trấn bắt đầu rộ lên tin đồn sắp có chương trình xuất ngoại dành cho những người thuộc chế độ cũ đã đi cải tạo về. Ban đầu chỉ nghe lơ mơ, bán tín bán nghi mãi cho đến khi ở Sài Gòn có người nộp đơn được phái đoàn Mỹ qua phỏng vấn và đang chuẩn bị ra đi thì anh em mới rủ nhau năm, ba người xuống Sở Xuất Nhập Cảnh tỉnh để dò hỏi và nộp đơn xin xuất cảnh. Công an chỉ hỏi có một câu duy nhất - Các anh biết tin từ đâu? - Do thân nhân ở Sài Gòn cho biết là họ sắp đi. Đến lúc đó chúng tôi mới biết đến chương trình HO và nộp đơn chính thức xin ra đi có trật tự. Khoảng 6 tháng sau ở Sài Gòn bắt đầu có người ra đi theo diện HO1. Lúc bấy giờ mới tin là thật và tôi nhận được giấy báo thuộc diện H.019. Sau khi có người ra đi đợt đầu tiên, số đơn nộp càng ngày càng nhiều và mỗi năm chỉ giải quyết chừng bốn, năm đợt cho nên HO19 theo ước đoán thời gian có lẽ chờ chừng khoảng hơn ba năm. Đến lúc nầy cán bộ công an ở Sài Gòn xuất hiện một bộ phận dịch vụ xuất ngoại, giá cả tùy theo, nếu muốn lo tại Sài Gòn hay đích thân họ mang ra Hà Nội để đôn lên cho sớm. Ngoài ra một số gia đình còn được môi giới để ghép người đi theo diện vợ chồng hay con cái. Riêng tôi cứ theo qui định và yên tâm chờ vì không muốn xảy ra những trường hợp rủi ro “tham một tấc mất một thước” khi bị phát hiện và rớt phỏng vấn. Tại thị trấn cũng đã có trường hợp gian dối và bị từ chối phỏng vấn vĩnh viễn. Trong thời gian chờ đợi, tin tức từ bên Mỹ gởi về tràn ngập cùng với số lượng quà và đô la tuồn về rất nhiều cho các gia đình có thân nhân xuất cảnh đi trước theo diện HO làm cho mọi người đều nghĩ chuyện đi Mỹ như lên thiên đàng, nhất là điều kiện kiếm sống còn rất khó khăn trong xã hội. Bấy giờ đô la đổi qua tiền Việt rất cao. Một trăm đô la có thể nuôi sống thoải mái cả một gia đình hàng tháng. Gia đình nào có thân nhân đi Mỹ cũng nhận chính thức mỗi lần lên đến hàng ngàn đô la cho nên rất dư dả để mở tiệm mua bán làm ăn hay sửa chữa, xây cất nhà cửa. Nói chung niềm hy vọng đi Mỹ làm cho mọi người vô cùng phấn khởi. Ngoài phương diện vật chất đầy hứa hẹn, tinh thần của những gia đình sắp đi Mỹ cũng được nâng cao. Hàng xóm, láng giềng hay bạn bè thân thuộc đều rất hâm mộ và đối đãi rất tử tế. Không có niềm hạnh phúc nào bằng khi được kỳ vọng đến như vậy. Tuy chúng tôi vẫn mua bán bình thường ở cửa hàng ngoài chợ nhưng sinh hoạt lại rất vui và thú vị vì mọi người đều biết rằng chúng tôi sắp đi Mỹ nên việc mua bán cũng thuận lợi, cửa hàng ngày càng đắt khách hàng. Cùng lúc bấy giờ bắt đầu có Việt kiều lác đác về nước từ các quốc gia như châu Âu, châu Úc… nhưng sau đó chỉ có Việt kiều Mỹ về nước là đông nhất và sinh hoạt ồn ào nhất đồng thời họ mang theo sự hào phóng “Made in USA” làm nức lòng những người chuẩn bị sắp đi Mỹ. Cứ thế thời gian trôi đi, đôi ba năm qua nhanh không ngờ rồi cũng đến ngày tôi được gọi lên phỏng vấn, tuy có chút trở ngại nhưng cũng xong xuôi mọi thủ tục. Trong thời gian chờ đợi đăng ký chuyến bay tại quê nhà, chúng tôi đi dự tiệc từ giã liên miên cho đến tận ngày đi. Nói chung tất cả đều mong muốn là sẽ còn liên lạc với nhau khi chúng tôi qua bên đó. Hy vọng sẽ có quà về từ Mỹ. Hôm tiễn chúng tôi đi Mỹ ngoài gia đình thân nhân còn có nhiều bạn bè đủ mọi thành phần có đến vài chục người thuê hẳn hai chiếc xe khách đi từ Cai Lậy đến phi trường Tân Sơn Nhứt. Mọi người chờ đợi quấn quít nhau suốt mấy tiếng đồng hồ cho đến tận khi chúng tôi vào phòng cách ly. Tất cả đều chúc mừng “thượng lộ bình an.” Rồi cũng đến lúc chia tay thật sự, chân bước đi nặng nề mà đầu còn ngoảnh lại, chỉ thấy ánh đèn đêm phi trường mờ nhạt dần trong sương mù buổi tối… Sau gần 20 tiếng đồng hồ ngồi trên máy bay đi từ Sài Gòn sang Nhật rồi nhập cảnh vào Mỹ tại phi trường Seattle, sau đó đáp máy bay của hãng hàng không nội địa Southwest đi Los Angeles để về thẳng nhà người bảo trợ ở thành phố Long Beach. Ra đón gia đình chúng tôi tại phi trường LAX là người đứng tên bảo trợ chính thức. Ngoài ra còn có các bạn bè đi trước đại diện cho Hội Quốc Gia Hành Chánh ra rước và gia đình người em vợ gọi người bảo trợ bằng cậu bên chồng. Người mệt nhoài và cảm giác như đang còn ở trên mây, tôi chỉ cười khi mọi người bắt tay chúc mừng. Chung quanh ồn ào đủ thứ tiếng nói. Người đi như trẩy hội. Tiếng loa phát thanh nhắc nhở hành khách vang vang từ đủ mọi phía. Tôi theo đoàn người chen ra ngoài hành lang đứng bên lề đường chờ xe đến rước. Dọc đường xa lộ, xe chạy kín mặt đường dài mút tầm nhìn cỡ chừng hơn 2 kí lô mét. Trời tối thẫm không thấy gì ngoài vệt sáng của đoàn xe nối đuôi nhau như một con rắn khổng lồ đang trườn mình bò quanh co trên lớp nhựa đen chảy dài theo vệt sáng đèn pha. Khoảng gần một giờ sau chúng tôi về đến nhà. Văng vẳng đâu đây có ai đang mở nhạc Bolero lời Việt nghe rất mùi. Chủ nhà đãi bữa ăn tối đầu tiên toàn là đùi gà chiên giòn lót trên sà lách và cà chua đựng trong ba mâm lớn bằng nhôm mỏng trông rất ngon lành. Điều đặc biệt là chỉ có đùi gà không thôi, không có cánh gà hay thịt ức. Thấy tôi có vẻ như bỡ ngỡ chủ nhà nói ngay: - Chợ Mỹ bán đùi, cánh và thịt ức riêng. Đùi gà là rẻ nhất. Tôi thật tình nghĩ là chủ nhà khiêm nhường nên nói vậy. Hai anh bạn rước gia đình tôi ở phi trường cũng được gia chủ mời ở lại dùng cơm luôn với gia đình. Thức uống là bia Budweiser, mùi bia lon thơm phức. Các câu chuyện bắt đầu qua lại đủ mọi điều. Nói chung mọi người đều mừng cho gia đình tôi tới được bến bờ tự do. Hôm sau, người bảo trợ nói cho gia đình tôi biết ngay là được ăn ở free trong tháng đầu tiên, sau đó nếu muốn tiếp tục ở thêm vài tháng nữa thì đóng góp theo số người, mỗi người $200. Gia đình tôi ba người góp $600. Vậy thôi. Sau nầy tôi mới biết là ít có ai được cá nhân người bảo trợ tốt như vậy, vừa được “free” tháng đầu tiên rồi sau đó lại góp tiền chỉ là tượng trưng. Sau ba tháng, chúng tôi dọn ra riêng mướn nhà cũng ở gần đó, trong vùng Long Beach. Việc ăn ở tương đối ổn định, hai vợ chồng được trợ cấp của chính phủ trong 6 tháng để đi học nghề. Cơ quan thiện nguyện (USCC) cấp giấy giới thiệu đi học trường dạy nghề trong vùng gần nhà. Nhân viên USCC gợi ý là lần lượt chỉ cần một người đi học thôi còn người kia có thể ở nhà trông con nhỏ chờ người trước đi học xong thì đến lượt người kế tiếp. Trước tiên, nhà tôi ở nhà trông con nhỏ mới 4 tuổi và đồng thời theo hướng dẫn của gia đình bảo trợ lãnh đồ đem về nhà may. Mọi việc đều tiến triển tốt đẹp. Thu nhập cũng khá có dư dả gởi tiền chút đỉnh về giúp cho gia đình và quà cáp cho người quen, thân thuộc ở Việt Nam. Trong thời gian nầy tôi cũng đi đây đi đó thăm hỏi và xem xét tình hình sinh hoạt xã hội ở Mỹ như thế nào. Giới trẻ thì không nói tới, vì đất Mỹ là nơi đầy triển vọng và nhiều cơ hội cho người trẻ có chí tiến thân trong bất cứ lãnh vực nào. Còn người lớn tuổi, đi theo dạng đoàn tụ gia đình hay HO, ngặt một nỗi là khi sang đây hầu hết đều ở tuổi xấp xỉ gần 50 trở lên cho nên đa phần mọi người đều mong sao cho có việc làm ngay để ổn định gia đình “hy sinh đời bố củng cố đời con.” Hơn nữa ở khu vực Little Saigon và vùng phụ cận, mọi sinh hoạt vẫn còn mang đậm tính cách của một xã hội thuần Việt. Ngôn ngữ tiếp xúc là tiếng Việt, công việc làm ăn mua bán đa số cũng theo lối người Việt là thích sử dụng tiền mặt cho tiện lợi. Do đó mà một số ngành nghề thường tuyển nhân viên trả lương công nhật. Tuy thấp nhưng là lợi tức ròng, cũng tính theo giờ nhưng làm bao nhiêu giờ lãnh bấy nhiêu tiền không có trừ cấn khoản nào hết. Đến cuối năm khai thuế sẽ nhận được tiền bồi hoàn (tax refund) ít hay nhiều tùy theo điều kiện gia cảnh. Thứ hai là tìm công việc gì dễ dàng và ổn định, tỷ lệ thất nghiệp thấp như phụ giúp cho các công ty xây cất, dịch vụ sửa chữa tư nhân, trợ giúp các văn phòng dịch vụ đủ loại. Hoặc dự tuyển vào làm lao công trường học hay bệnh viện không đòi hỏi khả năng học vấn hay lưu loát Anh ngữ mà lại hưởng đầy đủ quyền lợi của người làm việc ở Mỹ. Ngoài ra, xin đi làm công nhân lao động phổ thông cũng tương đối dễ kiếm. Còn về trợ cấp xã hội thì tùy theo từng tiểu bang mà sự trợ giúp của chính phủ trong giai đoạn đầu mới định cư có thể khác nhau. Tiểu bang California có chương trình trợ cấp xã hội rất tốt và đầy đủ. Theo đúng chương trình trợ cấp học nghề, tôi theo một anh bạn hàng xóm người Việt mới quen, qua đây từ năm 1975 hướng dẫn lên trường học nghề mà anh đã từng học trước đây khi mới qua Mỹ, trường ATC (***ociate Technology College) ở thành phố Anaheim. Trường chỉ dạy có hai nghề là điện thoại và vi tính. Nghĩ là có thể học được và nhẹ nhàng hơn, tôi chọn ngành vi tính. Hôm đầu tiên đến trường cũng hơi lúng túng vì không quen với sinh hoạt của trường ở Mỹ, phần khác vì lâu lắm rồi có trên 20 năm tôi đã thôi học. Đọc thì hiểu nhưng nghe và nói còn ngờ nghệch. Được mấy hôm lại muốn thôi, định đi xuống khu người Việt kiếm việc làm “chui”lãnh tiền mặt. May thay, lúc đó có một người Việt duy nhất đang là nhân viên của trường chuyên trách “tuyển sinh” đi ngang qua lớp, thấy có sinh viên người Việt nên đến giờ giải lao ra ngoài hiên sân trước hút thuốc lá, ông la cà đến làm quen và hỏi thăm, trò chuyện phiếm. Tự nhiên ông có cảm tình, dĩ nhiên ông cũng đoán ra là tôi mới qua Mỹ theo diện HO và khi hỏi chuyện lại biết trước đây tôi tốt nghiệp trường Quốc Gia Hành Chánh (QGHC) ông bèn hỏi: - Anh có biết ông Hoàng Đình Giang không? - Thưa tôi có biết. Ông ấy là Chánh Sở Nhân viên, Bộ Nội Vụ VNCH. - Tôi là Kỹ sư Hoàng Đình Khôi, em ruột của ông ấy. Khi nghe tôi nói muốn nghĩ học để đi kiếm việc làm ngay. Bác Khôi bảo hãy cố gắng đi học khoảng vài tuần nữa rồi bác sẽ giúp cho có việc làm tại trường, từ từ rồi cũng sẽ quen dần và học được. Quả thật, chỉ mới được hơn một tuần bác gọi tôi lên văn phòng lập thủ tục phỏng vấn đi làm bán thời gian vào buổi chiều và dời lớp học vào ban đêm. Công việc cũng dễ dàng chỉ có mỗi một việc là tắt, mở toàn bộ hệ thống các máy vi tính trong các lớp thực tập. Tan lớp dọn vệ sinh nếu có cà phê hay nước uống đổ tháo trên bàn hay dưới sàn nhà. Chỉ vậy thôi mà lương trả cao hơn gấp rưởi so với sinh viên thực tập (work study). Ban đầu thật sự là tôi thấy rất khó trong việc học. Trước đây lúc còn trẻ đang độ tuổi còn đi học tôi cũng có nghe nói đến hệ thống điện toán IBM trong các công sở, nhưng chưa bao giờ thấy chứ đừng nói chi đến việc tiếp cận máy. Cho nên đến lúc nầy tuy là ở Mỹ nhưng ngành vi tính cũng vẫn còn mới mẻ, máy móc còn xa lạ đối với người tị nạn mới nhập cư. Màn hình nhỏ đen trắng chỉ thấy toàn là chữ chi chít xếp thành hàng khó nhớ. Lập trình sử dụng trên máy là DOS 6.22 chưa có windows như sau nầy. Nhưng từ khi làm việc có nhiều cơ hội phụ giúp giảng viên tiếp cận máy nên học hỏi thêm được rất nhiều và ngày càng thêm thích thú. Bên cạnh đó, bác Khôi giúp đỡ hết lòng, đươc vài tháng bác đề nghị cho tôi được chuyển sang làm việc ở phòng Lab của trường, phụ trách kiểm soát máy móc thu, phát cho sinh viên đem về thực tập ở lớp. Nghề nghiệp thăng tiến là ở chỗ nầy. Khi thu, phát linh kiện điện tử dùng máy test biết cái nào tốt, cái nào hư thật nhanh vì sinh viên xếp hành chờ rất đông khi bắt đầu cũng như khi tan lớp. Thời giờ còn lại là sửa chữa các linh kiện vi tính kể cả màn hình với các kỹ sư hay nhân viên kỹ thuật lành nghề trong trường. Sau gần 9 tháng ra trường, nhờ làm việc ở phòng Lab nên rất chuyên nghiệp và cũng chính nhờ bác Khôi đề nghị tuyển dụng ở lại trường để tiếp tục làm việc ở phòng Lab chính thức. Lương bổng ổn định, công việc quen hằng ngày tương đối dễ dàng. Chữ nghĩa, giao tiếp cũng bắt đầu trôi chảy và càng ngày càng thích ngành vi tính hơn nên tôi quyết định ghi danh theo học buổi tối ở trường gần nhà, Long Beach City College. Từ khi đặt chân lên đất Mỹ tôi chỉ tham gia hoạt động chính trong hội Quốc Gia Hành Chánh và Đồng Hương. Ngoài ra còn tham dự vào các sự kiện hay lễ hội được tổ chức trong cộng đồng người Việt tại địa phương. Hằng tuần đi lễ và sinh hoạt trong cộng đoàn Công giáo Việt Nam ở nhà thờ Saint Lucy, Long Beach. Sau khi đứa con gái nhỏ được 5 tuổi nhà tôi không còn lãnh đồ về nhà may nữa vì bận đưa, rước hai đứa đi học ở hai trường khác nhau và công chuyện nhà bề bộn choán hết thời giờ. Một thời gian sau, nhà tôi có một người bạn quen hướng dẫn theo học hai buổi do thành phố Long Beach tổ chức để lấy chứng chỉ chăm sóc trẻ em tại nhà. Từ đó nhà tôi lãnh chăm sóc cho hai đứa cháu họ ban ngày, tiền thù lao cũng góp phần ổn định cho thu nhập gia đình. Dần dà rồi cũng tới, tôi tốt nghiệp trường Cao Đẳng và chuyển lên Đại Học Long Beach (California State University, Long Beach.) Lúc bấy giờ ngành vi tính phát triển rất mạnh, nhất là kể từ khi có hệ điều hành Windows 95. Ông giám đốc trường dạy nghề ATC rời trường chuyển qua kinh doanh bằng cách mua lại một hãng vi tính ở thành phố Anaheim. Môt hôm tình cờ ông về lại trường cũ có một ít công việc, sẵn dịp ông đi quanh thăm các phòng, ban trong trường. Khi ra đến phòng Lab thấy tôi vẫn còn làm việc ở đó. Sau khi chuyện trò xã giao, ông hỏi tôi: - Anh còn tiếp tục đi học không? - Thưa vâng. Tôi vẫn đang theo học ở Cal State Long Beach. - Anh theo học ngành gì? - Ngành Computer Science. Vậy thôi. Không có gì thêm. Thế nhưng, một tuần lễ sau từ văn phòng giám đốc công ty VPC Computers ông gọi điện thoại cho tôi làm một cuộc hẹn tại văn phòng. Tôi có hỏi ý kiến của bác Khôi, bác chuẩn bị lên làm giảng viên chính thức của trường và đang đề bạt tôi sẽ thế chân Bác trong văn phòng tuyển sinh. Bác bảo: - Đi ngay. Tôi còn đang lưỡng lự, vì dù sao công việc ở trường học tuy lương bổng không cao lắm nhưng ổn định. Cứ như thế nầy trước đã và chưa biết đường nào tốt hơn. Bác Khôi bảo: - Tau xem tử vi của mi “Thái Dương tọa Thiên Di” đắc địa nên mi luôn sống và làm việc gần mặt trời. Ra đời, đi xa là có quới nhân giúp đỡ. Tôi đến văn phòng công ty đúng hẹn và ông giám đốc chỉ thăm hỏi xã giao theo như thường lệ. Không có phỏng vấn hay hỏi han gì về nghề nghiệp mà chuyển ngay xuống phòng tuyển dụng để biết thêm chi tiết giấy tờ cần nộp và chinh thức đi làm trong tuần tới. Không có huấn luyện hay thử tay nghề gì cả. Sau đó tôi bắt đầu nhận việc ở phòng kỹ thuật của công ty, chuyên lắp ráp hệ thống máy chủ (server builder) và phục hồi dữ liệu (data recovery). Được vài tuần, kỹ sư trưởng phòng đề nghị tôi theo học các lớp thi lấy chứng chỉ hệ điều hành (Microsoft) và phần mềm chuyên môn (Software App.) cũng ở trường Đại học Long Beach. Vừa học vừa làm công việc rất ổn định và thú vị. Lương bổng tăng dần với đầy đủ quyền lợi dành cho người đi làm nên tôi quyết định mua nhà ở Long Beach. Lúc bấy giờ kể từ khi bắt đầu có hệ điều hành Windows XP thì ngành vi tính phát triển trở nên thông dụng, máy tính cá nhân là nhu cầu cần thiết và không thể thiếu trong mọi sinh hoạt xã hội. Mạng lưới Internet bao phủ toàn cầu. Công ty bắt đầu phát triển mua bán và cài đặt phần mềm (software) cho khách hàng. Tôi lại phải tiếp tục ghi danh học thêm về Networking và Web trong các lớp học buổi tối, có hôm về tới nhà gần 10 giờ đêm. Dần dà mọi việc đều ổn định, đứa con gái lớn học hành tấn tới, thắng giải học bổng toàn phần Bill Gates và đi New York theo học ngành Dược. Đứa nhỏ học rất giỏi và rất chịu khó phụ giúp mẹ công việc nhà. Sinh hoạt gia đình tương đối đi vào nề nếp tôi đỡ bận tâm và bắt đầu dành hết thì giờ cuối tuần để tham gia vào các hoạt động xã hội cùng với các anh em trong các tổ chức mà mình thuộc về trước đây. Thật ra, từ lúc sang Mỹ đến giờ tôi vẫn sinh hoạt chung với các anh em, nhưng mức độ đóng góp còn rất khiêm nhường, chỉ chủ yếu là góp tiền để giúp đỡ những người cần được giúp đỡ còn ở lại Việt Nam. Tôi bắt đầu tham gia đứng tên bảo trợ trong vùng Long Beach cho người Việt đi định cư theo diện tỵ nạn đến Hoa Kỳ cần có người hướng dẫn lập thủ tục cần thiết để được hưởng các quyền lợi căn bản ban đầu, y hệt như hồi tôi mới sang Mỹ. Đưa đón, giúp đỡ thuê nhà chung cư và nạp đơn xin trợ cấp của chính phủ. Đa số thuộc chương trình HO qua trễ. Trước hết họ ở tạm nhà tôi trước khi ra mướn nhà riêng, tôi cũng theo tiền lệ rất tốt là “free” tất cả trong tháng đầu tiên. Mọi việc đều diễn tiến tốt đẹp mãi cho đến khi chương trình HO chấm dứt. Vui nhiều và cảm thấy rất hào hứng khi làm công việc thực tiễn nầy. Có lần tôi bảo trợ cho gia đình một anh bạn gốc Hạ sĩ quan Quân cảnh ở cùng quê Cai Lậy trước đây. Trong lúc chờ đợi hoàn tất mọi thủ tục xuất cảnh, anh em có liên lạc thư từ, điện thoại thường xuyên. Anh ta gần như cả đời chôn chặt ở miền quê Cai Lậy, nay quyết định bỏ tất cả để đi Mỹ nên có rất nhiều câu hỏi liên quan đến đời sống và sinh hoạt ở một đất nước xa lạ, khác màu da và tiếng nói. Nói chung là lo sợ với tình hình gia đình một vợ ba con chưa tới tuổi trưởng thành liệu có sống nỗi hay không? Rồi còn về đất đai, thổ nhưỡng có khắc nghiệt lắm không? Ra đi nên mang theo những thứ gì? …v…v… Tôi thường trả lời chung chung là thời tiết, khí hậu ở đây cũng gần giống như ở Sài Gòn nhưng mát hơn vì có gió biển thổi vào. Tóm lại không cần mang theo những thứ không cần thiết lắm, bên nầy có đủ thứ hết “không nên chở củi về rừng” Ra đi cho gọn nhẹ, an toàn là được. Khi sang tới Mỹ, cũng như bao gia đình khác tôi rước về nhà và phải mất gần 2 tuần lễ chở đi làm các thủ tục giấy tờ định cư. Chưa xong thì anh lại đổi ý. Một buổi sáng anh hỏi tôi xem có quán cà phê nào ở gần nhà không. Tôi nói: - Có quán cà phê bán kèm bánh ngọt (Donut) ở cách nhà khoảng chừng 10 phút đi bộ. Chúng tôi ra đó, cà phê rẻ 80 cent một ly. Đường, cream lấy pha tự do. Sau khi tìm một góc bàn nhỏ nhìn ra đường xe cộ qua lại đông vui. Anh bắt đầu hơi lúng túng nói với tôi rằng anh muốn cùng với gia đình chuyển xuống quận Cam, khu người Việt và đã liên lạc được với một vị Mục sư Hội thánh Tin lành ở dưới đó bảo trợ. Tôi ngạc nhiên hỏi: - Sao vậy? Anh trình bày rằng nghe nhiều người quen bảo rằng ở dưới đó đông người Việt dễ làm ăn và sinh hoạt cũng thuận tiện hơn cho những người Việt chân ướt, chân ráo mới qua Mỹ như gia đình anh. Tôi im lặng chưa kịp nghĩ xem có điều gì làm anh buồn hay lấn cấn không thì đột nhiên anh hơi nhỏ giọng vừa đủ nghe rồi nhìn thẳng vào tôi nói: - Vậy chớ sao tới nay anh vẫn chưa nói gì về số “tiền lương truy lãnh” của gia đình tôi? Tôi như người từ trên trời rớt xuống: - Tiền lương gì? Anh kể rằng hồi mấy năm còn ở Việt Nam chờ đi Mỹ có nghe nhiều người đồn đại rằng những người thuộc chế độ cũ khi sang đây sẽ được chính phủ Mỹ trả tiền lương truy lãnh trong 10 năm kể từ sau ngày 30 tháng 4. Tôi còn chưa kịp nói điều gì, anh mạnh dạn nói tiếp: - Hầu như mọi người đi HO sang đây chưa đi làm một ngày nào mà cũng được lãnh tiền mỗi tháng cả ngàn đô la gởi về ngay cho gia đình hay người thân còn ở lại Việt Nam. Chẳng những thế họ còn gởi kèm theo rất nhiều quà cáp có trị giá tương đương với lương bổng. Thậm chí có người bảo là họ sẽ được lãnh tiền như thế đến suốt đời. Thế nếu không phải tiền lương truy lãnh thì là tiền gì? Tôi không thể giải thích chi tiết ngay cho anh mà chỉ nói đó là trợ cấp xã hội cho người định cư theo diện nhân đạo. Chứ không phải lương, tiền gì cả. Trường hợp của anh cũng có thể lãnh tiền trợ cấp 6 tháng ban đầu, đầy đủ tiền mặt và trợ cấp tiền thực phẩm khoảng gần một ngàn đô la hằng tháng. Sau đó, tùy theo hoàn cảnh của mỗi người, nếu có đi làm lợi tức thấp thì anh cũng sẽ được lãnh thêm trợ cấp tiền thuê nhà, bảo hiểm sức khỏe và trợ cấp cho gia đình có con nhỏ cho đến khi đứa nhỏ nhất trên 18 tuổi. Sau khi nghe tôi trình bày đại khái như thế anh có vẻ hiểu ra nhưng còn hơi mơ hồ: - Có thật vậy không? - Thật … Thế rồi một năm sau, từ Little Saigon anh đến thăm và chúc Tết gia đình tôi. Mọi việc đều ổn định, gia đình anh sống rất hạnh phúc. Trong lúc hào hứng anh còn nói thêm hiện nay gia đình anh được chính phủ trợ giúp còn nhiều hơn là tiền lương truy lãnh mà anh đã nghe đồn đại trước đây. Con cái đều được đi học đàng hoàng, được phục vụ ăn trưa miễn phí và không phải trả bất cứ một khoản tiền nào. Anh chọn một cuộc sống bình thường, không có đi học lại nên xin đi làm công nhân cho một hãng làm bánh bột bắp, vợ anh sau khi học xong khóa mấy tháng, thi đậu ra trường đi làm tóc và móng tay. Đời sống gia đình tương đối đầy đủ, còn về tinh thần thì tự do thoải mái không hề bị chính quyền sách nhiễu hay gây khó khăn vô cớ. Anh nói: - Đất Mỹ đúng là nơi “đất lành chim đậu.” Tôi cũng thầm nghĩ như vậy. Thật là may mắn. Ngoài kia gió xuân đang về, nghe thoảng đâu đây giọng ca quen thuộc “xuân nầy con không về” nhè nhẹ lan xa… |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23632 |
![]() ![]() ![]() |
Hồi Ký Miền Nam | Ân Tình Không Phai (Full) <<<<<<![]() Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 27/Sep/2023 lúc 12:10pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23632 |
![]() ![]() ![]() |
Trộm NhìnĐôi khi trộm nhìn em Xem dung nhan đó bây giờ ra sao. Em có còn đôi má đào như ngày nào? … Vừa bước vào nhà nàng đã nghe giọng “lảnh lót” của chàng. Không
biết từ lúc nào chàng cứ rên rỉ, ngâm nga những lời hát tình tứ đó. Nếu
từ trước đến nay chàng vẫn thế thì chẳng có gì để nàng thắc mắc. Nhưng
chàng vốn là người chẳng thích âm nhạc. Mở TV lên, chàng chỉ chăm chú
vào mục tin tức hoặc thể thao. Nếu chương trình chuyển sang mục hát hò
là chàng đứng dậy, đi làm việc khác. Vậy mà mấy ngày nay… Sự thay đổi
này làm nàng thấy lạ, có hơi ngờ ngợ, và bây giờ thì… có hơi ngờ vực.
Nàng gọi chị Cả kể lể. Vừa dứt lời, một tràng khuyến cáo nổi lên làm
nàng thấy nỗi nghi ngờ của mình không còn “ảo” nữa, mà là “thật”. -Coi
chừng nha, thời buổi bây giờ, anh trai mây, em gái mưa, kết nghĩa rào
rào trên facebook, trên Iphone. Nhờ kỹ thuật số cao siêu mà vợ chồng qua
mặt nhau bằng những lý do rất hợp lý, nào là phải tôn trọng sự riêng
tư, phải tin tưởng nhau tuyệt đối… Nàng như mất hồn khi nghe thêm tin tức nóng bỏng: -Nói
vậy chứ cũng phải từ từ điều tra, đừng hỏi dồn, hỏi dập. Bị quê, nó trở
mặt, nện cho một trận phù mỏ thì đừng đổ thừa tại tao. Hổm rày, tin tức
loan báo nạn bạo hành trong gia đình tăng vọt. Cơn đại dịch này làm mọi
người bị nhốt cứng trong nhà, nên mấy “thằng chồng” hay nổi điên bất
tử. -Em cần anh giúp gì không? Một
bất ngờ khác!. Có bao giờ chàng “ga lăng” và siêng năng như thế đâu.
Nàng chưa kịp cảm động thì đầu óc lại nhanh chóng liên tưởng đến câu nói
của bạn “Khi ông chồng bỗng nhiên ngọt ngào, nhỏ nhẹ thì phải đề cao
cảnh giác. Có thể, chàng đang “ăn vụng” và mặc cảm tội lỗi làm chàng cảm
thấy phải đền bù cho vợ. Hoặc là, khi có tình cảm mới, lòng phơi phới
yêu đời, người ta rất dễ tử tế với người chung quanh”. -Em… có nghe anh hỏi không? Nàng giật mình, nhìn quanh tìm kiếm. -À!…anh… anh lặt giá dùm em. Dứt
lời, nàng chợt nhớ câu chàng thường nói “để vậy ăn được rồi, lặt chi
cho mất thời giờ”. Nàng chờ tiếng cằn nhằn. Nhưng không, chàng vui vẻ đổ
mớ giá ra rổ, tiếng hát lại bật ra “đôi khi trộm nhìn em…”. Em? Em nào
đây? Nàng muốn hỏi chàng câu hỏi ấy với tất cả nỗi bực bội trong lòng,
nhưng nhớ đến hai chữ bạo hành, đành trút nỗi ấm ức xuống những nhát dao
đang bụp con cá chưa kịp rã đông. *** Cuối
cùng thì quyển album cũng hoàn tất. Không biết nàng sẽ vui hay buồn,
thích hay không thích những bức ảnh mà chàng đã chụp lén, sau rất nhiều
ngày chàng ngồi trước TV, nhưng ánh mắt lại hướng sang căn bếp, nơi nàng
lui cui làm đủ thứ việc. Có ở nhà một thời gian dài như thế này chàng
mới nhìn rõ sự vất vả của vợ. Một hôm, anh bạn đồng nghiệp điện thoại
thăm và nói “Sao ông nào cũng than buồn, than chán, rồi đâm ra cau có,
gắt gỏng. Hãy nghĩ đến những người đang nhiễm bệnh để thấy rằng mình quá
may mắn. Rồi ở nhà, thay vì lê lết trên sofa suốt ngày với phim ảnh, ta
hãy tham gia các trò chơi với con cái, hay vào bếp phụ vợ, dọn dẹp, sửa
sang nhà cửa để cảm nhận được sự đầm ấm của gia đình mà lâu nay vì chúi
đầu vào công việc, chẳng bao giờ mình để tâm đến. Ông thử nhìn trộm vợ
một ngày, thì ông sẽ thấy….. -Thấy cái gì? -Thấy
cái mà ông nhìn đó. Ha! Ha!!! Chắc ông đang cho là tôi nhảm nhí. Nhưng
sẽ không nhảm nhí chút nào, nếu ông khám phá ra nhiều điều thú vị như
câu hát “Đôi khi trộm nhìn em…..” Vậy
là chàng bắt đầu “trộm nhìn” để bắt gặp một khuôn mặt rất quen mà lại
rất lạ khi nàng chăm chút công việc nội trợ. Có lúc thong thả, có lúc
vội vàng. Có lúc căng thẳng, bức bối, có lúc lại tươi tắn, nhẫn nại. Bàn
tay nàng hoạt động không ngừng, cả cơ thể chuyển động, lúc sang trái,
lúc sang phải một cách nhanh nhẹn … Rồi giọng nói, lúc nhẹ nhàng, dịu
ngọt, lúc gắt gỏng, giận dữ, khi những thằng nhóc con tíu tít đùa giỡn,
hoặc cãi cọ hung hăng. Tất
cả những gì nhìn thấy đã cho chàng biết, vì sao mình và các con có được
cuộc sống an lành với những bữa cơm nóng sốt trong căn nhà sạch sẽ,
ngăn nắp. Những điều mà trước kia chàng không mấy quan tâm và chẳng hề
ước lượng được bao nhiêu khó nhọc trong những việc không tên mà người vợ
thân yêu đã âm thầm gánh vác. *** -Trời
ơi! sao anh chụp chi những tấm ảnh xấu hoắc vậy? Phải báo trước để
người ta ăn mặc tươm tất, tươi cười vui vẻ chứ. Coi nè! tấm này đang vận
công để chặt thịt, tấm này nhăn nhó như khỉ, vì đang nếm canh chua…
chua quá! Còn mấy tấm kia nữa. Sao cứ nhè lúc em xấu nhất mà chụp vậy?
Em không thích chút nào. -Nhưng
anh rất thích, vì nó đẹp ở một góc cạnh khác. Chính góc cạnh em cho là
xấu, đã cho anh và các con một mái gia đình thật ấm êm, hạnh phúc. Em có
biết là anh đã “trộm nhìn em” bao nhiêu ngày mới có được từng đó bức
ảnh không? À! Thì ra… “Em” chính là nàng. Vậy mà…. Cám
ơn anh. Nàng nói rất thầm và từ bây giờ nàng tin rằng, dù đôi má đào
không còn hồng như ngày xưa, nhưng nàng vẫn giữ được trái tim chàng.
Trái tim nồng ấm biết trọng tình, trọng nghĩa Ngân Bình Thứ Ba, 12 tháng 9, 2023Ảo Hay Thật?-Anh à! em cần nói chuyện với anh một chút. Mắt không rời khỏi “người tình mặt chữ nhật”, giọng chồng hờ hững: -Chuyện gì? -… Bầu không khí chợt “trở mình”. Lạnh ngắt. Chồng dừng ngón tay đang gõ lốc cốc trên “key board”, nháy mắt cười. -Chuyện gì vậy? Một
nụ cười không đúng lúc, nên không còn là nụ cười mà vợ vẫn hằng yêu
thích. Hẳn chồng thừa biết, chuyện vợ muốn nói không phải là chuyện phim
bộ Hàn quốc hay chuyện đại nhạc hội ở sòng bài vào tuần tới, với sự góp
mặt của các danh ca lừng lẫy. Lại càng không phải chuyện ông láng
giềng, chiều nay đã đi khắp xóm để dán giấy, tìm con chó lông trắng như
tơ, dài chấm gót, mới lạc mất hồi trưa này, với số tiền hậu tạ khá hậu
hĩnh, nên câu hỏi “chuyện gì?” làm “chuyện em muốn nói!” mà chưa nói
được lại tăng thêm một “chapter” mang mùi chiến tranh, xa dấu hòa bình. Vợ
không phải là ngườI ít nói, nhưng khi có chuyện buồn phiền xảy ra trong
gia đình, vợ lại im ỉm cả ngày không nói một câu. Điều này khiến chồng
bất an, nên nhiều lần khẩn khoản đề nghị “Có chuyện gì không vừa lòng,
em cứ nói ra. Vợ chồng cần phải hiểu nhau, và muốn hiểu nhau thì phải
đối thoại”. Chồng nói đúng lắm. Vợ nghĩ thế, vì… sách tâm lý cũng dạy
như thế. Vậy là vợ cố gắng. Cố gắng từng ngày để có đủ dũng khí mà áp
dụng cái điều, nói rất dễ mà làm rất khó. Hôm
qua, hai vợ chồng đã cải nhau vì một chuyện rất nhỏ nhặt. Chẳng ai
đúng, mà cũng chẳng ai sai. Chỉ là cách nghĩ của hai người khác nhau.
Đơn giản vậy thôi mà vợ không kềm chế được sự nóng nảy -tính nóng nảy
rất vô duyên đã mang đến cho vợ sự bất an và mặc cảm xấu xa, sau mỗi lần
nó trổi dậy, lấn áp, đè bẹp cái “quyết tâm” sửa đổi của vợ. Cả ngày hôm
sau, cứ thấy lòng mình băn khoăn nên vợ nghĩ, hai vợ chồng cần phải đối
thoại -vì chồng muốn thế mà. Nhưng bây giờ, thiện chí của vợ như chiếc
bong bóng xì hơi, xẹp lép. Từng bước chân chầm chậm đưa vợ vào phòng
cùng câu hỏi “sự nhạy cảm thường ngày của chồng đâu mất rồi hay vì chồng
đang mê mẩn “người tình mặt chữ nhật” nên chẳng muốn rời xa nó? Dù lý
do gì vợ cũng cảm thấy mắt mình cay cay, vương vướng một chút buồn. *** Tối
tối, chồng lại miệt mài bên “người tình mặt chữ nhật”. Từ email quay
sang “face book” với thư từ, hình ảnh và bao nhiêu thứ hấp dẫn khác do
bạn bè gửi đến. Không gặp mặt nhưng vẫn vui đùa , hí hố với nhau. Chồng
nghe lòng tràn ngập niềm vui đến quên hết mọi sự và tiếc sao thời gian
quá ngắn, không đủ cho mình tung hoành khắp “mặt trận”. Nhiều lúc, nhìn
thấy vợ một mình trước TV, tay bấm “remote” đổi đài không ngừng, chồng
cũng đoán biết tâm trạng buồn bã, chán chường của vợ, nên tự hứa “Tối
mai sẽ đóng máy, để xem phim với vợ”. Nhưng ngày mai, mãi mãi vẫn là
ngày mai, nên lời tự hứa cũng chỉ là nước chảy qua cầu. Chồng
mê man với đời sống ảo, nên quên mất câu mình vẫn nói “vợ chồng cần
phải đối thoại để hiểu nhau”. Và chồng dần dần xao lãng với đời sống
thật, với những gì đang có trong tầm tay. *** Buổi
tối, chồng lên giường, thấy bên cạnh mình trống một chỗ, nhưng đã mệt
nhoài sau năm tiếng đồng hồ miệt mài trước màn ảnh chói loà ánh sáng,
nên chẳng hề thắc mắc. Đánh
một giấc say sưa đến sáng, chồng trổi dậy, vội vội, vàng vàng vào phòng
vệ sinh, rồi phóng qua chiếc tủ cạnh bên, thay quần áo, vói tay lấy
chià khóa xe, bước ra phòng ăn. Nhìn chiếc bàn ăn phẳng phiu, không ly
cà phê buổi sáng, không dĩa trứng gà ốp-la và khoanh bánh mì vừa nướng
còn nóng hổi, chồng cau mày lên tiếng trách móc: -Giờ này mà chưa có điểm tâm làm sao đi làm cho kịp đây? -… Nhà
bếp vắng lặng như tờ. Chồng giật mình nhìn quanh và bước nhanh đến tủ
lạnh. Một mảnh giấy trắng với hàng chữ thật đẹp, nghiêng nghiêng… “Chắc
anh đã bắt đầu chán những gì quen thuộc em đã làm cho anh bấy lâu nay
và anh đang muốn tìm cái mới, cái lạ. Có lẽ, bữa điểm tâm hôm nay -nếu
em làm- cũng thế. Cho nên, em sẽ để anh tìm món ăn mới -sau khi gõ
“p***word” và bước vào thế giới ảo. Nơi đó, anh sẽ có tất cả những gì
đối với anh… hấp dẫn nhất!” Chồng
hoảng hốt chạy ra mở cửa garage, chiếc xe màu tím bạc quen thuộc không
còn đó. Chồng bấm điện thoại nhiều lần, nhưng vợ không bắt máy. Trong
nỗi bàng hoàng, chồng nghe tiếng nói của vợ vang lên “Em cần nói chuyện
với anh một chút!”. Không
biết là ảo hay là thật? Bởi vì, khi chồng quay sang trái, rồi sang
phải, phía sau, rồi phía trước, cũng chỉ có mình chồng với chiếc bàn ăn
trống trơn, lạnh lẽo Ngân Bình
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23632 |
![]() ![]() ![]() |
VIỆT KIỀU VỀ QUÊ CƯỚI VỢ | TG: Nguyễn Thị Thanh Dương <<<<<<![]() Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 04/Oct/2023 lúc 9:27am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 133 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |