Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 200 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23678
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Aug/2021 lúc 8:44am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23678
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 06/Aug/2021 lúc 2:58pm
CHIẾC ÁO T.Vấn%20&amp;%20Bạn%20Hữu

Chiều cuối tuần, tôi lái xe và vô tình nghe trên đài radio tiếng Việt có tiết mục “ Tình cờ đọc một câu chuyện hay”. Họ đọc, còn tôi thì nghe và nay… kể lại. Câu chuyện có tựa là Chiếc Áo. Không nhớ tên tác giả.
“Một tỉnh lỵ nhỏ, có chàng học sinh nọ con nhà khá giả, mỗi ngày đi học anh để ý một cô bán chè xinh xắn gánh chè bán dạo trên cùng quảng đường. Trời mùa Thu gió lạnh cô bao giờ cũng chỉ manh áo đơn sơ quằng mình dưới gánh chè trĩu nặng làm anh thương hại đau xót, bèn về nhà xin mẹ một cái áo len, hôm sau lấy hết can đảm tặng cô bán chè đó. Chỉ vậy thôi không một lời tỏ tình nào xa hơn nữa cả. Sau đó chàng trai phải nhập ngủ tòng quân làm nghĩa vụ người trai thời chinh chiến, và đã ra đi biền biệt bốn phương trời.
Trải qua một thời gian thật dài, mười mấy hai mươi năm sau, chàng trai tình cờ trở lại cố hương, bước đi trên quảng đường ngày xưa, bao kỷ niệm cũ trở về từ ký ức. Anh bỗng thấy một cô bán chè trên con đường cũ , giống y như người xưa, và đặc biệt cô đang mặc đúng chiếc áo len mà anh đã tặng.
Nhưng không phải! Vì cô còn trẻ lắm, không thể là người xưa …
Cô là con của cô bán chè năm xưa của anh.
Người mà anh tặng chiếc áo đã không còn nữa. Mẹ cô đã qua đời sau một cơn bạo bệnh. Bà cho cô chiếc áo len và nói đây là tình đầu của mẹ, mối tình thầm kín chất chứa bao nhiêu năm. Cô hỏi người đó là ai, mẹ cô lắc đầu nói ngày sau khi con đang mặc cái áo này nếu có người đàn ông nào tới hỏi, tức là người đã tặng cho mẹ chiếc áo, là người mà mẹ đã thầm yêu trong mối tình đầu.
Và hôm nay cô đã gặp được người đó.”
Câu chuyện tới đây là hết.
Ôi ! Ngày xưa,...ngày xưa…
Tình yêu của họ sao mà lãng mạn, nồng thắm đến vậy?

ThaiNC



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 06/Aug/2021 lúc 3:05pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23678
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/Aug/2021 lúc 4:14pm

Hai Người Bạn Homeless 

Hình minh họa 

Sau 12 năm chờ đợi, chúng tôi đã lên đường sang Mỹ trong nỗi xót xa: hai đứa con đầu không có tên trong giấy gọi, lý do là quá tuổi quy định. Để sau này có thể bảo lãnh hai con lớn, vợ chồng tôi đành mang hai con nhỏ ra đi.

Hai mươi bảy năm xã hội chủ nghĩa, đầu tắt mặt tối, chạy chân không bén đất để đổi lấy bát cơm, chúng tôi đến đất Mỹ cũng giống như con ngỗng trời ngơ ngác, lo sợ. May mà rồi chỉ một thời gian sau là cũng tạm ổn định. Hai cháu nhỏ mau chóng được tới trường. Sau ba tháng đặt chân lên xứ Mỹ, thủ tục bảo lãnh cho hai cháu còn rớt lại cũng đã nạp đủ. Phần khó nhất còn lại là cả hai vợ chồng phải học tiếng Anh, lo thi quốc tịch, để có thể bổ túc hồ sơ bảo lãnh.

Sau khi lo xong bằng lái xe, vợ chồng tôi xin được việc làm. Chúng tôi xin được việc dọn dẹp vệ sinh tại công ty A&A Professional Cleaning Service. Cũng may công ty tôi làm có Mỹ có Việt, văn phòng toàn là người Việt, bước đầu về ngôn ngữ được coi là thuận lợi.

Sau một tuần học việc, công ty giao cho vợ chồng tôi dọn dẹp một nhà hàng của khách sạn Best Western, gồm một dàn bếp khá lớn, một quầy cà phê, một quầy rượu, một nhà hàng ăn khoảng mười lăm bộ bàn ghế. Công việc chính là làm sạch phần nền, thảm thì hút bụi, nền gạch thì quét, móp, bất cứ làm cách gì miễn là sạch, lâu mau tùy mình không giới hạn giờ giấc.

Làm việc bắt đầu từ 11 giờ đêm, nhà hàng đóng cửa, nhân viên phục vụ đã về, không có người nên vấn nạn tiếng Anh không còn lo lắng.

Hai mươi bảy năm trong nước như trâu cày ruộng cạn bây giờ tới Mỹ cầm chổi quét nhà cho sạch mà ăn thì quả thật là trò chơi, vợ chồng tôi túc tắc trong vòng bốn mươi lăm phút là xong.

Sau hai tháng làm việc không bị than phiền, công ty giao thêm một nhà hàng lớn, Mc.CorMick Habor Side cách khách sạn nầy năm phút xe chạy. Rồi tiếp tục giao thêm hai nơi nữa. Hàng đêm như ca sỹ chạy hát show, xong nơi nầy qua nơi khác, đánh nhanh rút lẹ để về nghỉ ngơi sớm.

Chổ thứ tư là nhà hàng Mic. Cormick Fish House ở góc đường số 4 và đường Columbia Seatlle cách nhà hàng Mic. Cormick lớn bảy phút xe chạy. Khi chúng tôi đến nhận nhà hàng ông Manager nơi đây dặn:

“Nhớ khóa cữa cẩn thận, khu nầy nhiều người Homeless, nguy hiểm nếu họ vào trong nhà hàng.”

Nhà hàng nầy thuộc dạng di tích của thành phố, theo lý lịch treo trên tường thì nhà hàng xây dựng năm 1930 nên phần thiết kế khác hơn bây giờ, mặt tiền có bốn cửa chính, mỗi cửa chính hai cánh cửa ngoài, hai cánh cửa trong ở giữa một khoảng trống như một cái phòng nhỏ. Hai cánh ngoài bằng gỗ dày không có khóa nhìn vào tưởng đó là cửa chính, nhưng thật ra đó là cữa chắn gió, cửa chính là hai cánh bên trong. Nhờ vậy, khoảng trống giữa hai cánh cửa thành chỗ trú của người Homeless. Tối nào cũng có khách trọ qua đêm, họ được ngủ yên trong đó không bị quấy rầy bởi các xe tuần tra Cảnh Sát.

Như vậy vợ chồng chúng tôi làm bốn nhà hàng trong một đêm, công việc trước mắt tạm ổn định, hồ sơ bảo lãnh đã nộp và cũng đã nhận được hồi báo, Điều lo lắng tiếp theo là làm sao học Anh văn để thi Quốc tịch bổ sung hồ sơ bảo lảnh. Tới trường học ESL thì không được vì đêm thức ngày phải ngủ.

Vẫn biết ngày tháng còn cả bốn năm lận, nhưng việc nầy quá khó khăn nên phải chuẩn bị, một trăm câu hỏi lịch sử, bốn mươi câu hỏi lý lịch, đối với người giỏi Anh văn thì không cần phải học, đọc qua nghe hiểu trả lời là xong, nhưng với vợ chồng chúng tôi, đây lại là một vấn đề ngoài sức mình. Vì tương lai hai đứa con chúng tôi phải cố gắng, nếu gánh nặng thì phụ gánh cho nhau, nhưng học thì không ai chia bớt cho ai.

Để có thể tự học, chúng tôi mua tài liệu kèm băng cát xét của Giáo sư Nguyễn Phú Lâm nghe trên xe, nghe tại nhà, nghe nơi làm việc.

Thời tiết Seattle mấy hôm nay rất lạnh, dự báo thời tiết cho biết bão tuyết sắp tới trong đêm nay, chúng tôi rất lo vì chiếc xe Honda đời 1984 quá cũ, đường về nhà phải chạy hai mươi phút, ông dzôn tài xế mới ra lò chưa có kinh nghiệm chạy tuyết. Nhìn qua cữa sổ, bên ngoài một màn trắng bao phủ cảnh quang, tuyết rơi quá nặng.

Nhà hàng Mic.Cormick Fish house, nơi chúng tôi đang làm việc, một đêm giá lạnh bỗng có tiếng gõ cửa. Nhìn ra cánh cửa mới gõ, mặt người Mỹ trắng dán sát ô kiếng, đưa điếu thuốc lên ra dấu xin lửa. Tôi nghỉ tay ra dấu cho ông dzôn lấy bao diêm hé cửa đưa cho ông ta.

Cái mền trùm kín cả người nhưng ông vẫn đứng run cằm cặp. Tôi đóng cửa, hạ âm thanh máy cát xét nói với ông xã:

- Lạnh kiểu nầy chắc ông ta chết cóng mất, hay là mình cho ông ta vào núp trong nầy một lúc, tội nghiệp quá. Thấy mặt ông ta có vẻ hiền, hơn nửa đã lớn tuổi, chắc không sao đâu.

Ông dzôn đồng ý liền:

- Được cho ông ta vào đi, kéo ghế cho ngồi gần cửa, nếu ông ta có quậy phá thì hai đứa xúm lại xô ông ra ngoài. Ốm yếu kiểu đó không cự lại mình đâu.

Tôi hé cửa ngoắt ông homless vào. Ông ta lộ vẻ ngạc nhiên lưỡng lự, tôi phải tận dụng hết khả năng dùng động từ “Tu Quơ“ để nói chuyện, nghĩa là nói tiếng Anh bằng hai tay. Ông run rẩy bước vào, tôi chỉ chiếc ghế ông xã đã đặt, nghĩ thầm trong bụng “bố ngồi yên đây nếu loạng quạng là chúng tớ xô bố ra ngay”. Vòng lại rót cho ông ly nước sôi bỏ thêm bao trà Lipton sẵn trong nhà hàng.

Đôi mắt hiền từ, tiếng Thank you nho nhỏ, tay run rẩy nắm chặt ly trà nóng, tay kia đưa lên quệt nước mắt, ông đang khóc. Thấy ông chảy nước mắt tự nhiên nước mắt tôi cũng trào ra. Tội nghiệp ông quá, cũng như cha chú mình sa cơ thất thế, đời ai muốn vậy.

Tôi an tâm tiếp tục làm việc, ông ngồi yên mắt nhắm, có lẽ ông ngủ. Nhìn ông, không thể đoán biết bao nhiêu tuổi, tóc lâu ngày không cắt râu không cạo. Râu tóc phủ che hai phần ba khuôn mặt.

Bỗng lại nghe tiếng gõ phía ngoài. Nhìn ra ô cửa kính một người đàn ông da đen mặt cũng dán sát kiếng, đứng nhìn người bạn ngồi bên trong. Có lẽ ông ta cũng muốn vào. Tôi ra dấu, ông ta gật đầu. Tôi bàn với ông xã, ông mở cửa cho ông ta vô luôn, xếp ghế cho ông ngồi bên người Mỹ trắng, cũng một ly nước như vậy. Cũng một tiếng Thank you trong cổ họng.

Nhà hàng nầy là trạm cuối trong đêm, dọn dẹp vài ba phút nữa là xong. Hằng đêm xong việc là chúng tôi rửa tay ngồi nghỉ, ông xã nhâm nhi ly trà Lipton nghe thêm một đoạn băng học thi quốc tịch rồi mới ra về. Đêm nay, tuyết xuống trắng trời, chiếc xe đậu bên đường gần phủ kín, nhìn hai người khách ngủ say trên ghế, không nỡ đánh thức họ dậy, tôi đề nghị:

- Mình ngồi nghe băng cho họ ngủ thêm 15 phút.

Sau đêm bão tuyết ấy, mấy đêm liền cái khoang cửa không người ở vì tuyết đóng băng dày, hành lang chỉ vét một đường rãnh đủ đi, cửa ra vào cũng vậy.

Tuần sau thời tiết trở lại bình thường, trong đêm khuya xe chúng tôi tới ngã tư đường Chery và số 6, hai người Homless ngồi bên nhau ở góc đường, thấy xe đến người da trắng đứng lên đưa tấm bảng các tông chữ viết to rõ ràng

VETERANS WAR IN VIET NAM

NEED HELP WITH EVRY THING. THANK YOU.

Tôi hỏi ông xã:

- Ông ta viết chi mà có chữ Việt nam.

Ông xả giải thích ông ta là cựu chiến binh đã tham chiến bên nước mình. Hai đứa dốc túi moi nắm tiền cắc lượm trong nhà hàng đưa cho ông ta, ra dấu hỏi ông ta nhớ mình không, ông ta gật đầu, ra dấu ông ta đi tới đó, ông gật đầu, ngã tư nầy tới nhà hàng tôi cách một lốc đường.

Làm gần xong nhìn qua cửa kính, lại thấy hai người trắng đen hôm trước dán mắt nhìn vào, tôi chỉ cho ông xả mở cửa cho họ, chỉ cho họ ngồi vào bàn chứ không ngồi chỗ củ nửa. Qua tấm bảng họ cầm, chúng tôi trân quý họ, một cựu chiến binh đã xả thân bảo vệ tự do cho quê hương niềm Nam mình, có phải đó là lý do mà hôm nay họ như thế nầy chăng?

Nghe ông xã tự giới thiệu là người Việt Nam, trước cũng là lính, ông ta rất vui bắt tay nắm chặt không thả, ông chỉ người đàn ông da màu kế bên nói:

- Ông này cũng vậy hai chúng tôi đã ở Pleiku.

Niềm vui dâng trào, niềm cãm thương khó tả, phút chốc như thân thiện lâu ngày. Hai ông bập bẹ tiếng Việt chúng tôi trọ trẹ một vài tiếng Anh kèm theo động từ “tu quơ”. Ra về hai vợ chồng đùa “mình nói tiếng Anh còn hơn tập thể dục, nói kiểu nầy riết khỏi phải kéo tạ tay”.

Vậy là từ đó, hằng đêm họ chờ chúng tôi trong khoang cửa. Anh đen tên John. Ông trắng tên Andrew. Đêm nào tôi cũng bới theo thức ăn Việt Nam cho họ. Cởi mở, thân thiện, hai người bạn homless còn phụ giúp chúng tôi làm việc, xong họ dạy chúng tôi đọc tiếng Anh. Mỗi thầy kèm một tro. Nhờ vậy mà bài thi Quốc tịch chúng tôi đã ngốn một cách ngon lành. Tôi thầm cám ơn các đấng bề trên vì tất cả đều nằm trong xếp đặt của các Ngài.

Mỗi kỳ lãnh lương, cách nầy hay cách khác, chúng tôi tìm phương kế tế nhị gởi cho hai anh một phân nửa số tiền công của nhà hàng nầy, vì họ cũng đã làm việc. Hai chúng tôi hai anh em ho, bốn người chia hai số tiền nhận nơi đây cho phải phép công bằng.

Còn hai tháng nữa là ngày thi Quốc tịch, đêm hôm đó chỉ một mình ông John Mỹ đen đến. Ông ta nói:

- Andrew vào bệnh viện hồi trưa, anh ấy té xuống trong hàng đợi nhận thức ăn.

Ông xã hỏi Bệnh Viện nào John trả lờ:

- Andrew gục xuống xe cấp cứu đến chở đi nên không rỏ bệnh viện nào, nhưng anh cố gắng tìm sẽ cho biết sau.

Rồi đêm hôm sau và những đêm kế tiếp, không thấy John trở lại. Chúng tôi vẫn bới theo thức ăn và vẫn đợi, một đêm hai đêm, một tháng hai tháng khuôn cửa kính không người nhìn vào. Xong việc, có hôm chúng tôi ngồi nán lại chờ cho đến khi trời sáng.

Chúng tôi cũng vẫn dõi mắt tìm kiếm họ trên các ngả tư, trên các khuôn mặt của những người cầm bảng đứng bên lề đường, nhưng mãi cho tới hôm nay vẫn không thấy tăm hơi. Không biết phải tìm họ ở đâu.

Cám ơn hai người bạn đã tháp cánh cho chúng tôi trên đường hội nhập, đạt ý nguyện trong kỳ thi nhập tịch, gia đình chúng tôi đã đoàn tụ.

Nhà hàng Mic.Cormick Fish House chúng tôi vẫn tiếp tục làm, hằng đêm cho tới bây giờ chúng tôi vẫn nhìn qua khung cửa kính thầm gởi tới hai anh lời cầu xin bình an và lời tạ ơn.

Phương Lâm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23678
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 11/Aug/2021 lúc 11:49am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23678
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/Aug/2021 lúc 12:39pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23678
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 17/Aug/2021 lúc 12:28pm

Văn NUỐI TIẾC TT - Nhạc SERENADE - Schubert - Vu Lan 2014   <<<<<

Văn%20NUỐI%20TIẾC%20TT%20-%20Nhạc%20SERENADE%20-%20Schubert%20-%20Vu%20Lan%202014%20-%20YouTube


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 17/Aug/2021 lúc 2:23pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23678
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 19/Aug/2021 lúc 8:34am

Tưởng Rằng Đã Yên 


Mọi chuyện rồi cũng êm xuôi. Và sẽ chìm vào quên lãng như định luật thời gian. Huấn nghĩ như vậy trong lúc một mình ngồi trên phiến đá nhìn dòng sông hiền hòa, phẳng lặng. Huấn nhìn mãi vào nơi chiếc xe mình đã lao xuống cách đây sáu tháng...Nơi đó, linh hồn Trinh, người vợ thông minh, xinh đẹp của Huấn, đã rời khỏi thân xác.

Huấn bây giờ là người góa vợ, cô đơn đi, về lặng lẽ như một chiếc bóng. Nhiều lúc Huấn tự hỏi: mình còn làm được gì, khi hạnh phúc đã chợt đến rồi chợt đi?. Ân hận không?. Hối tiếc không?. Còn nữa, Huấn không biết mình có nên vui mừng hay không, khi những cuộc điều tra, thẩm vấn của cảnh sát đã thật sự chấm dứt. Bởi vì trước sau gì Huấn cũng giữ đúng một lời khai:

- Đêm đó, hai vợ chồng đưa nhau đi ăn ở nhà hàng Salmon House bên hướng Tây Bắc của thành phố. Trên đường lái xe về nhà, lúc đi ngang qua cây cầu, không hiểu vì lý do gì, Huấn bất ngờ bị chóng mặt, choáng váng nên lạc tay lái. Chiếc xe đâm vào thành cầu trước khi lao thẳng xuống sông. Khi đội cấp cứu đến thì đã muộn: Trinh bị chết ngộp trong xe với một vết thương nhẹ trên đầu. Huấn trồi được lên khỏi mặt nước nên thoát chết.

Điều tra viên tình nghi Huấn hoặc cố ý giết vợ, hoặc đã uống quá say. Nhân viên nhà hàng xác nhận, họ đã thấy hai vợ chồng vừa ăn vừa trò chuyện một cách vui vẻ, hạnh phúc và chàng chỉ uống một ly rượu khai vị thôi. Kết quả nồng độ rượu đo trong người Huấn cũng chứng minh như thế. Tuy nhiên, họ đã tìm tòi, lục soát tất cả những nơi và những gì họ cho là cần thiết. Họ thẩm vấn tới, họ điều tra lui, họ tìm gặp Huấn nhiều đến độ Huấn tưởng chừng như một mụt mụn nhỏ trên khuôn mặt mình họ cũng sẽ tìm thấy! Cuối cùng, họ phải đi đến chỗ kết thúc. Trinh chết là do tai nạn vì họ chẳng tìm ra được dấu vết gì khả nghi để buộc tội. Họ đã thật sự buông tha cho Huấn trở về với công việc hằng ngày của chàng.

****

Tối nay, Huấn đang theo dõi trận đánh dã cầu trên TV thì điện thoại reo.
- Hello!
- Hello. Xin lổi, anh là Huấn phải không?
- Phải, Huấn đây. Xin lổi, ai gọi thế?
- Tôi là Hạnh.
- Hạnh...? Xin vui lòng nói rõ hơn, tôi quên mất cô là ai rồi.

Tiếng cười khúc khích:
- Anh Huấn đâu có quên Hạnh... vì Hạnh là một người xa lạ, chưa từng tiếp xúc, chưa từng gặp gỡ, làm sao anh Huấn nhớ cho được?.
- Thế hỡ?. Vậy Hạnh là ai?. Tại sao gọi cho tôi?.
- Khoan đã, trước khi trả lời anh Huấn, Hạnh xin được quyền.. ưu tiên.
- Ưu tiên gì?.
- Ưu tiên được hỏi trước: Anh Huấn đã lập gia đình chưa?.
- Tại sao cô hỏi tôi câu đó?.
- Tại vì... nó khá quan trọng để Hạnh quyết định sẽ tiếp tục nói chuyện với anh Huấn hay sẽ buông điện thoại xuống ngay bây giờ. Mong anh Huấn thành thật, đừng lo ngại, Hạnh không có ý đùa giởn gì đâu.

Khá lâu Huấn chưa có dịp nói chuyện với một người con gái nào nên cũng cảm thấy hay hay:
- Được rồi, tôi lập gia đình cách đây ba năm... nhưng vợ tôi đã qua đời trong một tai nạn.
- Anh Huấn có buồn lắm không?.
- Dĩ nhiên rồi. Câu hỏi hơi lạ đó.
- Thế bây giờ anh Huấn đã có bạn gái nào chưa?.

Huấn cuời:
- Cô Hạnh tham lam quá, chỉ xin hỏi một câu, giờ đến câu thứ hai, thứ ba. Tôi sẽ không trả lời thêm, nếu cô không cho tôi biết rõ cô là ai.
- Xin lỗi anh Huấn nghen. Hạnh là người mới đến thành phố này được tháng. Không thân nhân, không bạn bè cũng chưa có việc làm. Ngày nào cũng một mình lái xe chạy lòng vòng, buồn quá. Rồi anh Huấn biết sao không?. Hạnh chợt nghĩ ra một cách là tìm trong điện thoại niên giám tên người Việt để... làm quen. Anh Huấn thấy Hạnh tài chưa?. Hạnh đã nhắm mắt chọn ra năm tên: Phúc, Lộc, Nam, Kinh và Huấn. Lần đầu tiên Hạnh gọi người tên Lộc, đó là một anh chàng đã có gia đình. Lần thứ nhì Hạnh gọi người tên Kinh, ông này đã gần bảy mươi tuổi. Vẫn chưa nãn chí, Hạnh gọi thử lần thứ ba với người tên Huấn. Bây giờ Hạnh đang nghĩ là Hạnh sẽ không cần phải gọi đến lần thứ tư nữa, phải vậy không anh Huấn?. Trừ trường hợp anh Huấn nói rằng anh Huấn không thích làm quen với Hạnh.

- Cô Hạnh chắc thích phiêu lưu lắm?.
- Không biết có phải vậy không, nhưng khi mình muốn đạt được một việc gì, nếu không nghĩ ra cách này hoặc cách khác để thực hành thì làm sao đạt được?. Từ trước, người ta vẫn quen nhau qua mục Kết Bạn Thư Tín, bây giờ, quen nhau qua cuốn điện thoại niên giám, một phát minh mới, phải không?.

- Tình trạng gia đình tôi, cô đã biết rồi, vậy cô nghĩ sao?.
- Hạnh đang chờ nghe cảm nghĩ của anh Huấn. Hạnh có phải là một người con gái quá táo bạo không?.
- Không đâu, người khác còn làm những chuyện khủng khiếp hơn nhiều. Tôi cảm thấy vui vui bởi vì từ ngày vợ tôi chết, tôi chưa có bạn gái. Một mình đi ra đi vào, căn nhà bỗng trở nên rộng lớn và trống vắng hơn. Có lần bạn tôi ngõ ý giới thiệu cho tôi một cô, nhưng tôi chưa cảm thấy thoải mái nên đã từ chối. Hôm nay, cô Hạnh đến với tôi bằng một phương cách nghe ra cũng hay hay, tại sao tôi không chấp nhận nhỉ?.

- Vậy cả hai chúng ta đều đồng ý đấy nhé?.
- Bỏ phiếu thuận! Nghe giọng nói, tôi đoán chắc Hạnh còn trẻ lắm, có thể chưa tới ba mươi. Hạnh biết tôi bao nhiêu tuổi không?.
- A.... chắc anh Huấn cũng chưa đến nỗi là ông già bảy mươi?.
- Chưa đâu, chỉ mới sáu mươi chín thôi.

Huấn thích thú cười thật lớn. Hạnh cười theo:
- Anh Huấn đoán Hạnh còn trẻ thì đúng rồi, nhưng anh Huấn có biết dung nhan Hạnh xấu xí đến cỡ nào không?.
- Tôi nghĩ, nếu Hạnh có xấu chắc cũng chưa đến nỗi được xếp hạng nhất trong danh sách những người thiếu nhan sắc.
- Anh Huấn nói đúng đó, nhưng hình như Hạnh cũng đứng vào hạng nhì, vì mụ phù thủy đã chiếm mất hạng nhất rồi.

Cả hai cùng cười giòn giã.

***

Huấn bây giờ không còn là Huấn của ngày nào vợ mới chết. Từ một giai đoạn bất an chuyển qua một giai đoạn bình thản và rồi Huấn được sống lại trong cảm giác của một người đàn ông đang yêu đời, yêu người và yêu tất cả mọi vật chung quanh mình. Sau lần thứ nhì nói chuyện qua điện thoại, Huấn và Hạnh hẹn gặp nhau. Lúc đầu Huấn chỉ tưởng tượng ra một nhan sắc khiêm nhường ở người con gái này, nếu không như vậy cô ta đâu còn độc thân đến giờ.

Buổi đầu tiên diện kiến, Huấn đã bàng hoàng, sững sốt kêu lên:
- Hạnh đẹp quá!

Đúng vậy, Hạnh là cô gái mang hai dòng máu Mỹ-Việt. Hạnh là một kết hợp của hai nét đẹp Á Đông và Tây Phương. Nếu muốn tìm một khuyết điểm nào đó trên khuôn mặt hay vóc dáng Hạnh sẽ không phải là chuyện dễ. Ngay phút giây đầu tiên đó, Huấn đã cảm thấy hồn mình như chết đuối trên dòng suối tóc nâu đậm, óng mượt chảy hững hờ từ bờ vai xuống tới nửa lưng. Chỉ một chút trang điểm tự nhiên thôi, Hạnh đã nhìn như một bức tranh truyền thần mờ ảo trước mắt Huấn.

Ngày trước, Huấn vẫn cho rằng chỉ có Trinh, vợ mình mới là người con gái đẹp và duyên dáng như một nữ hoàng, nhưng bây giờ, nếu đem so sánh với Hạnh thì Trinh là người bị mất vương miện. Hạnh đã đến với Huấn như một cơn phong ba, bão táp cuốn hút đời chàng vào những mơ mộng cho tương lai. Một kỹ sư điện toán trong một công ty lớn nhất nhì trên thị trường, vừa mất người vợ xinh đẹp lại ôm ngay vào được một người con gái khác còn xinh đẹp hơn nữa, không trách sao Huấn đang ngất ngây với ý nghĩ: đúng là đời đẹp như mơ!

Hạnh nhí nhảnh nhưng dễ thương; thông minh nhưng tế nhị. Hạnh không kiêu căng, tự phụ về sắc đẹp của mình. Huấn đưa Hạnh thăm viếng khắp nơi trong thành phố, rồi đến những vùng thôn quê. Hạnh luôn nói những lời thán phục hoặc biết ơn đối với Huấn, chẳng hạn như:
- Em thật không ngờ mình lại có được những ngày tươi đẹp như hôm nay. Vừa được rong chơi ở những nơi sang trọng, vừa được một người đàn ông lịch sự, học thức bên cạnh, lúc nào cũng sẵn sàng chìu chuộng, em còn tìm ai hơn anh Huấn nữa đây?.

Huấn đáp lại:
- Anh mới là người may mắn đó chứ, có được một người đẹp lại dễ thương như Hạnh để đưa đi chơi chắc đâu còn diễm phúc nào hơn?.

Trong suốt ba tháng quen nhau, chưa lúc nào Hạnh để nụ cười biến mất trên môi. Cho đến một hôm, Huấn tỏ thật lòng mình về một tình yêu mãnh liệt phát xuất tự trái tim, tự nhiên nụ cười đang tươi mát của Hạnh bỗng héo úa đi. Nàng lắc đầu, buồn bã xoay nơi khác. Huấn năn nỉ mãi, nàng cũng không nói gì hơn ngoài ánh mắt đầy suy tư, xa vắng. Sau buổi đó, Hạnh lánh mặt Huấn không một lời từ giã. Căn phòng trong chung cư của Hạnh đã trả lại. Một tuần qua rồi hai, ba tuần qua, Hạnh vẫn bặt tin. Huấn đau khổ như điên cuồng. Huấn lang thang ngoài phố để nhìn người qua lại mong gặp khuôn mặt quen thuộc của nàng. Huấn lái xe khắp các nẻo đường hy vọng sẽ bắt gặp Hạnh một nơi nào đó, nhưng mọi cách đều thất bại.

Sau một tháng trời tìm kiếm, Huấn hoàn toàn thất vọng. Đêm nay, Huấn mệt mõi trở về nhà sau mấy tiếng đồng hồ lái xe lang thang. Chưa kịp thay quần áo thì chuông cửa reo vang mấy lần liên tiếp như thể gấp rút lắm. Huấn mừng rỡ đến sững sờ khi khuôn mặt hiện ra nơi khung cửa chính là Hạnh. Nàng đi vội vào trong rồi ôm chặt lấy Huấn trong lúc đôi dòng lệ tuôn tràn trên má. Huấn để yên cho Hạnh khóc trên vai mình, đến khi những thổn thức lắng dần, Huấn hỏi nhỏ:

- Tại sao em khóc?. Tại sao em tránh gặp mặt anh?.
Hạnh nghẹn ngào:
- Không phải em... tránh gặp anh, em chỉ... chạy trốn một người khác.
- Ai vậy?.
- Chồng em.
- Em có chồng?.
- Phải, nhưng anh ấy là một người vũ phu và tàn nhẫn. Em xin lỗi đã giấu anh.

Huấn ngồi yên lặng nghe hơi thở mình nặng nề hơn. Sự thật quá phũ phàng không ngờ nỗi. Giọng Hạnh kể lễ:
- Trước khi lập gia đình với nhau, anh ấy là một người đàn ông hết sức hòa nhã, nhưng em đã lầm. Anh ấy không thể nào hòa nhã sau những cơn say. Anh ấy bắt đầu kiếm chuyện cả với những người bạn nào chỉ vô tình nhìn em hoặc nói với em một câu rất thông thường, chẳng hạn như "Hạnh có khỏe không?" "Khỏe hay không cũng là vợ tao, mày hỏi làm gì?". Mãi rồi những chuyện xảy ra đó khiến em xấu hổ. Em ngăn cản không cho anh ấy uống rượu nữa thì anh ấy bỏ nhà đi mất tiêu ba bốn ngày liền. Em đòi ra toà ly dị, anh ấy hăm dọa sẽ giết em. Em sợ quá nên bỏ nhà trốn đi. Nơi này em đã gặp anh và chúng ta đã có được những kỷ niệm không bao giờ quên. Nhưng bây giờ, em phải bỏ trốn đi nơi khác nữa, vì chồng em vừa tìm ra em ở đây. Anh ấy hăm dọa thêm rằng nếu bắt gặp người đàn ông nào đi với em, anh ấy sẽ giết chết cả hai rồi tự sát hoặc đi tù.

Hạnh ôm Huấn chặt hơn:
- Anh Huấn ơi, em không thể nào ở lại đây, em không muốn anh bị mang họa vì em. Cuộc đời em đã sóng gió quen rồi, thà em bỏ đi chứ không thể nào trở lại với con người tàn nhẫn đó.

Hạnh lại khóc nức nỡ hơn. Huấn không biết làm gì hơn là vuốt mãi suối tóc mềm mại của nàng. Thời gian vẫn trôi. Hạnh ngưng khóc, nhưng nàng cứ ngồi thẫn thờ. Huấn chợt nhớ ra:
- Em đã ăn gì chưa?. Em đói bụng không, để anh đi mua gì về cho em ăn nghen?.
- Thôi anh ạ, đừng đi ra ngoài bây giờ, em chưa ăn gì, nhưng không cảm thấy đói. Anh có sữa tươi cho em một ly là được rồi.

Huấn đi lấy ly sữa đến, nàng uống một hơi hết phân nữa rồi dợm đứng lên. Huấn vội hỏi:
- Em định đi đâu vậy?.
- Về khách sạn.
-Thôi... em hãy ở lại đây với anh.
- Không nên đâu anh. Nguy hiểm cho anh lắm.
- Anh không sợ, chỉ sợ nguy hiểm cho em. Biết đâu chồng em đang rình rập đâu đó ngoài đường. Anh không thể để em đi như vậy.
- Anh không sợ chồng em sẽ giết luôn cả anh với em sao?.
- Không, vì anh yêu em. Nếu em cũng yêu anh thì...

Huấn ngập ngừng không dám nói thêm.
- Thì sao hả anh?. Anh sẽ bằng lòng chết chung với em phải không?.
- Cũng có thể lắm chứ!.

Hạnh mừng rỡ ôm chầm lấy Huấn và cả hai hôn nhau đắm đuối. Lâu lắm họ vẫn chưa rời nhau ra. Rồi Huấn dang tay nhấc bổng người Hạnh lên để đi thẳng vào phòng ngủ. Chàng đặt nàng nằm xuống chiếc giường nệm êm ái, cả hai tiếp tục ôm xiết lấy nhau.

Một lúc sau, Huấn ngồi nhổm dậy, vói tay qua chiếc bàn nhỏ ở cạnh đầu giường để lấy điếu thuốc đốt hút. Hạnh vẫn nằm im với chiếc mền kéo ngang nửa ngực. Huấn phà khói thuốc vào không khí rồi xoay lại nhìn nửa vùng ngực đang phô bày, cảm thấy vẫn còn thèm úp mặt lên đó. Đầu óc Huấn làm việc thật nhanh, quyết định cũng thật nhanh:

- Em tưởng rằng anh sẽ bằng lòng chết chung với em dưới bàn tay của chồng em à?. Anh đâu có dại dột như vậy.
Hạnh mở to mắt:
- Nghĩa là sao?. Anh nói nếu em cũng yêu anh... Em bây giờ đâu còn ai thân thích ngoài anh ra, nếu không yêu anh thì yêu ai?. Hơn nữa, nếu không yêu anh, em đâu dễ gì nằm với anh như vầy. Vậy thôi, để em ra đi.

Huấn vội vàng ôm lấy đầu Hạnh:
- Đừng hiểu lầm anh, cưng. Ý anh muốn nói là cả hai chúng ta không nên dại dột để hắn ra tay trước. Mình phải hành động trước khi hắn hành động.
- Em chưa hiểu.
- Hắn có thể giết mình được thì mình cũng có thể giết hắn được vậy.

Hạnh chớp chớp mắt nhìn Huấn:
- Ừ nhỉ?. nhưng... mình sẽ đi tù chung thân?.
Huấn cười nhẹ:
- Mình phải khôn chứ em. Mình đâu có công khai giết đâu mà đi tù?.
- Mướn người à?.
- Mướn người cũng thua. Anh muốn nói là mình phải xếp đặt chương trình hành động. Em nghe anh hỏi đây, em có dám ra tay không?. Chỉ có một mình em mới làm được chuyện này, nếu em bằng lòng anh mới nói ra.
- Để em suy nghĩ.

Hạnh nằm im trong giây lát rồi chồm người lên lấy chiếc ví tay của nàng trên đầu giường mở ra. Hạnh soi lại mặt mình trong chiếc gương nhỏ và chải lại những sợi tóc lòa xòa trước trán bằng chiếc lược nhỏ màu đen. Huấn yên lặng nhìn và chờ đợi. Sau khi để mọi thứ vào chỗ cũ, Hạnh nói:
- Được rồi, em sẽ làm. Nếu em không giết hắn thì hắn sẽ giết em. Em giết người để tự tồn và được tự do chung sống với anh. Anh nói đi.

Huấn nghiêm nét mặt:
- Này nhé, em hãy giả vờ như thể em bằng lòng trở về với hắn. Rồi em sắp đặt một ngày cho hai người đi ăn tối ở một nhà hàng nào đó bên hướng Tây Bắc. Em cố ép cho hắn uống rượu càng nhiều càng tốt, nhưng em đừng uống vì em sẽ là người lái xe về. Rồi khi xe chạy ngang qua cây cầu, em giả vờ như bị lạc tay lái, để chiếc xe bay qua thành cầu, bay thẳng xuống sông. Trước đó, em phải nhớ chuẩn bị hai điều: thứ nhất là khóa cánh cửa bên hắn; thứ hai là nhanh tay mở cánh cửa bên em khi chiếc xe vừa bay xuống nước. Như vậy em sẽ có thể thoát ra ngoài dễ dàng và nước sẽ tràn vào xe nhanh hơn. Hắn đã say ngất ngư thì không thể nào phản ứng kịp thời. Chỉ cần năm phút kẹt trong xe, linh hồn hắn sẽ vĩnh viễn rời khỏi xác. Còn em sẽ trồi lên mặt nước chờ đội cứu cấp tới.

Hạnh chăm chú nghe, nhưng chưa nói gì. Huấn bồi thêm:
- Cách này vừa dễ, vừa an toàn, em không phải trực tiếp cầm một thứ vũ khí nào để giết người. Không có bằng chứng nào để kết tội em, tất cả chỉ là do tai nạn.
- Anh nói đúng, cách này dễ quá, nhưng sao anh biết chắc là cảnh sát sẽ để yên cho em mà không điều tra?.
- Họ sẽ điều tra chứ em, nhưng em cứ bình tĩnh giữ đúng một lời khai như sau: đêm đó chồng em uống rượu quá nhiều nên em phải lái xe về. Khi xe chạy ngang trên cầu, chồng em đã bất ngờ giành giựt tay lái nên chiếc xe mất thăng bằng, lao xuống sông. Chồng em không thoát ra được nên chết ngộp trong nước, thế thôi. Đâu có ai làm nhân chứng.

Hạnh vuốt lưng Huấn:
- Có chứ anh.
- Ai?.
- Anh đây nè! Nhưng thôi, em chỉ nói chơi thôi. Anh có chắc là em sẽ không bị đi tù?.
- Em sẽ hoàn toàn vô tội, anh bảo đảm.
- Nhưng anh ơi, cảnh sát có trăm phương ngàn kế để tìm ra sự thật.
- Đâu phải vụ giết người nào họ cũng tìm ra hết đâu. Em còn nhớ anh đã nói rằng vợ anh chết do một tai nạn không?. Tai nạn hắn sắp chết cũng giống như tai nạn vợ anh đã chết vậy.

Hạnh mở mắt thật to:
- Nghĩa là anh đã giết vợ bằng cách đó và cảnh sát đã không kết tội được anh?.
- Đúng vậy.
- Tại sao anh giết chị ấy?.
- Trinh đã ngoại tình trong lúc anh vẫn yêu nàng hết lòng.
- Anh tàn nhẫn quá...
- Trinh đã tàn nhẫn với anh trước. Trinh đã giới thiệu với anh rằng gã đó là anh họ của Trinh và hắn vẫn thường ghé nhà chơi, kể cả những lúc không có anh ở nhà. Sau đó, anh khám phá ra, hắn chính là gã nhân tình cũ của nàng. Như vậy, mỗi lần hắn đến không có anh ở nhà thì hắn và Trinh đã làm gì?. Anh phải có thừa thông minh để hiểu rằng họ đã làm chuyện tồi bại chứ.
- Sao anh không chọn giải pháp ly dị?.
- Ly dị thì anh cũng là người thua cuộc, Trinh sẽ thuộc về hắn và hắn sẽ hưởng phân nửa tài sản mà anh phải chia cho Trinh.
- Anh có bắt quả tang lần nào chưa?
- Dĩ nhiên họ cũng phải thông minh để không bị bắt quả tang chứ em.
- Anh đã kết tội tử hình một người mà không có bằng chứng.
- Thôi em ơi, đừng nói chuyện đó nữa, hãy nói chuyện mình đi. Em có đồng ý giết hắn bằng cách đó không?.
- Đồng ý. Bây giờ em cần ngủ để mai còn tỉnh táo hành động. Anh cũng phải đi làm nữa. Ngủ đi anh.
- Mình ngủ.

***

Huấn đang ngồi trong văn phòng. Đột nhiên cánh cửa bị xô mạnh. Hai người đàn ông ập vào thật nhanh:
- Ông Nguyễn Minh Huấn, chúng tôi được lịnh bắt giữ ông vì tình nghi giết nguời.

Trong lúc mắt Huấn mở lớn, chiếc còng sắt lạnh lùng tra vào cổ tay Huấn kéo về phía sau lưng.
- Tôi không hiểu gì hết?.
- Ông có quyền giữ im lặng. Những gì ông nói, có thể được dùng để kết tội ông trước tòa án.

***

Trong phòng điều tra, Huấn được nghe lại một đoạn băng ghi âm, bắt đầu là tiếng nói của Hạnh:
“- Được rồi, em sẽ làm. Nếu em không giết hắn thì hắn sẽ giết em.” “Em giết người để tự tồn và được tự do chung sống với anh. Anh nói đi.”
“-Này nhé, em hãy giả vờ như thể em bằng lòng trở về với hắn…”

Cả người Huấn bắt đầu toát mồ hôi. Sắc mặt Huấn từ từ đỏ rần lên trong lúc tiếng nói của Huấn và Hạnh vẫn tiếp tục phát ra từ cuộn băng cho tới đoạn cuối cùng không sót một chữ nào của cuộc đối thoại đêm đó.
“- Đồng ý. Bây giờ em cần ngủ để mai còn tỉnh táo hành động. Anh cũng phải đi làm nữa. Ngủ đi anh.”
"- Mình ngủ."

Cuộn băng chấm dứt bằng một tiếng động khô khan, sắt lạnh. Huấn bàng hoàng cất tiếng:
- Thì ra... các ông đã... đặt máy ghi âm... trong phòng tôi?.
- Không. Hồ sơ của anh, chúng tôi đã xếp lại. Chúng tôi đã tin rằng anh là kẻ vô tội, nhưng một người khác đã căn cứ vào lá thư này mà nhất định rằng vợ ông chết không phải do tai nạn. Người đó đã bằng lòng bỏ tiền ra mướn thám tử tư tiếp tục cuộc điều tra. Ông có muốn đọc lá thư không?.
- Có.

Huấn bắt đầu lướt mắt qua những dòng chữ rất quen thuộc của Trinh.
" Em van anh đừng đến gặp em nữa. Anh nên cố gắng quên em. Em đã có chồng tức là em đã chọn cho mình một hướng đi rõ ràng. Tại sao anh không chịu hiểu như vậy?. Ly nước đã đỗ xuống đất, anh không thể nào hốt lại được. Huấn là một người chồng rất tốt, xứng đáng để cho em kính trọng. Em vô cùng hối hận vì đã giới thiệu anh là anh họ em, nhưng ngoài cách đó ra, em đâu thể nào nói anh là người tình cũ?. Em đâu ngờ là anh dám ngang nhiên đến gõ cửa tìm em trong lúc Huấn đang ở nhà. Tưởng đâu chỉ lần đó thôi, ai ngờ anh cứ tiếp tục đến, nhưng mà gặp nhau để làm gì nữa?. Anh vịn vào lý do là anh họ thì có quyền đến thăm, sai bét rồi anh ơi! Lương tâm em đang cắn rứt vì đã nói láo chồng em.

Gần đây, Huấn có thái độ khó hiểu lắm. Huấn không nói gì hết, nhưng em đoán là Huấn đã tìm ra việc em gian dối, lỡ rồi, em không biết phải làm gì. Đôi lúc, em có thể nhìn thấy trong mắt Huấn tia sáng của một kẻ sắp làm một việc gì đó khủng khiếp lắm, như giết người chẳng hạn. Huấn sẽ giết ai, anh hay em?. Từ giác quan thứ sáu, em linh cảm một điều nguy hiểm sẽ xãy ra cho em, không sớm thì muộn.

Anh hãy bỏ thành phố này, đừng bao giờ trở lại gặp em. Em van anh, trăm ngàn lần, hãy tìm quên ở một người con gái khác. Tình đã xa, anh đừng mong gì ở em nữa, coi như đây là lời cuối cho nhau. Vĩnh biệt".

Huấn buông thỏng cánh tay, lá thư rơi xuống đất. Nhân viên điều tra đi đến, cúi lượm lá thư lên và nói:
- Bây giờ tôi xin trả lời cho xong câu hỏi của ông lúc nãy: Văn phòng thám tử tư đã dựng lên một vỡ kịch. Trong đó, nam diễn viên là ông và nữ diễn viên chính là nữ thám tử mỹ miều, duyên dáng tên Hạnh. Cô ta đã thi hành công tác này quá tuyệt vời. Những gì ông nói đều được ghi âm, nhưng chỉ có đoạn băng ông vừa nghe là đáng giá thôi.
Huấn nhớ lại, Hạnh đã lấy ví tay trên đầu giường để soi gương và chải tóc khi chàng bắt đầu nói.


Hồng Hoang

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23678
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Aug/2021 lúc 9:46am

Ôm kín nỗi đau


Giữa sự hùng vĩ của thiên nhiên, Hằng cảm nhận được rằng đời người hay là những biến động trong cuộc đời, dù có lớn lao đến đâu chăng nữa, so ra cũng vô cùng nhỏ bé trước sự vô thường của vạn vật – huống chi căn bệnh Huntington’s disease trong cơ thể của nàng! Nhận ra được điều ấy rồi, Hằng cảm thấy dường như bao mối ưu tư/phiền muộn/sợ hãi trong nàng đang từ từ tan loãng như những vùng tuyết long lanh trên đỉnh núi cao. Hồn nàng nhẹ tênh, thơ thới trong sự yên bình của ngoại cảnh.
diep%20my

Rời Leavenworth – thuộc Washington state – bỏ lại phía xa dòng sông sủi bọt trắng xóa, Hằng đến làng Cashmere nhỏ bé nhưng đầy dấu vết của những cuộc Tây tiến thuở xưa. Vừa qua khỏi mấy cửa hàng trang trí như trong phim xi- nê “Cao- bồi”, Hằng bỗng nhận ra nàng đang lạc vào thế giới của cây táo (apple trees).

Qua khỏi khu vực trồng táo, thấy rừng thông xanh soi mình trên mặt nước và những chiếc du thuyền nhỏ nằm cạnh nhau bên mấy chiếc cầu gỗ, Hằng chợt nhớ đến một thành phố thân thương trên miền đất đỏ với mặt hồ câm nín/với đồi trà ngát hương/với rừng thông bạt ngàn.

Bên rừng thông xanh biếc ấy, mỗi khi Thuận – chồng của Hằng – từ đơn vị về thăm, đã nói với Hằng không biết bao nhiêu lời âu yếm. Rồi những buổi chiều, Thuận và Hằng lặng lẽ đi bên nhau trong tiếng thông reo cùng tiếng lá khô xào xạc dưới chân.

Năm 1975, sau khi Thuận đi tù cải tạo, cũng chính nơi rừng thông vắng lặng ấy, các con của Thuận và Hằng – Phượng, Thủy và Huân – vào cuối tuần hoặc ngày lễ, nghỉ học, thường đến nhặt nhánh thông khô về bán cho người ta làm củi.

Một buổi chiều, Thủy và Phượng đi lượm củi. Trên đường về Thủy bị một loại côn trùng chích. Thấy vết chích không chảy máu, Phượng và Thủy nghĩ rằng không hại gì, cho nên chẳng cho Hằng biết. Ðến khuya, vết chích sưng lên và đau nhức, Thủy khóc, Hằng mới biết.

Hằng đưa Thủy đến bệnh viện công cộng. Tại đây – vì Hằng khai Bố của Thủy đang cải tạo – y tá để Mẹ con nàng chờ cho đến sáng mà cũng vẫn không được đưa vào cho bác sĩ chẩn bệnh.

Trời sáng hẳn. Thủy vẫn nằm thiêm thiếp trên chiếc băng nhớp nhúa. Hằng vừa khóc vừa nhìn quanh. Bác sĩ và y tá bắt đầu đổi phiên. Bác sĩ Toàn đi ngang. Hằng “nhào” đến, khóc òa:

– Bác sĩ! Làm ơn cứu con tôi!

– Con chị đâu? Nó bị gì?

– Thưa bác sĩ, cháu bị con chi cắn mà vết thương sưng lên và đã trở màu. Mẹ con tôi chờ từ khuya đến giờ, không ai “ngó ngàng” gì tới cháu cả. Bác sĩ làm ơn cứu con tôi.

Bác sĩ Toàn vẫy tay, gọi y tá:

– Ðem con bé vào phòng cấp cứu ngay!

Hằng chịu ơn Toàn từ đó. Nhưng chị em Thủy lại tỏ thái độ chống đối rất mạnh mẽ mỗi khi Toàn kiếm cớ ghé nhà thăm bệnh cho Thủy để được nói chuyện với Hằng. Khi nào bị Hằng lừ mắt, bảo đi chỗ khác chơi, Phượng và Thủy cũng xúi cu út Huân chạy ra nhõng nhẽo với Mẹ.

Hằng không hiểu tại sao ngày ấy Huân thường nhõng nhẽo, vòi vĩnh đủ điều để Toàn bực mình phải đi về; còn ngày nay, trước sự phản bội của Thuận, Huân – trong lần từ Yale University về thăm nhà – đã trả lời Hằng:

– Con nghĩ Ba có thể nghe lời con trong những vấn đề khác; còn vấn đề tình cảm của Ba, làm sao con có thể xen vào được?

Vì lúc ấy Hằng chưa biết nàng mắc phải chứng Huntington’s disease cho nên Hằng muốn tìm mọi phương cách để giữ Thuận:

– Nếu con không khuyên giải, rủi Ba mê bà Ngọc rồi bỏ mẹ con mình, con nghĩ sao?

– Ba mê bà Ngọc, đó là quyền của Ba. Ba bỏ mẹ con mình, đó cũng là do ý của Ba, con đâu làm gì được! Con nghĩ đây là chuyện của Ba Mẹ, Ba Mẹ nên giàn xếp với nhau. Trong đời, chỉ có Ba và Mẹ là hai người con thương nhiều nhất; con không thể bênh người này mà bỏ người kia.

– Biết Ba làm điều sai mà con không bênh Mẹ được sao, Huân?

– Con không nói những gì Ba làm là đúng. Nhưng không phải vì những điều không đúng đó rồi con không thương Ba. Mẹ hiểu con muốn nói gì không?

– Con nói vậy, nếu gia đình mình đổ vỡ, con có vui không?

– Dĩ nhiên là con không vui; nhưng con cũng đâu làm gì được!

– Tại sao con không làm gì được? Con tìm lời khuyên Ba. Ba cưng chìu con, Ba sẽ nghe lời con. Ba sẽ vì các con mà trở về với gia đình, để gia đình khỏi tan vỡ.

– Con nghĩ, phải vì Mẹ mà Ba trở về thì Ba Mẹ mới có hạnh phúc. Còn nếu vì tụi con mà Ba trở về thì Ba Mẹ chỉ sống một đời gượng ép bên nhau thôi. Nếu Ba Mẹ không thương nhau nữa, hãy giải quyết với nhau một cách công bằng và êm thắm; đừng vì đàn con mà sống như tù ngục. Như trường hợp của Mẹ, Mẹ nên sống cho Mẹ, Mẹ không nên sống cho bất cứ người nào khác.

– Nếu Mẹ quan niệm giống như con thì ngày đó, từ trại cải tạo, Ba gửi thư về miệt thị Mẹ không tiếc lời, Mẹ đã chấp nhận bác Toàn là chồng rồi. Con nhớ không? Chính con không chấp nhận sự hiện diện của bác Toàn mà!

– Dạ, con biết. Con nhớ. Nhưng dạo đó con chỉ là đứa bé con, sống trong một môi trường khác cho nên nhân sinh quan của con tùy thuộc vào bối cảnh chung quanh. Bây giờ con hấp thụ nếp sống ở đây, lối suy nghĩ và cách hành xử của con linh động và thực tế hơn.

– Hay là con còn giận Mẹ về chuyện bác Toàn?

– Dạ không. Thật ra, dạo đó tụi con có buồn và giận Mẹ về việc bác Toàn. Nhưng, sau này nghĩ lại, tụi con thấy tụi con bất công đối với Mẹ. Giữa một xã hội mà người phụ nữ – nhất là những phụ nữ thuộc vào những gia đình khuê các như Mẹ – lúc nào cũng bị đặt vào vị thế thụ động và không bao giờ hấp thụ được tinh thần tự lập thì người phụ nữ đó làm được gì để nuôi con và nuôi thân khi bất ngờ người đàn ông trong gia đình không còn hiện diện? Vì vậy, con nghĩ, những người phụ nữ rơi vào tình cảnh như Mẹ đáng thương hơn đáng trách.

Không phải chỉ có Huân mới suy luận và phân tích vấn đề một cách vô tư và rộng lượng, mà ngay cả Phượng cũng có những ý nghĩ rất mới, rất thực tế, như hầu hết người trẻ lớn lên trong xã hội Âu- Mỹ.

Thật vậy, hôm đó, trong người không được khỏe, Hằng xin nghỉ làm, về sớm. Vào nhà bằng cửa sau, Hằng vô tình nghe tiếng Phượng từ trên lầu:

– Không phải con ăn hạt cơm do đồng tiền ông Toàn cho rồi con bênh Mẹ hay bênh ông Toàn. Nhưng ba nghĩ đi, Mẹ lấy ông Toàn để có tiền nuôi Ba trong tù, nuôi tụi con ăn học và dành dụm tiền đưa tụi con vượt biên, ai nỡ kết tội Mẹ?

– Ba không dính dấp gì đến đồng tiền thối tha, nhơ nhớp đó.

– Ba nhầm. Ba ở tù bao lâu và Mẹ đi thăm nuôi Ba bao nhiêu lần trước khi cô Hai viết thư mách Ba?

– Khốn nạn! Nếu biết vậy, tao thà chết chứ không thèm nhận một xu!

– Ba nói như vậy là Ba chỉ nói về phần Ba. Còn Mẹ và tụi con thì sao?

– Thiếu gì bà phải buôn gánh bán bưng mà vẫn nuôi chồng trong tù và nuôi con đi học.

– Con biết có nhiều phụ nữ Việt-Nam đáng qúy như vậy. Nhưng không phải bất cứ người phụ nữ Việt-Nam nào cũng có thể gồng, gánh, lao lực chân tay được. Mẹ là một trong những người rơi vào vị thế đó. Nhưng cái vị thế đó không phải do Mẹ tạo nên mà là do hoàn cảnh xã hội và quan niệm sống thời bấy giờ đã tạo nên. Ba nghĩ lại đi. Những người có địa vị như ba có bao giờ muốn, hoặc được Cha Mẹ chấp thuận, cho phép thành hôn với một cô gái ít học, lam lũ, con nhà nghèo hay không? Không! Lúc nào những người như Ba cũng muốn, hoặc bị gia đình ép buộc để thành hôn với những cô con nhà quyền thế, giàu sang, càng trưởng giả càng tăng phẩm giá. Trong những gia đình như vậy, người con gái thường ỷ lại; vì lúc nào cũng có người khác để sai bảo/để nhờ cậy. Ðến khi lấy chồng, người chồng vì tự ái, vì muốn nắm quyền trong gia đình, không cho vợ đi làm. Như vậy, người phụ nữ có được chuẩn bị để đối phó với những bất trắc khi người đàn ông bất ngờ khuất bóng hay không?

Im lặng. Hằng hồi hộp chờ tiếng quát tháo của Thuận; nhưng tiếng Phượng lại vang lên:

– Thưa Ba! Mỗi khi gặp bạn, Ba thường khoe rằng tụi con học tại các đại học danh tiếng của Mỹ. Những lúc đó, có bao giờ Ba nghĩ đến sự hy sinh và sự chịu đựng của Mẹ hay không?

– Con thử đi hỏi tất cả người Việt-Nam xem có ai nói người vợ ngoại tình trong khi chồng ở tù mà lại được gọi là hy sinh thì con sẽ có câu trả lời.

– Ba! Hồi đó Ba cưới Mẹ là Ba cưới vợ cho Ba hay là Ba cưới vợ cho người Việt- Nam?

– Ba tiêm nhiễm tư tưởng Khổng Mạnh. Con ảnh hưởng lối suy nghĩ của người Tây phương. Cha con mình không nên bàn luận về vấn đề này nữa.

– Con nghĩ, thà mổ xẻ vấn đề để đi đến kết luận chứ Ba tìm cách tránh né cũng không được.

– Vấn đề con muốn mổ xẻ là vấn đề gì?

– Vấn đề giữa Ba, Mẹ và bà Ngọc. Con nghĩ, giữa hai người đàn bà Ba chỉ có quyền chọn một, để người kia còn lo liệu cho tương lai của người đó. Ba không nên – cùng một lúc – làm khổ hai người đàn bà.

Sau một thoáng im lặng, Phượng tiếp:

– Ba không thể thương yêu Mẹ được nữa vì một người đàn ông khác đã đi qua đời của Mẹ, đúng không?

Thuận gật đầu. Phượng cười:

– Vậy thì, Ba cho con hỏi, bà Ngọc đến với Ba trong tư thế nào? Bà Ngọc cũng đã có chồng có con, nghĩa là cũng đã có đàn ông đi qua cuộc đời bà ấy rồi, tại sao Ba lại chấp nhận?

– Ông bà mình có câu: “Lấy đĩ về làm vợ; không ai lấy vợ về làm đĩ” con biết không?

– Con nghĩ, nếu trong khi đang sống yên ấm với chồng con mà người đàn bà lang chạ thì nên lên án. Còn nếu, ngoài lũ con dại, người chồng không để lại cho vợ bất cứ điều chi khác, người vợ phải chịu làm đĩ nuôi con ăn học thì đó là người phụ nữ biết hy sinh, biết sống cho người khác. Ba không nên quan niệm rằng người phụ nữ được sinh ra chỉ để sống và chết cho một người đàn ông!

Thuận lại thở dài, im lặng. Phượng kết luận:

– Ba đừng giận con. Con chỉ nói những gì con nghĩ chứ không phải con cố tình nói để Ba tha thứ cho Mẹ; vì Mẹ chẳng có lỗi gì để Ba phải tha thứ. Lỗi là lỗi ở xã hội và lỗi ở Ba; vì không ai trang bị cho những phụ nữ như Mẹ số hành trang cần thiết trước khi “thảy” họ vào đời!

Hằng cảm thấy ấm lòng khi nghe những lời chí tình của Phượng. Nhưng, sau khi bác sĩ cho biết kết quả thí nghiệm, không biết bao nhiêu đêm Hằng khóc một mình và cũng không biết bao nhiêu lần Hằng muốn nói với Thuận. Nhưng, nghĩ lại, Hằng đã gây ra ấn tượng nhơ nhớp trong lòng Thuận; nay, Hằng không muốn Thuận thấy cơ thể của nàng phải chịu sự hủy diệt khủng khiếp của căn bệnh này! Và Hằng cũng không dám nói với các con; vì Hằng cảm thấy như Hằng có lỗi với các con, dù rằng Hằng chưa biết các con có thể bị di truyền mầm mống của căn bệnh quái ác này hay không! Và đó là điều xâu xé tâm hồn Hằng nhiều nhất.

Hằng tiếp tục cuộc ngoạn cảnh bằng tỉnh lộ 13, rồi quẹo trái, vào xa lộ 153. Cuối cùng, Hằng dừng xe ngay giữa làng Winthrop. Nơi đây, du khách và người địa phương – trong những chiếc quần jeans bó sát hoặc cắt ngắn và những đôi dày cao cổ – cứ thư thái đi hoặc đứng/ngồi ngay trên vỉa hè bằng gỗ. Âm vang những bản dân ca được ban nhạc sống trình bày thoát ra từ một “saloon” như làm sống lại những nét hào hùng của thời chinh phục miền viễn Tây.

Rời Winthrop, Hằng theo xa lộ 20, tiến về núi Liberty Bell. Vừa xa hồ Ross bằng một khúc quanh, Hằng chợt bàng hoàng trước màu xanh lạ lùng của mặt hồ Diablo phía dưới xa.

Hằng rẽ vào hồ Diablo. Nhìn mấy đỉnh núi tuyết vây quanh hồ Diablo, Hằng bỗng lặng người khi thấy tuyết trên đỉnh Pyramid mang tất cả góc cạnh của khuôn mặt một người đàn ông da đỏ đang ngẩng mặt nhìn trời. Nghĩ rằng mình giàu tưởng tượng, Hằng đổi vị trí trong khi một áng mây mỏng sà xuống đỉnh Pyramid. Khi Hằng nhìn đỉnh Pyramid từ vị trí mới thì chính áng mây mờ đã tạo nên những đường nét thống hận, uất hờn trên khuôn mặt và ánh mắt của người đàn ông da đỏ!

* *

Bên khóm thông già nơi khúc quanh của dòng Skagit êm đềm, Thuận và Hằng yên lặng ngồi bên nhau, trên bậc cấp bằng đá, phía sau căn nhà Hằng thuê.

Biết Hằng đang ngắm chú chim Hummingbird vờn quanh đóa hoa dại màu đỏ chứ chẳng để ý chi đến chàng, Thuận thở dài, trầm ngâm. Từ hôm qua đến giờ, đầu óc Thuận quay cuồng với không biết bao nhiêu điều khó nghĩ.

Khởi đầu, Hằng bảo nàng muốn dùng hai tuần phép thường niên để đi chơi xa một mình, Thuận rất hài lòng; vì Thuận nghĩ Thuận sẽ được tự do vui thú với Ngọc. Vài hôm sau Hằng điện thoại về, bảo Hằng thích ở lại Newhalem, Thuận cứ đinh ninh rằng Hằng ghen, giận, bỏ đi xa, nay gọi về làm “nư”, dọa Thuận. Khoảng hơn một tuần sau, Hằng lại gọi về, bảo đã tìm được việc làm và có chỗ ở tốt, Thuận cảm thấy hụt hẩng như chàng vừa mất một cái gì thân thiết lắm!

Thuận đưa các con đến năn nỉ Hằng về. Và Thuận tự tin rằng Hằng sẽ cảm động và vui sướng để trở về; vì được Thuận “xuống nước” năn nỉ. Nhưng khi Hằng từ chối mà không viện dẫn lý do chính đáng, các con không thắc mắc; vì thấy quả thật Hằng có việc làm tốt, nơi trọ an ninh. Và điều quan trọng nhất là các con nhận thấy Hằng không còn vẻ đau khổ như lúc ở nhà với Thuận.

Thuận lại khác. Sau nhiều lần thuyết phục Hằng không được, hôm nay Thuận chẳng biết phải nói gì/làm gì để Hằng đổi ý trước khi Thuận đưa các con trở về để kịp sáng mai các con trở lại trường.

Trong khi Thuận và Hằng ngồi bên nhau như hai pho tượng thì, nơi khúc sông cạn, Thủy và Huân – với chân trần và quần jeans xắn cao – đang bước nhè nhẹ, tìm nhặt những viên đá cuội nhỏ xíu, hình tròn. Và bên kia bờ, trên phiến đá phẳng, Phượng ngồi đọc sách, chân đong đưa trong dòng nước.

Lâu thật lâu, Thuận quay sang, gọi “Hằng!” Hằng nhìn Thuận. Thuận tiếp:

– Anh đồng ý với em. Khung cảnh nơi đây rất thích hợp với những người thích thiên nhiên và ưa sự tĩnh lặng, như em. Nhưng làm thế nào dòng sông đầy đá cuội và mấy đỉnh núi tuyết vô hồn kia lại có thể thay thế được anh và các con, trong lòng em?

– Em đã giải thích tất cả với anh và các con rồi. Các con đã chấp nhận một cách dễ dàng và bình thản, tại sao bây giờ anh lại cố tình làm cho em áy náy?

– Anh còn thương em, Hằng ạ! Nhưng anh không ngờ, đối với em, anh không còn là gì cả!

Hằng không còn trầm tĩnh được nữa, vội bậm môi, cúi mặt để khỏi bật khóc. Khuya hôm qua, trong căn nhà trọ một phòng ngủ, lúc rón rén xuống bếp uống nước, Hằng thấy Thuận nằm đâu chân với Huân trên chiếc xa-lông hình chữ “L”. Hằng kéo mền đắp cho Huân và Thuận. Chính lúc đó Hằng cảm thấy thương Thuận vô cùng, chỉ muốn ôm Thuận mà khóc/mà san sẻ niềm sợ hãi/nỗi đau thương nàng đang âm thầm gánh chịu. Nhưng chợt nhớ đến Ngọc, lòng Hằng bỗng lạnh băng! Hằng lủi thủi trở vào phòng nằm với Phượng và Thủy. Bây giờ nghe giọng Thuận như than van, Hằng lại mềm lòng, chưa kịp thố lộ nỗi lòng thì Thuận tiếp:

– Hằng! Em biết tính anh. Chưa bao giờ anh năn nỉ ai; vậy mà anh đã năn nỉ em hết lời rồi. Bây giờ, em hãy trả lời dứt khoát: Em có còn tý tình cảm nào cho anh và các con hay không?

Hằng lại cúi mặt, quẹt nước mắt. Hằng biết, nếu nàng “thua cuộc” bây giờ thì bao nhiêu ước muốn/bao nhiêu dự tính của nàng từ bấy lâu nay sẽ vỡ tan! Và trong tương lai gần, với căn bệnh bất trị của nàng, nàng cũng sẽ là kẻ “bại trận” trong cuộc “chạy đua” với Ngọc để giành tình yêu của Thuận! Thôi, chi bằng nàng can đảm thêm tý nữa để sau này khỏi phiền lụy các con và cũng để giữ mãi trong lòng Thuận hình ảnh xinh đẹp của nàng trước khi căn bệnh Huntington’s disease tàn phá cơ thể nàng. Hằng quyết liệt:

– Em phải sống cho em nữa, anh ạ!

Thuận đứng lên, gằn giọng:

– Phải rồi! Qua đây học đòi theo cá nhân chủ nghĩa của Mỹ, bà nào cũng đòi sống cho mình. Hèn chi đàn ông Việt-Nam về xứ cưới vợ “rần rần”!

Nói xong Thuận giận dữ bỏ đi về phía dòng sông, gọi các con ra xe, chuẩn bị đi về.

Nhìn theo Thuận, Hằng không giận cho sự hiểu lầm của Thuận mà Hằng lại cảm thấy tái tê trong hồn, nước mắt cứ lặng lẽ rơi. Nhưng, chỉ một chốc sau, niềm xúc động lắng xuống, Hằng lau nhanh nước mắt, cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng; bởi vì, nếu Thuận cứ tiếp tục năn nỉ, ngọt ngào, Hằng không hiểu nàng có thể ôm kín nỗi đau được bao lâu nữa!

Xa xa, Phượng, Thủy và Huân vừa bước lui vào bờ theo tiếng gọi của Thuận vừa nhìn lại dòng Skagit lặng lờ như còn luyến tiếc niềm vui riêng!

                                                                                                                                          ĐIỆP MỸ LINH



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Aug/2021 lúc 9:47am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23678
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Aug/2021 lúc 2:11pm


 

Vậy đó! Rồi mùa hè cũng lẳng lặng qua đi tự lúc nào. Hạ qua, nắng ấm nay nhường bước, trao trả mùa thu ngọn gió thu. Thu mới vào thu, gió lạnh hơn. Những ngày vàng ánh nắng trên phương bắc, dạo này không còn nắng ấm của mùa hè. Nắng đấy, nhưng trong nắng có gió se lạnh trên làn da trần. Mới mấy tuần trước còn nóng oi bức của mùa hè, hôm nay gió thu mơn man trong nắng. Nếu có lơ đãng với thời gian, người ta cũng nhận ra: tiết trời đã vào mùa thu. Mùa thu nơi đây, trở về như hẹn ước.

Hạ đi!

Thu về!

Mùa thu thường gợi nhắc những vần thơ tình tứ. Thuở trước, khi miền Nam mình còn tự do, còn Sài Gòn, học sinh trung học đều có học về văn, văn trong Tự Lực Văn Đoàn, có học về thơ, thơ của Xuân Diệu. Thơ Xuân Diệu là một trong những bài học về loại thơ tiêu biểu cho những vần thơ mới. Mùa thu trong vần thơ mới; người ta nhớ ngay đến tựa bài thơ của Xuân Diệu, bài “Đây Mùa Thu Tới”:

“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.

Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá...
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.

Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ...
Non xa khởi sự nhạt sương mờ...
Đã nghe rét mướt luồn trong gió...
Đã vắng người sang những chuyến đò...

Mây vẩn từng không, chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì.”

Thu về mang nguồn cảm hứng mênh mông, là đề tài quyến rũ thi nhân, văn nghệ sĩ. Cảnh sắc mùa thu mỗi nơi, mỗi thời, tuy có tương tự như nhau, nhưng lòng người thì mỗi khác. Mùa thu trong thơ văn đều có vẻ đẹp, nét nên thơ riêng biệt. “Đây Mùa Thu Tới” của Xuân Diệu có khác, có nhiều nét tuyệt diệu. Ngoài thơ về mùa thu, Xuân Diệu còn có bài thơ "Gởi Hương Cho Gió", với những câu như sau:

“Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm
Đem gửi hương cho gió phũ phàng!
Mất một đời thơm trong kẽ núi,
Không người du tử đến nhằm hang!”

Cả hai bài “Đây Mùa Thu Tới” và “Gởi Hương Cho Gió” đều được Xuân Diệu sáng tác trước năm 1945. Thế nhưng, từ năm 1945, sau khi Xuân Diệu vào đảng, thì thật là khó mà nhận ra được thơ của Xuân Diệu ngày nào. Hãy thử đọc qua một đoạn trong bài thơ có tựa đề là Gánh:

“Người gánh gánh của chúng tôi: là Đảng.
Người gánh gánh với chúng ta: là Đảng.
Người gánh ta, ta gánh Người: là Đảng.
Người gánh đất, Người gánh trời: là Đảng.
Ôi ngời ngời Đảng Cộng sản Đông Dương,
Đảng Lao động Việt Nam, là một đó…”

Thế đấy!

Thật đáng tiếc, sau năm 1945, những giòng thơ trữ tình cùng hồn thơ Xuân Diệu, không ngờ lại giống như lời thơ do chính ông ấy viết trong bài "Gởi Hương Cho Gió", từ những năm trước. Thật vậy, cánh hoa đẹp của Xuân Diệu đã giống như “biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm” đã… “đem gửi hương cho gió phũ phàng” đã…“mất một đời thơm trong kẽ núi”, hay… hang động nào đó!

Từ đó, Xuân Diệu không còn là Xuân Diệu, một Xuân Diệu khi con người cùng với hồn thơ chưa nhuộm màu máu đỏ oan khiên!

Thu về, tiếc thay cho Xuân Diệu của “Đây Mùa Thu Tới”!

Thu về.

Rồi lá thay màu!

Thu trở lại, mang theo nuối tiếc lẫn ngỡ ngàng, như màu lá thay màu, như lòng người. Người ta chóng quên hay lòng người cũng thay màu, đổi sắc!

Có lá, thay màu theo mùa. Có lá, vẫn giữ màu xanh thẫm. Thông không chịu đổi màu lá xanh cố hữu; mặc tình cho những hàng cây quanh mình, xôn xao trong gió, khoe sắc lá đang chuyển từ màu vàng sang đỏ. Thu sang, người ta thích làm dáng, tạo nụ cười trên môi, long lanh trữ tình trong ánh mắt, để được ống kính thu giữ hình ảnh mình cùng hàng cây đang đổi màu lá; trước khi sắc ánh rực rỡ, mà chóng tàn ấy, sẽ rơi rụng, chỉ còn trơ trụi cành sau vài cơn gió mạnh.

Nắng về chiều, ánh vàng nhạt yếu ớt len qua khung cửa kính của nhà hàng. Hãy còn khá sớm, chưa đến giờ ăn chiều, nên bên trong nhà hàng chưa thấy đông khách cho lắm.

Rồi cửa mở, hơi gió lạnh từ bên ngoài được dịp theo những người khách mới, lùa vào. Bốn người bước nhanh vào bên trong nhà hàng, rồi ngồi vào bàn, theo lời mời của nhân viên tiếp đón.

Không biết có phải chiều thu làm lòng người chùng xuống!

Bốn người khách mới đến, ngồi yên lặng một lúc rồi mở thực đơn, lướt qua tên thức ăn. Chốc sau, mâm thức uống được mang đến bàn trước, và gia đình tuần tự đặt thức ăn chiều.

Uống thêm hớp cà phê, người đàn ông để tách xuống, nhìn ba mẹ con ân cần thăm hỏi:

- Sao... mẹ con đi chơi có vui không?

- Dạ, cám ơn Ba… cũng được!... À… cũng may đó Ba, Ba để mẹ và con đi bộ vào chợ, chứ không thì… chưa chắc Ba quay xe trở ra ngoài, để đi công chuyện được đó...

Nghe con mình nói thế, người đàn ông ngạc nhiên:

- Ồ! Sao vậy... hồi sáng, Ba thấy lối vào chợ cũng bình thường, không đông xe cho lắm?!

Cô gái nhanh nhẹn giải thích với người cha:

- Dạ đúng vậy Ba, nhưng chỉ vài phút sau thì… có chuyện xảy ra, xe không được chạy ra, và cũng… bị cấm chạy vào luôn, đó Ba...!

Như tên gọi, khu chợ này nằm trên một đảo nho nhỏ, bên dưới chân cầu có cùng tên. Đây là nơi có một số cơ xưởng lớn, nhưng được biết đến nhiều hơn, như là nơi mua sắm, ăn uống, hay vui chơi, ngắm cảnh sông nước ... Qua đoạn đường ngắn hai chiều, duy nhất, để ra và vào, lối xe chạy trở thành đường một chiều, theo ba cạnh của hình tam giác. Xe phải chạy gần như trọn vòng đảo, mới trở ra ngả ba, để rời khỏi khu chợ.

Thấy ánh mắt cha ngạc nhiên, chờ được biết thêm chuyện, cô gái lớn ngồi gần cha khẻ tiếp lời em:

- Dạ... có người… nhảy từ trên cầu… xuống đường xe chạy bên dưới...!

Câu chuyện ngưng lưng chừng. Bốn người chợt yên lặng.

Một lúc sau, người cha hỏi nhỏ:

- Tự sát à...?!

Người mẹ và hai cô gái nhìn nhau, rồi nhẹ gật đầu.

- Sao… đến thế?!

Ông ta lầm thầm như tự hỏi, rồi âu lo nhìn ba mẹ con:

- Mẹ và hai con… chắc không chứng kiến?!

- Dạ không, Ba!...

- Dạ … cũng may mắn!... mẹ và con chỉ hay biết tin, sau đó mà thôi!

Không gian chừng như ngưng đọng. Đâu đây có tiếng thở dài.

Thức ăn chiều mang đến. Họ nhận dĩa thức ăn của mình, khẻ mời nhau ăn. Hương vị thức ăn hấp dẫn, nhưng bửa ăn chiều nay không có tiếng rộn ràng của dao nĩa, cùng tiếng cuời, tiếng nói, như những thực khách ở hai bàn gần đó. Không nghe ai hỏi han, hay nói chi thêm về những gì không vui đã xảy ra. Nhưng chắc hẳn, hãy còn lắm bâng khâng, ngậm ngùi cho số phận của người bị đưa đẩy đến ngỏ cụt.

Con người, ở thời đại nào và ở đâu, cũng có khổ!

Nhưng cái khổ cũng có trăm thứ khác nhau. Người ta khổ vì sức khoẻ, sự nghiệp hay vì tình yêu, danh vọng…. Còn ở đất nước như Việt Nam hiện nay, người ta phải chịu đủ thứ khổ.

Khổ đủ thứ!

Chẳng những khổ vì miếng cơm manh áo, sức khoẻ, mà còn khổ vì sự sĩ nhục; khổ vì… không được sống như một con người, như mọi người.

Khi kẻ cầm quyền có quá nhiều quyền lực, lắm tiền của, thì họ muốn gì cũng được. Họ là luật pháp! Ngược lại, dân chúng trở thành người bị tước đoạt quyền căn bản được sống, được làm người!

Cánh cửa hé mở. Người đàn ông khép nép bước vào. Người khách hỏi nhỏ nhân viên tiếp tân gần cửa đôi câu, rồi bước vội ra ngoài. Ông đứng tựa vách tường, bên cửa ra vào, lần tay móc vét hết số tiền trong túi áo lạnh, cho vào nón và tẩn mẩn đếm một lúc, rồi quay trở vào trong nhà hàng.

Theo sau nhân viên nhà hàng, hai tay giữ cái nón đựng mớ tiền, người khách bước đi xiêu vẹo, khó nhọc, với chân trái có vẻ không bình thường. Gió thu se lạnh từ bên ngoài len vào, thoang thoảng trong hơi ấm của phòng ăn. Cái áo lạnh mùa đông cũ kỹ, rộng lớn quá khổ; làm thân người đàn ông đã ốm yếu, trông càng ốm lỏng thỏng bên trong. Người khách mới, chọn một bàn trong góc phòng. Không biết vì mắt kém, hay ngại ngùng muốn tránh ánh mắt của tất cả các thực khách trong phòng; hai cánh thực đơn trên tay người khách mới đến gần như che trọn khuôn mặt của mình, chỉ còn chỏm tóc bù xù nhô bên trên bìa thực đơn. Người khách cứ giữ thực đơn che mặt mình như thế, cho đến lúc phải hoàn lại, sau khi đã chọn và gọi xong món ăn.

Bên trong nhà hàng kín gió, yên ấm. Đưa tay khép vành nón che giữ mớ tiền giấy và đồng kim loại, người khách liếc nhanh qua những người trong phòng, rồi cởi chiếc áo lạnh mùa đông dày cộm ra, để trên nệm ghế bên cạnh mình. Tựa càm giữa hai lòng bàn tay đang che hai bên mặt mình, ông ta ngồi gục đầu, dáng người như mang nặng ưu tư, ánh mắt lang thang cùng những hoa văn trang trí in trên mặt khăn trãi bàn, chờ thức ăn.

Ít khách, nhà bếp làm thức ăn nhanh nhẹn. Không mấy chốc, dĩa thức ăn đầy ấp mang đến bàn. Vị khách mới đến cúi mặt ăn trông thật ngon miệng. Thức ăn trong nhà hàng, chắc hẳn phải ngon hơn những gì xin được, hay tìm được ngoài hè phố. Trong mùi gà và khoai chiên vàng thơm phức mới mang đến, có lẫn mùi riêng của người khách không nhà, không có nơi chăm sóc cho áo quần và thân thể mình; như những người may mắn hơn, họ có nơi chốn nương tựa và yên ấm. Cái mùi có thể làm người kế cận không vừa ý, nhưng lại rất quen thuộc với người lính trận. Mùi của những bộ quân phục đã ướp trộn mồ hôi cùng mưa bùn, khô đi rồi lại ướt sũng,… áo quần chưa được giặt!

Thấy bàn mình đã ăn xong, người cha hỏi ý vợ con:

- Chắc mình đi được rồi?!

- Dạ!... Dạ được, Ba!

Ngẫm nghĩ một lúc, ông ta ngần ngại hỏi ý kiến hai đứa con:

- Ba nghĩ, mình… nên rời nhà hàng sớm, để… kín đáo trả tiền bửa ăn này cho… vị khách mới đến, nhưng… không biết có nên không? Và… mình… có xúc phạm đến ông ấy không?

Cô gái ngồi bên cạnh cha nhanh nhẹn nói:

- Không sao đâu Ba, mình nên giúp ông ấy lắm!

Gia đình đứng dậy, rời bàn ăn.

Đưa thẻ tín dụng cho con, ông ta nói:

- Ba mẹ và em đi ra xe trước chờ con. Con giúp ba mẹ đến trả tiền cho bàn mình, cùng với bàn vị khách mới đến.

Trong không gian rộng này, chỉ còn lại lưa thưa vài bàn có khách ngồi.

. . .

Ngày đang ngắn lại dần!

Mới hơn năm giờ chiều; chiều thu nơi đây không còn ánh mặt trời.

Mùa thu… trời u uất, chia ly!

Lá vàng đi và rơi rụng. Gió se sẻ đưa lá bay. Lá lao chao rơi trông thật buồn. Bên những lá đỏ úa nằm trên mặt đất ướt lạnh, có những chiếc lá mới nhuốm màu, hãy còn vương sắc xanh của nhựa sống.

Bùi Đức Tính
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23678
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 23/Aug/2021 lúc 9:52am

Văn GHEN... Nhạc: Romance-   <<<<<

Đây%20mới%20là%20người%20đàn%20bà%20ghen%20một%20cách%20bản%20lĩnh%20đến%20xuất%20sắc,%20chồng%20thì%20sợ%20%20mà%20tình%20địch%20cũng%20phải


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 23/Aug/2021 lúc 9:58am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 200 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.566 seconds.