Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: NHÓM 12 YÊU THƯƠNG Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 159
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23782
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 08/Jul/2025 lúc 3:37pm

Tự Truyện Của TÍM 

5508%20TuTruyen%20CuaTimDiepMyLinh

 Một chiều Hè im vắng bên dòng sông Cái Lớn. Theo hướng gió mơn man trên rừng dừa nước, Tím đẩy mái chèo một cách khoan thai, nhẹ nhàng. Chiếc xuồng nhỏ rẻ nước, lặng lờ trôi ngang đồn Nghĩa Quân. Tiếng đàn và tiếng hát nghe văng vẳng xa xa. Khi xuồng đến gần, Tím thấy một người lính đang ôm “cây đàn số 8” – do trẻ em trong làng đặt tên; vì không đứa nào biết cây đàn này tên là Guitar mà chỉ thấy thùng đàn giống như số 8 – ngồi trên hầm chống pháo kích. Người lính cứ say sưa hát:
“… Anh nhớ xót xa dưới tre là ngà
Gợn buồn nhìn anh em nói: ‘Thương anh!” (1)
       Không thể nào Tím hiểu được ý nghĩa của lời ca. Nhưng giai điệu thiết tha, êm đềm của dòng nhạc cùng với âm thanh trầm trầm của “cây đàn số 8” và mấy tiếng “anh nhớ” và “thương anh” gieo vào lòng nàng thôn nữ – vừa đến tuổi dậy thì – nhiều ước mơ và mộng tưởng. Tím muốn “ủi” xuồng vào bờ để nghe “cho đả”; nhưng chợt nhớ, quanh đồn là khu vực quân sự, cấm lai vãng, Tím đành phải vừa chèo chầm chậm vừa lắng nghe. Bất ngờ người lính trên vọng gác chỉa súng xuống, nói lớn:
-Tránh xa! Đừng tới gần!
       Tím giật mình, hơi hoảng sợ. Chợt nhớ, mỗi lần Việt cộng về làng thu thuế hoặc dọa nạt/dụ dỗ trẻ em và người làng đi theo quân “giải phóng”, Mẹ thường đem gạo/đường/cá khô, v.v… “ủng hộ” thì Việt cộng để gia đình Tím yên. Tím bắt chước Mẹ, cố nói lớn cho người lính gác nghe:
-Dạ, tui muốn biếu các anh mấy trái khóm ăn lấy thảo.
-Không được đâu. Tránh xa đi!
-“Xời”! Khóm ngọt như đường phèn …
      Tím nói chưa dứt câu, chợt thấy người lính ngồi đàn trên hầm chống pháo kích ngưng đàn, ngẫng mặt, hỏi người lính trên vọng gác:
-Cái gì vậy, Lộc?
-Dạ, không có gì đâu, thiếu úy. Cô ấy muốn biếu mấy trái khóm mà em không nhận.
Quay sang, thấy khuôn mặt ngây thơ của Tím, thiếu úy nói:
-Cảm ơn em. Nếu em bán thì chúng tôi mua, trả tiền sòng phẳng; còn cho thì chúng tôi không nhận.
-Mỗi ngày xuồng của tui chở khóm ra Tắc Cậu bán sĩ; tui đâu biết mỗi trái giá bao nhiêu mà bây giờ thiếu úy biểu tui bán lẻ?
-Nếu em không bán thì chúng tôi không thể nhận khóm.
Tím chỉ tay về khóm cây ngoài vòng kẽm gai:
-Cho tui “tấp” xuồng vô chỗ bụi cây kia, tui đưa mấy trái khóm rồi thiếu úy cho tui “nhiu” thì cho.
-Vâng. Em tấp xuồng vô chỗ đó đi.
       Thiếu úy dựa Guitar vào ụ đất rồi mở cổng đồn, đi về phía khóm cây. Tím ngẫng nhìn thiếu úy và thấy bảng tên Nguyễn Dân. Nhiều quân nhân tò mò đến gần Dân. Sau khi Tím lấy 5 trái khóm để lên bờ, Dân lục tất cả túi áo, túi quần lấy tiền ra rồi xòe tay lượng định xem số tiền đó có thể đủ trả cho 5 trái khóm hay không. Thái độ của Dân làm cho mấy anh lính cười rộ lên; rồi mọi người đều lục túi lấy tiền, trao cho Dân. Dân đến bên xuồng, căn dặn Tím:
-Đây là số tiền tượng trưng của chúng tôi để cảm ơn lòng tốt của em. Em cẩn thận. Lần sau, nếu chèo thuyền qua đây, em nhớ chèo xa xa một chút để tránh rủi ro.
Tím thiệt thà quá đổi:
-Dạ, tui biết mà. Nhưng lâu quá “hỏng” được nghe tân nhạc, chiều nay nghe thiếu úy hát bài gì hay “wá”, tui muốn nghe “cho đả” nên “tấp đại” gần bờ chút mà!
Nhóm lính trẻ lại cười rộ lên. Dân vừa trao tiền cho Tím vừa cười:
-Cảm ơn em. Em cầm tiền đi!
-Tui “hỏng” dám lấy tiền đâu, thiếu úy!
-Lúc nãy em đồng ý rồi. Nhớ không?
Tím thở dài, miễn cưỡng nhận tiền.
       Về đến làng, chưa kịp “tấp” xuồng vào bờ, Tím đã thấy thằng Búng đang ngồi “chàng hãng” trên đất, vót cây. Thấy Tím đang cột xuồng vào cây cọc, Búng vội để rựa và cây nhọn xuống, vừa chạy đến bên Tím vừa bảo:
-Mày để tao cột cho. Tay mày yếu xìu, cột không chặt, rủi trời mưa, nước “dưng” cao, xuồng sút giây, trôi mất đó, mày!
Tím chưa kịp đáp, Cha của Tím từ trong nhà bước ra, bảo:
-Búng! Tao nói với mày mấy lần rồi, đừng chơi với con Tím nữa!
Búng sừng sộ:
-Tui giúp nó chớ bộ tui … ăn thịt nó sao mà làm dữ vậy?
Cha của Tím bước đến, vừa giật sợi giây dừa từ tay Búng vừa nói:
-Tao cấm mày chơi với con Tím. Mày nghe chưa, Búng?
       Búng quay đi với thái độ giận dữ. Tím im lặng theo Cha vô nhà, lòng thắc mắc, không hiểu tại sao Búng là bạn của Lắm – anh của Tím – mà Cha lại không thích Búng. Vừa vào nhà, Cha đóng cửa lại, hỏi:
-Tím! Có khi nào thằng Búng hỏi mày về thằng Lắm không?
-Dạ, hồi anh Lắm mới đi, nó hỏi một hai lần gì đó; rồi thôi.
-Mày trả lời sao?
-Thì con nói như Cha Mẹ dặn là ở đây khổ quá, anh Lắm trốn nhà đi bụi đời.
-Nó có hỏi gì nữa không?
       Tím lắc đầu. Cha thở dài nhè nhẹ. Sự thật thì – dù có đồn Nghĩa Quân nơi ngã ba và Nghĩa Quân trong đồn thường phục kính ban đêm và đi tuần ban ngày – tình trạng an ninh trong làng cũng vẫn bất ổn. Vì, ban ngày Việt cộng trốn trong hầm, dưới mấy vườn khóm, các đơn vị Nghĩa Quân đi tuần, đi kích không thấy hoặc không biết được. Ban đêm Việt cộng chia ra từng nhóm nhỏ: Nhóm này ra tỉnh lộ đặt mìn để sáng xe đò chạy qua, bị nổ, chết người, giao thông bị gián đoạn; nhóm kia vào làng bắt dân đóng thuế hoặc buộc dân làng “ủng hộ” bất cứ thứ gì Việt cộng thấy được; nhóm khác chiêu dụ hoặc cưỡng bức trẻ em đi theo “giải phóng” để làm “anh hùng”; nhóm khác nữa lo đặt mìn trong lòng sông để tàu của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) bị nổ, chìm, v.v… Vì muốn Lắm có tương lai và cũng vì lo ngại Lắm sẽ bị Búng dụ dỗ theo Việt cộng, Cha Mẹ của Lắm lén cho Lắm qua Rạch Giá, ở nhờ nhà người Chú để đi học. Khi rảnh và cuối tuần Lắm đi chài lưới với Chú. Nhưng nếu ai hỏi về sự vắng mặt của Lắm, gia đình đều bảo là Lắm trốn đâu “mất biệt”, có lẽ theo du đảng.
       Dân làng vừa hết thắc mắc về Lắm thì bắt đầu chú ý đến lời nói và hành động hơi là lạ của Búng; vì thấy Búng thường chặt cây, vót nhọn như là làm bàn chông để bẩy thú vật và đôi khi Búng vắng nhà cả tuần; nhưng vì sợ Việt cộng và Búng trả thù, không ai dám nói ra. Đó là lý do Cha Mẹ của Tím rất lo lắng khi thấy Búng cứ “rà rà” muốn kết thân với Tím.
       Sáng sớm hôm sau, đang sắp khóm vào xuồng, Tím thấy toán lính Cộng Hòa đi kích về, bước hàng một dọc theo “lộ đất” bên bờ sông, hướng về đồn Nghĩa Quân. Bất ngờ một giọng reo vui
-Cô ơi! Có phải cô là người hôm qua “ủi” xuồng vô đồn, cho tụi tôi khóm hay không?
Dừng tay, nhìn toán lính, nhận ra anh Nghĩa Quân gác trên vọng gác chiều hôm qua, Tím cười:
-Dạ, em đó, anh Lộc! Thấy mấy anh, em nhớ anh Lắm của em “wá” hà!
-Anh Lắm cũng đi lính Cộng Hòa, phải không?
-Ảnh chưa tới 18 tuổi, là “con trai một” mà đi lính “cái nỗi gì”!
Một anh lính vừa chuyền khóm hộ cho Tím vừa nói:
-Mấy “cha” sao không phụ chất khóm lên xuồng giúp người ta mà đứng đó?
Thế là nhóm lính chuyền khóm lên xuồng cho Tím. Vừa khi đó, Dân cùng với nhóm lính khác đến, hỏi:
-Tụi mày làm gì đây?
-Công tác dân vận, thiếu úy!
Hai tiếng thiếu úy làm Tím quay vội về phía nhóm lính mới đến. Nhận ra Dân, Tím chào:
-Dạ, chào thiếu úy.
-Gọi tôi bằng anh thôi. Em cỡ tuổi với nhỏ em của tôi mà. Em tên gì?
-Dạ, tui tên Tím. Em của thiếu…ý “wên”, của anh, chắc còn đi học, phải không?
-Vâng. Còn Tím, sau giờ buôn bán có đi học hay không?
-Mèng ơi! Trường cứ bị “tụi ôn dịch” – tiếng lóng dân làng dùng để chỉ Việt cộng – về phá sập và hăm dọa thầy cô giáo hoài; không ai dám dạy. Mấy năm nay, con nít trong làng cũng như tui, đâu có trường, đâu có ai dạy mà học!
      Lời nói thật thà, mộc mạc và khuôn mặt xinh xinh của Tím khiến Dân nhớ cô em lâu ngày chàng chưa về thăm. Dân hỏi:
-Nếu có người dạy, em có muốn học hay không?
-Dạ, học chớ, mà ai thèm bỏ thì giờ dạy tui, Trời!
-Hồi đó em học lớp mấy?
-Dạ, lớp bốn.
-Tôi nghĩ nhiều anh em trong đồn có thể dạy kèm cho em.
-Dạ, dạy kèm là dạy cái gì?
Nhóm lính chưa kịp cười, chợt nhận ra ánh mắt nghiêm khắc của Dân, đành im. Dân đáp:
-Là dạy thêm, dạy ngoài giờ học sinh đến trường.
-Dạ, Mẹ tui nói ai cũng “lấy dạ đong lúa chớ ai lấy dạ đong chữ”; vì vậy tui chỉ ước sao được học tiếng Anh để làm sở Mỹ, lấy tiền giúp Cha Mẹ.
      Thấy toán lính dừng chân hơi lâu, trẻ em trong làng tò mò, kéo nhau đến, đứng quanh. Trong khi Dân hơi khó nghĩ vì Tím chỉ muốn đi làm sở Mỹ thì Lộc nói:
-Nếu cô Tím muốn học tiếng Anh thì chỉ có “ông thầy tui” mới dạy được chứ tụi tôi “bù trớt”!
     Tím cảm thấy lòng rộn ràng vui, nhìn Dân, cười. Thấy nụ cười rạng rỡ của Tím, Dân không nỡ cắt đứt niềm hy vọng của cô gái quê xinh đẹp:
-Vâng, tôi có thể giúp em học tiếng Anh. Nhưng ngày nào em cũng đi bán khóm, làm thế nào em có thì giờ để học?
-Dạ, sáng tui phụ với Mẹ bán nước mía ngoài chợ. Trưa tui chở khóm ra Tắc Cậu bán sĩ; mà khóm gần hết mùa rồi, anh ơi!
      Hai tiếng “anh ơi” nghe “ngọt lịm” của Tím làm cho nhóm lính nhìn Dân, cười. Dân nghiêm giọng:
-Nếu vậy thì tôi sẽ soạn bài bằng tiếng Việt, chỉ dẫn cho em cách phát âm. Soạn xong, khi mấy anh lính đi chợ tôi nhờ mấy ảnh ghé xe nước mía trao bài cho em. Thỉnh thoảng, nếu có dịp, tôi sẽ dò bài cho em nơi xe nước mía. Em nghĩ sao?
-Dạ, mỗi tháng anh tính “nhiu”?
-Cái cô này! Không ai bắt em trả tiền đâu!
      Tím chưa kịp mừng thì nhiều tiếng “ồ” vang lên nho nhỏ trong nhóm trẻ em. Một em bé chạy vào nhà Tím, reo vui:
-Câu Mợ ơi! Ra coi nè! Chị Tím được mấy ông lính Cộng Hòa dạy học “hỏng” lấy tiền nè!
*****
      Trong ánh đèn dầu leo lét, thấy Tím bậm bàn tay lại rồi vừa đọc vừa đưa từng ngón tay lên, đếm: One, two, three, four, v.v… Cha cười, hỏi:
-Tím! Mày học cái gì mà giống tụi con nít thường giấu tay sau lưng, nói “woảnh, tù, tỳ ra cái gì, ra cái này” vậy?
Tím chưa biết đáp lời Cha như thế nào, Mẹ vội lên tiếng
-Ông này! Để con nó học; “chọc quê” nó chi vậy?
      Cha chưa kịp đáp thì nghe tiếng súng rền vang, hướng đồn Nghĩa Quân. Bước vội ra cửa, nhìn về hướng đồn, thấy đạn hai bên đan chéo nhau, sáng rực cả một vùng, Cha quay vội vào, thét lên:
-Xuống hầm, lẹ lên! Mẹ! “Tụi ôn dịch” lại pháo kích vô đồn nữa rồi! Xuống hầm không thôi đạn lạc!
       Cha giở nắp hầm. Mẹ khom người chui xuống. Vừa dợm chui theo Mẹ, Tím thấy ngọn đèn dầu chưa kịp tắt, vội quay lui để thổi cho đèn tắt, khỏi hao dầu. Bất ngờ, Búng cùng hai người đàn ông lạ xông vào, chụp tay Tím, lôi đi, trước đôi mắt thất thần của Cha! Cha buông rơi nắp hầm, chạy theo kêu cứu. Nhưng trời tối quá và nhà ai cũng đóng cửa trong khi Búng và hai “thằng ôn dịch” lôi Tím lên chiếc tắc ráng, “dông mất tiêu”! Bất chợt, Cha nghe tiếng máy tàu xa xa rồi đoàn chiến đỉnh của Hải Quân VNCH đang hướng về phía đồn Nghĩa Quân. Cha “khóc ròng”, than: “Trời! Phải chi mấy ổng đến sớm hơn một chút thì cứu được con tui rồi!”
       Riêng Mẹ, nghe miệng hầm sập “cái ầm” mà không thấy Cha và Tím chun xuống. Chờ một lúc cũng vẫn không thấy Cha và Tím, Mẹ mở nắp hầm, leo lên. Thấy Cha trong tư thế như người mất hồn, Mẹ nhìn quanh, không thấy Tím đâu cả. Mẹ gào lên:
-Con Tím đâu?
Lúc này Cha mới “hoàn hồn”, đáp:
-Thằng Búng dẫn hai thằng “ôn dịch” tới bắt nó đi rồi!
Mẹ quỵ xuống như trái mít ướt chín cây bị sút cùi!
*****
       Tiếng trực thăng từ xa vọng lại. Chỉ một chốc sau, ba chiếc đáp xuống nơi bãi đáp dã chiến, bên ngoài hàng rào kẽm gai của đồn Nghĩa Quân. Thiếu tá Quận trưởng, thiếu tá chỉ huy trưởng đoàn chiến đỉnh, Dân và vài sĩ quan đến bãi đáp đón ông Tướng Vùng cùng phái đoàn đến thị sát chiến trường.
      Người bị thương – không phân biệt Nghĩa Quân, vợ con của Nghĩa Quân hay là “tụi ôn dịch” – đều được đưa lên hai chiếc trực thăng. Đầy người, hai chiếc trực thăng rời vùng lửa đạn trong khi Dân hướng dẫn vị Tướng Vùng thị sát quanh đồn.
     Theo sự hướng dẫn của Dân, vị Tướng Vùng và phái đoàn đi trên sự đổ nát toàn diện do nhiều đợt tấn công bằng chiến thuật “tiền pháo, hậu xung” và “xa luân chiến” của Việt cộng để lại. Vị Tướng thở dài khi thấy người lính Nghĩa Quân tiếp tục âm thầm đào xới, tìm kiếm hình hài không toàn vẹn của bạn hữu, của vợ con và của… kẻ thù!
      Xác người và mảnh rời của thân người được để gần bờ sông, chờ người nhà xác nhận hoặc chờ phương tiện đưa về nguyên quán. Xác của “tụi ôn dịch” được khiêng để ngoài vòng kẽm gai, phía sau đồn, sẽ được chôn nơi vùng đất mà các “đồng chí” của họ đã nằm đó từ những trận công đồn trước đây.
      Trong cảnh tận cùng của thê lương, không ai – ngay cả vợ con của các anh Nghĩa Quân – còn giọt nước mắt nào để biểu lộ niềm đau khổ của mình! Ngoài tiếng xào xạc của khóm tre, không ai có thể nghe được bất cứ tiếng động nào nơi bờ sông nhuộm máu này!
      Sau khi tiễn vị Tướng Vùng cùng phái đoàn trở lại bãi đáp dã chiến, thiếu tá Quận trưởng, chỉ huy trưởng đoàn chiến đỉnh và Dân đứng chờ cạnh trực thăng trong khi vị Tướng Vùng và phái đoàn bước lên trực thăng. Trực thăng quay cánh quạt. Khi trực thăng vừa nâng thân tàu lên, thiếu tá Quận trưởng, chỉ huy trưởng đoàn chiến đỉnh và Dân đều đưa tay phải lên, chào.
      Trở lại đồn, sau một lúc bàn thảo, Dân cùng mọi người đi thẳng đến đoàn chiến đỉnh để về Quận họp hành quân, hoạch định kế sách thích ứng và biện pháp hữu hiệu hơn để tránh bớt tổn thất.
      Chiều, từ Quận trở về, vừa từ chiếc Fom nhảy lên bờ, Dân thấy một anh Nghĩa Quân bước vội đến, chào, nói:
-Trình thiếu úy, cô Tím bị Việt cộng bắt đi hồi tối hôm qua rồi!
Dân trợn mắt:
-Thiệt không, mày?
-Cả làng đều biết! Bộ tui dám “giỡn mặt” với “ông thầy” sao?
      Dân mím môi thật chặt. Sau khi người Nghĩa Quân quay đi, Dân nghẹn ngào nhìn ra dòng sông Cái Lớn, lòng xót xa tự hỏi, không biết giờ này Tím bị địch hành xử như thế nào? Tại sao một cô bé quê hiền lành, chất phát, thiệt thà như Tím mà cũng bị chúng nó “lôi” vào cuộc chiến một cách tàn bạo đến như thế?
      Bất ngờ, từ radio trên một trong các chiến đỉnh, dòng nhạc quen thuộc văng vẳng trong ánh nắng chiều. Với cõi lòng tan tác như vết tích của chiến trận đêm qua còn vương vãi trong sân đồn, Dân chậm bước, lắng nghe. Đến đoạn cuối, Dân tưởng như ca sĩ đang tỏ bày nỗi niềm thiết tha của Dân âm thầm dành cho Tím:
“… Nhiều năm trời chẳng thương mình
Để anh thành kẻ bạc tình
Cầu xin cho mây về vui với gió
Dù có qua bao đắng cay
Muôn đời anh vẫn chờ em.” (2)
     ... Đọc đến đây, Danny không thể đọc tiếp, vì quá xúc động! Cả một dĩ vãng hào hùng, khốn khó lẫn đau thương trong cuộc chiến bừng sống trong hồn chàng. Nhìn tên tác giả bài tự truyện, thấy chữ Tiffany Trần, Dân cố vận dụng trí nhớ xem trong số sinh viên ban Anh văn – do Dân giảng dạy tại Community College – cô nào tên là Tiffany Trần; nhưng không thể nhớ được.
       Từ khi Hoa Kỳ có lệnh “cách ly” vì Covid-19, theo lệnh của tiểu bang, trường học đóng cửa. Học sinh, sinh viên học online. Giáo sư cũng dạy online. Để tạo nguồn cảm hứng cho sinh viên trong thời “Tàu dịch”, Dân đưa đề tài: “Hãy viết tự truyện về một phần đời của bạn”. Vì đa số sinh viên lớp Anh văn đều là người Á Đông và người Mễ, Dân đặc biệt cho phép sinh viên có thể chọn tiếng Việt hoặc tiếng Anh để diễn đạt ý tưởng của họ.
       Trong những bài tự truyện của sinh viên Việt Nam, Dân nhận thấy, đa số sinh viên không thể phân biệt được trạng thái “cụ thể” và “trừu tượng”; do đó, họ dùng những từ ngữ rất khó chấp nhận và đặt không đúng vi thế, như: Tan chảy, cận nghèo, lâm sàn, trọn gói, thể hiện, điều khiển, v.v… Chỉ có Tự Truyện Của Tím là viết theo văn phong trong sáng – đượm chút mộc mạc, bình dị, rất dễ thương – của thời VNCH. Và cũng chỉ có Tự Truyện Của Tím mới đem đến cho chàng sự xúc động vô bờ như chính chàng đang bước từng bước trên vùng đất xưa.
       Sự xúc động vừa lắng dịu, Danny “rà rà” “con chuột” vào hồ sơ/danh sách sinh viên để tìm điện thoại, địa chỉ của Tiffany Trần. Sau khi bấm số, nghe tiếng “allo” từ đầu giây bên kia, Danny nói tiếng Việt:
-Cho tôi được tiếp chuyện với Tiffany.
-Xin lỗi, ai đây?
-Tôi là thầy giáo Danny Nguyễn.
       Nhận ra vị giáo sư Anh văn của trường Community College mà – sau khi vợ chồng thầy ly dị – nhiều nữ sinh viên từ Việt Nam sang đây du học đều cố “bẹo hình bẹo dạng” để chinh phục, Tiffany hơi lúng túng:
-Dạ… dạ, thưa thầy, em là Tiffany.
Sau vài câu chào hỏi thông thường, Danny hỏi:
-Tiffany đang làm gì đó?
-Dạ, em đang theo dõi vụ chàng da đen George Floyd và các cuộc bạo loạn ở Mỹ.
-Tiffany nghĩ như thế nào về sự việc đó?
-Dạ, em nhớ người Anh có câu: “Two wrongs don’t make a right”.
-Tiffany chịu khó đọc sách báo để theo dõi thời sự. Tốt! Bây giờ tôi muốn hỏi Tiffany vài câu về bài Tự Truyện Của Tím, Tiffany có thể giúp tôi hay không?
-Trời! Thầy biểu cả lớp viết thì em viết chứ “sức mấy” mà em dám giúp thầy!
-Tôi chỉ muốn biết, làm thế nào Tiffany có thể biết được những chi tiết xảy ra trong đồn Nghĩa Quân vào đêm cô Tím bị Việt cộng bắt mà Tiffany viết như thật vậy?
-Dạ, sau này em gặp lại anh Lộc ở trại tỵ nạn bên Thái Lan, ảnh kể cho em nghe.
-A, thì ra Tiffany là cô Tím, đúng không?
-Dạ. Dạ, em!
-Làm thế nào Tím biết được bài hát “Chờ Người” mà Tím đưa vào bài tự truyện?
-Dạ, anh Lộc kể rằng sau đêm đồn bị tấn công, thiếu úy Dân thường hát bài gì mà… “Chờ em chờ đến bao giờ…”. Em “để bụng” mấy chữ đó. Khi biết dùng iPhone em vô Google tìm thì thấy lời ca nguyên bài.
-Làm thế nào Tím biết được tâm trạng của thiếu úy Dân mà Tím viết?
-Dạ, em cứ “suy bụng ta ra bụng người”. Em nghĩ về ổng sao thì em cứ cho là ổng cũng nghĩ về em y vậy – như là niềm ước mơ vậy mà!
-Làm thế nào Tím thoát được bàn tay Việt cộng?
-Dạ, dễ “ẹc” hà, thầy! Sau thời gian ngắn, tạo được sự tin tưởng của “tụi ôn dịch”, “tụi nó” cho em đi theo mấy chiếc tác ráng để học cách làm giao liên. Một buổi chiều, chiếc tắc ráng chở em bất ngờ gặp đoàn tàu của Hải Quân VNCH từ sông Trèm Trẹm chạy ra. Em “nhảy đại” xuống sông, lặn thiệt sâu, thiệt lâu. Khi “hụt hơi” em trồi lên, bơi theo hai chiếc tàu nhỏ chạy sau cùng và được mấy ông Hải Quân vớt.
-Còn chiếc tắc ráng?
-Dạ, thấy tàu Hải Quân “tụi ôn dịch” “dông mất tiêu” chứ “sức mấy” mà dám “lạng wạng”!
-Ngã ba sông Cái Lớn và kinh Trèm Trẹm sâu lắm mà sao Tím dám nhảy xuống?
-Dạ, con nít miệt vườn như tụi em bơi như cá chứ “nhầm nhò” gì đâu!
-Làm thế nào Tím có thể vượt biển?
-Dạ, sau khi cứu được em, mấy ông Hải Quân đưa em qua Rạch Sỏi, nhắn anh Lắm vô Rạch Sỏi “nhận” em. Anh Lắm nhắn tin cho Cha Mẹ em biết chứ ảnh “hỏng” cho em trở lại làng xưa. Sau đó, ban ngày em phụ với Thiếm bán cá ở chợ Rạch Giá; ban đêm anh Lắm và em đi học Anh văn. Sau khi “tụi ôn dịch” cướp được miền Nam, Chú Thiếm dùng “ghe nhà” đưa gia đình của Chú Thiếm, anh Lắm và em ra biển rồi qua Thái Lan.
-Tím đã tự cứu mình, tìm được cuộc sống mới mà còn đi học thêm. Giỏi lắm!
-Dạ, em đi học cho vui, vì em về hưu “non”, ở nhà một mình “buồn muốn chết”!
-Nếu vậy thì về hưu “non” để làm gì?
-Dạ, cuộc đời của em đã “bầm dập/nát nước”, không còn gì nữa! Sống được tới giờ là may rồi, bon chen cho lắm cũng “bù trất” thôi!
-Sao bi quan quá vậy? Hãy tìm vui bên con cháu. Đừng nghĩ bậy!
-“Mèng ơi!” Em có lấy chồng đâu mà có con, có cháu, thầy!
-Tại sao Tím không lập gia đình?
-Dạ, cuộc đời em “te tua” quá đổi! Hết bị Việt cộng “dần” thì tới hải tặc “dần”! Em chỉ là “cái xác không hồn” chứ còn gì đâu! Em đã tự phá thai hai lần; tưởng chết rồi! Từ đó, em triền miên sống trong sự dày vò và ân hận! Lấy ông nào mà em cứ bị những hình ảnh hãi hùng của “tụi ôn dịch”, tụi hải tặc và hai thai nhi vô tội dằn vặt thì chỉ tội nghiệp cho ông đó chứ ích lợi gì đâu, thầy!
Không thể đè nén tình cảm lâu hơn nữa, Danny nói:
-Tôi sẽ gặp Tím trong vòng một tiếng đồng hồ.
Với bản tính chất phát, thật thà, chưa bao giờ Tím nghi ngờ Danny Nguyễn chính là thiếu úy Nguyễn Dân; vì vậy, Tím rất bối rối:
-Dạ…dạ…chi vậy, thầy? Em có nói gì tầm bậy không? Thầy làm em lo “wá” hà!
Dân cười, lập lại câu nói của chàng rồi tắt điện thoại.
     Cho xe chạy với tốc độ vừa phải, Dân vừa nghe GPS – Global Positioning System – chỉ đường vừa mở radio. Giọng nam đang trình bày tình khúc Just the Way You Are của Billy Joel. Dân vừa gật đầu nhè nhẹ vừa hát theo nho nhỏ:
“…I wouldn't leave you in times of trouble
We never could have come this far
I took the good times; I'll take the bad times
I'll take you just the way you are...”
Dân mỉm cười, vuốt mái tóc “muối” nhiều hơn “tiêu”, lòng lâng lâng trong niềm vui dịu dàng…
-**-
1.- Nắng Chiều của Lê Trọng Nguyễn.
2.- Chờ Người của Lam Phương
ĐIỆP MỸ LINH



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 08/Jul/2025 lúc 3:39pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23782
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Jul/2025 lúc 3:50pm

CON CHIM SÂU Ô. Tác giả: NV. Chu Sa Lan. Người đọc: Thái Hoàng Phi<<<<<<

CON%20CHIM%20SÂU%20Ô.%20Tác%20giả:%20NV.%20Chu%20Sa%20Lan.%20Người%20đọc:%20Thái%20Hoàng%20Phi%20-%20YouTube


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 12/Jul/2025 lúc 3:51pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23782
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Hôm nay lúc 9:26am

Chuyện Đàn Ông (Đ.Văn)

(Chuyện vui, giải trí cuối tuần)

5499%20ChuyenDanOngNganUyen

(Hình Minh Họa)

Ngân Uyển

       Em viết về chuyện đàn ông vì họ có nhiều chuyện đáng nói lắm! Nhưng em biết chưa bao giờ em được viết dễ dàng và thoải mái như hôm nay, vì viết mà không cần phải lách, phải tránh né gì cả đâu! Bọn đàn ông hết chín phần mười đọc tựa đề này xong sẽ lật qua trang khác ngay. Muốn họ đọc thì phải viết về chuyện đàn bà, chuyện cấm đàn bà, vả lại họ có đọc đi nữa cũng có sao đâu? Ở các xứ Âu Mỹ này làm gì có tổ chức, có cơ quan nào bảo vệ họ đâu mà sợ ?

       Trước tiên em xin thanh minh cùng các chị rằng: Em không có thù oán cá nhân gì với bọn họ. Em cũng có gia đình, nghĩa là cũng có một tên nô lệ da vàng hầu hạ như ai, chớ không phải thuộc loại gái già khú đế, vất ra đường, năm, bảy ngày không ai nhặt.

Thôi, để em kể lại chuyện đời em cho các chị nghe nè:

       Thuở còn con gái, em nổi danh là Người Đẹp, lại còn được tiếng nết na đức hạnh nữa. Ba mẹ em thuộc dòng dõi Nho gia nên dạy dỗ em rất kỹ, nào là tam tòng tứ đức, nào là nhân lễ nghĩa trí tín, nào là xuất giá tòng phu, lấy chồng phải gánh vác giang sơn nhà chồng. Cho nên em rất đắt mối, chưa học xong trung học mà đã đám này đám nọ, ông bà này đến coi mặt cho con, cậu mợ kia đến thăm dò cho cháu. Nói ra cứ tưởng em được tha hồ chọn lựa, kỳ thực quyết định chính là mẹ em, mà lựa theo tiêu chuẩn nào thì hiện em cũng chưa rõ nữa.

       Thế rồi đến ngày đám cưới, mẹ em kêu em vào dặn dò. Nếu muốn không bị chồng bắt nạt thì khi vào phòng tân hôn, phải chạy lại ngồi ngay trên đầu giường chỗ gối chồng em nằm. Trời đất ơi! Không biết các cụ nhà ta bị đàn ông bắt nạt thế nào mà thần hồn nát thần tính, rồi đâm ra dị đoan mê tín lẩn thẩn thế. Từ ngày về làm dâu nhà họ Nguyễn, em được tiếng là vợ đảm, dâu hiền, các cụ cứ khen rối rít cả lên, đi đâu cũng đem ra khoe, làm em cũng được hãnh diện, hai lỗ mũi cứ phồng lên, rồi em cật lực đem thân ra làm dâu làm vợ!.

Các chị xem, đây là thời khóa biểu mỗi ngày như mọi ngày của em:

– 6 giờ sáng đã rón rén thức dậy pha trà hầu bố chồng, rửa mặt rửa mũi qua loa;

– rồi 7 giờ sáng vào đánh thức chồng dậy, dọn điểm tâm cho chàng trước khi đi làm, xong rồi quét dọn nhà cửa;

– đến 9 giờ sáng xách giỏ theo mẹ chồng đi chợ, bà vừa mua vừa trả giá vừa giảng giải cho em biết lựa con cá nào ngon, con gà nào tơ, bó rau nào tươi, phải biết đối đáp thế nào với những cô hàng chua ngoa đanh đá;

– 11 giờ về đến nhà, nấu cơm nấu canh cho cả nhà xơi; thường thì mọi người ăn được nửa bữa em mới có thì giờ ngồi vào bàn ăn, ăn xong lại dọn dẹp;

– trưa đến giặt giũ, là ủi áo quần,

– chiều vừa tắt bóng lại nổi lửa nấu cơm,

– đến 8,9 giờ tối mới tạm xong công việc; tắm rửa xong, vào phòng mệt muốn chết, cặp mắt muốn ríu lại, nhưng việc đã hết đâu, chàng bảo hôm nay làm việc mệt quá, mình đấm bóp cho anh một chút nhé, rồi còn chuyện kia nữa chứ! Xong rồi chàng quay lưng ra ngủ khò.

       Cuộc đời em cứ từ từ trôi qua như thế, mà em tưởng tất cả những đàn bà trên thế giới cũng có một   cuộc sống như em, như lời mẹ chồng thường nhắc nhở. Rồi cứ một năm em sòn sòn đẻ mắn như gà, rồi việc ơi là việc, hết chồng lại con, hết bếp lại núc, hết nhà lại cửa; thế mà lạ thật, em chả oán trách than van gì cả. Thỉnh thoảng về nhà cha mẹ, em thấy trong ánh mắt của mẹ em một thoáng ái ngại, còn các em em thì phản đối ra mặt. Chúng nó nói xa nói gần, có khi nói thẳng, nhưng em cứ cho là quá tân thời, tiêm nhiễm theo đời sống thác loạn Âu Mỹ, nên thường không thèm chấp, có khi em thường đem dạy những bài học luân lý, đạo đức cho bọn chúng nghe nữa, chúng nó cười lắc đầu ngán ngẩm, coi trường hợp em như đã hết thuốc chữa rồi!

       Thế rồi miền Nam thất thủ, em và gia đình chồng may mắn được lên tàu đào thoát. Qua đến Montréal, em vẫn giữ vai trò nội trợ như trước, nhưng lần hồi rồi chồng em cũng phải để cho em đi làm; thực sự, một mình chàng kham không nổi gánh nặng tài chánh của cả gia đình đâu!.

       Thú thực với các chị, lần đầu tiên phải đi làm em sợ quá, nhưng rồi cũng quen đi. Mà hình như đàn ông bên này họ lịch sự, chiều chuộng đàn bà quá chừng. Lần hồi rồi em cũng biết ở các nước Âu Mỹ đã có cuộc giải phóng phụ nữ từ lâu, rồi em cũng nghe đến tai câu: Nhất đàn bà, nhì chó mèo, thứ ba là cỏ cây, thứ tư mới đến đàn ông gì đó đó?

      Em ngẫm nghĩ đến cả mấy tuần, rồi em mới rõ. Thì ra mười mấy năm trời nay người ta đã lừa phỉnh em, người ta bịt mắt em, người ta dụ dỗ em dựa theo những cuốn sách từ thời thượng cổ bên Tàu để bắt làm tôi mọi không công.

       Trời ơi, tức ơi là tức! Mười mấy năm của tuổi xuân thì, mười mấy năm đẹp nhất của một đời người con gái bị người ta lợi dụng mà không hưởng được chút gì, các chị nghĩ coi có đáng thù giận không?

      Thế rồi em sắp đặt kế trả thù, không phải để riêng cho em đâu, mà cho toàn thể phụ nữ trên thế giới nữa đó. Em bắt đầu đọc sách, tham khảo, suy gẫm, gia nhập những hội đoàn phụ nữ để mở mắt ra. Thì ra đến giờ em chưa hiểu chưa biết gì hết về cái giống Đàn ông kia cả.

       Từ nay em xin gọi giống đàn ông là “bọn họ” cho tiện việc! Kể ra em đã lịch sự quá rồi! Hóa ra từ xưa đến giờ, từ Tây qua Đông, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào bọn họ cũng ăn hiếp chúng mình đủ kiểu!

       Các chị coi, ở bên Tàu, bọn họ đặt ra biết bao luật lệ, bao nhiêu ràng buộc để hành hạ các cụ bà, để phục vụ họ. Nghĩ cũng quá tội cho các cụ bên Tàu, ai đời chân người ta đang đi đứng ngon lành, họ bắt bó béng nó lại. Hồi đầu em cũng tưởng bọn họ muốn cho chân các cụ bà đẹp, từng bước nở hoa sen, thôi thì cũng được đi, bây giờ em mới biết họ bó chân các cụ với mục đích khác, họ nghĩ bó chân cho nhỏ, ít đi ít đứng, thì chổ khác nở ra to để phục vụ bọn họ, nghĩ có giận không?

       Còn bên Tây, thời Trung Cổ, bọn họ đặt ra cái khóa trinh tiết bằng sắt nặng trình trịch, đi chinh chiến thì đem chìa khóa đi theo. Có mấy đứa mấy năm sau trở về, thấy vợ mình già nua xấu xí, thế là nó vờ bảo chìa khóa lạc mất đâu rồi, thế có chết con người ta không?

       Còn ở bên Trung Phi bây giờ, ở cái xứ U Đít gì đó, vẫn còn cái trò cấm đoán đủ thứ. Ra đường thì phải còn che mặt, mặc quần áo năm bảy lớp dù trời nắng chang chang. Lại còn phải sống trong cái harem nữa chứ, cứ như đàn bò cái, bầy gà mái?

       Hồi xưa ở xứ Chiêm Thành còn có luật lệ, mỗi khi chồng chết, họ đem thiêu luôn các bà vợ. Các chị  nhớ Huyền Trân Công Chúa không? Cũng may có ông Ngân Uyển đi vào được chiều thứ tư, ngược dòng thời gian, đến cứu kịp thời nếu không đã chết thiêu mất tiêu rồi còn gì?

       Hiện chừ bên Phi Châu còn tục lệ cắt mòng đóc (clitoris), ai đời con gái người ta mới 6, 7 tuổi bị đè ra cắt béng đi, cho hết khoái cảm về sau, các chị nghĩ có dã man hung ác không? Chơi gì kỳ vậy?

       Còn các cụ bà nhà ta, thôi em chả cần phải viết đi viết lại làm gì những điều các chị đã biết bao nhiêu lần rồi. Nhưng càng nghĩ lại càng tức lộn ruột. Hồi còn là con gái, các cụ phải lo lắng cho gia đình, hết bếp núc đến đồng áng, trong lúc bọn trai thì cho đi học đi chơi tùy ý, cái gì mà “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Đến tuổi lấy chồng, các bà mối bà mai đến nắn tay nắn chân, sờ tai vạch tóc, coi có khỏe mạnh, có mắn đẻ không, để đem về làm dâu, thực ra là để làm việc nhà chồng!

      Nói phải tội, chắc chả có cụ nào được thỏa mãn sinh lý một lần trong đời. Các cụ chỉ dám than thở qua ca dao, qua câu hò câu hát, bạo hơn, như cụ Hồ Xuân Hương làm thơ châm biếm, thế là bọn họ ghép cho bao nhiêu là tội. Về làm vợ, các cụ phải gánh vác giang sơn nhà chồng, làm việc bất kể ngày đêm, rồi lại đẻ đái sòn sòn, làm sao mà không sồ sề, không già trước tuổi ra được? Thế là bọn họ lấy cớ để lấy vợ hai, vợ ba. Mà còn chưa đủ, họ lại bày đặt ra chốn kỹ viện, thanh lâu, đem chị em ta ra làm trò chơi giải trí nữa cơ!

       Còn chuyện khổ nhất của Đàn bà con gái chúng ta là chuyện kinh kỳ, một tháng bốn năm ngày đau khổ biết chừng nào. Thế mà bọn họ cũng nỡ đem ra làm đề tài diễu cợt, nào là mang cờ Nhật, nào là ngày đình chiến có điều kiện, nào là Chu Du thổ huyết, thật dơ dáy quá sức đi!

       Đến lúc sinh nở, họ dông tuốt đi luôn để ta vượt cạn một mình, rồi tò te với cô em vợ? Qua xứ này, theo phong tục, họ phải vào phòng sanh để giúp đỡ vợ, thế là chín đứa trên mười xỉu tại chỗ.

       Chao ơi, càng nghĩ em càng nộ khí xung thiên! Em đã quyết định rồi, em nhất định phải làm một cái gì đặc biệt mới hả mối giận này, mà bây giờ em cũng khôn ngoan thận trọng ra rồi, muốn trị họ cho đến nơi đến chốn, thì phải biết mình biết người, nghĩa là phải biết rõ các khuyết điểm của họ.

       Trước tiên về thân thể vóc dáng, bọn họ thường tự hào là phái khỏe, còn chúng ta chỉ là một cái xương sườn của họ. Quả thực bọn họ cao lớn khỏe mạnh hơn ta chút ít, có điều càng to càng khỏe, thì chức vụ cao nhất cũng chỉ làm đến cận vệ cho tổng thống là cùng. Ta tuy bé mà bé hạt tiêu, bé nhưng dẻo dai, còn hơn lớn mà bở rẹt à!

       Về phần sắc đẹp, chị em chúng ta có vòng 1, vòng 2, vòng 3 cong cong mềm mại, còn bọn họ thì thẳng đuồn đuột, lòng tha lòng thòng, thật đểnh đoảng vô vị như cặp vú đàn ông. Còn mặt mày, đứa thì hói đầu, đứa thì râu tóc lởm chởm, mũi miệng thô tháp, đôi mắt khi thì liếc ngang liếc dọc, khi giận thì đỏ kè hung hãn ….

       Nói về tính tình, bọ họ thường tự cao tự đại, ba hoa khoác lác, dóc xạo nổ, đôi lựu đạn, ít chịu thua ai, cho nên nếu có bị hiếp đáp cũng giả bộ ra vẻ ta đây là người lớn không thèm chấp, đó là một khuyết điểm lớn mà ta phải biết lợi dụng để khai thác họ!

       Ngoài ra họ còn ham danh ham lợi, thích làm tiền, ta phải xúi dục khích bác để bọn họ đem nhiều tiền về cho ta tiêu, lại còn thích ngọt, thích được nịnh nọt, ta phải biết, để dễ nắm mũi kéo đi!

       Hiện nay trên thế giới biết bao nhiêu phong trào nổi lên giành lại sự công bằng cho phụ nữ, thế mà vẫn có một số chị em sợ sệt vớ vẩn. Các chị sợ rằng bọn đàn ông bị hiếp đáp quá sẽ chủ bại, nhu nhược lờ khờ, đâm ra biếng nhác ù lì, rồi không chịu làm việc để phục vụ chúng ta. Các chị này bị hiếp đáp quá nhiều và quá lâu nên đâm ra lẩn thẩn, phải cần có thời gian để giải độc. Em nghĩ thật ra các phong trào phụ nữ chưa nhằm nhò gì đâu các chị ạ!

       Sau mấy năm nghiền ngẫm, em đã tìm ra chân lý, tìm ra nguyên nhân chính của sự đau khổ của chúng ta, và đã tìm ra phương pháp chữa trị tận gốc. Em không nói ngoa đâu, các chị đọc tiếp sẽ rõ:

      Sự đau khổ chính của chúng ta là mang thai, sinh sản, và vấn đề kinh nguyệt, có phải không các chị? Nghĩ đi nghĩ lại, giải quyết dễ ợt hà! Thời buổi này là thời buổi văn minh, cắt chỗ này ghép chỗ kia, các bác sĩ làm như trở bàn tay. Thế rồi em nghĩ sao không cắt tử cung rồi ghép vào bọn đàn ông để chuyện bầu bì từ nay giao khoán cho họ. Còn chuyện thụ thai được hay không là chuyện khác, đó là chuyện của họ, họ phải tự xoay sở lấy, việc gì đến ta? Từ thuở tạo thiên lập địa, giống cái chúng mình đã đảm trách công việc truyền giống rồi, đến nay là phiên họ, em nghĩ cũng không sớm lắm đâu. Suy nghĩ chín chắn xong em đi tham khảo ý kiến của các giới phụ nữ khắp năm châu, ai ai cũng cho là ý kiến độc đáo mới lạ từ cổ chí kim chưa ai nghĩ đến. Sau đó em xin đến gặp bà chủ tịch Hội Nữ Y Sĩ Thế Giới.

      Bà gật gù đồng ý ngay trên nguyên tắc, nhưng bảo phải thử ghép các giống khỉ vượn trước, để xem kết quả ra sao? Em vội trả lời:

– Ối dào, việc gì phải thử vào khỉ cho dây dưa với Hội Bảo Vệ Súc Vật? Ta cứ vào các trường đại học, tuyển một số tình nguyện thí nghiệm, cứ hứa với họ là sau khi thành công sẽ cho làm đàn bà luôn, em nghĩ có khối đứa tình nguyện xin được ghép.

      Quả nhiên khi vào các trường đại học tuyển người, số thí sinh xung phong tình nguyện đông không kể xiết, thậm chí có nơi còn đi đến xô xát để giành chỗ nữa.

      Rồi kết quả các cuộc cắt ghép thành công ngoài dự định của các nữ bác sĩ giải phẫu. Chỉ có vài sự trục trặc nhỏ như bọn đàn ông phút chốc lại trở thành đàn bà, mừng rỡ quá như hóa điên hóa cuồng, đi đâu cũng khoe khoang ầm ĩ cả lên, làm nhà em tràn ngập đơn xin, còn ông bưu điện vất vả ngày đêm để nhận, chuyển các thư từ, giây thép từ khắp năm châu gửi về xin cắt ghép.

       Rồi em lại lên gặp bà chủ tịch Hội Nữ Y Sĩ Thế Giới, bà phục em quá, xin em làm cố vấn cho hội, rồi còn đề nghị trao 2 giải Nobel về y học, và nhân quyền năm tới cho em, vì có công trong cuộc giải phóng phụ nữ. Em nhún nhường:

– Việc đó nhằm nhò gì, phụ nữ Việt Nam chúng tôi còn có những kế hoạch kinh thiên động địa nữa, có thể đảo lộn cả thế giới như chơi na!

       Sau đó em đến gặp bà chủ tịch Hội Nữ Luật Sư Thế Giới để bàn định soạn thảo một luật gia đình cho toàn cầu. Điều khoản chính là trước khi thành hôn, người chồng phải được ghép tử cung của vợ. Từ nay về sau chuyện sanh sản phải do phái nam đảm trách, đàn bà chúng ta sẽ rảnh tay để làm những chuyện khác, chuyện gì thì hiện giờ em chưa nghĩ đến đâu ….

Công chuyện ghép tử cung đại khái kể cũng tạm xong.

      Chiều nay về đến nhà đã hơn 7 giờ tối, tên nô lệ da vàng đã cơm nước sẵn sàng, ân cần đưa khăn cho em lau mặt, rồi kéo ghế mời em ngồi xơi cơm, trông hắn độ này nhũn nhặn ra hẳn. Ăn xong, hắn mời em đi xem xi nê, phim “Một Thế Giới Không Đàn Bà”. Phim thật hay, chuyện giả tưởng ấy mà, một thế giới mà đột nhiên đàn bà biến mất cả, bọn đàn ông sống với nhau mất thăng bằng, nổi điên nổi khùng chém giết lẫn nhau, cuối cùng cả thế giới bị tận diệt luôn…

Ra về, tên nô lệ da vàng củ̉a em nhẹ nhàng thú nhận:

– Phim đó diễn tả rất đúng, một thế giới không có đàn bà là một thế giới chết, đàn ông chúng anh rất cần phái nữ, có đàn bà cuộc đời mới có ý nghĩa, đúng theo luật âm dương của tạo hóa!

Sau khi đắp chăn cho em, hắn hôn lên trán em, chúc em ngủ ngon rồi tiếp:

– Chúc em tối nay có một giấc mơ “Một Thế Giới Không Đàn Ông”!

      Nói xong hắn cười, em ngờ ngờ thấy trong nụ cười của hắn có một cái gì khó hiểu, đễu giả, một cái gì ranh mãnh tinh ma khiếp ???

      Thế rồi em nằm mộng thấy “Một Thế Giới Không Đàn Ông“ thiệt các chị ạ! Chao ơi, kinh khủng quá, một thế giới chỉ toàn đàn bà là đàn bà, càng nghĩ lại càng rùng mình, mồ hôi tay mồ hôi chân cứ rịn ra, em không dám kể lại đâu, em sợ quá rồi! Thôi cái kế hoạch cắt ghép tử cung phải đem vất vào sọt rác cho rồi, còn cái giải Nobel nữa, em chả thèm vào đâu!

       Mà nghĩ cho kỹ, mình còn đòi gì nữa, đàn ông người ta quá tốt, dễ “khương”, người ta làm việc như trâu bò để lo lắng cho gia đình, đùm bọc che chở cho mình, thế mà thấy người ta ít nói mình cứ kiếm cách ăn hiếp người ta, bày đặt ra chuyện này chuyện nọ để tìm cách hạ người ta, nghĩ lại em thấy thẹn thùng quá! Thôi, em sẽ ra Tòa Đô Chánh ngay để xin lập Hội Bảo Vệ Đàn Ông, kẻo không họ tuyệt chủng mất thôi???

Chúc các chị tối nay ngủ ngon, mà đừng nằm mơ thấy “Một Thế Giới Không Đàn Ông” nghen!!!

Ngân Uyển

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 159
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.371 seconds.