![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Quê Hương Gò Công | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 215 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | |||||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23705 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||||||
![]() |
||||||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23705 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||
DÂN QUÊ MÌNH ![]() Gái quê tôi không tô son điểm phấn, Đep mặn mà tình nghĩa thủy chung. Da sẫm màu vì gồng gánh tam tùng, Tay khéo léo quyết tâm khâu tứ đức. ![]() Trai quê tôi đậm đà tri thức, Hai chữ hiếu trung giữ vẹn cương thường. So với người không phải để phô trương, Giữ truyền thống đôi vai luôn gánh vác. ![]() Quê tôi nắng cháy da mưa dầm tang tác, Vừa trưởng thành thường quảy gánh ra đi. Lập nghiệp xa cho thỏa chí nam nhi, Có xa xứ tình quê là tất cả. ![]() Con cái quê tôi sao mà thân thương lạ, Đất khô cằn vẫn bám lấy không quên. Mồ cha ông chứng tích dấu ơn trên, Gương sử sách ấp ủ hồn dân tộc. ![]() Dân quê tôi không sang vì bổng lộc, Không màng chi gió độc miệng đời. Cứ gồng co vì tình nghĩa thế thời, Nêu chí khí giống Tiên Rồng đất Việt. ![]() Tổ tiên mình bậc anh hùng nữ kiệt, Từng đứng lên khơi ngọn lửa đấu tranh. Con cháu quê ta thức thời đức hạnh, Luôn chung lòng theo vết bước cha ông. Trần Thành Mỹ
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 06/May/2021 lúc 12:48am |
||||||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||||||
![]() |
||||||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||
TÊN CÚNG CƠM ![]() Theo
chuyện cổ tích thời xưa ông bà kể lại là: Ngày xửa ngày xưa, thuở thời
tạo thiên lập địa, cây cỏ đều có tên, riêng một cây không biết mình tên
gì, bèn lên tấu trình Ngọc Hoàng xin danh tánh. Quì
gối trước Thiên Nhan định trần tình, Ngọc Hoàng phán hỏi:" Ngươi tên
chi?". Ấp úng thưa: "Muôn tâu, thì là..".Chưa dứt lời, Trời bảo:" Thì
Là, hãy bình thân." . Thế là cây Thì Là từ đấy chính thức có tên trong
“Sổ Bộ Đời” loài thảo mộc . Riêng
con người, tạo vật tinh vi siêu đẳng nhất, từ lúc còn là bào thai, cha
mẹ đã hăm hở bắt đầu tìm đặt tên con theo qui lệ nước mình. Dân
ta có khuynh hướng cho rằng tên ảnh hưởng đến vận mệnh cả đời nên rất
cẩn trọng trong việc đặt tên con. Thêm vào đấy, do ảnh hưởng chính trị,
tôn giáo, địa thế, Việt Nam trở thành nơi gặp gỡ, hoán chuyển trào lưu
tư tưởng, văn hóa..., quốc tế. Vì thế tên cũng theo đà tiến bộ văn minh
trở nên dồi dào, tự do. Tiếng
Việt đơn âm có dấu, hầu hết các từ đều có nghĩa lại thêm Nho học bàng
bạc thẩm thấu trong văn chương, bao nguyên nhân đó cũng đủ làm trở ngại
hay phong phú hóa việc đóng dấu ấn con người. Khi
khai sinh, xin cẩn thận kiểm lại tên con trẻ, nếu không, có khi các
ngài Chánh lục bộ vì vô tình thói quen quên bẳng hay đổi ngay dấu nét,
tên cả đời rõ thắm thía đắng cay! Như chữ "R" (rờ) thành "D"(dê), “dâu” thành “ râu” Y dài thay I ngắn, “thúy” thành “thúi”, chữ "giai" mà thêm chơi dấu sắc, giai thành”giái” “CH”(chờ) đọc “TR”(trờ) "châu" hành "trâu" quả thật là … hết ý! Chẳng
những thế, theo cổ tục còn cử tên kỵ húy, tên không được trùng với danh
tánh ông bà và ngay cả hàng xóm vì "bà con xa không bằng láng giềng
gần". Tên
cúng cơm thường chỉ được sử dụng trên giấy tờ, luật pháp, nhất là ở
miền Nam, nên chỉ gọi nhau bằng thứ mà thôi. Cả xóm làng toàn là chị
hai, cô ba, bác tư, chú tám.. Và
có lẽ để phân biệt dễ dàng âm thầm thêm "rờ mọt" (remorque) vào thứ tạo
tên riêng hay hổn danh theo tướng, tật, thói quen, âm vận, nghề
nghiệp... Người Pháp có Louis Le Grand ta chẳng kém nào Hai Hòn, Ba Xạo,
Tư Xệ, Năm Lùn, Sáu Lé, Bảy Cao, Chín Niểng, Mười Ù,.. Tên Việt ta thường gồm ba chữ: họ, chữ lót, tên. Quan niệm cổ truyền, "nam nữ thụ thụ bất thân" nên Lục Vân Tiên sau khi giải cứu Kiều Nguyệt Nga đã nói : ‘’Khoan khoan ngồi đó chớ ra, Đó là phận gái đây là phận trai.’’ ( Nguyễn Đình Chiểu) có thể cũng ảnh hưởng đến việc đặt tên con, Nam Văn, Nữ Thị, chữ lót hầu phân biệt gái Rồi
dần dần để theo kịp trào lưu tiến hóa, tên cũng biết hòa đồng bình
đẳng. Tên loài hoa như Hồng, Lan... không còn ưu tiên độc quyền cho giới
quần thoa như Phương Trang Nhất không đặc biệt dành riêng cho nữ hay
nam. Tên cũng "unisex" không phân biệt gái trai như quần "Jean", giày
"Nai kì"(Nike) thể tháo... Mỗi
thứ tiếng đều chuyển mình dũa mài biến đổi, tên cũng theo thời trau
chuốt đẹp sang hơn. Bay bướm hơn, phóng khoáng hơn, cách đặt tên không
còn gò bó nữa, không màng "văn thị", Căn bản ba chữ được du di dài ngắn,
ảnh hưởng ngoại quốc nên hai họ cha mẹ cũng được ghép liền vào trước
tên con. Phan Trần Trần Thành Mỹ Trịnh quang Mỹ Phương Phạm Trịnh Quang Liêm … Phải theo thời mới "síc" không quê, báo hại lắm lúc, đầu trên xóm dưới, trẻ con trùng tên chỉ khác nhau chữ lót. Tinh
thần đoàn kết quả được nâng cao, mạng lưới tên được giăng ra làm sờn
lòng bao kẻ địch. Đừng cắt cớ lượn qua nhà người đẹp gọi tên em, chẳng
những khó thấy em mà toàn thấy anh chị của em mới sợ ! Ngày
xưa, có thể vì mê tín dị đoan, sợ "ông bà quở", nên đặt tên cho con
“xấu háy” hoặc tên khác riêng như Tửng, Cu Tèo, Thị Mẹt,..Ngày nay, để
gọi tưng "cục cưng" con, cha mẹ thường dùng danh từ hoa mỹ dễ thưong hơn
như Tú ti, Cà Na, Thiện, Mạnh.. hoặc "trí thức" hơn vay mượn nước ngoài
"Rĩ" (Marie ), “Ri"(Henri),“Răng“(Jean),"Rắc"(Jacques )...ngộ nghĩnh
vui tay ghê! Rắc
rối và buồn cười nhất là việc cử tên, chẳng những không được đặt trùng
mà còn đọc trại. Ví dụ tên ‘Đồ’ đọc trại ra là ‘Đà’, đồ đạc thành đà
đạc, đồng hồ ra đồng giờ, “nghĩa “thành ngãi, “hoa “ thành huê. Thời
quân chủ chuyên chế, trong thi cử cấm phạm húy, viết trúng tên hoàng tộc
chẳng những bị đánh rớt mà có khi còn bị tru di. Dần dần những từ biến
dạng ấy trở thành thổ ngữ địa phương. Ngoài
ra, tên đẹp hay chưa đủ còn tùy thuộc cách phát âm của miền, vùng, địa
phương. Như thế là có khi nghĩ đúng, làm đúng, vẫn sai. Ý đẹp, viết
đúng, đọc sai, tai hại! Một ví dụ tên Long Các đẹp thế, mà gặp phải
người miền Trung xướng lên thì lắm lúc cũng cười ra nước mắt! Tiếng
Việt ta thâm thúy thật, vậy mà đôi khi nghe ra cũng "ngậm đắng nuốt cay
thế nào"! Do đó, các dấu tượng trưng cho nốt nhạc âm hưởng cũng chiếm
phần quan trọng trong việc tạo sắc thái, tính truyền cảm đặc biệt. Vậy
viết, đọc phải rõ ràng, nếu không, nhầm lẫn, hiểu sai, như "Chữ tài liền với chữ tai một vần". Chẳng
hạn khi nghe đọc câu không dấu: “con cop cham cham xuong hang”, có thể
nghĩ ra ba cách viết: con cọp …(chấm chấm) xuống hang, hoặc con cọp
“chầm chậm” xuống hang, con cọp …(chấm chấm) xuống hàng. Ngày
nay, để hội nhập với đời sống nước ngoài, tiếng Việt thường được viết
không dấu. Tên Việt trong trường hợp nầy, nếu không biết trước thật khó
lòng mà đọc đúng, như « Ngu Tu Tu “ viết không dấu có thể đoc ra là “
Ngu Tự Tử“, “Ngũ Tử Tư” và bao hiểu lầm thắc mắc trật đường rầy xảy ra
như "Cụ" trơn tru thành "Cu", "Ngũ" quên ngã ra "Ngu"...lỡ khóc lỡ cười ! Nhớ
lại đọc một chuyện tiếu lâm trên báo : Một du khách Mỹ thấy hàng chữ
CAM DAI BAY được viết trên tường hoặc trên tấm bảng được treo ở nhiều
nơi trong thành phố lớn, vị khách tò mò nầy mới hỏi hảng du lịch: “Ở
Việt nam tôi đã thăm Nha Trang Bay, Ha Long Bay, Cam Ranh Bay còn Cam
Dai Bay nầy ở đâu mà tôi thấy quảng cáo nhiều thế vậy?” . Ngẩn ngơ! Vì
thật ra ba chữ viết không dấu đó là “CẤM ĐÁI BẬY “ Ngoài
ra, xin nên hạn chế viết tắt tên người gởi, người nhận trên bao thư
chẳng hạn. Vì phần lớn mẫu tự ta thường đuợc phiên âm hai cách, như chữ T
đọc là tê, tờ, nếu không biết, người xướng lên có cơ … á khẩu, người
nghe lắm lúc nghẹt thở thộn người. Ví dụ Người gởi viết: NBM; Người nhận đọc: Anh Bê Em Người gởi viết :TLM; Người nhận đọc: Tờ Lờ Mờ Hơn
thế nữa, dân ta vốn thích khôi hài thường hay nói lái, lối đá giò lái
"tuyệt cú mèo", chưởng phong khó đở, chất xúc tác biến mặt đổi màu nhanh
chóng, trắng thành xanh đỏ, đen ra trắng bệch xám ngắt như tờ. Tên
có ý nghĩa như ‘’Công’’,"Đức","Nhứt", "Thái", « Đạo », .. chỉ cần thêm
chữ đúng vận "hạp nhãn" đứng kề như ‘’công ngủ’’, đệ "nhứt cấp", trà
"Thái đức", “Đạo cụ”, “ Đạo dụ”, “Du ca “,“ cát tặc”, “Vũ như Cẫn”,
“Nguyễn Y Vân” là phản ứng xảy ra ngay! Vả
lại lối nói lái còn có thể áp dụng cho trên hai từ, trường hợp ba từ
như Nguyễn Y Vân thành Vẫn y Nguyên hay Vũ Như Cẫn ra Vẫn như Cũ. Ngoài
ra, chẳng những chỉ phải lưu ý đến tên đặt ra mà thôi, mà cần nghĩ đến
sự hòa hợp với ngay cả chữ lót và họ nữa. Tên Nghi mà có chữ lót là Đông
thành Đông Nghi, nói lái ra thành Đi ngông. Họ
Từ không được đi với họ Trần thành Từ Trần. Thật hi hữu khi đọc trên
thiệp mời đám cưới « Hai họ Từ Trần xin làm lễ thành hôn cho hai con
Nghĩa Trang… » Bạn
có thấy tiếng mình sao mà tinh tế lạ, tổ tiên ta thông minh tiến bộ
biết dường nào! Bao nhiêu lần bị xâm lăng lệ thuộc, tiếng vẫn còn trau
chuốt đẹp hay hơn. Tên ngày cũ « An nam » lưu niệm, "Việt Nam" nay bốn
biển biết uy danh ! Vốn
đã trót sinh trên trần thế, xin giữ tròn tên tuổi với quê hương. Gắng
tiếp nối giống dòng Hồng Lạc, tên ta còn nước ắt mãi tồn vinh. Trần Thành Mỹ ![]() Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 14/May/2021 lúc 11:36am |
||||||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||||||||
![]() |
||||||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||
Thư của cha già gửi con gái nhân Father’s Day ….. ![]() Con gái của Ba, Còn bốn tháng nữa con tròn 56 tuổi. Nhưng trong lòng Ba con vẫn còn trẻ như tuổi 15. Ba nhớ lại cũng ngày nầy 18 năm về trước, cha con mình đùm túm dắt nhau đi vượt biên rồi sang Mỹ. Ba nói là “đùm túm” vì hồi đó Ba từ trại tù cải tạo về thì con đã gần 40 tuổi. Khổ. Nghèo. Nhìn con gái Ba héo úa dung nhan mà Ba khóc ròng. Tại ba! Tại Ba hết thảy! Làm con gái của một “sĩ quan nguỵ” nên từ trường Đại Học ra con không có việc làm. Hàng ngày, ngồi ở góc chợ Bàu Hoa vùng Ngã Tư Bảy Hiền-Sài Gòn để bán từng tô bún mắm. Cứ ba tháng một lần lặn lội ra Bắc thăm Ba. Năm 1975 Mẹ con mới 50 tuổi. Người vẫn nghĩ rằng Ba chỉ đi “học tập ít ngày”. Thành ra, nghe Ba đi Bắc, Mẹ con bị shock. Cộng thêm bệnh cao huyết áp sẵn có Mẹ còn “nhất định nằm một chỗ!”.Thế là con gái của Ba vừa lo cho Mẹ, vừa lo cho Ba. Ba ở tù 8 năm thì Mẹ con mất. Phải đến 4 năm gian khổ đời con nữa Ba mới được trở về. Buổi tối đoàn viên ấy, cha con mừng mừng tủi tủi. Nhìn ảnh Mẹ con vẫn như tươi cười Ba tan nát cả lòng. Nhưng biết nói làm sao” Vận mệnh cá nhân mình gắn liền với vận mệnh quốc gia dân tộc. Cả
thời tuổi trẻ của Ba hầu như đi khắp 4 vùng chiến thuật. Mẹ con cứ bồi
hồi theo dõi đường Ba đi. Không biết mình sẽ thành goá phụ lúc nào. Thời
gian ở nhà của Ba rất ít. Con là con đầu lòng. Lại là con gái. Cảm ơn
con gái của Ba. Một đứa con gái có lòng hiếu thảo. Trong một lần thăm nuôi tại trại tù, con kể Ba nghe: Từ nhà mình tới chợ Bàu Hoa chừng non 1 cây số. Sáng nào con cũng bày hàng bún mắm ra. Mùi mắm kho thơm lừng. Có cả tôm thẻ lột, thịt quay, cà tím. Có cả những rau nhúc, cây bông súng, rau đắng, húng cây, giá sống và bắp cải bào. Khách hàng đông lắm! Con còn cười vui nói với Ba: Khi nào Ba về con sẽ mở một tiệm bún mắm và rau VÂN KHANH cho Ba ngồi thu tiền. Ba nghe với lòng se sắt. Con gái của Ba, Trớ trêu thay, lúc Ba về con đã là con gái lỡ thì. Ba buồn lắm. Nhờ ơn Thượng Đế mình vượt biên một lần trót lọt. Ba đặt chân đến đất Mỹ vào cái tuổi người ta sắp nghỉ ngơi. Chính vì vậy mà con lại khổ vì Ba. Con không muốn Ba đi làm ca đêm giữa trời rét buốt. Con nói cái lạnh miền Bắc Việt Nam đã cứa nát thịt da Ba cả chục năm trời cũng đủ lắm rồi. Ba hãy để con lo. Nhưng Ba đâu đành lòng như thế. Buổi sáng con ra khỏi nhà là Ba cũng đi. Tiệm giặt ủi gần nhà mình quá mà. Ba nhận phần việc ủi và xếp quần áo. Đi tới đi lui xem máy giặt nào ngưng. Máy sấy nào đồ đã khô. Chỉ vậy thôi. Một ngày, tính ra Ba đi cũng gần 5 cây số. Tội ngiệp con gái của Ba. Lúc người ta báo tin Ba bị xỉu thì con khóc ròng. Ba về nhà ở không và cho con nuôi tiếp. Thật người xưa nói đúng! “Trẻ cậy cha, già cậy con” mà. Vân Khanh con, Cho đến một buổi chiều, con đưa về nhà một trung niên trẻ. Trung niên mà Ba cho là “trẻ”. Vì Ba thấy diện mạo anh ta cũng dễ nhìn. Ba mừng vì con của Ba rồi cũng có một bến đợi để neo thuyền. Ba cầu mong cho con hạnh phúc . Chồng của con cũng là chiến hữu của Ba. Gia cảnh cũng không may mắn giống như Ba. Vợ anh đã chết trong lần đi thăm chồng. Cả chiếc xe lăn xuống vực. Từ đó anh dở dở ương ương. Qua Mỹ rồi anh vẫn sống như người mộng du. Cho tới ngày gặp con. Tình yêu thật là kỳ diệu! Chẳng những khiến cho con gái của Ba trẻ lại mà anh chàng “dở hơi” kia cũng chừng như mới cải lão hoàn đồng. Cứ 4 giờ khuya , anh thức dậy đi bỏ báo. Tới 9 giờ sáng về. Nghỉ ngơi rồi 5 giờ chiều đi vào hãng. 1 giờ đêm mới trở về nhà. Ba cảm ơn Thượng Đế lần nữa vì con có người chồng hiền lành và độ lượng. Chứ vào tuổi của Ba không bị đưa vào nhà dưỡng lão là hiếm lắm. Con nhớ gia đình Bác Th. không” Hai bác cưới vợ cho anh Cảnh từ lúc còn ở Việt Nam . Vậy mà qua Mỹ rồi Bác Thanh bị cô dâu xem như gánh nặng. Nhất định đòi anh Cảnh phải đưa Mẹ vào Nursing home cho đến chết. Vân Khanh con, Cả một thời trẻ tuổi của con đã dành để sống cho cha mẹ. Bây giờ con hãy sống cho con đi. Ba rất cảm động mỗi lần khách đến thăm nhà con hay nói: vợ chồng con có phước lắm nên suýt soát tuổi 60 mà vẫn còn có cha để phụng dưỡng. Phải ! Hồi đó ba khó nghĩ mỗi lần nghe người ta cho rằng sự sống con người tính theo công thức: 5 năm, 6 tháng, 7 ngày. Nghĩa là ở tuổi đời 5 bó, tuổi thọ tính theo năm. Đến 6 bó thì tính theo tháng , mà 7 bó thì tính theo ngày. Ba đã 80, chắc phải tính theo giờ quá! Cảm ơn vợ chồng con đã chăm sóc Ba mỗi ngày. Con nói: Ba ơi ! Với chúng con ngày nào cũng là Father’s Day cả. Ba thật có lỗi với con. Hồi đó Ba vẫn buồn thầm trong lòng khi mẹ con sinh con là con gái. Ông Nội con sợ Ba chết trận thì không có con trai nối dõi tông đường. Còn nếu Ba già mà yếu đau thì con là gái không thể chăm cho Ba được. Ca dao có câu:“Trai mà chi , Gái mà chi Nói đến đây Ba chợt nhớ loáng thoáng câu chuyện “Tấm đắp mông ngựa” mà Ba đã đọc từ rất lâu: Chuyện kể : Một người cha đã đem cả gia tài còn lại của mình cưới cho con cô vợ giàu, trẻ đẹp. Một thời gian đầu sống vui. Rồi những đứa cháu nội lần lượt ra đời. Người cha mỗi ngày một già yếu. Người con trai rất yêu và nể vợ. Dần dần quên đi trong nhà còn có người cha. Mùa Đông lạnh lẽo mà sức già chịu không thấu những ngày giá tuyết phũ phàng.Trong khi những con ngựa nuôi trong chuồng thì được giữ ấm bằng những tấm đắp mông. Đến chừng không thể chịu đựng được nữa người cha bèn gọi con trai để nói rằng: – Con ơi , hãy cho cha một tấm đắp mông ngựa đễ cha dễ ngủ vì mùa Đông nầy lạnh quá! Con dâu nghe được bèn nói với chồng: – Anh hãy lấy tấm đắp cũ ngoài sân kia mà cắt cho cha một nửa. ![]() Report this ad Người con trai làm theo lời vợ. Trong lúc cố dùng sức cắt đôi tấm đắp ra thì đứa con nhỏ đến gần, hỏi: -Cha ơi, sao không cho ông Nội cả tấm đi” Cha cắt ra làm chi “ Người cha trả lời: – Để dành con à. Hôm sau, người con trai thấy đứa con mình cũng đem tấm đắp mông ngựa khác cắt ra làm đôi. Người con trai giận dữ hỏi: – Con làm cái gì vậy” Tại sao con cắt nó ra” Đứa con nhỏ đáp: – Nửa tấm nầy con cho ông Nội. Còn nửa nầy để dành khi nào cha già con sẽ cho cha. Người cha giật mình hối hận. Từ đó, hết lòng chăm sóc cha mình cho đến cuối cuộc đời. Vân Khanh, Ba ước ao những người cha khác cũng có con hiếu thảo như con gái của Ba. Ba rất tự hào về con. Trong lúc có biết bao gia đình, cha mẹ ngậm đắng nuốt cay vì những đứa con Việt Nam sống theo kiểu Mỹ. Rất tự do! Thậm chí đã khước từ hai chữ HIẾU KÍNH cha mẹ, làm cho các bậc sinh thành hàng ngày sống “nước mắt chan cơm” thì Ba đã được vợ chồng con hết lòng chăm chút từng miếng ăn, giấc ngủ. Người xưa nói: “Hiếu thuận huờn sinh hiếu thuận tử. Ngỗ nghịch huờn sinh ngỗ nghịch nhi”. Ba ước nề nếp gia đình mình là như vậy. Ba của con, HOÀNG YẾN Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 13/May/2021 lúc 7:36am |
||||||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||||||||
![]() |
||||||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23705 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||
PHÉP XƯNG HÔ ![]() Trên
thế giới mỗi ngôn ngữ đều có sắc thái đặc thù riêng, Pháp hãnh diện về
cách dùng "cách, thì" (mode, temps) đa dạng qui định thích nghi, giống
(genre), số (nombre) phân biệt rõ ràng, Anh tính thực dụng chẳng hạn.
Thử so với vài thứ tiếng thường dùng nhất trên thế giới hiện nay như Anh
Pháp Đức Tây ban Nha, tiếng ta cũng có nhiều điểm nổi bật, sáng tạo,
chuyển thể và dễ hội nhập. Do
ảnh hưởng của hai nền văn minh Âu Á, vì sự trường tồn "tiếng ta còn,
nước ta còn", nhờ cuộc cách mạng ngôn ngữ độc nhất ở châu Á, dùng mẫu tự
la tinh thay nét chấm phá gạch sổ của chữ Nho, tiếng Việt chuyển mình
thành loại chữ dễ học, đọc, viết hơn. Đó
là chiếc chìa khóa mở cửa đưa ta gần với các tiếng mạnh văn minh khác,
con cháu ta ít ngỡ ngàng khi học ngoại ngữ gốc la tinh. Tiếng
"An nam" càng lúc càng được cải tiến thành tiếng Việt trau chuốt nhuần
nhuyễn, đơn âm có dấu như những nốt nhạc với âm giai cung bậc nhặt
khoan, đơn thuần hay kết hợp, lúc trầm khi bổng. Dạng
chữ dễ viết, cấu trúc câu không rắc rối, văn phạm ít rườm rà dễ sử
dụng, nhưng đối với người ngoại quốc, càng học tiếng Việt càng thấy quá
phong phú, sâu sắc, tinh tế, đến độ nào đó, họ cảm thấy không bao giờ
hoàn toàn hiểu nổi hết ý văn. Mỗi
từ đều có nghĩa, một hay nhiều, lại còn thêm chữ đệm, chữ ghép. Mạo tự
Anh "the", Pháp "le, la, les" chẳng hạn, được dịch sang tiếng Việt thật
như lạc vào "mê hồn trận", nào cái, con, sự, việc, môn, khóa, chiếc,
cây, sợi, bao, những, nhiều, ..
Về từ ngữ, không thể bảo tiếng ta nghèo, chẳng hạn chữ "porter" Pháp
được dịch sang là mang, đeo, đội, bận, mặc, bồng, bế, bưng, ẵm, khuân,
vác, gánh, v. v....Cũng chữ "noir" đen, ta lại nói tóc huyền, mèo mun,
chó mực, bò hóng, mắt huyền, ngựa ô, vv, vv... Cách
sử dụng quá phân định đó làm người mới học bối rối, con em ta lắm lúc
cũng bị "quay". Chẳng những thế, gốc Hán văn bàng bạc thẩm thấu trong
văn chương làm giàu tiếng ta hơn, do đó, cũng là vấn đề dễ làm mất hứng
cho người lạ muốn cấp tốc hấp thụ nhanh. Tuy
nhiên, những trường hợp nêu trên chỉ áp dụng cho ai muốn trau dồi thấu
triệt, chứ thông thường, nói đơn giản là hiểu được ngay. Thế
mà ngày nay, giới trẻ thường bị ông bà hay chê trách, nào là "vô phép",
"bạ đâu nói đó", không tôn ti trật tự, lễ nghĩa chẳng còn, đạo đức
xuống dốc, thường là vì phạm phải phép xưng hô. Đó
là lối mở đề cuộc giao tế trực diện, lối chào trong phép lịch sự, pháo
đầu trong ván cờ xử thế, khởi điểm của mọi tiếp xúc, liên lạc, trao đổi
tối cần trong việc sống chung.
Đơn cử một vài thí dụ về ngôi thứ, như ngôi thứ nhất, thứ hai Pháp "je,
me, moi, tu, te, toi", Anh đơn giản hơn " I, me, you", Tàu " ngộ, nị"
còn tiếng Việt ta sao mà quá phức tạp, chi li, tuyệt vời ...khó khăn, có
một không hai. Nội
ngôi thứ nhất thôi, ta đã có: tôi, ta, tớ, tao, tui, mình, qua, người
ta, anh, em, thiếp,... xưng bằng tên, đẳng cấp gia đình như ông, bà,
bác, cô,..,giai cấp xả hội, "trẩm", "thần"... “Nhân vật đại danh từ” còn có thể sử dụng, khi chủ từ lúc túc từ. Lại có lúc được dùng cả cho hai ngôi như chữ "mình", ví dụ: Mình (ngôi 1, CT) nói cho một mình mình (ngôi 2) nghe, mình (ngôì 2) nghe xong, mình (ngôi 2) hỏi lại mình (ngôi 1,TT). Hoặc: Người ta (ng2) nói người ta (ng2) qua nhà người ta (ng1) mà người ta (ng2) không qua (động từ). Hay: Hôm qua Hoa nói Hoa qua nhà qua (ng1) mà Hoa không qua, hôm nay, Hoa không nói Hoa qua nhà qua (ng1) mà Hoa lại qua. Nhớ
ngày còn đi học Trung học xưa, gọi các bạn trong lớp bằng anh, chị thì
ngại chê già, khách sáo, gọi tên lại có vẻ cầu thân, thân mật quá. Tiến
thối lưỡng nan đành…ừm ừm, ê ê, ờ ờ,...nói bông lông, “nói trống
không”, “nói trổng”: ‘’...Làm ơn tránh qua dùm một chút đi. Cám ơn. ‘’ hoặc “...Nói có vậy mà cũng giận, khó quá.’’ Hay “Nhờ có một chút chí vậy mà cũng làm tàng như ông tướng.” Muốn gợi chuyện làm quen cũng thường ấp úng hay “ lửng lơ con cá vàng”: ‘’Hôm qua thấy ...đi chợ, muốn chào mà thấy... như muốn làm lơ nên thôi’’. Vậy,
đứng trước người đối thoại, ta phải tùy theo quen lạ, vai vế, tuổi tác,
địa vị xã hội mà phát ngôn, thật không dễ đâu, lơ mơ dễ bị "bố nháng
lửa", "mắng vốn", "chọc quê." Thêm
vào đấy còn bao chuyện buồn cười thoải mái xảy ra như trong các cuộc
phiên dịch hay đối thoại với người ngoại quốc nói tiếng Việt. Người
Pháp, Anh, Trung quốc chẳng hạn xưng hô dễ dàng hơn vì thường trực tiếp
gọi nhau bằng tên, dùng “ moi, toi, lui, elle” như Pháp , Anh “ you,
me”, Tàu “ngộ, nị”... Người
Việt ta cũng có khi dùng “ dao to búa lớn”, “ mầy , tao, mi, tớ”, xưng “
ông, bà” đối với người đối thoại để thóa mạ, cải cọ, xích mích, khinh
rẻ, tị hiềm...,hoặc như các người già lớn tuổi ở miền Nam ngày xưa
thường xưng một cách rất thân tình là “tao “ và gọi con cháu là “mầy,
tụi bây…” không có hậu ý xấu nào khác. Trái
lại, cũng khá thông dụng không bị chê là mất dạy, như trường hợp đặc
biệt giữa bạn bè thật thân nhau. Trong gia đình hoặc quen thuộc lâu năm,
chỉ có người lớn mới xưng hô với hàng em út con cháu bằng “mầy tao”
thôi. Người ta có thể “xí xoá” bỏ qua cho người ngoại quốc chẳng hạn khi họ nói: “Chào ông, mầy vẫn mạnh chứ?” “Cho tao hỏi thăm vợ mầy”. Nhưng thật là hết ý, hết thuốc chữa khi một cậu Việt kiều giới thiệu ý trung nhân mình với gia đình: “ Thưa nội, đây là vợ của “mõa” (moi). Toa (toi) thấy “ểnh” (elle) dễ thương không?” Trường hợp khác :- Con vào chào Ông Bà đi con? - OK, mà con gọi”” him, her” là gì ? Chẳng
những thế, phép nầy vốn đã khúc chiết lại còn đèo thêm cách "nói tưng",
có thể do đọc trại chữ “nói tôn, nói tâng”, độc đáo ly kỳ hơn nữa. Con của các nhà quyền chức, phú hào thường được người đời gọi " cậu, cô" dù không họ hàng gì nhau. Hàng
xóm láng giềng, quen lạ cũng xưng hô một cách thân tình như ông, bà,
chú, cô, dì, thím, mợ, cháu, con... khác hẳn với người phương Tây không
phân biệt già trẻ, vai vế.
Ví dụ cha gọi con bằng “you, toi, vous”, con thưa cha cũng không khác
“you, toi, vous”; cha cũng như con đều tự xưng là “I, me”, “ moi” trong
khi ta có nhiều cách xưng hô về ba: Cha, ba, bố, cậu, thầy, tía,... Còn
nói gì trong các cuộc đối thoại thông thường, tùy tình huống hoàn cảnh
mà du di để diễn tả tình cảm của mình với người đối diện, ưa, ghét,
giận, khinh...thường đi đôi với cử chỉ, bộ điệu bổ khuyết minh họa tâm
trạng cùa nhân vật đối với đối phương. Ngoài
ra, tiếng Việt ta còn thêm vấn đề cữ tên kỵ húy, nhất là miền Nam, chỉ
goị thứ, nên cả xóm làng chỉ có ông hai, bà ba, cô tư, ...do đó cũng gây
sai lệch, lầm lẫn, khó phân biệt ai có bà con thật ai không, họ hàng
gần hay xa.. Trong gia đình, phẩm trật bên nội ngoại được phân biệt rõ ràng, dù ba miền có vài điểm chênh lệch. Miền
Bắc thường gọi chị của ba hay má là bác, chồng cũng được gọi bằng bác.
Còn em gái của ba được gọi là cô, của má là dì, chồng của họ được gọi là
chú. Trong khi miền Nam gọi chị hay em gái của ba đều là cô, của má là dì, chồng của cô dì đều là dượng. Vậy,
ở miền Bắc, bên ba gồm ông bà nội, bác( anh của ba),bác gái (vợ của anh
của ba mình), bác (chị của ba), bác trai (chồng của chị của ba mình),
chú (em trai của ba), thím (vợ của em trai của ba mình), cô (em gái của
ba mình), chú (chồng của em gái của ba mình). Bên
mẹ có ông bà ngoại, bác (chị của mẹ mình), bác trai (chồng của chị của
mẹ mình), cậu (em trai mẹ mình), mợ (vợ của em trai mẹ mình), dì (em gái
của mẹ mình), chú (chồng của em gái mẹ của mình). Ở
miền Nam, bên ba có ông bà nội, bác, (anh trai của ba mình), bác gái
(vợ của bác), chú (em trai của ba mình), thím (vợ của chú), cô (chị hay
em gái của ba), dượng (chồng của cô), ... bên mẹ có ông bà ngoại, cậu
(anh hay em trai của mẹ đều gọi là cậu), mợ (vợ của cậu), dì (chị hay em
gái của mẹ), dượng (chồng của dì)...nên không được sai sót trong việc
xưng hô. Bà
con họ hàng, bên nội hay bên ngoại, anh chị em ruột, anh chị em họ tức
là anh chị em con chú con bác, con cô con cậu, bạn dì cũng phái gọi nhau
đúng phép, theo thứ bậc, vai vế hoặc theo cách ‘nói tưng’. Theo
phép ‘nói tưng’ tế nhuyễn nầy, đối với người ‘vai lớn’- như con bác
mình chẳng hạn- mình “vai nhỏ” hơn bắt buộc phải gọi theo vai, tức là
bằng anh hay chị không kể vóc dáng hay tuổi đời. Nhưng ngược lại, anh chị vai lớn, như con ông bác, mà nhỏ tuổi hơn con ông chú, vai lớn cũng phải giữ lễ “gọi tưng” lại vai nhỏ. Vai
lớn là con trai, tất phải gọi em họ trai mình là chú, em họ gái mình là
cô, có nghĩa là chú em, cô em , hay nói rõ hơn là chú cô của con mình.
Nếu là nữ thì gọi người em họ trai vai nhỏ bằng cậu, em họ vai nhỏ gái
là dì. Trong
đại gia đình và cả ngoài xã hội, phép xưng hô nói chung và đặc biệt
kiểu “nói tưng” khá rắc rối, phức tạp trên luôn được áp dụng phổ quát
cho mọi tầng lớp thế hệ trước sau, cũng cùng qui ước nội ngoại, nam nữ,
vai vế, tuổi tác rõ ràng, minh định tôn ti dòng họ, nếp sống lễ giáo
truyền thống của dân ta. Ngoài
ra cũng có vài từ ngoại lệ như chữ “thầy” thường dùng trước kia. Đây
không phải là từ chỉ dùng riêng cho ngành dạy học, thầy giáo, cũng không
phải như nhiều địa phương gọi ba là “thầy”mà dành chung cho tất cả
những ai có học đi làm như thầy thông, thầy ký, v.v. Trong
bài diễn văn, cuộc đối thoại hay thư từ, chữ “monsieur” chẳng hạn cũng
được danh xưng phiên dịch bằng nhiều cách thích ứng với hoàn cảnh, cấp
bậc xã hội như ‘ông, bác, chú, cậu, ngài... Thật
ra tiếng Việt ta, nghĩ cho cùng , thật uyển chuyển, đa dụng, thâm sâu,
bao quát mà chi tiết, chính xác lại cầu kỳ, dễ thích ứng, quyền biến
nhưng vẫn giữ nét đặc trưng, nếp độc đáo văn minh riêng mà phép xưng hô
là mật khẩu, ấn chỉ tiêu biểu nhất . Cũng
có thể chính nhờ truyền thống huyền diệu nầy mà qua bao nhiêu thăng
trầm biến đổi, Việt nam ta còn giữ vững được tên. Cách gọi nhau thân
thương như ruột thịt, anh em chú bác cô dì,... quả là sợi giây huyết
thống vô hình ràng buộc những đứa con vào lòng đất mẹ, hướng về nguồn
cội tổ tiên chung, luôn nhắc ta cùng là con cháu của bọc trăm trứng Lạc
Hồng, dòng dõi Rồng Tiên. Trần Thành Mỹ |
||||||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||||||
![]() |
||||||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23705 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||||||
![]() |
||||||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23705 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||
Kiếp Ve Sầu
Kiếp Ve Sầu
|
||||||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||||||
![]() |
||||||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23705 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||
![]() |
||||||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||||||
![]() |
||||||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23705 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||
Tuổi học trò thuở 1945-1949 ![]() Tôi sanh ra vào những năm thế chiến thứ 2 đi vào tình trạng khốc liệt.Nước Việt lại thêm những bóng dáng người lính nước ngòai đến từ xứ Thái Dương thần nữ. Thuở ấy tôi đã lên chín tuổi, ít nhiều cũng nhận biết bóng dáng và tiếng nói của những người lính nầy. Dáng người không cao lắm, tiếng nói gần như la hét , phần nhiều người Việt Nam ít người hiểu biết họ nói gì, Rất ít người biết tiếng Nhật, nên số người làm thông dịch tiếng Nhật không nhiêu . Quân đội Nhật đến trú đóng ở tỉnh tôi không bao lâu.. Khỏang nửa năm sau, lại thấy những người Pháp trở lại thay thế quân đội Nhật. Tôi nào biết gì về từ đảo chánh hay cướp chính quyền.! Bản thân cảm thấy khi lực lượng của Pháp trở lại không khí , sinh họat trong người dân có vẽ thỏai mái hơn , vì đất nước mình bị Phàp chiếm đóng , bị Pháp quốc đô hộ , dù sao người Pháp trở lại , dân mình còn nói năng được, giao dịch được, vì thế hệ cha ông đã học qua ít nhiều ngon ngữ nầy. Tôi cũng thấy thỏai mái , vì từ lớp Enfantin , là lớp một bây giờ , học trò đã được học tiếng Pháp. Còn nhớ những lời học thuộc lòng như két , như vẹt , nhưng dể nhớ , thí dụ Mere là me , pere là cha ,peau là da , chair là thit , canard là vit , coq là ga , maison là nha , feu là lửa., charbon là than,..v..v..Chương trình học sử dụng hầu hết tiếng Pháp từ bài học thuộc lòng đến tóan pháp (gọi là probleme), công dân giáo dục gọi là instruction civique, lich sữ , địa dư tất cà đều dùng tiếng Pháp là ngôn ngữ chính., ngay tập viết được gọi là ecriture.. bài học thuộc lòng gọi là recitation..Kể cả bản quốc ca ,lúc đó học sinh được day “..Allons enfants de la patrie…” thay vi “Nấy công dân ơi..đứng lên đáp lời sông núi..” Ngay những bài tập đọc , tôi còn nhớ bài có tựa Le buffle..Le buffle est un animal le plus repandu dans l’Indochine.. đây là bài tập đọc ở lớp ba được gọi Cours Elementaire lúc đó. những buổi học , khi có vị thanh tra đến viếng lớp , hoc sinh phải đứng thẳng người, khoanh tay trước ngực và cùng nói lên “Bonjour Mr. l’inspecteur general” để chào đón quan thanh tra viếng lớp. (Ngay nay hoc tieng Anh cung co cach hoc dể nhớ- do mot than hữu ghi lai- ), nhu: Long dài, short ngắn, tall cao Here đây, there đó, which nào, where đâu Sentence có nghĩa là câu Lesson bài học, rainbow cầu vồng Husband là đức ông chồng Daddy cha bố, please don't xin đừng Darling tiếng gọi em cưng Merry vui thích, cái sừng là horn Rách rồi xài đỡ chữ torn To sing là hát, a song một bài Nói sai sự thật to lie Go đi, come đến, một vài là some Đứng stand, look ngó, lie nằm Five năm, four bốn, hold cầm, play chơi One life là một cuộc đời Happy sung sướng, laugh cười, cry kêu......) Cam on than huu co ghi cach hoc nay. Thoi gian lãng lẻ trôi. Năm học nầy lại đến năm học tới...tôi lại được chuyễn đến lớp Cours Moyen (là lop 4 bây giờ). Ở các xã không có các lớp nầy , nên chúng tôi phải chuyễn đến tỉnh lỵ cách nhà tôi 8 kilometres , lúc đó thường gọi là cây số ( l cây số là khỏang cách 1000 thước, nguoi dân thường gọi cây số để dể hình dung được khỏang cách). Phương tiện vận chuyễn còn rất hạn chế , dùng tòan xe do ngựa kéo , xe do bò kéo , một số ít xe hơi làm phương tiện di chuyễn cho công cộng. Không kể những nhà giàu cũng có xe hơi lọai bánh xe còn dùng cây căm sắt, lọai xe hiệu Renault hay Citroen (kiểu Traction)- Tôi còn nhớ Cựu hòang Thành Thái có dùng lọai xe nầy ở Sai gon vào những năm 1950., thuở nấy tôi đã lên Saigon để học bậc Trung hoc. Nhớ lại những năm đi học tại trường tiểu học Gò Công, người học trò thường mặc quần đùi (quần cụt) , khá hơn thì măc quần Short, áo bà ba, hay chemise thành phần khá giả, con cái của thơ ký, hay người buôn bán ở vùng chợ, sau nầy được gọi là thị xã , nghe có vẽ văn minh hơn..Gia đình tôi cũng không giàu , để có 1 hay 2 cái áo chemise mặc đi học ở trường tỉnh, mẹ tôi phải tự cắt may , khâu bằng tay, từng mủi chĩ một để hóan thành cho tôi được có chiếc áo chemise mặc đi học như các bạn bè ở chợ. Hình dung lại hình ảnh mẹ tôi, ngôi khâu từng mủi kim đường chỉ, sao tôi nhớ và thương ngưởi mẹ cũa tôi quá, giờ đây ngồi ghi lại những dòng nấy tôi nghe lòng mình ray rứt , nhớ mẹ tôi , giờ người đã bỏ tôi đi từ lâu, cãm thấy lòng mình buồn ơi là buồn!! Thời buổi đó, người Việt mình còn dùng tiền xu và cắt. Mổi ngày tôi được hai mươi xu để mua thức ăn sáng. Trước cửa trường tiểu học Gò Công có chị hai "planton" (Khong biet tên) chị ấy bán bánh mì baguette , bỏ vài miếng thịt ba chi có thêm sauce màu đo đỏ, nhìn bắt mắt để gơi vị giác, và có bạn trẻ tên là Phú bán nước đá bào nhỏ , nhận trong ly, thêm tí sirop . Những thức ăn đó phần nhiền được học trò nhà nghèo chiếu cố kỷ.- Một cái hồ nước do 1 dòng sông được ngăn hai đầu, lập thành hồ nước, xung quanh có cẩn những phiến đá tạo thành nấc thang lên xuống hố, được gọi tên piscine.Hồ nước sau những năm 50-60 có con rùa khá lớn sống nơi đây. Khỏang giửa hồ nước có cây cầu bằng gổ, để những ngưởi tắm dùng nơi ngồi nghĩ hay làm những lần phóng mình (plongeon) xuong nước hồ.Ngày nay hồ nước nầy vẫn còn và được xem là một công viên nơi thị xã Gò Công. Cours Moyen nơi tôi học mấy tháng đầu niên học1946 do cô Bảy Huyện dạy, sau đó vài tháng được thay thế bởi cô Bảy Tốt. Cô Tốt vừa tốt nghiệp trường Sư Phạm, được chuyển về Go Cong va dạy lớp của tôi học. Rất tiếc cô Bảy Tốt dạy được vài tháng, cô Bảy Tốt lại bỏ thành thị đi theo kháng chiến (?), và vào thơi đệ nhứt hay nhi CHVN, nghe đâu cô Bảy Tốt trở về thành và tiếp tục nghề dạy hôc tậi trường Trung Tiểu học Hùng Vương tại Saigon, cô Bảy Tốt có nhà ở cư xá Lữ Gia. Tôi có người thân đến thăm cô Bảy Tốt . Không biết giờ nầy cô Bảy Tốt còn nhiều sức khỏe với cuộc sống hiện nay tại thành phố đã đổi tên!! Nhắc đến cô Bảy Huyện, Cô Bảy Tốt, "nhứt tự chi sư, bán tự chi sư",tôi nhớ đén cô Du cũng dạy ở trường nam tiểu học thời bấy giờ. Được tin anh Lộ Công 15 cho biết cô Du hiện sống ở California , rất tiếc tôi không học với cô Du. Có Du còn khỏe mạnh, nếu các bạn nào là học trò cũ của cô Du, nên liên lạc Go Cong Cali , hoặc anh Mười Lăm (Lộ Công) sẽ biết tin. Lớp Moyen( cùng gọi là lớp nhì ) cũng có thây Huệ, trông thầy dáng vấp Sport lắm, thầy Huệ hay dạy thế lớp tôi , khi cô Bảy Huyện hay cô Tốt có việc nghỉ dạy trong một hay hai ngày. Đặc biệt thầy Huệ có mái tóc cắt ngắn cao và thầy hay đọc chữ “AVEC” với cái đuôi (ending sound) “cơ”. Một kỷ niệm! Thời gian học nầy cũng có giờ học “Caractere chinois” do ông thầy Mai dạy. Thầy Mai có dáng đi đặc biệt, từ xa thấy bước đi của thầy, là nhận biết ngay. Sau 1975, tôi có dịp làm chung với ngưới con của thầy Mai, tên Long, tai Saigon. Có lúc đi và về Gò Công tôi cũng hay gặp ông Long cũng đi về Gò Công thăm gia đình. Không biết ông Long bây giờ ở đâu!! Năm 1947, vào năm học mới tôi được lên lờp nhứt cours superieur do thấy Đinh Bá Huề dạy. Lớp kế bên là thấy Võ văn Đài và thay Đặng Xuân Chiếu dạy Cours Superieur. Sau nầy Thầy Huề chuyễn về trường trung Hoc Petrus Ký phu trách giám thị (surveillant). Thầy Huề có hai người con đều là bác sĩ Đinh Bá Hào va Đinh Bá Hiệp . Nghe đâu hai bác sĩ Hào và Hiệp có về Gò Công phục vụ trước 1975..Ở lớp superieur, tôi có học chung với ông Nguyễn văn Ngôn, các anh Bachus Ngọ, Hóa (truoc 1975 la thiếu tá phi công, hiện giờ sống tại Gò Công (?), bạn Nguyện Khánh Triều (truoc 1975 la sĩ quan, tại bộ phận Tài Chánh, Hành Chánh thuộc Bộ TTM QLVNCH), Giờ anh Triều ở đâu !!. Nhắc lại những năm học ở trường nam tiểu học Gò công, có những lần lớp học phải “di tản” đến miểu Bà hoặc nhà của bà Bác sĩ Trần Công Đăng, gần nhà của anh Lộ Công để tiếp tục học, vì trường Nam tiểu học lúc bấy giờ đôi khi bị quân đội Pháp tăng viện về Gò Công tạm thời sử dụng. Một kỹ niệm khó quên, vào buổi chiều của năm 1947 hay 1948 khỏang 3 giờ lop Superieur do thầy Đỗ Bá Huề dạy trên lầu, học trò lúc đó đều nghe vài tiếng súng vọng về từ phía chợ Gò Công, từ lớp học nhìn về phía nầy thấy một người mặc quần áo màu sậm bị trói dựa vào cột đèn khỏang đất trống phía sau Brocanteur (Tòa nhà lầu khá to) là tiệm cầm đồ của Hui Bon Hoa – sau nầy bán lại cho BS Trương Văn Huân làm phòng khám bệnh và nhà bão sanh , mot tên Việt Minh bị Pháp bắt, xử bắn để làm gương. Tan học, tính hiếu kỳ toi đi ngang qua chổ người bị xử bắn để nhìn, đêm về lại sợ ma…! Năm 1948-49, tôi được lên lớp Cours des Certifies (Tiep Lien) học chung với các người con của ơng thầy Võ Văn Giáp như Võ văn Kỷ, Võ thị Mầu và con của ông Thanh Tra Lắm là Phạm văn Cấn , Phạm thị Mẫn,,,, ..và hai người con của bác sỹ Huân là Trương văn Sang , Truong thị Kim Lan, chị Phan Thị Hiếu. Đặc biệt, tính tôi "thấy ai làm quan và giàu sang hay bắt quàng làm họ" (Vui), chị Hiếu ho Phan, (dường như chi Phan Thị Hiếu hiện giờ ở Australia(?)cùng họ tôi biết mà không dám hỏi hay thưa chuyện, vì thuở đó nam nữ học chung ,sợ ông thầy quá nghiêm khắc, nên không dám hỏi chuyện , nhìn họ hàng hay thân quen (!); không như ngày nay......Phia nam có anh em của Bachus Nguyễn văn Ngọ (Hiến Binh rồi Cảnh Sát) Nguyễn văn Hóa (Thiếu Tá phi công), kể cả các anh Nguyễn Trọng Nghịa,(VA) …Thân –(FL)-(Những vị nầy có một thời đi mây về gió), anh Lê Tấn Ngọc (Philadelphia) , anh Nguyễn văn Ngôn , Giám Đốc Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam (Nếu ai đã từng đi nước ngòai đều có dịp gặp ông Ngôn để xin đổi ngọai tệ), và người bạn tên George , học nửa năm Certifies , anh xuất ngọai sang Pháp, và cả người học trò có vóc dáng cao lớn là Simon, thường được bạn bè gọi là KING KONG. Trước 1975 anh nầy có chiếc xe hiệu Simca, hay lên xuống Saigon-Gocong, và anh Lộ Công Mười Ba..(kỹ sư có phục vụ tại Bảo Tàng Viện Saigon, hiện ở Canada..), co thầy giáo Nguyển van Ba, thầy Phan Thanh Sắc.., thầy giáo...Triết dạy tài trường Vĩnh Bình. Xin gửi lời thăm hỏi và chúc sức khỏe anh Ba ( có gửi lới thăm qua anh Thy Lan Thào), anh Sắc,anh Triều... Anh... Phục quê Vĩnh Lợi, tôi có gặp tại Saigon trước 1975..... Giờ nầy các bạn bé cũ ở đâu!! . Lớp tôi có anh Nguyễn văn Khuê ,gốc o chợ giồng ông Huê. Tôi và anh Khuê hay đi về chung trên đường về quê Vĩnh Lợi. Anh Khuê bị chết vì lựu đạn nổ trong đêm anh xem hát ở rạp hát Gò Công., có anh…. Quý (hay gọi là ông cả Quý), không biết sau nầy từ khi chia tay ở lớp Certifies, những người bạn cũ đi về đâu, ngày nay cuộc sống ra sao, còn hay mất, những bạn nào bỏ đi trước, nhựng người bạn còn lại xin xem đây là tâm lòng của người đồng môn !! . Bên trường nữ tiểu học do ông Phạm văn Hợi làm hiệu trửơng, có cô giáo..Lài , dạy lớp nhứt. Ông Hợi la anh của ông Phạm van Sữu dạy thể dục, sau ong Sữu đổi về Trung Học Pétrus Ky cùng thời gian với ông Đỗ Bá Huề. Thời gian sau, ông Sữu đổ cử nhân Luật, ông Sửu chuyễn nganh, giử chức vụ Thẫm Phán tòa án Ba Rịa. MỘT GƯƠNG HIẾU HỌC, ĐÁNG KÍNH PHỤC. Cô giáo Lài có thời gian chuyễn vế Saigon, giử chức hiệu trưởng trường quân đội tai 17 đại lộ Norodom (rồi Thống Nhứt, Lê Duẩn..) Những năm học ở trường tiểu học Gò Công, tôi ở trọ nhà người thân tộc là chú của tôi có cac con là Phan Thị Bich-Vân, Phan Thị Bich-Thủy,Phan thị Bich-Hà, Phan thị Bich-Châu, Phan Thị Bich-Ngoc, Phan Thị Bich-Đào..nhà ở xéo Miễu Bà, kế bên nhà ông cả Tùng, bên cạnh nhà bà Năm Súng..phía trước là nhà của ông cả Hồ và của gia đình Diệp Thuận…, Diệp Kim Sanh là bạn học., l cây vơt ping pong rất khá..và đá bóng tròn cũng hay.. Những chiều thứ tư hay thứ bảy, người học trò từ các xã vùng xa phải trở về nhà của cha mẹ, sống với gia đình ngày thứ năm hay chủ nhựt.Lúc bấy giờ phương tiện di chuyễn bị hạn chế, xe ô tô không có nhiều, xe ngựa, xe bò là chính. Váo buổi chiều thứ tư hay thứ bảy trên đường về nhà cha mẹ, chúng tôi phải đi bộ. Đôi lúc có chiếc xe ngựa nào trên cùng đường về, chúng tôi hay chạy theo. Khi chạy theo, chỉ vin vào thành xe ngựa , đau đớn thay, người chủ xe không những không cho vin theo chiếc xe đang di chuyễn còn dùng roi đánh tréo về phia sau, không cho những đứa học trò nghèo như chúng tôi vin theo, chỉ vì sợ nặng chiếc xe do ngựa kéo. Thôi đành buông tay , và chạy theo xe với khỏang cách 5 tấc..tránh những cái đánh bằng roi quất ngựa của chủ xe. Đau đớn thay! Có lúc không chạy theo xe ngựa, chúng tôi đi bộ và thỉnh thỏang xuống ruộng khô, tìm bắt dế, khi nghe có tiếng dế “ré” Việc bắt dế này tôi nhớ anh Lộ Công 15 có nhắc là anh L C 13, có lấn đi học băng qua thủa ruộng, ham bắt dế súyt bị răn”quầm”. Vui .LOL Vào khuya sáng ngày thứ hai hay thứ sáu, các học trò nhà quê phải lội bộ trở lại trường. Bản thân tôi, phải thức sớm, đi bộ theo vài chiếc xe bò chở rau cải, hay những bình chứa nước mắm, bạch nha, thùng đựng khô, cá , xe chở đến chợ để bán vào sáng sớm. Người bán hàng theo xe bò, mắc võng dưới gầm xe bò lắc lư, đong đưa, khi xe di chuyện.Những đêm trăng sáng,chúng tôi ít sợ ma. Đêm tối trời là cả cực hình vì sợ ma. Thời đó hai bên đường rất vắng vẻ, không có nhiều nhà như bây giờ, Có vài lần đang đi một mình hay có vài người bạn, chúng tôi phải ẩn nấp vào một vài cái chòi (Người giử vịt đàn hay dùng chòi ngù qua đêm, để chăn vịt ngày hôm sau) ví xe “Nồi Đồng” (Auto blinde) của quân đội đi tuần tiểu trong đêm.. Ghi lại những kỷ niệm nầy, nhằm mục đích nhắc lại một thời gần đây các thành viên trên Forum Gocong, it ai ghi lai quảng đời nầy. Giờ đây thế hệ trường Trung Hoc Gò Công có điều kiện nên nhắc lại nhiều kỹ niệm thời “trung hoc Go Cong”. Tôi xin mạo muội ghi lại những dấu ấn một thời để nhớ !!Thuở chúng tôi, Gò Công chưa có trường trung học. Muốn tiếp tục học, học trò phài thi vào trường trung học tỉnh Mỹtho hay Sài Gòn. Viết đến đây tôi xin ghi thêm vài dòng để tưởng nhớ đến ông Hồ Biễu Chánh, theo trong gia đình , ông Hô Biểu Chánh la bác cùa tôi, vi có liên hệ huyết thống từ ông sơ của tôi là Phan Văn Huê, bác Hồ Biểu Chánh goi la ông Cố Ông sơ có người con gái lớn tên Phan Thị Huệ , chì thứ hai của ông cố tôi, lấy chông phía nhà họ Hồ.. ông Hô Biểu Chánh goi là bà nội... Những năm toi hoc o Go Cong, thỉnh thỏang tôi có đến nhà của ông bà Hồ Biểu Chánh, cạnh nhà ong phủ Châu văn Độ,(xin nói vế các người con của gia đình nấy , gồm cò thầy..Giao-thân phu của cô Châu thị Hoa; ông Châu văn Lương, thầy giào, tay tennis có nhiều nét vui,ông Lượng thường chấp đối thủ khi đánh tennis bằng cách,một tay cầm vợt một tay xách thùng thiếc , khi ông Lượng đánh qua một quả bóng , ông phải gỏ vào thùng thiếc ,xoay vòng tròn một lần , thế mà thầy CV Lượng vẫn thắng cuộc; ông Châu văn Phú , anh rể của cô Nguyệt Urago.;ông Châu văn Quang(Antoine) là đại tá thiết giáp quân đội VNCH, ông Châu văn Minh, thiếu tá, ông Châu văn Bach, chuyên viên kỷ thuật cơ khí máy bay , học ở Rochefort, Phàp (hai anh Minh và Bạch cùng ở trọ chung với tôi lúc học tại Saigon), Nhà của ông Hồ Biễu Chánh toa lạc bên kia dinh tỉnh trưởng. Tôi hay đem biếu quà của cha mẹ tôi đến gia đình ông Hồ Biễu Chánh. Một điễm rất đặc biệt là khi ông Hồ Biễu Chánh viết bản phác thảo tiểu thuyết của ông, dêu được bà Hồ Biểu Chánh đọc lại và sửa chữa, điễm nầy tôi được bac Hồ Biễu Chánh nói với tôi khi tôi đến thăm ông bà. Cũng nhờ ông HB Chánh khuyến khích cha mẹ tôi cho tôi thi vào hệ Enseignement Moderne và cũng nhờ sự hướng dẫn của ông HCKy-Trân(giáo sư Anh văn trường Pétrus Ký, hiệu trưởng trung học Thoại Ngọc Hấu, Long Xuyen, Dân Biểu Quốc Hội VNCH) và ông Hò Văn Di Hinh (đại tá quân lực VNCH) là con cùa ông Hồ Biễu Chánh. Khoảng năm 1950 ông và bà Hồ Biễu Chánh đã chuyễn về Saigon , ngụ tại đường Arras (nay là Cống Quỳnh) , sau chuyễn về đường Trương Tấn Bữu.. Những người ân nghĩa đã đi xa, giờ chỉ biết nói lên lời cãm tạ và để giây phút tưởng nhớ đến những ân nhân giúp đở trong tinh thần thân tộc.. Cám ơn thân hữu , bạn bè đọc bài nầy; xin thứ lổi nếu có điều sơ sót . Rất đa tạ. Phan THành Hữu |
||||||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||||||
![]() |
||||||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23705 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||
![]() |
||||||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||||||
![]() |
||||||||
<< phần trước Trang of 215 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |