![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Thơ Văn | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 201 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23816 |
![]() ![]() ![]() |
Tiếng Thở Dài Trong Đêm...![]() Hai hôm nay cứ đến khoảng 4 giờ sáng là lại thức giấc. Thế là truyện ngắn này ra đời. Khi viết truyện thì ngoài cốt truyện, tựa truyện thì tên nhân vật chính trong truyện cũng là việc khiến tôi phải chọn lựa. Phải chọn sao cho không trùng hợp với ngoài đời. Việc này hơi khó vì nếu chắc chắn nhất thì chỉ có thể xài những tên lạ như Mít, Xoài, Ổi, v.v... Thành ra nếu có sự trùng hợp nào ngoài đời thì chỉ là ngẫu nhiên. ******* Vừa đi làm về mở cửa bước vô nhà thì Hoàng nhận được một cú phone. Vì số máy lạ nên Hoàng để answering machine tự động trả lời. Đầu dây bên kia ngập ngừng giây lát rồi nói: - Chào anh Hoàng, tôi là Tùng người có email cho anh hôm trước. Xin lỗi vì đã gọi cho anh giờ này. Tôi gọi để muốn hẹn gặp anh nói chuyện thêm về việc mà tôi có kể trong email. Nếu tiện anh gọi lại cho tôi ở số ..... Nghe đến đây Hoàng nhấc máy lên: - A lô. Chào anh Tùng. Tôi Hoàng đây. - Dạ chào anh. - Sáng thứ Bảy này tôi rảnh mình có thể gặp nhau được. Anh cho tôi địa chỉ nhà tôi sẽ ghé khoảng 10 giờ sáng. - Dạ vâng anh. - Từ giờ đến đó nếu có chuyện gì thì anh email cho tôi cũng được. Chào anh nhé. - Dạ bye anh. Tính Hoàng không thích nói chuyện điện thoại nhiều, anh thích dùng email hay text nhiều hơn nhất là gặp những trường hợp như thế này. Chả biết sao mà Tùng lại tìm ra được số phone nhà của Hoàng vì anh không cho người ngoài số phone của mình bao giờ. Sau khi cúp máy Hoàng mở email của Tùng ra đọc lại. - Chào anh Hoàng tôi xin tự giới thiệu mình tên là Tùng. Tôi được người quen giới thiệu và cho địa chỉ email của anh. Nghe nói anh có khả năng liên lạc với người cõi âm nên tôi mạo muội gửi email này cho anh để nhờ. Chuyện là như thế này. Vợ chồng tôi có một căn nhà cho thuê. Căn nhà chúng tôi mua hơn hai năm nay và đã lần lượt cho nhiều người thuê qua. Tất cả đều trả nhà với cùng một lý do là nhà đó có ma. Nhiều người chịu mất tiền cọc để trả nhà trước thời hạn hết hợp đồng. Vợ chồng tôi không đi nhà Thờ mà cũng chẳng đi Chùa nên không biết phải nhờ cậy ai. May có người bạn làm chung sở giới thiệu nói anh có thể giúp được. Hy vọng anh nhận lời giúp chúng tôi. Mong hồi âm của anh. Thân, Tùng Cái email này Hoàng nhận cách đây cũng hai hôm nhưng lu bu công việc nên quên không trả lời. Khả năng tiếp xúc với người cõi âm như Tùng đã nhắc trong email đến với Hoàng một cách thật tự nhiên. Cách đây rất lâu từ lúc Hoàng còn nhỏ, một bữa anh đi cùng Ba Mẹ về từ một đám tang người trong họ thì bị trúng mưa và cảm nặng. Trong thời gian mấy ngày nằm sốt mê man Hoàng cứ nằm mơ thấy nhiều người, lạ có mà quen cũng có. Điều đặc biệt là những người quen đều là những người đã mất kể cả người Bác mà Hoàng vừa đi dự đám tang về. Tất cả những người trong giấc mơ đều rất ân cần đối với cậu bé Hoàng. Thế là từ đó Hoàng thỉnh thoảng vẫn nằm mơ thấy những người đã khuất nhưng Ba Mẹ anh cũng chỉ cho đó là những giấc mơ bình thường. Đến khi trưởng thành, Hoàng mới tự nhận ra là mình có khả năng liên lạc với người cõi âm trong giấc mơ. Hoàng cũng biết mình có khả năng phát hiện những nơi nào có âm khí qua trực giác mà những người đi ngay bên cạnh không hề có cảm giác gì khác lạ. Nhờ khả năng này Hoàng đã giúp đỡ được rất nhiều trường hợp người sống bị cõi âm theo. Bạn bè có người xúi Hoàng dùng khả năng này để phát triển thành một nghề kinh doanh nhưng anh không làm vậy. Hoàng tự nghĩ đây là một khả năng được trời ban cho để làm cầu nối giữa hai thế giới âm và dương. Nếu dùng nó để làm lợi cho mình thì Hoàng sợ sẽ tự mình làm tổn đức của mình. Có điều trong những trường hợp Hoàng giải quyết, anh đều dùng khả năng của mình để tìm hiểu những khúc mắc của người cõi âm để giúp đỡ, chứ anh không hề biết phép trừ tà hay cúng bái gì. Anh cũng đã từng giúp cho nhiều người tránh bị lường gạt bởi những người tự xưng là thầy pháp biết trừ tà ma. Sáng thứ Bẩy, Hoàng có mặt tại căn nhà cho mướn của Tùng. Đây là căn nhà có vẻ hơi cũ kỹ ở một khu cũng không phải hẻo lánh lắm. Nhà có vườn trước vườn sau tuy nhỏ nhưng cây cối cũng khá âm u vì bóng của hai cây sồi lớn phía sau. Hai vợ chồng Tùng dẫn Hoàng đi xem khắp mọi ngóc ngách của căn nhà hiện còn đang bỏ trống. Vừa bước vô nhà là Hoàng đã nhận thấy trong nhà có âm khí rất nặng. Anh cảm thấy ớn lạnh mặc dù trời đang mùa hè và nhà không ai ở nên không bật máy lạnh. Căn nhà nhỏ hai tầng có một phòng ngủ master bedroom và một phòng ngủ phía đối diện của hành lang. Ở góc cuối là một phòng nhỏ có thể dùng làm phòng làm việc hay nhà kho. Hoàng hỏi: - Những người mướn nhà họ căn cứ vào đâu mà nói nhà có ma vậy anh chị? Vợ Tùng nhanh nhảu trả lời: - Ai cũng đều nói như nhau là nhà có ma đó anh. Họ nói nghe thấy tiếng động lạ, bị phá trong lúc ngủ, mất đồ đạc... Đến đây thì Tùng tiếp lời vợ nói từ tốn chậm rãi hơn. - Tùy người mướn đó anh. Trước đây có đám thanh niên độc thân mướn thì họ nói bị phá ghê lắm. Đêm ngủ cứ bị nắm chân hay như có ai giựt tóc phá không cho ngủ. Bạn bè đến nhà chơi ngủ lại qua đêm bị phá, có người sợ quá bật đèn thức đến sáng không dám ngủ lại. Có cặp vợ chồng mướn sau đó thì chỉ có nghe tiếng nồi niêu khua hay tiếng bàn ghế kéo ở căn phòng trong góc mà họ nói để trống không có đồ đạc. Mặc dù không bị phá phách nhiều như những thanh niên mướn trước nhưng hai vợ chồng này là người chịu mất tiền cọc bỏ đi sau khi ở được có hơn một tháng trong khi họ dự định ở lâu dài nên ký hợp đồng với chúng tôi nguyên năm để được giá mướn nhà rẻ. Còn gia đình mới dọn đi tuần trước thì họ chỉ nói là thỉnh thoảng đồ đạc bị để lạc chỗ và đặc biệt là đêm khuya thanh vắng họ thường nghe tiếng thở dài thườn thượt. Tiếng thở dài nghe rõ mồn một trong đêm cứ như phát ra ngay cạnh họ vậy. Gia đình này chỉ ở đây đúng một tháng. Sau khi quan sát căn nhà Hoàng nói với vợ chồng Tùng: - Nếu anh chị không ngại, đưa cho tôi chìa khóa nhà tối nay tôi muốn ngủ lại đây một bữa xem sao. Tùng ngập ngừng: - Nhà không có giường, đồ đạc gì hết tôi sợ không kịp chở đến tối nay cho anh. Hoàng cười. - Ồ, anh chị đừng lo. Tối nay tôi sẽ đem theo túi ngủ đến. Tôi quen với những màn ngủ bụi này rồi. Đến đây thì Hoàng để ý thấy vợ Tùng kéo kéo tay như ra hiệu gì đó với chồng. Hoàng quay đi giả vờ như không để ý đến thì Tùng lên tiếng ngập ngừng: - Xin anh cho biết .... anh lấy bao nhiêu cho mỗi lần làm như thế này. Hoàng khoát tay: - Ồ tiền bạc gì. Tôi chỉ làm giúp cho mọi người trong khả năng của mình thôi. Tôi cũng không dám chắc là sẽ giúp được anh chị hay không. Mà có giúp được thì tôi vui rồi anh chị khỏi bận tâm. - Như vậy thì anh có thể cho vợ chồng tôi mời anh bữa trưa được không? Giờ cũng trễ rồi. Hoàng cười: - Dạ gì chứ anh chị mời ăn thì tôi không từ chối. Buổi tối hôm đó, Hoàng đem theo túi ngủ đặt trong phòng master bedroom. Anh đem theo quyển truyện cùng chiếc đèn nhỏ cắm điện đặt dưới sàn nhà để đọc sách. Đang đọc dở dang thì rõ ràng bên tai Hoàng nghe một tiếng thở dài thuờn thuợt. Tiếng thở dài như thể có ai đó đang ngồi ngay cạnh Hoàng. Mặc dù đã quen với những việc như thế, Hoàng cũng vẫn có cảm giác ớn lạnh. Nhìn đồng hồ thấy cũng đã trễ Hoàng tắt đèn và nằm xuống ngủ. Trằn trọc mãi vẫn không ngủ được vì thỉnh thoảng trong đêm tối vẫn vang lên một tiếng thở dài não nề ai oán của ai đó. Chợt như có cảm giác ai đang nhìn mình, Hoàng mở mắt thì thấy ngay phía dưới chân mình là một bóng người phụ nữ tóc dài xõa qua hai bên vai. Lật đật ngồi dậy đang tính với tay bật đèn thì bóng đen đã lên tiếng: - Anh không cần bật đèn làm gì nếu anh muốn nói chuyện với tôi. Trời tối nên Hoàng không nhìn rõ được mặt người phụ nữ trước mặt nên chưa biết xưng hô sao cho phải thì người trước mặt lại nói tiếp. - Đúng ra là tôi có chuyện phải nhờ anh. Bao lâu nay tôi muốn kiếm người có thể liên lạc với mình mà không được. Tất cả đều sợ hãi khi tôi cố tạo ra tín hiệu để họ biết có sự hiện diện của mình. Một khi tâm họ đã xáo trộn bởi nỗi sợ hãi thì tôi không thể bắt liên lạc với họ như tôi đang làm với anh lúc này. Có những tên thanh niên trẻ tuổi tâm không tốt đã buông lời thóa mạ hoặc có ý nghĩ xấu về tôi khiến tôi nổi giận phải đuổi họ đi. Thật may mắn hôm nay tôi gặp được anh. Khi người phụ nữ nói đến đây thì mắt Hoàng díu lại và ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ Hoàng thấy mình đứng đúng trong căn phòng này nhưng được trang trí đẹp đẽ với chiếc giường queen size cùng bức ảnh cặp vợ chồng trẻ bế một đứa bé trên tay. Người vợ trong bức tranh có nét đẹp hiền dịu và mái tóc xõa ngang vai. Trên chiếc giường Hoàng thấy một người phụ nữ trẻ giống như trong tấm ảnh đang ngồi dựa lưng vào thành giường và cầm trên tay một sợi dây chuyền với nét mặt thật hạnh phúc. Người phụ nữ này cầm sợi dây chuyền ướm lên cổ mình nhưng chẳng may bị tuột tay rơi xuống sàn nhà qua khe giường. Hoàng bỗng thấy cô ta ngồi vội lên mặt tái xanh đưa hai tay lên chặn vào ngực trái rồi ngã sóng soài xuống sàn nhà. Chứng kiến mọi chuyện trước mắt nhưng Hoàng như bất động không chạy lại cũng như lên tiếng nói được lời nào. Lúc này Hoàng giật mình nghe tiếng người phụ nữ ban nãy nói: - Nhờ anh trao lại sợi dây chuyền cho con tôi. Đây là sợi dây chuyền tôi mua tính cho cháu nhân dịp thôi nôi nhưng chưa kịp đưa thì chẳng may lên cơn đau tim và qua đời. Cháu tên là Trần Ngọc Lan sinh ngày 1 tháng 8 năm 2003. Tôi hy vọng anh có thể thay mặt tôi trao cho cháu nhân ngày sinh nhật thứ 18 của cháu sắp tới đây. Hoàng giật mình tỉnh dậy. Thì ra tất cả đều xảy ra trong giấc mơ của anh. Trời còn tối lắm. Mở phone xem thì lúc đó mới hơn bốn giờ sáng. Anh ngồi dậy bật đèn mở phone ghi ngay tên tuổi ngày sinh người con gái trong giấc mơ để chắc chắn không quên rồi cứ thế chong đèn đọc sách cho đến khi trời sáng hẳn. Khoảng hơn 8 giờ Tùng gọi cho Hoàng để hỏi thăm. Hoàng lần lượt kể hết mọi chuyện trong giấc mơ của mình cho Tùng nghe rồi đề nghị: - Nếu anh cho phép tôi muốn cạy nền gỗ của phòng này ở góc chân tường. Tôi đoán là nhiều năm trước sàn nhà có kẽ hở mà vì vô tình người chủ trước đã đánh rơi sợi dây chuyền xuống kẽ hở đó và hiện nó còn nằm kẹt ở khoảng trống giữa sàn nhà trên lầu và trần nhà bên dưới. Lúc lát lại sàn sửa nhà họ không để ý đến sợi dây chuyền dưới đó. - Được anh. Để tôi đem theo đồ nghề đến liền nhe. Hoàng và Tùng dùng xà beng nạy các miếng gỗ tile lót sàn thì thấy sàn gỗ bên dưới có nhiều kẽ hở. Cả hai cạy phá kẽ hở cho rộng thêm soi đèn pin xuống thì thấy lấp lánh bên dưới là một sợi dây chuyền. Sợi dây chuyền có mặt hình chữ L có lẽ được đặt làm đặc biệt cho người con gái tên Ngọc Lan. Thế là mọi chuyện đã rõ. Hồn ma người chủ trước không siêu thoát và vẫn lẩn quẩn trong căn nhà này để muốn lấy lại sợi dây chuyền dành cho con gái mình. Giờ việc của Hoàng là phải tìm ra cô con gái của người phụ nữ kia để hoàn thành ước nguyện cho cô ta. Việc này cũng không khó lắm với điều kiện mạng xã hội tràn lan như hiện nay. Chỉ một tuần, sau khi Hoàng post kiếm người trên các mạng xã hội có bốn người tên Trần Ngọc Lan liên lạc với anh. Trong số bốn người đó chỉ có một người có ngày sinh chính xác như anh được cho biết trong giấc mơ. Sau khi xác định rõ ràng cô ta mồ côi Mẹ từ khi còn nhỏ và được Cha cho biết đã từng ở Tiểu bang này, Hoàng đã kể hết mọi chuyện cho cô ta nghe và xin địa chỉ để anh gửi sợi dây chuyền đến. Ngọc Lan nhờ Hoàng giữ giùm sợi dây chuyền để hai cha con cô sẽ thu xếp bay về đó để nhận tận tay và nhân tiện cho cô thăm lại căn nhà ngày xưa. Vài tuần sau vào đúng ngày sinh nhật thứ 18 của Ngọc Lan, vợ chồng Tùng và Hoàng dẫn hai cha con Ngọc Lan đi thăm lại căn nhà ngày xưa mà họ đã từng ở. Tại đúng căn phòng master bedroom, Hoàng trao sợi dây chuyền cho Ngọc Lan và nói: - Cháu giống mẹ cháu lắm cháu có biết không? Ngọc Lan cảm động nước mắt ròng ròng không nói nên lời. Ba Ngọc Lan xiết chặt tay Hoàng cám ơn và nói: - Cám ơn anh nhiều lắm. Thật khổ thân cho vợ tôi bao lâu nay không siêu thoát được vì việc này. Đây là món quà sinh nhật quý giá nhất của con tôi. Ngày đó có lẽ do linh tính và cũng biết căn bệnh đau tim của mình, vợ tôi cứ khăng khăng muốn mua một món quà đặc biệt cho con nhân ngày thôi nôi cháu để mai này cháu nhớ đến Mẹ. Sau đó thì mọi chuyện xảy ra đột ngột quá nên tôi cũng cứ nghĩ cô ta chưa kịp thực hiện ước muốn của mình. Ai ngờ ... Mọi người đều im lặng bùi ngùi. Hoàng thân mật vỗ vai người đàn ông rồi nói: - Giờ thì anh và cháu có thể yên tâm vì tôi chắc chắn chị đã mãn nguyện và siêu thoát rồi. Sau đó tất cả kéo nhau ra nhà hàng ăn một bữa trưa do cha con Ngọc Lan mời. Tại đây Hoàng kể cho mọi người nghe những trường hợp mà anh đã giải quyết được từ trước đến giờ. Miệng thì kể còn trong lòng anh một niềm hạnh phúc, một cảm giác êm ấm dâng lên vì biết mình đã làm được bao nhiêu việc giúp ích cho đời. Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 21/Feb/2022 lúc 1:35pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23816 |
![]() ![]() ![]() |
Bà Mẹ Tây– Gió đông gió tây,
gió nào đã đưa cậu tới đây? – Chẳng có gió đông,
chẳng có gió tây, chỉ có “gió chướng” thôi. Gió chướng đã mang tôi tới đây để
gặp tên bạn “khỉ gió” thuở còn tắm truồng đấy!
– Cậu lúc nào cũng ăn
nói “khó tiêu”. Dễ có trên ba chục năm không gặp cậu. Thú thật đi, có phải cậu
đến đây để thăm bà bé không? Tôi không mách bà xã cậu đâu. Đừng lo.
– Cậu đoán đúng mới có
một nửa. Đúng, tôi vừa đi thăm viếng một người đàn bà.
– Ai thế ? Tôi có biết
người đó không ?
– Có thể cậu biết. Bà
mẹ tôi ấy mà.
– Cậu không đùa đấy
chứ. Mẹ cậu đã mất ở Việt Nam. Tôi cùng bạn bè đã gửi lời chia buồn từ ngày nảo
ngày nào rồi. Hay là mẹ của mẹ bầy trẻ? Nhưng mà bà xã của cậu mồ côi mẹ mà!
– Không, bà mẹ nuôi,
bà Steinberg mà tôi đã có lần nói với cậu khi mới tới thành phố này đó. Nhớ
không? Đây là lần đầu tiên tôi đi tảo mộ. Tôi ở bên bà suốt buổi sáng nay rồi
đi ăn trưa với lão luật sư già của bả.
– Nhớ, nhưng tôi chưa
hề nghe nói cậu là con nuôi của bà triệu phú từ tâm này. Ê, đừng thấy sang bắt
quàng làm họ nhé. Khi cậu rời khỏi nơi đây thì bả cũng đã qua đời. Tôi nhớ rất
rõ.
– Hồi đó tụi mình chưa
an cư nên tuy ở gần mà như nghìn trùng xa cách, chả mấy khi được ngồi tâm sự
như bây giờ nên cậu không biết. Chuyện dài lắm, tôi sẽ kể cho cậu nghe. Bây giờ
tụi mình đi kiếm cái gì lót dạ đã.
Buổi tối hôm đó, đôi
bạn tri kỷ đối ẩm, nói chuyện “cổ tích”.
*
Năm tôi đến đất nước
này, chu kỳ suy thoái kinh tế bắt đầu. Việc làm hiếm hoi, nhưng chính phủ vẫn
mở rộng vòng tay nhân ái tiếp nhận người tị nạn. Cậu có bà xã giỏi giang, đi
làm nuôi chồng con. Cậu chỉ lo nội trợ, đưa đón con cái đi học, có thì giờ rộng
rãi dồi mài kinh sử. Còn tôi, độc thân tại chỗ, vợ con còn kẹt lại Việt Nam,
một cảnh hai quê. Vừa mong mau chóng ổn định cuộc sống vừa mong đủ điều kiện
tài chánh bảo lãnh gia đình.
Chưa bao giờ tôi nghĩ
có ngày phải đi ăn mày chính phủ Gia Nã Đại. Mỗi tuần sắp hàng ngửa tay nhận
chi phiếu bảy chục đô la, rồi còn bị cô thư ký người Việt nói xỏ xiên, thúc
giục tìm việc. Tôi đã cảm nhận tất cả ê chề nhục nhã của kiếp tha hương.
Rất may mắn, tôi đã
gặp cậu và được cố vấn nên sau vài lần xin việc bị từ chối khéo, tôi điền đơn
tại bệnh viện Montford theo đúng lời cậu chỉ dẫn. Lý lịch khai rất gọn, phần
học vấn bỏ trống, không ghi tốt nghiệp đại học Việt Nam. Xin làm Pharmacy
Attendant, công việc sai vặt trong khoa Dược.
Bà trưởng phòng nhân
viên bệnh viện đọc hồ sơ, ngước mắt nhìn tỏ vẻ thương hại rồi nói, được rồi,
anh cứ về, khi nào có chỗ trống sẽ gọi phỏng vấn.
Vừa định đứng dậy thì
bà ra dấu cho tôi ngồi xuống, ngập ngừng… Tôi biết bên hospice, nhà an dưỡng
của bệnh nhân cận tử, đang cần một orderly nam, tức y công đàn ông. Nếu anh
không ngại tôi sẽ giới thiệu. Đang đói việc, tôi bằng lòng ngay, bất cứ việc
gì.
Y tá trưởng của
hospice vui mừng đón nhận tôi.
Bà cho biết công việc
không nặng nhọc nhưng đòi hỏi sự nhẫn nại hơn bình thường. Chỉ phục vụ một bệnh
nhân đặc biệt và khó tính. Gia đình bệnh nhân này là ân nhân của bệnh viện, đã
hiến tặng toàn bộ xây cất và các trang thiết bị cho hospice nên tên của người
chồng quá cố, “J.D. Steinberg” được vinh danh trên bảng đồng.
Bà thành thật cho biết
đã có 2 nữ y công bị trả lại vì bệnh nhân không hài lòng và thêm một nữ nữa bỏ
việc vì không chịu nổi áp lực.
Tuy nhiên lương bổng
rất hậu hĩnh. Bệnh nhân này sẵn sàng trả thêm tiền thưởng tương đương với tiền
lương của bệnh viện.
Bà muốn thay đổi, đề
nghị tuyển nhân viên nam, hy vọng nam có sức chịu đựng tốt hơn nữ.
Bệnh nhân là bà
Steinberg, khoảng gần bảy chục tuổi, bị ung thư buồng trứng, đã di căn, giai
đoạn cuối. Đẹp lão, mập mạp, tướng mệnh phụ. Bà tiếp tôi lạnh lùng, sau khi cô
chuyên viên trang điểm rút lui. Hỏi vài câu vắn tắt lấy lệ, rồi cho tôi kiếu.
Quả thật công việc rất
nhàn hạ, nhưng không thơm tho. Bác sĩ, y tá thăm bệnh và cho thuốc men theo
thời khoá biểu. Cô quản gia kiêm thư ký công ty của gia đình trình diện vào
buổi trưa mỗi ngày, đem thức ăn khoái khẩu của bà và quần áo mới. Tôi chỉ giúp
bà làm vệ sinh tiêu tiểu buổi sáng, ngay trên giường và đổ phân vào cầu. Buổi
chiều, sửa soạn bồn tắm, giúp bà làm vệ sinh thân thể và đẩy xe đưa bà đi dạo.
Ngoài ra, chùi rửa phòng, thay bọc trải giường, mang quần áo chăn mền qua phòng
giặt ủi…v…v… Thỉnh thoảng ghé mắt xem bà có cần sai bảo gì không. Khẩn cấp thì
phải chạy tìm y tá bác sĩ trực.
Tôi được sắp xếp cho ở
góc cuối phòng, ngăn bằng chiếc màn kéo, đủ kê chiếc giường đơn, ghế nằm và bàn
viết. Một ngày chỉ thật sự làm việc độ 3 hoặc 4 tiếng, ăn uống ở câu lạc bộ.
Thời giờ quá dư thừa nên tôi mượn sách chuyên môn của thư viện đọc, mơ một ngày
nào đó sẽ lấy lại được bằng hành nghề.
Một buổi tối, bà rên
khò khè đau đớn, tôi chạy lại thì nghe bà quát, đi lấy cho ta cái “donut” ngay.
Ta cảm thấy khó chịu quá!
Tôi cuống quít nói,
thưa bà giờ này quá khuya, e không có tiệm bánh donut nào mở cửa, bà có thể chờ
đến sáng sớm mai không?
Bà nổi quạu, phán, đồ
ngu! Xuống bảo y tá trực đưa.
Tôi răm rắp chạy báo
cáo bà y tá già. Bà cười ngặt nghẽo, đưa cho tôi cái vòng cao su mầu cam trông
giống như ruột xe vespa, bảo, đấy, donut là cái này này.
Tôi vỡ lẽ, té ra donut
cũng là tên gọi của cái vòng đệm cao su, dùng để kê dưới bàn tọa cho êm.
Mấy ngày sau, khi đã
hơi khoẻ, bà ngoắc tôi lại, ra lệnh, ê thằng Tầu con, xuống kêu con nhỏ làm tóc
lên chải đầu cho ta. Hôm nay ta có khách lại thăm.
Bị chạm nọc nhưng tôi
vẫn đủ bình tĩnh, khẽ thưa, xin bà đừng gọi tôi là Tầu con. Tôi đã 36 tuổi rồi
và là người Việt Nam không phải Tầu.
Trái với sự mong đợi
của tôi, bà tỏ vẻ thân thiện, ngồi thẳng dậy, tròn mắt, hỏi lại, Việt Nam? Việt
Nam? Con trai của ta chiến đấu ở Việt Nam và đã mất tích từ năm 1970, cũng trạc
tuổi của mi.
Tôi đi từ ngạc nhiên
này sang ngạc nhiên khác. Ngờ ngợ có sự liên quan tới Bác Sĩ John Steinberg mà
tôi quen biết khi còn trong quân đội.
Kể từ đó, mỗi khi có
dịp, tôi gạ gẫm bà kể thêm về người con trai. Bà rất hứng khởi.
Sự nghi ngờ ban đầu đã
dần dần sáng tỏ. Gom góp các chi tiết và đối chiếu các sự kiện, tôi đã chắc đến
99.99% John Steinberg, con trai của bà, và Bác Sĩ John Steinberg, bạn tôi, là
một người bạn quý.
*
Theo bà, John là một
đứa trẻ có nhiều cá tính ngay từ nhỏ. Thông minh, bướng bỉnh, tinh thần tự lập
cao. Nhiều tự ái, nóng tính, hơi cố chấp và đặc biệt xung khắc với cha.
Ông Steinberg muốn
hướng chàng thành một doanh gia. John, trái lại, xem Bác Sĩ Albert Schweitzer
là thần tượng. Ước vọng trở thành thầy thuốc giỏi, từ bỏ thế giới văn minh, đến
các xứ nghèo Phi Châu, mang tài năng và nhiệt tâm phục vụ không điều kiện.
Sau khi tốt nghiệp Y
Khoa McGill, lúc chuẩn bị nội trú chuyên ngành tại Bệnh Viện Ottawa thì xảy ra
một cuộc đấu khẩu dữ dội giữa hai cha con. John giận cha, bỏ qua Mỹ, tình
nguyện nhập ngũ. Được huấn luyện quân sự tại Fort Bragg và tu nghiệp chuyên môn
tại Womack Army Medical Center NC. Y Sĩ Đại Úy John Steinberg sau đó được gửi
qua Việt Nam, bổ sung toán quân y thuộc Liên Đoàn 5 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ,
đóng tại Nha Trang.
John vẫn thư từ liên
lạc với bà mẹ đều đặn. Cho đến một buổi chiều ảm đạm mùa thu năm 1970, ba sĩ
quan đồng ngũ của binh chủng gõ cửa báo tin con bà đã mất tích khi đang thi
hành nhiệm vụ, được ghi vào danh sách M.I.A.
Ông Steinberg bị nỗi
hối hận dầy vò, tự đổ lỗi cho chính mình, đã đưa đẩy con trai vào chỗ chết. Ông
qua đời ba năm sau.
*
Thời gian John công
tác, tôi đang làm việc tại bệnh xá gia đình binh sĩ cũng đồn trú Nha Trang.
Chúng tôi cùng đi làm
dân sự vụ thường xuyên tại các bản thượng hẻo lánh nên quen biết rồi thân nhau.
Thỉnh thoảng tụ tập ăn uống nhậu nhẹt tại các quán bờ biển hoặc đi nghe nhạc
phòng trà.
Khi tin John tử trận
bay đến phòng làm việc, tất cả ban quân y chúng tôi đều bàng hoàng. John và
toán dân sự vụ Việt Mỹ chết bỏ xác khi máy bay trực thăng trục trặc kỹ thuật,
đáp tạm xuống bãi đất hẹp gần nhánh sông chảy xiết. B40 bắn rớt ngay lúc vừa
cất cánh trở lại. Duy có một y tá Việt Nam tên Công thoát hiểm một cách kỳ
diệu. Hắn ngụp lặn, bơi ngược dòng nước, băng rừng suốt đêm đến được nơi an
toàn.
Quá hoảng loạn trong
nỗi kinh hoàng tột độ, Y Tá Công bị hậu chấn thương nặng, chuyển về khoa tâm
thần Tổng Y Viện Cộng Hòa điều trị vài tháng rồi được cho giải ngũ. Hắn vẫn đến
xin thuốc an thần và thuốc ngủ đều đặn nên từ đó anh em đổi biệt danh “Công
Ngủ” thành “Công Không Ngủ”.
Những năm cuối của
thập niên 70 và đầu thập niên 80, tôi hay lang thang khắp chợ trời. Tình cờ gặp
lại “Công Không Ngủ”. Hắn đã lột xác, trông bảnh bao, da dẻ hồng hào, ra dáng
công tử vườn. Hắn khoe buôn bán thuốc Tây, thu nhập khấm khá. Hắn bỏ một buổi
buôn bán, mời tôi đi nhậu ở tiệm ăn sang trọng trên đường Nguyễn Huệ. Đãi rượu
Martell và thuốc thơm ba số. Lúc đã ngà ngà, hắn nhắc lại chuyện cũ. Bật mí tất
cả những gì chưa từng bật mí.
*
Chiếc trực thăng chao
đảo vì phi công bị B40 xuyên nát cổ. Đủ loại súng thi nhau nhả đạn, mọi người
nhốn nháo chen nhau nhảy xuống. Đạn đan tròng tréo, có người rớt lịch bịch, có
người nằm xuống khi chân chưa chạm đất. Bác Sĩ Steinberg cùng hắn và vài người
nữa chạy thẳng xuống sông. Các người kia bơi theo dòng nước. Ông bác sĩ Mỹ to
cồng kềnh, bơi hoặc lặn cũng không ổn nên tìm chỗ ẩn nấp dưới đám lau sậy. Vốn
là dân xóm Cồn, giỏi bơi lội, lại nhỏ con nên “Công Không Ngủ” nhanh như chớp,
phóng xuống giữa dòng, vớ một ống sậy dài, ngậm thở, lặn ngược dòng, đánh lạc
hướng của nhóm du kích chạy xuôi trên bờ đang truy đuổi từng người. Nghe tiếng
súng AK nổ ròn rã, hắn biết những bờ bụi chắc chắn là những mục tiêu bị nhắm
bắn. Hắn tự khen mình thông minh, không trốn theo ông bác sĩ cũng không bơi
xuôi giòng. Rất có thể nhiều người đã lãnh đủ những tràng đạn vừa qua.
Đợi khi bóng dáng đám
du kích đã hoàn toàn mất hút, hắn bơi đến chỗ ông bác sĩ thăm dò. Vùng máu
loang lổ đang lan rộng chứng tỏ ông đã trúng đạn. Sờ mũi, vạch mắt, nghe tim,
biết ông đã chết, hắn chỉ kịp mở nút gài túi áo trên lấy chiếc ví dầy cộm, lột
chiếc đồng hồ trên tay.
Tiếng đám du kích vui
cười nghe rõ dần, có lẽ họ trở lại thu nhặt chiến lợi phẩm. Hắn đẩy xác ông bác
sĩ ra giữa dòng để gây sự chú ý, giúp hắn có thêm thì giờ lặn ngược dòng trốn
càng xa càng tốt.
Nằm ếm dưới nước, chờ
trời tối, hắn bước nhanh vào khu cây cối rậm rạp, nhắm hướng sao đi tới. Rạng
sáng, hắn gặp một người đàn bà thượng đeo gùi sau lưng, địu con phía trước đi
làm rẫy. Hắn bập bẹ vài tiếng thượng học được, xin chỉ đường đến đồn bót gần
nhất.
Bài học mưu sinh thoát
hiểm, cộng với may mắn cùng sự giúp đỡ của người dân tốt bụng đã đưa hắn trở về
bình yên.
Lợi dụng việc sống sót
hy hữu sau tai nạn, hắn đã đóng kịch rất khéo, giả bệnh, qua mặt được mọi người
và giải ngũ.
Hắn cho biết trong
chiếc ví của ông bác sĩ, ngoài số tiền mặt khá lớn, đủ để hắn sửa sang nhà cửa
và mua chiếc xe Honda 90 đời mới, còn có một lá thư, một tấm hình, vài thứ giấy
tờ linh tinh.
Hắn cho tôi địa chỉ
nếu muốn đến xem. Tôi không có dịp vì còn mải lo chuyện vượt biển.
Sự sống của bà
Steinberg kéo dài hơn ước tính của các bác sĩ. Bà cho là lời cầu nguyện của bà
đã được lắng nghe và hy vọng phép mầu nhiệm sẽ đến qua ơn cứu rỗi.
Một tuần trước sinh
nhật, bà điện thoại cho hai cô con gái lớn nhắc nhở. Năn nỉ các con cháu sẽ đến
và ở chơi với bà một buổi. Bà dặn tôi đến ngày đó phải thu dọn căn phòng trống
kế bên sạch sẽ, kê thêm bàn ghế và phụ giúp nhà hàng chăm lo phần ẩm thực.
Tôi chợt có ý nghĩ
nhân dịp này sẽ tặng bà một món quà sinh nhật bất ngờ. Đánh điện tín nhờ vợ tôi
mang đến “Công Không Ngủ”, hẹn giờ ra bưu điện nói chuyện điện thoại viễn liên.
Tôi ngỏ ý muốn mua cái
ví của Bác Sĩ Steinberg cùng tất cả các thứ trong đó. Thỏa thuận xong giá cả,
tôi yêu cầu hắn tạm thời fax ngay cho tôi những thứ có trong chiếc ví.
Ngày hôm sau, chỉ nhận
được bản fax của lá thư và tấm ảnh, nhìn không rõ lắm nhưng chữ có thể đọc mò
được.
Tiền thì hắn nhận đủ
nhưng chiếc ví không bao giờ được gửi. Về sau nghe chú hắn nói, hắn đang tìm
đường vượt biên và cái ví sẽ là lá bùa khi xét ưu tiên định cư Mỹ.
Sau nhiều năm không ai
nhận được tin tức về chuyến tầu của hắn. Có lẽ cái ví cũng theo hắn định cư
dưới lòng đại dương.
Buổi sáng sinh nhật,
bà dậy thật sớm tuy cả đêm trằn trọc. Người làm tóc, người trang điểm bận tíu
tít. Người ta thay cho bà một bộ đầm sang trọng. Trông bà tươi tỉnh, cười nói
huyên thuyên, không ai nghĩ rằng đó là một bệnh nhân sắp từ giã cõi trần. Bà
nói đã lâu lắm rồi, không thấy mặt mấy đứa cháu ngoại, không biết chúng nó cao
lớn thêm và xinh đẹp như thế nào. Bà tưởng tượng sẽ ôm từng đứa, sẽ phủ mưa hôn
trên từng phân vuông của những khuôn mặt thiên thần. Sau đó nếu Chúa có bắt đi
ngay bà cũng an lòng. Chỉ tưởng tượng thôi mà cảm xúc đã dâng trào trên niềm
hạnh phúc ảo.
Các tiếp viên nhà hàng
mang thức ăn bầy biện đẹp mắt, chiếc bánh sinh nhật hấp dẫn đặt giữa bàn. Tất
cả kiên nhẫn chờ được phục vụ.
Suốt từ sáng đến quá
trưa, bà bồn chồn, đứng ngồi không yên. Vẫn không thấy con cháu xuất hiện. Toàn
thể nhân viên hospice không chờ đợi được nữa, bàn nhau tụ tập vây quanh bà, vỗ
tay hát bài mừng sinh nhật. Bà gắng gượng ngồi nghe đến câu cuối, xua tay ra
dấu mệt mỏi, để nguyên quần áo nhờ tôi đỡ lên giường.
Cô thư ký lăng xăng
lên xuống, liên tục điện thoại khắp nơi, tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra. Buổi
chiều, cô trở lại buồn bã báo tin, cả hai gia đình của hai con gái bà đang vui
chơi ở Disney World Orlando Florida từ vài ngày nay.
Bà Steinberg suy sụp
tinh thần thấy rõ. Không ăn uống. Đóng cửa, không tiếp bất cứ ai. Tôi trở thành
liên lạc viên duy nhất của bà với bên ngoài. Rất khó khăn ép bà uống thuốc đúng
giờ.
Tối hôm đó, cơn đói
đánh thức, bà sai tôi mua một tô súp gà và ly sữa. Tôi mua thêm một chiếc bánh
chocolate donut và một cây đèn cầy. Bà chỉ húp vài muỗng súp và một phần ly
sữa. Tôi mở bao lấy chiếc donut để trên đĩa giấy, thắp cây đèn cầy, bưng về
phía bàn ngủ. Run run hát nho nhỏ, happy birthday to you, happy birthday to
you, happy birthday to Mrs. Steinberg…
Bà há hốc miệng ngạc
nhiên, im lặng vài khoảnh khắc rồi quay mặt vào tường. Tôi ngỡ bà phản ứng
giống như khi nghe nhân viên bệnh viện hát chúc mừng trước đó. Ngờ đâu bà quay
lại với đôi mắt ướt, giơ hai tay ôm chầm lấy tôi. Líu lưỡi cám ơn, cám ơn. Bà
thổi đèn cầy rồi ăn hết chiếc bánh bình dân một cách ngon lành, nói, đây mới
chính là cái “donut” mà ta muốn. Bà cám ơn tôi lần nữa, đã cho bà một sinh nhật
tuyệt vời và độc đáo.
Bà vui vẻ trở lại
nhanh chóng. Kể đủ mọi chuyện ngày cũ, toàn những chuyện về John. Trong ba người
con chỉ có John nhớ sinh nhật của bà, dù đi đâu xa cũng quay về vào ngày ấy. Bà
nhất định cho rằng, bằng cách nào đó, chính John đã mượn tôi thực hiện sáng
kiến sinh nhật donut.
Tôi nói có một món quà
sinh nhật và trao cho bà chiếc phong bì đựng bản fax của lá thư và tấm hình.
Thêm một lần ngạc nhiên thích thú, bà mở ra. Mới lướt qua tấm hình và đọc vài
hàng của lá thư, bà thở hổn hển. Những thứ này ở đâu ở đâu ra? Đúng là nét chữ
của ta, đây là lá thư ta gửi John cám ơn lời hỏi thăm sức khỏe khi ta bị té gẫy
chân và cho biết tình trạng đã ổn định. Làm sao mi có được? Nói ngay, nói ngay!
Còn tấm hình mờ nhưng ta biết đó là hình chụp ta và con chó Buddy.
Tôi cho bà biết chuyện
thật đời tôi, tất cả những gì tôi nghe về bạn quá cố của tôi, lúc còn sống, lúc
lâm nạn và tại sao tôi có được những thứ đó.
Bà nhờ tôi kê gối đẩy
lưng cao lên. Đọc kinh tạ ơn Chúa. Bà càng tin rằng John đã nhập vào tôi và
mang thông điệp của tin mừng đến cho bà.
Bà đã mệt lắm rồi.
Linh tính những ngày giờ cuối cùng đã điểm, tôi ở lại bên cạnh bà.
Thấy bà không ngủ, tôi
hỏi có cần gọi y tá không? Bà không trả lời, cầm tay tôi đặt lên ngực phía trái
tim, cặp mắt lạc thần, nhìn vào hư không, nói lẩm bẩm như người mộng du.
Baby John của mẹ, con
có biết 12 năm nay không có ngày nào mẹ ngưng thương nhớ con? Mẹ nhớ từ tiếng
con khóc lúc chào đời…, mẹ nhớ lúc con chập chững những bước đi…. Mẹ nhớ những
ngày tuyết đổ mẹ dẫn con vào lớp học giao cho cô giáo vườn trẻ, con níu áo mẹ
không rời, mẹ phải ở với con suốt buổi rồi đem con về…. Mẹ nhớ những đêm con ho
cảm lạnh, mẹ thức trắng đêm ôm ru con ngủ…. Mẹ nhớ…Mẹ nhớ…. Mẹ khóc mừng ngày
con tốt nghiệp đại học…. Mẹ tưởng con của mẹ sẽ mãi mãi êm ấm trong vòng tay
mẹ. Nhưng con, con… đã đi và đi không trở lại. Lúc sinh thời, cha con nếu có lỗi
với con thì cũng chỉ vì yêu con. Hai cha con bây giờ đã xum họp ở thế giới
khác, đâu còn giận hờn. Mẹ cũng sắp sửa gặp cha con và con đây. Con ngoan nhé.
Mẹ yêu của con.
Tôi lặng yên quỳ xuống
đầu giường để bà vuốt tóc. Ước gì thật sự là John để bà trút hết nỗi niềm chất
chứa bấy lâu và để cho tình mẫu tử thăng hoa.
Bà chợt tỉnh, nhận ra
tôi nhưng vẫn tiếp tục xoa đầu. Ta thấy hình ảnh của John qua con, con cũng là
con ta. Bà dí ngón trỏ lên trán tôi, mỉm cười, nụ cười nhân ái nhất nhận được
trong đời, mắng yêu, “THẰNG TẦU CON CỦA MẸ”. Chúa ơi! Bà gọi tôi là con và xưng
mẹ!
Không biết ai xúc động
nhiều hơn ai. Có lẽ không phải là bà mà là tôi. Tôi bỗng buột miệng vô thức…Mẹ,
Mẹ… rồi á khẩu. Dòng nước mắt tôi chảy, giọt nước mắt bà lăn dài. Cả hai ôm nhau
hoà tan trong nước mắt.
Trưa hôm sau bà lệnh
cho cô thư ký mời luật sư gia đình gặp bà thảo luận chuyện quan trọng. Ông đang
có việc ở Âu Châu nên chỉ nói chuyện qua điện thoại và hứa sẽ đổi vé, bay về
trên chuyến gần nhất.
Bác sĩ được triệu đến
khẩn cấp.
Bà Steinberg yếu dần,
bỏ ăn từ chiều hôm trước, môi khô. Nuốt khó khăn. Mũi thuốc morphine giảm đau
liều cao chỉ giúp bà thiếp đi một chốc. Đắp thêm chăn, xoa bóp chân tay, vẫn
còn lạnh. Bà đã bị ảo giác, mất định hướng thời gian và không gian. Liên tục
thì thào gọi tên John. Tôi nắm bàn tay lạnh của bà vuốt nhẹ, khẽ gọi, mẹ ơi! mẹ
ơi!.
Bà thở không bình
thường nữa, hắt ra rồi bất động. Bác sĩ vạch mắt, rọi đèn pin soi đồng tử, nhìn
đồng hồ lắc đầu. Xong một kiếp người!
Chỉ trong vòng vài
tiếng đồng hồ mọi người đã có mặt trong phòng. Hai người con gái đi cùng hai
luật sư của họ, luật sư gia đình, giám đốc các công ty kinh doanh của gia đình,
các đại diện và luật sư của các hội từ thiện, một vài họ hàng thân cận.
Tất cả yêu cầu luật sư
gia đình công bố di chúc. Họ tranh cãi khá lâu, không ồn ào nhưng rất gay gắt.
Không đi đến kết quả nên đồng ý giải quyết sau tang lễ.
Nghe thoang thoáng có
người đề cập đến tên mình nhưng tôi để ngoài tai vì nghĩ không có gì liên hệ.
Luật sư yêu cầu giải
tán để nhân viên nhà quàn làm phận sự. Nhiều người trước khi bước ra khỏi cửa
ném cho tôi cái nhìn khó chịu, có người đi ngang tôi với vẻ thù hận ra mặt. Tôi
không hiểu tại sao. Không lẽ kỳ thị chủng tộc?
Những gì xảy ra trong
những ngày vừa qua khiến cho tôi chán ngán tình đời. Một quyết định xẹt trong
đầu. Đi thật xa. Phải, sẽ đi thật xa để khỏi nhìn thấy những con diều hâu bạc
tình bạc nghĩa đang rỉa xác một người đàn bà nhân hậu. Tôi bước vào phòng, đặt
một nụ hôn trìu mến trên trán bà mẹ nuôi. Nói nhỏ, lạy mẹ, con đi.
Tôi về nhà nhét vội
vài bộ quần áo vào va li, bỏ lại tất cả đồ đạc, ra bến xe đò Greyhound mua vé
đi thẳng Toronto. Cuộc đời lưu lạc bắt đầu từ đó.
*
Ông luật sư đãi tôi ăn
trưa tại một nhà hàng ở khu phố vắng. Chuyện xảy ra 32 năm trước được giải mật.
Khi ông đang ở Paris,
bà Steinberg điện thoại, muốn sửa di chúc. Ông chấp hành chỉ thị, thâu băng
cuộc đối thoại, soạn thảo văn bản ngay trên chuyến bay khứ hồi. Không may, bà
đã không kịp duyệt ký trước khi ra đi.
Các cuộc tranh cãi sau
khi bà chết bùng nổ giữa các luật sư.
Di chúc chính thức quy
định rõ, gia tài được chia làm 3 phần đồng đều, cho 3 người con. Riêng phần của
John Steinberg có ghi chú thêm. Vì đã được liệt kê trong danh sách quân nhân
mất tích, nên nếu 5 năm sau khi bà mất, vẫn không nhận được tin tức mới, phần
này sẽ được chia 50/50. 50% giành cho các cơ quan từ thiện đã chỉ định. 50% sẽ
thuộc về 2 người con còn lại.
Theo bản dự thảo di
chúc mới, phần của John được sửa lại, sau 5 năm phần này sẽ được trao cho tôi
thay vì chia 50/50 cho các cơ quan từ thiện và 2 người con gái.
Ông luật sư yếu thế,
không thuyết phục được mọi người chấp nhận lời di chúc phi văn bản. Nếu đưa ra
toà án phân xử cũng không hy vọng thắng. Kiện cáo có thể kéo dài, sẽ rất tốn
kém. Điều quan trọng nhất, người có quyền lợi là tôi thì biệt tích giang hồ,
không tìm thấy địa chỉ liên lạc. Bản di chúc cũ được thi hành. “Định mệnh đã an
bài”, không thể thay đổi.
Ông trao cho tôi cuốn
băng. Giữ lại như một kỷ niệm, ghi nhận tình thương và lòng hào hiệp của bà mẹ
nuôi đối với tôi.
*
– Là triệu phú hụt,
cậu có tiếc không?
– Không, không bao
giờ. Tôi vẫn nhớ chuyện tái ông thất mã. Trong cái rủi luôn luôn có cái may đền
bù. Trong cái may luôn luôn ẩn nấp cái rủi. Nếu lúc đó là triệu phú, nhiều phần
đã biến tôi hư hỏng. Tiền không do công sức của mình làm ra là tiền…lèo. Xài
tiền lèo thì mình cũng trở thành lèo. Sẽ ỷ lại, không cầu tiến.
Vì đã không là triệu
phú nên tôi mới là tôi như bây giờ. Bằng lòng với hiện tại.
Tôi có hai bà mẹ. Bà
mẹ da vàng để lại vết tích đậm nét da vàng trên thân xác tôi. Bà mẹ da trắng để
lại nhiều dấu ấn khắc sâu trong tâm khảm tôi. Tôi yêu cả hai.
Nếu đến lễ Vu Lan hay
Ngày Của Mẹ có ai hỏi tôi, bông hồng hay bông trắng cài áo? Tôi sẽ bảo, vui
lòng cài cho tôi hai bông trắng.
– Xin cạn ly mừng cậu
có hai bà mẹ trong đời. Chúc cậu đêm nay ngủ thật ngon, sẽ mơ hội ngộ BÀ MẸ
ĐẦM… có con là “thằng Tầu con”.
Nguyễn Cát Thịnh
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23816 |
![]() ![]() ![]() |
Mùa Xuân Hạnh Phúc Trên Đất Úc![]() Mỗi lần nhìn ba đứa con xinh xắn và dễ thương, hai trái và một gái, Vũ lại nghĩ tới Phương và tự nhủ thầm: “Đây là một trong những điều may mắn và hạnh phúc nhất mà Vũ đang có”. Cả ba con đang theo học tại một trường tư thục Công Giáo nổi tiếng ở miền Tây Sydney. Vĩnh, con trai lớn, 11 tuổi, học lớp sáu. Đăng, trai kế, 9 tuổi, học lớp bốn và Hạ Đoan, gái út, 5 tuổi vừa vào lớp mẫu giáo. Tình yêu giữa Vũ và Phương đã ươm trồng trên đất Việt vào một mùa xuân cách đây hơn ba mươi năm và nay đã trổ bông trên đất Úc.
Hôm nay, Vũ và Phương đều lấy một ngày nghỉ để cùng nhau ngồi uống cà phê trên ghế đá, dưới bóng mát yên tĩnh của khu vườn đẹp phía sau căn nhà nhỏ xình xinh mà cả hai đã mua cách đây hơn mười năm. Hôm nay cũng là đúng ba mươi sáu năm kể từ ngày Vũ bước lên chiếc ghe gỗ chở người vượt biên, rời xa đất nước Việt Nam vào một buổi tối mùa Xuân có gió nhẹ trên một bến vắng của bờ Bảo Định giang - con sông nhỏ êm đềm của thành phố Mỹ Tho thơ mộng - nơi đã ghi dấu biết bao kỷ niệm đẹp cuộc tình giữa Vũ và Phương. Buổi chiều ngày ra đi, Vũ và Phương đã cùng sánh vai đi bộ dưới những hàng cây dọc theo con đường Trưng Trắc bên công viên Lạc Hồng. ![]() Thường ngày con đường này khá nhộn nhịp, nhưng hôm nay sao có vẻ yên ắng lạ thường như cùng chia sẻ tâm tư buồn trĩu của hai kẻ sắp xa nhau. Con đường với những hàng cây to trải dài bóng mát. Chiều nay xe cộ không nhiều và người qua lại cũng ít. Đây đó có vài cặp tình nhân đang to nhỏ trò chuyện. Vũ và Phương đã đi bên nhau hơn hai giờ. Chỉ còn ít giờ nữa là họ phải tạm xa nhau. Thời gian cứ lặng lẽ trôi. Cả hai muốn níu kéo lại và chỉ mong sao cho cả không gian và thời gian ngừng lại. Vũ và Phương lặng lẽ đến ngồi trên chiếc ghế đá khuất nhìn ra dòng sông đang lững lờ chảy. Xa xa ẩn hiện thấp thoáng vài con thuyền nhỏ bập bềnh trên sóng xa xa của cồn Phụng. Họ ngồi bên nhau rất lâu, rất lâu. Có những lúc cả hai cùng im lặng, không nói và chỉ nhìn nhau. Cả hai đang buồn vì sắp phải xa nhau và cả hai cũng đang nghĩ về một tương lai tươi sáng trên một vùng đất tự do mới. Chút nữa đây, Vũ sẽ tạm biệt Phương để được người dẫn đường chở ra một bến vắng sông Bảo Định bằng chiếc xe Honda. Không dằn được xúc động khi nghĩ đến điều này, Phương gục đầu vào vai Vũ và sụt sùi khóc:
- Em lo sợ quá anh ạ! Vũ vỗ về an ủi Phương: - Mọi sự dâng cho ơn trên em ạ. Chuyến đi của anh đã được mọi người chuẩn bị hết sức chu đáo. Anh sẽ sang trước và đợi em. Em cố gắng lên. Cũng chẳng còn bao lâu nữa. Giấy tờ bảo lãnh của gia đình em cũng gần xong rồi. Anh nghĩ chỉ chừng hai năm nữa là gia đình em sẽ được sang Mỹ. Khi đó chúng mình sẽ gặp lại nhau. Sẽ làm đám cưới. Sẽ đi học. Sẽ có việc làm và sẽ có những đứa con xinh xắn dễ thương. Phương vẫn gục đầu vào vai Vũ thổn thức: - Vâng, em nghe anh. Em sẽ cầu nguyện cho anh. Sẽ cầu nguyện cho chúng ta. Sẽ cầu nguyện cho mọi người trên chuyến đi của anh. Trời dần tối. Họ vẫy một chiếc xe xích lô để về nhà. Chiếc xe Honda đã đậu sẵn trước sân nhà Vũ. Không còn thời gian nữa. Vũ đặt một nụ hôn lên má Phương và nói lời từ biệt. Vũ sẽ đi ngay bây giờ, đi ngay trong đêm nay. ![]() Sông Bảo Định (Mỹ Tho)
Vũ và Phương cùng sống trong một khu lao động ở cuối con đường Hùng Vương, thành phố Mỹ Tho. Vũ học trường trung học Nguyễn Đình Chiểu, còn Phương là học sinh trường nữ trung học Lê Ngọc Hân. Cả hai tuy không học chung lớp, chung trường nhưng cùng học chung trong những lớp luyện thi Pascal do các thầy Thứ, thầy Thông, thầy Kiến … giảng dạy. Sau năm 1975, sau khi tốt nghiệp phổ thông, cả hai đều tạm nghỉ học để phụ giúp gia đình. Vũ và Phương cùng sinh hoạt trong một số hoạt động của giáo xứ nhà thờ chính toà thánh Giu-Se. ![]() Nhà thờ chính toà Mỹ Tho.
Cả hai đều là huynh trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể và đều tham gia sinh hoạt trong ca đoàn Dũng Lạc của nhà thờ. Cả hai thân quen nhau nhiều hơn từ ngày cùng hát trong ca đoàn. Ngày tháng vun trồng cây tình yêu của họ. Dù đã nghỉ học nhưng Vũ và Phương vẫn dành thời giờ tự học Anh Văn. Cả hai vẫn nghĩ sẽ phải đi xa. Vũ nghĩ đến con đường vượt biên. Gia đình Phương thì được một người anh trước đây làm trong toà đại sứ Mỹ đứng ra bảo lãnh. Họ yêu nhau với một tâm hồn trong trắng. Có những buổi chiều cuối tuần rảnh, Vũ đã đến nhà Phương. Cả hai nói chuyện về tương lai. Cũng ngần ấy chuyện. Chuyện cuộc sống tương lai. Chuyện đi học đại học. Chuyện đi làm. Chuyện con cái. Họ nói với nhau không biết bao nhiêu lần rồi. Đó là những ước mơ của họ. Có một lần Phương chỉ vào một trang báo trong một cuốn tạp chí Mỹ cũ về xây dựng của người anh cho mượn còn sót lại trong một ngăn tủ cũ và mơ ước: - Em mong sau này con cái chúng mình sẽ được sống trong những căn nhà sạch sẽ như thế này. Chúng mình sẽ cố gắng hết mình để lo cho tương lai con cái anh nhé. Vũ véo nhẹ vào má Phương mắng yêu: - Em hơi còn đầu óc tư sản đó! Phương dùng dằng phụng phịu: - Đó là ước mơ chân thành của em chứ bộ. Em nghĩ đâu có gì sai và quá đáng đâu! Tương lai con cái chúng mình nhất định phải sáng sủa hơn hiện tại nhiều chứ! Vũ mỉm cười: - Anh nói chơi để trêu em thôi. Anh cũng đã từng nghĩ như em. Chúng ta sẽ cố gắng thực hiện ước mơ đó. Chính vì vậy mà anh mới tính đến chuyện phải đi xa mặc dù anh rất thương những người thân và thành phố Mỹ Tho này … nhưng em biết đó, bao nhiêu năm rồi mình có làm chủ được tương lai của mình đâu. Anh muốn được học đại học nhưng có ai cho học đâu. Cứ nay đi lao động, mai đi thủy lợi … Muốn nói điều gì cũng bị theo dõi, nhòm ngó. Ngay cả việc đi lễ, sinh hoạt hội đoàn trong nhà thờ cũng phải dè dặt nữa. Phải hơn một tháng sau, Phương mới nhận được tin Vũ tới đảo Galang bình yên. Vũ có một người anh đang định cư ở Úc, do đó Vũ đang làm thủ tục đi định cư tại Úc. Nhà hát con sò ở thành phố Sydney (Úc)
Phương nhận được những lá thư của Vũ viết từ đảo. Niềm nhung nhớ như được cô đọng gửi gấm trong những lá thư này. Trong một lá thư, Vũ ép một cánh hoa rừng nhỏ trên đảo gửi về cho Phương. Năm tháng sau Vũ được qua Úc. Vũ đi học Anh Văn rồi ghi tên vào học đại học ngành computer. Gần hai năm sau, Phương cùng gia đình được qua Mỹ. Tuy họ vẫn còn phải xa nhau gần nửa vòng trái đất nhưng cả hai rất mừng vì đều đã được sống trên những đất nước tự do. Cả hai vẫn yêu nhau thắm thiết. Nỗi nhớ thương nhau được gửi gấm qua những dòng chữ trong những lá thư, trong những cuộc nói chuyện qua điện thoại. Ngày gặp nhau, ngày chung sống của họ chắc chắn sẽ không còn xa. Chỉ là thời gian … Vào dịp nghỉ hè năm sau đó, Vũ sang Mỹ gặp Phương. Cuộc hội ngộ của đôi tình nhân thần tiên như trong một chuyện tiểu thuyết. Buổi chiều họ đưa nhau đến một công viên. Cỏ xanh và hoa đẹp rực rỡ. Phương lén ngắt một bông hoa nhỏ đưa cho Vũ và nói: - Em mong tình ta sẽ đẹp mãi như thế này! Vũ cảm động hôn phớt trên mái tóc dài còn phảng phất mùi shampoo gội đầu của Phương và nói: - Chúng ta sẽ yêu nhau trọn đời. Một cơn gió nhẹ thổi qua làm những chiếc lá khô bay đổ vào nhau nghe xào xạc. Trời bắt đầu se lạnh. Họ đứng dậy ra về. Vũ trở về Úc. Một năm sau, Vũ được nhập quốc tịch Úc và sau đó lo giấy tờ bảo lãnh cho Phương qua Úc. Khi sang Úc, lúc đầu Phương ở nhà một người bạn thân. Vũ học xong năm thứ ba đại học và được nhận vào làm programmer tạm thời ở sở thuế vụ. Đám cưới được tổ chức sau đó vài tháng. Không bao giờ Vũ và Phương quên được những câu nói của người MC trong tiệc cưới hôm đó. Bằng một giọng nói duyên dáng, dí dỏm nhưng chân thật, người MC đã mô tả cuộc tình của Vũ và Phương đẹp, lãng mạn như một bài thơ tình, như một truyện tiểu thuyết có hậu (happy ending). Cuộc hội ngộ của hai kẻ xa cách từ nửa vòng trái đất. Tháng ngày xa cách không làm cho tình yêu phai nhạt mà trái lại còn hun đúc thêm cho tình yêu của họ. Dù đã xa cách nhau một thời gian nhưng cả hai, lúc nào cũng luôn luôn nhìn về một hướng. Tình yêu của họ vẫn như ngày nào, đúng như một thi sĩ nổi tiếng Việt Nam đã nói: “Tình muôn thuở nên suốt đời vẫn mới, Môi đam mê nên vẫn nụ hôn đầu” Sau đám cưới, Phương xin theo học một lớp về childcare ở trường TAFE. Hai năm sau Phương tốt nghiệp và cũng là lúc Vĩnh, đứa con trai đầu lòng chào đời trong niềm mong đợi của Vũ và Phương. Tình yêu bây giờ đã trổ bông. Sau một thời gian nghỉ vài tháng, Phương được nhận vào làm việc tại một nhà giữ trẻ gần nhà. Rồi Đăng, đứa con thứ hai ra đời. Mẹ của Phương đã từ Mỹ sang chơi và ở lại giúp đỡ trông coi hai cháu một thời gian. Nhờ làm việc trong nhà trẻ, Phương có nhiều kiến thức về việc nuôi dạy, chăm sóc con cái. Hai đứa bé càng ngày càng bụ bẫm và dễ thương. Vũ và Phương cảm thấy niềm hạnh phúc tràn trề. Họ tính đến chuyện tương lai và tìm mua một căn nhà nhỏ xinh xắn. Những ngày cuối tuần, Vũ dành một ít thời gian sửa sang lại khu vườn sau nhà, tạo thành một khu playround an toàn cho các con của họ chơi đùa cũng như tạo khung cảnh lãng mạn cho Vũ và Phương trò chuyện. Họ lại có thêm một bé gái Hạ Đoan. Trai có, gái có. Cả hai thấy không còn gì phải mơ ước thêm nữa. Rồi Vũ lại tìm được một chỗ làm tốt ở một hãng tư với số lương khá cao. Vũ và Phương lại tham gia hát cũng như hướng dẫn cho một ca đoàn trong những buổi lễ Việt Nam tại một nhà thờ ở một khu vực gần đó. Khi có thời giờ rảnh, Vũ cũng tham gia một số sinh hoạt cộng đồng. Phương thì thỉnh thoảng viết vài truyện ngắn cho một tờ báo Việt. Các con của họ lớn theo ngày tháng. Chúng được chăm sóc chu đáo, ngoài việc học ở trường, tuỳ theo lứa tuổi, chúng được học thêm về nhạc, về thể thao … Phương đã dành tiền và mua cho các con một chiếc piano xinh xắn. Trong một lần, khi bàn bạc về chuyện tương lai, Vũ đề nghị: - Phương, anh tính bàn với em chuyện này. Căn nhà mình đang ở đã trả được gần một nửa. Anh định dùng căn nhà này thế chấp để mượn ngân hàng mua thêm một căn nhà đầu tư. Căn nhà đầu tư này mình sẽ cho thuê. Có thể mình phải tiết kiệm để phụ thêm vào việc trả ngân hàng chút ít nhưng bù lại cuối năm mình sẽ có thể lấy lại ít tiền thuế từ sự đầu tư thua lỗ này. Đây cũng là một hình thức tiết kiệm tiền của phần đông những người đi làm với đồng lương cố định như anh và em. Em nghĩ sao? Phương hơi trầm ngâm và chậm rãi trả lời: - Liệu còn đủ tiền lo cho các con không anh? Với em và có lẽ cả anh nữa thì không sao, nhưng em không muốn các con phải thiếu thốn. Nếu các con phải thiếu thốn thì đây là niềm tủi thân của em đó anh ạ. Vũ phân bua: - Anh cũng nghĩ như em vậy nhưng anh đã có cách giải quyết. Này nhé, thường thường mỗi tháng mình đều đồng ý bỏ thêm vào ngân hàng một số tiền nhỏ để trả nợ căn nhà đang ở. Nếu căn nhà đầu tư có phải bù thêm chút ít thì chúng ta sẽ không bỏ thêm tiền trả căn nhà đang ở nữa. Anh bảo đảm là các con vẫn được chăm sóc đầy đủ. Phương nhìn Vũ mỉm cười biểu lộ sự đồng tình. Vũ nói tiếp: - Đúng ra đây là kế hoạch đầu tư cho các con của chúng ta chứ không phải cho chúng ta. Anh và em sẽ cố gắng trả cho xong căn nhà đầu tư này trước khi Vĩnh vào đại học. Anh lo nếu sau này, chính sách giáo dục của Úc sẽ theo Mỹ thì tiền học phí đại học sẽ cao. Dù thế nào, con của chúng ta cũng phải có điều kiện học xong ít nhất là bậc đại học. Em đồng ý chứ? Phương mỉm cười khẽ gật đầu. Vũ lại cười. - Còn một điều này nữa, bí mật mà anh chưa nói với em. Phương bấu nhẹ vào má Vũ và hỏi: -Điều bí mật gì mà anh giấu em. Anh phải khai ra ngay! Vũ cười nhẹ và ghé vào tai Phương nói nhỏ: - Anh mới được tăng một bậc lương và anh cũng vừa nhận giúp cho chú Nam một phần việc trong cái project mà chú đang làm cho một công ty tư. Phương ái ngại: - Em nghĩ anh làm hơi nhiều. Anh đâu còn thời giờ nghỉ ngơi. Vũ chậm rãi nói: - Anh chỉ phụ giúp chú Nam một phần nhỏ của cái project này. Chỉ cần dành ra một số buổi sáng thứ bảy là đủ. Nhân tiện anh cũng muốn học hỏi thêm để nếu sau này có điều kiện, khi các con đã lớn, anh sẽ nhận làm thêm. - Em có thể giúp anh được không? Phương hỏi. Vũ cười âu yếm: - Em giúp anh chăm sóc ba cục cưng. Đó là big job đấy em ạ! Và chăm sóc cho anh nữa chứ! Cả hai cùng cười và vui mừng nói: - Cuối tuần này chúng ta sẽ đi xem thử vài căn nhà mới xây ở một vùng gần đây nhé. Ngay lúc đó, bé Hạ Đoan, đứa con gái nhỏ của họ chạy tới ôm chầm lấy Phương và Vũ nói: “Mẹ, Ba”. Vũ nhìn Phương mỉm cười và nhớ tới câu nói của Phương: “Tình yêu của chúng ta được ươm trồng từ những ngày ở Việt Nam và sẽ trổ bông, kết trái trên đất Úc”. Đó là cuộc nói chuyện cách đây hơn bảy năm. Giờ đây, ngoài căn nhà đang ở, họ đã đầu tư thêm một căn nhà nhỏ và một căn apartment ngay trung tâm vùng Bankstown. Vũ bây giờ đã là một manager trong bộ di trú, còn Phương vẫn tiếp tục công việc ở một nhà trẻ gần nhà. Cuối tuần Phương có đi dạy thêm tiếng Việt cho một trường Việt Ngữ gần đó. Ngoài việc làm ở sở, Vũ không làm thêm gì nữa. Giờ đây cuộc sống của họ đã ổn định. Các con đã lớn và cả hai đều muốn dành cho nhau nhiều thời giờ đầu tư cho con cái. *** Tiếng đàn dương cầm thánh thót phát ra từ căn phòng nhỏ của Đăng đã cắt đứt những dòng hồi tưởng của Vũ và Phương. Cùng lúc đó, Vĩnh cũng vừa được một người bạn của Vũ chở về nhà từ một sân tập tennis của trường. Họ uống hết ly cà phê, cùng nhìn về một hướng và cảm thấy vô cùng hạnh phúc cùng nhau đi tiếp cuộc sống mà họ đã chọn. Vũ thong thả nói: - Hôm nay đang là xuân. Đúng như em từng nói tình yêu của chúng ta đã trổ bông trên đất Úc. Anh muốn gọi mùa xuân đáng ghi nhớ này là mùa xuân hạnh phúc. Em đồng ý không? Phương nhìn Vũ trìu mến: - Hay quá anh ạ, nhưng em muốn thêm cho đầy đủ: “MÙA XUÂN HẠNH PHÚC TRÊN ĐẤT ÚC”. Vũ cười nhìn Phương âu yếm: - Nghe hay quá. Em lúc nào cũng đúng mà !!! Mai Khánh Thư - Phạm Doanh Môn Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 05/Mar/2022 lúc 12:19am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Chị Ơi![]() Tôi nhận được cú phôn từ Việt Nam vào một buổi tối khi cả nhà sắp sửa đi ngủ. Bên kia đầu giây, giọng nói của đứa em trai kế lạc đi vì xúc động, báo tin chị Tr. vừa mới chết ở Vĩnh Long. Tôi bàng hoàng và đau đớn, lặng đi một lúc, chỉ buông được 1 câu “Thật vậy à?”. Tôi không thể tin được chị tôi qua đời khi tuổi vừa mới 44, để lại đàn con 5 đứa bơ vơ trong khi ba của chúng, một gã ăn hại, làm biếng, chỉ lo nhậu nhẹt, còn mãi chạy theo các người đàn bà khác. Buông phôn xuống, tôi chẳng nói được câu nào, tự dưng những giọt nước mắt cứ lăn dài trên má. Trên con tàu xuôi Nam, đứa bé gái 2 tuổi, bước dài bước ngắn, lon ton vừa đi vừa chạy, nắm chặt tay người chị cả 4 tuổi, cùng với cha mẹ và đứa em trai đang được địu trên lưng mẹ, cả gia đình bỏ lại quê hương, nhà cửa, ruộng vườn để di cư vào miền Nam lánh nạn cộng sản. Đặt chân lên miền đất tự do nhưng xa lạ, chưa biết làm gì nuôi 3 đứa con, ba tôi đăng lính. Mỗi lần đơn vị di chuyển, ông phải đem cả gia đình đi theo. Rồi lần lượt, chúng tôi, 6 đứa nữa lần lượt chào đời, mỗi đứa một nơi sinh khác nhau. Lần đóng quân lâu nhất là trong phi trường tỉnh Sóc Trăng, một tỉnh rộng lớn nằm bên giòng Hậu Giang, miền Tây Nam, nơi đồng lúa bạt ngàn, xanh tươi, cò bay thẳng cánh. Chị em chúng tôi trải qua thời thơ ấu bình yên, tuổi học trò tung tăng những bước chân sáo trên mảnh đất tươi đẹp, hiền hòa này. Cô bé hai tuổi ngày xưa giờ trở thành một cô thiếu nữ tuổi trăng tròn, cao lớn phỗng phao, xinh xắn, dễ coi trong khu gia binh toàn gia đình con em binh sĩ tiểu đoàn 212 pháo binh. Nhà đông con, vả lại chị học hành không giỏi giang như chúng bạn, nên xin thôi học, ở nhà giúp má tôi và bà chị cả mở một tiêm tạp hóa và cà phê, kiếm thêm tiền phụ giúp gia đình và trông coi các em. Ngoài việc phụ giúp má tôi trông coi quán và bán hàng cho khách và bà con trong khu gia binh, chị siêng năng, cần mẫn, nhanh nhẹn, khéo léo, và là đầu bếp chính của gia đình, cả nhà đều thích những bữa ăn nóng hổi ngon lành chị nấu. Má tôi hay kể, lúc nhỏ tôi là đứa hay khóc và khóc rất dai, không ai dỗ được, chỉ có chị là người có thể dỗ tôi nín. Vì vậy, lúc nhỏ tôi thương chị nhất nhà, hay đeo theo chị đi chơi trong xóm. Chị cũng thương tôi hơn các đứa em khác vì tôi còi cọc, hay bệnh lặt vặt, khó nuôi. Tôi cảm nhận được chị thương tôi hơn những đứa em khác nên tôi hay làm nũng với chị mà không dám nhõng nhẽo với bà chị cả. Má tôi nhớ, có đêm tôi bị sốt, mũi chảy thò lò, người oặt oẹo, khóc rề rề cả đêm, không ai ngủ được, chị cứ ẵm tôi trên vai, vỗ về, săn sóc chu đáo. Khi mệt quá, chị lại đặt tôi nằm xuống giường, tôi lại khóc, chị đi kiếm giấy báo cũ đốt lên để tôi được nhìn thấy bóng ngọn lửa nhảy múa trên tường thì tôi nín khóc. Lửa vừa tắt, tôi lại khóc lè nhè, dai dẳng, chị phải đốt tờ báo khác để dỗ dành cho đến khi tôi mệt lả đi vì hết hơi, và chìm vào giấc ngủ chập chờn. Chị nhẹ nhàng lau mặt cho tôi bằng khăn ấm rồi mới trở về nằm trên cái võng kế bên. Lớn hơn một chút, mỗi lần theo má đi chợ, chị để dành tiền mua cho tôi khi thì một món đồ chơi hay vài miếng bánh da lợn mà thôi thích. Chị chăm chút cho tôi còn hơn má nên tôi thích lẽo đẽo đi theo chị suốt ngày. Sau này, lớn lên đi học xa nhà, chị là người hay viết thơ cho tôi kể chuyện gia đình. Nhìn nét chữ viết ngoáy cứng cáp của chị, tôi vui thật nhiều vì dù tôi đi xa, chị vẫn nhớ thương, lo lắng cho thằng em bé bỏng của chị, không biết nó có tự lo cho bản thân được không. Lần nào chị cũng gởi tôi một ít tiền tiêu vặt để đi phố với bạn bè. Cuối thư, chị không quên nhắc nhở phải giữ ngực cho ấm trời Đà Lạt lạnh lắm, nghen em. Như bao cô gái vào tuổi mộng mơ, chị vẫn hay thả hồn lang thang, chấp chới bay theo những cánh bướm lượn lờ trên những bông hoa, để mắt dõi theo những đám mây trời bàng bạc trên bầu trời xanh, mơ câu chuyện thần tiên có chàng bạch mã hiệp sĩ hiện về trong giấc mơ. Má tôi khẽ lắc đầu, gọi nhiều lần chị mới giật mình dạ to một tiếng, trở về với thực tại. Cuộc sống trong khu gia binh thời đó, lính tráng đi ra mặt trận, hết chiến dịch lại về nên lúc nào trong trại cũng đầy bóng dáng những thanh niên hào hùng trong bộ đồ trận vương mùi thuốc súng và những thư sinh vừa rời ghế nhà trường, khoác áo “trây di” theo tiếng gọi non sông. Trong chốn ba quân đó, có một chàng trai khoảng 20 tuổi, dáng người gầy nhưng cao, mũ nồi đen, áo trận bạc màu, binh chủng thiết giáp. Anh ta hay ghé quán nhà tôi uống cà phê, mua bao thuốc lá, thỉnh thoảng ngồi lại cao giọng kể chuyện hành quân và các trận chiến ác liệt ngoài sa trường pha lẫn một chút láu lỉnh, khi cao hứng anh ta kể mình là nhân vật chính, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, luôn xông pha về phía trước, coi kẻ thù như là… củ khoai. Thời chiến tranh, sống nay chết mai, hầu hết các cô gái miền Nam đều ước mơ được làm người yêu của lính dù biết các chàng Kinh Kha ra đi chưa chắc có ngày trở về. Hình ảnh người lính Việt Nam anh hùng là hình ảnh đẹp nhất thời bấy giờ trong tim người dân miền Nam Việt Nam nên chị tôi cũng thầm yêu anh lính Thiết Giáp ăn to nói lớn kia. Rồi anh chàng lính Kỵ Binh đem trau cầu đến hỏi khi chị tôi mới vừa tròn 17 tuổi. Chị tôi lên xe hoa về nhà chồng tận huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Ngày cưới, tôi nghe họ đàng trai kêu chị tôi là chị Bảy. Lúc chị xách va li rời nhà, tôi khóc rất nhiều, không muốn cho chị đi. Tôi hụt hẫng, chơi vơi. Tôi biết tôi sắp mất một người chị thân yêu nhất. Nhưng một đứa con nít thì làm gì được. Chị tôi phải theo chồng đi khắp 4 vùng chiến thuật và năm sau, tôi đi học xa nhà, vào một trường nội trú; Còn chị phận gái tòng phu, chị phải theo chồng con mỗi lần đơn vị di chuyển. Chúng tôi chỉ còn liên lạc với nhau bằng thư từ Sau năm 1975, tất cả mọi binh lính, sĩ quan, và công chức miền Nam đều phải trải qua những tháng năm của kiếp người trong những “trại súc vật”, anh rể tôi may mắn chỉ đi học tập cải tạo 5 ngày vì chỉ là hạ sĩ quan, rồi đem vợ và 3 đứa con về quê nội. Cha mẹ chồng chia cho anh chị vài sào ruộng để nuôi đàn con tuổi đang ăn đang lớn. Vốn cần cù, siêng năng, chị tôi tần tảo nuôi chồng nuôi con nhờ vào chiếc xuồng ba lá chất đầy cần xé, giỏ lác với đủ thứ gà vịt, tôm cá và nông sản, hằng ngày xuôi ngược trên con sông quê bất kể nắng mưa dãi dầu. Từ chiếc xuồng con ba lá bơi bằng dầm, chị dành dụm mua được chiếc ghe lớn hơn với hai mái chèo đứng, chị tôi chèo đi trong xóm thu mua tất cả mọi thứ, đem đến chợ huyện bán. Đến trưa, chị lại hối hả mua hàng xén, mắm muối, đường thẻ, và những thứ hàng hóa cần thiết mà người dân trong xóm vì xa chợ, không thể mua được. Chị một mình hì hục chất hàng lên ghe thật khẳm, theo con nước lên, xuôi về nhà, dưới ánh nắng vàng chói chang, chênh chếch, mồ hôi pha lẫn nước mắt vì thỉnh thoảng chị cảm thấy một cơn đau nhói như phá tan lồng ngực, đau đến ứa nước mắt không thể ngăn lại được. Một thân một mình, đi sớm về trưa, chị đem hàng về nhà để hắn và mấy đứa con bầy bán trong một cửa hàng tạp hóa mà chị đã mở phía trước nhà để kiếm thêm tiền chợ. Mấy sào ruộng chỉ đủ gạo cho cả gia đình 7 miệng ăn, mà 2 đứa sau này ra đời trong những ngày gạo châu củi quế sau năm 1975. Thời gian này, tôi cũng long đong lận đận, tù tội rồi vượt ngục. Không dám về nhà, tôi phải phiêu bạt giang hồ. Tôi lại chạy về với chị. Chị lúc nào cũng giang rộng vòng tay thương yêu đón đứa em lưu lạc thiếu may mắn, và luôn dúi vào tay tôi ít tiền xài. Có những đêm khuya khoắt, mấy đứa cháu ngủ đã lâu, anh rể tôi còn mãi trăng hoa nơi nào, tôi ngồi một mình đọc sách bên ngọn đèn dầu chờ chị về. Thỉnh thoảng tôi bước ra sàn nước sau nhà sát mé sông, nhìn con nước lên hình dung coi giờ này chị tôi sắp về gần đến nhà chưa. Nghe tiếng lạch cạch của mái chèo va vào mạn xuồng, tôi buông cuốn sách, chạy vội ra giúp chị khuân hàng hóa lên nhà. Nhìn chị mệt nhọc, tất bật, lam lũ, xác xơ, lòng tôi xót xa muôn vàn, chẳng biết làm gì đỡ cho chị. Ăn vội chén cơm, chị ngồi xuống, cắm cúi lo tính toán sổ sách. Nhìn bóng hình cam chịu của chị soi trên vách, nước mắt tôi chực trào ra. Chị đến gần, đặt tay lên vai tôi hỏi sao chưa đi ngủ. Tôi nắm lấy hai bàn tay nổi những đường gân xanh của chị: - Chị chưa về, em làm sao ngủ cho yên. Tôi thấy mắt chị mờ đi một thoáng hơi sương. Chị khẽ bảo: - Thôi em đi ngủ đi, mai chị không đi chợ. Vậy mà chị em tôi đâu có nhiều dịp ngồi lại với nhau trò chuyện được lâu. Chị khuyên tôi ở lại đây lấy vợ, làm ăn, chị sẽ làm mai cho một đứa con gái quê hiền lành, biết chịu cực, hay lam hay làm. Vấn đề hộ khẩu chị lo cho, tôi không phải bận tâm, vì ở đây toàn bà con xóm làng, không ai làm khó dễ đâu. Tôi biết chị muốn chị em được ở gần nhau, nhưng tôi còn ôm giấc mộng lớn, chưa muốn neo thuyền ở bất cứ một bến đỗ nào. Đó là lần cuối cùng tôi gặp chị, tôi lại ra đi vào sương gió về một nơi vô định. Nhờ sự cần cù bương chải, chăm chỉ của chị, trong thời kỳ “quá đọi” để tiến lên chủ nghĩa xã hội, cả gia đình không một bữa nào phải ăn cơm độn khoai. Mỗi ngày khi gà chưa gáy sáng, khi vạt cỏ bên đường còn ướt đẫm sương đêm, chị tôi thức giấc, nhẹ nhàng với tay lấy 2 mái chèo và giỏ xách, một mình chèo ghe đến Cầu Đôi, gởi ở đó, lo chuẩn bị cho chuyến đi buôn đến Sài Gòn kiếm thêm gạo về nuôi 5 đứa con khờ dại. Ngày đêm vất vả, đầu bù tóc rối, không ngại một sương hai nắng, gian khổ, chị khéo léo né tránh công an kinh tế chuyên rình rập bắt hàng hóa của dân chúng, nhờ vậy gia đình có thêm của ăn của để. Kinh tế gia đình khấm khá một chút thì tật mèo mỡ của anh rể tôi càng hoang dại hơn, những ngày ở nhà với vợ con đếm được trên ngón tay, hắn chỉ trở về khi hết tiền, vét sạch hộc tiền tiệm tạp hóa rồi lại bỏ đi. Khi không có tiền, hắn đe dọa mấy đứa con phải đưa tiền cho hắn đi buôn bán. Nếu không đưa, hắn đánh đập tàn nhẫn nên con cái sợ hắn như sợ cọp. Có lần hắn đánh thằng con lớn phải đi cấp cứu, tưởng chết. Ở dưới quê, không có gì dấu được lâu, chuyện vợ bé, trai gái cũng đến tai ba má và anh chị em gia đình hắn. Ai cũng xót thương cho nỗi nhọc nhằn và hoàn cảnh của chị tôi. Họ lên tiếng bênh vực và đứng hẳn về phía chị tôi, chửi hắn thậm tệ. Họ khuyên nhủ, cầu xin, hết cứng rắn rồi lại mềm dẻo, nhưng tánh nào tật nấy, hắn không nghe một ai. Cha ruột hắn vốn là một thày dạy võ, ông Hai Đính giận quá, bơi xuồng qua tận nhà hắn, vác cây dầm bơi đập cho hắn mấy cây. Hắn nhảy ùm xuống sông, vừa bơi vừa la lớn: - Bớ hàng xóm, Hai Đính quýnh Bảy Tân. Ông già 70 tuổi, tuy là võ sư, làm sao có sức rượt đuổi hắn, ông hậm hực bơi xuồng về và đòi từ hắn, không cho hắn qua nhà mấy ngày giỗ chạp hay Tết. Hắn không cần, vẫn đi mèo mỡ, khi hết tiền về nhà cố vét được ít tiền rồi lại đi. Chị tôi vẫn cắn răng cam chịu, nhẫn nhục vì con cái, không dám than thở cả với cha mẹ ruột mình. Khi đó, cuộc đời tôi vẫn lang bạt sống mòn trong cái xã hội đọa đày, vẫn nuôi mộng hải hồ; Tôi được mời làm tài công, lái tàu vượt biển đến trại tỵ nạn Philippines, ở đó hơn 2 năm, chờ đi định cư ở Mỹ. Tôi cắm đầu cắm cổ đi làm đi học, đầu tắt mặt tối, tôi quên tất cả, tôi quên bạn bè, quên gia đình và quên luôn chị tôi cho đến ngày học xong, ra trường, và có việc làm đầu tiên, chưa kịp viết thơ cho chị thì hay tin dữ. Giòng sông quê vẫn đục màu nước phù sa, tiếng Bìm Bịp vẫn kêu con nước lên nước xuống, nhưng một buổi sáng, chị tôi không còn dậy nổi để đi chợ. Chị mở mắt. Trần nhà chông chênh xoay chuyển. Chị có cảm giác như thân thể mình bồng bềnh tựa chiếc thuyền trôi đi, cứ trôi đi trên sông nước, trong sương khói mênh mông, và dật dờ đi vào một vùng tối mịt mù. Chị cảm nhận hơi lạnh thấm vào xương tủy, một nỗi đau đớn kinh khủng vừa vỡ ra trong lồng ngực. Trong vùng mơ ảo đó, chị nghe thấy tiếng của chính mình - “Hãy ngủ đi, ngủ cho quên đi nỗi nhọc nhằn, ngủ cho thật say để thoát khỏi nợ trần gian”. Chị sụp đổ xuống trong vùng bóng tối im lặng sâu thẵm đó. Đến sáng, mấy đứa con nhìn xuống bờ sông, thấy chiếc ghe của má tụi nó vẫn còn cột hờ hững ở đó. Chúng vội chạy vào buồng, má tụi nó nằm như chết, mặt trắng bệch, trên gối vết máu còn tươi nguyên. Chúng khóc la và sợ hãi kêu cứu, nhưng ba tụi nó không có ở nhà. Một đứa bơi xuồng qua bên ông bà nội. Chú Út lấy chiếc vỏ lải máy đuôi tôm chở má tụi nó lên bệnh viện huyện. Họ cho biết cô bị lao lực và chuyển sang ung thư phổi giai đoạn chót, không còn sống bao lâu, nên đem về nhà lo hậu sự. Vì yêu thương đám con dại khờ, chị cố sống lây lất hơn 5 tháng nữa, với thuốc men khi có khi không. Nhìn đàn con dơ bẩn, nhếch nhác, quá đau lòng, chị gắng gượng dậy lo cơm nước cho chúng bữa đực bữa cái trong khi chồng còn mãi chạy theo những hình bóng khác. Ba má tôi cũng cố hết sức giúp đỡ tiền bạc lẫn công sức, đem mấy đứa con về bên ngoại nuôi. Ngày trước, tình yêu chồng con đã giúp chị tôi có sức mạnh vượt qua những cơn đau âm ỉ ngày một ngày hai; Bây giờ nỗi buồn đau người chồng bội bạc gặm nhấm dần thân thể bệnh hoạn khiến chị liệt giường và không bao giờ còn ngồi dậy nữa. Mấy đứa con không biết săn sóc mẹ nên lưng chị bị lở loét vì nằm một chỗ quá lâu không có người lau sạch và xoay trở thân mình. Chị tự biết mình sẽ không còn sống bao lâu nữa chỉ lo các con rồi đây ai nuôi chúng mà hai hàng nước mắt lặng lẽ chảy ướt cả gối. Bốn câu thơ của thi sĩ Tế Xương như một lời tiên tri vận vào cuộc đời chị tôi đúng đến từng chi tiết nhỏ: Quanh năm buôn bán ở ven sông, Nuôi đủ năm con với một chồng, Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Một hôm, hắn trở về nhà với một người đàn bà mà hắn giới thiệu là một y sĩ “cách mạng” của bệnh viện xã. Chị tôi mệt mỏi, nặng nề, mở mắt nhìn người chồng bội bạc cùng với người cướp chồng mình mà không nói lời nào. Sức sống cạn dần trong cái thân xác gầy gò chỉ còn là bộ xương, trong đôi mắt đẫm lệ của chị tôi, lặng lẽ một nỗi đau buồn uất nghẹn. Còn niềm vui ác độc nào hơn niềm vui khốn nạn của người chồng phụ bạc, nỡ lòng đâm thêm một nhát dao chí mạng vào người đầu gối tay ấp của mình đang hấp hối trên giường bệnh. Cả hai ngủ với nhau ngay trong căn nhà mà chị tôi đã đổ mồ, nước mắt và xương máu xây dựng lên. Hắn hỏi chị còn vàng bạc thì đưa hắn làm vốn để đi buôn thuốc Tây với cô y sĩ cách mạng. Chị tôi thừa hiểu hắn có biết một chữ tiếng Tây tiếng U gì đâu mà đi bán thuốc Tây. Hắn lôi chị ngồi dậy và tra hỏi, chị nói còn chút gì thì đã xài hết vào thuốc thang. Chị tôi đã kín đáo gởi lại lại ít chỉ vàng bên nội cho đám con khờ dại sau này, phòng khi chị không còn nữa. Hắn đạp chị một cái thật mạnh vào bụng, chị tôi đổ gục xuống sàn nhà. Cả hai bỏ đi trong tiếng khóc thất thanh của mấy đứa con. Đứa con trai lớn vừa lấy vợ đang ở xa, không có ở nhà. Con cọp còn không nỡ ăn thịt đồng loại mình. Con chim Ương còn biết gào khóc tiếng bi thương bên xác con chim Uyên, cho đến lúc kiệt sức mà chết, huống chi con người. Nửa tháng sau, vào một ngày gần cuối năm 1996, chị tôi vĩnh viễn rời xa cõi đời khốn khổ lúc vừa tròn 44 tuổi, mang theo nỗi buồn da diết và u uất như từ tiền kiếp nào. Chị bỏ lại 4 đứa con bơ vơ, chúng lớn lên hoang dã như cỏ dại. Ông nội mấy đứa nhỏ, ba hắn, qua nhà nhìn thân xác cô con dâu nằm héo hắt trong quan tài, chỉ biết lắc đầu khóc và than lớn tiếng để cho thằng con trời đánh nghe rõ: - “Con ơi, ba xin lỗi con, ngàn lần xin lỗi con”. Má tôi, từ xa đến khóc con, chỉ nấc lên nghẹn ngào: - “Mẹ chưa đi, sao con lại ra đi trước mẹ”. Một đám tang buồn thảm trong một ngày mưa dầm dề. Trời đất như nhỏ lệ khóc thương cho linh hồn chị tôi, một vì sao lẻ loi vừa rơi rụng ở cuối trời. Rồi một ngôi mộ đất nằm buồn bã cô đơn bên hàng cau xơ xác ven sông ở quê chồng. Chị tôi nằm lại đó, cạnh bờ sông nước lớn nước ròng, sóng bồng bềnh, gió mênh mông thì thầm qua kẽ lá ru hồn chị êm đềm đi vào giấc ngủ thiên thu. Chị bỏ lại sau lưng lớp áo trần gian đầy nhọc nhằn, rũ bỏ những bụi trần lắng đọng của thời gian và không gian để đi về miền đất miên viễn không có đau khổ, bạc tình. Chị của tôi vừa đi trọn kiếp người trong cái thế giới đầy nhọc nhằn, đau thương, và khổ ải. - “Năm đó con mới 12, 13 tuổi”. Đứa con gái út chị tôi, lúc này 16 tuổi, vừa khóc vừa kể cho tôi nghe sau ngày cùng ba nó qua đến Mỹ theo diện vợ bảo lãnh về tiểu bang Washington. Một bà bồ cũ của hắn, có 2 đứa con lai, từ Mỹ về Việt Nam chơi, gặp và cưới hắn, rồi đem hắn và đứa con gái út qua Mỹ. Tôi đón cháu tôi về nhà để nuôi nấng và gởi nó đi học nghề. Hôm nay nhớ chị, tôi lục lại trong xấp giấy tờ cũ, thấy lá thư cuối cùng viết cho tôi hơn 1 năm trước khi chị lâm bệnh nặng, nằm liệt giường. Tôi mở ra đọc, nước mắt chảy ướt trang thư tay, làm nhạt nhòa những giòng chữ viết tay rắn rỏi của chị “…chị viết cho đứa em xa quê hương mà chị thương nhiều nhất”. Chị yêu thương của em, chị là vầng trăng sáng, là đại dương mênh mông mà vòng tay em không ôm hết được từ những ngày còn thơ dại. Từ nay em mất chị vĩnh viễn rồi. Từ trong lồng ngực tôi một tiếng kêu đau thương bật lên, không nén lại được, tôi thổn thức kêu lên “Chị ơi”. Chị tôi trở về với cát bụi ngày 6 tháng 9, năm 1996. Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 11/Mar/2022 lúc 9:51am |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Cuốc Xe Ôm Nhớ Đời - TQĐ <<<<< ![]() |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23816 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Lưu lạc“Vô đây đi anh ơi, có em mới, anh ơi, ghé vô tươi mát chút đi anh. Vô đi anh.” Chân hắn dùng dằng. Ðầu óc hắn lông bông. Vào hay không vào. Sự lựa chọn nào cũng khó khăn. Chân phải bước tới, chân trái ngập ngừng muốn xoay lui. Tiếng gọi lại vang vang trong ngõ tối, át cả tiếng nhạc dập dồn. Tiếng gọi như thúc hối, như dỗ dành. “Có em mới từ thành phố xuống nè, anh ơi.” Chân phải hắn sựng lại. Em mới từ thành phố thì cũng vậy thôi. Nhưng chân trái hắn bước tới; lúng túng như sắp vướng vào chân phải. “Có ai mới ở dưới quê lên không?” Hắn gào lên nho nhỏ, như sợ những kẻ qua lại trên đường phố nghe được. “Anh nói chi?” Cái đầu tóc quăn ló hẳn ra ngoài khung cửa. Ánh đèn đường phết cái màu vàng ệch lên đôi má trắng màu kem và vạch môi thẫm son màu máu bầm. Hắn nhìn xoáy vào hai con mắt lóng lánh. “Có ai mới ở dưới quê lên không?” Hắn nới lỏng cái cổ họng, cho giọng nói thoát ra dễ dàng hơn, vươn lên trên cái nền âm thanh xập xình. “Có chớ anh; có mấy em dưới ruộng mới lên.” Cái mũi cô gái chun lại, như mở cái ngoặc đơn cho câu nói. “Còn din à nghe.” Hắn xoay hẳn người lại, chớp chớp con mắt cho quen với ánh đèn xanh đỏ chớp tắt trong lòng quán. Rồi hắn hít một hơi dài, cuốn hết một phần đêm trời đất hanh hao vào lồng ngực để pha đều chất tự tin, rồi ngập ngừng bước lên bậc thềm. oOo “Cởi đồ ra đi anh.” “Khỏi cởi được không?” Cô gái nhìn hắn bằng cái nhìn lạ lẫm. Rồi cô nhoẻn miệng cười. “Không cởi đồ làm sao mà làm.” “Khỏi làm.” “Anh hổng chơi thì vô đây làm chi.” “Anh đi tìm người quen.” “Nữa rồi. Người quen nào ở đây.” “Em có quen ai ở Hóc Môn không?” “Bao nhiêu đứa ở Hóc Môn, biết đứa nào là người quen của anh. Thường tụi nó làm một thời gian rồi biến mất tiêu. Mà anh kiếm ai. Người yêu hả. Hay em gái?” “Em một thằng bạn.” Hắn thật thà. “Hồi đó em có nhỏ bạn ở Hóc Môn tên Hoa.” “Thật không?” “Thiệt chớ anh.” “Hoa?” “Dạ, con nhỏ cao hơn em một cái đầu. Nó hiền khô à. Bà già nó chết xong, nó bỏ xứ đi luôn.” “Cô ấy còn làm ở đây không?” “Ði mất tiêu.” “Em biết cô ta đi đâu không?” “Bảo lãnh em đi Mỹ rồi em chỉ cho.” “Có khi nào cô ta đi lấy chồng Ðài Loan rồi không?” “Còn lâu anh ơi. Ðài Loan khôn tổ mẹ. Ðộng phòng, nó trải khăn trắng trên giường làm sao qua mặt nó được.” “Hay lấy chồng Việt kiều?” “Ai cũng vậy anh ơi. Ðàn ông ích kỷ tổ mẹ. Biết mình hổng còn din là nó đì mình chết mẹ luôn.” Thấy hắn băn khoăn, người con gái gợi ý. “Anh tìm mấy quán bia ôm chưa?” oOoLúc hắn bước ra cửa, người con gái ngồi bên chiếc bàn kê bên lối đi bất chợt duỗi chân ra chặn hắn lại. Hắn nghiêng đầu nhìn xuống. Cô gái vừa thản nhiên thoa son môi vừa đong đưa con mắt liếc. “Còn nhớ em không?” Giọng nói du dương như tiếng hát. “Nhớ chứ,” hắn nói đại. Ðầu óc làm việc cật lực để tìm lại tập hồ sơ của con mắt có đuôi. “Nhớ điện thoại cho em nghe.” Hắn gật đầu lia lịa, “Nhớ.” Nàng đạp mũi giầy lên lưng bàn chân hắn. “Ðiện thoại em số mấy?” Bảy con số chạy vòng quanh trong đầu người đàn ông mấy vòng trước khi thoát ra cửa miệng. Mấy con số quen quen. Nàng xoáy mũi giầy lên chân hắn. “Sai số cuối rồi. Sáu chứ không phải chín.” Hắn đọc lại con số đúng. “Tên em là gì?”. “Thuý.” Trên môi người con gái nở ra nụ cười mãn nguyện, “Ðược.” oOo Người bạn có chiếc xe gắn máy cũ dùng để thồ những bao gạo bốn chục ký ra chợ cho vợ. Chiếc xe có cái yên sau chế biến thành chiếc khung sắt để ràng bao gạo cho chắc. Hắn cẩn thận ngồi lên cái khung ấy, thầm mong bạn đừng chạy lên đám ổ gà ai đó rắc đầy trên đường phố. “Lâu lắm tôi không lên Sài Gòn ông à.” “Vậy à?” Hắn hỏi, cố giấu vẻ ngạc nhiên. Từ ngoại ô nơi bạn ở vào đến trung tâm thành phố, ngày xưa xe đạp đi đi về về một ngày mấy lần. “Còn mẹ gì đâu mà lên với xuống.” Bạn hắn nói. Hắn hiểu ý bạn. “Thời gian qua mau nhỉ.” Bạn hắn lại nói, “Ừ, mau thấy sợ.” Xe chạy vòng quanh dòng cuồng lưu. Toàn người là người. “Việt Nam mình dễ chừng chín mươi mấy triệu rồi ấy nhỉ.” Hắn nói vào mái tóc bay xù trong gió của bạn. “Ừ, sức người phải kể là vô địch; vậy mà…” Người bạn bất thần thắng xe lại. Hắn chúi người ra trước, bàn chân trái tuột ra khỏi miếng tựa, quét xuống mặt đường. “Tôi nhớ rõ là khúc này mà sao lại là nhà thờ.” Bạn hắn nhìn quanh quất đầu đường, cuối đường, rồi kết luận, “Lạc đường rồi ông à.” Hắn gật gù, “Phải rồi, thấy nhà thờ là biết đi lạc rồi.” Hắn vặn vẹo sửa lại thế ngồi rồi đưa tay nâng mắt kính, dụi mắt. Bụi dầy cộm hai mí. Cuối cùng hai thằng đàn ông cũng đến được nơi phải đến. “Vào đi mấy anh. Cứ đi thẳng lên lầu. Ðể xe đây tụi em lo.” Bạn hắn đón lấy cái thẻ gửi xe bằng thiếc, nhét sâu vào túi quần. “Tối quá há,” hắn nói nhỏ vào tai bạn. “Phải tối mới là bia ôm chứ.” “Lên lầu trên nữa đi hai anh.” Giọng nói của một người đàn bà. Cái mặt hiền mà thân hình thì cong cớn. Mùi nước hoa dán lên mũi hai người. Ánh đèn đỏ lè. oOo Ðứa con gái cao nhòng bước ra từ vũng tối. “Vô đây đi anh. Coi chừng té, bộ anh hổng thấy đường hả?” Những ngón tay nắm lấy tay người đàn ông. “Em dắt anh đi nghe. Coi chừng đụng cái cạnh bàn nè.” Những ngón tay nóng hổi. Chắc tại tháng Bảy; chắc tại khắp nơi trong thành phố lúc nào cũng hừng hực nóng như trong lò. Như đọc được ý nghĩ người đàn ông, người con gái nghiêng đầu nói nhỏ vào tai hắn. “Máy lạnh đang sửa đó anh.” “Vậy hả?” Hắn ngoái cổ ra phía sau, “Bạn anh đâu rồi?” “Bạn em bắt cóc ảnh rồi. Anh vào đây với em. Cái mặt ngơ ngáo thấy tội. Ngồi xuống với em. Coi chừng té. Ái da. Thấy hôn, em nói rồi. Có sao hôn.” Cánh tay mềm mại đỡ người đàn ông lên. “Ðứa mắc dịch nào bỏ cái ghế nhỏ xíu ngay lối đi của người ta. Ðau hả anh. Tội nghiệp hôn.” Cái cổ dài của người con gái vươn lên như cổ loài thiên nga. “Lại em ôm cho bớt đau nè.” Bàn tay này vít cái đầu đã lốm đốm sợi bạc xuống; bàn tay kia ép sát cái mặt sần sùi đàn ông lên cổ mình. Người đàn ông hít hà. Da thịt rịn mồ hôi phảng phất mùi nước hoa. “Anh à, lát nữa anh trả tiền nguyên két bia cho em nghe.” “Không sao.” “Ðừng bắt em uống nghe.” “Sao vậy?” “Em phải làm tới sáng đó.” “Tới sáng à.” “Dạ, hai giờ sáng.” Mười ngón tay dài vuốt nhẹ lên má người đàn ông, “Em chưa bao giờ thấy ai giống anh.” Người đàn ông chột dạ, “Bộ anh tức cười lắm hả?” “Hổng có. Anh hiền khô.” Hắn nhìn quanh. Con mắt giờ này mới quen với bóng tối. Hắn nhìn người con gái. Gần quá, mọi đường nét nhòe nhoẹt. Nhưng hắn vẫn hình dung ra được khuôn mặt xinh xắn, đôi môi mỏng và hai con mắt buồn. “Bộ anh tức cười lắm hả?” Hắn nhắc lại câu hỏi. “Hổng có đâu. Anh hiền. Anh hổng có… mò mẫm, chụp giựt như mấy anh kia.” Hắn lặng thinh. “Anh giống ông thầy giáo em dưới Hóc Môn quá hà.” Hắn cúi nhìn đùi người con gái. Chiếc áo xường xám – hắn đoán vậy – xẻ tuốt lên cao. Da thịt trắng như màu hoa huệ. Người con gái cúi đầu. “Người đó cũng đeo kiếng giống anh đó.” Hắn ôm vai nàng. Thân thể gì mà mềm như nhành liễu. Hắn ôm ghì nàng vào vòng tay. Ðôi vú mềm mại xuyên vải áo, mọc chồi qua lồng ngực hắn. Người con gái chạm môi nàng lên môi hắn. Nàng hôn hắn từ tốn, thong thả như đứa bé mút viên kẹo. Trong đời chưa bao giờ hắn được hôn như thế. Những nụ hôn như thế mà rơi rụng trong quán bia ôm. Tiếc biết chừng nào! Môi hôn người con gái đánh thức cái thèm khát đàn ông. Hôn xong, nàng tàn nhẫn vuốt nhẹ lên khoảng giữa hai đùi hắn. Hắn biến thành khúc gỗ. Hắn thành thanh sắt nguội. Hắn liếc ra cửa để biết chắc cánh cửa còn đóng kín. Rồi hắn đẩy nhẹ cho nàng nằm xuống. Cái thân thể mảnh mai đổ xuôi theo ý hắn. Trên mặt chiếc xa lông dài. Hắn úp bàn tay lên ngực người con gái. Nàng cầm lấy bàn tay hắn, “Ðêm nay em về với anh. Mình mướn hotel. Anh chỉ cần trả tiền hotel thôi. Anh dễ thương, em hổng đòi chi hớt. Anh giống thầy giáo em dưới Trà Vinh.” Hắn ngờ ngợ. Dường như ban nãy nàng nói hắn giống ông thầy giáo cũ của nàng ở Hóc Môn. “Em có bao giờ ở Hóc Môn không?” Hắn hỏi. “Hổng có,” nàng ngập ngừng. “Em có con bạn… ở Hóc Môn. Hồi đó em hay lại nhà nó chơi.” Giọng nói người con gái bỗng dưng trĩu nặng nỗi buồn. “Bà già nó… Bà già nó… tội nghiệp dễ sợ.” “Má cô ấy còn sống không?” Người con gái khẽ lắc đầu. Hai tai người đàn ông vểnh lên dẫu mặt vẫn úp miết trên đồi ngực săn chắc. “Anh biết tại sao em hay lại nhà nó chơi hoài hôn. Anh nó ở nước ngoài, em tính cua anh nó mà hổng xong.” Dường như người con gái cố nhuộm chất khôi hài vào giọng nói, thành ra câu nói trở nên gượng gạo. “Anh nó ở nước ngoài mà hổng bao giờ gửi quà gì cho nó hết ráo. Mấy người đàn ông, thiệt tình gì đâu.” Cái cổ người đàn ông ngóc dậy như cổ con rắn miết trên đồi cát mịn. “Bạn em tên gì?” “Nó tên.” Có một chút ngập ngừng đâu đó, “Nó tên. Nó tên… Trà Mi.” “Trà Mi?” “Dạ.” “Ô!” Cái đầu lại gục xuống. “Sao vậy anh?” “Anh tưởng…” “Tưởng chi anh?” “Tưởng cô ấy tên khác.” “Anh tức cười quá hà.” “Sao vậy?” “Hổng giống ai.” “Em cũng không giống ai.” Giọng nói bỗng nghiêm trang, “Bộ em già, xấu lắm hả?” “Không phải vậy.” “Vậy chớ gì?” “Em ở trong này mà không giống mấy cô trong này.” “Mấy cô trong này… sao anh?” Câu hỏi làm người đàn ông bối rối. Hắn ngập ngừng một lát mới tìm được câu trả lời. “Mấy cô trong này không hiền như em.” “Em hiền thiệt hả anh?” “Thật đó.” Ðến phút giây ấy hắn thèm người con gái lắm rồi. Phần nào cần căng đã căng phần nào phải mềm đã mềm. Thân xác không còn biết nghe lời; thân xác đã bắt đầu dấy loạn. Câu nói của người con gái giải đáp cho cái khao khát cùn mằn ấy. “Anh dễ thương, em muốn cho anh hớt luôn. Nhưng bà chủ hổng cho em nghỉ trước hai giờ sáng. Anh chờ em được hôn. Hai giờ sáng quán mới đóng cửa đó.” Hắn thì thầm vào tai người con gái cái đề nghị trẻ con. “Cho anh yêu chút xíu thôi cũng được nữa.” “Anh tức cười, gì mà yêu chút xíu.” “Chút xíu thôi.” “Ở đây hổng được đâu anh ơi.” “Có ai thấy đâu.” Người con gái thì thầm vào tai người đàn ông, “Có chớ, người ta đặt máy quay phim để canh chừng đó anh.” Người đàn ông ngồi nhổm dậy, “Vậy em hôn anh có sao không?” “Hôn thì hổng sao. Miễn đừng có làm.” Người đàn ông vặn vẹo cơn thèm. “Cho anh hôn ngực em nghe.” Nàng liếc vội ra cửa rồi tuột cái cổ áo hở xuống thật sâu. Ðồi ngực mây mẩy đỏ thẫm cơn thèm chan hòa ánh sáng ngọn đèn sậm màu trên trần nhà tối ám. Người đàn ông lắng nghe người con gái hát nho nhỏ theo lời bản nhạc phát ra từ chiếc loa trong góc nhà. Một lát nàng nâng đầu người đàn ông lên, dụi mặt vào má hắn. Tóc xõa mịt mù. Mùi mồ hôi gây gây quyện trong mùi nước hoa. Cái mùi cong cớn gợi tình. “Em nói dóc anh, anh giận em hôn?” “Không giận đâu.” “Em nói dóc gì anh?” “Trà Mi là em đó.” “Vậy à?” “Ðược hôn anh?” “Ðược gì?” “Tên đẹp hôn?” “Ðẹp, cả tên lẫn người.” “Anh dễ thương quá hà.” oOo Cái xe chết máy hai lần nhưng cuối cùng người bạn cũng đưa được hắn lại đúng quán cà phê “mát mẻ” hôm nào. Vẫn cái đầu tóc quăn, vẫn cái màu vàng ệch của đèn đường phết lên đôi má màu kem. Và đôi môi màu máu bầm. Và nhất là vẫn bài nhạc hôm nào. “Chừng nào anh về Mỹ lại?” “Mai.” “Trời ơi, sao anh đành đoạn bỏ em.” “Anh phải về đi làm.” “Anh tìm ra con Hoa chưa?” “Chưa.” Người đàn ông thầm phục cô gái có trí nhớ tốt. “Mà nó là ai vậy?” “Em thằng bạn.” “Tính cua em gái bạn hả?” “Thằng bạn nhờ gửi quà cho em gái nó.” “Ðã tìm mấy quán bia ôm chưa. Con Hoa nhát, đi khách vài lần, nó chạy luôn, làm bia ôm dù sao cũng hổng sợ SIDA.” Hình ảnh người con gái cao nhòng trong quán bia ôm dạt về trí nhớ người đàn ông. “Có gặp một người giông giống mà tên lại không phải.” “Tên gì?” “Trà Mi.” “Chèn ơi, anh khờ chi đâu. Tụi em xài tên giả không hà. Hồi đó mới vô nghề, chưa có kinh nghiệm, nó mới xài tên cúng cơm.” Người đàn ông lắc đầu. “Anh ngu thật. Ðể anh lại đó tìm nữa, may ra…” “Mà tìm làm chi. Mai mốt anh nó về đưa cho nó hổng được sao. Hay là anh kêu anh nó bảo lãnh em, còn anh bảo lãnh con Hoa, chịu hôn. Tụi mình xứng đôi quá trời nè.” “Anh nó chết rồi còn đâu mà bảo lãnh.” Người con gái tròn xoe đôi mắt, “Trời ơi, thiệt sao. Vậy anh gặp con Trà Mi gì gì đó ở quán nào, nói tên em nghe coi?” Người đàn ông đọc cái tên quán bia ôm. “Rồi, em nghi mà đúng boong.” Người con gái buột miệng. “Quán đó mới bị công an hốt sạch.” “Vậy mấy người làm công có sao không?” Hắn lo lắng hỏi. “Cải tạo chớ anh. Ở mấy trại phục hồi nhân phẩm gì gì đó.” oOo Trong đời, người đàn ông chưa bao giờ thấy mình vô tích sự đến như vậy. Trà Mi dễ thương. Trà Mi hiền khô. Nói năng gì cũng dạ thưa. Khép nép co ro dưới ánh đèn màu, trong quán bia ôm. Trà Mi hôn môi thong thả như đứa bé mút viên kẹo nhỏ. Trà Mi xưa ở Hóc Môn, Trà Mi bây giờ ở phương nào. Hoàng Chính |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23816 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23816 |
![]() ![]() ![]() |
Như cánh tuyết rơi
Vào khoảng đầu tháng 2 năm 19... Sau khi bế mạc Salon-Végétarien
ở tỉnh Angers cách Paris 350 cây số. Robert lái xe đưa Thu trở về
Paris. Thời tiết đang mùa đông có chút tuyết rơi, mặc dù ngồi trong xe
cũng nghe lạnh buốt người, vì ngoài trời nhiệt độ dưới 02, 03. Về đến
nhà của Thu, hai người lần lượt đi tắm thay quần áo khác xong xuôi. Họ
trực chỉ ra Paris quận 13, đến nhà hàng Lê-Lai ăn cơm. Vì Robert rất ưa
những món, như thịt bò cuốn lá lốp, thịt heo kho tộ và cơm chiên ở nhà
hàng đó. Còn Thu thì thèm cơm Việt Nam, như canh chua cá bông-lau và tôm
càng rim...
Chiều hôm ấy Thu hơi mệt, vì mấy ngày liên miên tiếp khách, tối thì lại đi ăn cơm với khách hoặc cùng với các nhân viên trong hãng. Đêm nào cũng hơn nửa đêm mới về tới khách sạn. Trong lúc ngồi ăn. Robert nói với Thu: - Phải chi anh còn trẻ hơn mười tuổi. Anh sẽ qua Bắc Mỹ khai thác ngành này, chắc chắn sẽ thành công. Thu nghe thế, lòng thấy vui vui, và nói: - Anh chưa tới 60 tuổi mà. Vậy mình đi thử xem. Lâu quá, em không thực hành tiếng Anh, chắc là em quên hết rồi. Em thích nói tiếng Anh lắm. Hy vọng qua đó chừng vài ngày em sẽ đía lại được với người ta. Robert nhìn Thu bằng cặp mắt âu yếm, chàng nói: - Có em thì anh khỏi lo về việc tiếp khách Mỹ. Mà chắc anh sẽ qua Canada. Vì trong vùng Québecquoi, họ thường xử dụng tiếng Pháp hơn tiếng Anh. Nhưng có mặt em. Em khỏi cần nói gì cả, khách cũng sẽ đặt và mua hàng của mình nhiều. Thu nở nụ cười duyên, trong lòng nàng hơi tự đắc và kiêu hãnh. Nàng nói: - Lẽ đương nhiên. Vì em như đóa hoa đang nở hết cỡ. Nên mấy cánh bướm xồn xồn họ ưa lắm. Robert bỗng im lìm một phút. Chàng nắm tay Thu, nói nhỏ nhẹ: - Em biết không? Anh thấy anh già rồi, mà còn thích làm ăn và tranh đua quá... Thu ngớ ngẩn nhìn Robert, nàng buông lời: - Trời ơi ! Anh nói cái gì kỳ vậy? Bộ anh mặc cảm là em cho anh gíà sao? Không có già đâu anh ơi ! Nè, đàn ông tám mươi tuổi vẫn trẻ như thường đó... Thôi ăn cơm đi anh. Thu không đẹp. Tuổi nàng sắp vào bốn mươi. Nhưng nàng biết cách sửa soạn, biết ăn mặc, tướng diện khá sang và rất duyên dáng hấp dẫn. Nếu ai không biết Thu, thì người ta có thể lầm tưởng nàng là bà chủ của hãng ‘’Horticole’’. Thật ra, chức vụ của nàng chỉ là cô phụ-tá, kiêm tình nhân của ông Tổng-giám-đốc hãng Horticole do Robert C. làm chủ mà thôi. Bởi vậy, bất kỳ hội họp hoặc ở salon nào cũng có mặt Thu đi chung với Robert. Nên người ta tưởng Thu là vợ của ông. Họ luôn luôn đề tên trên thẻ ra vào là Madame. C. Bữa cơm Việt thuần túy Robert và Thu vừa ăn xong. Robert gọi tính tiền... Hai người đứng lên, Robert mặc áo măn-tô cho Thu, chàng nhìn ra cửa tuyết đang rơi nhè nhẹ, quay sang Thu, chàng nói: - Em đi từ từ ra Avenue d’Ivry, ngay cầu thang đợi anh, anh đi lấy xe nhé ! Nói xong, Robert đi nhanh ra đường Tolbiac lấy xe chạy vòng lại Avenue d’Ivry. Thu đến chào và nói chuyện năm ba câu với ông bà chủ nhà hàng Lê-Lai. Sau đó, nàng đi từ từ ra ngoài đường. Robert lái chiếc xe hiệu Citroẽn- X.M cũng vừa tới, Thu đưa tay mở cửa leo lên xe. Hai người cùng trở về Ivry-sur-Seine. Đêm nay họ ngủ yên một giấc ngon lành. Đến mười giờ sáng, Robert thức dậy tự động xuống bếp làm cà-phê và ăn điểm tâm một mình. Sau đó, chàng sửa soạn lái xe trở về Lyon. Laurent, con trai của Thu đã đi trượt tuyết chưa về. Còn Sophie thì vẫn ở bệnh viện tâm thần. Sau khi Robert hôn Thu và ra về. Còn lại một mình Thu trong căn nhà bốn phòng. Thu nghe lòng nhớ hai con và buồn man mác. Nàng ngồi hút thuốc liên miên. Đến trưa, Thu nghe đói bụng, nàng đứng lên đi xuống bếp kiếm gì ăn cho đỡ dạ. Đến xế chiều, lối bốn năm giờ, nàng vô nhà thương Kremlin-Bicêtre thăm Sophie. Thường thường Thu đi làm việc với Robert những ngày trong tuần. Còn cuối tuần, thì nàng đứng bán băng nhạc tại trung tâm P.H. cho đỡ buồn. Nhưng làm sao vui được với hoàn cảnh của nàng. Nàng là cô nhân viên và đóng vai vợ tạm, tình hờ với Robert giữa sân khấu đời này. Đứa con gái thương yêu mắc bệnh tâm thần đã hơn sáu năm nay. Còn đứa con trai thì học một ngành đi làm một ngã. Chẳng cái gì ra cái gì cả. Lắm lúc Thu muốn xua đuổi tất cả những cái đau khổ mãi ám ảnh vào nàng. Vì vậy Thu hay mượn rượu để giải sầu, mượn sòng bạc để tìm quên sự đời. Nàng ăn ngủ bất thường. Nên ốm nhom ốm nhách. Có người nói, nàng bị nghiện bạch phiến xì-ke gì đó. Nhưng Thu nào có biết mấy thứ đó. Mà chỉ đêm đêm nàng phóng mình vào sòng bạc để quên đời. Dù vậy, nhan sắc dáng vóc của Thu vẫn còn sáng sủa. Mấy năm trôi qua. Vào khoảng đầu năm... có ông Guy H., chủ hãng Centre-des-Fleurs, từ Montréal (Canada) đến Paris. Robert cho Thu hay để nàng ra phi-trường Charles-De-Gaulle đón Guy H. và đưa đến khách sạn Ritz tại Place-Vendôme. Chiều hôm ấy, Robert từ Lyon lên và đi ăn nhà hàng Pierre-de-Savoie ở quận 16. Qua ngày sau, Guy và Robert bàn tính việc sang Canada mở chi nhánh Horticole. Hành trình tiến khởi tốt đẹp. Tứ đó, sự liên lạc hai bên rất thường xuyên. Lần nào Guy qua Paris, Thu cũng đi rước và đưa... Họ gặp nhau rất nhiều lần. Mấy năm sau vào đầu tháng tư, Robert cùng Thu qua Montréal... Chiếc máy bay Boeing của hãng Air-France đáp xuống phi-trường Mirabelle lối hai mươi giờ đêm. Robert và Thu đi lấy hành lý và trình giấy thông hành đi ra. Robert để Thu đứng giữ hành lý, chàng đi lấy xe, vì có đặt mướn trước. Mặc dù đầu tháng tư, thời tiết đang vào mùa xuân mà Montréal vẫn còn đầy tuyết hai bên lề xa-lộ cũng như trên lề đường trong thành phố. Ông Guy H. chủ hãng Centre-des-Fleurs, trung ương hãng nằm giữa chặn đường từ Montréal đi Québec. Guy đến khách sạn Sharaton đợi Robert và Thu. Khách sạn thuộc loại sang, dấu hiệu bốn ngôi sao, có ba mươi sáu từng, trang trí thật sang trọng, nằm trên đại lộ René Lévesque. Nơi đây, Guy đã đặt phòng sẵn cho Robert và Thu. Robert lái chiếc xe màu xanh đậm, hiệu Mercury chạy từ phi-trường Mirabelle đến đây. Xe vừa ngừng trước khách sạn, cậu porteur ra xách những chiếc va-li vô và chờ lấy chìa khóa để đem lên phòng. Guy đang đứng chờ ngay cửa khách sạn, vừa thấy Robert và Thu, ông đến bắt tay chào. Robert mời Guy vào salon nói chuyện cỡ mười phút Guy chào ra về. Còn Robert và Thu đã thắm mệt. Vì ngồi trong máy bay hơn tám tiếng đồng hồ. Nhứt là Thu. Nàng đợi cho Robert và Guy dứt lời để nàng được lên phòng. Bước vô thang máy bấm nút từng thứ mười sáu, phòng số... Cậu porteur đem va-li vô phòng, nhưng cậu còn đứng đó. Robert móc trong túi ra cho cậu năm Gia-kim. Cậu cám ơn rồi đi. Thu vào phòng. Phòng thật rộng, một giường lớn, một bàn giấy, hai chiếc ghế và trên bàn salon trưng một bình hoa Lys trắng thật to tỏa hương tràn ngập làm thơm cả phòng. Bình hoa đó, là do Guy đặt nhà bán hoa đem lại, có ghim một phong thơ nhỏ. Thu liền mở ra đọc: ‘’Mến chúc cô Thu và Robert ngủ ngon’’. Thu nghe trong lòng vui vui. Nàng nhủ thầm: Ông Guy này sang ghê ! (......) Qua ngày hôm sau, Robert và Thu sửa soạn đi qua Québec. Vì Robert có nhiều máy móc để chụp hình. Nên đi xe hơi tiện hơn là máy bay. Ăn cơm trưa xong, Robert lái xe tà tà đến Québec khoảng chín giờ tối. Xe vừa đến, thì Thu thấy Guy chờ sẵn ở phòng tiếp tân của khách sạn Château-Fontenac. Trên gương mặt Guy vui tươi và rất là niềm nở. Guy không bắt tay chào Thu, mà chàng choàng tay ôm hôn hai bên má Thu một cách thân thiện. Rồi Guy quay sang bắt tay Robert, và nói: - Tôi chờ các Vous ở đây. Vì tôi đã đặt bàn sẵn nhà hàng trong khách sạn này. Chút nữa mình ăn chung luôn. Robert và Thu lên phòng tắm rửa và thay đồ xong. Họ trở xuống và cùng Guy vào nhà hàng trong khách sạn Château-Fontenac. Bữa cơm Tây với những món, như xà-lách mề vịt, gan ngỗng chiên bơ, chim rừng nướng. Còn rượu vin thì họ lựa Château-Pétrus. Bữa ăn Tây thượng thặng thật ngon xong. Guy chào Thu và Robert ra về. Robert hẹn Guy sáng hôm sau tại nơi đây để bàn tính việc làm ăn. Robert và Thu ở trong khách sạn Château-Fontenac ba ngày. Sau đó, hai người lái xe trở lại Montréal. Sáng lại, Robert có hẹn với khách cách Montréal vài trăm cây số. Chàng đi một mình, để Thu ở lại Montréal cho nàng đi Shoping mua sắm. Chiều chạng vạng, Thu sửa soạn để đợi Robert về cùng đi ăn cơm chung. Trong khi Thu đang ngắm gương trong nhà tắm, vì nàng mặc lại thử bộ Âu phục màu hồng quế mới vừa mua hồi trưa. Tiếng điện thoại reo vang ngoài salon, Thu nghĩ: Ha ! Chắc Robert bị kẹt xe, chàng điện thoại cho hay sẽ về trễ... Trong lòng Thu vui vẻ nhấc điện thoại lên: - A-Lô ! - Chào bà Thu ! Thu nghe giọng nói quen quen. Nhưng vì nàng quá ngạc nhiên nên hỏi nhanh: - Xin lỗi, ông là ai? - Tôi... Tôi là Guy H. đây ! Bất chợt, Thu lặng im vài giây, nàng nghe tim mình như đứng lại, cố họng bị nghèn nghẹn, nàng nói: - Dạ..., thưa ông Guy. Robert chưa về tới. -... Tôi muốn gặp bà được không? -... Vâng, tôi xuống liền. Thu đã mặt sẵn bộ Âu phục mới mua, nàng lật đật mang giày vào, choàng chiếc áo măn-tô lông vision màu đen và xách bóp đi xuống. Guy vừa thấy Thu, chàng đứng lên bắt tay, miệng tươi cười, nói: - Chào bà Thu !... Mời bà đến khách sạn Queen-Elizabeth uống nước với tôi. Được không? Thu hơi bỡ ngỡ. Nhưng rồi, nàng gật đầu cùng đi với Guy. Vào salon khách sạn Queen-Elizabeth, Guy đưa Thu vô tuốt cái bàn nhỏ trong góc. Guy cỡi áo măn-tô và đưa tay đỡ luôn chiếc áo của Thu. Cậu bồi đến lấy đem treo vào tủ vestaire, cậu trở lại hỏi: - Dạ thưa, ông bà uống chi? Guy nhìn Thu, Thu nói: - Kirsh-Royal ! Còn ông Guy dùng chi? - Giống như bà ! Cậu bồi đứng nghe, cậu đi lấy đem lại để trên bàn và xoay lưng bỏ đi. Guy bưng ly Kirsh-Royal đưa tận tay Thu. Hai người đều nâng ly cụng và cùng nói: - Chúc bà...! Chúc ông...! Hai ly Kirsh-Royal đã cạn, Guy hỏi Thu: - Bà dùng thêm một ly nữa nhé ! Thu cười và gật đầu. Guy gọi cậu bồi và chỉ hai cái ly. Cậu bồi hiểu ngay. Cậu đi lấy và đem lại thêm hai ly nữa. Trong lòng Guy nghĩ: Mình thử mời Thu đi ăn với mình coi được không. Vì mình biết Robert đang bị kẹt ăn khách. Chắc là Robert chưa cho Thu hay ! Guy nghĩ thế, chàng vén tay áo xem đồng hồ và bưng ly cụng với ly Thu lần nữa, chàng hỏi: - Hơn hai mươi giờ rồi. Bà Thu đói bụng chưa? - Hơi hơi thôi ! Nhưng để tôi trở lại khách sạn coi Robert về chưa? Guy liền nói: - Bà cứ điện thoại nơi đây được mà ! Thu nghe lời Guy, nàng đứng dậy đi gọi... Nhưng Robert có nhắn dưới reception là chàng kẹt ăn khách về trễ. Thu trở lại bàn, nàng nói với Guy: - Robert kẹt ăn với khách. Chắc Robert về trễ. Guy biết là Robert ăn khách đêm nay. Đáng lẽ chàng ta cũng đi ăn chung. Nhưng Guy cáo lổi, nói với người ta, vì chàng có hẹn riêng. Bởi Guy tìm cách đi gặp Thu. Nhưng khi gặp được Thu, chàng làm bộ như không biết gì cả. Guy nhìn Thu, chàng mỉm cười sung sướng và hỏi: - Vậy sẵn đây. Tôi mời bà vào nhà hàng bên trong ăn với tôi luôn nha? Thu nín thinh vài giây, rồi gật đầu: - Được ! Guy bưng ly Kirsh-Royal lên, và nói: - Mời bà Thu cạn ly... Guy ngoắt cậu bồi và nói: - Cậu vô nhà hàng đặt hai chỗ dùm tôi. Và phiếu này để chung vô phiếu ăn chút nữa tôi trả luôn. - Oui, Monsieur ! Cậu bồi quay lưng đi... Vài phút sau, cậu trở lại bàn cho Guy biết là đã đặt xong. Guy gật đầu, nói cám ơn và quay lại nhìn Thu: - Thôi, chúng ta vô nhà hàng đi bà ! Thu và Guy vào nhà hàng. Hai cậu bồi đến kéo ghế cho hai người ngồi ngang mặt, giao đầu với nhau. Trong lòng Guy xôn xao, Thu cũng đồng một tâm trạng. Thu biết Guy thích nàng từ lâu. Hôm nay chàng mới có dịp gặp riêng nàng. Làm tâm hồn Thu nghe lâng lâng. Còn Guy thì mơ ước được gần Thu hơn nữa... Thỉnh thoảng chàng nhìn Thu bằng ánh mắt đầy sóng tình, say đắm. Thu nhìn Guy cũng trữ tình mơ mộng. Thu nhủ thầm: Guy năm nay chắc cũng khoảng năm mươi. Người đàn ông này đa tình lãng mạn lắm. Bởi Guy khá đẹp trai, tướng tá cao ráo bảnh bao, tóc nâu có điểm nhiều sợi bạc xen kẽ, đôi mắt màu xanh đậm, lông mi dài chan chứa đầy tình cảm, miệng cười tươi với đôi hàm răng trắng và đều. Mà còn là một ông chủ lớn nữa, thì làm sao ông không bay bướm cho được? Guy nhìn Thu và hỏi: - Bà Thu đang nghĩ gì, mà tôi thấy nét mặt bà như thả hồn vào mộng vậy? Bất chợt Thu bị Guy hỏi, làm đôi má nàng ửng hồng và nghe nong nóng cả người, nàng tươi cười trả lời: - Dạ, đâu có nghĩ gì... Ông, ông lựa món gì chưa? - Còn bà, bà lựa món nào? - Món đầu, là một chục hào sống. Còn món kế, tôm hùm nướng... - Tôi cũng ăn những món bà đã lựa ! Nhưng chúng ta uống rượu gì đây? Thu đưa mắt nhìn tình với Guy, nàng nói: - Sẵn, hồi nãy chúng ta vừa uống Kirsh-Royal có pha Champagne. Vậy ông có bằng lòng uống Champagne luôn không? - Tuyệt ! Đúng điệu lắm ! Vì chúng ta ăn đồ biển mà. Quang cảnh chung quanh nhà hàng nằm trong khách sạn Queen-Elizabeth thật lớn rộng và sang. Bên ngoài họ để dấu hiệu bằng vương-miện, chớ không để ngôi sao như những khách sạn khác. Những quan khách đến đây toàn là dân áp-phe đại chủ hoặc những người chức lớn, quyền cao giàu có. Họ ăn mặc diêm dúa và sang trọng. Cung cách lịch sự, nhã nhặn, từ tốn như vua chúa. Các cậu bồi ăn mặc chỉnh tề đứng nghiêm trang mà đôi mắt của các cậu luôn để ý từng bàn một. Hễ nhìn thấy ly rượu của khách vừa sắp cạn là các cậu đến châm thêm lên cỡ hai phần ly. Khách vừa dụi xong điếu thuốc là có bồi đến thay gạt tàn thuốc khác liền. Bữa ăn Tây thịnh soạn và trịnh trọng vừa xong. Đã hơn hai mươi ba giờ đêm. Chai Champagne đã cạn, Guy gọi thêm chai nữa. Thu định cản nhưng nàng nín thinh để mặc tình Guy gọi. Guy bảo cậu bồi chuyển chai Champagne qua salon. Bên salon có nhạc sĩ đang đệm dương-cầm. Thu và Guy bước qua salon. Bấy giở Guy kéo ghế ngồi sát bên Thu. Chàng bất cần nghe tiếng nhạc. Cũng chẳng màn để ý những người chung quanh. Guy nắm bàn tay Thu một cách âu yếm và nâng lên hôn. Thu cũng để mặc chàng mà nàng nghe bàn tay Guy hơi run run. Guy rót thêm Champagne vào ly Thu. Họ đã uống hơi nhiều. Rượu đã thắm môi mềm chạy rần rần khắp thân thể của hai người. Lòng dục vọng ngập tràn và nóng bỏng thể xác cũng như tâm hồn của họ. Làm họ như đang bị lửa tình thiêu đốt và khao khát... lên tận chín tầng mây xanh... Guy đưa tay choàng qua vai Thu, đưa miệng kề sát bên tai nàng và nói nho nhỏ: -Thu !... Je vous aime depuis longtemps ! Thu nghe mấy lời tỏ tình của Guy. Làm tâm hồn nàng lâng lâng bay bổng. Tim giao động, thân xác mềm nhủng buông thả người dựa vào vai Guy. Guy ôm choàng qua vai Thu siết chặt vào lòng. Giây phút khát tình... thèm ái... đang dâng cao cả hai. Guy không bỏ lỡ cơ hội, chàng thỏ thẻ: - Thôi, chúng mình lên phòng nghe chérie ! Thu quay sang nhìn Guy bằng đôi mắt đắm đuối, và cặp mắt của Guy đáp lại như ánh lửa... đang cháy rực... Thu không thể nào cưỡng lại lòng mình. Nàng đứng dậy riu ríu đi theo Guy lên phòng... Vì Guy đã cố ý giữ phòng ở nơi khách sạn này... Hơn hai giờ sáng. Trời bên ngoài, đêm nay không còn tuyết. Thu không muốn Guy đưa về tận khách sạn. Vì nàng sợ rủi Robert thấy. Guy đưa Thu xuống đường mà thôi. Thu đi bộ một mình dưới ánh đèn khuya trên đại lộ René Levesque. Thu trở về khách sạn Sharaton. Nàng đến reception lấy chìa khóa... lên phòng. Robert vẫn chưa về. Trong lòng Thu cảm thấy mừng mừng. Nàng đi tắm và mặc chiếc áo ngủ bằng soie mỏng màu hồng phấn. Thu lên giường thò tay lấy chiếc gối ôm vào ngực và nghĩ đến Guy thật nhiều... Nàng nhủ thầm: Nếu Robert là chồng của mình, thì kể như mình vừa đi ngoại tình về. Nhưng Robert chỉ là người tình, kiêm ông chủ của mình thôi. Còn cuộc tình giữa mình và Guy, thì như cánh tuyết rơi xuống là tan vào đất mà chẳng bao giờ để lại một dấu vết nào cả. Chuyện tình này làm sao Robert biết được...? Bỗng nhiên Thu ngồi nhổm dậy. Nàng tự hỏi: Sao giờ này mà Robert chưa về cà? Thường thường qua đây, thì lúc nào đi ăn khách, Guy cũng đi chung với Robert. Bởi công việc làm ăn giữa hai người có liên hệ rất mật thiết với nhau trên xứ Canada này... Hay là... họ dàn xếp để Guy với mình... Bởi vì mình không phải là vợ của Robert. Hay là... ngược lại, họ dàn cảnh để cho Robert đi chơi với một cô hay một bà nào khác? Nghĩ đến đây, Thu nổi lên cá tánh thường tình nhi nữ. Nàng hơi bất mãn. Rồi nàng lại nghĩ tiếp: Đàn ông họ ghê lắm ! Mà đàn bà có mấy ai chịu thua họ. Nhứt là, những người đàn bà độc thân hoặc đã dang vỡ cuộc đời như mình. Nếu sự thật như mình nghĩ, thì chẳng ai hơn ai. Và biết đâu, đêm nay Robert cũng trùng hợp ‘tấn tuồng’ giống mình. Có thể chàng đang... với một cô hay một bà nào, ở một nơi nào đó chăng?... Cũng có thể... Có thể lắm...! Thu nghĩ lung tung, nghĩ đủ điều. Để tự bào chữa cái việc mà nàng đã yếu lòng ngả vào vòng tay của Guy đêm nay. Nghĩ xong, sau đó, Thu nằm trở lại. Nhưng không làm sao nàng nhắm mắt được. Nàng vội đứng dậy đi vào nhà tắm lấy thuốc an thần... uống vào cho yên tĩnh tinh thần... Thu cố xua đuổi những ý nghĩ trên và gạt bỏ mọi sự qua một bên. Nàng ôm gối thả hồn vào giấc ngủ cô đơn trên chiếc giường rộng mênh mông mà chung quanh phòng là rèm treo, trướng phủ thật là sang cả... Ai đã đi qua đoạn đường này mới hiểu nỗi tâm trạng của Thu hiện tại. Nhưng đối với tâm hồn của Thu, thì nàng chẳng bao giờ mong muốn người đàn bà nào dẫm lên dấu chân của nàng cả. Riêng cá nhân Thu, thì nàng xem những cuộc tình đến sau, từ khi đời nàng bị một lần dang vỡ đều là như cánh tuyết rơi. Một thuở Từ Paris đến Montréal Cánh chim lướt gió rẽ mây ngàn Có lần hạ cánh trời hừng sáng Có lần đáp xuống tuyết giăng ngang. Đêm nay lại nhớ về thuở ấy Chạnh lòng tiếc nuối bóng chim bay Làm sao nắm níu thời gian lại?! Thôi đành hẹn ở kiếp sau này. Rồi một lần, Từ Montréal trở về đây Ôm bóng hình ai chút mộng xây Đại Tây Dương, cầu chưa nối nhịp Đành chờ có dịp gió đưa...mây... Việt Dương Nhân |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23816 |
![]() ![]() ![]() |
Tiếng Hát Giữa KhuyaGiọng của Lệ-Hằng nghèn nghẹn, không hiểu vì tuổi tác hay vì xúc động. Lệ-Hằng nhìn lên trần nhà, nhíu mày, ngâm tiếp: …Chiến hào xưa vết thù còn đấy. Đỉnh cao này áo trận, phơi thây. Gần bốn mươi năm sao vẫn đợi? Hỡi nấm mồ hoang giữa lưng trời!... ... Ta về, đồi Gió buồn như thế,
Chân xiêu vẹo trên chiến trường xưa Ôi! Góc rừng tử khí còn vương Đồi Gió hỡi! Hôm này gió chướng!
(1)
Lệ-Hằng trở về chỗ ngồi trong khi cả nhóm bạn vẫn còn bàng hoàng, ngồi bất động! Khánh vừa tiến về “micro” vừa vỗ tay. Lúc này cả nhóm bạn mới choàng tĩnh, vỗ tay thật lớn. Khánh dõng dạc: -Bài thơ đẹp và buồn quá! Tôi nghĩ linh hồn của những người bạn đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua có lẽ cũng cảm nhận được rằng chúng ta không bao giờ quên các anh ấy. Xin cảm ơn “bà xã của tui”. Khánh quay sang lấy thùng giấy, mời một bạn bốc thăm. Cầm tờ thăm, Khánh cười lớn: -Ha…Ha…Lần này chúng ta được nghe lại một giọng ca của ban ca nhạc Bình-Minh Đài Phát Thanh Nha Trang năm xưa. Xin mời người bạn thân thiết của chúng tôi từ thời Tam “Bê-Bối” (B4). Mời Thanh-Hoa. Thanh-Hoa rụt rè đứng lên, bước đến “micro”: - Xin cảm ơn anh Khánh đã giới thiệu tôi bằng những lời rất thân tình. Kính thưa quý anh chị, theo thuyết Vô-Thường, không vật thể nào và sự việc nào có thể tồn tại. Vậy thì thời gian 50 năm qua tôi có còn là tôi của thập niên 60 hay không? Chắc chắn là không. Do đó, tôi sẽ góp vui trong lần gặp gỡ hiếm hoi này, không phải bằng giọng hát của cô gái nhút nhát năm xưa, mà sẽ bằng giọng khàn khàn của một…bà cụ. Mọi người cùng cười. Thanh-Hoa tiếp: - Trở lại quê nhà sau hơn 40 năm lưu lạc, tôi mang trong lòng nỗi niềm của Nhị-Hà khi ông sáng tác ca khúc “Trở Về Thôn Cũ”, và tâm trạng của Châu-Kỳ khi ông sáng tác tình khúc “Trở Về”. Nhưng khi gặp lại những người bạn xưa trong khung cảnh đầm ấm này thì lời ca của sầu khúc “Trở Về Mái Nhà Xưa” lại réo rắc trong lòng tôi những giai điệu chĩu nặng u hoài. Vừa nghe Thanh-Hoa nhắc đến tình khúc tuyệt vời mà bất cứ người chơi đàn nào cũng không thể không đàn, mấy ngón tay của Nhân búng nhè nhẹ lên giây Guitar, dạo nho nhỏ cung Do Majeur, nhịp Andantino. Vừa nghe tiếng Guiter Thanh-Hoa vừa nhìn Nhân như chờ đợi. Đàn đến cuối phân đoạn đầu, Nhân “rải” một tràng hợp âm và Thanh-Hoa “bắt” vào: “Về đây khi mái tóc còn xanh xanh. Về đây với mầu gió ngày lang thang. Về đây với xác hiu hắt lạnh lung. Ôi! Lãng du quay về điêu tàn!…” (2) Theo tiếng hát của Thanh-Hoa, Khánh tưởng như Khánh có thể thấy lại nhân dáng xinh đẹp, dịu dàng và thùy mị của Thanh-Hoa lúc nàng, Nhân, Tùy, Phê và Khánh cùng học lớp đệ Tam B4, niên khóa 1960-1961. Thập niên 60 cũng là thời kỳ nhạc Pháp rất thịnh hành trong giới học sinh và sinh viên. Khánh nhớ thời gian mới sang Pháp du học, những lúc nhớ nhà, Khánh chỉ biết đem hình gia đình và bạn hữu ra nhìn. Khi nào thấy tấm ảnh của Thanh-Hoa – không nhớ “đứa nào” chụp – đang đứng hát, Khánh cũng nhớ lại phân đoạn trong bài Bambino mà Khánh rất thích: “…Et gratte, gratte sur ta mandoline mon petit Bambino. Ta musique est plus jolie que tout le ciel de L’Italie…” Ngày xưa, khi Thanh-Hoa hát đến cuối phân đoạn thứ ba: “…Avec tes cheveux si blonds…” thì đám con trai cùng hô lên “Bambino! Bambino!…” Rồi Thanh-Hoa tiếp: “Tu as l’air d’un chérubin…” đám con trai lại: “Bambino! Bambino!” Kỷ niệm thời trung học của Khánh với Thanh-Hoa chỉ có vậy thôi. Khi gặp lại Thanh-Hoa tại đại học Luật khoa Saigon Khánh mới biết Thanh-Hoa vừa lập gia đình. Khánh không biết, và cũng không muốn biết, chồng của Thanh-Hoa tên gì, làm gì; chỉ thỉnh thoảng Khánh thấy một chiếc xe, do tài xế lái, đưa hoặc đón nàng. Hôm nào xe đón trễ, Thanh-Hoa thường cùng Khánh đi chầm chậm về hướng hồ Con Rùa, nói những chuyện bâng quơ. Một hôm, những chuyện bâng quơ được thay bằng một tin vui: Khánh được học bổng sang Pháp du học. Thanh-Hoa reo lên: -Mừng cho ông đó. Ông mà không được du học thì ông sẽ bị động viên; rồi biết đâu, cũng sẽ ... như ông Tuấn thôi! Nghe nhắc đến người bạn vừa bị tử trận, Khánh thở dài và trong lòng Khánh lại gợn lên những thắc mắc mà không ai có thể giải thích được. Không ai có thể giải thích nguyên nhân nào khiến Tuấn – một học sinh xuất sắc, hội đủ điều kiện để khỏi bị động viên – tình nguyện vào Trường Sĩ Quan Bộ-Binh Thủ-Đức sau khi đỗ tú tài I ban toán. Bạn hữu hỏi Tuấn: -Nha Trang có Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân và Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân, tại sao mày không thi vào? Cùng lắm thì vào Trường Võ-Bị Dalat để kéo dài thời gian ở quân trường chứ sao lại đi Thủ Đức làm chi cho nguy hiểm? Tuấn cười: -Nguy hiểm cái...con khỉ! Tao sẽ tình nguyện về Biệt-Động-Quân Biên Phòng. Tao muốn được huấn luyện nhanh, càng sớm càng tốt. Mấy Trung Tấm Huấn Luyện mà tụi mày nói đó phải huấn luyện hai năm hoặc bốn năm, tao không thể chờ được. Bạn hữu nhìn nhau, không hiểu tại sao Tuấn lại “không thể chờ được”. Bạn hữu không hiểu, nhưng riêng Tuấn, Tuấn rất bằng lòng với quyết định của chàng. Quyết định của Tuấn bắt nguồn từ cái chết rất bi thương của ông Thuận – Bố của Tuấn. Ông Thuận đã chết một cách quá thảm khốc sau khi bị công sảng Việt Nam (csVN) bắt trong trận đụng độ dữ dội tại biên giới Lào Việt. Theo lời Thọ – một hồi chánh viên – kể với cơ quan công quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) thì ông Thuận bị thương trước khi bị bắt. CsVN hành hạ, đánh đập và dùng lưỡi lê khơi động vết thương nơi bụng của ông Thuận mà cũng vẫn không thể khai thác được gì! CsVN bàn tính riêng rồi cho ông Thuận hay: -Chúng tôi trả tự do cho đại úy đấy. Đi đi! Biết có âm mưu gì đó chứ làm thế nào csVN có thể thả một đại úy Biệt Động Quân Biên Phòng một cách dễ dàng như vậy, ông Thuận lắc đầu: -Các anh muốn hành xử với tôi như thế nào, cứ hành xử. Các anh muốn giết tôi, cứ giết. Tôi chấp nhận. Đừng bày ra bất cứ âm mưu gì khác. Giọng một cấp chỉ huy: -Mở trói, thả nó đi đi! Ông Thuận nhìn cấp chỉ huy của csVN như không tin. Người ấy nhìn ông Thuận, hất hàm: -Đấy, đi đi. Hãy ‘chở’ về để ‘niếm’ gót giầy bọn sen đầm quốc tế của mày đi! Ông Thuận ôm bụng, gượng đứng lên, dáng ngần ngừ. Người chỉ huy tiếp: -Địt mẹ! Đi nhanh kẻo ông nổi xùng ông bắn chết mẹ bây giờ! Theo từng bước chân khập khểnh của ông Thuận, máu từ vết thương nhểu thành những đường kỹ hà. Ông Thuận vừa xa toán csVN khoảng vài thước, người chỉ huy toán csVN đưa mắt nhìn thuộc cấp rồi nhè nhẹ gật đầu. Ngay tức thì, toán csVN ném về phía ông Thuận bất cứ vật gì mà họ có thể nhặt được. Ông Thuận càng cố khệnh khạng tránh né bao nhiêu thì số đồ vật ném về phía Ông càng nhiều và càng nhanh bấy nhiêu. Cuồi cùng ông Thuận gục xuống! Không biết ông Thuận còn sống hay đã chết, người chỉ huy toán csVN bước đến, đá mạnh vào người ông Thuận. Ông Thuận lăn theo triền đồi trong những tràng cười hả hê của toán csVN! Cười thỏa thuê một lúc, toán csVN kéo nhau đi sâu vào rừng; chỉ có Thọ – người đã không cười – lủi vào bụi rậm, trốn. Suốt đường mòn Hồ-Chí-Minh, Thọ đã chứng kiến nhiều cảnh huống đau lòng khi bộ đội giết những “đồng chí” bị bệnh, bị thương hoặc vì bất cứ lý do nào đó, không thể đi theo đoàn quân “sinh Bắc tử Nam”. Thọ đã cố che giấu sự xúc động của chàng. Nay, thấy chính đơn vị trưởng của chàng hành động một cách man rợ, Thọ kinh tởm và chỉ muốn xa lánh toán người đầy thú tính. Thọ tìm cách ra hồi chánh. Những chi tiết do Thọ kể chỉ có gia đình Tuấn biết, nhờ có người bà con tòng sự tại cơ quan Chiêu Hồi. Vì vậy, khi nghe Thanh-Hoa nói về Tuấn, Khánh đính chính theo sự hiểu biết của chàng: -Tuấn tình nguyện vào Trường Sĩ Quan Thủ-Đức chứ không phải bị động viên. -Vậy à? -Bà nhớ hôm tiễn thằng Tuấn bà hát bài gì không? Thanh-Hoa lắc đầu. Khánh tiếp: -Tôi không nhớ tựa nhưng tôi nhớ khi bà hát đến câu: “... Anh sẽ ra đi chẳng mong ngày về…” thì cả lớp thật sự xúc động! Thanh-Hoa dừng bước. Sau một thoáng suy nghĩ, nàng reo lên: -Nhớ rồi! Nhớ rồi! Trong khi Khánh chưa biết Thanh-Hoa nhớ gì thì nàng hát nho nhỏ, ánh mắt đăm chiêu như đang nghĩ đến người bạn vắn số: “…Anh sẽ ra đi nặng hành trang đó. Đem dấu chân soi tuổi đời ngây thơ, đem nỗi thương yêu vào niềm thương nhớ. Anh sẽ ra đi chẳng mong ngày về…” (3) -“Tui” du học thì “tui” mong có ngày về… Khánh chưa dứt câu Thanh-Hoa vội nói lên ý tưởng đã làm ray rức lòng nàng kể từ khi hay tin Tuấn tử trận: -Ông biết không? Lúc ông Tuấn rời trường là lúc tụi mình còn nhỏ, đã biết gì đâu! Hát tiễn ông Tuấn đi lính, tôi chỉ nghĩ đến nỗi khổ nạn của người lính để tìm bài hát cho thích hợp với hoàn cảnh chứ tôi đâu có ý “trù ẻo” cho ông Tuấn “chẳng mong ngày về!” -“Tui” chỉ đùa thôi. Bạn bè hồi đó không ai nghĩ như vậy đâu! Thanh-Hoa chưa kịp đáp lời Khánh thì chiếc xe quen thuộc dừng sát lề đường, cạnh nàng và Khánh. Nhìn theo chiếc xe, tự dưng Khánh cảm thấy buồn buồn và dường như có chút luyến tiếc vừa gợn lên trong lòng! Hôm nay gặp lại Thanh-Hoa sau gần 50 năm xa cách, Khánh rất vui và cảm động. Khánh nhìn về hướng “micro”. Thanh-Hoa vẫn còn những nét cao sang, duyên dáng của một mệnh phụ. Nhưng thời gian đã phủ lên người nàng những vết cằn cỗi. Bất chợt Khánh đưa tay vuốt những sợi tóc lưa thưa của chàng. Trong khi Khánh hơi buồn lòng vì mái tóc cứ thưa đi và trắng dần thì Phê lại nhớ đến những ngày sang Hoa-Kỳ tham dự Đại Hội Quốc Gia Hành Chánh. Sau những ngày vui vì được gặp lại bạn cũ thời đại học, Phê đã dành thì giờ tìm gặp cô bạn thời trung học – Thanh Hoa. Phê điện thoại rủ Tùy. Để đo lường trí nhớ của Tùy, Phê dặn mọi người trong hai bàn tiệc đừng cho Tùy biết ai là Thanh-Hoa. Khi Tùy bước vào nhà hàng, mọi người chỉ cười, gật đầu chào. Tùy nhìn quanh, giọng buồn buồn: -Ủa, Thanh-Hoa đâu? Im lặng. Phê đứng lên, bắt tay Tùy. Tùy lại hỏi: -Có lẽ Thanh-Hoa đợi tao hơi lâu nên Thanh-Hoa về rồi, phải không? Phê chỉ cười, không đáp, ngồi xuống. Thanh-Hoa nghiêng sang, nói nhỏ, chỉ vừa đủ cho Phê nghe: -Ôi, thời gian! Ta ghét mi! Phê cười, chỉ vào Thanh-Hoa và nói với Tùy: -Tùy, Thanh-Hoa nè, mày nhìn ra chưa? Tùy ngạc nhiên, reo lên: -Trời! Thanh-Hoa! Trong cuộc hàn huyên đầy thú vị giữa “ba đứa” Tam “Bê Bối (B4)” Phê kể rõ tên từng người bạn còn ở Việt-Nam như Phạm-Khắc-Sinh, Phan-Thừa-Tấu, Phạm-Vũ-Động, Huỳnh-Tri-Chánh, v. v… Phê cũng kể về cái chết rất thương tâm của Lưu-Khương-Đức. Đức tốt nghiệp Kiến-Trúc, bị động viên và đã tử trận tại Pleiku năm 1972. Tùy kể về Ngô-Đắc-Phú với những lời đầy tiếc thương. Phú là phi công trực thăng, bị bắn hạ vào mùa Hè 1972 tại Vùng IV Chiến Thuật! Tùy cũng cho hai bạn biết Nguyễn-Văn-Cư hiện sống tại California. Thanh-Hoa cho biết Nguyễn-Đăng-Dự, trước 1975, là hiệu trưởng trường trung học Pleiku, nay đang sống tại Canada; Vũ-Mạnh-Hoàn du học Bỉ từ năm 1963 và Đỗ-Thị-Nghiễn nay là Thích Nữ Thường-Như. Nghe bạn đề cập đến một tu sĩ Phật Giáo, Phê chợt nhớ và cho các bạn biết Nguyễn-Ưng đã thọ giới Tỳ-Kheo được hơn 20 năm! Sau khi tiệc tàn, Tùy bắt tay Thanh-Hoa rồi gian rộng đôi tay, tỏ ý muốn “hug” Thanh-Hoa. Hai người choàng vai nhau. Tùy nói, giọng tràn xúc động: -Bây giờ “tui” mới giám “hug” bà chứ hồi đó “tụi tui” chỉ biết đứng xa xa nhìn bà thôi! Phê bảo: -Ê, Tùy! Mày với Thanh-Hoa về thăm tụi nó một chuyến, nha! Nửa thế kỷ rồi, còn gì! Tụi mình già hết rồi! Về đi, tụi nó và tao sẽ ra phi trường đón... Dòng hoài niệm của Phê vừa đến đây, tiếng vỗ tay vang lên; vì Thanh Hoa vừa chấm dứt tình khúc “Trở Về Mái Nhà Xưa”. Bất ngờ, nhiều tiếng động mạnh nơi của trước rồi giọng nam vang lên: -Mở cửa! Mở cửa! Công an khu vực đây! Khánh bước đến, mở cửa, hỏi: -Các anh cần gì? Chúng tôi đang có khách. -Ai là Nguyễn Cao Nhân? Cuộc vui ngưng. Nhân lấy đàn ra khỏi vai, bước ra: -Tôi. Các anh cần gì? -Anh về phường “làm việc” với chúng tôi. Theo suy nghĩ của một người sống ở nước tự do lâu năm, Tùy tách rời nhóm bạn, bước về nhóm công an, hỏi: -Yêu cầu các anh cho xem trác tòa. Không có trác tòa các anh không thể bắt người trái phép như vậy. Một anh công an hất hàm vế phía Tùy. -Muốn xem trác tòa hả? Đi về phường với chúng tôi mà xem. Im lặng. Nhân sờ túi áo và túi quần: -Chờ chút. Tôi vào lấy giấy tờ tùy thân. -Bảo người nhà lấy. Anh không được đi đâu cả. Mọi người đến bên Nhân, thái độ lo âu. Nhân rất trầm tĩnh, nói nhỏ với Ngọc – vợ của Nhân – bằng tiếng Pháp để công an không thể hiểu: -Em điện thoại cho các con biết ngay. Khánh nói nhỏ với Nhân, cũng bằng tiếng tiếng Pháp: -Mày đừng lo, có tụi tao đây! -Tụi mày cũng biết rằng đây không phải là lần đầu tiên tụi nó bắt tao. Tao tin vào lẽ phải. Nghe một ngôn ngữ lạ, một anh công an lên tiếng: -Không được dùng tiếng “nước ngoài”. Chiếc xe áp tải Nhân chạy trên những con đường còn in vết chân của Nhân và Tuấn từ ngày thơ dại cho đến thời gian Tuấn tử trận. Nhân thở dài, nhớ lại buổi sáng theo bạn hữu tiễn Tuấn về nghĩa trang, thấy bà Thuận và các em gái của Tuấn rũ liệt như những cái xác không hồn, Nhân thật lòng hối hận về sự nông nỗi của chàng; vì chàng đã hoạt động rất đắc lực cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam trong thời gian du học tại Pháp. Lúc mới đến Paris, Nhân được nhiều sinh viên phản chiến đón tiếp rất niềm nở, lo và giúp đỡ mọi điều. Nhưng điều khiến Nhân vui nhất là Nhân gặp lại Khánh. Khánh và Nhân trở lại thân thiết như thời cùng học trung học. Một thời gian sau Khánh ngạc nhiên khi thấy Nhân rất tích cực trong mọi hoạt động chống lại chính quyền VNCH. Mỗi lần Khánh khuyên ngăn Nhân lại đáp cùng một ý: -Mày biết thằng Tuấn ở cùng xóm với tao. Trong lớp nó ngồi cạnh tao. Hồi đó tụi bay gọi thằng Tuấn và tao là hai thằng “cốt đột”. Ừ, hai thằng “cốt đột” thương nhau như anh em ruột, mày biết không? Tại sao những thằng như thằng Tuấn phải chết cho những tên vô tài, thiếu đức và không có học thức được sống phây phây? Khánh im lặng, không biết phải biện luận như thế nào! Ngày xưa Khánh không biết phải biện luận với Nhân như thế nào. Tối nay, Khánh cũng không biết phải giải thích với Thanh-Hoa như thế nào về những tấm ảnh – do báo chí đăng tải vào những lần Nhân bị bắt trước đây – mà Ngọc đang trao cho cả nhóm cùng xem! Nhìn tấm ảnh Nhân bị mấy tên công an lôi xềnh xệch như lôi một bao cát, Thanh-Hoa nhíu mày: -Ông Nhân làm gì mà bị đối xửa tàn tệ quá vậy? Ngọc vừa quẹt nước mắt vừa đáp: -Hình đó chụp lâu rồi, lúc anh Nhân mới từ Pháp về quê nghỉ hưu. Các con của chúng tôi khuyên ngăn thế nào anh Nhân cũng không nghe. Anh ấy bảo anh ấy còn nhiều việc phải làm. Mấy cháu cho tiền mua ngôi nhà này để chúng tôi hưởng hưu. Nhưng, ngôi nhà này lại là nơi làm việc của anh Nhân. Anh Nhân ra tuyên cáo, viết bài kêu gọi và xách động thanh niên đòi nhà cầm quyền csVN phải có đa nguyên, đa đảng; vì anh Nhân thấy rõ dưới chế độ tàn độc, khát máu và tham nhũng của csVN, đời sống của người dân còn cơ cực gấp trăm ngàn lần so với thời Pháp thuộc! -Rồi sao? -Tụi nó – csVN – cho anh Nhân vào tù! -Trời! Chị có nhờ Tòa Lãnh Sự Pháp can thiệp hay không? -Có. Nhưng ông Nhân ổng bướng lắm. Ổng không chịu vào quốc tịch Pháp. Ổng bảo ổng là người Việt Nam tại sao lại mang quốc tịch của một nước đã đô hộ dân tộc mình cả trăm năm? Im lặng. Ngọc tiếp: -Anh Nhân không phải là công dân Pháp. Nhưng nhờ anh ấy là một chuyên viên ngoại hạng do Pháp đào tạo, cho nên, Tòa Lãnh Sự Pháp can thiệp. Và lần đó anh Nhân chỉ bị tám tháng tù thôi. Vì chưa biết gì về những hoạt động chính trị của Nhân, Thanh-Hoa tò mò tiếp tục xem những tấm ảnh của Nhân. Thấy tấm ảnh Nhân bị một tên công an đạp ngã trên đường, tấm ảnh kế tiếp Nhân bị tên công an khác đạp vào mặt, Thanh-Hoa run tay: -Chị Ngọc ơi! Ông Nhân lớn tuổi rồi mà sao công an đánh ổng tàn nhẫn quá vậy? -Ảnh đó chụp cách nay vài hôm, lúc anh Nhân dẫn đầu đoàn biểu tình chống Trung cộng cấm ngư dân Việt Nam đánh/bắt cá trong hải phận Hoàng Sa. Tôi đã quay video, nhưng tụi công an giật mất rồi. Khánh lên tiếng: -Các bạn nên bình tâm. Mình phải hoặch định phương thức cứu thằng Nhân. Ngọc nhìn đồng hồ tay: -Lúc nãy, khi vào phòng lấy hình của anh Nhân bị công an đánh, tôi đã điện thoại cho các con của tôi. Các cháu sẽ “tung” lên internet tin anh Nhân bị bắt. Giờ này khuya rồi, mình không thể làm gì được. Sáng mai tôi sẽ gặp những nhân vật trong tổ chức của anh Nhân và tôi sẽ liên lạc với Tòa Lãnh Sự Pháp. Thôi, rất tiếc cuộc vui bị gián đoạn bất ngờ, quý anh chị nên về nghỉ. Lệ-Hằng lắc đầu: -Chúng tôi không thể để chị một mình trong tình cảnh này được. Cả nhóm đồng lòng: -Đúng rồi! Nhìn quanh, thấy ai cũng có vẻ lo âu, Khánh bảo: -Tôi có một đề nghị, xin nói ra để quý anh chị xem như thế nào, nhé! Im lặng. Khánh tiếp: -Chúng ta không nên có thái độ bi quan. Chúng ta phải “hâm nóng” tinh thần tích cực và cao cả của những người đã và đang dấn thân chống lại sự xâm lăng của Tàu cộng. Một ông hồi xưa học lớp lớn hơn đưa tay xin nói. Khánh chỉ ông ấy, mời: -Dạ, xin mời anh cho ý kiến. -Thưa anh, “hâm nóng” bằng cách nào? Khánh xòe bàn tay về hướng người vừa phát biểu, tỏ ý xin chờ, rồi quay sang Thanh-Hoa: -Thanh-Hoa! Bà còn nhớ những bản hùng ca xưa không? -Cho trường hợp nào? -Chống rợ Hồ, chống nhà Minh, chống quân Thanh, chống quân Tàu. -Gò Đống Đa, Ải Chi Lăng, Bạch Đằng Giang, được không? -Tốt lắm. Bà nhớ lời ca không? -Không, chỉ nhớ âm điệu thôi. Vừa nói ngang đó Thanh-Hoa chợt nhớ, vội tiếp: -Ông Khánh! Ông mượn computer của chị Ngọc, vào Google tìm xem. Tôi nghĩ Google có lời ca. Cùng Khánh đến bên computer, Ngọc ngạc nhiên reo lên: -Ủa! Sao lần này công an không tịch thu computer kìa? Mấy lần trước mấy “lão” không những tịch thu computer mà còn lục lọi, phần cứng, phần mềm gì cũng lấy hết… Một ông mỉa mai: -Anh chị từ Pháp về cho nên công an chỉ tịch thu computer thôi; còn chúng tôi là dân “Mít”, cho nên, đảng csVN “giải phóng” toàn bộ tài sản của chúng tôi. Dân miền Nam đã chứng kiến nhiều đoàn xe vận tải chở “đầy nhóc” TV, tủ lạnh, máy hát, radio, bàn ghế, v. v. . . của dân miền Nam chạy “rần rần” ra Bắc. Ngày trước csVN phải lén lút vượt Trường-Sơn vào Nam để bắn giết anh em. Sau khi chiếm được miền Nam và nhốt tù tất cả quân nhân, công chức, csVN hiên ngang và “hồ hởi” chở về Bắc tất cả những gì của người miền Nam mà csVN thích. Vì đảng csVN ăn cướp trắng trợn cho nên người miền Nam có câu: “Tự nhiên như người Hà-Lội”. Ông bạn vừa dứt câu, Khánh reo vui: -À há! Sau khi in và phát mỗi người ba bản, Khánh xoay về Thanh-Hoa: -Thanh-Hoa! Bà hát một mình trước để mọi người nghe cho quen rồi chúng ta sẽ đồng ca. Được không? Sau khi tập hát theo Thanh-Hoa vài lần, mọi người đồng ca: “Từng đoàn dân chúng trên đế đô tưng bừng đi Nhịp nhàng theo tiếng non nước thiêng trang hùng ghi... ... Dòng máu ái quốc lưu truyền trong bao đấng hùng. Ngàn ngàn quân Thanh chết dưới toán quân Việt-Nam…” (4) Khánh không ngờ lời ca làm cho không khí lo buồn lúc nãy trở nên sôi động hẳn lên. Dứt bài Gò Đống Đa, Thanh-Hoa bắt sang ca khúc Ải Chi-Lăng: “Chi Lăng! Chi Lăng!” Khánh hát đáp: “Tiếng ai hò reo vang trời!” Thanh-Hoa tiếp: “Chi Lăng! Chi Lăng!” Khánh hát đáp: “Bóng ai tranh hùng muôn đời”. Cả nhóm cùng nhập vào: “Trời âm u, gió tung, rú lên, rít lên ào ào đồi non thung lũng đều long lỡ dưới trời bão…” (5) Hát đến phân đoạn thứ ba, cả nhóm cảm thấy niềm xúc động và tình yêu Quê Hương dâng lên chất ngất trong lòng. Có người vừa hát vừa đưa tay quẹt nước mắt: …Hồi chiêng khua thúc quân, tiếng loa thét lên long trời, hùng binh say máu, gầm như sóng, cố tràn tới...
Ngờ đâu tiếng loa vừa báo, Lê tướng chước thâm tài cao. Đồng ứng phá tan giặc Minh. Hùng anh múa tít gươm linh…” (6) Khi cả nhóm hát trở lại đoạn điệp khúc, Khánh xúc động quá, phải lẻn ra ngoài. Khánh ngồi lên phiến đá nhỏ cạnh gốc bán dạ hương, lòng thầm thương cho sự nhẹ dạ của Nhân trước kia và cũng thương cho hoàn cảnh của Nhân hiện tại. Khánh tự hứa, trong những ngày còn lại của chuyến về thăm quê nhà kỳ này, bằng mọi cách, Khánh sẽ vận động để Nhân được trả tự do. Vừa tạm bằng lòng với quyết định của mình, Khánh chợt nhận ra các bạn đã chuyển sang ca khúc Bạch Đằng Giang của Lưu Hữu Phước: “Đây Bạch-Đằng giang sông hùng dũng của nòi giống Tiên Rồng, giống Lạc-Hồng, giống anh hùng Nam Bắc Trung…” Tiếng đồng ca của các bạn gợi lại trong lòng Khánh hình ảnh hùng vĩ của buổi diễn hành năm xưa – do Hải Quân VNCH thực hiện – trên sông Saigon, ngang Bộ Tư Lệnh Hải Quân VNCH, mà chàng đã thấy trong lần về thăm nhà, năm 1974. Năm 1974, từ cửa sổ của chiếc phi cơ Air France, Khánh thấy nhiều và rất nhiều chiến hạm cùng chiến đỉnh được giăng cờ rực rỡ. Trên mỗi chiến hạm, quân nhân trong quân phục tiểu lễ trắng đứng quanh vòng đai chiến hạm, xoay mặt ra ngoài. Chiến hạm và chiến đỉnh theo đội hình, giang hành chầm chậm ngang bến Bạch-Đằng. Thấy Tượng Đức Thánh Trần Hưng Đạo nơi bến Bạch-Đằng, Khánh chợt nghĩ đến bảng tin Hải-Quân VNCH nghênh chiến chống Tàu cộng tại Hoàng-Sa. Khánh cảm thấy cay đắng trong lòng! CsVN đã vi phạm Hiệp-Định Ba-Lê và đã tận dụng khí giới của Nga/Tàu để vượt Trường-Sơn vào Nam giết hại anh em trong khi Quân Lực VNCH vừa bị Mỹ cắt đứt mọi viện trợ, vừa chống trả sự xâm lăng của csVN, vừa anh dũng chiến đấu với Tàu cộng để bảo vệ Hoàng-Sa và Trường-Sa! Vừa nghĩ đến đây, niềm cay đắng trong lòng của Khánh vụt tan đi; thay vào đó là niềm tự hào về những thanh niên miền Nam cùng thế hệ với chàng. Hải-Quân V.N.C.H. đã mất 74 chiến sĩ dũng cảm và hộ tống hạm Nhật-Tảo; nhưng Hải-Quân V.N.C.H. đã/sẽ lưu lại những nét sáng ngời trong thiên hùng sử Việt-Nam. Dòng ý tưởng của Khánh dừng lại khi tiếng đồng ca vang lên: “Việt Nam! Việt Nam! Nghe từ vào đời… Việt Nam không đòi xương máu. Việt Nam kêu gọi thương nhau…” (7). Theo tiếng đồng ca của các bạn, Khánh tưởng như chàng có thể thấy lại những đoàn quân của các quân binh chủng thuộc Quân Lực V.N.C.H. đang diễn hành. Thấp thoáng trong hình ảnh oai hùng của đoàn quân là Quyền, Phú, Tuấn, Huy, Thiệp, Trí, Thuận, Ninh, Đức, v. v… Khánh cũng không thể không nghĩ đến những người con ưu tú khác của ngôi trường Võ-Tánh đã chết trẻ trong cuộc chiến do csVN chủ xướng! Mủi lòng quá, Khánh gục đầu vào lòng bàn tay. Từ nãy giờ Lệ-Hằng đứng xa xa, âm thầm quan sát chồng. Khi thấy Khánh trong trạng thái não lòng, Lệ-Hằng bước đến, nhẹ nhàng đặt tay lên vai Khánh. Khánh cầm tay Lệ-Hằng – mà tưởng như chàng đang cầm tay một trong những người bạn đã nằm xuống trong cuộc chiến do ông Hồ Chí Minh và đảng csVN khởi xướng – lòng thầm khấn: “Tụi bay tha thứ cho thằng Nhân, nha! Nó biết nó đã nhầm! Nó chỉ muốn làm những điều tốt đẹp cho Quê Hương thôi. Nó rất đáng thương!”
ĐIỆP MỸ LINH https://www.diepmylinh.com/ 1.- Trên Đồi Gió của Nguyễn Thanh Khiết. 2.- Come Back To Sorento của Ernesto De Curtis;
lời Việt, Phạm Duy. 3.- Trả Lại Em Yêu của Phạm
Duy. 4.- Gò Đống Đa, Văn Cao.
5/6.- Ải Chi Lăng, Lưu Hữu Phước. 7.- Việt Nam, Việt Nam của
Phạm Duy.
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 17/Mar/2022 lúc 8:02am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 201 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |