![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Thơ Văn | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 201 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23733 |
![]() ![]() ![]() |
Dì Tư Xóm Biển ![]() Dì Tư ở vậy nuôi con sau khi chồng đã báo đền ơn nhà, nợ nước. Thằng Hai lớn lên giống cha như tạc và là một trong những thanh niên đẹp trai, hiền lành nhất xóm. Khi thằng Hai đến tuổi cập kê, dì cũng nhờ mai mối dạm hỏi cho con mình cô gái nết na ở xóm dưới. Ngày thằng Hai đi cưới vợ, nghe đâu có mấy cô ở xóm biển này khóc vơi nước mắt. Đôi vợ chồng son trẻ sống bên nhau vô cùng hạnh phúc và họ đang đón chào đứa con đầu lòng. Ngày cô vợ trẻ trở dạ cũng là ngày phu thê muôn trùng cách biệt. Con dâu sanh khó và lìa đời sau đó vì chứng băng huyết. Y bác sĩ và nhân viên hộ sinh đã hết lòng cứu chữa nhưng chỉ giữ lại được mạng sống của đứa trẻ sơ sinh. Thằng Hai bước thêm bước nữa để có người bầu bạn và nhất là gầy dựng lại mái ấm gia đình cho cuộc sống bớt cô quạnh và mẹ già thôi buồn, thôi tủi. Tiệm may Nguyên Bích làm ăn ngày một khấm khá, thằng Hai cũng ít nhiều quên đi những ngày tháng buồn bã đã trôi qua. Hai đứa con nữa lần lượt ra đời, có nếp có tẻ, ai cũng ngỡ dì Tư có phước vì có được một nàng dâu xinh đẹp. Ngặt nỗi cô vợ sau có máu Hoạn Thư, suốt ngày cứ sanh sự hờn ghen với người đã khuất. Tội nghiệp con bé mất mẹ, nó phải hứng chịu những trận đòn ghen từ sự thiếu bao dung của người mẹ kế. Vì con đông và còn nhỏ dại, thêm phần cửa tiệm đông khách, chị Sáu gửi điện tín về quê “xin tạm” cô em út một thời gian để đỡ đần công việc trong ngoài. Đây cũng là dịp cho Út Xuân rèn luyện tay nghề sau khi khóa học may vừa kết thúc. Út Xuân xin phép mẹ cha và chuẩn bị chút ít hành lý để hôm sau đi sớm. Đoạn đường Đà-Lạt, Qui-Nhơn xa xôi dịu vợi làm cho Út mũi lòng nhớ ba, nhớ má và bồi hồi thương tiếc một vùng quê hương miền cao đất đỏ .. Xa xa là một vùng biển xanh ngăn ngắt. Quê hương của thi sĩ Hàn Mặc Tử hiện dần trước mắt, cảnh vật đẹp đến nao lòng đã giúp nàng vơi đi nỗi buồn lần đầu tiên xa nhà. Út Xuân vừa giúp anh chị chăm sóc các cháu, vừa vui với công việc may vá nên ngày tháng nơi phố biển có phần nào trôi nhanh và đỡ tẻ nhạt. Ngặt một nỗi, chị Sáu của nàng quá hung dữ, hay đay nghiến đứa con của người vợ trước và thỉnh thoảng còn hành hung người anh rể. Cuộc sống ngày chí tối ồn ào của anh chị đã vẽ lên cái lứa tuổi mới tròn trăng của nàng một nỗi ám ảnh vợ chồng. Đôi khi, Út nghĩ mình sẽ không lập gia đình và biết đâu sẽ tìm một ngôi chùa nào đó để yên thân sau này. Mỗi khi anh chị vắng nhà, Út thường thấy một người phụ nữ có tuổi bắc chiếc ghế đẩu, ngồi bên kia đường và nhìn chăm chú vào cửa tiệm. Vài hôm sau, dì ấy còn ghé qua để xin nàng ít vải vụn về may áo gối. Út Xuân cũng có ít nhiều cảm tình với người phụ nữ với dáng vóc nhân hậu trạc tuổi mẹ của mình. Có hôm nàng nhận được gói xôi hay bịch chè từ người phụ nữ dễ mến kia. Nàng dọ hỏi mấy em nhỏ đang học may trong nhà mới biết đó là mẹ ruột của anh Hai. Các em còn méc thêm với nàng rằng, dì Tư hay than thở với bà con lối xóm như vầy : – Con chị hung dữ như ri, giờ thêm con em chắc thằng Hai nó chết sớm. Bà cháu tui thiệt là vô phước ! Những hôm anh chị vắng nhà hay những lúc dắt các cháu ra biển hóng mát là những lúc hai dì cháu có dịp tâm sự và hiểu nhau nhiều hơn. Dì Tư hiền lành, chân thật như miền quê biển của dì. Út tò mò hỏi thăm : – Dì Tư còn đẹp lắm, sao ngày trước dì Tư hổng đi thêm bước nữa để tuổi già bớt quạnh hiu ? Dì Tư dõi mắt theo con sóng lớn ngoài xa và buồn bã đáp : – Lúc đó cũng có nhiều người theo đuổi nhưng dì sợ cảnh con cái hai ba dòng, không thương yêu nhau rồi lại mất lòng. Thôi thì một mẹ một con ở vậy cho nó yên ! ** Mấy chục năm sau, vợ chồng con cái Út Xuân được may mắn gặp lại dì Tư trong một chuyến về thăm quê hương. Từ phi trường Tân Sơn Nhứt, Út đã nghe tiếng rôm rả của chị Sáu : – Má chồng chị vô đây chơi hổm rày, lẽ ra sáng nay bà về lại Qui-Nhơn. Nghe tin mày về, bà nhứt định đòi ở lại để gặp. Chắc bà già sanh tật rồi. À, mày có biết bà bao giờ chưa ? Câu nói vô tình của chị Sáu đã đưa Út Xuân đi ngược dòng thời gian hơn hai mươi năm trước nơi vùng quê biển hiền hòa, yên ắng. Những câu chuyện ngày đó dài như chiều dài bãi biển Qui-Nhơn và hình như chưa bao giờ dứt. Dì Tư đã ít nhiều dạy cho Út Xuân cách sống ở đời và làm người tử tế. Những lời khuyên răn, dạy bảo ấy là hành trang cho Út mang theo cho đến hết cuộc đời này. Hai tuần lễ sau, trên đoạn đường từ Đà Nẵng về Qui-Nhơn, đứa cháu gái ở Qui-Nhơn liên tục gọi điện thoại mười mấy lần và luôn miệng thúc giục : – Xe đi đến đâu rồi hả dì ? Nội con chuẩn bị hết rồi, nội chờ gia đình dì đến để ăn cơm. Có trễ mấy dì dượng cũng phải ghé, nội con đợi đó ! Không khí phòng khách nhà dì Tư thoáng mát nhìn ra một góc biển màu xanh biêng biếc. Xa xa những ngọn sóng nghịch ngợm cứ tràn vào bờ cát trắng xóa, mênh mông. Một dãy bàn thật dài được kê giữa phòng khách và trên đó biết bao là của ngon vật lạ và hải sản đất nhà. Út Xuân ngỡ ngàng lên tiếng : – Dì Tư ơi, sao mà nhiều quá vậy ! Cỡ hai chục thanh niên lực lưỡng cũng ăn hỏng hết bao nhiêu đây thức ăn nữa ! Đôi tay xanh gầy của dì nắm chặt hai bàn tay của Út và run run đôi môi : – Biết bao giờ dì mới gặp được tụi con lần nữa. Nhớ lại hồi mới tới Qui-Nhơn, bây còn con gái nheo nhẽo. Con gái Đà-Lạt về xứ biển nóng ran làm hai gò má bây đỏ hây hây. Mới đó mà đã hai mươi mấy năm rồi, bây vẫn dịu dàng xinh đẹp như ngày xưa, dù đã con bế con bồng. Không để dì mất đi niềm cảm xúc đang dâng lên dạt dào, Út Xuân để cho dì thong thả tiếp : – Hồi đó, bây mê bánh tráng nướng Qui-Nhơn lắm. Dì có đặt người quen làm được trăm cái, bây ráng mang về bên đó để dành ăn nha ! *** Ở một nơi cách xa quê nhà cả chục ngàn cây số, và biển cả cũng xa xôi vời vợi nhưng Út vẫn nhớ đến vùng quê biển Qui-Nhơn ngập tràn nắng gió. Mỗi khi nhớ đến dì Tư, Út vẫn nghe từng cơn sóng vỗ lao xao trong lòng, cho dù dì đã vĩnh viễn lìa xa cõi tạm từ mười năm trước. Vưu Văn Tâm Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 06/Jul/2023 lúc 10:24am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23733 |
![]() ![]() ![]() |
Mây Trắng Vẫn Bay _ tập 1 _ truyện hay nổi tiếng _ Tác giả Quỳnh Dao _ Que Huong Channel <<<<<<Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 07/Jul/2023 lúc 7:59am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23733 |
![]() ![]() ![]() |
Tình HÈ Quốc Hương hát khẽ nho nhỏ, ngắm mình trong gương với nét mặt rạng rỡ, ra vẻ hài lòng bộ trang phục mình chọn sáng nay. Một chiếc quần Jean đen thêu bên hông, ôm sát đôi chân dài thon gọn, hài hòa cùng áo thun màu xám, nổi bật đường cong cân đối của nàng. Chiếc áo gió màu xám nhạt viền xám đậm giãn dị dễ thương, cùng đôi giày thể thao Nike và kiếng mát thời trang tạo thêm nàng nét duyên dáng, trẻ trung. Reng! Reng! Reng!... Tiếng chuông ngân dài từ cổng vọng vào nhà, báo hiệu sự nóng lòng chờ đợi của một người. Nàng mặc vội chiếc áo gió, bước nhanh ra cổng, gặp ngay người đàn ông ngồi trên chiếc Honda Dream màu quần quân, trông anh mạnh mẻ, nghiêm trang nhưng không kém phần sang trọng, thêm một chút bụi bụi của chiếc quần Jean xanh bạc màu sương gió. Tôi nheo mắt nhìn anh:
Anh cười nhìn tôi chăm chú:
Tôi cười vỗ nhẹ vai anh:
Tôi ngồi phía sau xe, đầu tựa vào lưng anh, tay trái ôm chặt eo, tay phải để nhẹ lên đùi anh. Anh rồ ga:
Tôi thẳng người lên, đưa tay lên vuốt nhẹ mũi anh thay câu trả lời, anh lướt nhanh ra xa lộ. Hôm nay, chúng tôi đi du ngoạn Vũng Tàu. Thời tiết Việt Nam thật oi bức vào hè, không khí nóng và ẩm. Dù thời tiết khó chịu, nhưng tôi cảm thấy lòng dịu nhẹ êm vui khi tựa mình vào anh. Qua khỏi cầu xa lộ, anh Minh Quân dừng xe lại trước quán ăn dọc đường. Chúng tôi chọn một bàn hai chỗ ngồi, nhìn hướng ra ngoài. Anh cầm thực đơn:
Tôi nhìn anh nói: - Món gì vừa nhiều, vừa rẻ anh à! Anh cười vui:
Tôi cười giọng nói dí dỏm của anh: - Mình đi đường xa, nên chọn thức ăn no lâu nha anh! Anh để thực đơn xuống bàn:
Tôi gật đầu xếp thực đơn lại đưa người phục vụ. Buổi ăn trưa đã xong, chúng tôi tiếp tục lên đường. Anh Minh Quân tuy không còn trẻ, anh lái Hoda chạy không thua gì thanh niên. Tôi cảm thấy nơi anh còn phảng phất nét trẻ trung nghich phá thời tuổi trẻ. Ngọn gió mùa hè, không làm bớt đi sức nóng nhưng đem trái tim chúng tôi đến gần nhau hơn. Thời gian từ Thành Phố Saigon đến Vũng Tàu khoảng hai giờ lái xe. Chúng tôi qua khỏi thị trấn Bà Rịa, còn đoạn đường ngắn nữa sẽ đến Thành Phố Vũng Tàu. Núi bắt đầu hiện ra phía trước, biển sắp đến gần, gió mát thoảng nhẹ, dễ chịu vô cùng. Giữa trưa, chúng tôi vào tới trung tâm Thành Phố. Tôi vỗ nhẹ vai anh Minh Quân:
Anh Minh Quân cho xe rẽ vào chợ, buổi trưa vắng người qua lại, chợ không lớn nhưng bán khá đủ đồ. Chúng tôi dạo một vòng, mua mãng cầu dai và nhãn tiêu, hai loại trái cây tôi ưa thích, đặc sản của Vũng Tàu. Xe chạy dọc theo bờ biển, đưa chúng tôi đến Bãi Dứa. Hàng dương dưới ánh nắng vàng, lung linh trong gió vừa mát lại đẹp. Phong cảnh thật hữu tình! Nơi đây ít nguy hiễm, có thể tắm được, nước trong, ít đá. bãi lài. Chúng tôi thuê một cây dù hai ghế bố sát nhau, rồi bày thức ăn trên bàn, tiện tay tôi bóc vỏ trái nhãn đưa vào miệng anh Minh Quân: - Anh nhớ nhả hột, đừng nuốt mắc cổ nha anh! Anh nhìn tôi cười: - Nếu lỡ anh nuốt thì sao? Tôi liếc anh: - Em sẽ đấm vào lưng anh một cái thật mạnh, hột nhãn sẽ văng ra ngay chứ sao anh! Anh sửng sốt nhìn tôi:
Tôi cười nắm tay anh kéo lên: - Chúng ta đi dạo dọc bãi biển vui hơn ngồi đây anh à! Anh đứng lên cười nói:
Tôi cười ngất giọng nói của anh:
Thế là chúng tôi đi thay đồ tắm, tôi mặc quần dài trắng với chiếc áo ngắn tay trắng, anh cũng mặc quần tây trắng với áo trắng tay dài, trông chúng tôi vừa trang nhã vừa trẻ trung. Hai chúng tôi tay trong tay đi dọc bãi biển. Ngọn gió mát thổi nhè nhẹ, làm tóc tôi bung lên. Tôi nép mình vào vai anh, anh cũng choàng tay ôm eo tôi. Chúng tôi cảm thấy mình trẻ lại và ấm áp hơn. Tôi đang mơ màng! Thình lình anh Minh Quân kéo tôi ngồi xuống cát, âu yếm nói:
Tôi giật mình thốt lên:
Anh hụt hẩng nhìn tôi:
Tôi lắc đầu không đồng ý! Anh buồn, yên lặng hốt từng nắm cát bỏ xuống, hốt lên. Tôi nhẹ nhàng, tựa đầu vào vai anh nói khẻ: Anh yên lặng nhưng lòng em chợt hiểu, Bởi vì mình đang vớt cát nâng niu. Bờ biển êm trong nắng đẹp mỹ miều, Từng nắm cát mịn là điều muốn nói. Anh nhìn tôi xúc động, hôn nhẹ vào trán tôi, đỡ tôi đứng lên. Chúng tôi ôm nhau chạy xuống biển, nắm tay nhau nhảy theo đợt sóng nhấp nhô, trái tim chúng tôi cũng hòa cùng nhịp sóng nước, nở nụ cười hạnh phúc giữa biển trời bao la. Ánh nắng nhạt dần, tôi thấm mệt ngã xuống nước, anh Minh Quân ẵm tôi vào bờ, giang tay để tôi gối đầu. Trên trời cao, những đám mây đủ màu xen lẫn nhau, tạo thành bức tranh đặc sắc đẹp tuyệt vời. Chợt anh Minh Quân nắm chặt tay tôi:
Tôi gật đầu đứng dậy theo anh: - Chiều nay chúng ta ngắm cảnh hoàng hôn nha anh! Anh hôn nhẹ môi tôi:
Tôi cười thu dọn đồ đạt, bước theo anh. Chúng tôi vào quán cơm gần chợ Vũng Tàu, chọn món Canh Chua Cá Chẽm và Cá Lưỡi Trâu chiên dòn cùng cơm trắng với Trà Nóng. Mùi thơm của cá hòa với cơn đói đem lại chúng tôi bữa ăn thật thú vị. Sau buổi cơm chiều, chúng tôi trở lại bãi biển ngắm cảnh hoàng hôn. Mặt trời xuống dần sát chân trời, ánh nắng vàng tỏa sáng một vùng biển cả, dạ hào quang trên mặt sóng nước lăn tăn, rọi thẳng vào mắt hai chúng tôi. Cảnh hoàng hôn thật đẹp lại hữu tình. Tôi đưa tay che mắt anh Minh Quân, anh hôn nhẹ tay tôi, luồng cảm giác dịu dàng thân thương này để lại trong tôi kỷ niệm khó quên. Lần đầu tiên, tôi chiêm ngưỡng cảnh đẹp về chiều trên biển bên người yêu tôi. Thời gian trôi, màn đêm buông xuống lạnh dần, anh Minh Quân ôm chặt tôi vào vòng tay anh. Chúng tôi yên lặng nhìn nhau, hai trái tim không còn khoảng cách. Hương Hoài Điệp Cali, Mùa Hè |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23733 |
![]() ![]() ![]() |
Biết Tỏ Cùng Ai | Quỳnh Dao | Liêu Quốc Nhĩ | Tịnh Khẩu <<<<<<![]() Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 14/Jul/2023 lúc 8:06am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23733 |
![]() ![]() ![]() |
Cười Như Những Đóa HoaMọi người yêu hoa vì chúng đem lại cho con người vẻ đẹp và sự ấm áp. Người yêu hoa hay nghĩ rằng con người cũng giống hoa về vẻ đẹp, sự trong sáng và ngây thơ.. Những bậc giác ngộ hoặc đại trí thường giữ nụ cười trên khuôn mặt, giống như những bông hoa luôn “nở nụ cười” vậy. Họ thích cười bởi vì họ hiểu được bản chất cởi mở, thảnh thơi và đầy ý nghĩa của hoa. Trong thơ ca cổ, vẻ đẹp của nụ cười thường được tôn vinh cùng với hoa. Vẻ đẹp và sự tao nhã của nụ cười khó có thể diễn tả được. Những người thích liên hệ nụ cười với hoa trong cuộc sống là những người trân trọng niềm vui và hạnh phúc. Có nhiều người có chút thông minh và quá trọng tình cảm, nên họ gặp rắc rối về sở thích cá nhân và luôn lo nghĩ về “được và mất”. Họ không thể thanh thản và vui vẻ. Họ có thể có danh tiếng, tiền bạc và địa vị, nhưng lại mất đi sự bình an và tĩnh lặng trong tâm hồn. Một nhà tâm lý nổi tiếng đã từng nói: “Nụ cười là một tiêu chuẩn để đánh giá con người có thể điều chỉnh môi trường của họ hay không”. Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, những nụ cười có thể đem đến niềm vui, sự bình yên và hài hòa. Nụ cười thân thiện là phản hồi tự nhiên từ thế giới nội tâm của một người ra bên ngoài, và nó hàm chứa sự cảm thông và tán thành. Nụ cười cũng đem lại sự ấm áp, niềm vui và sự thấu hiểu. Vì vậy, một nụ cười có thể được gọi là “một bông hoa thấu hiểu”. Tôi đã được kể câu chuyện này: Lần nọ, trước khi máy bay cất cánh, một hành khách nói với tiếp viên ông muốn xin một ly nước để uống thuốc. Cô tiếp viên đã lịch sự nói với ông rằng: “Máy bay đang chuẩn bị cất cánh. Vì sự an toàn của quý khách, xin quý khách đợi thêm vài phút. Sau khi máy bay cất cánh và ổn định, tôi sẽ mang nước cho ngài”. 15 phút trôi qua, cô ấy đã quên mang nước vì bận giải quyết những vấn đề cho các hành khách khác. Sau đó cô mang nước đến cho người khách và xin lỗi với một nụ cười. Tuy nhiên, người đàn ông đã rất giận dữ và chỉ vào đồng hồ, nói rằng: “Đây là kiểu phục vụ gì vậy? Cô có biết tôi phải chờ bao lâu không?” Người tiếp viên cảm thấy có lỗi. Tuy nhiên dù cô ấy có giải thích thế nào, ông khách kia cũng không tha thứ cho sự cẩu thả của cô. Để sửa chữa lỗi lầm của mình, cô ấy đã tươi cười nói ông có thể lấy nước mỗi khi cô đi ngang qua. Không may thay, vị khách khó tính này đã không chấp nhận nỗ lực xin lỗi của cô. Trước khi máy bay hạ cánh, vị khách này đã yêu cầu cuốn sổ hành khách để viết lời bình luận. Cô tiếp viên đã nghĩ rằng vị khách sẽ phàn nàn, vì vậy, cô ấy tươi cười nói rằng: “Xin hãy để tôi xin lỗi thêm một lần nữa. Tôi sẽ chấp nhận mọi lời phê bình và kiến nghị của ngài cho dù chúng là gì đi nữa”. Vị khách không nói lời nào nhưng để lại vài dòng nói rằng: “Trong suốt chuyến bay, cô đã bày tỏ lời xin lỗi chân thành của mình; cô đã mỉm cười 12 lần, và đã cảm động tôi sâu sắc. Tôi đã quyết định viết một lá thư đánh giá cao thay vì một bức thư phàn nàn! Chất lượng phục vụ của các bạn thật tuyệt vời, và cô là người tiếp viên tốt nhất thế giới! Nếu có cơ hội trong tương lai, tôi sẽ lên chuyến bay này lần nữa!” Quả thật, nụ cười như những đóa hoa. Chúng là những bông hoa thơm ngát từ thế giới của một trái tim thuần khiết. Chúng không cần trang trí thêm, nhưng có thể cảm động đất trời.. Nụ cười là niềm vui và nguồn hạnh phúc vô tận. Nếu không có chúng, trái tim bạn sẽ như một dòng sông băng. Khi bạn có thể mỉm cười trước những lời nói xấu, trong cơn khủng hoảng, nỗi đau khổ và thử thách cam go, những điều không may sẽ yếu đi và dần biến mất. Nụ cười có thể cởi khóa trái tim, mang đến sự chân thành và cởi mở, giúp những người xa lạ gần bạn hơn và khiến người thân của bạn hạnh phúc. Nụ cười là một đóa hoa cao quý, thanh khiết từ thế giới nội tâm của một người! Quán Minh |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23733 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23733 |
![]() ![]() ![]() |
QUÊ HƯƠNG MÌNH1. Chiếc ghe chài bành ky lững lờ trôi theo con nước lớn. Cả tháng nay, chưa khi nào công chuyện của những người bạn ghe nhẹ nhàng như bữa nay. Sông lớn, nước chảy chậm, tư bề ít ghe xuôi ngược, chuyện chèo chống chỉ giao cho hai người cầm sào đi dọc từ trước mũi ra sau lái rồi từ lái tới trước mũi sửa hướng cho ngay dòng. Chẳng bù với mấy bữa qua Vàm Nao, phá Đại Ngãi nước xoáy như thác đổ, bạn ghe người nào người nấy vật lộn với sóng, mồ hôi mồ kê như tắm, mệt té ho mà cái ghe cứ xà ninh xà nang lắc la lắc lư như ông tướng thầy ba lúc thầy pháp lên đàn. Khỏi chợ Bến Lức đâu độ chừng ăn dập bả trầu, tới khoảng chợ Đệm Bình Điền thì trời chập tối. Lác đác trên trời mấy vì sao hôm thập thò nhấp nháy. Trời sập tối tựa như tấm màn đen được giăng sẵn đâu đó tuốt luốt trên trời đợi tới giờ giủ xuống để che phủ trần gian. Trăng hạ huyền đã mọc từ lâu phết một bệt sáng óng ánh. Cảnh vật êm đềm trong gió hiu hiu mát lạnh gợi nhớ người thân thuộc ở quê nhà. Phải lấy hết can đảm Lành mới theo má bước lên chiếc ghe bự xộn này để xin quá giang. Chuyện quá giang của đàn bà con gái trên ghe thương hồ chủ ghe đại kỵ. Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá, trên ghe trên tàu thiếu gì người khuất mày khuất mặt. Chuyện đàn bà ngày tháng có thể làm cho người ta xúi quẩy mất nghiệp như chơi. Nhưng may quá, nhờ tiếng thơm của tía từ trước, ông bà chủ ghe đã vui vẻ nhận lời. Bây giờ mình chờ đợi những gì xảy ra ở xứ văn minh sẽ tới. Một mình mình. Ghe càng đi xa phong cảnh càng lạ, càng thấy nao nao nhớ nhà. Nhớ đám mía trước sân xào xạc tận bờ sông mỗi ngày giặt giũ, nhớ hàng lu nái im lìm giữa hai gian nhà, nước mưa chứa lâu ngày ngậm một ngụm cũng đủ mát rượi cổ họng mấy lúc trưa trời nắng chang chang. Nhớ má ưa lúc thúc dưới bếp làm chuyện này chuyện kia không hở tay. Nhớ những buổi tối má con hủ hỉ dưới yến sáng lờ mờ của cái đèn con cóc dầu mù u nho nhỏ. Bây giờ những thứ thân thiết đó mỗi lúc một biền biệt, biết bao giờ mới được gặp. Còn anh Hai nữa, cả tháng nay đi làm xâu vét kinh Ông Đốc đâu miệt Tân Châu – Hồng Ngự mà chớ hề nghe nhắn nhe tin tức gì về. Nghe nói mỗi ngày nhà nước cho lãnh hai vắt cơm, mấy hột muối cục với lại một miếng khô mực nhỏ bằng hai ngón tay tréo, trả có xu rưởi không đủ mua một bánh thuốc rê mà phải hụp lặn dưới nước giầm mình múc sình xắn đất. Ở đó muỗi mòng, đỉa vắt. Mình đi đây kể như anh em cách biệt. Cực chẳng đã bỏ làng chứ thuở tía chưa bị bắt thì nhà đâu đến đổi. Mắt Lành rưng rưng, muốn thút thít khóc như ở nhà mà sợ bạn ghe chộ nên phải dằn, phải nén. Nhưng sao như có cái gì trong lòng đẩy ra làm Lành buồn man mác như lúc nhỏ bị rầy oan. Lành ngó vô góc, chỗ lườn ghe được phân khoang chứa chén dĩa kiểu. Hàng hàng lớp lớp, chén dĩa nhận giữa đống trấu đầy ắp. Được vài chục dĩa Càn Long chia chắc đở khổ. Thứ này dân chợ họ chuộng lắm. Chánh cống bên Tàu. Mua về chưng trong tủ kiếng để thiên hạ trầm trồ cũng mát mày mát mặt. Bao nhiêu họ lại không thảy tiền ra bưng về. Lành chép miệng quay về thực tế. Nhưng mà người giàu nứt vách đổ tường, kẻ không có đồng xu dính túi. Họ cho đặt chưn lên ghe là may rồi. Nếu không biết đâu bây giờ mình còn lụi đụi đâu đó dưới miệt dưới. Quá giang từng chặng mệt hơn nhiều. Chắc sáng mai tới bến. Rồi lại còn chuyện lạ nước lạ cái, hỏng biết có gặp người bà con hong. Chỉ biết họ ở chỗ xóm Đạo Chợ Đủi, gần trường con gái Chợ Đủi, mà không biết chắc ở đâu. Để nữa lên đó cất công kiếm coi. Kiếm hỏng ra là phận gái bơ vơ quê người xứ lạ đó. Lành tặc lưỡi như thấy má mình vô lý kỳ cục. Khi khổng khi không cái bắt người ta đi khơi khơi. Rồi biết chuyện gì sẽ xảy ra. Ở quê nhà bữa rau bữa cháo nhưng hủ hỉ có mẹ có con. Lo gì mấy chuyện lặt vặt ăn uống. Có mắm ăn mắm, có muối ăn muối. Với lại chim trời cá nước thiếu gì, lấy lộp, lấy nò đặt một ăn cả ngày hỏng hết. Rau cỏ mọc lu bù sau vườn, lềnh khênh thiếu điều muốn nhổ bỏ. Đói đâu mà sợ? Có lẽ má sợ tụi đầu trâu mặt ngựa trong xóm trong làng đang được thế được thần làm trời làm đất. Rồi Lành sụt sùi ngang, khóc ngon khóc ngọt. Nhớ tới lời dặn lúc chia tay càng thấy chuyện má con gặp lại mong manh như cánh chuốn chuồn. Chắc con biết chuyện người đàn bà có chồng con bị cọp ăn mà vẫn không dọn nhà đi nơi khác? Tại vì chỗ đó không có quan lại khắc nghiệt đó con. Hương chức hội tề địa phương ác độc nhũng lạm còn ác hơn cọp dữ. Bởi vậy ông bà mình mới nói: Tàn chính mãnh ư hổ. Con phải đi khỏi chỗ này để bảo vệ thân … Giọng má run run trong nước mắt. Thân gái xa nhà hiểm nguy nhưng đi được cứ đi. Ai cũng muốn xa chốn này. Thời cuộc làm mấy thứ lộn tùng phèo hết. Làng nước bây giờ có thuộc về mình nữa đâu. Thuộc về tụi nó. Mà tụi nó móc ngoéo nhau rễ chùm rễ mớ. Người dân như mình đành chịu cảnh thờn bơn thôi. Lép một bề. Sống tới ngày nào hay ngày nấy. Đợi chờ. Mấy cây rơm trước sân kia nếu biết đi đã đi mất từ lâu rồi… Bây giờ mình ra khỏi vòng tay của má, tự đối phó với đời. May nhờ rủi chịu. Phải quyết định lấy, không còn chuyện mỗi chút mỗi “má ơi.” Tiếng hai người bạn ghe kéo Lành ra khỏi giòng suy nghĩ triền miên. -Tới Ba Cụm rồi đó. Anh biết bối Ba Cụm mà, lơ mơ nó cuỗm hàng hết bị nạo tróc da đầu đó. Với lại hai gói áo quần của tụi mình. Có bề gì có nước bận xà lỏn ra chợ. -Biết rồi, đừng làm tài khôn. Tụi nó thường đi trên ghe cui hay ghe vàm. Để cho thiên hạ tưởng đâu làm ăn chơn chất. Tụi bán vàm, bán rồi đi xuồng nhỏ xẹt qua xẹt lợi, coi trời ơi đất hỡi trái lại thiệt thà… Ở đời thiệt khó. Đâu ngờ. -Ừ. Cũng tại bị không ngờ mà hồi nẵm có chiếc ghe chài chở lúa, tụi bối xông nhang mê xúc cha nó gần hết ghe. Tom góp quần áo vàng vòng của bà chủ bộn bàng … -Xuỵt. Xuỵt. Kìa cái ghe cui ở đàng sau đương cặp theo ghe mình cà. Dám mấy chả lắm chứ hổng chơi đâu. Coi bộ dạng sanh nghi quá, cứ xôm xôm tới hoài. Lành lấy ống tay áo dụi nước mắt ngó về phía sau. Một chiếc ghe cui cũng đi theo dòng. Ghe bự bề ngang mà cụt đòn, coi quê kệt, loại ghe chở củi, chở tràm. Trong bóng tối, cái mui lỡ ngoài sau lái như một bệt đen in trên nền trời thưa thớt sao khuya. Trên đó thấp thoáng bóng hai người. Một điếu thuốc lâu lâu lóe sáng rực quơ lên quơ xuống, một cái đầu tóc khắc rõ nét trên nền trời mờ mờ tỏ tỏ xa xa. Trong bóng đêm, một giọng hò ngọt lịm lan truyền qua không khí tĩnh mịch đi thẳng vô từng lỗ chân lông người nghe. Ngọt hơn đường cát, mát hơn đường phèn. Lành rùng mình, chân tay nổi da gà. Tiếng hò quí phái như công tử ngày xưa dạo chợ, dịu nhĩu như con gái giã gạo chày đôi, chày ba hát hò dưới trăng. Hò ơ … Có gió đông hung mới biết tùng bá cứng Có ngọn lửa hồng mới biết thức vàng cao Thuyền quyên sánh với anh hào Đây không thả lá gieo đào như ai Hò ơi … Trúc kia đã lợp cùng mai Như chàng họ Lục sánh vai với chị Hai họ Kiều Xin nàng giữ dạ đừng xiêu Nếu một mai (hò ơ …) thuyền anh ra biển Bắc, ruột đau như thắc, nước mắt dầm dề, xa cách hương quê, giáp vàng Lục Tỉnh, anh cũng liều (mà … hò … ơ) trở về thăm e … m … Lành khớp ngang như lúc nhỏ đứng trước cây roi mây cật dài sọc của ông thầy già chi hồ giả dã. Muốn lên tiếng mà miệng cứ như quíu lại. Mở đầu nói chí mình, khuyến dụ là chuyện bình thường, cách buông vần câu thúc ở trên, phóng túng ở dưới, tỏ rằng đã lăn lóc nhiều trong câu hát điệu hò. Điệu này mình chỉ có nước vảnh tai nghe chứ không thể nào đối đáp được. Hai cái ghe tiếp tục trôi. Không gian im lặng nặng nề, âm thanh e…m.. e…em… vẫn còn bao quát đâu đây trong gió đêm lành lạnh, quấn quít trong làn da chéo áo mọi người. Lâu lắm mới có tiếng hò đáp của giọng con gái trong trẻo, quyến rũ, nhưng ngắn gọn như bất cần lời ong tiếng ve: Hò ơ … Gá duyên thì phải lựa (mà) xem, Hò ơ … Coi thử (hò ơ …) đó là thằng Bùi Kiệm hay anh Vân Tiên (hò ơ …) em mới trao lời … Tiếng hò dứt mà Lành vẫn còn bàng hoàng chưa tỉnh. Giọng người ta trong vắt như nước nhìn thấy sâu dưới đáy, cao như nhạn lượn chín từng mây. Giọng của mình cũng có tiếng ở chòm xóm đó, nhưng mà so với người thì có nên thân nên hình gì đâu. Bất quá như mới biết múa quọt quẹt trước thầy võ vậy thôi. Đi xa mới biết trời cao đất rộng. Cao nhơn tất hữu cao nhơn trị. Hò ơ … Lên xe (mà) nhường chỗ bạn ngồi, nhường nơi (mà) bạn dựa, (hò ơ …) nhường lời (mà) bạn phân … Hò ơ … Anh đây cũng muốn (mà) kết nghĩa giao ân Hò ờ … Anh không phải là thằng Bùi Kiệm, sao chín mười phần (mà) bạn lại ngại nghi … Lành đã hiểu, họ hò giao tình, buông ong thả lá, giả đò như họ không đi chung ghe, giả đò như không quen biết. Cũng vui. Họ mở thắt bằng ý thơ Vân Tiên, để coi đi xa tới đâu. Người con gái bắt quàng thiệt đẹp. Vừa dẫn sách, vừa nói chí mình. Hò ơ … Thể Loan là đứa vô nghì Như vậy là quá rõ, còn đánh tiếng mình đã có nơi. Mọi chuyện đổi thay đều không hợp với luân thường đạo lý. Thường mở đầu cách này khó cho phe nam. Cánh cửa đã đóng, ván đã đóng thuyền. Nhưng giọng nam vẫn cất lên vừa tha thiết dụ dỗ, vừa khinh thường ngạo mạn: Em ơi, gái kiếm chồng nơi giàu sang nương dựa, đặng sáng với chiều lên ngựa xuống xe, đừng lấy thằng ghe chài, sáng ngồi lườn tối nằm be, để thân con gái má phấn không kẻ chở che, uổng đời … Hai người bạn ghe cười với nhau. Tụi nó xách mé mình rõ ràng. Có chọc ghẹo ai đâu? Nói gì thì nói, sao mạt sát ghe chài. Tức quá. Phải mình biết hò! Họ ngó Lành như hỏi ý, như cầu hiền. Lành bối rối. Lên tiếng hay không? Mẹ dạy con gái phải ít ăn ít nói. Miệng bằng tay, tay bằng miệng đâu tốt lành gì. Thôi nhắm mắt bịt tai, ngày mai tới chỗ. Cuộc đời mới trước mặt đáng lo hơn. Vui gì mà hát với hò. Quan trọng gì mà tranh hơn thua lời ăn tiếng nói. Xa trong đêm vắng, tiếng người con gái cất lên buộc tội: Chuyện nợ duyên ông Tơ bà Nguyệt định bởi Trời Anh ơi đừng giở thói bốc rời, ví như thằng Bùi Kiệm để tiếng đời hậu lai … Rồi bắt qua giọng khác: Lọng che dương dầu sườn cũng lọng, ô bịt vàng dù trọng cũng ô. Trai như anh mù văn dốt võ, gái như em vẽ phụng thêu rồng, phải chi anh là con trai của Lục Ông thì em gắng công chờ đợi chứ lấy chồng làm chi … Lành cười. Hay quá. Câu trả lời gián tiếp. Đáng đời. Ai biểu chọc gái. Bây giờ có nhiều chuyện không biết đâu mà nói. Lắm kẻ tình tào khang tấm mẳn bỏ lửng để vui với bọn hương chủ, hương kiểm, hương tuần dốt nát. Nhiều người bấm bụng trao duyên cùng người mình khinh bỉ, hy vọng gỡ rối cho gia đình. Chuyện đó thiếu gì. Mấy tiếng “Theo nghĩa quân chống lại Đại Pháp” như lưỡi gươm kề cổ ai ai cũng sợ. Mấy tiếng “tàn dư ngụy đảng, tay chưn bộ hạ cựu trào” như một thứ thuốc nổ làm bay cửa bay nhà. Bọn hương chức hội tề được dịp là làm tới có thương ai, có xúc động vì ai bao giờ. Chúng rảy cùng đường một lũ chó săn rình mò, nay phao vu đặt rượu lậu, mốt tố cáo bán sớt lúa trốn thuế. Đẩy xô đàn ông vào tù ngục để giở thói bóc rời đàn bà. Chúng ví như thằng Bùi Kiệm để tiếng đời hậu lai, lềnh khênh trong làng, trong xóm, khen Đại Pháp anh hùng không ngượng miệng, hoan hô Pháp Lang Sa vĩ đại không tiếc lời. Chúng sung sướng được làm chim cú nhưng muốn đậu cành mai, hãnh diện làm khỉ rừng xanh, nhưng trong bụng muốn vin cành quế. Quên câu dầu sườn cũng lọng dầu trọng cũng ô. Phận mình ra đi một phần cũng vì lẽ đó. Chúng lấp ló ngoài ngõ, rồi sẽ bước vô nhà. Ở xứ văn minh này thì khỏi đi, thiếu gì người tài. Lành cười mắc cỡ với mình. Nếu có gì, mình sẽ tự nguyện như Nguyệt Nga, ôm bức tượng đợi chờ dầu da nhăn, má hóp, dầu chân run, tóc bạc cũng được. Đời người mấy ai được gặp Vân Tiên, đâu phải ai ai cũng có thể thủ tiết như nàng Nguyệt Nga? Duyên may một đời người chưa dễ gặp … Trên sông đêm, tiếng hò vẫn tiếp tục, đang biến dạng tới một hình thức cao hơn, gần với bản vọng cổ hoài lang điệu Bạc Liêu … Bớ em ơi, em đừng thấy ăn bận quần dài áo rộng, gấm nhiễu, khăn điều, lược đồi mồi giắt tóc, giầy da bóng chưn mang, em kiến là người quân tử. Em đừng thấy ăn bận quần rách áo rưới, vải thô vải đủi nón nỉ lủng đội đầu, chân không trần sình dất, em chê là kẻ tiểu nhơn. Chớ em không quên chuyện Thạch Sanh đóng khố gãy đờn, bắt con chim đại bàng cứu nàng công chúa, về sau có ai hơn được chàng… Bớ em ơi, em đừng học thói Thể Loan, ham nơi vinh hiển, bỏ đàng (đã) hứa duyên. Em ơi cũng đừng học thói Điêu Thuyền, sớm mơi ôm Lữ Bố, chiều về tựa kề người nó gọi bằng cha, em hãy ở sao như Kiều Nguyệt Nga, giữ niềm chung thủy sang qua kết nguyền, về sau gặp lại Vân Tiên… Lành chập chờn trong giấc ngủ giữa tư bề sao rơi, bên tai văng vẳng câu hò trộn với những câu thơ Vân Tiên vẫn thường nghe hồi thuở nào xa xăm lắm. Trong giấc mơ, Lành sung sướng mỉm cười với hình ảnh Vân Tiên đầu đội kim khôi, tay cầm thương bạc, mình ngồi ngựa ô lẫn lộn với một tình cảm thẹn thùng bỡ ngỡ của bước đầu gặp người tình, khoan khoan ngồi đó chớ ra, nàng là phận gái ta là phận trai … Nước sông vẫn chảy lững lờ, chiếc ghe cui xa dần khoảng cách, trong đêm vắng mơ hồ đâu đó có tiếng người chùi xuống nước. Nhẹ nhàng, thiệt nhẹ nhàng … 2.
Lành sửa soạn cái cười thiệt tươi chào hai vợ chồng khi họ từ tấm bửng sửa soạn bước lên ghe sau khi đi xin xăm về. Người đàn bà tươi cười nói với Lành, chỉ về phía chỗ đoàn múa lân đang tụ tập, chỗ có tấm bia ông cọp trước đình Cầu Muối. – Lành, em lên bộ coi lân Sài Gòn kìa. Vui lắm, mấy thuở lên đây gặp dịp Tết… Rồi như đoán trước được lòng Lành, bà ta nói thêm: – Ối, hơi sức đâu mà buồn. Chuyện năm cũ hao tài khỏi tán mạng, nó lấy gói quần áo của em, như gánh cái xui xẻo của em. Sang năm mới sẽ khá hơn. Coi lân đi. Để ghe cộ đó dì coi cho. Ngày tư ngày Tết mà. Nếu có thì giờ ghé chùa Bà xin lá xăm đầu năm. Bà linh lắm. Đi dọc theo mé sông tới đầu chỗ đường Bồ Rệt thì thấy liền … Để vui lòng người, Lành dạ dạ rồi bước lên tấm bửng lên bờ, nhập vào đám đông đang bắt đầu lũ lượt. Từ xa nhạc trống lân dồn dập, tiếng trống tùng tùng, tùng cắc có sức hấp dẫn kỳ diệu. Lành nhập vào đoàn người thưởng ngoạn hồi nào hổng hay. Giữa vòng khán giả, đoàn người múa lân ăn bận quần áo võ sĩ gọn ghẽ tề chỉnh giống như tấm hình vẽ trên tờ giấy bản mục nát, mối ăn lỗ chỗ được cuộn tròn nhét phía sau trang thờ mà Lành thường được coi trong mấy ngày giỗ lớn của gia đình. Lành nao nức và tự thấy mình lạ lùng. Họ múa lân, họ đánh võ, họ biểu diễn thương, đao; chuyện này thường quá, có gì đâu? Mọi năm đoàn lân Phụng Hiệp bắt đầu múa riết từ xế chiều ba mươi tới hết ngày mùng năm, coi đà mãn nhãn rồi. Nhưng lân Lục Tỉnh quê mùa rẫy bái thế nào cũng thua lân chợ, chánh cống Sài Gòn. Quần áo bình thường bà ba vải ú đen, chưn quen đạp sình đất, nức nẻ, múa hay thì có hay đó nhưng mà thấy nó kỳ kỳ. Quần áo của đoàn lân này xao xuyến lòng Lành. Ống quần cột túm bằng dây cao su ràng rịt lên tới ống quyển. Áo chẽn, thắt đằng chỗ bụng, có vẽ cái đầu lân đỏ chói phía sau lưng. Nón lá nhỏ vành, sơn đỏ, trên chóp có đính một cái ngù nhọn lễu. Giống hệt như chú lính thú ngày xưa trên Cao Man, Cần Giọt, chỉ có điều họ không có đầu tóc. Họ cũng không để râu. Nhưng bao nhiêu đó cũng đủ để kỷ niệm hồi còn nhỏ hiện về. Cặp mắt thành kính, mấy ngón tay run run trân trọng của tía trước mấy cây bạch lạp lung linh, khi vuốt tấm hình: -Ông con đó. Người lãnh chức Cai Đội trong đoàn nghĩa quân của Trương Công, chịu trách nhiệm từ bờ sông bên này Cần Giuộc tới cửa Gò Công, ra mút tới mấy Hòn Đất, Hòn Cu ngoài biển. Sau này, Trương Công bị phản, quy thần, nghĩa quân tan nát. Người dắt dìu tía về đây, giờ thì mọi sự đổi thay, cơ trời chuyển dịch, lòng người ly tán. Tía chỉ mong giữ gìn tiết tháo, hốt thuốc giúp đời, đợi ngày theo ông bà. Chuyện đội đá vá trời để người tài đức … Cặp mắt tía long lanh, mơ màng. Chút hãnh diện về dòng dõi lâu lâu mới được nhắc tới pha với sự an phận thủ thường của một cuộc sống tránh né lâu ngày chầy tháng thấp thoáng trong ánh mắt nhìn mông lung đó. Hai tía con ngồi ngó ra cửa hèn lâu, mọi người theo dòng suy gẫm của riêng mình… Trời càng xế trưa, càng nhiều người túa ra từ mấy căn nhà xa xa trong xóm, theo tiếng trống thúc giục. Con lân có hàm râu bạc dài ngót gang tay đang quay bên này, nghinh bên kia chờn vờn như hí cầu, múa sừng như tranh châu trước căn nhà có treo tiền. Cặp mắt lồi nhúc nhích, trợn dọc trợn ngang. Cái miệng lớn tổ chảng hoác ra quặp lại như sẵn sàng nuốt trọng ai dó trong đám người bu quanh. Cái sừng chiết đen thui, cong queo, mỗi lần chồm tới như muốn rạch bụng người coi. Ghê thiệt. Nghề này mình đâu có phải tay mơ. Múa đầu lân bằng hai tay đã đành mà múa luôn hai cẳng với những cái đá, cái co chưn, cái thủ bộ lẹ làng gọn ghẽ, dòm sơ qua cũng biết tay nghề. Mười mấy phong pháo nối với nhau rũ từ mái nhà xuống gần sát đất, được châm ngòi. Tiếng nổ lốp bốp đùng đùng làm tai ai tai nấy đều kêu vo vo. Con lân, lạy thụt lùi ba lạy trước ngạch cửa. Nó ngước lên ngó cái cờ đỏ thêu mấy chữ vàng “Cầu Ông Lãnh Hoa Việt Thanh Niên Lân Hội” lòng thòng mấy cây cải “xà lách” và một dọc giấy “ngẩu” mới tinh được treo chót vót trên nóc nhà rồi múa loạn xạ như giận dữ. Những tiếng chắc lưỡi hít hà nổi lên đây đó. Đã thiệt. Nặng bộn chớ bộ chơi đa. Múa coi nhẹ hổng, như Hạng Võ cử đỉnh. Cả giờ rồi coi bộ có thấm thía gì đâu. Một nhúm năm người lo dựng lên một cây tre tầm vong già, bự bằng bắp tay, cao nghều nghệu. Họ lấy thế kềm cứng vây tre. Con lân múa một vòng, ngó lên, ngó xuống như ước lượng trước khi leo. Trò này Lành đã được coi một lần ở chợ Cần Thơ lúc nhỏ. Người múa lân máng cái đầu lân vô một cánh tay, leo lên cây tre thẳng tắp, trơn lu. Tuốt trên chót vót có xỏ ngang một thanh tre nhỏ, anh ta sẽ nhào lộn trên đó, trong tiếng trống. Chòm râu trắng phất phơ theo chiều gió, oai phong lẫm liệt như lão tướng xung trận. Thình lình tiếng trống gò lại nhỏ hơn, rời rạc hơn, con lân bỗng nhẩy phóc đứng trên một cái ghế đẩu múa may một đổi rồi đưa ra một chưn thẳng tắp. Từ trong đám võ sĩ đứng đàng sau, một con lân râu muối tiêu nhỏ thó, mặt mày cũng vằn vện vậy, nhưng có vẻ nhu mì hơn, chầm chậm bước ra. Cách đi đứng múa may, chờn vờn cũng nhẹ nhàng phong nhã, phiêu hốt. Nó lạy con lân râu bạc ba lạy rồi chun qua dưới chưn chầm chậm, khép nép như sợ sệt. Lành ngạc nhiên. Thói thường chỉ có lân lạ mới lạy chạy mặt nhau thôi. Còn đây hai con lân cùng đoàn mà. Họ làm ăn cái gì kỳ cục vậy? Có tiếng oang oang của một người muốn cho thiên hạ biết mình ta đây thông thạo: -Lân Cầu Muối lạy tôn lân Cầu Ông Lãnh làm đại ca đó. Nó chịu nhục lòn trôn giữa chợ. Như Hàn Tín lúc thất thời. Tám năm rồi, năm nào nó cũng phải làm cái mửng này. Có năm còn bị phun nước miếng lên sừng. Có năm bị giựt râu … Người khác kể rành rọt lớp lang ý chừng là dân cố cựu, nhao rún ở đây: -Từ hồi có trận chém lộn ở xóm họ đạo Chợ Đủi gần chỗ mả của Á Thánh Gẫm vì chuyện giành múa cho nhà thông gia của Bá hộ Xường, Sáu Tiết, anh chị của lân Cầu Muối, bị chém chết, đoàn lân rã đám. Nhưng Út Hồng, anh chị bự của lân Cầu Ông Lãnh, cứ cho làm chuyện kỳ cục này hoài. Mỗi lần coi là mỗi lần tức muốn bể bụng, nhứt là nhà mình ở xóm Cầu Muối. Tuy hổng ăn nhập gì tới mình, nhưng mà khó chịu … -Anh biết tại sao không? Út Hồng thấy một vùng nhỏ híu bằng bụm tay mà có hai anh hùng. Như nước có hai vua vậy mà… Làm sao anh ta chịu được nên bắt tay với đám “mã thầu dậu” ở Chợ Lớn, đám Tây u xếp tụi bồi bếp ở Bồn Kèn lừa dịp chém lén Sáu Tiết trong khi hai đàng đã hứa với nhau là bất tương xâm, chỗ ai náy ở, đường ai nấy đi… Ngừng một lúc như để lấy hơi, ông ta nói thêm, có dây có nhợ: -Tội nghiệp đám em út, lớp bị mua chuộc, lớp giải nghệ, tứ tán hết. Đã vậy mà Út Hồng còn chưa bằng bụng nên diễn tích nầy để làm nhục mấy tay anh chị còn sót lại của lân Cầu Muối chơi. Thêm nữa, để dằn mặt mấy người muốn làm sống lại đoàn lân cũ. Bây giờ họ một mình một chợ, muốn làm mưa làm gió gì hổng được? Ai vô đó mà cản họ? Nhưng mà… làm vừa vừa chứ. Làm quá ai mà nhịn… Lành nghe hết câu chuyện. Cô lắc đầu. Thiệt hết chỗ nói. Chết rồi mà cũng không yên. Người ta giải tán rồi còn kéo ra làm xấu làm hổ. Vậy cũng mang tiếng anh chị một khúc sông, một bến chợ. Người theo mình trùng trùng điệp điệp đâu cũng ngót nghét cả trăm có ai tranh cãi gì đâu? Làm chi chuyện thù vơ oán chạ. Nhẹ thể mà thêm mất lòng mất bề. Tiếng trống vẫn tiếp tục nhẹ nhàng, lơi nhịp. Con lân râu muối tiêu vẫn kiên nhẫn lòn tới lòn lui dưới chưn con lân râu bạc vênh vang. Những giọng cười thinh thích hăng hắc chen giữa những cái nhăn mặt xốn xang trong đoàn võ sĩ. Một vài tên anh chị đâu đây xì xào mấy tiếng chửi thề bất bằng “đ. họ” và những cái háy nguýt nháng lửa. Không khí căng thẳng như bữa dàn trận chém lộn hồi năm ngoái ở Lăng Tô giữa đám anh chị bên Khánh Hội với mấy tay tổ xóm Cầu Kiệu mà Tây Tà phải trầy vi tróc vẩy mới giải tán được… Nghe chuyện, mình là đàn bà con gái mà cũng giận tím gan, cũng bức rức khó chịu. Như bến mình đậu ghe thiếu mặt anh hùng. Như đã lầm trao thân gởi phận nhằm anh chồng bị thịt, giá áo túi cơm… Nhưng Lành không phải bực bội gì lâu. Chuyện tức nước bể bờ trước sau phải có… Con chó dồn nó vô chưn tường nó còn quay lại cắn, huống chi người. Một tiếng hét muốn bể lỗ nhĩ từ trong đám võ sĩ rồi một người hai tay cầm hai thanh mã tấu bự bản, đưa thẳng lên trời nói trong nước mắt: -Đại ca ơi… Em chết bữa nay. Em chịu hết nổi rồi. Tụi nó làm ô nhục mình quá. Em chết thiệt đẹp, thiệt ngọt để rửa nhục cho anh em mình nè đại ca… Anh ta hươi đôi mã tấu sáng loáng a thần phù vô chém con lân Cầu Ông Lãnh. Anh chàng múa lân hết hồn lật đật đưa đầu lân ra đỡ. Hai thanh mã tấu phụp xuống ngọt như thể lướt qua thân cây chuối non. Cái đầu lân bị xả làm ba miếng lủng lẳng trên nan tre. Một tiếng ra lệnh bằng giọng Việt Nam trại trại nhưng sắc như dao thét lên từ đám người bận đồ xá xẩu đứng lu bu chỗ ông địa làm trò. -Chém nó. Chém chết nó đi, thằng phá đám, thằng phản thùng … Đoàn người đi chợ Tết coi lân kinh hoàng chạy túa như ong bể ổ. Tiếng hét, tiếng la, tiếng dao chặt vô thịt, tiếng người ngã, cả thảy hợp thành một âm thanh khiếp đảm, chết chóc như trận giặc chòm. Lành bụm mặt chạy thục mạng để khỏi phải thấy loạn đao trên thân thể một người. Trong cơn hoảng hốt bất chợt Lành mơ hồ thấy người anh chị yên hùng đó có gương mặt phảng phất anh Nam… 3.
Nhiều lần bà chủ ghe liếc Lành chắc lưỡi nói với chồng: -Tội nghiệp. Con nhỏ sao mà như mất hồn. Nó lơ ngơ láo ngáo cả ngày. Điệu này làm sao nó kiếm cho được nhà bà con. Hổng biết rồi mình giải quyết làm sao. Bỏ thì thương, vương thì tội… Lành bắt gặp tiếng thở dài chấm câu sau câu nói. Tiếng thở dài thương hại đặc biệt đàn bà. Nàng nghĩ mau về Nam. Về Vân Tiên. Về Nguyệt Nga. Về trường hợp mình. Sao lại tự nối kết đời mình với một người chưa chắc đã biết tên mình, chưa tỏ một chút gì tình ý, hơn nữa đã chết rồi. Chắc mình bị oan hồn xui ghẹo. Hồn người chết đâm chết chém vất vưởng không siêu độ được phải tìm chỗ nào đó tạm trú. Làm cô hồn. Làm một thứ ma đưa lối quỷ đưa đường. Phải đi ra Một Hình van vái mới được. Mình thề sẽ thương yêu kính mến anh ấy trọn đời và cầu vong hồn anh được siêu độ. Vừa thề vừa vái. Một công hai ba việc. Bộ đồ bà ba cổ bà lai bà chủ cho hôm Tết được lấy ra mặc. Cái áo hơi rộng, nhưng coi bộ còn tốt, cái quần vừa vặn. Lành vắt ngang cái khăn rằn quanh cổ, buông lòng thòng hai đầu xuống, đong đưa trước ngực, xăm xoi ngó vô kiếng, mỉm cười với mình, rồi đon đả lên bờ. Trời xê xế, đèn đường bắt đầu được thắp. Trên đường Lò Heo, mấy con heo bị dồn trên xe cá chở vô lò kêu en ét buồn thảm đến nhức đầu. Phía gần Đường Giữa chỗ hẽm nhỏ nối với đường Boresse, xóm Lồng Đèn Kỹ Nữ, đã bắt đầu thắp sáng đỏ xanh. Lành bước mau, đỏ mắt vì mấy cái nhìn sàm sỡ của khách tìm hoa. Mấy cái xe kiếng lợp bợp móng ngựa trên đường chen với tiếng ken két ê răng của niền bánh nghiến trên mặt đường đá. Từ xa, xe lửa điện Sài Gòn – Chợ Lớn xẹt lửa trên nóc, in một đóm lửa tua tủa ra như pháo bông trong đêm càng lúc càng rõ, tới gần, qua mặt Lành rối ngưng ở nhà ga Cuniac. Lành vui vui với xứ văn minh về đêm. Đèn đuốc sáng trưng, người ta đi lại dập dìu. Chẳng bù với xứ khỉ ho cò gáy quê mình, mới sụp mặt trời ai ở nhà nấy, buồn thỉu, buồn thiu … Từ Một Hình, Lành thả dài theo bờ sông, về lại ghe, kiểng nhà thờ Nhà Nước rềnh rang đổ tám giờ. Nam thanh nữ tú dập dìu chỗ vườn bông Đô Đốc. Mấy thầy thông thầy ký mang giầy “ăn phón” da bóng ướt sức giở lên làm kiếng soi mặt nhổ râu được, áo bành tô vải ka ki bốn túi, đầu chảy bảy ba, cặp tay mấy cô tân thời, đầu tóc lòng thòng khỏi vai, có cái đuôi bánh lái, coi thiên hạ bằng nửa con mắt. Thấy xốn mắt. Đánh đôi đánh đo cũng có khi có thì, có nơi có chốn, sao lại đem ra chỗ thập mục sở thị. Mấy ông mấy ngài còn theo nếp xưa, áo dài nhiễu đại đóa dài tới gối, quần the rộng ống, chân mang giày Canavaggio, đội nón cối trắng, râu ngạnh trê vuốt sáp nhọn lễu, đề huề dạo với vợ con, nói năng nhỏ nhẹ, cử chỉ từ tốn. Mấy thầy chú ngó Lành lườm lườm như ngạc nhiên, như muốn nuốt sống. Con gái sao một mình lang thang chỗ này. Lăng Tô là chỗ của những cặp tình nhân, những người có gia đình. Lành thẹn thùng ngó xuống đất, rảo bước thẳng. Xứ gì kỳ cục, đàn ông, đàn bà cặp kè. Cột cờ Thủ Ngữ cao nghệu, Tây Tà rượu chè ồn ào thấy sợ. Phía cầu Quây, khúc giữa giòng sông đương được quay xuôi theo dòng nước nhường chỗ cho tàu đò chạy qua. Mấy người đi chơi đứng hai bên cái cầu thiếu đó cười cười nói nói, chỉ chỏ vui vẻ. Chuyện lạ lùng. Chừng nào về quê phải kể cho má nghe mới được. Cầu Quây đương là cầu biến thành sông. Từ bến Khánh Hội, mấy tay anh chị bến tàu thả xe đạp Alcyon trắng nỏn qua dốc cầu Móng dài dằng dặc. Coi vui vui. Tiếng người nào đó bên tai Lành nhột nhột khi Lành qua chỗ nhà băng xây bằng đá cao nghều nghệu. Xin lỗi cô Hai… dám nào cô dừng chân cho hỏi… Mắc cỡ đỏ mặt. Lành ngúng nguẩy bỏ đi. Chuyện chưa có gì hết nhưng mà thấy có tang lòng. Mấy lời van vái trước ông Một Hình làm mình nhẹ nhỏm hơn. Bây giờ trên tinh thần mình thuộc về hương hồn anh ấy. Phải xứng đáng với người chết anh hùng. Chết rửa nhục. Chết để khỏi cúi gầm mặt cho chúng bôi tro trét trấu. Thiệt thòi phận gái một chút cũng không sao. Thiên hạ có ai xứng đáng hơn đâu. Cuộc đời lạ lùng. Câu hò trên sông của tụi bối Ba Cụm ứng như lời thầy bói linh. Rồi đây cuộc đời mình tuy buồn thiệt nhưng đẹp, thơm như hoa dạ lý tỏa hương, như tiểu thơ họ Kiều kia thề không để tiếng chê cười, như người bội bạc: Dầu ai buông tiếng ngọc dầu ai đọc lời vàng bông sen hết nhụy bông sen tàn em đây giữ tiết như nàng Nguyệt Nga .... chớ không như Võ Hậu đời Đường làm cho bại hoại cang thường nhơ danh, chẳng thà nghèo khó ở túp lều tranh chớ không đành bội nghĩa như cha con Võ Công tham tài … Anh Nam đã thắp một ngọn đèn cho bạn hữu để họ thấy cái nhục. Rồi sẽ có những ngọn đèn khác. Rồi sẽ có người nhờ yến sáng đó mà mở mắt ra. Rồi những người trai trẻ đang rèn tập võ nghệ mỗi chiều ở đường Lò Heo sẽ thấy lại được cái nghĩa sống. Mình có đớn đau trong dạ cũng có nhằm nhò gì đâu đối với cái chết của người anh hùng. Lành nói với mình chắc như đinh đóng cột: “Mình sẽ thủ tiết. Phải thủ tiết. Có gió đông hung mới biết tùng bá cứng, có ngọn lửa hồng mới biết thức vàng cao. Mình sẽ ở vậy. Hay ít ra chờ đến khi gặp được một anh Nam khác.” Nụ cười sung sướng nở trên môi Lành. Bên kia sông mấy ngọn đèn lù mù trước mặt Sở Nhà Rồng bỗng nhiên sáng rực như nhà đèn Chợ Quán vừa đổ thêm than vô lò. Lành bước mau về phía Cầu Chong. Gần tới chỗ ghe đậu rồi. Phải thắp cho anh ấy mấy cọng nhang. Gió sông Quai de Belgique thổi lên phơi phới, mát rượi. Chỗ ga Cuniac, ban nhạc kèn đồng vẫn say sưa biểu diễn, âm thanh xập xình vang dội xuống mé sông làm bập bềnh mấy chiếc ghe thương hồ đương triền miên trong giấc ngủ. Lành mĩm cười, bước mau, trong trí vang dội mấy câu thơ Vân Tiên vừa chợt hiện: Trai thời trung hiếu làm đầu Gái thời tiết hạnh là câu trau mình … Nguyễn Văn Sâm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23733 |
![]() ![]() ![]() |
(Tự Lực văn Đoàn) DƯỚI ÁNH TRĂNG. Tác giả: NV. Khái Hưng - NV. Trần Tiêu. Người đọc: Thái Hoàng Phi <<<<<<![]() Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 24/Jul/2023 lúc 1:28am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23733 |
![]() ![]() ![]() |
Giấc Mơ Đoàn TụHình minh họa Một buổi chiều đẹp trời đầu tháng Sáu năm 1979, Ngọc bước xuống phi trường Mirabel của Canada. Hành lý chỉ là cái xách nhỏ chứa một ít áo quần cũ, không có tiền, không có việc làm, không có nơi cư ngụ, tương lai mờ mịt; thêm vào đó vợ chồng Ngọc còn nợ chính phủ Canada hơn CA$1500 tiền vé máy bay, vậy mà Ngọc thấy mình là người sung sướng nhất trên thế gian. Cùng đi với Ngọc là An (vợ), Ngộ(con trai nhỏ), và Xuân (em trai của Ngọc); tất cả đều vui mừng, sung sướng dù không biết tương lai sẽ ra sao. Tự Do! Vâng, Ngọc đến đây vì hai chữ Tự Do! Nay ước vọng được tự do đã thành đạt, đó là điều quan trọng nhất, tất cả những gì khác rồi cũng sẽ tốt hơn, Ngọc tự nhủ như thế. Ba tuần sau Ngọc được nhận làm họa viên cho công ty do một người gốc Tiệp làm chủ, ông này cũng là dân tị nạn cộng sản sau cuộc nỗi dậy năm 1968 nên khi phỏng vấn tuyển nhân viên công ty chú trọng đến khả năng chuyên môn và xem nhẹ phần ngôn ngữ. Trong văn phòng có nhiều sắc dân, có lẽ vì vậy mà môi trường làm việc rất cởi mở, dễ chịu. Ngọc được mọi người đối xử tử tế, không hề có chút kỳ thị. Một buổi sáng nọ Ngọc đến sở hơi sớm, gặp ông Chủ Tịch nhà máy (President) cũng vừa đến và mới bước ra khỏi xe; Ngọc chào “Good Morning Mr. President”, ông ta bắt tay Ngọc, mỉm cười nói “Hi, call me Peter, OK”. Ông đứng lại hỏi Ngọc về gia cảnh, về công việc và ông dặn dò “nếu gặp khó khăn cần công ty giúp đỡ thì đến gặp ông”, rồi ông nhường cho Ngọc đi vào văn phòng trước. Vào ngồi ở bàn làm việc Ngọc ngẫm nghĩ về bài học bình đẳng qua cách xưng hô và trò chuyện của ông Chủ Tịch nhà máy. Mới sang mà có việc làm ở văn phòng là một may mắn lớn, được như vậy là nhờ anh bạn thân làm cùng công ty ở Sài Gòn trước 1975 giới thiệu để được phỏng vấn (interview) và giúp Ngọc thực tập chút đỉnh về kỹ nghệhọa ờ Canada. Ngọc đi làm được tám tuần thì An cũng có việc ở một hãng điện tử nên phải gởi Ngộđi nhà trẻ. An làm việc được hai tuần thì Ngọc và An đi làm hồ sơ bảo lãnh Ba Má và hai em của Ngọc còn lại bên Việt Nam rồi gởi hồ sơ về bên nhà. Năm tuần sau thì có thư của ông Hai, Ba của Ngọc, cho hay đã nhận được hồ sơ bảo lãnh. Cuộc sống của vợ chồng Ngọc lúc ban đầu thật vất vả, ban ngày đi làm, tối đi học để mong lấy lại nghề cũ. Vì buổi tối phải có ngươời trông coi Ngộnên Ngọc và An phải thay phiên nhau đi học, Ngọc học các buổi tối hai, tư, sáu còn An thì tối thứ ba và thứ năm; vậy mà cuối tuần Ngọc cũng dành thì giờ để sinh hoạt cộng đồng. Tuy cực thật nhưng mọi việc diễn tiến tốt đẹp. Một hôm được thư nhà, ông Hai viết khá dài, kể chuyện bên nhà vẫn bình an, hỏi thăm Ngọc về những khó khăn bên Canada, ông Hai nói cả nhà đã tìm hiểu và suy nghĩ rất nhiều nên quyết định chờ đến lúc Xuân tốt nghiệp Đại Học thì mới sang Canada. Khi ra đi, Xuân đang học năm thứ Nhất ở TT Kỹ Thuật Phú Thọ, sang đây xin được vào Đại Học là mừng rồi. Làm việc ban ngày và đi học ban đêm thì giỏi lắm cũng phải mất 5 năm mới xong bằng Cử Nhân (Bachelor). Ngọc viết thư về thuyết phục Ba Má nên qua Canada càng sớm càng tốt, giải thích về chính sách xã hội với nhiều trợ cấp cho người dân khi gặp khó khăn, về hệ thống y tế bảo đảm mọi người dân đều được chữa trị miễn phí khi đau ốm phải vào bệnh viện, và nhiều ưu điểm khác của Canada.
Thư trả lời của ông Hai làm Ngọc buồn và thất vọng vô cùng, ông viết “chắc các con muốn Ba Má và hai em qua sớm nên kể những chuyện quá lạc quan như vậy, chứ làm gì có một chế độ tốt như thế”. Ông Hai có hứa sẽ suy nghĩ lại. Chuyện bảo lãnh gia đình của Ngọc cũng bắt đầu như nhiều người khác, nhưng kết thúc thật buồn, thay vì đoàn tụ thì lại chia lìa. Trong khi chờ Xuân ra trường thì một cô em lập gia đình, rồi ông Hai đau nặng và qua đời! Hung tin đến khi Ngọc đang bận rộn dọn nhà qua tỉnh bang Ontario để “tị nạn tiếng Tây”. Số người bảo lãnh thay đổi, việc làm thay đổi, và nơi cư ngụ thay đổi nên Ngọc phải đi điều chỉnh hồ sơ bảo lãnh rồi gởi về bà Hai (Má của Ngọc) để xúc tiến thủ tục xin đoàn tụ cho bà Hai và cô em còn độc thân. Thư của bà Hai không nói nhiều về cuộc sống bên nhà như ông Hai và làm cho Ngọc buồn và thất vọng hơn, Bà Hai viết “Ba con mới mất Má đâu có bỏ đi được, Má phải ở lại lo mồ mả cho ổng ít năm...”. Hai chữ “ít năm” làm cho Ngọc điên đầu vì nó có thể vài năm, năm năm hay lâu hơn! Gần cuối năm 1988 thì bà Hai biết tin nhà cầm quyền Hà Nội cho dân xuất ngoại thăm thân nhân, bà gởi thư qua bảo Ngọc tìm cách lo giấy tờ xin chính phủ Canada cho bà qua thăm. Sau một tháng tìm hiểu thì được biết Ngọc phải viết thư mời bà Hai sang thăm, bảo đảm mọi chi phí của bà trong thời gian ở thăm và bà phải trở về Việt Nam khi hết hạn, thêm vào đó phải có một người bảo lãnh (guarantor) xác nhận Ngọc có đủ khả năng tài chánh và cam kết là bà Hai sẽ trở về Việt Nam. Nơi Ngọc cư ngụ là một thành phố nhỏ cách Toronto khoảng 80 cây số, ít người Việt; Ngọc có quen một số nhưng dạm ý vài người thân nhất thì không ai dám đứng ra làm người bảo lãnh. Không tìm được đồng hương nào giúp bảo lãnh nên Ngọc tìm đến ông Dân Biểu Liên Bang (MP). Vị Dân Biểu này là BộTrưởng trong chính phủ nên cả tuần ông làm việc ở Ottawa, chỉ ngày thứ Sáu mới làm việc với cử tri ở địa phương. Ông là người khá nổi tiếng và uy tín, đã từng phục vụ cho Hải Quân Hoàng Gia Canada (Royal Canadian Navy) trong Thế Chiến II, là President và Vice-Chancellor của một Viện Đại Học lớn ở Ontario. Ngọc được cho cái hẹn lúc 2 giờ chiều. Sau hơn 10 phút trò chuyện để biết về chuyện vượt biên, gia cảnh và cuộc sống của Ngọc trong những năm ở Canada thì ông đi thẳng vào vấn đề, ông hỏi Ngọc muốn ông giúp chuyện gì. Ngọc trình bày chuyện bảo lãnh bà Hai qua thăm và nhờ ông làm “guarantor”. Khi ấy Ngọc thấy niềm hy vọng được ông giúp quá mong manh vì Ngọc mới ở thành phố này có 4 năm, và đây là lần đầu tiên gặp ông. Tưởng sẽ bị từ chối một cách lịch sự, không ngờ ông vui vẻ nhận lời, Ngọc vui mừng vô hạn và chân thành cám ơn ông. Một tuần sau, cũng chiều thứ Sáu, Ngọc trở lại văn phòng vị Dân Biểu khả kính ấy để nhận thư bảo lãnh, ông bảo Ngọc mở ra xem và cần thay đổi hay thêm gì thì cho ông biết. Ngọc thấy thư viết đúng những gì mình mong muốn, Ngọc sung sướng lắm, cám ơn ông rất nhiều rồi xin cáo từ; ông tiễn Ngọc ra cửa, chúc Ngọc sớm được gặp lại mẹ. Ngọc cầm bao thư mà trân quý như một bảo vật. Trên đường về Ngọc suy nghĩ miên man về sự giúp đỡ của vị dân biểu, Ngọc không ngờ mình được đối xử tử tế như vậy; ông đã giúp Ngọc như giúp một thân nhân hay một người quen; có lẽ chỉ những quốc gia văn minh, nhân bản mới có những vị dân cử phục vụ người dân tận tình như vậy, khác hẳn với Việt cộng, chỉ tìm cách làm khó khăn để cướp tiền dân! Gần hai tháng sau Ngọc được thư nhà cho hay bà Hai đã được tòa Đại sứ Canada ở Hà Nội chấp thuận cho du lịch Canada ba tháng. Cả nhà Ngọc và Xuân mừng lắm, vợ chồng Ngọc và Xuân vội vàng mua vé máy bay gởi về, khi ấy là đầu tháng 1/1989. Vé máy bay khứ hồi, Sài Gòn-Montreal- Sài Gòn. Từ Sài Gòn qua Bangkok đi Air France, Bangkok-Paris (France) đi KLM, và Paris-Montreal đi Air France. Ngọc, An và Ngộ đến Montreal trước một ngày để cùng Xuân đón bà Hai. Chuyến bay Air France đến phi trường Mirabel (Montreal) vào lúc 1:35 PM, trễ hơn giờ ghi trong vé khoảng 25 phút, vợ chồng Ngọc và Xuân chăm chú nhìn hành khách đi ra mà lòng mừng vui, tưởng tượng hình ảnh Má đến một xứ xa lạ, lạnh lẽo nhất thế giới vào giữa mùa Đông mà thấy thương Má vô cùng. Hết hành khách này đến hành khách khác ở phòng hải quan đi ra mà không thấy bà Hai, rồi không thấy hành khách nào nữa. Hơn nửa giờ sau vẫn không thấy bà Hai, rồi hơn một giờ sau cũng vẫn không thấy! Niềm vui vài giờ trước đây đã hoàn toàn tan biến, và thay vào đó là nỗi lo âu. Tìm đến gian hàng Air France hỏi tin bà Hai thì họ bảo tên bà cụ không có trong danh sách hành khách (flight list)! Cô nhân viên xem lại flight list rất kỹ rồi xác nhận là không có tên bà Hai, vợ chồng Ngọc và Xuân bàng hoàng, sửng sốt. Lẩn quẩn ở phi trường cũng lâu mà không biết phải làm gì, Ngọc, An và Xuân suy nghĩ nát nước vẫn không giải thích được sự “mất tích” của bà Hai. Ngọc trở lại gian hàng Air France hỏi xem còn chuyến bay nào nữa từ Paris đến Montreal trong ngày đó thì được biết là không có. Về lại nhà Xuân ở Montreal thì đã tối, việc đầu tiên là gọi điện thoại về Việt Nam. Nhờ Cậu họ của Ngọc ở Bảy Hiền có điện thoại nên việc liên lạc với hai em ở Sài Gòn cũng không khó khăn lắm. Ngọc gọi được Cậu liền nhờ nhắn hai em lên nhà Cậu để nói chuyện cho biết diễn tiến chuyến đi ở bên nhà. Bắt đầu cuộc điện đàm Ngọc hỏi ngay: - Má đi lúc mấy giờ? - Dạ chuyến bay của Má bị trễ hơn 5 tiếng đồng hồ - Sao vậy? - Họ không cho Má đi chuyến Air France từ Sài Gòn qua Bangkok, họ nói vé đó không hợp lê, và buộc Má phải mua vé Vietnam Airlines, và trả bằng đô la Mỹ chính thức (không được trả bằng đô la mua ở chợ trời). - Vậy thì tiền đâu mua vé? - Cũng may là anh Phanh, con của Cậu, ở bên Mỹ về thăm nhà nên có đô la chính thức, tụi em mượn tiền đó mua. Nghe chuyện này Ngọc không nén được cơn giận nên kết thúc cuộc điện thoại rồi lẩm bẩm chửi thề “bọn ăn cướp khốn nạn”. Ngọc tin rằng những người ngoại quốc mua vé cùng chuyến bay Air France từ Sài Gòn qua Bangkok không bị buộc phải đổi vé như bà Hai, Ngọc tin chắc như vậy vì Việt cộng chỉ dám bắt nạt người dân Việt nhưng lại sợ dân nước ngoài. Vợ chồng Ngọc và Xuân biết là bà Hai không bắt kịp chuyến bay KLM và phải ở lại phi trường Bangkok qua đêm, hy vọng bà sẽ đến Montreal ngày hôm sau. Nghĩ vậy nhưng lo sói đầu, bà Hai không biết tiếng Anh, tiếng Pháp thì làm sao xoay xở được. Chuyện đổi chuyến bay ở một phi trường quốc tế như Bangkok sẽ vô cùng khó khăn, phức tạp với bà, làm sao tìm cho ra quầy vé, chuyến bay, cổng khởi hành ... Càng suy nghĩ về những khó khăn mà bà Hai sẽ phải đương đầu Ngọc càng lo đến điên người. Trở lại phi trường Mirabel với hy vọng mong manh, bao lo âu vẫn quanh quẩn trong đầu Ngọc. Trong khi chờ đợi thì An điện thoại người bạn hỏi thăm chuyện mua vé khẩn cấp đi Bangkok, An nói “nếu hôm nay Má không đến thì chắc anh phải bay qua Bangkok vài ngày tìm Má”, Ngọc bằng lòng ngay, và Ngọc thấy yên tân phần nào vì ít ra cũng có giải pháp. Bà Hai xuất hiện giữa đám hành khách như một phép lạ, Ngọc, An và Xuân vui sướng vô cùng, vui hơn lúc đầu đặt chân đến phi trường này gần mười năm trước. Tưởng bà Hai lo âu, mỏi mệt sau chuyến bay dài và một ngày bị ở lại Bangkok, nhưng thật ngạc nhiên khi thấy bà khỏe và vui. An hỏi: - Bị kẹt lại ở Bangkok Má có sợ không? Bà Hai đáp ngay: - Sợ chi con, đi thăm các con và thằng Ngộ thì Má chẳng sợ chi hết; hơn nữa có nhiều người Việt trong chuyến bay đó nên Má chỉ theo họ là xong. Ngọc biết Má nói thật chứ không phải nói để trấn an mình vì khi tình thương con dâng cao thì bà mẹ can đảm phi thường. Gặp nhau sau gần 10 năm xa cách nên Ngọc, An, Xuân và bà Hai có biết bao nhiêu điều để nói; chuyện vui thì ít, chuyện buồn thì nhiều. Có một chuyện quan trọng nên Ngọc hỏi: - Bây giờ sang đây rồi, Má ở lại luôn với tụi con nghe Má? Không cần suy nghĩ bà Hai nói: - Khi biết tin nhà nước cho đi thăm thì Má nóng lòng muốn qua thăm các con rồi mới tính chuyện đoàn tụ. Chính phủ Canada có tìm Má để phỏng vấn, mấy đứa lấy hẹn rồi nhưng Má tránh, chưa muốn gặp họ. Sau hai ngày ở với Xuân thì Ngọc đưa bà Hai về nhà. Trên đường đi dài hơn 600 km bà Hai bận rộn kể chuyện bên Việt Nam nhưng không quên ngắm cảnh hai bên đường. Khi đi ngang qua Toronto bà hỏi: - Sao ở đây họ làm nhiều cầu quá hỉ, Má đếm không kịp. Ngọc ngạc nhiên và vui với câu hỏi đó, Ngọc đã lái xe ở Montreal và Toronto rất nhiều lần nhưng chẳng bao giờ để ý đến những cây cầu (overp***) trên xa lô, Ngọc xem đó là chuyện “dĩ nhiên” phải có khi làm xa lộcao tốc (freeway) chạy qua thành phố. Những ngày ở Montreal rất vui vì con cháu luôn luôn bên cạnh, bà Hai lại có dịp thăm bà Ấm, mẹ của An, và các anh chị của An. Về nhà Ngọc thì vắng vẻ, nhất là những ngày trong tuần. Cũng may là Ngọc ở gần sở làm, lái xe đến sở mất 5 đến 8 phút tuỳ theo đèn đỏ nên trưa về nhà dùng cơm với bà Hai. Mỗi lần mở cửa vào nhà đều thấy bà Hai ngồi ở phòng khách nhìn ra, trông đợi! Hơn 4 giờ ở nhà một mình, giữa mùa Đông vô cùng lạnh lẽo của Canada, không dám đi ra ngoài vì rủi ro bị vấp ngã thì nguy đến tính mạng; Ngọc thấy thương Má đến ứa lê. Bà Hai là người thích nhà đông đúc, bên Việt Nam bà có cửa tiệm nho nhỏ lúc nào cũng có người vào, người ra; bây giờ đơn độc cả ngày, không phải chỉ vài ba ngày hay một tuần mà phải chịu đựng ba tháng liệu bà có cầm cự được không? Sợ bà Hai buồn, chán nên vợ chồng Ngọc lấy thêm ngày nghỉ Hè đưa bà Hai đi Montreal thăm Xuân và đón bà Ấm về nhà Ngọc để bà Hai có bạn khi vợ chồng Ngọc đi làm. Bà Ấm lớn hơn bà Hai, tuy hai bà là sui gia nhưng coi nhau như chị em ruột, từ đó mỗi khi về dùng cơm trưa Ngọc thấy bà Hai vui hơn. Ở được một tháng thì bà Ấm trở về Montreal. Trong thời gian bà Hai qua thăm, Ngọc và An thấy những ngày làm việc trong tuần dài lê thê, chỉ mong cho hết để về nhà với bà Hai. Cuối tuần nào cũng đưa bà Hai đi phố nhưng bà chẳng tha thiết đến chuyện mua sắm, An đề nghị mua cái gì bà cũng nói “không cần đâu con” hay “mua nhiều đồ Má mang đi không nỗi đâu”. Thật ra bà Hai ăn mặc rất đơn giản, những cửa hàng áo quần thời trang, đẹp với phẩm chất tốt không làm cho bà chú ý. Ở nhà hay đi phố bà chỉ muốn nói chuyện, những chuyện khi còn cơ hàn ở ngoài Trung, chuyện lập nghiệp ở Sài Gòn, những chuyện khi ông Hai còn sống. Nhiều khi vào thương xá (shopping malls) bà muốn tìm chỗ ngồi để trò chuyện, bà nói “lúc này chân Má hơi yếu, đi một hồi thấy đau”. Ngọc và An có đưa bà đi khám và bác sĩ nói đó là bịnh phong thấp của người già, khó mà chữa cho dứt. Một hôm vào đầu tháng 3/1989, Ngọc đang làm việc thì điện thoại reo, nhấc lên thì bên kia đầu dây là một người đàn ông xưng là Philip, nhân viên sở Di trú Canada, anh ta than phiền: - Chúng tôi muốn gặp mẹ ông để phỏng vấn cho bà đi đoàn tụ, hẹn ba lần rồi mà đến phút cuối thì bà xin huỷ, lần đầu nói bị đau nặng, lần thứ hai nói đi thăm người em ở Đà Nẵng về không kịp, lần thứ ba thì nói đi thăm con chưa về; xin ông cho biết bà đang ở đâu và khi nào chúng tôi có thể gặp? Ngọc thấy đến lúc phải nói thật với họ rồi chuẩn bị hai lỗ tai để nghe những lời khiển trách đầy giận dữ nên lấy hết can đảm trả lời: - Thưa ông, bà cụ đang ở đây với tôi, bà sang thăm tôi theo diện du lịch. Thật ngạc nhiên, anh ta không nổi giận mà còn ôn tồn với Ngọc: - Chúc mừng ông gặp lại mẹ, nếu bà muốn ở lại Canada theo diện đoàn tụ thì ông cho chúng tôi biết để hợp thức hóa cho bà.
Sau khi cuộc nói chuyện chấm dứt, Ngọc rất vui mừng vì chuyến đi thăm của bà Hai không làm tổn hại việc đoàn tụ, nhưng chỉ vài phút sau Ngọc thấy xót xa cho quê hương Việt Nam của mình, thay vì phục vụ cho dân thì nhà cầm quyền lại tìm mọi cách gây khó khăn để moi tiền dân, một bà cụ đi thăm con cũng bị chúng chận lại thâu tiền mãi lộ! Chiều về, kể chuyện cho bà Hai nghe thì bà ngạc nhiên hỏi: - Sao họ tốt quá vậy con? Nếu người khác kể thì Má không tin đâu, làm gi có một chính quyền tốt như vậy. Ngọc nhớ trước đây ông Hai cũng hỏi một câu tương tự “làm gì có một chế độ tốt như thế”. An liền hỏi bà Hai: - Họ đã nói như vậy thì Má ở lại đây luôn với tụi con nghe Má, anh Ngọc sẽ lo điều chỉnh giấy tờ đoàn tụ. - Chắc Má về khi hết hạn du lịch, trước đây Má chịu đi đoàn tụ vì đó là con đường duy nhất để gặp các con, nay “tụi nó” cho đi du lịch thì vài, ba năm Má sẽ qua đây một lần để thăm các con. Những ngày có bà Hai qua rất nhanh, rồi đến lúc bà phải trở về Việt Nam. Khi làm thủ tục ở quầy hàng Air France Ngọc nói với họ là “bà cụ này chân yếu, đi khó khăn, không nói tiếng Anh hay tiếng Pháp nên cần sự hướng dẫn và giúp đỡ (escort service) trong các chuyến bay," thế là họ đem xe đẩy đến. Sau vài phút bùi ngùi từ giã con cháu thì bà Hai được họ đưa ra phòng đợi trước khi lên máy bay. Hai hôm sau, bà Hai và mấy em điện thoại qua cho biết là đã về nhà bình yên, bà kể rằng họ lo cho bà rất chu đáo, đến phi trường nào cũng có người đem xe đẩy ra đón, rồi đưa vào phòng nghỉ, chuyện đổi chuyến bay họ lo hết, trên máy bay thì mấy người tiếp viên hay đến đưa nước uống, rồi bà hỏi Ngọc: - Con trả bao nhiêu tiền mà họ phục vụ cho Má chu đáo quá? Ngọc liền giải thích: - Không tốn đồng nào đâu Má ơi, sự phục vụ của các hãng máy bay bên này là như vậy, luôn giúp đỡ những hành khách có khó khăn như già cả, tật nguyền. - Thiệt không con, đừng giấu Má nghe. - Dạ thiệt đó Má. - Sao bên đó chỗ nào người ta cũng tử tế, khác hẳn bên nhà! Nghe bà Hai khen như vậy Ngọc liền hỏi: - Vậy Má qua thăm tụi con mỗi năm nghe Má? Im lặng vài giây mới nghe bà Hai nói: - Mỗi năm chắc Má không đi được đâu, nhưng vài ba năm nữa Má sẽ qua. Đó là chuyến đi ngoại quốc đầu tiên của bà Hai, và cũng là chuyến đi cuối cùng. Hơn hai năm sau bà Hai ra đi về cõi vĩnh hằng, để lại cho Ngọc nỗi đau lớn nhất trong đời! |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23733 |
![]() ![]() ![]() |
Mồ côi Trong giấy khai sinh của tôi, dòng “họ và tên cha” ghi “đã mất”. Tôi được định danh trên cuộc đời là đứa trẻ mồ côi, lớn lên trong tình thương của má và ngoại. Từ cấp một, tôi đã phải bươn chải nhiều hơn bạn bè. Dù nhỏ thó, tôi lên núi đốn củi, bứt mây, đi nhặt sắt vụn để bán kiếm tiền mua gạo. Suốt thời tiểu học, trung học, nhà tôi thắp đèn dầu với chiếc bóng hột gà leo lắt.Nhưng khó quên nhứt là chuyện lớn lên không có ba. Ngoại hay nói, con không cha như nhà không nóc, rồi giải thích, gió mưa dễ lồng vào làm ướt hết những ai trong đó. Đúng là nhà không có nóc, chuyện nặng nhọc gì má và tôi cũng tự làm, có khi mệt mỏi đến muốn ngã gục. Cũng những ngày Trung thu thế này, năm tôi lên tám, má tự tay làm cho chiếc đèn ông sao mà giấy dán là tập vở cũ của năm học trước. Má bán mấy nải chuối cau cho người ta cúng rằm để mua cho tôi chiếc áo trắng, vì trung thu cũng là tháng tựu trường. Lớn thêm một chút, tôi tự làm lồng đèn để chơi. "Không có ba, con phải ráng nhiều hơn", má nói. Khi mới 15 tuổi, dù thương con, má cũng ngậm ngùi để tôi lặn lội từ Quảng Nam ra Đà Nẵng làm thuê lấy tiền đi học tiếp. Điểu, bạn đi cùng cũng mồ côi như tôi, chỉ khác là mất mẹ. "Tụi mình cứ đi đại, xin chỗ mô đó để làm", Điểu nói, tôi gật đầu. Chuyến xe đò chở hai đứa chòng chành qua Đèo Le ngoằn ngoèo, đường tỉnh lộ 610 hồi đó chưa rải nhựa, xe đò cũ kỹ vài lần chết máy. Đà Nẵng đông người đến chóng mặt. Quán cơm gà đường Nguyễn Chí Thanh chịu tuyển hai đứa tôi vào làm trong hơn hai tháng hè, lương 200.000 đồng một tháng. Bà chủ gần 70, giọng Huế bảo: "Tụi bây còn nhỏ vậy làm có nổi không, thức khuya dậy sớm đó nghe". Chúng tôi hứa đáp ứng mọi tiêu chí của bà, "vậy thay đồ tươm tất xuống phục vụ bàn". Đôi chân tôi mỏi nhừ khi đứng chờ khách vào sẽ tiến lại hỏi dùng gì, ghi thực đơn, đem xuống nhà bếp. Hết khách thì chia nhau rửa ly chén, chà toilet, quét dọn phòng ăn, dọn rác. Gần nửa đêm mọi việc mới xong. Sáng hôm sau, năm giờ tôi đã được "dựng" dậy, giặt khăn lau bàn, lau nhà, sơ chế gà, rau, củ quả, cọ rửa. Tôi dần thích nghi với những lời sai biểu của gia đình chủ. Đứa nhỏ bằng tuổi tôi kêu: "Ê, Long, bưng tao ly nước". Bà chủ nhắc liên tục: "Tụi bây rửa ly không sạch là bị trừ lương, đứa nào bưng bể cái chén là mất 10 ngàn đồng". Phải thức khuya dậy sớm liên tục, chúng tôi làm trong tâm thế sợ hãi vì quá mệt và lỡ bị trừ lương thì còn đâu để trang trải tiền học. Rất nhiều lần, tôi khủng hoảng tinh thần khi hỏi: "tại sao ba lại không nuôi mình?". Sau mùa hè đó, chỉ có tôi về quê tiếp tục việc học, Điểu ở lại Đà Nẵng làm thuê. Tôi may mắn hơn vì má và ngoại đã quyết định "khó mấy cũng ráng cho thằng Long học". Cho đến tận bây giờ, gia đình tôi chưa bao giờ khá giả. Khó khăn rèn cho tôi sự kiên nhẫn và cũng dạy tôi "Không buồn thương sao biết chuyện con người?", như Thiền sư Thích Nhất Hạnh viết. Đại dịch khiến 1,5 triệu trẻ em trên toàn cầu đã mất đi người nuôi dưỡng. Con số chưa đầy đủ và chỉ riêng tại TP HCM, hơn 1.500 học sinh phải mồ côi. Con số ấy làm tôi cảm thấy chới với một lần nữa, như lúc tôi đã lớn và biết được ba tôi chưa chết. Ông chỉ chối bỏ tôi từ lúc chưa sinh ra và cũng chưa bao giờ thấy mặt tôi. Với tôi, ông cũng như không còn vì không hiện diện suốt quãng đời khó khăn nhứt của tôi. Má tôi đã kịp lấp đầy khoảng trống đó bằng tình yêu vô điều kiện. Nhờ đó, tôi biết chắc rằng, hạnh phúc hoàn toàn tồn tại trong những ngôi nhà khuyết một người trụ cột nếu ta không may không đủ cả cha mẹ như người khác. Liên Hợp Quốc khuyến khích trẻ em bị mất người nuôi dưỡng được sống với họ hàng gần nhất như ông bà, cô dì chú bác, cũng như ông bà ta có câu "sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì". Trước Covid, Việt Nam đã có tới 157.000 trẻ mồ côi cả cha và mẹ, trẻ bị bỏ rơi và không nơi nương tựa trong tổng số 1,4 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Tôi mong sẽ có nhiều gia đình Việt Nam dang tay đón trẻ mồ côi về nuôi, nếu chúng cũng không còn họ hàng gần có thể cưu mang tốt nhất. Covid là dịp để phát huy văn hóa nhận con nuôi ở nước ta thành việc thông thường hơn, như xã hội phương Tây đã phát triển nhiều năm trước. Đó là lý do nhiều nước châu Âu và Mỹ hiện không còn các trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi tập trung toàn thời gian. Chính sách quản lý trẻ mồ côi và nhận con nuôi hoàn thiện đã giúp những đứa trẻ mất cha mẹ mau chóng có mái ấm mới. Sau khi có gia đình mới, trẻ hoàn toàn có thể theo học tại các cơ sở tập trung như trường nội trú theo nhu cầu. Tại Việt Nam, chính phủ, những tổ chức xã hội công và tư ngay bây giờ có thể phát động chiến dịch nhận con nuôi dù đó là dì, chú, bác hay ông bà của các cháu hoặc bất kỳ ai có tấm lòng và thời gian cho một cuộc đời khác. Chúng ta có thể tìm hiểu nhu cầu của từng đứa trẻ mất cha, mẹ do Covid để trao cho em điều cần nhất. Đến tận bây giờ, tôi vẫn không thích những lời thương hại, "tội nghiệp, nó mồ côi; thằng nhỏ không có ba, thôi giúp nó"... Câu nói như xát muối vào lòng. Rất nhiều lần, tôi bị gọi đi để nhận những món quà thời vụ, những chăm lo "phong trào", được giúi vào tay vài món quà tượng trưng và chụp hình. Nhưng hồi đó tôi còn nhỏ, chứ bây giờ tôi sẽ từ chối nhẹ nhàng. Nỗi sợ nhất trong đời này không phải nghèo khó mà là không được thuộc về nơi nào có tình yêu thương. Cách chúng ta đối xử với trẻ thiệt thòi bây giờ cũng chính là kết quả ta sẽ nhận về trong tương lai. Lưu Đình Long |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 201 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |