Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 200 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23640
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 22/Aug/2023 lúc 8:40am

Dù Nắng Có Mong Manh 


Mẹ thoi thóp thở, mắt nhắm nghiền trên giường bệnh tại một bệnh viện khá nổi tiếng ở Vancouver, trên gương mặt những dấu vết đau khổ chưa phai, hai vạch giữa đôi lông mày hằn sâu tự bao giờ, nơi khóe miệng mẹ những nếp nhăn đã lộ rõ. Mẹ là người hay lo chăm chút sắc đẹp của mình, một vết chân chim nhỏ cũng sợ xấu xí, thế mà bây giờ nằm yên trên giường, mặc cho đầu tóc bù rối, cái đuôi tóc hất hững hờ trên chiếc gối trắng tinh của nhà thương, được cột sơ sài bằng cọng thung đi chợ, chiếc áo xộc xệch khuy cái cài cái đứt, quần thì cột bằng sợi dây thòng lọng cho khỏi tuột, đôi dép để dưới giường không cùng màu… mẹ nằm lọt thỏm, thân người bẹp sát trên chiếc giường lạnh lẽo, người teo tắt, đã xuống đến 20 lbs không ngờ được!

     

Tôi ngồi yên không dám gây nên tiếng động, ngắm nhìn mẹ trong giấc ngủ, chắc mẹ mệt ghê lắm, đau ghê lắm, đau từ trong lòng, từ trái tim đã bị đâm xuyên thủng lỗ, xé toạc, những dòng nước mắt vằn vện trên khuôn mặt đã tự nó khô đi chưa kịp được lau chùi, mẹ đã bị té xỉu vì tension lên quá cao, may mắn sao dì tôi đã có mặt vào lúc ấy và gọi xe cứu thương kịp lúc chứ không thì nhiều chuyện không hay sẽ xảy ra vì mẹ đã sẵn đủ thứ bệnh trong người rồi!

     

Lúc nãy, tôi vừa đi học về được tin mẹ, hớt hãi chạy vội vào nhà thương, bác sĩ nói:

     - Mẹ cô vừa bị tiểu đường, lại bị tension quá cao, đã xuống đến 20 lbs, mà đã ngất xỉu như thế này 3 lần trong một tháng rồi… nếu không lo lắng đến sức khỏe thì thật nghiêm trọng lắm! … Tôi cảnh cáo đấy!

     - Bác sĩ ơi, hãy ráng giúp mẹ con nhé!... Mẹ mà có mệnh hệ gì thì con không sống nổi đâu!

     - Cô cũng học trong nghề bác sĩ, sắp ra trường thì cũng biết rồi đấy, cái gì mình cố gắng quá, không ngủ đủ giấc, không cho thân thể này ăn uống, tẩm bổ mà chỉ biết lạm dụng hoặc xả láng quá độ cũng sẽ làm tổn thương đến nó! … Coi vậy chứ nuôi cái thân bé bỏng của mình cũng thật không dễ!

     

Dòng nước mắt nóng hổi bỗng nhiên chảy dài xuống má, tôi thổn thức tức tưởi:

     - Có phải tự nhiên mà mẹ con ra nông nỗi này đâu! Mẹ đã sống cho bố, cho chúng con, lo toan từng miếng ăn giấc ngủ cho cả gia đình… thế mà… Con xin lỗi! Con không thể kể câu chuyện xấu hổ này cho ai nghe được cả, con biết người có lỗi không phải mẹ đâu, thưa bác sĩ! … Con không muốn ai biết đến chuyện không hay này! … Xin bác sĩ hãy giúp đỡ cho gia đình con, giúp mẹ con vượt qua sự hiểm nguy này, vì nếu mẹ có “sao” thì con không biết sống ra sao nữa… Bác sĩ hãy giúp con! Bác sĩ…

     

Bác sĩ đưa tay đỡ lấy tôi khi cả người tôi gục xuống, muốn quỳ lạy ngay dưới chân người trong một lúc vô cùng tuyệt vọng, tôi không muốn mất đi mẹ trong lúc này đâu, chúng tôi phải đấu tranh, phải là những người thắng cuộc mới được vì chúng tôi có lẽ phải, không thể để cho người thứ ba chen vào đây! mẹ còn có các con ủng hộ!

     

Ông khẽ đặt tôi ngồi xuống chiếc ghế đẩu bên cạnh giường mẹ, trấn an:

     - Con đừng lo lắng quá, hãy chờ mẹ con dậy, nói chuyện nhẹ nhàng, cho mẹ uống nước, ăn những đồ nhẹ, tránh nói những chuyện quá khích để bà sẽ dần phục hồi, nhớ nghe lời tôi dặn, tránh những chuyện buồn, quá lo lắng để bà được yên tâm dưỡng bệnh, con làm được việc này không?

     - Vâng! Con hứa sẽ tránh những chuyện làm mẹ con buồn, con cám ơn bác sĩ thật nhiều ạ!

     - Vậy tốt rồi, con ngồi đây canh mẹ, khi nào bà tỉnh thì gọi cô y tá đo nhiệt độ và lấy mẫu máu nữa nhe, chúc con may mắn!

     

Ông rời khỏi phòng, tôi với lấy chiếc bình thủy đựng nước sôi đổ vào bát có sẵn bột gruau (1) với sữa sấy khô, đậy nắp cho kín để nở ra, chờ mẹ dậy sẽ đút cho mẹ ăn.

     

Nhìn đôi mắt thâm quầng, nhắm nghiền của mẹ, chắc mẹ mệt lắm nên ngủ từ chiều hôm qua đến giờ mà chưa thấy dậy, thương mẹ quá!

Tôi nhớ lại cảnh cắng đắng và những lời nói cay nghiệt thay lòng đổi dạ kỳ khôi của bố từ vài tháng nay.

Hôm ấy tôi vừa đi học về hơi trễ, ghé qua nhà bố mẹ để đón thằng cu về nhà, vừa mở cửa vô tôi đã nghe tiếng khóc oà vỡ của mẹ, giọng đay nghiến của bố:

     - Bà và tụi nhỏ sửa soạn dọn ra khỏi nơi đây càng sớm càng tốt, tôi sẽ mua một căn nhà nhỏ khác cho mọi người…

     - …Còn căn nhà này?

     - Căn nhà này tôi sẽ cho người sửa sang mới lại để đón tiếp … người mới…

Khuôn mặt hốt hoảng ngạc nhiên của mẹ giương lên nhìn bố, nửa tức giận nửa thách thức gằn giọng:

     - Căn nhà này của tôi và ông đã mua từ khi mình mới lấy nhau, bây giờ hai đứa lớn đã có công việc riêng của nó, đã ra ngoài, nhưng còn thằng Út Nấm, nó chưa học xong, cũng chả có nghề ngỗng gì, nếu ông không muốn nhìn đến mẹ con tôi nữa thì hãy ra ngoài mua căn nhà khác với con yêu tinh của ông, chứ mẹ con tôi nhất định không đi đâu hết! Già hai thứ tóc, gần đất xa trời rồi mà còn không nên nết… Con yêu tinh ấy có gì hơn tôi mà ông phải đuổi mẹ con tôi đi để cho nó ở căn nhà này chứ? Nó đáng tuổi thằng Luyện, con đầu của mình, học hành thì chả có bằng cấp gì, ông thử so sánh nó với con ông xem đứa nào hơn?!

     - Tôi không cần đứa giàu có bằng cấp gì cả, tôi chỉ muốn sống cuộc đời của tôi vào cuối đời mà thôi, tôi đã cho bà và tụi nhỏ cả cuộc đời và tuổi trẻ rồi, thế là đủ! Bây giờ tôi muốn sống bên cạnh người đã giúp tôi quản lý cái phòng mạch, nhờ cô ấy mà tôi đã có bao nhiêu lợi nhuận từ cả năm nay, cô ta biết lo cho tôi từ cái ăn cái uống khi tôi vào phòng mạch, đi bên cô ấy tôi cảm thấy mình trẻ ra nửa số tuổi, tôi yêu đời hơn, tôi ham sống …

     - Thôi đi, ông đừng có lên giọng mà tự làm nhục mình nữa… Ai đã làm cơm cho ông mỗi chiều đi làm về, ủi từng bộ đồ cho ông mặc… mà còn đề cao con nửa người nửa ngơm của ông? Hồi xưa không có nó trong phòng mạch vẫn có tiền vào, sao tôi không nghe ông kể công cho tôi? Vì chính ông bảo tôi nên ở nhà lo cho các con có cơm nóng ăn khi tụi nó đi học về, lo nhà cửa chợ búa, và không muốn tôi lên trên ấy nữa, nên tôi mới ở nhà thôi, chứ tôi có thua gì ả! Ông đã thay lòng đổi dạ, đội cái con đáng tuổi con cái mình lên đầu, mà còn vênh váo đuổi mẹ con tôi…

     - Mẹ con bà chỉ biết xài tiền của tôi thôi, không làm gì để đẻ ra lợi cả, còn cô ta thì một tay lo hết sổ sách, kế toán, chi tiêu cho toàn bộ nhân viên và phòng mạch, vả lại cô ta biết lo sức khỏe cho tôi, đi bên cạnh cô ta thật nở mặt nở mày, chứ không như bà, một bình hoa đã tàn úa, chỉ đáng dẹp vào xó…một bị thuốc biết đi, chỉ ăn hại, …càng nhìn càng chán!

     

Mẹ tôi nức nở khóc trong cơn tức giận như trận phong ba đang ập xuống đầu, không ngờ người chồng đầu ấp tay gối của mình từ 30 năm nay một sáng một chiều lại muốn đuổi cả mẹ con tôi ra ngoài để lấy lại căn nhà cho người tình trẻ, mới quen về ở!


*     

Vào những lúc chỉ có hai mẹ con rảnh rỗi, mẹ thường hay kể về cuộc tình của bố và mẹ thuở ấy lãng mạn tình tứ đến thế nào; mẹ là cô gái thật xinh đẹp, tài năng, đã bao người đàn ông theo tán tỉnh nhưng mẹ vẫn một mực yêu bố cho dù thua bố đến gần hai chục tuổi, cả hai thật tâm đầu ý hợp, bố là một bác sĩ đã thành danh, còn mẹ mới chỉ là cô gái vừa ra trường, mẹ yêu bố vì sự chững chạc, chân thật, phục bố vì nhân cách và học ở nơi người yêu mình những xử sự đúng đắn ở đời, bố đối với mẹ không chỉ là người anh, người bạn mà còn là người thầy trong cuộc sống, mẹ mới ra trường chưa biết nhiều về cách sống làm vợ làm mẹ, nhưng vẫn cố gắng học cách nấu nướng để tầm bổ cho bố, lo toan mọi việc trong nhà để đem lại sự bình yên thanh thản nhất cho bố yên tâm lo phòng mạch!

     

Khi bố mẹ tôi đã có với nhau ba mặt con, mẹ vẫn giúp bố làm thư ký, nhưng sau này khi chúng tôi ở độ tuổi đi học, bố đã nói mẹ phải ở nhà để trông nom con cái nhà cửa, dậy học cho chúng tôi… Từ đó mẹ ít đến nơi làm việc vì nghĩ rằng nơi ấy thuộc về không gian của bố, của những bác sĩ với bệnh nhân, mẹ không muốn nhúng vô để đừng phải giẫm chân lên sự riêng tư của nhau, tin tưởng bố hết mình.

     

Mỗi buổi trưa, mẹ đều đem cơm lên phòng mạch cho bố, nhưng không hiểu sao khoảng vài tháng gần đây, mỗi lần mẹ đến thì cứ bị cô thư ký, đáng tuổi anh Luyện, đuổi khéo mẹ về để cô ta lo hồ sơ giấy tờ riêng với bố. Mẹ cả tin, cũng bỏ đồ vào tủ lạnh, rồi vội vã ra về để mọi người làm việc! Mẹ không hề nghi kỵ tình ý giữa bố và cô ta vì thấy cô ta đáng tuổi con gái mình!

     

Cứ thế thời gian trôi qua gần hai năm, bố đi làm với tâm trạng yêu đời trẻ trung, huýt sáo không ngừng mỗi khi ra khỏi nhà, quần áo thơm tho do một tay mẹ giặt ủi thật tươm tất, mẹ đánh bóng từng đôi giày đen, treo từng cái cravate cùng màu với bộ đồ veste để sẵn cho bố mặc sáng hôm sau… Không ngờ tất cả chỉ là một trò hề!


*     

Bố tôi dần sao lãng mọi sinh hoạt với gia đình, liên tục xa nhà với mọi lý do nào là đi họp với các bác sĩ ở tỉnh khác vài ngày, ở lại phòng mạch để tiếp thêm bệnh nhân đến trễ… Mẹ vẫn không chút nghi kỵ, trái lại cố gắng sửa soạn bữa cơm chiều thật nóng và ngon để cho bố về ăn trễ. Nhưng oái oăm thay, mỗi lần về trễ bố đều nói là đã ăn ở đâu đó rồi, nên chỉ cần tắm và đi ngủ… ở phòng đọc sách để cho yên lặng cho buổi họp hôm sau…

     

Tôi thấy vẻ mặt mẹ thật buồn, im lặng dọn hết đồ ăn vào tủ lạnh, rồi nhè nhẹ ngồi vào chiếc đàn dương cầm rải những notes nhạc như ai oán với cả tâm hồn và sắc mặt đau thương.


*

Bố và ả tình nhân ấy mưu mô từng bước một “xâm chiếm” không gian riêng tư của gia đình chúng tôi, lúc thì ả có mặt vào buổi cơm chiều với cả nhà tôi, lúc thì vào ngày sinh nhật mẹ, ả đem một khay đồ ăn đã đặt sẵn ở nhà hàng để lấy lòng mẹ, nhưng bố tôi là kẻ chi tiền cho tất cả những thứ đồ ăn ấy, mẹ chỉ nghĩ ả cô đơn vì không có người thân ở đất Vancouver này, nên coi gia đình của chủ như người thân của mình. Ả còn hơn thế nữa gọi mẹ tôi bằng mẹ và bố tôi bằng bố ngọt sớt đến nỗi không ai có thể nghi kỵ được khi bố con ả cùng đi ăn, đi họp, đi làm hay đi vào cả… hôtel cũng không ai dòm ngó!

     

Một hôm có giấy mời đi nghe ca nhạc, ăn tối của giới bác sĩ, mẹ sửa soạn thật đẹp, khuôn mặt hiện lên vẻ tràn đầy hạnh phúc, đã lâu mẹ chưa từng được đi ra ngoài riêng với bố trong một không khí vui chơi tự do như thế này, mẹ định sau khi đi chơi về, cả hai sẽ có một buổi chiều tối riêng tư lãng mạn tình tứ; mẹ đã chu toàn tất cả với chai Champagne và hai ly rượu chân cao, mẹ muốn tự mình sửa soạn những món đồ biển để tăng dinh dưỡng cho bố. Bao nhiêu năm lo cho gia đình, các con, mẹ quên cả chính bản thân mình, nay các con đã ra riêng, có sự nghiệp, mẹ như hồi xuân, muốn sống những ngày tháng nhàn hạ hạnh phúc bên bố. Thế nhưng, khi bố mẹ vừa ra đến xe thì điện thoại di động của bố reng lên; sau cuộc gọi ấy, bố phán quyết với mẹ là sẽ đi dự buổi nghe nhạc ấy cùng với cô thư ký luôn! Mẹ còn ngây thơ chưa hiểu tại sao lúc nào cũng có mặt của cô ta trong mọi sinh hoạt riêng tư của bố mẹ, nhưng vì chiều bố, và ráng nhẫn nhịn, mẹ đành im lặng khuất phục!


*    

Lần đầu tiên tôi nói chuyện trực tiếp với ả vào mùa Giáng-Sinh năm ngoái. Gia đình nhỏ của tôi gồm hai vợ chồng và thằng cu của tôi đến nhà bố mẹ, anh lớn đi học xa nên không có mặt, chỉ còn em trai út còn ở nhà. Tôi loay hoay xếp quà đầy dưới cây thông chuẩn bị cho buổi tối mở quà.

     Tôi nghe tiếng nói lanh lảnh lẫn một chút thách thức sau lưng:

     - Cô mới gói quà xong đấy à? Bao nhiêu phần tất cả… nhớ phải thêm một phần quà nữa nhé!

     Tôi có cảm giác ả này vừa thiếu tế nhị lại vừa muốn có chút quyền hành với những người con của bố, tôi quay lại:

     - Chị… đến đây làm gì?

     - Bố cô mời tôi đến tham dự Réveillon (2) đấy!

     - …

     Tôi chưa kịp trả lời, bố đã xuất hiện ngay trước mặt tôi để bênh vực ả:

     - Phải chính bố mời cô ta đấy, mà có ai xa lạ đâu, người nhà cả mà, hãy làm quen với cô Thy Phấn đi con!

     - Bố! Con tưởng ngày 24 chỉ để dành cho riêng gia đình mình thôi mà! Bố …

     - Thì có sao đâu! Thêm một người nữa cũng vui, chứ có gì đâu mà mặt mày xưng lên vậy? Không muốn ở đây thì cứ về bên nhà tụi bay đi!

     

Tôi chưng hửng không ngờ bố lại vì ả mà đuổi tôi thẳng thừng như vây; tôi nghĩ mà tức giùm mẹ đã bao lần nhịn cho ả:

     - Bố có nghĩ đến cảm giác của mẹ không vậy? Hôm nay là ngày của gia đình, con không muốn có người lạ trong nhà mình, cho dù người đó là người thân nhất của bố… nhưng không phải trong gia đình này!

     - Mày muốn quyết định giùm tao hả? Đây là nhà tao chứ không phải nhà mày Ok! Tụi bay là con tao đó!

     - Bố không có quyền … Nếu bố muốn có cô ta trong nhà này thì đừng nhìn mặt con và mẹ nữa!

     - Hum! Tao đuổi mãi mà mẹ con mày chưa chịu đi! Tao không muốn cãi nhây với tụi bay…

     - Ông… ông không phải là bố tôi nữa! Tôi không có người bố như ông đâu… thật là…

     Bốp! Một cái tát tai như trời giáng trên mặt tôi! Mẹ từ trong bếp chạy ra ôm lấy tôi:

     - Ông lấy quyền gì mà đánh con tôi? Hãy cút đi với tình nhân của ông đi! Cút ngay đi!

     Tôi lấy hết can đảm, hét vào mặt ông ta:

     - Ông không có quyền đuổi mẹ con ra khỏi đây… Tôi thật xấu hổ, thật hận con người như ông, ông không đáng làm bố của tôi!

     Bốp! Một cái tát thật mạnh nữa giáng xuống đầu tôi như để trả lời cho câu nói hỗn xược chưa từng thoát ra từ miệng đứa con gái cưng, chưa bao giờ bị đòn từ khi lọt lòng mẹ! Bố đã vì sự ích kỷ của bản thân mình, vì tình yêu gian dối sai đường kia lại tát tôi một cách oan ức! Đau vì bị đánh thì ít, mà tức và oán thì nhiều, tôi ôm mặt tức tưởi hét lên:

     - Bố đã làm cả cái nhà này mất danh dự, bố không còn lòng tự trọng… bố đã đạp đổ tất cả xuống bãi xình rồi! … Từ nay trở đi… ông không phải là bố tôi nữa!!

    

Ả vẫn giữ nguyên vẻ mặt vênh váo nửa lạnh lùng nửa hài lòng, khi thấy bố đã khống chế được cả gia đình để lấy lòng ả. Mẹ hét lên:

     - Ông đã đâm chết tâm hồn tôi rồi, thì hãy giết luôn cả thể xác này đi!

*

   

Mấy ngày sau lấy cớ đi họp hội nghị ở xa, bố xách vài bộ quần áo đến nhà ả, mẹ ở nhà đau buồn vật vã, tôi cũng không muốn tiếp tục học cho hết khóa để ra trường năm nay nữa, không còn tâm trí để học, trong óc tôi hình ảnh mẹ với chai thuốc chuột trên tay sẵn sàng tự vẫn bất cứ lúc nào để trả thù đời, kết liễu thân xác tạm bợ không còn chút hạnh phúc ở trần gian; cùng là phụ nữ tôi thật hiểu mẹ, cảm thông với cảm giác bị bỏ rơi, phụ rẫy như thế nào! Bạn bè mẹ thăm hỏi không ngớt nhưng mẹ không còn cảm xúc gì để trả lời họ nữa!

     

Mẹ trở thành cái xác không hồn, vất vưởng ở ngoài vườn dưới ánh nắng chang chang, kệ cho tia UV (3) quái ác thiêu cháy, ánh mắt ngờ nghệch, mất hồn, đôi môi khô quằn không thấy khát và đói, những bộ quần áo đắt tiền, ôm lấy thân hình tròn đầy thuở nào không còn vừa nữa, tất cả rộng rinh như đồ khính!

     

Mẹ lang thang đi một mình trong những con đường nhỏ ngắm nhìn cây cỏ, cho chóng quên cảnh đời đen bạc, nhìn từ xa dáng mẹ thất thểu, cơn gió phần phật thổi hai ống quần đập vào nhau tưởng chừng muốn bay lên cột đèn! Còn xót xa hơn nữa khi thấy mỗi đêm mẹ ngồi bên chai rượu nặng độ cồn 40 độ, uống ừng ực từng hớp như nước lã, nước mắt cứ thế tuôn chảy như dòng suối. Khi tôi chạy lại giằng chai rượu thì mẹ la hét đòi lại và say khướt, đứng không vững, té nhào xuống đất thật thảm hại!

     

Một buổi sáng thức dậy, từ trên phòng tôi nhìn xuống sân cỏ, mẹ vẫn ngồi yên đó từ tối qua, hình như không di chuyển, bất động, những giọt sương mai đọng trên mái tóc mẹ còn ướt đẫm. Tôi đau lòng, chạy ào xuống giúp mẹ đứng lên vào nhà nằm nghỉ, nhìn cặp mắt thất thần, thâm quầng của mẹ, tôi như xé lòng, khuyên mẹ hãy quên bố đi, hãy coi như duyên đã tận, nhưng càng khuyên, mẹ càng chảy nước mắt mà chả nói gì với tôi! Cả người mẹ nhẹ tênh, cứ như thế mà dần dần nhẹ hơn nữa, chỉ mới một vài đêm không ngủ, mái tóc dầy của ngày hôm qua nay đã lốm đốm trắng, trông mẹ thật xác xơ, tôi hét lên để kéo mẹ về thực tại:

     - Mẹ! Nếu mẹ không ăn uống gì, con sẽ bỏ học, con không học nữa đâu!

     

Mọi khi nghe tôi dọa thế, mẹ sẽ sợ hãi lắm, sẽ làm đủ mọi điều tôi muốn để tôi tiếp tục học ra trường, nối nghiệp của bố… Thế nhưng, cái trò này hôm nay không còn tác dụng gì nữa, mẹ vẫn trơ như gỗ đá. Đôi mắt vô hồn. Làm tôi sợ hãi, vừa khóc vừa van xin:

     - Mẹ ơi! Nếu mẹ có làm sao thì con không sống nổi nữa đâu! Mẹ đừng làm con sợ, mẹ nói gì đi cho con biết mẹ còn khỏe mạnh đi mẹ, mẹ ơi!!

     

Càng lay gọi mẹ, mẹ càng yên lặng như tôi nói với bức tượng. Bỗng nhiên, đôi mắt lạc thần, dòng nước dãi chẩy ra khóe miệng, từ từ đôi mắt nhắm nghiền, người mềm nhũn và xỉu trong vòng tay tôi như kiệt sức, hay chắc mẹ đã cố gượng từ tối hôm qua. Tôi hoảng loạn, bấm 911 gọi cứu thương!

     

Tôi trách bố, tôi thù người đàn ông đó dùm mẹ! Ông ta không còn là bố tôi nữa! Ông ta quá tàn nhẫn, quá bội bạc! Tôi không biết những người đàn ông khác khi phụ bạc, trở mặt với gia đình ra sao, nhưng tôi thấy ông ấy là một ví dụ điển hình mà cả đời này tôi không quên!

     

Ông ta không xứng đáng làm bác sĩ đâu! Bác sĩ phải cứu người chứ, sao lại mặc kệ cho mẹ tôi đang hấp hối như thế này? Mẹ ơi, mẹ phải ráng gượng dậy vì chúng con mẹ nhé!


*

Mẹ thì nằm nhà thương, thằng cu nhỏ của tôi thì gởi chồng giữ, cũng may anh đang trong thời gian tìm việc, mấy ngày không về căn nhà nhỏ của tôi để thăm nó, làm tôi nhớ nó quay quắt, tôi bận phải chạy ra chạy vào nhà thương trông chừng mẹ.

     Thấy mẹ cựa quậy, tôi vội vàng gọi:

     - Mẹ! Mẹ ơi, mẹ thấy sao rồi?? Con lấy cháo gruau cho mẹ dùng nhé?

     - … Mẹ không sao! Mẹ chỉ khát nước thôi!

     - Mẹ ráng ăn cho khỏe nhe, con đã sửa soạn đây rồi!

     

Tôi loay hoay múc cháo cho mẹ, mẹ quay ngoắt đầu sang một bên như đứa trẻ nít khi từ chối muỗng đồ ăn:

     - Mẹ không đói mà! Mẹ không ăn đâu, mình về đi con!

     - Muốn về mẹ phải ăn cho khỏe mới có sức đi được chứ! Nghe con, mẹ ăn một chút nhe?

     

Như một cái máy, mẹ há miệng ăn, nhưng mẹ lại không nuốt mà chỉ ngậm trong mồm, cặp mắt vô thần không động đậy nhìn vào góc nhà, bất chợt hai hàng nước mắt lại chảy không ngưng, ướt cả chiếc khăn lau miệng cho mẹ, rồi mẹ thì thào với tôi không một chút sức lực:

     - Mẹ… xin lỗi các con, mẹ không còn muốn sống nữa đâu, mẹ đã… thua cuộc rồi! Mẹ đã không giữ được ông ấy! Mẹ là người bại trận!

     - Không đâu! Mẹ mới chính là người thắng cuộc, tụi con ở bên mẹ, chỉ có ông ta là người sai, sa ngã, tự mình đào hố chôn mình, danh dự và lòng tự trọng của một bác sĩ, của một người cha trong gia đình đã không còn nữa, ông ta bênh con yêu tinh đó; không biết tương lai thế nào, con nghĩ nó chỉ muốn bòn rút tiền của ổng rồi khi hết tiền là nó đá ổng thôi! Nhưng bây giờ mình không nói được vì ổng đang trong tình trạng mê muội, khi nào ổng tỉnh thì đã trễ rồi… Mẹ đừng lo, chúng con luôn ủng hộ mẹ! Chúng ta sẽ phải đấu tranh, mẹ phải ráng lên, đừng bỏ cuộc nhe mẹ!

     

Tôi nói bao nhiêu, nhưng những lời nói hình như chỉ vào tai này rồi chạy ra tai kia của mẹ, nước mắt lại tiếp tục đổ xuống, mẹ tự than trách mình đã quá tin cậy chồng, đã không thận trọng trước người ngoài, bất kỳ điều gì mẹ cũng để cho cô thư ký nắm hết nên cô ta mới có lòng gian như vậy!

     

Mẹ tiếc những món nữ trang quý giá, những đồ đẹp hiệu đã từng mua mắc tiền tặng cô ta trong những dịp Tết nhất hay sinh nhật gọi là tặng thưởng cho công lao làm việc và sự trung thành cho tiền đồ của bố mẹ, có biết đâu là ả đã mưu mô quyến rũ bố, muốn hất mẹ ra, muốn chiếm cái địa vị làm bà chủ và cả khối tài sản dành dụm cả đời của ông bà! Mẹ đau đớn trách bản thân đã không hiểu được bố, không đủ gần gũi bố để ông có nhân tình bên ngoài cả hai năm nay mà bà cũng không phát hiện ra!

*     

Một đại họa nữa bỗng xập tới vào một buổi sáng, anh Luyện đang đi học bên Úc, anh gọi phone về:

     - Hân hả? … Sao anh phone hoài cho bố không được vậy?

     - Bố … không gọi được đâu!

     - Tại sao vậy?... Anh không còn một xu nào nữa trong trương mục ngân hàng để đóng tiền học đây, trong ba ngày nữa mà không nộp đủ thì chắc phải xách valise về nước đó!

     - Ủa!... Không thể nào hết tiền được vì account của anh có liên hệ với account của bố mẹ, khi trong tài khoản anh hết thì máy sẽ tự động chuyển từ tài khoản bố mẹ cho anh mà…

     - Vậy mà anh xem cái account của bố mẹ cũng không còn đồng nào luôn!

     - Không thể tin được! Để em sẽ lên nhà băng và cho anh hay tin sớm nhe, cúp phone đi chứ không thì tốn tiền bộn đó!

     - Ok, em lo dùm anh nhe, cám ơn em, cho anh hỏi thăm mẹ khỏe không em?

     - … Hum… Cũng Ok! Em bận lắm… Thôi bye anh nhe!

     Tôi không muốn kể lể chuyện nhà qua phone dài dòng tốn tiền, rồi anh lại lo ra mà học không được; anh cũng như tôi, năm cuối của bác sĩ, cả hai đều thật bận lo thi cử ra trường, thế mà đủ thứ chuyện xảy ra!

*


Sau khi nói chuyện với giám đốc nhà băng, chúng tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, nghẹn lời, cổ khô khốc, cặp mắt mở to đầy kinh ngạc, không tin vào chính đôi tai mình, cũng không tin được những lời vừa rồi:

     - Cô Nguyễn Thy Phấn là người đã chuyển hết tiền từ trương mục của con trai ông bà và của ông bà vào account của cô ta!!

     Bố tôi run giọng bàng hoàng:

     - Ai đã cho phép?? Có chữ ký của chúng tôi không?

     

Mẹ tôi vì đã quá tin người nên mấy lần đi lấy tiền và trả hóa đơn đã dắt ả thư ký “hiền lành” đi theo, không che mã số cá nhân (Nip) (4) thẻ khi bấm máy, nên ả đã khắc cốt ghi tâm và có mưu đồ.

     

Để lấy lòng nhân viên nhà băng, ả tặng quà bánh, làm quen và tìm cách tiếp cận, làm mọi thủ đoạn để chiếm lòng tin của họ, nói dối là con đỡ đầu của bố mẹ tôi, để xin một cái thẻ khác với cùng mã số Nip của mẹ!

     

Người nhân viên này đã không chút nghi ngờ khi thấy mẹ tôi đã có vài lần dắt cô đến nhà băng rút tiền, trả hóa đơn… nên đã làm cho cô ta một thẻ thứ hai kéo tiền từ máy tự động. Họ cũng không sai khi chỉ làm một cái thẻ khác cho ả mà không cho số Nip, vì chỉ có mẹ mới có thể cho số Nip của riêng mẹ cho người thân tín của mẹ mà thôi!

     

Từ đó lòng tham vô đáy của ả đã làm ả tối mắt, ả tưởng đã chiếm được lòng tin của bố rồi thì làm gì cũng được, ả chắc nịch là căn nhà mẹ tôi đang ở sẽ vào tay ả trong nay mai, và cả cái tài khoản đầy ắp tiền này!

     

Ả thổi vào tai của bố những lời đường mật, ve vuốt của một con đĩ hạng bét, tất cả mọi thủ đoạn khinh bỉ, hạ cấp, tồi tệ nhất, ả đều dám làm trong phòng mạch với bố để đạt được mục đích!

     

Ả đã lấy từ trương mục của bố mẹ tôi một khoản tiền không nhỏ cho người tình riêng, ả khôn nhưng không ngoan, đã bỏ vào tài khoản của người tình của ả cùng một nhà băng; rồi biết bao những hóa đơn, chứng từ giả để lấy tiền của bố, bố tôi đã ngu muội, nhắm mắt ký tên vào những tấm checks trong lúc cả hai người đang “vui” trên giường, trong phòng mạch… số tiền lên tới hơn một triệu bạc!

     

Khi thấy tất cả bằng chứng phơi bày trước mắt, bố quỵ xuống sàn, xụp đổ, không tin vào chính cặp mắt mình, sự lừa gạt trắng trợn đã đưa ra ánh sáng, những giọt mồ hôi nhỏ giọt trên trán, mắt kiếng tuột khỏi mắt, bố tôi gục đầu vào đôi bàn tay, cả người run lên tức giận, vỡ mộng! Ông không ngờ một người đang có chức vụ cao trong xã hội, có gia đình con cái đàng hoàng, lại hóa rồ, bị một con bé đáng tuổi con, dụ vào lưới tình của nó giăng ra…


*     

Mẹ tôi ngồi yên trong góc nhà không biết đã bao lâu, cặp mắt dính chặt vào một chỗ mông lung, thất vọng, chán nản. Bố tôi xấu hổ biết lỗi, dấu mặt ngoài khu vườn rộng lớn, nói là để trồng cây nhưng tất cả bắt đầu cho thời sám hối. Ông sợ mẹ tôi đay nghiến mỗi khi gặp mặt ông nên đã ở ngoài vườn từ sáng bước xuống giường cho đến 2, 3 giờ sáng hôm sau mới dám nhẹ nhàng vào nhà, ông cũng không dám lên phòng ngủ ở lầu trên mà chỉ dám rón rén nằm trên sofa nơi phòng đọc sách; mái tóc ông thường được nhuộm đen một thời khi ra ngoài với ả, nay không còn nhuộm nữa, mà giữ y nguyên một màu trắng toát. Mẹ không còn thiết tha gì trong việc làm đồ ăn ngon cho ông, mặc kệ ông muốn ăn gì, làm gì cũng không màng, ông chỉ ăn uống qua loa rồi đi ngủ…

     

Gặp chúng tôi, ông không dám hỏi han, chỉ cúi đầu lầm lũi trốn tránh đến khổ sở, mỗi lần ánh mắt chúng tôi chạm nhau, tôi thấy chỉ là sự tủi nhục hèn hạ và yếu đuối của một con người lớn tuổi lầm lạc! Thật đáng khinh!

     

Chỉ tội nghiệp cho mẹ, không biết mẹ sẽ sống ra sao bên cạnh người đã từng mắng chửi, đánh đuổi mình vì một ả mưu mô, những ngày tháng còn lại của mẹ sẽ ra sao đây? Mẹ có chịu đựng nổi sống hết kiếp này để giữ thanh danh cho gia đình không?

     

Không khí chết bao trùm cả căn nhà, mẹ suy nghĩ đến tương lai số phận sẽ ra sao; bố tủi nhục, cúi đầu ở ngoài vườn cho những tháng ngày ăn năn sám hối, lấy những câu kinh thuần phục bản tính vì hành vi tội lỗi của mình…

*

     

Ba tháng sau, tiếng ho của ông mỗi lúc một nhiều và rõ rệt hơn mỗi khi tôi về nhà thăm mẹ, ông vẫn né tránh mẹ con chúng tôi ở sau vườn. Mẹ tôi không muốn ở nhà mỗi khi có mặt ông nên tìm cách đi chơi với bạn bè, chị em bên ngoài.

     

Ngôi nhà thân thương mà tôi đã sanh ra và lớn lên ở đấy gần trên 25 năm, bao nhiêu kỷ niệm, yêu thương của cả gia đình, hôm nay đang tàn lụi! Những bức tường mà mẹ tôi cho người dán giấy hoa lên đó bây giờ đã úa vàng già nua như tuổi đời của chủ nhân, những chậu cây kiểng trồng trong nhà héo tàn không ai thay đất, chiếc đồng hồ lớn giữa nhà như vị chủ nhân gõ chuông đúng giờ ăn, giờ làm việc, nay chậm chạp đổ những hồi chuông sai giờ, lỗi hết điện mà chả ai buồn thay pin hay lên giây cót…

     

Tôi nhìn xung quanh căn nhà, như căn nhà hoang, chỉ toàn hoa tàn héo, không chút hương vị sống thì làm sao chủ nhà có sức sống đây! Tôi vội vàng vứt hết đống hoa héo, mở đèn sáng lên, vặn lại chiếc đồng hồ đã chạy ngược ngạo từ mấy tháng nay, phủi hết lớp mạng nhên đóng trên chiếc piano mẹ thường hay ngồi đàn thuở nào.

     

Căn nhà vẫn im re, vắng tanh, không tiếng động, mọi thứ đảo lộn như nhà vô chủ.

     

Vừa ngồi xuống ghế nghỉ thở và chờ mẹ về, tôi giật mình vì chuông điện thoại reo vang, tiếng mẹ tôi bên kia đầu dây:

     - Con …

     - Có chuyện gì vậy mẹ?

     - Bố con….

     - Bố con làm …gì nữa hả mẹ?

     - …Ông ấy bị cancer phổi… ở giai đoạn cuối!

     - Vậy sao!...

     

Tiếng mẹ não nề, nhưng bình tĩnh phẳng lặng, không khóc lóc. Tôi nghe tin cũng không chút xúc động mà còn nghĩ “thật đáng đời,” mẹ tiếp:

     - Con… Hãy tìm vị bác sĩ giỏi giúp chữa bệnh cho ông ấy nhe con! …Đừng hận, đừng ghét bố nữa! Hãy vì mẹ có được không? Hãy chữa bệnh cho ông ta!

     - Sao ổng không gọi….

     

Tôi định nói sao ổng không gọi ả tình nhân của ổng đi, nhưng không muốn làm mẹ buồn, tôi dừng lại.

     

Tôi không biết phải vui hay buồn, không một chút cảm xúc khi nghe tin này, có phải lòng yêu bố trong tim tôi đã chai cứng rồi không? Bố đã làm tôi quá đau khổ đến không gì đau hơn được nữa nên khi nghe tin buồn này tôi thầm nghĩ có phải ông Trời đang phạt bố? Hay bố đang trả nghiệp quả đã tạo ra? Không biết bố có nghĩ những điều đó không? Có hối hận những việc mà bố đã làm cho mẹ đau khổ không? Có bị dày vò không? Ông Trời có mắt lắm, không cần phải chờ đến kiếp sau cho lâu đâu, ông cho trả nghiệp ngay kiếp này, để dậy cho con người ta một bài học vì chờ đến kiếp sau thì chắc không còn cơ hội nữa!

     

Dù sao tôi cũng không thể quay mặt làm ngơ khi trông thấy một người bệnh, huống hồ ông lại là bố đẻ của tôi!

Tôi cũng chắc chắn một điều là mẹ tôi đã sống và chịu đựng đến tuổi này rồi, chị em chúng tôi đã có gia đình riêng, bố đang bệnh không biết tương lai, không dễ dàng gì mẹ lại rũ bỏ tất cả ra đi; dù gì mẹ là người tài công chính lèo lái chuyến tàu gia đình, mẹ sẽ tha thứ lỗi lầm cho bố, như một câu danh ngôn của Wes Fesler: Con tàu gia đình chẳng bao giờ chìm, trừ phi nó bị thủy thủ đoàn từ bỏ! (5)

 


Sỏi Ngọc,


Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23640
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 26/Aug/2023 lúc 10:14am

Định mệnh mang em trở lại | Truyện ngắn Sáng tác  <<<<<<

Định%20mệnh%20mang%20em%20trở%20lại%20|%20Truyện%20ngắn%20Sáng%20tác%20-%20YouTube


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 26/Aug/2023 lúc 10:15am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23640
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 29/Aug/2023 lúc 8:20am

Mẹ Con Anh Khờ 

 

Anh tên Hiền mà người thì cũng thật là hiền, nhưng hiền quá đôi lúc thành ra… khờ. Không biết ai đặt cho anh cái tên Khờ, dân lối xóm kêu riết thành quen chết danh cái tên Khờ. Mẹ anh thì nói con tui đâu phải khờ, nó chỉ không được khôn lanh như người ta mà thôi.

Mẹ anh Khờ là bà Thảo giáo viên trường tiểu học. Bà Thảo hồi nào tới giờ không có chồng nên anh Khờ không biết cha mình là ai. Gia đình đơn chiếc, hai mẹ con sống trong căn nhà ông bà để lại vùng ngoại ô đèn vàng này, cái nhà mà bà Thảo đã sống từ thời bà mới vừa biết đi lẫm chẫm. Bà có một người anh trai từ lâu sống trên thành phố, nay được con cháu bảo lãnh sang sống ở nước ngoài. Căn nhà và miếng đất cho hết bà Thảo, không ai tranh giành.

Anh Khờ cũng học xong trung học, thi đại học đôi ba lần không đậu, về nhà nói mẹ ơi con muốn đăng ký đi xuất khẩu lao động nước ngoài. Bà Thảo có hơi ngần ngừ, nửa muốn cho con ra ngoài học khôn, học ăn học nói học gói học mở với người ta, nhưng nửa ngại con mình khờ quá biết có thích nghi nổi hoàn cảnh nơi xứ người không đây. Nhưng rồi anh Khờ lại rớt phỏng vấn, thôi thì theo bạn bè xin việc tại các khu công nghiệp. Thời đó hãng xưởng gia công mọc lên như nấm sau mưa, đi đâu cũng thấy tuyển người làm. Mặc sức cho anh Khờ bay nhảy, anh làm chỗ này đôi ba tháng lại đổi chỗ khác, nhưng anh vốn hay bị khờ lại đứng núi này trông núi nọ, nếu anh không tự ý xin thì chủ cũng cho anh nghỉ.

Năm anh hai mươi lăm tuổi mẹ kêu về quê cưới vợ. Có chỗ muốn gả con. Ông bà Thân cũng là giáo viên dạy chung trường với bà Thảo, lại là người lối xóm. Cô con gái của ông bà cũng trạc tuổi anh Khờ, cũng theo nghiệp cha mẹ, cũng là cô giáo trường làng. Cô tên Lan, năm nay đã hai nhăm nhưng chưa từng có bạn trai. Sợ để lâu con mình ế, ông bà Thân sang nhà bà Thảo không cần khách sáo nói huỵch tẹt là muốn cưới anh Khờ cho con gái mình. Bà Thảo thấy gia đình ông giáo Thân tự hồi nào đến giờ không mang điều tiếng chi.

Cô Lan cũng được gái, nếu đem chấm điểm cũng được bảy trên mười, người như cô đi đâu mà tìm. Bà Thảo thì ưng bụng lắm nhưng cũng nói để tôi hỏi ý thằng con. Ông giáo Thân sợ anh Khờ chê con mình, trước khi ra về còn nói, “Vợ chồng tôi bảo đảm với chị, con gái tôi còn nguyên xi, con gái tôi chưa từng, chưa từng … yêu.” Bà Thảo cười thầm trong bụng bởi bà là người có tư tưởng rất thoáng, đời bây giờ đâu ai đòi hỏi gái về nhà chồng phải còn nguyên xi. Mà còn hay mất … chỉ có trời mới biết.

Anh Khờ nghe tin cưới vợ thì mừng hí hửng. Thân con mười hai bến nước, mẹ muốn gả cho ai thì gả. Con đi làm trên thành phố mấy năm nay nhưng chẳng có dư được đồng nào. Ðám cưới ai muốn tính sao thì tính. Hai nhà cách nhau chưa tới trăm mét, lễ rước dâu đi bộ cũng được nhưng nhà gái muốn có xe hoa. Cô dâu phải bước lên xe hoa về nhà chồng cho đúng bài bản.

Ðám cưới của anh Khờ thật là vui. Chú rể trai tân sánh duyên cùng cô dâu chưa từng … yêu. Nhưng ngày vui qua mau.  Mau không ngờ. Cô dâu về nhà chồng được ba ngày thì ôm gói bỏ đi đâu không ai biết. Chờ hoài không thấy về, bà Thảo cùng anh Khờ sang nhà thông gia tìm hiểu sự tình. Hai ông bà Thân chưng hửng, nó không có về đây, không biết nó đi đâu, để tôi đi tìm nó về chịu tội. Thiệt tình là con với cái. Nhưng tôi biết nó không quen ai, không hề.

Mười ngày sau ông bà Thân sang nhà bà Thảo chịu tội thế cho con. Con dại thì cái mang. Không phải ông không tìm ra con mình bỏ trốn ở đâu, nhưng ông biết rằng cuộc hôn nhân này hết phương cứu vãn. Ông không nói lý do con bỏ trốn, chỉ nói xin lỗi. Chúng tôi thành thật xin lỗi. Nhưng hai ông bà chỉ nói những lời xin lỗi suông mà không hề đả động gì tới tiền bạc hay đồ sính lễ. Bà Thảo nhìn thằng con, anh Khờ ngồi làm thinh mặt mày ngẩn tò te. Bà thấy vừa tội vừa thương. Bởi vì anh sinh ra đã mang tên Hiền, trong tình cảnh này mà anh cũng hiền được thì anh quả thật là người đáng … thương.

Sau đó anh Khờ lẳng lặng lên thành phố tiếp tục cuộc đời công nhân. Cuộc sống ngày qua ngày, ngày nào cũng giống ngày nấy chẳng thấy chi điều mới lạ. Tiền lương vừa đủ chi tiêu tháng nào hết tháng đó, suốt cả năm chẳng có dư lấy một đồng. Hôm mất việc, anh lại khăn gói về quê sống với mẹ. Thôi, không đi đâu nữa, ở đây kiếm việc làm sống qua ngày. Anh làm linh tinh đủ việc, không việc nào ổn định, lúc có lúc không, làm năm ba bữa nghỉ năm ba bữa. Nhưng anh không lo, chỉ mong kiếm chút đỉnh tiền sáng sáng cà phê cà pháo là được rồi. Còn nhà lầu xe hơi tiền tỷ thì anh chẳng bao giờ mơ tới, bởi biết có mơ thì cũng chỉ thấy mờ mờ. Ngay cả đến việc vợ con anh cũng không lo. Kệ, chừng nào có thì có, tới đâu hay tới đó.

Một buổi sáng mùa Xuân đẹp trời, một cô gái đến gõ cửa nhà xin được làm vợ anh Khờ. Cô còn trẻ và khá là đẹp, chỉ mới hai lăm. Cô nàng là người xóm trên, cha mẹ đều là nhân viên nhà nước, gia đình nhà cửa đàng hoàng ai cũng biết. Cô chỉ có cái tội là yêu sớm và ham vui sớm, bỏ nhà theo bạn trai sống thử. Chừng đẻ được đứa con thì bạn trai vô tù vì có dính líu tới băng đảng bán xì-ke. Là gái hồi nào tới giờ chỉ biết ăn ở không, nay lại ôm con mọn cô cảm thấy không có cái khổ nào bằng. Về nhà cha mẹ sống cũng không yên, bà con chòm xóm lời ong tiếng ve, chịu hết nổi, đường cùng, cô đến nhà bà Thảo gõ cửa, tình nguyện làm vợ anh Khờ.

Cô hứa nếu anh Khờ chịu lấy cô làm vợ, cô sẽ một lòng một dạ lo cho chồng và mẹ chồng. Cô sẽ đi làm nuôi anh Khờ suốt đời. Bà Thảo nhìn thằng con, anh Khờ nay đã ba lăm rồi mà cũng chưa nên thân. Nghề cũng không mà tiền cũng không. Thôi thì cái thằng này, nó không lo kiếm vợ thì vợ cũng đi tìm nó. Chắc cái số của nó trời định như vậy rồi.

Ðám cưới anh Khờ lần này cũng đông vui. Chú rể trai một đời vợ sánh duyên cùng cô dâu gái một con. Mọi sự đều do cô dâu bày vẽ, anh Khờ chỉ lo việc trả tiền. Cô dâu trẻ tuổi điệu đàng, thay áo cưới đôi ba lần. Áo đầm hở cổ, áo dài truyền thống, áo dài cách tân. Lúc đi chào bàn quan khách mời rượu, cô dâu chú rể mặc áo cung đình. Cô dâu mặc áo hoàng hậu còn chú rể mặc áo hoàng đế. Bộ đồ mướn rộng thùng thình, không biết y phục cung đình thời vua nào, rồng phụng màu mè giống phim bộ Hồng Kông.

Lúc cô dâu chú rể cắt bánh cưới, đứa con gái nhỏ của cô dâu chạy đến ôm chân mẹ. Má ơi con muốn ăn bánh. Cả khán phòng cười ồ. Ðây là một tình huống bất ngờ, ban tổ chức không lường trước được.

Ðám cưới đâu chừng ba tháng thì xảy ra chuyện không ngờ. Một buổi sáng con dâu bà Thảo đi đâu về cùng một cậu thanh niên. Vừa bước vô nhà thấy bà Thảo là hai người quỳ xuống vừa khóc vừa kể:

– Mẹ ơi, xin tha lỗi cho con, con biết là con có lỗi nhiều lắm khi bỏ anh Khờ. Chồng cũ của con mới vừa được thả, đâu ai ngờ mau dữ vậy. Con thiệt là khổ tâm, mẹ với anh Khờ có thương con thì thương cho trót, thả con về với chồng cũ của con, hai vợ chồng con đội ơn mẹ với anh Khờ.

Nãy giờ bà Thảo ngồi sững sờ, bà bị một cú sốc mạnh không nói nên lời. Ðứa con dâu tháo chiếc nhẫn cưới bước lại đưa anh Khờ:
– Anh làm ơn nhận lại chiếc nhẫn cưới này giùm em, coi như anh xoá bỏ một lời nguyền. Em muôn vàn nhớ ơn anh. Còn đôi bông tai và sợi dây chuyền em xin giữ lại như đồ kỷ niệm.
Anh Khờ và bà Thảo ngồi làm thinh, hết ý kiến.
Cái tin vợ anh Khờ trở về với chồng cũ cả xóm đều biết. Có người nói tội cho anh Khờ, có người nói bỏ tiền ra mua được vợ ba tháng… coi như huề

o O o

Bà Thảo đến tuổi nghỉ hưu, ngày nào còn đi dạy bận bịu sách vở trường lớp, giờ ở nhà đi ra đi vô sao mà nó trống vắng buồn tênh. Anh Khờ nay đã bốn mươi, bà nghĩ đến việc tìm vợ cho anh, mình đâu có sống đời mà lo cho nó hoài. Nhưng bà chưa kịp tìm thì vợ anh Khờ tới nhà gõ cửa, chắc cái số của anh như vậy.

Một buổi chiều mưa giông, có một người đàn bà cùng hai đứa con nhỏ chạy xăm xăm vào hiên nhà bà ngồi tránh mưa. Anh Khờ đói bụng bưng tô cơm nguội ra đứng ngoài hiên vừa ăn vừa ngó lén người ta. Anh trở vô nói với mẹ:

– Con ăn cơm thằng nhỏ ngó miệng hoài, chắc nó đói.

Bà Thảo biết ý thằng con, thấy người ta đói tội nghiệp muốn cho ăn mà còn ngại mẹ, sợ nói này nói kia. Bà bước đến lấy tô cơm nguội chan cá kho đem ra ngoài cho thằng bé, bà nói trống không:

– Còn chút cơm nguội ăn đỡ.

Thằng nhỏ lấm lét nhìn mẹ nó. Người đàn bà trẻ lên tiếng:

– Nói cám ơn bà đi con.
Hai đứa nhỏ nói cám ơn bà rồi bưng tô cơm lên ăn. Nó ăn một muỗng rồi đút cho mẹ nó một muỗng. Bà Thảo bước vào nhà trong lòng chợt thấy xúc động.
Mưa càng lúc càng to, giông gió sấm chớp tứ bề, anh Khờ đi tới đi lui ra chừng áy náy. Bà bước ra ngoài kêu ba mẹ con vô nhà tránh mưa, ướt hết rồi thay quần áo kẻo cảm lạnh. Bà bước đến bếp nấu nước sôi luộc mì gói cho ba mẹ con ăn thêm, chắc họ còn đói.
Người đàn bà lấy trong túi xách mấy bộ đồ khô thay cho con rồi ba mẹ con ngồi ăn mì.

– Con cám ơn bác nhiều lắm. Trước đây con ở ngoài Trung, làm ruộng quanh năm mà không đủ ăn. Chồng con theo người ta đi tàu đánh cá ngoài biển xa, không may tàu chìm chết đuối. Con ở quê không có việc gì làm, càng lúc càng túng quẫn. Có người bạn cùng thôn lấy chồng ở thị trấn này mấy năm trước, năm ngoái chị về quê, thấy hoàn cảnh con khổ quá nói có gì vô đây chị giúp đỡ kiếm việc làm nuôi con. Ðâu ngờ tới đây mới biết chị cùng chồng dọn đi nơi khác rồi. Bác làm ơn cho con tá túc vài bữa, rồi thủng thẳng con tìm việc tìm chỗ ở dọn đi.

Bà Thảo không nói gì. Từ chối thì không nỡ mà nhận lời thì ách giữa đàng cứ mang vào cổ. Bà nhìn cái đi-văng chất đầy đồ đạc trên đó, bà không muốn dọn dẹp chỗ ngủ cho họ, tự nghĩ lòng tốt cũng có giới hạn, để họ ngủ dưới sàn gạch là quý rồi. Bà bước vào trong lấy chiếc chiếu và mùng mền. Anh Khờ giúp giăng mùng, mấy mẹ con chui vào ngủ.

Buổi sáng bà Thảo bước ra khỏi phòng đã thấy mấy mẹ con thức dậy từ lâu, mùng mền xếp gọn gàng. Bà bước đến bếp nấu nước pha cà phê, mang cho người đàn bà trẻ một ly, bà cầm một ly bước ra phía trước nhà. Bà không thấy nhưng cũng nghe biết ba mẹ con đang chia nhau uống. Sân vườn buổi sáng sau cơn mưa đêm thêm tươi mát. Bà Tư hàng xóm đi ngang, thấy bà trước sân bước vào nói chuyện. Bà Tư thấy có bóng người lạ con nít trong nhà tò mò đưa mắt nhìn. Bà Thảo kể rõ đầu đuôi câu chuyện ngày hôm qua.

Hai bà bước vào trong. Bà Tư lên tiếng hỏi:

– Cô tên gì ?

– Dạ cháu tên Lành.
– Ông Hoà nhà ở đầu đường có bà mẹ chín mươi tuổi, muốn tìm người mỗi ngày tới phụ giúp cho ăn tắm rửa chừng bốn tiếng đồng hồ trả năm chục ngàn, cô có muốn làm không?

– Dạ muốn, cháu làm được, chuyện gì cháu cũng làm.

Bà Tư nói, “Vậy cô đi theo tui tới đó thử việc.”

Buổi trưa chị  Lành đi về đưa bà Thảo tiền làm được.  Con làm được, họ thích lắm, dặn là mỗi ngày cứ đến làm đủ bốn tiếng thì về. Chị đến bếp làm cơm, bà Thảo lấy trong tủ lạnh con gà đưa chị làm cơm gà luộc. Bà bước đến ghế ngồi cầm quạt phe phẩy, ra điều bà chủ, bà mẹ chồng. Chị Lành làm bếp gọn gàng lanh lẹ, cả nhà xúm lại ngồi ăn, ai cũng khen ngon.

Chị Lành đi làm về là đưa tiền cho bà Thảo. Bà không nói gì lẳng lặng bỏ túi. Bà muốn thử xem sức chịu đựng của chị Lành đến đâu. Bà còn tìm cách thử lòng người mẹ trẻ này, bà giả bộ để quên tiền chỗ này chỗ nọ, bà đánh rơi tiền khi thì trong bếp lúc ngoài sân. Mấy đứa nhỏ lượm được trả lại cho bà. Không, bà muốn thử lòng mẹ nó kìa. Một hôm bà nhét hai tờ giấy năm trăm trên đầu tủ, một tờ tiền thật một tờ tiền âm phủ. Buổi trưa bà đến xem chừng, hai tờ bạc không cánh mà bay. Bà suy nghĩ, lúc bà giấu đâu có chị Lành ở nhà, chị đã đi làm rồi, chỉ có thằng con trai bà đi ra đi vô mặt mày như mèo ăn vụng.

Buổi trưa anh Khờ về ngủ, bà lục túi quần anh treo trên vách, trong mớ tiền lẻ có tờ năm trăm tiền giả. Bà xé làm đôi vứt thùng rác. Thằng này xớn xác đem xài có ngày công an còng đầu. Con ơi là con.

Xéo nhà bà Thảo phía bên kia đường là nhà ông Quý làm ở ngân hàng. Ông đang cho thợ đập nhà cũ xây nhà mới lên thêm từng lầu. Một hôm mấy người thợ xách con gà nhờ chị Lành làm cơm họ trả công. Chị Lành có tài nấu cơm gà luộc pha nước mắm gừng rất ngon. Ai ăn cũng khen.

Thế là hết nhóm thợ này tới nhóm thợ khác nhờ chị giúp, buổi trưa họ ngồi ăn uống ồn ào như cái quán. Chị Lành thấy ham xin phép bà Thảo đặt hai cái bàn nhỏ trước sân buổi trưa bán cơm gà kiếm thêm tiền chợ. Bà Thảo bảo anh Khờ phụ chị cắt cổ gà nhổ lông gà, phụ dọn dẹp. Tiền lời bao nhiêu chị đưa bà Thảo. Bà chỉ lấy một ít, bảo chị giữ để dành lo cho hai đứa nhỏ. Bà thử thách chị bao nhiêu đủ rồi.

Lối xóm thấy anh Khờ đưa đón hai đứa nhỏ đi học, thấy anh buổi trưa phụ chị Lành bán cơm gà, ai cũng nghĩ chắc hai người này đã nhập cục ngủ chung mùng. Ông Tám nhà kế bên hỏi vậy chớ chị không tính làm đám cưới cho tụi nó sao. Bà Thảo nghe tới đám cưới thì sợ hết hồn. Tởn tới già. Mà cũng ngộ thiệt, hai đứa tụi nó có gì đâu. Sao ai cũng nghĩ hễ trai gái chung nhà thì không trước thì sau cũng giở mùng chun vô.

Bà Tư ông Năm gặp bà Thảo hỏi đon ren. Sao, chị tính chừng nào cho hai đứa trình làng ra mắt quan viên hai họ.
Người này người kia nói ra nói vô khiến bà Thảo nghĩ ngợi. Hay là mình hỏi con Lành cho thằng Khờ cho rồi. Bà nói với chị Lành:

– Con ở đây mấy tháng cũng biết tình cảnh của mẹ con bác ra sao rồi. Thằng Khờ tuy không khôn lanh như người ta, nhưng nó hiền lành tử tế, không chơi bời nhậu nhẹt hút xách. Bác nay đã lớn tuổi mong nó sớm yên bề gia thất. Nếu con thấy được thì hai đứa sống với nhau xây dựng gia đình.
Chị Lành cảm động ứa nước mắt:

– Nếu bác với anh Khờ mà không chê con, con thật là có phước mới bước vô được nhà này.

Bà Thảo không muốn tổ chức đám cưới rình rang, bà chỉ muốn làm một bữa tiệc nho nhỏ tại nhà, gọi là buổi ra mắt. Bà bàn với ông Tám và bà Tư lối xóm, bà nói:

– Tôi tính đặt một con heo quay, nấu một nồi cà ri gà ăn với bánh mì, cá hấp ăn với cơm chiên là đủ. Mua một thùng bia, mời bà con lối xóm chừng hai bàn là được rồi.

Ông Tám có ý kiến:

– Mình đãi kiểu đó giống như đám giỗ. Mặc dù không nói đám cưới nhưng cũng là đám cưới. Ðãi ăn phải dọn từ món chớ không bưng ra một lần. Dạo đầu phải có đồ nguội để thực khách lai rai uống rượu hay bia, bỏ món cà ri thế bằng món vịt quay hay là chim cút rô ti, thêm món đồ biển cua tôm. Có hơi tốn kém chút… nhưng  phải làm coi cho được.

Bà Năm góp ý:

– Ðể tôi kêu mấy đứa nhỏ cùng bạn bè tụi nó sang phụ giúp, chị đừng lo, mấy thằng con tui giỏi mấy cái vụ này lắm.

Mặc dù không phát tờ rơi không làm quảng cáo, nhưng đám “ra mắt” của anh Khờ cả xóm ai cũng biết. Ðàn bà con nít đi ngang nhà đứng lại dòm ngó trầm trồ, “Bữa nay đám cưới anh Khờ, bữa nay đám cưới anh Khờ!”

Mấy cậu thanh niên lăng xăng làm cổng chào với bảng “Tân Hôn”, mấy cô gái í a í ới vừa làm vừa cười giỡn dưới bếp. Bà Thảo đi tới đi lui miệng cười mãn nguyện. Thằng con của bà lối xóm ai cũng thương. Mấy cậu thanh niên lại còn bày đặt đem gắn dàn máy hát hò. Ðám thanh niên thanh nữ đông quá ham vui, xin bác đặt thêm hai bàn, bác đừng lo, tụi con tự đem mồi với lại bia, vui với anh Khờ là chính.

Anh Khờ uống rượu vui quá kéo cô dâu lại hôn, cô dâu mắc cỡ bỏ đi chỗ khác, thiên hạ vỗ tay tán thưởng. Anh Khờ xỉn xỉn lên hát một bài tân cổ giao duyên quên đầu quên đuôi ai cũng cười. Buổi tối vợ chồng con cái xúm lại mở bao thơ đếm tiền. Anh Khờ mặt mày hí hửng lại nói với mẹ: lời, lời, hổng lỗ. Bà Thảo không nhịn được cười, hết ý kiến thằng con của tui, lần này đám cưới của nó … có lời.

Bà Thảo bắt đầu để ý con dâu, mỗi khi chị Lành đi đứng bà nhìn soi mói tìm điều khác lạ. Bà mong chị hôi cơm tanh cá, bà mong có một đứa cháu nội của riêng bà. Anh Khờ có thể mất vợ, nhưng cháu bà, cháu nội của bà sẽ mãi mãi là cháu bà.
Ngày tháng trôi qua bà không thể chờ. Một hôm bà kêu con dâu bà lại gặng hỏi:

– Mẹ nói thật với con, mà con cũng phải trả lời cho thật, con có thể nào đẻ cho mẹ một đứa cháu nội nữa không.

Chị Lành trầm ngâm giây lâu ngập ngừng điều khó nói:

– Con cũng biết mẹ với anh Khờ mong đợi điều đó, con thật lòng thương anh Khờ, muốn đẻ cho ảnh một đứa con, nhưng ảnh không thể… Hai đứa con cố gắng nhiều lần nhiều cách mà ảnh vẫn… không thể nào.
Một lần nữa bà Thảo bị một cú sốc, chuyện bây giờ mới biết. Bà nhớ lại lúc anh Khờ còn trẻ, bà nhiều lần tắm rửa cho anh, thấy anh cũng bình thường như bao đứa trẻ khác. Lúc nó lớn nhiều lần giặt quần xà lỏn cho nó, đôi lúc vấy bẩn mùi tanh tưởi. Sao bây giờ… sao bây giờ… như thế này?

Một buổi sáng sớm bà Thảo nói cho con dâu và thằng con biết là bà có việc phải đi lên thành phố chiều về. Mỗi lần đi là bà thấy thành phố thay đổi khác lạ, xe cộ người ta đi lại đông đúc ồn ào. Nhưng bà không khó lắm để tìm ra nhà ông thầy “Ðông y sĩ bán thuốc gia truyền chuyên trị đàn ông yếu sinh lý”. Bà bước vào phòng đợi, lòng thấp thỏm lo âu. Bà nói ngập ngừng:

– Thưa thầy, tôi muốn thỉnh thuốc cho một người đàn ông… yếu… yếu… không thể… không thể…

Ông thầy thuốc Ðông y gia truyền nhìn bà khách bề ngoài không có vẻ gì là một người đàn bà đang trong thời kỳ … cần đến mấy chuyện đó.

– Bà nói ông nhà không thể … mà không thể như thế nào?

– Tôi nghe con dâu tôi nói chồng nó như vậy thì tôi biết như vậy. Có cần phải dẫn nó lên đây cho thầy khám?

Ông thầy bật cười hô hố, “Té ra bà đi thỉnh thuốc cho con trai bà, nãy giờ tôi cứ tưởng bà nói ông nhà. Tôi có thuốc viên hải cẩu bổ thận hoàn, bà mua cho cậu một lọ uống thử. Tôi hốt ba mươi thang thuốc cho con trai bà uống trong một tháng. Thuốc cường dương gia truyền, nổi danh ba đời.”

Buổi chiều về nhà, việc đầu tiên là bà Thảo đi vô bếp tìm siêu sắc thuốc cho thằng con trai. Buổi tối bà còn bắt anh Khờ bưng chén thuốc uống hết trước mặt bà.

Bà chờ đợi. Ngày nào cũng dòm ngó con dâu coi tướng tá có mập thêm chút nào. Buổi tối bà đi ra đi vô nghe ngóng, đi ngang phòng thằng con trai lắng nghe coi có tiếng cười giỡn giường chiếu nhúc nhích động đậy gì không.

Lúc thuốc gần hết, bà kêu con dâu lại hỏi nhỏ, con thấy có tiến bộ hơn chút nào không con. Cô con dâu lắc đầu, mọi sự vẫn u như kỹ… y như cũ.

Ngày tháng trôi qua…bà Thảo tức mình không chịu đầu hàng số phận, hễ còn nước là còn tát, hễ có bịnh là vái tứ phương. Ði đâu cũng nghe tụi thanh niên khẳng định  “người ta làm được, mình làm được.”

Bà thu xếp chuyện gia đình, dẫn con trai con dâu lên thành phố, đến bệnh viện trung ương khám nam, khoa chữa trị hiêm muộn. Sau nhiều lần thử nghiệm, bác sĩ tuyên bố bó tay, hết cách. Rất tiếc, ông không thể nào… không thể nào…

Từ đó bà Thảo không còn buồn, Không còn lo kiếm đứa cháu nội. Bà tự an ủi…”Ý trời”

Một hôm chị Lành đến gần bà Thảo thưa chuyện:

– Mẹ à, đêm qua con nằm mơ thấy chồng cũ con hiện về, anh vui cười hỏi thăm con đủ thứ. Tỉnh dậy con nhớ quê quay quắt suốt cả ngày. Con đi cũng đã ba năm, con muốn xin phép mẹ cho con dẫn hai đứa nhỏ về quê, cúng mồ mả ông bà, mồ Ba tụi nó.

Bà Thảo miệng nói ờ phải con cứ đi, mà trong lòng bà thấy buồn buồn. Bà nghĩ rồi có ngày đứa con dâu này cũng sẽ bỏ con trai bà mà đi.

Buổi sáng anh Khờ hí hửng đưa vợ con ra bến xe về quê một tuần. Nghĩa là anh khỏi cắt cổ gà nhổ lông gà một tuần. Anh có nhiều thì giờ bù khú với bạn bè, trong khi mẹ anh lại buồn rười rượi vì nghĩ đứa con dâu này sẽ một đi không trở lại. Lúc họ bước ra cửa bà móc tiền đưa con dâu và cho hai cháu. Dẫu thế nào thì bà cũng phải đối xử cho phải đạo mẹ chồng.

Mấy ngày con dâu đi vắng, bà cảm thấy trống trải buồn bã lạ thường. Bà thấy nhớ tiếng hai đứa nhỏ chạy giỡn nô đùa. Bà nhớ tiếng con dâu chặt thịt gà lộp bộp. Bà thương con dâu thương cháu nội thương cái mái ấm gia đình này hồi nào không biết. Nhớ ngày nào tụi nó mới tới, co ro trong chiều mưa giá lạnh. Giờ đã ba năm. Ba năm con dâu bà trả ơn cưu mang coi như đã đủ. Sòng phẳng. Cuộc đời lúc nào cũng đối xử với bà sòng phẳng.  Quá là sòng phẳng.

Buổi sáng anh Khờ đi quán cà phê, ngang tấm lịch giả bộ ngó ngó, “Bữa nay mẹ con tụi nó về, ngày mai lại tiếp tục… cắt cổ gà…nhổ lông gà.” Bà muốn nói, con ơi mày được nhổ lông gà hằng ngày là phước ba đời đó con.

Anh Khờ nhắc tới một việc bà không dám chắc nhưng vẫn mong chờ. Ở tuổi này phải gánh vác một điều mất mát là một việc hết sức khó khăn. Buổi trưa nằm thiêm thiếp trên giường bà nghe tiếng trẻ con cười nói, một âm thanh quen thuộc thân thương trong ngôi nhà này trong nhiều tháng qua. Bà bước đến cửa sổ nhìn ra vườn sau, thằng cháu nội về tới là chạy u ra thăm con gà mái tre của nó nằm ấp trứng trong ổ, đứa cháu gái thì leo tuốt trên cây mận.

Bà bước ra phía trước, con dâu bà về tới lăng xăng xếp đồ sắp lên bàn thờ cúng ông bà. Nhiều dữ hôn, trái cây đồ ăn lũ khũ.

– Mẹ không ngủ trưa sao? Con có đem về mấy con tôm hùm với lại mực một nắng. Ðể con làm cơm trưa.

Chị Lành không thay quần áo nhào vô bếp làm món tôm hùm mới vừa học được. Anh Khờ đi chơi về bước vô nhà nói  thơm quá xá là thơm.

Cả nhà xúm lại quây quần ăn cơm trưa. Bà nói mẹ tính là ngày mai mình mua gà người ta làm sẵn cho tiện, cũng ngon chớ làm gà sống cực quá. Cả anh Khờ và chị Lành đồng thanh, “Dạ phải, dạ phải. Con cũng tính nói với mẹ như vậy.” Ăn xong vợ chồng con cái nằm ngủ ngon lành.

Bà Thảo đi vòng quanh nhà ngắm nghía, phải sửa lại nhà bếp và nhà tắm theo kiểu mới hiện đại vừa sạch vừa thơm. Rồi còn phải xây thêm phòng cho hai đứa cháu, tụi nó ngày một lớn. Hồi nào tới giờ cứ nghĩ thằng con của mình trước sau gì cũng bị vợ bỏ nên bà không tính đến chuyện sửa nhà. Nhưng mà mình đã tính sai. Người tính sao bằng trời tính./.


Nguyễn Thạch Giang

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23640
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 31/Aug/2023 lúc 10:31am
Ngỡ%20ngàng%20trước%20tổ%20chim%20dòng%20dọc%20tưởng%20chỉ%20có%20trong%20mơ%20ở%20miền%20Tây

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 31/Aug/2023 lúc 11:01am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23640
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/Sep/2023 lúc 12:15pm

Tiếng Chuông Điện Thoại

 

Có người bảo rằng tiếng chuông điện thoại là “niềm vui của tuổi trẻ và nguồn an ủi cho tuổi già”.

Đối với bà Thoa, tiếng chuông điện thoại còn là tiếng gọi của tình yêu khi còn trẻ, là tiếng lòng thương mến khi làm mẹ, là tiếng gọi mong chờ và là liều thuốc an thần khi nằm trong viện dưỡng lão. 


Nhớ thuở xa xưa, lúc tuổi xuân thì, bà có nhan sắc lại con nhà danh giá, nhiều thanh niên con nhà giàu, học giỏi, đẹp trai theo đuổi, nhưng không anh nào lọt vào vòng “chung kết”.

Cuối cùng bà “phải lòng” anh phó quận vì tiếng chuông điện thoại.

Lần đầu tiên, bà gặp chàng qua sự giới thiệu của cô bạn cùng lớp với bà, trong đêm văn nghệ Mừng Xuân ở sân trường Đại học Văn Khoa. Lúc ấy, anh chàng không có nét gì độc đáo để bà để ý, nhưng bà tỏ ra vui vẻ, lịch sự cho đúng phép xã giao. Còn anh chàng, tuy nổi tiếng là tay “tán phét” có hạng bên trường Quốc Gia Hành Chánh, nhưng khi đứng trước vẻ đẹp cao sang của nàng, chàng ngẩn ngơ, lúng túng, không nói nên lời…

Những lần gặp gỡ về sau, nàng vẫn không để ý hay ngây thơ không nhận biết ánh mắt si tình và những cử chỉ vụng về, lúng túng của chàng; nàng cứ hồn nhiên, vui vẻ với người bạn mới quen như các bạn trai khác… làm chàng thất vọng!

Nhưng tiếng lòng đã gọi, chàng quyết tâm theo đuổi.

Qua cô bạn học của nàng, chàng biết: Nàng có nhiều nơi dạm hỏi, toàn là những tay học giỏi, có bằng cấp, là bác sĩ, kỹ sư.. con nhà giàu. Cha mẹ nàng lại rất khó, còn theo nếp xưa - môn đăng hộ đối. Biết phận mình, con nhà nghèo ở miền Trung, làm sao tranh nổi với những tay “công tử” ở Sài Gòn, nên chàng không dám “tấn công trực diện”.

Thế là, đêm đêm, chàng gọi điện thoại thăm nàng từ một quận lỵ xa xôi, trên vùng cao nguyên xanh mát Lâm Đồng.

Ban đầu chỉ tả cảnh, chưa dám tỏ tình.

Chàng tả nơi chàng đang làm việc: Núi đồi trùng điệp với những rừng thông bạt ngàn; ở lưng chừng đồi nhìn xuống các thung lũng xa xa, sương mù bao phủ trên các đồi trà, đồn điền cà phê như làn khói mỏng - lúc ẩn, lúc hiện - trông như bức tranh thủy mạc. Vào mùa hoa dã quỳ nở rộ, đi trên con đường uốn lượn lưng đồi, dưới ánh nắng ban mai trong trẻo với khí trời se lạnh, trông hoa vàng rực rỡ, cứ tưởng như mình đang lạc vào chốn thiên thai.

Cái giọng Quảng Nam trầm trầm, thỉnh thoảng chêm vào một câu tán thán ngô nghê: “Răng mà đẹp rứa hè!”. Lúc đầu nghe ngồ ngộ, nhưng rồi thấy thinh thích, cuối cùng bà “ghiền!”

Vài đêm không có tiếng chuông gọi về, bà nhớ, bà mong.. khi được nghe lại cái giọng “ngồ ngộ” ấy bà mừng, rồi trách: “Sao mấy hôm nay không gọi về?”

Thế là chàng tiến lên bước thứ hai - nói chuyện tâm tình - than thở: lạnh giá, cô đơn...

Không hiểu do những lời tả cảnh, tả tình của chàng hay do cha mẹ bà nói xa, nói gần việc hôn nhân với anh chàng bác sĩ, con của bà bạn thân với mẹ, mà bà muốn rời cái nóng bức, nhộn nhịp ở Sài Gòn, lên vùng cao nguyên mát mẻ với thiên nhiên thơ mộng?

Giữa mùa hè năm ấy, bà xin phép cha mẹ đi nghỉ mát ở Đà Lạt.

Cái se lạnh của Đà Lạt lồng trong không gian trong trẻo rực rỡ ngàn hoa: hoa dại ven đường, hoa trước hiên nhà, hoa trong công viên, hoa leo lơ lửng trên tường, hoa trên đồi thấp...Đâu đâu cũng thấy hoa, làm cho Đà Lạt thêm thơ mộng. Một ngày ở Đà Lạt, bà có thể cảm nhận được cái khí hậu bốn mùa: buổi sáng sớm là cái se lạnh mùa xuân, buổi trưa nắng vàng rực rỡ như mùa hạ, buổi chiều ảm đạm sương mù như mùa thu, và đêm về nếm cái lạnh của mùa đông. Đà Lạt thơ mộng quyến rũ bà như cơ duyên tiền định.

Qua một người bạn giới thiệu, bà được ông Hiệu trưởng một trường Trung học tư thục, mời dạy môn Việt văn. Đây là cơ hội để bà ở lại với Đà Lạt.

Trở về Sài Gòn, bà xin phép cha mẹ cho lên Đà Lạt dạy học. Có chút lo âu, nhưng cha mẹ bà không ngăn cản vì bà đã trưởng thành.


Mùa tựu trường năm ấy, bà trở lại Đà Lạt, làm giáo sư dạy môn Việt văn.

Từ đây, bà được gặp gỡ thường xuyên anh chàng Phó quận vào những ngày cuối tuần. Bây giờ cả hai, không còn trẻ để mơ mộng chuyện tình lãng mạn của tuổi đôi mươi. Những buổi chiều bên nhau trên bờ hồ Xuân Hương hay trên thảm cỏ ở sân Cù, họ trao đổi quan niệm về tình yêu, hôn nhân, cuộc sống gia đình và xã hội... Cả hai cùng chung quan điểm.

Rồi một bưổi chiều, hai người ngồi sát bên nhau trong vườn hoa Thung Lũng Tình Yêu, chàng Phó quận run run nắm tay nàng, thì thầm: “Anh yêu em ngay lần gặp gỡ đầu tiên ở sân trường Đại học Văn Khoa.” Nàng xúc động, ngả đầu vào vai chàng, khẽ nói: “Tiếng chuông điện thoại đêm đêm gọi về, đã làm em xúc động, em biết lòng em đã bắt gặp tình yêu.”

Họ trao nhau nụ hôn say đắm với lời nguyện ước sẽ gắn bó bên nhau suốt đời.

Bà về thưa với cha mẹ chuyện tình duyên của bà với anh Phó quận và cho cha mẹ biết hoàn cảnh của chàng. Tuy có chút ngỡ ngàng, nhưng khi nghe bà giải bày tâm sự, cha mẹ chiều lòng con, chấp nhận cuộc hôn nhân, không còn nghĩ đến chuyện môn đăng hộ đối.

Một năm sau, đám cưới được tổ chức ở hội trường quận lỵ. Ông Quận trưởng đại diện nhà trai làm chủ hôn (mẹ chàng già yếu, ở ngoài miền Trung xa xôi, không vào tham dự được). Cha mẹ bà, từ Sai Gòn lên chứng giám.

 

Sau đám cưới, chàng đưa nàng ra Trung, ra mắt con dâu với mẹ. Bà mẹ vui mừng, xúc động, cầm tay con dâu rưng rưng, nói: “Đám cưới tụi bây, mẹ không vào được, mẹ áy náy vô cùng. Khi thằng Phong viết thư báo tin sẽ làm đám cưới. Nó bảo mẹ đừng lo, nó sẽ tự lo liệu được… Mẹ mừng, nhưng không biết rồi sẽ ra sao? Mẹ già yếu, mắt lại mờ, không thể đi xa, chỉ còn biết cầu xin ơn trên phù hộ cho mọi điều tốt đẹp. Hôm nay các con về đây thăm mẹ và ra mắt tổ tiên, ông bà, mẹ không biết nói sao cho hết nỗi vui mừng.”


Bà mẹ thắp nhang lên bàn thờ, lấy khăn lau tấm di ảnh của chồng, lâm râm khấn vái: “Hôm nay thằng Phong đưa vợ về ra mắt tổ tiên, ông bà, xin ông chứng giám và phù hộ cho các con được may mắn, hạnh phúc và sớm có đứa con trai nối dõi tông đường.”

Bà lấy cái tráp cẩn xà cừ trong ngăn tủ thờ, mở nắp lấy đôi bông tai và chiếc kiềng vàng đeo vào tai, vào cổ con dâu. Ngước nhìn con dâu, bà nói: “Ngày đám cưới của mẹ, bà nội các con đã đeo đôi hoa tai, và chiếc kiềng này cho mẹ. Bây giờ mẹ trao lại cho con, coi như bảo vật của gia đình.”

Bà tiếp tục kể: “Ngày mẹ về làm dâu nhà ông huyện, mẹ rất lo lắng, nhưng bà nội của các con là người nhân hậu đã chỉ dạy cho mẹ cách ăn ở, đối xử sao cho phải phép gia phong, dòng họ nhà ông huyện. Ông nội của thằng Phong làm tri huyện, nhưng gia đình vẫn thanh bạch; bà nội của các con và mẹ vẫn tiếp tục công việc đồng áng, nuôi tằm, dệt lụa để nuôi sống gia đình. Ông nội của thằng Phong là ông quan huyện thanh liêm, được dân kính mến, nên năm 1945, Việt Minh cướp chính quyền, họ không công khai kêu án tử hình, mà đưa ông đi “an trí” ở đâu đó, gia đình không biết tin. Sau này mới hay, họ đã thủ tiêu ông trên vùng núi cấm. Dân chúng trong huyện luôn nhắc nhở tên ông với lòng thương tiếc.”

Bà quay sang, nói với thằng Phong: “Phong à, trong 9 năm kháng chiến, cha con không chịu đựng được sự gian khổ, mắc bịnh lao, không có thuốc men chữa trị, cha con qua đời lúc con chưa đầy 6 tuổi. Từ đó, một mình mẹ làm lụng cực khổ nuôi con. Đến năm 1954, Quốc gia tiếp thu vùng này, cuộc sống dễ thở hơn, con được đi học. Hết tiểu học, mẹ gởi con ra Đà Nẵng, học Trung học, rồi con vào Sài Gòn học tiếp... Con được thừa hưởng cái thông minh và phúc đức của tổ tiên, bây giờ là ông “Phó Quận”. Con phải noi gương ông nội, làm ông quan thanh liêm để danh thơm cho dòng họ. Con nên nhớ rằng: ‘Quan nhất thời, dân vạn đại.’ Hành xử thế nào để người dân không ta thán khi mình làm quan, và không bị phỉ nhổ khi mình về làm dân.” Đến đây bà bảo: “Ngày mốt chúng ta sẽ làm cỗ cúng tổ tiên, ông bà và mời ít bà con thân thuộc đến chung vui với gia đình mình”.

Ở chơi với mẹ gần tuần lễ, vợ chồng Phong trở lại Đà Lạt.

Cuộc sống của họ êm đềm, hạnh phúc và cho ra đời 2 đứa con trai kháu khỉnh (sinh đôi).

Rồi cuộc chiến mỗi ngày thêm ác liệt, nhưng họ vẫn còn hưởng được sự bình an, nơi hậu phương tươi đẹp và trù phú ở vùng cao nguyên. Phong không phải trực tiếp trước trước lằn tên, mũi đạn như các chiến sĩ ở chiến trường, nhưng mối hiểm nguy luôn rình rập... Dù vậy, đêm đêm vẫn có tiếng điện thoại gọi về cho bà.


Đến ngày 30/4/1975, đất trời như sập đổ, cuộc đời của họ cuốn theo vận nước tang thương.

Phong bị bắt! Bà không còn được đi dạy học!

Không thể kể hết những nghiệt ngã họ đã trải qua, sau ngày Miền Nam rơi vào tay giặc - chồng bị đọa đày 6 năm trong các trại tù cải tạo; còn bà gian truân nơi chợ trời, bươn chải kiếm sống nuôi con, tiếp tế cho chồng...

Rồi đến một ngày, chính phủ Hoa Kỳ cho những người phục vụ trong chế độ cũ, đã bị tù trên 3 năm, được đi định cư  trên vùng đất hứa, họ mới thoát cảnh lầm than.

Những ngày đầu tiên trên đất khách, cũng như bao nhiêu người tỵ nạn khác, lăn vào công việc, bất kể ngày đêm. Nơi nào có việc mà người Mỹ chê, là dân tỵ nạn nhảy vào. Phong xin được một chân hốt rác trong nhà in, còn bà xin làm phụ bếp cho nhà hàng Tàu. Phong làm ban đêm, ban ngày đi học - mấy năm sau lấy được bằng CPA (Certified Public Accountant). Còn bà, ngoài giờ làm phụ bếp ở nhà hàng, bà đi học Anh văn.

Số tiền kiếm được trong mấy năm lao động cực nhọc, ông bà ra thuê căn phố, trương bảng hiệu: “Khai Thuế và Real Estate Broker.” Lúc ấy nhiều người Việt mới sang, chưa rành tiếng Anh, nên thường đến nhờ ông khai thuế và nhờ bà hướng dẫn mua nhà.

Văn phòng lúc nào cũng đông khách. Vận may đến với ông bà như “diều gặp gió”. Thế là giàu và được xem là một gia đình thành công lúc bấy giờ.


Tuy công việc bận rộn, bà vẫn để tâm đến chuyện học hành của 2 đứa con trai. Có tiền nên ông bà cho con vào học trường tư. Qua bậc Trung học, bà cho con vào những Đại học danh tiếng, đóng học phí rất cao. Nhưng tiền bạc không mua được chữ nghĩa, và hình như ông trời cho cái này thì mất cái kia - chuyện học hành của 2 đứa con không ra gì. Bà buồn lắm! Bà thường xuyên gọi điện thoại khuyến khích chúng nó học hành, nhưng vẫn không đạt được điều mong muốn.


Thời gian qua mau, 2 đứa con trai đến tuổi trưởng thành, ông bà lo việc hôn nhân cho chúng nó. Rồi chúng nó ra riêng, ông bà bù đắp mua cho mỗi đứa một căn nhà.

Bây giờ đã đến tuổi về hưu, hai vợ chồng già hủ hỉ bên nhau trong căn nhà cũ. Tiếng điện thoại vẫn reo đều, nhưng không phải là tiếng điện thoại của khách hàng hẹn đi xem nhà, hay hẹn giờ khai thuế, mà là tiếng điện thoại của con dâu, gọi: nhờ mẹ sang trông giúp đứa cháu nội để nó đi mua sắm, hay tiếng điện thoại của thằng con trai nhờ ba đi đón đứa cháu nội ở trường. Những tiếng điện thoại ấy làm ông bà bận rộn, nhưng là niềm vui trong hạnh phúc.

Những lần đi chơi xa, không có bà đi theo, đêm đêm ông gọi về cho vợ, tỉ tê những chuyện vui buồn nơi ông đang ở, làm bà nhớ lại kỷ niệm năm xưa. Hay những lần lạc nhau trong shopping mall rộng lớn, tiếng điện thoại lại reo, để ông đến dẫn bà ra xe, về nhà... làm bà bớt bối rối. Bà thương chồng và cảm ơn chiếc điện thoại.  


Gần 10 năm, từ ngày về hưu, tiếng chuông điện vẫn reo đều... Cho đến một ngày, ông ra đi đột ngột vì cơn đau tim. Thế là bà ngậm ngùi, vĩnh biệt một tiếng chuông điện thoại yêu thương.

Sau đó, những tiếng chuông điện thoại thưa dần, vì bây giờ sức bà đã yếu, đâu còn giúp con dâu trông cháu được nữa. Nó gọi để làm gì? Thỉnh thoảng đứa con trai gọi đến hỏi thăm sức khỏe, nhưng giọng không tha thiết như lúc nó còn đi học, gọi về cho mẹ để xin tiền. Đôi lần, vắng tiếng điện của con, bà nhớ, bà lo: không biết có chuyện gì xảy ra.. Bà gọi cho con. Khi biết mọi sự bình an, bà mừng. Rồi bà kể lể chuyện: cô đơn, buồn chán, đau nhức, bệnh tật của tuổi già... Đứa con dâu nghe thấy, nó nói một câu phũ phàng: “Mẹ nhõng nhẽo, làm nũng đấy!” Thằng con trai thương mẹ cũng an ủi vài câu, rồi tắt máy.  Đến một ngày xui rủi, bà trượt chân té ngã, bị bể xương bàn tọa, vào nhà thương chữa trị hơn 6 tháng. Bà không đi đứng được nữa, phải ngồi xe lăn và không tự lo vệ sinh cho mình được. Ở nhà thương có y tá giúp đỡ, chứ về nhà, con trai bà đâu có chăm sóc cho mẹ được, còn con dâu thì khó trông cậy. Biết làm sao bây giờ? Bà đành chấp nhận đề nghị của nhà thương chuyển qua một viện dưỡng lão. 


Từ ngày vô viện dưỡng lão, thỉnh thoảng con trai bà đến thăm vào dịp Tết, Giáng Sinh, ngày Mother’s Day, nhưng rất hiếm khi được nghe tiếng chuông điện thoại.

Các con của bà chọn một viện dưỡng lão cao cấp, mỗi tháng trả 5 ngàn đô. Chúng nghĩ như vậy là sung sướng cho mẹ. Thực tế không sai, vì ở đây có những điều dưỡng viên kinh nghiệm, tận tụy, phục vụ chu đáo...  Tuổi già mấy người được như vậy?

Nhưng tiền bạc không thể đáp ứng được mọi vấn đề. Ngày xưa, thương con, bà chọn những trường danh tiếng cho con vào học, đóng học phí rất cao, nhưng tiền bạc không mua được chữ nghĩa. Bây giờ, các con thương mẹ, chọn nhà dưỡng lão cao cấp, với chi phí cũng rất cao, nhưng không mua được ước vọng yêu thương.

Ở đây bà mong đợi tiếng điện thoại reo như một liều thuốc an thần cho bớt cảm thấy cô đơn. Nhưng chồng bà không còn gọi về nữa, các bạn bè của bà cũng lần lượt ra đi, bà chỉ còn mong tiếng chuông điện thoại của các con. Nhưng than ôi! Tiếng chuông điện thưa dần rồi mất hút.     

Những lúc nhớ đến con cháu, bà gọi về; chúng nó không bắt phone vì lần nào bà cũng kể lể dông dài, chỉ chừng ấy chuyện, không có gì mới mẻ. Chúng nó chán và cũng không gọi lại cho bà. Chúng nó ỷ lại, nếu có điều gì bất trắc, văn phòng viện dưỡng lão sẽ gọi thông báo, chúng nó đến ngay. Chúng đâu có biết - nghe được giọng nói của con, bà cảm thấy khỏe ra như được uống viên thuốc bổ.         


Ngày lễ Mother’s Day năm nay, 2 đứa con dẫn vợ con vào nhà dưỡng lão, thăm mẹ. Món quà tặng mẹ trong ngày Mothe’s Day là cái iPhone 14. Từ trước đến giờ, món quà mà bà thích nhất vẫn là chiếc điện thoại di động (cell phone). Tặng món gì, dù đắt giá hơn, bà cũng không thích bằng cái điện thoại di động. Biết ý vợ,  ông chồng lúc còn sinh tiền, hễ chiếc điện thoại di động nào mới ra đời, nổi tiếng là mua tặng cho vợ, không cần biết giá cả bao nhiêu, cũng không cần đợi ngày sinh nhật hay lễ Tết. Bây giờ các con của bà cũng bắt chước cha mua tặng bà chiếc iPhone 14.    Bà cảm động cầm chiếc iPhone 14 săm soi, rồi cúi xuống, hai giọt nước mắt lăn trên gò má nhăn nheo, bà thở dài khẽ nói: “Mẹ biết gọi ai bây giờ?” 

 

Lê Đức Luận
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23640
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Sep/2023 lúc 4:22pm

Thành Phố Buồn Tênh 

Tiếng hát trầm buồn của ca sĩ Chế Linh đang trình bày ca khúcThành Phố Buồn từ máy hát của nhà ai dội đến, ca khúc này đã khiến tôi nhớ quay quắc Thị xã Kon Tum, nơi đơn vị tôi đóng quân trong thời chinh chiến, cũng là chốn để lại cho Tôi nhiều kỷ niệm rất thân thương trong miền ký ức.

Ở đây có một người thiếu nữ người dân tộc Ba Na sinh sống tại ngôi làng Konjơret ( Con dơ rét ), nằm cạnh bìa rừng cách sông Đakbla ( Đắp la ) xinh đẹp một con đường đất đỏ chạy xuyên suốt từ đầu đến cuối buôn làng. Cô gái có cái tên rất lạ: Djem ( Dem ), cô sở hữu một làn da trắng như những cánh hoa Cà phê được bà con trồng ven làng, mái tóc dài đen nhánh, thân hình cân đối và nhất là hàm rắng rất trắng và đều, nói chung là không chê vào đâu được..

Một ngày giữa năm 1974, do yêu cầu của chiến trường, đơn vị chúng tôi được phối trí lực lượng và đóng quân cách buôn làng nói trên chừng trăm mét, mục đích để chận đường chuyển quân của đối phương và bảo vệ buôn làng người dân tộc nơi đây. Sau một ngày vất vả ổn định nơi ăn chốn ở và nơi làm việc, khi chiều đến tôi cùng đồng đội ra con sông Đakbla để tắm giặt và lấy nước về sinh hoạt, xong đâu đấy Tôi và thằng bạn rất thân nó có tên Bùi Đức Kết người Quê Quảng Ngãi hai đứa ra ngồi cạnh bờ sông phía khu vực bên bị nước sông xâm thực tạo thành vách thẳng đứng rất đẹp nhưng hơi nguy hiểm vì có thể bị sụp đất rơi xuống sông lúc nào không hay, ngồi đong đưa hai chân, ngước nhìn bầu trời trong xanh bao la, rồi nhìn dòng sông lững lờ chảy, gió thổi hiu hiu, khung cảnh lạ lẫm nhưng hữu tình, giá mà lúc ấy biết làm thơ thì có lẽ giờ này Tôi cũng có được vài chục bài ca ngợi cảnh đẹp nơi này, đang thả hồn và đắm chìm với những suy nghĩ mông lung… bất chợt tiếng thằng Kết bạn tôi kêu lên thản thốt:

– Hùng ơi! mầy nhìn xem, có cô Tiên ở đâu đang hiện ra kìa.

Nhìn theo hướng của thằng Kết chỉ, tôi vội đáp lại:

– Thôi đi ông ơi, đó là nhà của Cô ấy chứ đâu ( Tôi đoán mò ):

– Ủa mà sao tao thấy hình như mầy mới bị sét đánh phải không thằng quỷ, cái tật thấy con gái là mầy tươm tướp hà, coi chừng họ có chồng rồi đó đừng có mơ nghe mậy.

Chẳng thèm để ý đến lời của tôi, mắt nó cứ nhìn chầm chầm về ngôi nhà sàn nằm phía bên kia đường có cô gái đang ngồi ngoài hiên nhà chải tóc, bổng dưng hắn đổi tông hỏi tôi một câu chẳng ăn nhập đâu vào đâu:

– Hồi nào tới giờ tao với mầy chơi nhau rất thân đúng không Hùng? Ngạc nhiên vô cùng tôi thầm nghĩ:

“Thằng này nó muốn cái gì đây, nói đại cho rồi còn bày đặt xa gần chi vậy nữa “

Trả lời nó, tôi nói:

– Còn cái gì nữa mà hỏi, bộ mầy tính nhờ tao chuyện gì phải không? muốn mượn chút đỉnh gửi về cho gia đình hả, tao còn đúng tám ngàn đồng nè, muốn thì cứ lấy đi, vậy là tháng này tao treo “mỏ” luôn.

Thằng Kết đớp chát lại tôi:

– Không phải đâu mầy ơi, tao gửi tiền về rồi, nhờ mầy chuyện khác, chờ tao một chút biết liền.

Nó xoay người sang một bên, đúc tay vào túi quần rút gói thuốc lá Quân Tiếp Vụ nhăn nheo ra, đưa tay vuốt thẳng gói thuốc lá xong, nó xé tờ giấy bạc bên trong và lấy viết ra hý hoáy nhiều dòng chữ gì đó mà mãi đến bây giờ tôi chưa được đọc qua.

– Bây giờ tao nhờ mầy đem lá thư này đưa cho em gái bên đó giùm tao, và mầy chịu khó chờ cô ấy đọc xong và trả lời rồi mầy hãy về cho tao biết, xong việc này tao bao mầy một chầu cine ở ngoài Thị xã Kon tum, nếu không coi hát bóng thì mầy muốn gì tao cũng chìu, nhưng nửa tháng lương không kèm phụ cấp nghe mậy.

Cầm lá thư trên tay tôi thầm nghĩ:

” Cái thằng này sao nó bạo quá, chưa bao giờ nói chuyện với con người ta mà dám thư với từ “.

Tuy vậy vì thương bạn nên tôi bất đắc dĩ làm cánh én chuyên chở mùa xuân Tây nguyên về cho nó, một thằng quỷ ” Háo sắc ” thấy phát ớn.

Bước chân đến cầu thang gỗ trước hiên nhà cô gái, mắt tôi ngước nhìn, Đầu óc tôi gần như choáng váng và chợt nghĩ :

“Cái thằng Kết ranh ma này đúng là có con mắt tinh đời”.

Trước mắt tôi một dung nhan thánh thiện, nàng đẹp mê hồn khiến tôi cứ lóng ngóng thốt chẳng nên lời, thậm chí lúc ấy bản năng trổi dậy tôi định dấu biệt cái thư của thằng bạn thân kia, thầm mong làm quen với người đẹp riêng cho mình, nhưng rồi lý trí mách bảo Tôi phải đi lại đường ngay lẽ phải, tôi ngập ngừng nói với cô gái:

– Chào em ( Tôi Lấy hết can đảm ) Anh tên Hùng, anh mới về đóng quân sáng nay cạnh Làng mình, tình cờ gặp em nên bạn anh ( Tôi chỉ tay về phía bờ sông ) nó tên Bùi Đức Kết.Nó nhờ anh cầm thư này đưa cho em, anh không biết nó viết gì trong ở trong đó vì lịch sự anh không thể xem thư, nếu có gì không phải thì xin em vui lòng bỏ qua cho nha.

Cô gái nhoẽn miệng cười tươi như đoá hoa rừng vừa hé nở, lòng tôi xao động vô cùng, lúc ấy tôi cố kiềm chế chứ không thì sẽ không tròn nhiệm vụ của thằng bạn thân thiết giao phó. Djem nhận lấy lá thư vừa xem xong bổng dưng nàng cười ngất khiến tôi khó hiểu vô cùng. với giọng lơ lớ của đồng bào dân tộc nàng nói:

– Anh Hùng ơi! Anh nói với bạn anh là em có người yêu rồi. thật tiếc quá, thôi để em giới thiệu con Hơbia bạn em cho anh Kết nhé, còn người yêu của em là anh Hùng nè!

Đất trời như sụp đổ dưới chân tôi, chân tay tôi lạnh cóng. Lần đầu tiên trong đời tôi mới được một người con gái, mà là gái đẹp nữa, nói lời yêu thương mình thì hỏi làm sao tôi không khỏi bồi hồi, tôi chợt hiểu thì ra thư tỏ tình của thằng Kết. Bây giờ tôi phải ăn nói làm sao với nó đây? Không khéo nó lại cho mình là kẻ cướp tình yêu thì khốn khổ lắm thay, tôi nói với cô gái:

– Anh không ngờ nó để ý em nhanh đến thế! À mà tại sao em không thích bạn anh, còn anh đâu có gì đâu mà em lại chọn

– Em thấy anh đẹp trai hơn bạn anh.

( chắc lúc đó nàng chỉ nhìn cái tướng tá thôi vì xa quá làm sao biết thằng Kết không đẹp ), cô gái nói tiếp:

– Đã vậy anh Kết còn lùn hơn em…

Tôi bật cười với câu nói ngây thơ thật lòng của cô gái miền sơn cước, tôi đắm chìm trong hạnh phúc ” Ðê mê ” kia, cái cảm giác ” Bất chiến tự nhiên thành ” nó đến với tôi như một phép mầu, không dễ gì có được lần thứ hai…

Rồi dăm tháng trôi nhanh, mới đó mà NOEL lại về trên quê hương, ngôi nhà thờ trong làng Konjoret được thanh niên, thiếu nữ Ba na, già làng, cùng cha bề trên giăng đèn kết hoa làm cho không khí núi rừng tây nguyên mang một sức sống mới, tôi và thằng kết cũng góp một tay vào công việc này để tỏ cái tình “Quân dân cá nước”.

Ðêm Noel thật vui, sau khi rước đèn quanh làng, tôi và thằng Kết được mời chung vui tiệc ( Rờ vi Dông ) đến gần tận sáng, nào rượu cần, nào thịt heo, vịt, gà tất cả đều nướng lên trên đống lửa bập bùng, hương nồng của rượu, cái nóng của đống lửa hoà vào cái không khí lạnh giá đêm noel, Tôi ngồi cùng Djem, thằng Kết quấn quít với con Hơbia chúng tôi có cái cảm giác hạnh phúc đong đầy, tôi cảm thấy trên cuộc đời này không có gì tuyệt vời như đêm hôm ấy.

Cuộc sống bà con nơi đây không xa hoa, quanh năm sống cùng cái rẫy trên ngàn, con cá dưới sông dưới suối, con nai con mễn trên rừng, cuộc sống như vậy đó mà thật là hiếu khách, bản chất hiền hoà của mọi người khiến chúng tôi muốn rơi nước mắt khi chia tay nơi này, tôi sẽ nói ở phần sau…

Mùa mưa của Tây nguyên lại đến, những cơn mưa rừng thường thì không lớn, ít khi hung hãn như mưa vùng đồng bằng, tuy nhiên có những cơn mưa rả rích cả tháng không thấy mặt trời, mặt đất nhuộm đầy bùn đất đỏ, nhất là cái lạnh mà anh em thường nói lạnh từ trong xương lạnh ra. Một hôm đang ngồi trực máy truyền tin tại Trung tâm hành quân của đơn vị, bổng đâu từ phía ngoài thằng Kết mình ướt như chuột lột nó lao vào như tên bắn, đến chổ tôi ngồi nó thì thầm bên tai tôi như sợ các sếp biết chuyện bí mật gì vậy:

– Người yêu mầy đang bị sốt rét rừng hành hạ kìa, Ông Thượng sĩ Còn (Tên riêng ) nhờ báo cho mầy biết đó.

Giật bắn người, tôi cự nự nó:

– Sao giờ này mày mới nói hả thằng quỷ?

Bật đứng dậy tôi dùng hai tay ấn vai thằng kết xuống ghế, nhờ nó làm thay công việc tôi đang làm dang dở:

– Mầy trực dùm tao, chút nữa tao trở về.

Nói được có bấy nhiêu, khoác vội chiếc Poncho tôi đến ngay nhà Djem, mọi người trong nhà vây quanh, Djem nằm thở mệt nhọc, vóc dáng xanh xao, bao nhiêu sinh khí hầu như mất gần hết, tôi thương cảm và đến gần bên hôn nhẹ trên trán ( Lúc này tôi hơi tự nhiên ) và hỏi nhỏ:

– Em có uống thuốc men gì chưa? ăn uống được không?

Djem cố trả lời:

– Ở đây không có uống thuốc gì hết, có nhờ thầy cúng đến làm phép bắt con ma rồi, vài hôm em sẻ khỏi thôi mà.

Tự dưng tôi nỗi nóng:

– Trời ơi! Bệnh là phải uống thuốc chứ, cúng kiến làm gì mà khỏi bệnh, sao mà vùng này còn mê tín quá vậy.

Nhiều cặp mắt người thân trong nhà nhìn về phía tôi, họ nghĩ tôi từ một hành tinh nào đến chứ không phải người đang sống nơi đây, tập tục người dân tộc khi bệnh hoạn thì nhờ thầy cúng, công bằng mà nói nhiều khi con bệnh có sức đề kháng tốt thì tự khỏi bệnh trong vài hôm thì công lao đó được coi như là nhờ thầy cúng, từ đó bà con cứ tin mà làm theo lệ. Biết mình lỡ lời thiếu kiềm chế, tôi lấy cớ thối thoát xin phép ra về. Sau đó tôi nhờ vị sĩ quan quân y ở đơn vị đến chạy chữa thuốc men thì Djem khỏi bệnh sau một tuần bạo bệnh.

Sau lần đó tình yêu chúng tôi càng thăng hoa hơn, tuy vậy hai đứa vẩn giữ gìn cho nhau chưa bao giờ cả gan vượt vòng lễ giáo, nếu làm như vậy thì sẽ bị làng phạt nộp một con bò để tạ tội với Giàng với bà con thì… chết chắc..

Đến mùa thu hoạch hoa màu, rẫy bắp đầy trái, chúng tôi làm việc bên nhau vui vẻ, lúc rảnh rỗi tôi phụ Djem để chia sẻ bớt nỗi nhọc nhằn bấy lâu ; lúc nghỉ trưa, bên bóng mát của cây gỗ dầu có niên đại chừng trăm tuổi xoè tán rộng che mát cho hai tâm hồn đang hướng về nhau. Djemnói với tôi:

-Em muốn cưới anh quá, anh có muốn không?

Tôi bất ngờ nhưng không ngạc nhiên lắm, do người Bana theo chế độ mẫu hệ, nên lời đề nghị này không phải là khiếm nhã cho là ” Cột đi tìm trâu “. Thật lòng Tôi Đáp:

-Anh rất muốn, nhưng phải xin ba mẹ ở nhà mới được. Khi nào có kết quả anh cho em biết nhé, Djem giận dỗi:

– Đừng có làm bộ rồi trốn về Sài Gòn luôn nha, ở đây buồn là em sẽ chết đó.

Tôi bụm miệng Djem lại, khẻ tát yêu vào má và trách:

– Không tin anh thì thôi… anh sẽ…..

Cũng đến lúc tôi được hưởng 15 ngày phép thường niên, trên đường trở lại Sài Gòn tôi miên man suy nghĩ đến những gì mình phải đối mặt với gia đình, thuyết phục gia đình được không? mệt mỏi với ý nghĩ trên tôi thiếp đi trên chuyến xe đò liên tỉnh, khi giật mình thức dậy và Sài Gòn đã hiện ra trước mắt tôi bao tháng ngày xa cách.

Ngày đầu tiên ở gia đình tôi chưa dám đá động gì đến mối tình sâu kín của mình, qua hôm sau trong một buổi cơm chiều, thu hết can đảm tôi trịnh trọng thông báo:

– Bấy lâu nay con đã để lòng thương một cô gái người dân tộc, cô ấy ở gần nơi đơn vị con đóng quân, con lớn trong gia đình.. nhà hơi nghèo nhưng được cái tính giỏi giang và nhất là đẹp và khoẻ mạnh. Nay con xin ba má cho con được lấy cổ làm vợ… lâu lâu chúng con sẽ về thăm ba má một lần.

Để giành lấy chiến thắng tôi tiếp tục pha trò:

– Tụi con sẽ mang về nào là bắp, mía, thịt rừng về cho ba mẹ, và cho cả nhà thưởng thức đặc sản tây nguyên nữa đó.

Như từ Cung trăng rớt xuống trần gian sau khi nghe câu chuyện thần thoại ” Ðường rừng ” này, mẹ tôi nói:

– Nếu con muốn làm

” Già làng ” thì ba mẹ không cấm, nhưng liệu về lâu dài con có chịu được hay không, và nhất là dư luận xã hội nữa?.

Ngầm hiểu gia đình không chấp nhận câu chuyện hôn nhân này, tôi đánh lạc hướng cho gia đình được vui:

– Lâu quá mới về nhà, không có gì làm quà nên con tạo ra “sì căn đan” này cho vui nhà vui cửa, chứ làm gì có ” Già làng ” nọ kia.

Trấn an gia đình xong, đêm đó về phòng nghĩ, tôi trằn trọc suốt đêm, cái cảm giác tội lỗi giữa bên hiếu bên tình nó đan xen nhau mãi khiến tôi gầy rộc người sau kỳ nghỉ phép tại gia đình…

Trên đường quay lại đơn vị, cái ba lô sau lưng tôi nó trĩu nặng hơn mọi khi, hình như nó cũng muốn níu kéo ghì chặt tôi phải ở lại cái vùng đất này, vùng đất tây nguyên màu mỡ ngàn lần yêu thương…

Rồi định mệnh dường như đã có sự sắp đặt, Tây nguyên được lệnh di tản chiến thuật, đơn vị tôi cũng không có ngoại lệ, chuẩn bị cho việc rút quân xong, chúng tôi lên xe từ từ lăn bánh rời xa ngôi làng Konjoret, bỏ lại phía sau bụi đỏ mịt mù, với tôi bầu trời dường như tối sầm trước mắt, lòng tôi ăn năn vô hạn, tôi đã không thể tròn nguyện ước với cánh hoa cà phê mong manh của mình, cuộc ra đi buồn như thế, không gặp được người yêu bé bỏng để nói lời tạ từ, nói lời xin lỗi tình yêu rất nồng nàn em đã trọn dành hết cho anh…

Xe chạy đến cầu Đakbla thì chậm lại, do có đoàn người lố nhố phía trước, bất chợt Djem của tôi cũng có mặt trong số người đó, nàng đang gùi trên lưng những trái bắp to tròn mũm mĩm, thành quả gặt hái được bao ngày vất vả trên nương rẫy, giờ đây đem ra chợ xã Konkopat để đổi lấy vật dụng cần thiết cho gia đình.

Thấy tôi ngồi sau chiếc xe jeep mui trần có 2 cần anten cao vút như râu của chú cào cào kiêu hãnh trên rẫy bắp mà tôi thường gặp, Djem bật khóc, hai hàng nước mắt lăn dài trên đôi má hồng, tôi vội ngoái người ra khỏi xe, vẫy tay chào và nói trong vô vọng:

– Nhớ giữ gìn sức khoẻ, chăm sóc ba mẹ nhé. anh sẽ…

Gió đã cuốn đi lời nói kia, Tôi chắc rằng nó không thể nào đến tai của người tôi hằng thương mến, giọng tôi khản lại, cố cắn chặt đôi môi để tránh bật thành tiếng khóc, nhưng sao miệng tôi mằn mặn hồi nào không hay.

***

Thôi nhé tạm biệt Tây nguyên, tạm biệt cái thành phố Kontum nhỏ bé mà buồn tênh kia, tạm biệt cái làng Konjoret, tạm biệt dòng sông Dakbla và xin tạm biệt tình yêu bé nhỏ của tôi…

Tiếng hát của ca sĩ Chế Linh cũng đã chấm dứt tự bao giờ, ngồi đây với thực tại tôi cũng mong rằng sau mấy mươi năm dài xa cách, người con gái Bana ngày xưa sẽ yên ổn mọi điều, và tôi cũng để cho bụi thời gian ngủ yên cùng quá khứ, một quá khứ Tuyệt vời…


Hai Hùng Sg

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23640
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 09/Sep/2023 lúc 9:30am

Cánh Hoa Trước Gió 

 
Nếu%20những%20cánh%20hoa%20không%20bay%20trong%20gió…

Tôi quen Liên trong dịp theo học lớp English As A Second Language. Hồi đầu tiên đặt chân tới San Jose, tôi chẳng biết nhiều Anh văn ngoài mấy câu :"Hello, How are you today ? I am fine. Thank you." Đó là vốn liếng tiếng Anh còn sót lại của những năm trung học, của những giờ sinh ngữ phụ. Lúc tìm trường đi học anh văn, tôi nhờ người chị kiếm cho  một lớp sơ đẳng, căn bản nhất để tôi bắt đầu. Tôi được hướng dẫn đến lớp ông John.


Lớp học nằm trên tầng hai của một dãy lầu thuộc một nhà thờ Methodish trên đường số Năm. Tôi đến lớp trong tâm trạng nửa chán nản nửa hồi hộp. Chán nản vì những thay đổi bất ngờ của cuộc tỵ nạn làm tôi mất thăng bằng. Hồi hộp vì không biết điều gì sẽ xảy ra những ngày sắp tới. Do vậy, ngày khai trường hôm ấy không mang cho tôi một cảm giác thoải mái nào. Lúc đến cao ốc, theo dấu mũi tên của tấm bảng trắng có hàng chữ đỏ :"Lớp học Anh Văn sơ đẳng dành cho người tỵ nạn Việt Nam". Tôi leo lên lầu đến một căn phòng sát cầu thang. Bên trong lớp học tôi thấy có tất cả năm người. Một vị giáo sư người Hoa Kỳ trạc ngoài ba mươi, đang viết lên bảng hàng chữ :"Good morning. How are you today ?". Phía dưới có bốn người học trò lớn tuổi. Một thanh niên gần ba mươi, vận một chiếc áo dầy hàng vải lính. Cạnh anh ta là một vị nữ tu người ngoại quốc. Kế tiếp là một phụ nữ tuổi đã tứ tuần khuôn mặt giống như người Hoa Kiều ở Chợ Lớn. Và cuối cùng là một cô gái nhỏ con, vận chiếc váy đầm màu ngựa vằn.

Tôi đẩy cửa bước vào. Vị giáo sư nghe tiếng động quay lại. Tôi chưa biết phải mở đầu như thế nào, thì vị giáo sư đã chào và bảo tôi đến kiếm một chỗ ngồi. Tôi đến ngồi cạnh người thiếu nữ vận áo ngựa vằn. Thiếu nữ ấy chính là Liên.

Giờ ra chơi hôm ấy Liên đến hỏi chuyện. Vẻ thân mật và nụ cười tươi của Liên làm tôi có cảm tình. Liên gợi chuyện :

- Bồ cũng mới ra đây hả ?

Tôi đáp :

- Vâng, em vừa mới ra trại khoảng chừng hai tháng.

Liên trố mắt nhìn tôi.

- Chèng đéc ơi ! Ra hai tháng nay mà tới giờ này mới đi học anh văn. Tui mới ra bốn hôm rày hà. Mà tui bắt xì pông xo kiếm trường cho tui đi học  liền dzậy đó. Bộ bồ đau sao mà xanh vậy ?

Tôi ấp úng. Biết trả lời sao ! Hai tháng qua mặc dầu chị tôi hối thúc thế nào tôi vẫn không thể quân bình tâm trí để có thể bắt đầu làm một việc gì. Tôi ở nhà nằm vùi trong phòng. Khóc lóc và nhớ nhung. Tôi có cảm tưởng toàn thân thể và trí óc tê liệt đến độ không thể nhúc nhích. Tôi gật đầu trả lời :

- Vâng, em bị ốm nên nằm nhà.

- Ừ, chắc nhớ nhà rồi sinh đau.


Rồi Liên hỏi tiếp đủ chuyện. Mỗi khi hỏi chuyện gì Liên giương đôi mắt làm duyên, miệng nàng uốn éo cong co giọng miền Nam  nghe rất dòn.

- Xì pông xo của bồ là ai dzậy ?

- Dạ là chị của em.

Liên nói : Chà dzậy sướng quá héng. Có chị có em ngon quá chời. Rồi Liên kể lể:

- Tui hồi đó ở trại Bảy, Camp Pendleton đó. Tui sang đây có một mình hà. Chèng đéc ơi ! Ai mà tính đi. Bửa hôm chiều ba mươi, tui đạp xe gắn máy ra bến tàu, thấy người ta leo lên tàu quá chời. Tui quăng xe leo theo người ta lọt sang tới tận đây. Tui ở trong trại lâu là vì muốn chờ gặp xì pông xo tốt kìa. Bị nếu mình gặp xì pông xo tốt, mình mới có cơ hội đi lên được phải hông bồ. Tui được nhiều người pông xo ra, nhưng thấy ở trỏng cũng vui nên tui ráng chờ. Hồi gặp bà Cathy này tui mới ra.

 

Nghe Liên kể chuyện ra đi, tôi nhớ lại hoàn cảnh mình. Tôi  đi hôm hai mươi sáu tháng tư. Ngọc, một người bạn thân đã cố nhét tôi vào danh sách gia đình nàng, những người làm cho toà đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Hôm ấy giữa không khí hỗn loạn mơ hồ, tôi ra đi trong  tâm trạng của một người trẻ muốn giang  hồ phiêu lưu. Bây giờ ở mãnh đất lạ này, tôi mới biết chuyện ra đi ấy thật quan trọng.

 

Liên dừng lại giây lát. Dáng nàng nhỏ xíu, cái dáng như con gái mười ba mười bốn tuy Liên đã trạc hai mươi lăm. Giọng nói và khuôn mặt có vẻ đĩ thỏa nhưng duyên dáng. Tôi nghĩ đời Liên chắc phải nhiều lắc léo.

- Tui gặp bà Cathy này cũng tốt. Bà có cái nhà thiệt bự ở dưới đường Hai Mươi Sáu, lại vừa mới ly dị chồng. Chèng đéc ơi ! Vợ chồng ăn ở với nhau bao nhiêu năm nay rồi, giờ tới hồi cơm hổng lành canh hổng ngọt, bà dọn hết đồ ổng ra hổng nương tay. Dzậy mà bà thiệt tốt bụng. Pông xo tui dzìa là dẫn tui đi mua sắm, đưa tui đi học anh văn liền hà. Cuối tuần rồi, bà dẫn tui đi Reno coi người ta đánh bài.

Liên nói thao thao về những tử tế của bà Cathy đối với nàng cho đến khi vào lớp học. Nào là bà Cathy dọn cho nàng một căn phòng tốt ở trên lầu, dẫn nàng đi khai weo phe, đưa đón nàng đi học, cũng như đi dạo phố Tàu phố Nhật ở San Francisco và khắp nơi...Câu chuyện của Liên không có gì hấp dẫn. Nhưng tôi bị lôi cuốn bởi cái lối kể chuyện của nàng. Nàng kể chuyện nồng nhiệt tự nhiên  và vui vẻ như một kẻ có tâm lý bình yên  vững chắc. Nàng diễn tả ý tưởng và tâm tình đơn sơ theo trí tưởng của nàng. Nhất là giọng Nam của nàng nghe  trơn tru giòn giã dễ chịu  đối với tôi, một người có cảm tình với giọng nói này. Tôi đang ở trong trạng thái lơ ngơ khật khùng của những ngày đầu ở Mỹ. Khi được nghe Liên kể chuyện, tôi cảm thấy thoải mái như được uống một bát nước vừa ý.

 

Vì những cảm tình đặc biệt với con người đáng yêu của Liên, thỉnh thoảng tôi nhận lời đi dạo phố hoặc đi mua sắm với nàng. Thuở ấy chúng tôi vừa mới gia nhập đời sống Mỹ nên chưa biết mơ ước những thú vui đắt tiền. Chẳng hạn mơ làm chủ một chiếc xe đẹp để vừa hãnh diện  với người xung quanh để vừa đi đây đi đó thỏa thích. Niềm vui  của chúng tôi lúc đó được Liên đơn giản hoá  bằng hai chiếc xe đạp của nàng. Những chiều tan học, Liên rủ tôi đến phòng, cho tôi mượn một chiếc xe đạp, loại xe chỉ dành cho trẻ con mười hai mười ba đạp rong trong xóm. Tôi và Liên thơ thẩn đạp xe lòng vòng dưới phố. Chúng tôi đạp xe trên những vỉa hè  sạch sẽ và vắng ngắt bóng người. Tôi thường đi sau Liên, để cho nàng hướng dẫn  những cuộc đi dạo này. Sau này mỗi khi nhớ lại những kỷ niệm của những ngày  bắt đầu cuộc sống ở Mỹ, tôi không thể nào quên được những lần đi dạo xe đạp ngây ngô với Liên dưới phố San Jose.

 

Mối thân giao giữa tôi và  Liên  cũng mờ mờ ảo ảo. Chúng tôi chỉ gặp nhau  trong những lần đi học, đi dạo  hay đi mua sắm. Liên đã xem tôi như một nhân vật lạ đời để nàng có thể kể  những câu chuyện  của nàng  hay để đi đâu đó một đôi khi. Tôi cũng thấy dễ chịu trong mối sơ giao ấy. Thỉnh thoảng Liên vô tình tiết lộ cho tôi nghe những câu chuyện, mà qua đó, tôi biết rằng nàng vẫn còn tiếp tục một phần nào cuộc sống cũ ở Việt Nam, cuộc sống của những người  buôn hương bán phấn. Dĩ nhiên tôi không bao giờ tỏ ý phê bình đụng chạm đến nghề nghiệp đó của nàng. Những câu chuyện về quá khứ của nàng phần lớn là những chuyện vui vì cái lối kể chuyện của Liên hơn là thiên truyện của quá khứ bất hạnh của một thiếu nữ.

 

Liên kể cho tôi nghe những câu chuyện về những xóm làng, những quán chợ, những người bạn thuở thiếu thời cùng gánh nước mướn như nàng. Về Tây Ninh nơi nàng sanh ra, và lớn lên trong một không khí gia đình lùng bùng. Một đàn em lếch thếch, một bà mẹ ghẻ hiền lành, một ông bố thất nghiệp say sưa mù mịt. Năm mười tám tuổi, Liên bỏ nhà trốn lên Sài Gòn. Nàng đăng vào nữ quân nhân. Ngày đầu tiên đăng đơn nhập ngũ, nàng bị ông lính nhận đơn hãm hiếp ở phòng khách đêm ấy.

Đôi khi, Liên kể cho tôi nghe nàng đã ngủ với ông tá ông uý nào ở ngôi nhà ấy. Ngôi nhà ở Biên Hoà với những vách tường kính và chiếc giường Hồng Kông  là kết quả của bao nhiêu năm nàng lăn lộn trong nghề. Câu chuyện về ngôi nhà ở Biên Hoà thường dẫn Liên tới niềm mơ ước có thể sở hữu được một ngôi nhà trên đất Mỹ này sớm chừng nào tốt chừng nấy.

 

Một hôm Liên đưa cho tôi xem tấm hình một thanh niên lạ mặt. Nàng vừa cười vừa bảo : Tui lấy trộm trong ví ảnh đó. Coi được trai hông?. Tấm hình là một ảnh căn cước 4x6 cũ kỹ. Một góc còn mờ nét triện đỏ chứng tỏ hình đó được tháo gở từ một chứng minh thư nào đó. Người thanh niên trong hình trạc đôi mươi, khuôn mặt thư sinh không mập không ốm. Có đôi mắt sáng, sóng mũi khá cao và chiếc miệng nghiêm trang.

Liên đứng nhìn tôi ngắm tấm ảnh và nói :

- Ảnh còn đi học như bồ đó. Nghe đâu trước ảnh học Luật trong Đà Lạt. Bây giờ ảnh ở tuốt bên  Arizona lận.

Tôi trao tấm hình cho Liên và bảo :

- Gở hình trong thẻ sinh viên người ta ra mà cũng không biết người ta học ở đâu. Chị thiệt là vô tình. Đà Lạt làm gì có trường Luật. Mà...dễ thương làm sao ? Chị nói dễ thương thì thật khó đoán.

Liên đưa tay hất tóc ra phía sau rồi nhoẻn miệng cười.

- Ủa dzậy hả ? Ai mà biết. Tui tưởng ảnh học trỏng chớ. Bị hồi đó ảnh nói nhà ảnh ở Đà Lạt. Tui quen ảnh trong trại Pendleton. Ảnh ở sát giường tui. Tui ở ngoài hết, tới ảnh, rồi tới hai vợ chồng với mấy đứa con ông Tàu kia kìa. Ảnh hiền lành lắm. Tui nhìn ảnh là tui thương liền hà.  Ảnh đi sang đây có một mình. À quên, để tui đưa thư ảnh cho bồ coi.

 

Vừa nói Liên vừa đi về phía tủ phấn kiếm lá thư. Trong khi tôi cố mường tượng ra  những nam sinh viên cùng lớp thuở nào. Người thanh niên có nét hao hao giống một số khuôn mặt quen thuộc nào đó trong lớp, những khuôn mặt bình thường, không sôi nổi hay tham vọng. Họ có triển vọng là những người chồng người cha gương mẫu trong gia đình.

Liên mang lại một lá thư xếp làm ba trong một phong bì trắng nhàu. Thư đề ngày 15.01.1976

 

Thăm Liên,

Cám ơn Liên về món quà Giáng Sinh, về hai cuộn băng nhạc. Tiếc là tôi chưa có máy c***ette để nghe. Tôi quý lắm vì đó là món quà duy nhất mà tôi nhận được trong dịp tết vừa qua. Nhân đây tôi cũng muốn nhờ Liên một việc. Liên có thể kiếm hộ tôi một căn phòng giá vừa phải cho một người sắp thất nghiệp như tôi. Tôi có ý định dọn khỏi đây sớm chừng nào tốt chừng nấy.

Tôi kèm theo đây số điện thoại. Liên có thể gọi cho tôi vào buổi tối.

Cám ơn những tử tế của Liên. Chúc Liên bao giờ cũng vui vẻ.

Nguyễn C Dần

 

Tôi trao lá thư cho Liên và nói :

- À thì ra hôm trước chị nhờ tôi đi theo chị lên tiệm Việt Nam mua hộ hai cuộn băng là để gởi cho anh ấy vậy mà tôi cứ tưởng chị mua về để nghe.

Liên đang sửa soạn đánh móng tay, quay lại nhoẻn miệng cười nói :

- Đâu có. Tui hổng chịu Khánh Ly, giọng èo ẹo tui hổng ưa. Tui ưa cải lương hà.  Còn tân nhạc tui chịu Giao Linh. Nhất là bài này nè, Liên cất giọng hát :

Em chỉ xin anh đừng mỉa mai gì. Dù một lời thôi khi nhắc tên anh. Cho kẻ yêu anh không tủi phận mình. Còn loé trên môi nụ cười. Cầm bằng như áng mây trôi...

Rồi Liên tiếp hơi lên mấy câu vọng cổ :

Anh Thành ơi cớ sao anh nỡ đành tâm phụ bạc  trong khi em còn giọt máu yêu dấu anh để lại...Để cho em đành tâm nuốt lệ ra đi  giữa lúc phố chưa lên ...ứ...ư...đèn...

Tôi vui ra với bản vọng cổ của Liên. Nàng có giọng ngâm cải lương mùi mẫn. Liên tự nhiên ca hát những lúc cao hứng. Chiếc miệng Liên nhỏ xíu. Mỗi lúc ca vọng cổ hay tân nhạc nàng uốn éo đôi môi cong cớn. Trông Liên ngây thơ như đứa bé lên mười được đứng hát giữa lớp.

 

Liên tiếp tục sơn móng tay sau khi ca hết bản vọng cổ, và kể sơ qua cho tôi nghe sự quen biết với Dần.

- Hồi đó à nghen. Ở trong trại, giường tui kề giường ảnh. Bị tui có bạn bè lại chơi hoài. Tui lấy mấy tấm ra trải  giường căng lên làm một buồng riêng. Có ông bà ở cùng lều cứ lầu bầu nói tui làm ồn. Mà thiệt tui có làm gì ồn đâu. Dzậy đó mà ảnh ở gần tui ảnh hổng bao giờ phiền trách gì tui ráo. Người thiệt tình rộng rãi. Có một buổi tối, tui dzìa buồng, tui thấy ảnh đắp chăn rên hừ hừ. Tui thấy tội nghiệp, tui lén lấy cơm về cho ảnh ăn. Mấy người giục ảnh đi bác sĩ. Ảnh nói ảnh nóng sơ sơ. Tui đi kiếm thuốc dzìa cho ảnh. Mấy hôm sau ảnh hết bịnh. Ảnh cám ơn tui. Nói tui tử tế với ảnh quá.

 

Liên ngừng lại giây lát, đến bên tủ phấn lấy bông gòn ra chấm cồn tẩy những vết loang ở sát rìa móng tay. Nhìn bóng Liên trong gương, sạch sẽ tươm tất và bình thản, tôi thấy nao nao trong lòng. Dáng người nhỏ bé trong bộ bà ba hoa vàng, trông Liên nhỏ bé hiền hoà như một người tình bé bỏng, một người vợ hiền  hơn là một người  đã từng lăn lộn với nghề buôn hương. Liên trở lại kể tiếp :

- Thì có gì đâu. Tui thấy ảnh nóng. Mỗi lần thăm chừng ảnh, tui ưa sờ trán, đưa cam đưa thuốc cho ảnh. Mấy hôm ảnh đau, tui cấm mấy thằng bạn tui lại thăm. Sợ làm ồn ảnh ngủ hổng được. Thấy ảnh hiền từ rộng rãi tui thương. Tui thương ảnh thiệt mà. Chời ơi thiệt đó. Nhìn ảnh là tui nhớ ông Năm xích lô ở sát nhà tui hồi nhỏ. Mỗi lần tui bị ông già tui đánh, tui chạy sang nhà ông Năm. Ồng can ông già tui ra. Có khi còn cho tui ăn ké. Ông Năm cũng hiền từ rộng rãi như ảnh dzậy. Nhìn ảnh là tui nhớ ông già Năm liền hà.

Ngừng một phút, Liên kể tiếp :

- Cho tới hôm ảnh sắp ra xì pông xo tui buồn quá chời. Tui nằm trong buồng hổng ăn cơm tối. Khuya ảnh dzìa, ảnh hỏi tui sao bị đau. Hồi đó tui mới thú thiệt là tui thương ảnh. Tui muốn đi theo ảnh.

 

Nói tới đây Liên dừng lại như xúc động. Tôi cũng thật sự xúc động vì câu chuyện của nàng. Người thiếu nữ đã từng mơ ước một chiếc giường Hồng Kông, mơ ước một căn  phòng có bốn vách kính, mơ một chiếc áo lông thú đắt tiền, mơ được cặp kè với những người giàu sang. Hôm nay kể chuyện tình một cách chân chất. Thế ra cho dù lăn lộn với bao nhiêu sương gió của cuộc đời, Liên vẫn còn có thể rung động và mơ ước một tình yêu đơn sơ bình an với Dần. Điều gì ở Dần khiến cho nàng rung động để can đảm thú nhận tình yêu của nàng cho Dần nghe ? Phải chăng Liên bắt gặp nơi chàng cái hình ảnh hạnh phúc đơn sơ. Một khuôn mặt không sóng gió của đời sống. Một mái ấm  gia đình mà bao lâu nay nàng mơ ước ?

 

Chỉ thấp giọng và khuôn mặt chùng xuống buồn bã một lúc, mấy phút sau Liên lại vui vẻ nói cười.

- Dzậy đó mà ảnh đi Arizona. Tui tưởng đi là đi luôn chớ. Ai ngờ bữa nay lại định dọn sang đây.

Tôi hỏi Liên :

- Vậy chị định để anh ấy dọn vào đây luôn chứ.

Liên lắc đầu.

- Hổng được. Bị ảnh chắc hổng ưa làm dzậy đâu. Để tui đi kiếm phòng cho ảnh. Bữa nào ảnh sang, tui kêu bồ lại chơi.

 

Sau Tết một tháng. Tôi đang nghỉ hè giữa khoá mùa Đông và mùa Xuân, đang nằm nhà vất vả học anh văn, Liên gọi điện thoại báo cho biết Dần đã dọn sang. Liên mời tôi tới dự sinh nhật của nàng ở nhà bà Cathy. Tôi nhận lời đi chung với mấy người bạn.

Chúng tôi đến nơi khi căn phòng đã đông khách. Khách phần lớn là những người quen biết của bà Cathy. Họ hút thuốc, uống rượu, ăn uống trong bầu không khí ngột ngạt khói thuốc. Chúng tôi nhập vào như những người lạ quây quần  nói tiếng Việt với nhau. Chúng tôi ăn thức ăn do Liên nấu. Đêm nay Liên bận một chiếc áo dạ hội  màu trắng hở lưng, tóc uốn quăn và để chảy dài trên vai. Liên xinh xắn như một búp  bê của bữa tiệc. Nàng cười tíu tít. Nhanh nhẹn chuyện trò với mọi người. Trông nàng chững chạc và lẳng lơ hơn.

 

Liên dẫn Dần tới giới thiệu với chúng tôi. Người thanh niên hoạt bát hơn tôi tưởng. Dần có dáng dấp một thư sinh, vận một chiếc áo len xanh thẳm và một quần sô đơn giản. Quả như lời Liên mô tả. Dần có một khuôn mặt dễ nhìn. Lúc chàng nhìn xuống, chàng có vẻ đẹp nho nhã yếu đuối. Tôi tưởng tượng ra khi nhìn ngắm Dần bị bịnh và ngủ, vẻ đẹp yếu đuối của Dần đã làm Liên xiêu lòng.

Khi anh bạn cựu quân nhân ngồi cạnh tôi, người nói chuyện và pha trò huyên thiên đi bàn khác đánh cờ, Dần mới có dịp lại bên tôi bắt chuyện. Dần cởi mở và phóng khoáng. Nhưng cũng như  những người tỵ nạn mới đến Mỹ, Dần vẫn còn mang nét bất ổn nào đó trên mặt. Dần kể cho chúng tôi nghe lý do di chuyển vội vàng sang đây, là vì chàng không thể sống chung với một người bảo trợ là một gã đồng tính luyến ái.


Điểm thích thú mà tôi khám phá ra ở buổi nói chuyện ban đầu là Dần đồng ý với tôi về những điểm đáng yêu ở Liên. Cái duyên dáng thiên phú của nàng. Sự ngây thơ trong giọng nói miền Lục Tỉnh của nàng. Liên mang rượu lại cho chúng tôi. Nàng nói huyên thiên về lối pha rượu  nàng mới học được của bà Cathy.

- Rượu này tui pha lấy đó bồ. Liên vừa nói vừa trao ly rượu về phía tôi. Uống một ly cho dzui  đi bồ. Bồ không thấy đàn ông khi buồn người ta uống rượu cho khuây khỏa đó sao.

Quay sang Dần, Liên phác một cử chỉ phân trần với chúng tôi.

- Tui nói rồi. Ở đây  tui lo cho mà ảnh nhất định ở motel cho đến khi kiếm được phòng. Bị hoàn cảnh nó làm mình cực dzậy chớ ai đâu muốn. Tui hồi ở nhà quê ra tỉnh, ở Tây Ninh lên Sài Gòn, tui trông biết  một người quen đặng ngủ nhờ nhà họ một hai đêm  mà tui có quen ai đâu. Giờ tui thấy ai hổng nhà là tui động lòng. Ơ mà nói dzậy chớ mấy  cái đờn ông mắc chứng. Hổng khi nào tỏ ra ta đây  nhờ đến ai giúp. Tui nói thiệt à. Tui gặp người tốt như bà Cathy  đây là tui quý lắm. Kiếm được người tử tế bộ dễ a.

Nói xong Liên nhoẻn miệng cười, bưng khay rượu quay đi. Tôi nhìn sang Dần. Chàng đang mãi ngắm bóng Liên. Đêm ấy chúng tôi nói chuyện  cho đến khi tiệc tàn.

Dần kiếm được căn phòng ở ngoại ô San Jose. Căn phòng nhỏ và ấm cúng nhờ vào những chăm sóc của Liên. Liên thường đến đấy tự động lo cho Dần những công việc như quét dọn, nấu ăn, sửa sang căn phòng. Dần và Liên thường đi chơi chung với tôi. Họ là một đôi tình nhân bất thường. Liên hết đi chơi và giao thiệp  với những liên hệ cũ. Dần tiếp tục đi học trở lại và buổi tối đi làm việc phụ ở một hãng điện tử.


Một buổi tối mùa hè tôi đang xem truyền hình ở phòng khách. Dần thình lình ghé lại, mời tôi đi uống cà phê. Tôi ngạc nhiên vì lời mời bất thường nhưng cũng theo Dần đến quán.

Quán cà phê ở dưới phố, có bầu không khí giống những quán cà phê ở Sài Gòn. Ở đây chúng tôi có thể thong  thả ngồi nói chuyện  với một ly cà phê mà không cảm thấy phiền phức vì không gọi thức ăn. Bởi quán chỉ bán cà phê cho khách hàng. Cà phê không lấy gì làm xuất sắc nhưng không khí quán dễ chịu. Một vài bức tranh cảnh treo trên tường. Những bộ bàn ghế mầu gỗ. Một cái quầy cà phê và những điệu nhạc êm dịu. Dần gọi cho chúng tôi cà phê đen. Chàng lấy thuốc lá ra hút trong khi tôi nhập đề :

- Hôm nay có chuyện gì mà trông anh có vẻ khác thường vậy ?

Dần bật lửa châm mồi thuốc. Chàng bật nấp chiếc bật lửa màu thiếc trắng. Ngọn lửa bùng lên. Dần loay hoay trong một dáng điệu tập trung cả mắt mũi miệng và hai tay vào điếu thuốc với ngọn lửa. Ánh sáng của ngọn lửa làm cho khuôn mặt Dần sáng hẳn lên. Tôi ngắm nhìn chàng và ước gì có máy hình trong lúc này để có thể thu lại hình ảnh này. Dần hít hơi thuốc đầu tiên xong rồi nói :

- Liên đi rồi.

Tôi giật mình hỏi :

- Đi đâu vậy ?

- Đi theo chồng.

Tôi mở tròn mắt :

- Chồng nào ? Sao tôi không hay biết gì vậy ?

Dần mỉm cười, nghiêng mặt nhìn tôi hỏi :

- Giả thử nếu  có biết đi nữa,  cô sẽ làm gì ?

Ngừng một phút Dần tiếp :

- Liên sống thoải mái. Nàng sống theo con người thật của nàng, hành động theo lý luận và mơ ước đơn giản của nàng.

Tôi vẫn ngạc nhiên. Tại sao hôm nay chàng này triết lý lung tung. Mà tôi chưa biết Liên đi lấy chồng hồi nào, chồng Liên là ai ? ...tôi cắt lời Dần :

- Nhưng lấy ai? Hồi nào? Ít ra anh cũng nên cho tôi biết trước đã.

- Lấy chồng từ lúc còn ở Việt Nam, Dần đáp. Chồng Liên là một nhân viên trong Uỷ Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên. Họ đã chung sống một năm  trước khi ông ấy về Mỹ. Khi Sài Gòn mất, ông ta kẹt lại bên này. Ông ấy lùng kiếm Liên hơn một năm nay, bây giờ mới gặp. Hôm qua cơ quan Hồng Thập Tự gọi lại, Liên kể chuyện cho tôi nghe.

 

Dần dừng lại, dụi tàn thuốc. Tôi ngẩn ngơ. Cơn lốc của một cuộc chạy nạn từ bên nửa mặt đất này sang nửa mặt đất khác phơi bày nhiều tuồng tích  đột ngột  mà tôi phải chứng kiến.

- Thế rồi bà ấy bỏ đi hả ? Tôi nói một cách lạc lỏng. Cái bà ấy thiệt là vô tình.

Dần mơ màng. Có lẽ hắn đang nhớ đến Liên thật. Tôi cũng thấy nhớ khuôn mặt tươi cười của Liên. Cái giọng nói ríu rít như se sẻ của nàng. Nếu có Liên ở đây có lẽ giờ này chúng tôi đã không lâm vào những phút trống vắng như vầy. Dần nói tiếp :

- Liên bảo ông ấy đã lớn tuổi, đã ngoài năm mươi. Ông ta thương yêu và chiều chuộng Liên lắm. Tôi cầu mong Liên có hạnh phúc. Một người như Liên phải có hạnh phúc. Liên không biết khổ đau sầu mộng. Nàng được cái đặc ân ấy. 

Chúng tôi lại rơi vào yên lặng một lúc. Tôi ngắm nhìn khung cảnh chung quanh, tiếng cười nói, điệu nhạc lâm râm, những bóng người đi động chung quanh. Tất cả  những ý tưởng về Liên tản mác trong tôi.

Một lát sau Dần nói :

- Liên đi cũng khoảng một tuần lễ nay. Liên bảo có gọi cho cô đôi ba lần nhưng trùng vào tuần lễ  cô đi chơi xa nên không gặp được.

Dần quay vòng ly cà phê đã cạn và bỗng hỏi tôi :

- Sao cô không sống hồn nhiên như Liên. Tôi không muốn nói  về lối sống bất định của nàng.

Tôi nhìn Dần, lơ mơ trả lời :

- Ông bạn à, trăm hoa đua nở chứ. Mỗi hoa lại một vẻ. Để trở nên trọn vẹn cái nhân dáng của mình cũng đã là  một điều khó  khăn rồi. Vả lại chạy một trận giặc, mất hết cả gia đình bạn bè tình nhân quê hương, anh bảo  người ta sao hồn nhiên mãi được.

 

Bẵng đi một thời gian hơn một năm, câu chuyện về Liên cũng nguội dần. Tôi chẳng biết tin tức gì về Liên từ lúc Liên theo chồng. Dần được học bỗng  về ngành dầu lửa  và sau đó dọn về Houston. Thỉnh thoảng  viết cho tôi ít dòng thăm hỏi qua loa. Thì bỗng một hôm, Liên bất ngờ kiếm tôi ở căn phòng trọ mới. Liên mang tặng cho tôi hai con hổ bằng sứ xanh, loại để làm đế bình hoa. Chúng tôi gặp nhau chào hỏi vồn vã.

- Gió nào thổi chị về đây. Sao hôm nay trông chị điệu thế.

Tôi ngắm nhìn bộ quần áo chim cò trên người Liên. Sống xa chúng tôi một thời gian, Liên trở lại thói quen cũ, ăn mặc như những  thiếu nữ ngày trước  ngồi vắt vẻo  với những chú GI Mỹ  ở những quán bar. Mặc cho thời trang thế giới đến đâu.

Liên quay một vòng, nhún nhảy ra dáng như một cô kiểu mẫu đang biểu diễn.

- Tui mới may đó. Liên nói. Tui vẽ kiểu rồi đưa cho thợ may. Bị tui nhỏ con, mua đồ ngoài hổng được, hổng có cỡ nào vừa.  Đi mua đồ cứ bị mấy người bán hàng chỉ lại hàng con nít hông hà.

Tôi đến tủ lạnh rót nước mời Liên rồi nói :

- Chồng con chị khỏe mạnh luôn chứ ? Lấy chồng hơn năm nay bây giờ mới nhớ tới  nhỏ này.

Liên xịu mặt, nhìn đi nơi khác trả lời :

- Ông già bị bịnh ung thư mất cách đây hai tháng rồi. Tui rầu quá chời nên mới dọn lên lại nhà bà Cathy mấy hôm rày.

Tôi há hốc miệng nói : Trời đất ơi !

 

Liên cho hai tay vào túi quần rồi đến bên cửa sổ nhìn ra bầu trời bên kia dãy nhà trọ. Bầu trời xám buồn bã./.


Lê Thị Huệ

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 09/Sep/2023 lúc 9:43am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23640
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 11/Sep/2023 lúc 3:06pm

Lý Lẽ Của Trái Tim 


Người Việt đến xứ Mỹ, thế hệ đầu khá vất vả, tiếng Anh không rành lại lớn tuổi mà phải làm những việc chân tay, nên ai cũng cố gắng khoảng mươi năm, đủ điều kiện về hưu thì vừa lúc sức lực cạn kiệt. Nhưng bù vào đó, lũ con, thế hệ thứ hai, thấy cha mẹ vất vả, cố gắng học hành, nên đa số đều tốt nghiệp đại học, có công ăn việc làm vững vàng.


Thời gian đầu, khi mới có việc làm, các con ở chung với cha mẹ, đến khi có đôi có bạn, chúng mua nhà ở riêng. Đứa con gái út của tôi mới hứa hôn với một bạn cùng sở mà đã đưa nhau đi tìm nhà mới để mua. Thời đó, khoảng cuối thập niên chín mươi, nước Mỹ lên cơn sốt mua bán nhà. Nhà lên giá vùn vụt. Nhà chưa xây mà đã có người đặt tiền cọc giành nhà trước. Con gái tôi xúi tôi bán nhà, về ở với vợ chồng nó. Tôi bán nhà, trả nợ ngân hàng (đã vay mua nhà), còn dư chút ít, chúng tôi để dành, thỉnh thoảng mua vé đi du lịch.

Hôm mới đến, vợ chồng tôi kinh ngạc khi thấy ngôi nhà quá lớn, quá sang trọng và cũng quá đắt tiền. Gần cả triệu bạc! Vậy mà con tôi bảo
 
- "Nếu trong thành phố, nhà nầy ít nhất cũng triệu rưỡi".
 
Đó là một khu rừng hoang, đã được san bằng, mỗi cạnh hơn một cây số, chia thành những ô vuông vắn với những con đường khang trang, những ngôi nhà có vườn cỏ xanh, những luống hoa đủ màu sắc rực rỡ, thoang thoảng hương thơm. Thật chẳng khác gì chuyện thần tiên. Lọt thỏm trong khu rừng thâm u, hoang dã lại có những biệt thự tráng lệ, yên tĩnh, xa cách hẳn nơi phồn hoa, náo nhiệt.

Ngôi nhà quá rộng với năm, sáu phòng ngủ, rồi phòng khách, phòng ăn. phòng uống rượu, giải trí... Tôi không hiểu chúng mua nhà lớn như thế để làm gì? Chúng bảo sẽ được trừ thuế, hơn nữa nhà vùng đó sẽ lên giá. Không phải chỉ riêng con chúng tôi mua nhà mới mà hầu như bọn trẻ Việt Nam, khi lập gia đình đều mua nhà mới. Chúng cùng lứa tuổi, tốt nghiệp cùng trường Đại Học nên rủ nhau mua nhà gần nhau để tiện qua lại, tụ tập ăn uống, vui đùa.

Chúng tôi đến ở chung với vợ chồng đứa con gái cũng đỡ buồn. Vợ tôi lo việc nấu nướng, dọn dẹp, giặt sấy áo quần, tôi thì giết thì giờ trong việc chăm sóc các cây cảnh trước sân, tưới bón vườn rau sau nhà.

Ngay cạnh nhà chúng tôi là nhà bạn học với con gái tôi. Mỗi buổi sáng, khi tôi dậy sớm, uống trà xong, ra săm soi mấy cây hoa trước sân, thì tôi thấy một cậu thanh niên cũng dậy sớm đi làm, có lẽ vì chỗ làm xa. Chúng tôi chào hỏi nhau.
 
- "Chào bác! Bác dậy sớm săn sóc vườn hoa" "Vâng, chào cậu!"

Chúng tôi trao đổi bâng quơ năm ba phút về thời sự, thời tiết trong ngày rồi cậu ta lên xe đi làm.

Qua lời con gái tôi thì cậu ta là rể của gia đình đó. Hai vợ chồng cưới nhau được mấy tháng nay. Cả hai đều là bạn học, thân thiết nhau từ thời Trung Học. Cô vợ cậu ta giống như bất cứ cô gái Á Châu bình thường nào. Dáng nhỏ nhưng tròn lẳn, tóc dài, mặt trái xoan. Vợ tôi đưa ra nhận xét với con gái tôi.

- "Mới cưới nhau được mấy tháng mà cái bụng cô ta đã lúp lúp. Con so mà bụng cỡ đó cũng phải trên sáu tháng. Chắc anh chị tò tí nhau trước, rồi hợp thức hóa sau"

- "Con nghĩ. Hình như có điều gì bất thường giữa hai đứa. Hôm đám cưới, chú rể coi bộ hớn hở, vui vẻ nhưng cô dâu thì lại trầm ngâm, buồn buồn, không thấy cười. Chắc cô dâu miễn cưỡng lấy chồng vì lỡ có bầu. Cách đây một năm, con nhỏ (cô dâu) có cho bạn bè biết là anh chàng có tỏ tình và xin cưới, nhưng cô ta không chịu, bảo rằng không có tình yêu mà thành vợ chồng thì không thể chịu đựng nhau suốt đời được. Vậy mà thình lình lại làm đám cưới với anh ta."

Nghe hai mẹ con trò truyện, tôi nói bâng quơ
 
- "Có những quyển sách hai người viết chung, có những bản nhạc, người thì viết nhạc, người thì viết lời."

Vợ tôi cự
 
- "Ông thì lúc nào cũng nói tầm bậy, tầm bạ được!"

Con gái tôi cười
 
- "Con thấy con nhỏ nầy rất đàng hoàng. Ngoài những bạn bè thân thiết từ lúc còn Trung Học đến nay, nó không giao du, cớt nhả với ai cả. Theo con biết thì hai đứa nó cũng thân mật nhau lắm, hai đứa làm hai nơi xa nhau mà ngày nào cũng gọi nhau đi ăn lunch (ăn trong giờ nghỉ trưa ở sở làm), như thế thì chỉ có anh chàng là tác giả đứa bé sắp chào đời. Nếu không, ai chịu dại 'Người ta ăn ốc mình đổ vỏ'. Nhưng có điều lạ là trước đó, anh chàng xin cưới thì bị cự tuyệt, sau, thình lình lại làm lễ cưới chỉ trong vòng một tháng. Một lần, trước đây, con thấy có một anh chàng lạ hoắc đến thăm gia đình cô ta. Anh ta, có lẽ từ nơi khác đến, trông mặt mũi cô hồn, lấc cấc lắm. Không ai tin rằng anh chàng đó, chỉ mới quen biết mà dụ dỗ được cô nầy. Cô ta đã lớn rồi, cũng đủ khôn ngoan mà tự giữ mình."

Tôi thấy anh hàng xóm (chồng cô ta) cao ráo, mặt mũi sáng sủa, thông minh, rất vui vẻ, nhã nhặn với mọi người. Có những buổi đi làm về, anh ta qua thăm tôi. Tôi mời vào một phòng nhỏ, dành riêng cho tôi đọc sách, uống trà, để được thoải mái chuyện trò. Có lẽ nhờ đọc nhiều và nhờ biết tiếng Anh nên chuyện Đông Tây kim cổ, tin tức, thời sự, anh ta biết khá rành. Tôi không hỏi về chuyện vợ con của anh ta, chỉ ngạc nhiên là trong các ngày nghỉ, không thấy anh ta ở nhà. Anh ta giải thích: 
 
- "Mấy ngày đó cháu phải về nhà ba mẹ cháu. Mấy anh chị em cháu đều ở riêng."
 
- "Thế cũng phải, vợ chồng anh nên về thăm kẻo ông bà cụ buồn"
 
- "Vợ cháu ít khi đi đâu"

Tôi không có bạn để trò chuyện, anh ta thì lại thích qua đàm đạo chuyện trên trời dưới đất nên chỉ mấy tháng sau, từ bạn vong niên, chúng tôi thành bạn tâm giao. Phòng uống trà của tôi toàn bằng kính nhưng đóng cửa lại thì người đứng ngoài khó nghe rõ, thế nên đôi khi tôi kể chuyện bù khú của tôi thời còn trai trẻ để cười với nhau. Những lúc đó anh ta thường hỏi tôi về những ý nghĩ, quan niệm sống và cách giải quyết nếu câu chuyện xoay qua hướng khác.

Cái bụng bầu của cô hàng xóm ngày càng lồ lộ. Thỉnh thoảng cô ta qua trò chuyện với con gái tôi, xin ý kiến vợ tôi trong việc chuẩn bị cho đứa bé chào đời. Coi bộ cô ta yêu thương, lo lắng cho đứa bé nhiều lắm. Tuy không nói ra nhưng rõ ràng là cô sắp đến ngày sinh.

Một buổi sáng, sau khi uống chén trà, tôi tiễn anh chồng cô ta ra xe đi làm thì anh ta nói
 
- "Cháu sắp qua tiểu bang khác làm việc. Công ty bên đó đã nhận cháu rồi"
 
- "Khi nào anh đi? Đi cả gia đình hả?"
 
- "Cháu chỉ đi một mình thôi"
 
- "Vợ anh sắp đến ngày sinh...
 
- Đó là điều cháu còn phân vân. Cháu chưa cho ai biết chuyện nầy ngoài bác, để xin ý kiến bác trước khi quyết định."
 
Tôi nghĩ đây là chuyện riêng nên tôi bảo
 
-"Sáng Thứ Bảy nầy, anh rảnh thì ra tiệm cà phê nói chuyện, hi vọng tôi có giúp được chút ý kiến nào không?"

Sáng đó chúng tôi ra tiệm Starbucks, mua ly cà phê, ra ngồi ngoài hiên, nhìn thiên hạ qua lại. Phần nhiều khách là người Mỹ, ngồi với tờ báo trên tay. Sau khi vơ vẩn mấy câu, tôi hỏi.
 
- "Anh định khi nào đi nhận việc"
 
 
- "Vợ con tính sao?"
 
- "Cũng vì chuyện vợ con mà cháu chưa dứt khoát"
 
- "Hình như bà xã anh sắp sinh. Anh có thể hoãn đi nhận việc cho đến khi vợ sinh xong"
 
- "Cháu không muốn nhìn thấy đứa bé khi nó chào đời. Bác nghĩ sao nếu đó không phải vợ cháu, con cháu?"
 
Tôi kinh ngạc
 
- "Sao kỳ lạ vậy? Hay là anh nghi vợ anh ngoại tình nên giận vợ bỏ đi?"
 
- "Nếu cô ta là vợ cháu thì mới nói là ngoại tình, nhưng quả thật cô ta không hề là vợ cháu."
 
- "Nghe nói anh có cưới hỏi cô ta đàng hoàng mà?"
 
- "Có lẽ cháu phải kể hết từ đầu, bác mới giúp ý kiến cho cháu được. Cháu và cô ta là bạn học. Chúng cháu rất thân nhau, người ngoài tưởng là hai kẻ yêu nhau, nhưng sự thực chỉ có cháu yêu cô ta thôi. Cháu có ngỏ ý nhưng cô ta từ chối tình yêu của cháu, bảo rằng chỉ xem là bạn. Khi bị từ chối, cháu không buồn, vẫn nuôi hi vọng và chờ đợi, vì cháu biết cháu là người bạn thân nhất của cô ta. Chúng cháu vẫn thường rủ nhau đi xem phim, đi ăn trưa, cùng đến nhà bạn bè trong các dịp cưới hỏi, sinh nhật. Cho đến một lần, như mọi khi, cô ta gọi cháu đi ăn lunch (ăn trưa), nhưng khi đến nơi thì thấy cô ta đang đứng chuyện trò với một anh chàng nào đó. Cô ta xin lỗi vì phải đi công chuyện với anh ta. Cháu biết đó là cách cô ta không muốn cháu làm phiền cô ta nữa. Từ đó cháu không liên lạc với cô ta.

Gần bốn tháng sau, đột nhiên, một buổi sáng Thứ Bảy, cô ta gọi cháu, hẹn gặp ở một công viên. Khi cháu đến thì thấy cô ta đứng chờ sẵn với vẻ bồn chồn. Người cô gầy sộp, hai mắt sưng húp, có lẽ vì khóc nhiều. Buổi sáng trong công viên vắng vẻ, chúng cháu ngồi xuống một ghế đá, nhìn ra hồ nước rộng mênh mông, sương sớm khiến bờ bên kia mờ mờ một hàng cây xanh thẩm. Cháu vẫn yên lặng lắng nghe mấy con quạ gọi nhau trong rừng cây và chờ đợi. Cô ta như đang suy nghĩ để lựa lời. Và cô nói.
 
 
- "Có lẽ anh ta từ nơi khác đến? Trông rất lạ"
 
- "Công ty trung ương phái anh ta đến chi nhánh Nga công tác trong mấy tháng"
 
- "Nga yêu anh ta?"
 
Cô yên lặng một lúc.
 
- "Anh ta hứa sẽ cưới Nga"
 
- "Và Nga tin vào lời hứa đó?"
 
Cô gật đầu. Cháu quay nhìn cô ta và hỏi
 
- "Rồi anh ta đi thẳng, không quay lại?"
 
Cô vẫn yên lặng. Cháu an ủi.
 
- "Nga cứ xem như mình mua lầm đồ giả hoặc đã gặp một tai nạn. Nếu Nga cố quên thì tất cả sẽ thành dĩ vãng"
 
Cô cúi mặt, thở dài
 
- "Nga cần anh giúp Nga một việc"
 
- "Anh giúp Nga việc gì? Nếu có thể, anh sẽ cố hết sức mình"
 
Cô quay lại, nhìn thẳng vào mắt cháu.
 
- "Anh cưới Nga được không?"
 
Cháu kinh ngạc.
 
- "Cưới Nga? Vì sao? Nga từng bảo anh. Chỉ có tình yêu mới chịu đựng nhau suốt đời trong cảnh vợ chồng. Anh không tin rằng Nga yêu anh. Nga nên suy nghĩ kỹ. Khi thất vọng mình thường làm những chuyện khờ dại. Ở xứ Mỹ nầy, yêu nhau, thậm chí cưới nhau rồi bỏ nhau là chuyện thường. Không ai dị nghị về chuyện tan vỡ của Nga đâu. Cưới hỏi, phiền phức lắm"
 
- "Mọi chuyện để Nga lo. Chỉ cưới giả vờ, như đóng kịch vậy thôi. Nga cần anh giúp, không phải cho Nga"
 
- "Nga cần cho ai mà bắt anh phải đóng kịch, giả vờ cưới Nga?"
 
Cô nắm chặt tay cháu như sợ cháu đứng lên, bỏ đi
 
- "Con Nga. Nó cần một người cha. Nga có bầu hơn hai tháng rồi"
 
Hai tai cháu nóng bừng, tim đập thình thịch. Cháu phải bấu chặt mép ghế để tự kềm chế
 
- "Trách nhiệm là ở anh chàng kia. Anh đâu có liên hệ gì trong đó. Nga báo cho anh ta biết, nếu không, cứ kiện ra tòa. Tối thiểu anh ta phải cấp dưỡng cho đứa bé"
 
- "Khi Nga báo cho anh ta biết là Nga có bầu, tuần sau anh ta lặng lẽ về công ty chính, không nói với Nga một lời"
 
- "Có bầu vài ba tháng thì phá thai dễ dàng. Để anh đưa Nga đi bác sĩ. Anh làm như chồng Nga, đồng ý phá thai"
 
- "Nga muốn giữ đứa bé"
 
- "Nga yêu anh ta đến độ đó sao?"
 
Cô không trả lời mà nói tiếp
 
- "Nga không sợ người ta dị nghị, chỉ lo đứa bé sau nầy khi lớn lên sẽ biết mình không cha, mà nói sự thật thì nó sẽ đau khổ vì có cha là một người vô trách nhiệm, một tên lừa đảo, thiếu tư cách."
 
Cháu muốn quát vào mặt cô ta nhưng kềm chế được, chỉ lầm bầm
 
- "Biết là tên lừa đảo mà vẫn muốn giữ cái thai lại? Nếu anh ta cũng có yêu Nga thì cũng nên làm chuyện đó. Đây thì ngược lại"
 
Cô lớn tiếng
 
- "Làm sao Nga giải thích được với anh? Nga đã lý luận với chính mình mấy tháng nay rồi... Nhưng con Nga có tội tình gì?!"
 
Rồi cô ôm mặt khóc nức nở
 
- "Anh ta vừa gửi cho Nga cái thiệp cưới. Anh ta cưới vợ"
 
Tim cháu thắt lại. Nước mắt cháu tuôn trào. Cháu xoay người lại ôm chặt cô vào lòng, cháu khóc với cô
 
- "Nga thương yêu của anh. Có anh đây! Đừng buồn nữa. Anh sẽ cưới Nga. Sẽ làm bất cứ điều gì mà Nga cần"
 
Giọng cô đẫm nước mắt
 
- "Nga chỉ có anh..."

Tuần sau, chúng cháu gặp nhau. Cháu đồng ý sẽ làm đám cưới, đứa bé sinh ra sẽ đứng tên cháu là cha nó. Nhưng để tránh rắc rối về sau, cô ta phải viết cho cháu một bảng tự sự, kể hết mọi chuyện. Từ khi cô ta gặp anh chàng sở khanh đó cho đến khi đề nghị cháu làm đám cưới, để tên cháu là cha đứa bé. Cháu có hứa sau nầy, dù có ở đâu, thỉnh thoảng cũng sẽ ghé thăm đứa bé như cha thăm con. Chỉ một điều kiện duy nhất, cưới về, hai đứa sẽ ngủ riêng. Cô ta đồng ý ngay".

Tôi cười hỏi
 
- "Thế hai người có thật sự ngủ riêng không?"
 
- "Mỗi đứa một phòng. Phòng cháu đặt một giường nhỏ, có computer và sách báo, giống như phòng làm việc. Hai đứa ở trên lầu, không ai trong gia đình nghi ngờ điều gì cả."
 
- "Thế trong việc đối xử nhau hàng ngày thì sao? Phải đóng kịch à?"
 
- "Chúng cháu vẫn giúp đỡ nhau, chuyện trò như một cặp vợ chồng bình thường."
 
- "Tôi thấy hai người đã đóng kịch được mấy tháng rồi, sao anh không cố thêm mấy tháng nữa cho cô ta sinh xong hãy đi? Có chuyện gì xảy ra chăng?"
 
- "Cách đây nửa tháng, nửa khuya, cháu trở mình thì thấy cô nằm ngủ bên cháu. Cháu làm như không biết, vẫn ngủ say. Chuyện xảy ra liên tiếp ba đêm, sau đó thì chấm dứt"
 
- "Anh nghĩ sao về chuyện đó? Có phải cô ta cảm động vì nghĩa cử của anh? Hay cô đã hết thương yêu anh chàng kia rồi?"
 
- "Cháu nghĩ đó như là cách trả công, đền ơn chứ không thể vì tình cảm. Suốt mấy tháng ở chung, cháu thấy tâm thần cô ta vẫn chưa ổn định, lòng cô ta vẫn chưa nguôi ngoai, nhưng cháu thì đã nguội hẳn rồi"
 
- "Tôi không tin như vậy. Có thể vì hành động đó của cô ta mà sự hờn giận trong anh lại bùng lên, khống chế, che lấp hết tình anh yêu cô ta. Nhưng sau đó, đâu lại vào đấy thôi. Khi anh thông cảm được với cô ta tất anh sẽ hiểu mình muốn gì."
 
- "Cháu thấy mình không dứt khoát, nên cháu mới hỏi ý kiến bác. Một điều nầy nữa, hôm qua, cháu nói với cô ta, dự định sẽ qua tiểu bang khác. Cô không nói gì, nhưng tối đó, khi cháu đi nằm thì cô lại qua phòng cháu ngồi lặng lẽ khóc. Nhìn cái bụng bầu của cô, cháu nghĩ đến đứa bé."
 
- "Tôi biết, như vậy là anh đã quyết định rồi, nhưng tôi cũng nói thêm. Người đàn bà sợ nhất là khi sinh mà không có chồng bên cạnh. Dù bao nhiêu người thân chung quanh, nhưng không có chồng, cô ta vẫn thấy bơ vơ, lo lắng. Càng bị lạnh lùng, thậm chí càng bị chửi mắng, cô ta càng biết rõ tình cảm của anh. Cô ta tin rằng, anh là người tín cẩn nhất, thương yêu nhất của cô ta. Anh còn hơn một người chồng nữa."

Và anh ta không đi tiểu bang khác.

Gần hai năm, chúng tôi vẫn gặp nhau, uống trà, trò chuyện. Không ai nhắc đến chuyện cũ. Đứa bé trai sinh ra đã biết đi và nói chuyện, ngọng nghịu rất dễ thương. Người cha (hờ) và đứa con, chiều chiều, ra bãi cỏ đùa nghịch, đuổi bắt nhau, bò lê, bò càng trên sân. Anh ta thường đặt thằng bé trên vai, đi nhong nhong, miệng phì phì như xe lửa chạy, thằng bé cười ngặt nghẽo. Đôi khi hai cha con qua nhà chúng tôi chơi đùa. Vợ tôi và con gái tôi rất thích cháu, thường nựng nịu, hôn hít, chọc ghẹo. Họ hỏi cháu
 
- "Con tên chi? Mẹ tên chi? Ba tên chi?"
 
Khi nó trả lời, họ cười rộ lên
 
"A! Thằng nầy xạo quá!"

Thế rồi, một buổi sáng, trong khi uống trà, anh ta nói với tôi
 
- "Lần nầy cháu dứt khoát đi tiểu bang khác. Bấy lâu nay cháu nấn ná vì thằng bé dễ thương quá. Nhưng cháu cần một gia đình. Làm chồng hờ hoài cũng chán."
 
Tôi cười
 
- "Vậy chứ đứa em của nó thì sao?"
 
Anh ta ngạc nhiên nhưng rồi hiểu ngay
 
- "Không có chuyện đó đâu bác. Không là không. Bạn tình của cháu thiếu khối gì."
 
- "Hôm nào đi? Báo cho cô ta biết chưa?"
 
- "Cháu chờ khi cô ta đi làm là xách va li lên đường ngay"
 
- "Đi là quyền của anh, sao phải lén lút như vậy?"
 
Anh ta bối rối
 
- "Cháu sợ cô ta khóc. Cô ấy khóc là cháu tối tăm mặt mũi. Không phải cháu đa cảm, hay dễ mủi lòng mà vì cháu không muốn cô ấy buồn. Thấy nước mắt cô ấy tuôn trào là lòng cháu nát tan. Lúc đó, cô ấy bảo gì cháu cũng làm cả!"
 
- "Vậy chứ khi anh ở tiểu bang khác, cô ta khóc trong điện thoại với anh thì sao?"
 
- "Cháu không biết. Cháu không gọi cô ta là xong."

Có vẻ không xong.

Tôi bảo anh ta
 
- "Tôi biết chắc, chính anh sẽ gọi cho cô ta trước. Chỉ cần nghe cô ta khóc là anh xách gói về với cô ta ngay. Đàn ông với nhau, tôi đã trải qua, tôi hiểu anh. Dù có đi đâu, anh cũng sẽ trở về với cô ta. Dù có chuyện gì xảy ra cho cô ta, anh cũng sẽ mãi mãi bên cạnh cô ta. Anh nên bao dung, tha thứ. Đừng giận dai. Thời gian đi xa sẽ giúp anh hiểu được cô ta và chiêm nghiệm về mình. Khi quay về, anh nên coi như mình đã cưới một cô gái xa lạ nào đó làm vợ. Anh không nhớ, không biết gì về một quãng đời mà chính cô ta cũng muốn quên."

Phạm Thành Châu
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23640
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 15/Sep/2023 lúc 8:00am

Chiếc Nhẫn Ngọc 

Hình minh họa 


Đó là chiếc nhẫn có số phận kỳ lạ mà vì ngốc nghếch hoặc tham lam, người ta đã luôn ngộ nhận về giá trị của nó. Một người đàn bà đã phải trả cho nó cái giá quá đắt, và một người đàn ông cũng suýt vì nó mà đánh mất hạnh phúc của mình.

Tuấn bước lên sân thượng khách sạn. Người đàn bà đang ngồi chờ anh. "Tên tôi là Manuelle, người ta thường gọi là Manu".


Làm việc với khách sạn hơn sáu năm, Tuấn đủ kinh nghiệm trong ngành du lịch để nhận biết khá nhanh về nhân thân của người khách lạ. Người đàn bà này lịch lãm, quen tiếp xúc với nhiều người. Tên tuổi như vậy, nói tiếng Pháp chuẩn như vậy, nhất định là dân Pháp. Nhưng mái tóc đen như thế thì người Pháp không có. Cũng không phải người Việt, người Việt không có đôi mắt này. Đôi mắt tỏa sáng huyền bí như mắt người Ấn hay người Mã Lai... Tuấn phân vân, nhưng anh không hỏi. Du khách đến khách sạn giống như đoàn lữ hành qua sa mạc, đến và đi với gió, họ thường không thích lưu lại dấu chân mình trên cát.

"Các bạn gái tôi giới thiệu anh. Họ bảo anh dễ mến lắm. Tôi đến đây chỉ có một mình".


Tuấn hiểu. Anh là một nhân viên khách sạn đẹp trai và khá khôn lanh. Nhiều nữ du khách đã trở nên thân thiết với anh sau một lần lưu trú. Anh luôn tìm hết cách để chiều lòng họ, và anh chẳng thiệt thòi gì. Nhưng hôm nay e phải chối từ: Mai là lễ ăn hỏi của anh. Sáng nay anh đã xin nghỉ, nhưng đúng một phút trước khi rời khách sạn thì nhận được tấm danh thiếp của người đàn bà lạ.

Tuấn nghĩ cách từ chối mà không phải nhắc đến vị hôn thê của mình. Anh là người sành tâm lý phụ nữ. Đàn bà, họ luôn muốn độc tôn, dù là trong mắt một người đàn ông xa lạ. Vả lại, Festival còn kéo dài đến hết tuần, mà đến ngày kia anh đã có thời gian rồi. "Thưa bà...".

Nhưng cũng đúng lúc đó người đàn bà mở miệng nói, nên theo phép lịch sự anh phải nhường lời cho phụ nữ. "Hôm nay tôi muốn đi một chuyến về phía tây. Các bạn tôi bảo anh có xe riêng rất tốt, phải không?".

Đúng vậy, anh đã mua xe để thêm thuận lợi trong công việc, cũng vì chiếc xe mà hiện nay anh còn mắc nợ ít nhiều. Anh rất muốn nhận chuyến đi này, nhưng không thể được. Liên rất hay hờn, vẫn thường giận dỗi bảo anh chỉ biết tham công tiếc việc, chẳng dành đủ thời giờ cho nàng. Anh đã lao đao nhiều lần suýt vuột mất cô bạn gái xinh xắn bé nhỏ, nếu bà mẹ nàng không luôn miệng bênh vực và tán dương ông con rể tương lai.

"Tôi sẽ không quên công anh". Manu nói, bà cử động hai bàn tay đang nắm lấy nhau trên mặt bàn, một cử động hết sức uyển chuyển làm nổi bật lên chiếc nhẫn ngọc xanh biếc. Theo Tuấn, cử chỉ ấy mang một ngụ ý khá rõ rệt. Thấy ánh mắt chàng trai, Manu hỏi rất tự nhiên:

- Anh có thấy chiếc nhẫn này đẹp không?

Tuấn gật đầu. "Ngọc lục bảo phải không?". Anh hỏi. Người đàn bà im lặng mỉm cười. Tuấn buột miệng:

- Phải đến ba nghìn đô-la?

Nói xong Tuấn chợt thấy ngượng, anh nhận ra mình đã có câu nói hớ hênh, không thanh lịch chút nào. Thật tầm thường, mình đã mở miệng hỏi giá tiền trong khi lẽ ra phải tán dương vẻ đẹp của nó. May sao Manu không có vẻ gì phản cảm với anh, bà ta chỉ vỗ vai chàng thanh niên với một vẻ bao dung:

- Anh sành giá cả như thế, nhất định biết rất rõ các thứ ngọc quý.

Tuấn lấy lại tự tin. Không biết tự lúc nào, anh đã quên mất lời cáo từ.

Tuấn cho xe lướt rất êm. Manu ngồi bên cạnh, cặp mắt sâu và đen nhìn đăm đăm về phía núi xanh trước mặt.

Điện thoại di động trong túi Tuấn rung nhẹ. Chắc chắn là Liên. Tuấn hơi bối rối, nhưng rồi anh quyết định để nó rung thoải mái cho tới khi tắt. Anh nhủ thầm sẽ cố xong mọi việc với Manu để về sớm, còn lý do để giải thích với Liên thì khi nào cũng sẵn có trong đầu anh, ngại gì. Tự thu xếp với mình như vậy, anh thấy yên tâm, nhận ra Manu đang hướng anh đi theo con đường dẫn lên A Lưới. Không sao, đường này anh cũng đã đưa du khách đi nhiều lần, khách nước ngoài rất thích du ngoạn những vùng đất hẹp trong sơn ao. "Chị muốn xem những vùng có người dân tộc phải không? Mình phải kịp về trước khi trời tối, ban đêm ở vùng cao không an toàn đâu. Tôi đã nhận trách nhiệm với khách sạn phải đưa chị đi về an toàn".

Anh đã nói dối, thói quen nói dối trơn tru không cần suy nghĩ. Đêm vùng cao ở đây chẳng có gì nguy hiểm cả, chỉ có điều anh đang cần về sớm. Manu xem chừng chẳng bận tâm mấy đến lời hăm dọa của anh, bà ta bảo:

- Tôi có bản đồ đây, tôi sẽ chỉ đường cho anh - Thấy Tuấn chưng hửng, Manu mỉm cười giải thích: Tôi là biên đạo múa ở Nhà Hát Trẻ thành phố S... Tôi đang dựng một vũ kịch trong đó nhân vật chính là cô bé Kalang - Nga, người Tà Ôi.

- Sao lại người Tà Ôi?

- Đúng vậy. Ở Pháp không có dân tộc ít người. Những đề tài về các dân tộc miền núi làm người ta quan tâm.

- Làm sao chị biết về người Tà Ôi, từ tít bên kia?

Manu cười, đưa bàn tay có chiếc nhẫn, lật cuốn sổ có một trang ghi chú những con đường núi với những cái tên Tà Ôi đã phiên âm. Viên ngọc trên bàn tay phản chiếu ánh mặt trời, xanh biếc. "Có nhiều cách. Thư viện. Cộng tác viên. Và cả trí tưởng tượng nữa".

Manu quây kính xe lên, lập tức phía bên kia Tuấn cũng quây kín cửa lại cho khỏi gió. Người đàn bà cởi áo khoác. Đôi vai trần nâu mịn hiện ra trước mắt anh trên chiếc áo hai dây. Từ đôi vai anh có thể tưởng tượng ra cơ thể mảnh mai lạ thường mà phụ nữ trung niên thường không có. Có cảm giác như vừa uống một ly bia, anh bốc lên, dận ga cho xe lao rất nhanh trên đường đèo. Manu đặt một tay lên vai anh, như muốn bảo anh chậm lại. Hơi ấm từ bàn tay xuyên qua lần vải áo. Điện thoại đúng lúc ấy lại rung khẽ trong túi anh. Những hồi rung kéo dài, nối tiếp nhau, dai dẳng, như muốn níu giữ anh lại. Nhưng xe đã tiến lên dốc đèo Aco, ra ngoài vùng phủ sóng.

 *

Sau gần sáu mươi cây số chạy xe và hơn một giờ đi bộ, họ tới nhà mộ Tà Ôi giữa thung lũng hoang vắng. Tuấn phải rút dao nhíp cắt bớt những nùi dây leo quấn quýt bít lối đi để đưa Manu vào đến tận nơi.

Mặt trời nghiêng xuống chiếu vào cây cột lớn trong nhà mồ, rọi những tia dữ dội lên hình mặt người khắc trên cột. Phía sau cột cái, một dãy quan tài nằm cạnh nhau, mỗi quan tài là một thân cây đẽo vuông vức. Manu đến chỗ quan tài lớn nhất, đặt lên đấy bó hoa hồng trắng. Bó hoa đã hơi ủ rũ sau nửa ngày đường, nhưng vẫn rất thơm, thơm ngát.

Hoa hồng trắng của một người phương Tây nơi nhà mộ hoang vu này... Tuấn thầm nghĩ. Manu lấy ra một gói lớn, bà ta trầm tư một lát rồi mở gói, đặt lên nắp quan tài những nén bạc lớn. Tuấn đếm được tất cả ba mươi nén bạc.

Họ liên quan gì đến nhau, Manu và những người chết ở đây? Tuấn nghĩ thầm nhưng không dám hỏi. Manu đã xăm xăm trở ra giữa hai bờ cỏ tranh. Tuấn chăm chú nhìn vào mái tóc quăn cuốn cao trên cái ót đầy đặn. Anh chăm chú quan sát vẻ mạnh mẽ uyển chuyển kỳ lạ trong từng cử chỉ của người đàn bà: Vẻ bí ẩn bao quanh bà ta giống như một thứ men rượu, kích thích và gieo vào anh một sự hưng phấn mãnh liệt.

Trời đã sẫm chiều. Khi ra đến chỗ để xe hơi, Manu ngồi bệt xuống vệ cỏ. Tuấn trải tờ báo ra, bày mấy thức ăn khô có sẵn trong xe. Manu uể oải nhai mẩu bánh mì với một lát xúc xích. Phần Tuấn đã đói cồn cào, anh ngốn hết những thứ đã mang theo. "Manu, mình về thôi". Manu nhìn lên, mặt tái xanh. Lúc đó Tuấn mới nhận ra dưới vẻ mạnh mẽ và tự kiềm chế, người đàn bà đang xúc động cực độ. Anh hốt hoảng: "Manu, chị cần phải nghỉ một chút. Tôi đưa chị vào làng nhé?". Nghe câu nói của anh, Manu giật mình: "Khỏi cần, tôi không vào đâu, trên xe được rồi".

Tuấn lật ghế xuống, tạo thành hai cái giường song song. Manu ngả lưng xuống băng ghế sau, vẻ như kiệt sức. Tuấn giúp Manu kê đầu lại cho ngay ngắn, cởi giúp bà ta đôi giày đang bó chặt lấy cổ chân. Anh do dự không biết có nên giúp Manu nới những cái móc, cái cúc tế nhị hơn không. Rồi có lẽ được cảnh hoang vắng chung quanh khuyến khích, anh ôm choàng lấy Manu, ngực sát vào ngực người đàn bà. Hai bàn tay anh vuốt từ dưới gáy đến đôi vai, rồi dọc theo lưng, bằng cách đó anh làm cho người đàn bà thư giãn và tỉnh táo lại sau cơn xúc động. Mặt bà ta hồng lên, mắt mở. Tuấn cúi xuống, những lọn tóc rũ trước trán khiến khuôn mặt anh mang một vẻ buông thả mê muội. "Xem kìa, Tuấn, sao vậy?". Manu hỏi. Tuấn nói, không quanh co:

- Tôi thích chị.

Manu ngồi dậy, nói như hụt hơi:

- Cảm ơn, nhưng tôi không thể... Tôi lại có cảm tưởng như ở trong lễ pok ruông. Tôi sợ đến không thở được.

Tuấn bóp trán Manu, vầng trán giờ đây lạnh buốt, anh phải cố cho hơi ấm trong tay anh thấm vào.

"Đừng sợ, chị sẽ dễ chịu lại ngay thôi mà".

Trong tay anh, mạch cổ tay của Manu dần đập đều trở lại. Tuấn lấy tấm chăn có sẵn trong xe phủ lên người Manu. "Anh muốn biết pok ruông là gì phải không? Cứ ngồi với tôi một chút, tôi sẽ kể cho anh nghe".

Tuấn là người phóng túng, nhưng khi cần anh biết kiềm chế bản thân. Thôi không quấy Manu nữa, anh ngoan ngoãn ngồi bên bà ta trong tấm chăn ấm. Bên ngoài, sương xuống ướt ròng trên kính xe, chung quanh trời đất tối mịt thành một khối đen vô tận.

*

Kalang Nga vừa đi vừa thút thít khóc. Lúa đã về nhà rồi, chỉ còn nửa con trăng nữa là đến Tết. Tế thần Yang Tro xong, cả nhà sẽ được ăn cơm mới. Nhưng năm nay thì không được rồi. Nhà Aviet đã giục đón dâu, chỉ năm sáu bữa nữa là phải ra đi.

Kalang Nga mười hai tuổi. Cả bản làng khen cô đẹp, phơi phới như lúa đầu mùa. Những người già nói Kalang Nga giống mẹ. Mẹ chỉ còn là người đàn bà đen đúa, gầy còm sau nhiều năm vất vả. Vậy mà ngày còn trẻ mẹ Kalang Nga nổi tiếng đẹp nhất vùng, có tài dệt thổ cẩm rất khéo, cha Kalang Nga đã phải đi vay ở nhà Aviet để nạp tiền "văn" - tiền thách cưới - mới đủ. Vì món nợ ấy, Kalang Nga vừa lọt lòng đã được chủ nợ đặt cọc. Bây giờ, mẹ Kalang Nga đã chuẩn bị cho con váy, áo và chiếu nằm. Kalang Nga bứt tóc van vỉ. "Cho con ăn cơm mới ở nhà ". Mẹ Kalang Nga lắc đầu:

- Không được đâu. Nhà trai đòi đón dâu từ hồi con năm tuổi. Khất nhiều nhiều rồi, không khất thêm được đâu.

Cha Kalang Nga thì trừng mắt bảo con:

- Mày làm dâu nhà Aviet là có phước lắm rồi, làm dâu nhà sang, được đeo dây Katteng ngàn sợi, không hơn ở nhà khó quanh năm ăn củ nưa à.

Người lớn đã nói vậy, Kalang Nga chỉ còn biết nuốt nước mắt thôi. Bên nhà Aviet đã nối thêm gian mới. Aviet Khất giàu có, nhiều vợ, nhiều con cháu, nhà dài đến chín gian. Kalang Nga chưa đến gần bao giờ, nhưng cô bé sợ ông ta, sợ lắm. Aviet Khất là người thợ săn hùng mạnh và cũng rất hung dữ. Một lần khi lên tám tuổi, Kalang Nga đã nhìn thấy người vợ thứ ba nhà Aviet bị xử tội. Người đàn bà bị buộc vào sau ngựa và bị kéo lê đi khắp xóm, thân hình đầy máu.

 

Một hôm trước ngày đón dâu, cô bé đã chạy đến nhà Pasieng Rêm, người lái buôn thường về xuôi buôn bán sau mùa gặt. "Bác Rêm, cháu có nhiều đồ quý, bác bán giùm cháu được không?" Cô bé vừa hổn hển nói vừa quỳ xuống, buông vạt váy mà cô đang lật lên, khư khư bụm lấy trước bụng. Một mớ hòn cuội trong, nhẵn bóng đổ ra trên sàn. Đó là tất thảy những viên cuội đẹp nhất mà cô bé Kalang Nga nhặt được trong những lần đi cõng nước ngoài suối trong suốt năm năm.

Pasieng Rêm ngạc nhiên. "Mày muốn gì?". Kalang Nga năn nỉ:

- Cháu nghe nói bác về xuôi, đem vật quý của rừng về đổi gạo, muối, bạc. Cháu muốn nhờ bác đổi những thứ này lấy bạc.

- Những hòn cuội, người Kinh họ không thích, mày cất đi mà chơi. Vả lại mùa này ta không đi buôn, đã có ông bạn người Kinh đây đem saphia, nồi đồng, thanh la, muối lên cho ta rồi.

Hy vọng tiêu tan, Kalang Nga rã rời quỳ phục trên sàn, không đứng dậy nổi. Cô không biết rằng trong tư thế ấy trông cô rất đẹp, tấm zèng ngắn quàng từ ngực xuống đầu gối co lên để lộ đôi chân tròn và bóng mượt như thân chuối non. Nước mắt cô chảy từ cằm xuống vành ngực bầu bĩnh sau đường hoa văn căng tròn trên tấm thổ cẩm. Người lái buôn miền xuôi ngồi bên gùi hàng nhìn cô đăm đăm...

Khi Kalang Nga lượm lại những viên sỏi, buồn bã xuống đến chân cầu thang, một bàn tay giữ bờ vai cô lại.

"Tội nghiệp em. Em đừng sợ, tôi thương em lắm".

Trong bóng tối, trên bàn tay người đàn ông hiện ra một vật lấp lánh sáng. Một chiếc nhẫn màu xanh. "Ngọc đấy".

Lần đầu tiên cô bé thấy một vật quý như vậy. Hai mắt cô không thể rời khỏi ánh xanh huyền ảo của nó. "Em ra gặp tôi ở bờ suối ngoài bìa rừng. Tôi sẽ giúp em".

Kalang Nga đã nghe dân làng nói về saphia và ngọc. Chúng rất quý, chỉ những nhà rất giàu mới có được. Nhưng cô bé cũng hiểu, lời hẹn ngoài rừng có nghĩa là gì. Cô run lên, giọng khàn đi:

- Tôi sợ lắm.

- Đừng sợ. Tôi thương em lắm mà. Từ chiều mai em có thể trả cho Aviet Khết gấp bốn gấp năm lần tiền "văn", còn phải sợ ai nữa.

Kalang Nga vã mồ hôi ra, em không biết luật tục sẽ xử trí như thế nào trong trường hợp này. Em muốn về nhà hỏi mẹ, nhưng không thể được, viên ngọc xanh như có sức thôi miên. Cô bé đờ đẫn bước đến gần, mắt dán vào chiếc nhẫn.

Kalang Nga ra bìa rừng. Người đàn ông chờ cô bên bờ suối. Cô bé sợ hãi và đau rát. Dù xinh đẹp phổng phao, nhưng cô cũng chỉ là một đứa trẻ. Một đứa trẻ đã biến thành đàn bà. Từ nay cô là một dạng trẻ con - đàn bà; đàn bà vì hai lẽ, cô đã biết đàn ông và đã có nữ trang.

Nhưng món nữ trang không dễ bán. Pasieng Rêm lầm lì cầm chiếc nhẫn, soi trước ngọn lửa, rồi bảo:

- Mày ngu quá. Đây không phải ngọc, chỉ là viên ve chai thôi. Tao trả mày ba đồng xu thôi.

Kalang Nga kêu lên thất thanh: "Không, nó là ngọc mà" "Tao đã bảo là ve chai" Pasieng Rêm giận dữ quắc mắt, nắm chặt nó vào bàn tay lão. Kalang Nga cũng không chịu thua, cô bé lăn vào, mắm môi, giật bằng được chiếc nhẫn. Cô quay mình, chạy băng băng xuống cầu thang, đuổi theo người đàn ông miền xuôi.

Ở cuối bản làng, gã miền xuôi đang buộc hai gùi hàng vào hông xe máy, chuẩn bị lên đường. Kalang Nga đâm bổ đến, tóc cô rũ rượi. "Pasieng Rêm bảo tôi, đây là chiếc nhẫn giả". Người đàn ông tức giận:

- Pasieng Rêm nói gian. Cái nhẫn đó quý lắm.

Kalang Nga lắc đầu, nước mắt đầy mặt:

- Tôi chỉ cần ba mươi nén bạc trắng thôi. Ông mua cái nhẫn cho tôi đi.

Gã lái buôn biết, cứ đôi co thế này thì dân trong bản sẽ đổ ra, tai họa sẽ ập xuống đầu cả hai. Bỗng một thoáng, trong óc người đàn ông lóe lên một ý nghĩ táo bạo, hắn ta xốc Kalang Nga lên, đặt ngồi lên xe trước mặt hắn và rồ máy...

Kalang Nga bị bắt cóc khi chưa về nhà chồng. Cha mẹ cô bé chẳng bao giờ có đủ tiền để trả của cho nhà Aviet.

*

 Manu dừng kể. Trong đêm vắng, Tuấn nghe tiếng sương rơi lộp bộp trên trần xe.

"Rồi họ ra sao? Người Tà Ôi xử sự với họ như thế nào?"

"Luật Tà Ôi với tội bội hôn rất nghiêm khắc. Dù nhà gái có chạy đến góc biển chân trời nào cũng khó mà thoát, nhất định phải đền của cho nhà trai... Có khi còn bị chém giết... Pok ruông là như thế đấy".

Cái rùng mình của Manu sát bên Tuấn khiến bất giác anh cũng thấy sởn gai ốc, cảm thấy như uy lực của ngôi nhà mồ Tà Ôi đang ngự trị đâu đây sát bên anh, trong bóng đêm.

"Còn Kalang Nga? Cô ta sau này ra sao?"

"Nhiều chuyện xảy ra với con bé, kể thì dài lắm. Cuối cùng, nó được đưa vào cô nhi viện của các nữ tu dòng Mến Thánh Giá. Sau đó thì được một người Pháp nhận làm con nuôi".

Bên ngoài xe, bóng đêm loãng dần, tiếng sương rơi thưa đi. Những rặng cây xa xa lờ mờ hiện ra trước một quầng sáng đang ửng lên: Mặt trời sắp mọc.

"Kalang Nga lớn lên ở Paris, được học hành tử tế. Nó dần dần quên hẳn quá khứ. Khi mọi chuyện đã vượt quá sức một người, người ta chẳng còn cách nào hơn là quên đi để sống lại một đời khác.

Nhưng rồi sau nhiều năm, Kalang Nga bắt đầu có những thông tin từ nguồn cội của mình. Aviet Khết đã không giết và cũng không đòi nợ cha mẹ nó. Hóa ra ông ta không hoàn toàn khủng khiếp như nó tưởng. Trước chủ làng, ông ta nói họ không có tội".

"Kalang Nga kể với chị như thế sao?"

- Vâng. Theo tôi, ông ấy đã có suy nghĩ vượt hẳn những người cùng thời trong bộ tộc, ông đã phát hiện cái mà bây giờ ta gọi là trách nhiệm cá nhân.

Tuấn gật gù, không nói.

"Từ đó Kalang Nga không hề ngủ được, tâm thức Tà Ôi sống dậy trong nó. Nhiều đêm nó mơ thấy mình bị chủ làng kéo lê trên mặt đất trong lễ rửa nhục. Anh biết đấy, người Tà Ôi không chịu ảnh hưởng đạo Nho như các anh, họ không có những quan niệm về lễ giáo. Với họ điều quan trọng là luật tục. Kalang Nga không thể sống yên khi chưa đền cho Aviet Khết ba mươi nén bạc trắng..."

- Còn chiếc nhẫn? Nó là giả hay thật?

Manu đưa bàn tay ra. "Anh nhìn xem. Nếu quả thực nó chỉ là một hòn thủy tinh, thì có thể nói Kalang Nga là một con ngốc không?"

- Không những ngốc mà là điên! Nhưng dù sao cũng hiểu được, vì đấy chỉ là một cô bé miền núi chất phác, trong một hoàn cảnh rất bức bách.

"Còn anh?" Manu tủm tỉm cười.

Tuấn không hiểu người đàn bà muốn nói gì, anh hơi ngỡ ngàng. Nhưng đúng lúc đó, điện thoại di động trong túi anh rung lên, những hồi rung dài, nối tiếp nhau, dai dẳng và khắc khoải.

Bên ngoài xe, trời đã sáng bạch. Tuấn nhớ sực ra, giờ này chắc Liên đang cuống cuồng đi tìm anh. Đã sáu giờ sáng. Tuấn bứt tóc: "Trời ơi, mình điên, điên thật rồi". Giờ nạp lễ được ấn định là chín giờ. Từ đây về thành phố phải mất bốn giờ, nghĩa là anh đã cầm chắc trễ. Nhưng thôi hãy gắng một lần, nếu chạy xe nhanh, thật nhanh...

Anh không lý giải được vì sao ở ngoài vùng phủ sóng mà điện thoại anh lại bỗng dưng bắt được tín hiệu. Về sau Tuấn mới biết: Thật may mắn, ngày hôm ấy là ngày sóng di động bắt đầu được phủ rộng trên vùng rừng núi phía tây. Đã bốn mươi năm qua từ câu chuyện của Kalang Nga đến câu chuyện của anh, nhưng sức thôi miên của chiếc nhẫn màu xanh thì vẫn không hề khác.

*

Liên gần như bật khóc khi vào phút cuối Tuấn lao mình vào nhà, tóc tai phờ phạc vừa đúng lúc họ nhà trai đang tiến vào cổng nhà gái chuẩn bị nạp lễ. Suýt chút nữa thì đám hỏi đã được hoãn lại, nếu cha của chú rể không liều mạng nhất quyết cử hành, với niềm hy vọng ông con trai quý hóa sẽ về vào phút chót.

Mấy hôm sau, Tuấn đi làm. Manu đã rời Huế đi Hà Nội. Người quản lý chuyển cho Tuấn chiếc phong bì và một cái hộp nhỏ. Trên phong bì là tên người gửi: Nghệ sĩ múa Manuelle Hardy, nghệ danh Manu le Cygne. Tuấn nhíu mày: le Cygne trong tiếng Pháp chính là Kalang Nga trong tiếng Tà Ôi, nghĩa là con ngỗng trời (thiên nga).

Trong hộp là chiếc nhẫn màu xanh. Tuấn nhìn kỹ nó, nhưng thật lạ, không có vẻ huyền ảo như lần đầu anh nhìn thấy, hôm nay trông nó trơ trụi và thô thiển hơn nhiều lắm.

Anh mở phong bì, đọc thư:

"Đêm qua tôi đã ngủ được một giấc ngon lành, hơn mười năm nay tôi mới được ngủ như thế. Anh thực sự là một người bạn đường dễ mến, vì vậy tôi rất cảm ơn anh và muốn nhờ anh một việc nữa. Tôi gửi lại anh chiếc nhẫn này. Sau khi sang Pháp tôi vẫn khư khư giữ nó, rồi khi lớn lên, khi đã biết chắc mười mươi chỉ là một hạt ve chai, tôi vẫn không thể vứt đi được. Có lẽ tôi đã trả cho nó một giá quá đắt nên không thể chấp nhận cái ý nghĩ rằng nó là một vật vô giá trị. Anh hãy làm việc đó giùm tôi nhé".

Tuấn cầm chiếc nhẫn lên, đeo vào tay, không thấy nó phát ra ánh xanh lấp lánh nữa. Hóa ra vẻ huyền ảo ma quái ấy có nguồn gốc từ sự tham muốn trong anh, chứ không phải từ chính nó.

Anh về nhà, lúc đi ngang hòn non bộ trong sân, anh dừng lại. Manu không biết rằng anh cũng suýt trả cho nó một giá đắt, vì thế giờ đây cầm nó trên tay anh cũng lưu luyến một cách vô cớ. Nhưng phải nhận lời ủy thác của Manu thôi. Tuấn mỉm cười, thả chiếc nhẫn xuống chân hòn non bộ.

Lắng sâu vào lớp rêu, nó chỉ còn là một viên bi ve lấp lánh vừa đủ để cho lũ cá vàng ngắm nghía mỗi lúc lượn qua.


Trần Thùy Mai
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23640
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 19/Sep/2023 lúc 10:25am

Người Đàn Bà Mù Ở Bắc Kinh 

Hình minh hoạ

Như cái máy, tôi đưa tờ báo lên che đầu. Tôi chạy một mạch băng qua đường vào cái quán nước bình dân ở đầu con hẻm. Mưa đổ thình lình khiến mọi người nhốn nháo tìm nơi trú ẩn. Tôi đưa mắt liếc nhanh một vòng chừng một chục chiếc bàn chật ních khách ăn. Chỉ còn lại một chiếc ghế trống nơi cái bàn nhỏ trong góc phòng. Từ đàng xa, một phần vì ánh đèn không đủ sáng  của quán ăn, một phần vì mắt kiếng nhoè nhoẹt hơi nước, tôi chỉ thấy lờ mờ hai người đang ngồi ở đó.


Tiến lại gần hơn một chút, tôi nhận ra đó là một phụ nữ và một đứa bé trai chừng sáu bảy tuổi. Cả hai ngồi im lặng giữa khung cảnh ồn ào của quán ăn. Đứa bé đôi mắt lim dim có vẻ mệt mỏi. Người đàn bà thì nhìn thẳng vào khoảng trống không trước mặt. Gương mặt hơi rám nắng của bà an lành và bình thản như một kẻ đang tham thiền. Lối phục sức của họ khá chừng mực, không sang không hèn. Tôi đến xin phép ngồi xuống chiếc ghế còn trống. Người đàn bà giựt mình nhưng mắt vẫn nhìn xa vắng. Bà nói rất nhanh, giọng trong trẻo khác thường:

-Xin ông cứ tự nhiên.

Tôi cũng hơi sửng sốt khi nhận ra cặp mắt trắng dã của người phụ nữ. Cố tật suy nghĩ vẫn vơ nhanh tay túm lấy tôi. Những ý nghĩ thầm kín đó như đang chất vấn đấng cao xanh: Tại sao có thể như vậy được ? Tại sao một gương mặt xinh xắn như vậy lại phải chịu cảnh mù loà ? Cặp mắt to tròn kia nếu sáng láng chắc chắn sẽ thu hút cả vũ trụ và càn khôn.


Tôi ngồi xuống ghế, xoay người lại làm dấu gọi người phổ ky đang nhìn tôi từ đàng xa. Tôi cần ăn một chút gì để làm dịu cái đói đang cồn cào trong bụng. Tôi đi lang thang từ sáng đến giờ quên cả tiếng kêu thảm  thiết của cái bao tử xẹp lép của mình. Ngồi chờ thức ăn, tôi định giở tờ báo ra xem tiếp. Cùng lúc ấy, giọng nói trong như pha lê của người phụ nữ mù lại vang lên. Bà ấy bắt chuyện với tôi tuy đôi mắt vô minh vẫn nhìn xa xôi vào quãng không gian nhỏ hẹp trước mắt. 

-Tôi thành thật xin lỗi ông, nhưng ông đã làm cho tôi suýt gọi tên anh ấy. Thật khó có hai người giống nhau đến như vậy. Người phụ nữ ngừng lại có vẻ đang chờ đợi một câu đáp lễ nào đó.

 

Nhưng tôi đang ngạc nhiên không hiểu nổi làm cách nào bà có thể nhận được diện mạo của tôi. Dĩ nhiên tôi bắt buộc phải hỏi:

- Xin lỗi bà. Nhưng bà làm sao trông thấy tôi cho được ?

- Tôi biết, đối với những người còn đôi mắt nguyên vẹn thì đây là một điều khó hiểu. Nhưng đối với những kẻ mù loà như tôi thì được cái Trời thương ban cho tôi một giác quan thứ sáu rất bén nhạy. Chỉ cần nghe giọng nói và cảm nhận những cử chỉ của ông, tôi có thể "thấy" ngay là ông rất giống anh ấy.

 

Chỉ một phút qua, người phụ nữ đã lập lại hai chữ "anh ấy" đến hai lần rồi. Điều đó khơi dậy óc tò mò nơi tôi. Tôi chưa kịp định bụng có nên hỏi thêm hay không thì người phụ nữ đã e dè hỏi tiếp:

- Nếu tôi không lầm thì ông là khách từ phương xa đến ? 

Người phụ nữ đưa tay sờ soạn  kéo chiếc ghế của đứa bé lại gần bà. Thằng bé dúi đầu vào lòng người phụ nữ và rơi nhanh vào một giấc ngủ hồn nhiên. Sự dè dặt nơi người đàn bà trước mặt tôi hình như cũng vừa biến mất. Đầu cúi hơi thấp và đôi mắt hướng xuống mặt bàn, bà bắt đầu kể mà không cần một lời giáo đầu nào. Bà cũng không cần biết người đối diện có muốn nghe câu chuyện của bà hay không. Hình như bà đã chờ đợi cơ hội này từ lâu lắm vì đã dấu kín tâm tư cho tới ngày hôm nay.

Hoặc giả bà đã đọc được những câu hỏi đang lởn vởn trong đầu óc tôi.


Từ bao giờ bà đã bị mất ánh sáng ? Bà cư ngụ ở đâu ? Bà làm gì để sinh sống ? Đứa bé này có phải là con của bà hay không và cha nó ở đâu ? Có thật là cái giác quan mãnh liệt kia đã giúp bà "nghe" được tất cả những câu hỏi chưa thốt ra đó hay không. Riêng đối với tôi, ở nơi xa lạ này, tự dưng được nghe một câu chuyện "tâm tình trao gởi" quả thật là một dịp may khó tìm. Bà kể không chút ngại ngùng như cho một cố tri vừa gặp lại sau một thời gian dài vắng bóng.


Anh ấy ra đời ở Hương Cảng và đã trải qua một thời thơ ấu vô cùng buồn thảm. 

Cha anh làm nghề tài xế lam lủ đầu tắt mặt tối nhưng vẫn không nuôi nổi bảy tám miệng ăn trong gia đình. Sống trong cảnh đói lạnh là chuyện thường tình đối với họ. Điểm đặc biệt là ngay từ khi mới biết đi biết nói, anh là người thương yêu anh chị em mình một cách khác thường. Anh sẵn sàng nhường nhịn mọi thứ cho những người xung quanh. Vậy mà trớ trêu thay ! Khi muốn bớt một miệng ăn trong gia đình, anh lại là đứa bé bị cha mẹ chọn đem cho một người cô giàu có.  Người cô này hiếm muộn nên đã xin một đứa cháu làm con nuôi. Mới ba bốn tuổi đầu, anh ấy đã phải rời xa những người thân yêu nhất đời. Đau đớn nhất là phải chịu dứt tình mẫu tử, thiếu vắng hơi hướm nồng nàn của mẹ từ ngày chưa hưởng trọn niềm vui gần mẹ. 

Anh đã úp mặt xuống đất khóc than xin ở lại nhà. Cha mẹ anh cũng đau lòng không ít nhưng trước đó họ đã mất một đứa con chỉ vì thiếu ăn và thiếu thuốc chữa chạy khi đứa bé ấy lâm trọng bệnh. Họ không muốn "tử biệt" thêm một đứa thứ hai nên đành bấm bụng chọn cảnh "sinh ly" với hy vọng một ngày nào đó sẽ gặp lại con. Cuối cùng anh ấy phải khăn gói lên đường về ở với người cô tận bên Đài Bắc.


Mười mấy năm lớn lên xa cha mẹ và anh em, anh ấy chỉ được theo cô về thăm nhà một đôi lần. Dù được người cô tận tình nuôi nấng và dạy bảo, cái tâm trạng lạc lõng đơn côi lúc nào cũng đeo đuổi theo anh suốt thời thơ ấu và thanh niên. Đến khi vào đại học thì đó là lúc anh không còn thuận thảo với cha mẹ nuôi nữa. Tuy không bao giờ quên ơn dưỡng dục của cha mẹ nuôi, anh cũng không thể chiều ý hai ông bà. Số là cô dượng anh ấy có một công ty xuất nhập cảng đồ sộ và muốn anh theo học ngành kinh doanh để sau này trông coi cơ nghiệp đó và giúp họ trở thành những người giàu có nhất nước, hoặc nhất nhì thế giới càng hay. 

Ngược với ý muốn của họ, anh ấy lại mê văn chương thi phú trên hết mọi thứ. Anh ấy là người biết rõ số phận của lớp cùng đinh trong xã hội này hẫm  hiu đến độ nào. Vậy mà tiền của bạc vàng đối với ảnh chỉ là những vật phù phiếm đứng hàng thứ yếu trong đời. Thật ra, cha mẹ nuôi  của anh ấy đã bắt đầu thất vọng ngay từ khi thấy những bài thơ đầu tiên của anh ấy xuất hiện trên những tờ báo học trò. Rồi sau đó, khi anh ấy sắp từ giả ghế nhà trường trung học, một vị giáo sư yêu thơ của anh đã tận tình giúp anh xuất bản tập thơ đầu tay. Từ đó nhanh như chớp mắt, tên tuổi anh đã vang lừng khắp nước. Và cũng chẳng mấy chốc, thơ của anh được phát hành ở Hương Cảng,  đưa lén vào Hoa Lục, rồi dần dà được dịch ra nhiều thứ tiếng. Người ta chiêm ngưỡng thơ anh vì những tư tưởng lạ lùng trong đó. Người ta phổ nhạc những bài thơ tình vượt thời gian và không gian của anh.  

Có điều đáng ngại (hay đáng buồn?) là danh tiếng của một nhà thơ siêu đẳng trên thực tế chẳng đem lại cho anh giàu sang phú quý gì. Sau khi không thuyết phục được anh, cô dượng anh không tiếp tục nuôi anh ăn học nữa. Vậy là anh ấy kéo lê cuộc sống của một sinh viên nghèo ở bậc đại học cho đến ngày giật lấy mãnh bằng cử nhân văn chương. Sau đó anh dứt khoát ra đời làm nghề dạy học. Lúc ấy, cha mẹ nuôi của anh tìm anh và bắt buộc anh hằng tháng phải đưa cho ông bà một số tiền kiếm được mặc dầu nó chẳng nhiều nhỏi gì đối với họ. Phải chăng họ còn tức giận anh và chỉ muốn trừng phạt anh vì đã cãi lời họ. Anh kính cẩn đền đáp công đức cù lao của họ, không một tiếng kêu than. Anh tiếp tục sống đạm bạc để gửi số tiền dành dụm còn lại về cho cha mẹ ruột nuôi nấng đàn em. 

Anh đi dạy được mấy năm, nhưng sau một vụ hè nọ người ta không thấy anh trở lại trường. Và cũng từ đó, tại khắp Đài Bắc và nhiều nơi khác tin tức cho hay nhà thơ yêu dấu của họ mất tích. Nhưng rồi một thời gian sau thiên hạ cũng quên lãng dần và không còn bận tâm tới vụ này nữa. Và dĩ nhiên người ta không còn thấy xuất hiện những bài thơ ký tên anh. Sự thật là anh ấy đã cùng một người bạn con nhà giàu rủ nhau sang Hoa Lục với một mục đích được dấu kín. Họ đã phải nhọc công  từ Hương Cảng tìm đường xin giấy tờ vào Thượng Hải.

 

Lúc bấy giờ tôi là một thành viên trong đoàn văn công của thành phố Thượng Hải, là nơi tôi đã ra đời và lớn lên. Chắc ông không tài nào đoán được tôi đã từng giữ vai tuồng nào trong đoàn văn nghệ đó đâu. Tôi không dám hợm mình tự khoe nhưng sự thật tôi là một nghệ sĩ cột trụ của đoàn. Tôi rất trội trong tất cả các bộ môn ca, vũ, kịch và biểu diễn nhào lộn. Chắc ông cũng từng được xem cái màn cả chục người  cùng đi trên  một chiếc xe đạp chạy trên sân khấu chứ? Tôi nắm một địa vị chủ chốt trong màn biểu diễn đó. Nhà nước rất cưng tôi và số người mến mộ tôi nhiều  không kể xiết. 

Đặc biệt tôi đã đóng vai một phụ nữ mù kéo lê cuộc sống gian truân dưới thời phong kiến trước kia.

Nhờ Trời thương ban cho tôi biệt tài diễn xuất cho nên vai tuồng nọ đã làm nhiều lớp khán giả phẩn uất và xúc động đến rơi lệ. Tôi đương nhiên trở thành "Người  đàn bà mù của Thượng Hải" . 

Tôi đã phải giả làm người phụ nữ mù ấy suốt mấy năm trời. Một đêm nọ, sau khi tấm màn nhung hạ xuống lần cuối cùng, tôi bước ra sân khấu chào tạm biệt khán giả. Tôi nghe tiếng vỗ tay tán thưởng rầm trời, nhưng thình lình mắt tôi hoa lên rồi mờ hẳn đi và cảnh tượng trước mắt tôi cũng lui dần vào bóng tối. Người ta đưa tôi vào bệnh viện và tìm cho tôi các bậc danh y,  nhưng sau nhiều cố gắng, tất cả đều bỏ cuộc đành trao cho tôi bóng tối miên trường. Thế giới mù loà của tôi kể từ đó chẳng khác nào chiếc sân khấu trống lạnh đằng sau tấm màn nhung không một ánh đèn hiu hắt. 

À... nhưng tôi quên kể cho ông nghe là chúng tôi đã gặp nhau hơn hai năm trước khi xảy ra vụ này. Thật ra, khi tai nạn khủng khiếp đó đến với tôi, anh ấy đã rời xa Thượng Hải rồi. Đêm cuối cùng gần nhau anh ấy có hứa sẽ trở lại tìm tôi. Những tiếng thì thầm nọ tôi còn nhớ rõ như vừa mới nghe hôm qua: "Em nên nhớ rằng em là người yêu duy nhất của anh. Anh sẽ tìm cách tiến thân trong một thời gian ngắn nhất và sẽ trở về với em". 

Anh ấy ra đi rồi tôi mới biết mình đã cấn thai  đứa nhỏ này. Nghĩa là anh ấy đã lao vào đời tôi  như một mũi tên, để lại trong tôi một giọt máu đào, rồi vụt bay đi như một cánh chim của bốn phương trời. Tôi tin anh ấy yêu tôi bằng cả tấm lòng nên tôi quyết tâm chờ đợi. Ở một phương trời xa lạ nào đó, người yêu của tôi nào biết rằng anh ấy có một đứa con khôi ngô  và ngoan ngoãn như thế này, phải không ông? Anh ấy cũng chẳng biết là tôi đã phấn đấu cùng quẫn như thế nào đứa bé này mới có mặt  trên cõi đời hôm nay. Tôi chẳng màng chi tiếng đời dị nghị nhưng lệnh của nhà nước mới là điều khiến tôi bận tâm. Họ buộc tôi phải phá thai vì đoàn ca kịch nọ không thể thiếu tôi đóng vai người đàn bà mù. 

Tôi kịch liệt phản đối đề nghị của ban quản đốc. Cuối cùng họ đã nhượng bộ và cho tôi nghỉ phép nửa năm. Sau khi sinh cháu bé này tôi trở lại làm việc nhưng chẳng mấy vui. Số là trong thời gian tôi nghỉ phép, đoàn ca kịch đã tìm được một thiếu nữ khác thay thế tôi. Cô ấy hao hao giống tôi nhưng dĩ nhiên là trẻ trung và mạnh khỏe hơn nhiều. Phải công nhận người thiếu nữ nọ là một nghệ sĩ tài ba nên chẳng mấy chốc cô đã tiến lên ngôi vị khá cao. Các giới phê bình và hâm mộ bắt đầu sắp cô đồng hạng với tôi. Chúng tôi thay phiên nhau đóng vai người phụ nữ mù trong vở ca kịch kia. 

 

Bỗng dưng Thượng Hải có tới hai phụ nữ "mù" nỗi tiếng chớ không phải một như trước kia. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó, ban quản đốc bắt đầu tỏ thái độ lạnh nhạt đối với tôi. Tuy tuổi đời và tuổi nghệ thuật của tôi chưa có là bao nhưng tôi đem áp dụng ngay cái mà người đời thường gọi là "luật đào thải". 

Tôi làm đơn xin ra khỏi đoàn về nhà ăn bám mẹ tôi. Cũng may trước kia cha tôi có cất dấu và về sau để lại một gia tài bí mật nho nhỏ cho bà. Nhờ vậy mà tôi đỡ lo nuôi mình và nuôi con. Vả lại vào thời điểm ấy trong cuộc đời bắt đầu chuyển hướng của tôi chỉ có anh ấy là đáng kể. Kỳ dư không còn một thứ gì khác trên thế gian này có giá trị vượt trội đối với tôi, kể cả sự nghiệp cầm ca mà tôi từng ấp ủ suốt bao nhiêu năm trời.

 

Trong thời gian trở lại làm việc sau khi sinh nở, một đêm kia sau giờ trình diễn, có một người lạ mặt tìm gặp tôi ở hậu trường. Người đàn ông đó tự giới thiệu là một người bạn của anh ấy. Ông ta trao cho tôi một lá thư viết vội của anh ấy gửi cho tôi. Ngoài ra ông ta cũng đưa cho tôi  một xấp giấy, bảo rằng đó là mấy chục bài thơ mới nhất của anh. Tới lúc bấy giờ anh ấy và tôi đã xa nhau gần hai năm trời đăng đẳng. Được tin anh ấy đang ở Bắc Kinh tôi mừng vô kể và nỗi nhớ quay quắt trong tôi vơi  cạn phần nào. Người đàn ông nọ cần đi gấp nên không thể chờ tôi hồi âm. Về nhà đọc thư tôi mới vỡ lẽ ra rằng trong thư không ghi địa chỉ anh ấy. Đại để anh viết rằng Bắc Kinh không xa Thượng Hải là bao nhưng thời gian chưa thuận tiện để anh ấy trở lại tìm tôi. Anh muốn nhắc cho tôi nhớ rằng anh vẫn giữ trọn mối tình son sắt cho tôi và vẫn còn mơ một ngày về không xa.

 

Tôi thẩn thờ đọc những bài thơ mới của anh, giựt mình thấy anh đã hoàn toàn thay đổi chủ đề và giọng điệu. Ngoại trừ một bài viết để tặng riêng tôi,  không còn những bài thơ trữ tình ca ngợi tình yêu lãng mạn như xưa. Rõ ràng là đã có một cơn lột xác tận cùng xương tủy. Trước mắt tôi là những giòng thơ hùng tráng ca ngợi tự do, dân chủ và hoà bình. Bên tai tôi khi đọc lên là những lời thơ kịch liệt chống đối chế độ và đòi lại những quyền cơ bản của con người. Thể tài có thay đổi nhưng phẩm chất trong thơ anh vẫn thế, vẫn có giá trị vô song.

 

Sau lần đó, tinh thần tôi lên cao đôi chút. Tuy vắng bóng anh ấy nhưng tôi trộm nghĩ rằng trước hết anh là một nhà thơ nên rất cần sống một đời thơ. Ai lại nỡ "bắt nhốt" thi sĩ bao giờ, phải không ông? 

À...tí nữa tôi lại quên kể cho ông nghe một chi tiết khác trong cuộc đời anh ấy. Nói chuyện "cầm tù" thi sĩ tôi mới nhớ ra rằng tôi bỏ sót chuyện anh ấy đã một lần bị cha mẹ nuôi toan "quản thúc" anh kiểu đó. Mặc dầu bỏ mặc anh với cuộc sống tự lập nhưng sau khi anh tốt nghiệp đại học và nỗi tiếng là một nhà thơ lớn, cha mẹ nuôi của anh đã thay đổi thái độ. Thật ra họ chẳng ưa thích gì cái trò "thơ thẩn" của anh, song dĩ nhiên họ cũng nở mặt nở mày trước những thành công rạng rỡ của anh trong lĩnh vực này. 


Hai ông bà vốn quen biết nhiều người trong giới doanh thương ở  Đài Bắc. Một trong các gia đình đó cũng giàu có như họ đã bằng lòng gã con gái cho anh ấy, dĩ nhiên là do cha mẹ anh ấy nhờ mai mối hỏi han. Tôi chưa bao giờ mở miệng hỏi anh về mối tình kia hoặc cuộc đời vợ chồng sau đó anh có hạnh phúc không. Tôi không biết anh quyết định lập gia đình chỉ vì muốn làm tròn bổn phận một đứa con hiếu thảo, hay là anh ấy thật tình yêu quý thiếu nữ nọ. Tôi chỉ biết rằng người thiếu nữ kia rất yêu văn chương của anh và hai người có với nhau một đứa con trai. Nghĩa là đứa bé đang ngồi ngủ ở đây lại có một thằng em cùng cha khác mẹ ở một nơi xa xôi vời vợi và chưa biết bao giờ chúng mới được gặp nhau. Mà tôi cũng chẳng biết anh ấy có hứa hẹn một ngày nào quay lại với họ hay không.


Sau khi thôi việc ở đoàn ca kịch, tôi ru rú trong xó nhà với mẹ tôi suốt mấy tháng liền. Bỗng một hôm từ trong cửa sổ tôi vô tình nhìn lên  mấy cụm mây đang trôi lơ lững giữa bầu trời trong xanh. Tôi tự nhủ, mây là vật vô tri  mà còn biết lặn lội tìm nhau huống hồ tôi là người có tâm hồn sao lại không biết đi tìm người. Tôi quyết định đi tìm anh ấy với bất cứ giá nào.  Tôi khăn gói sẵn sàng nhưng chưa kịp lên đường thì đã xảy ra vụ lộn xộn ở Quảng trường Thiên An Môn. Tôi đành hoãn lại chuyến đi, nhưng ngay sau khi tình hình lắng dịu tôi sang Bắc Kinh ngay. Và hơn hai năm nay tôi đã lùng kiếm anh ấy khắp thành phố này nhưng chưa được cái may mắn gặp lại người yêu.


Người đàn bà mù ngưng kể câu chuyện ở đó. Bà quờ quạng đưa tay chỉ lên mặt bàn:

- Xin lỗi, mời ông dùng kẻo nguội.

Tôi quay lại nhìn đĩa thức ăn người phổ ky mang lên lúc nào tôi không hay. Thằng bé cựa mình, ư ư mấy tiếng, trở đầu úp má lên lòng mẹ ngủ tiếp. Người đàn bà hơi rụt rè:

- Ông đến Bắc Kinh có công việc ?

Tự nhiên tôi không cảm thấy khó chịu trước câu hỏi tò mò kia. Ngược lại, tôi thấy rất thoải mái trước mặt người phụ nữ xa lạ này.

- Thưa không. Tôi đến đây vì có một người quen ở đây.

- Quý hoá quá! Chắc ông đã vui mừng gặp bạn ông rồi chứ ?

- Thưa thật với bà, tôi chưa gặp. Và chắc là tôi sẽ không gặp.

- Xin lỗi ông, nhưng điều ông vừa nói nghe lạ tai quá !

- Tôi tự nhủ thế nào bà cũng nghĩ như vậy. Tuy nhiên, nếu bà cho phép, tôi cũng xin kể vắn  tắt câu chuyện về "cô ấy".

Tôi ngước mắt lên dò dẫm phản ứng của người phụ nữ mù. Tôi bắt gặp khuôn mặt thanh tú, đầu hơi cúi, hai mắt khép lại một thoáng và đôi riềm mi  cười rung rung ưng thuận. Tính tôi không phải bạ ai cũng đem chuyện thầm kín riêng tư của mình ra kể. Nhưng người đàn bà trước mặt tôi dường như có một sức hút thần bí nào đó khiến tôi như bị một cơn lốc tình cảm cuốn phăng. Và tôi đã trao gửi chuyện lòng cho bà ta một cách gần như vô lý.

 

Cô ấy bước ra khỏi cuộc đời tôi không một lần ngoảnh mặt lại. Và lý do tại sao thì chỉ có đấng cao xanh và một mình cô ấy biết mà thôi. Bà có thể tưởng tượng nổi hay không chứ ? Chỉ còn một tuần nữa là tới ngày cưới của chúng tôi. Vậy mà tự dưng cô ấy biến mất tăm dạng không một lời nhắn gửi...như...như cái gì bà nhỉ ? Tạm gọi như một làn khói nhoà tan vào một vùng trời bát ngát. Chính gia đình cô ấy cũng không biết cô đi đâu. Mãi về sau nhờ một sự tình cờ chúng tôi mới khám phá ra là cô ấy đã đi tu, hiến dâng cuộc đời cho Chúa Cứu Thế. Dĩ nhiên là tôi đau khổ vì tôi yêu cô ấy thật tình. Nhưng điều đã dằn vặt tôi nặng nề nhất chính là vì tôi chẳng hiểu đầu đuôi mô tê gì ráo. Tôi bắt đầu đi tìm câu trả lời. Trong khi tôi xôn  xao đi tìm sự thật thì dường như cô ấy thản nhiên cho rằng giải  thích hành động của cô là điều không cần thiết. Tôi chỉ đoán già đoán non vậy thôi chứ làm sao tôi biết được cô ấy nghĩ gì. 

Một thời gian sau tôi đành cúi đầu thần phục định mệnh. Tôi bỏ cuộc nhưng cùng lúc ấy tôi đã tự tạo cho mình một thói quen khá kỳ lạ. Cô ấy được nhà Dòng gửi đi làm công tác xã hội ở nhiều nơi. Sau khi dọ hỏi, tôi luôn luôn tìm đến nơi cô ấy đang phục vụ. Tôi đã đi khắp, từ Âu Châu sang Á nhưng cốt không gặp mặt người yêu. Tôi chỉ muốn nhìn xem phong cảnh nơi người yêu tôi đang sống xinh đẹp như thế nào. Mục đích của tôi chỉ có như vậy thôi. Có thể đó cũng là một cái cớ để tôi đi du lịch đó đây. Nhưng đồng thời tôi đã vô tình cảm thấy vui thích trong cái công việc chạy theo một bóng mờ mờ ảo ảo. Tôi nghe nói cô ấy đang làm việc tại một viện dưỡng lão ở Bắc Kinh này nên tôi đã vội vàng đến đây. Và dĩ nhiên tôi sẽ không tìm gặp cô ấy nữa vì một lý do rất giản dị. Tôi đã bỏ cuộc từ lâu lắm rồi.

   

Người đàn bà mù đột nhiên cắt ngang câu chuyện của tôi. Giọng bà đầy nhiệt tình của kẻ yêu đời.

- Xin lỗi ông, nhưng tôi không muốn nghe thêm vì chừng đó cũng đủ  để tôi hoàn toàn không đồng ý với ông. Tôi trộm nghĩ ông đã sai lầm khi quyết định bỏ cuộc không tiếp tục tìm gặp người yêu. Ông bỏ cuộc tức là ông không thật tình yêu thương cô ấy. Trong tình yêu, ông cần phải vị tha. Hơn nữa, cuộc đời này quá đẹp, tại sao ông sớm bỏ cuộc ? Tôi không thể nào chấp nhận lối  suy nghĩ của ông.

 - ---- 

- Tôi xin lỗi đã bộc bạch ý nghĩ chân thành của mình một cách đường đột như vậy. Chúng ta chỉ là hai kẻ lạ tình cờ gặp  nhau một buổi chiều mưa nơi hai đốm nhỏ rí trên mặt đất bao la này. Rồi tự dưng đem chuyện tâm tình  kể cho nhau nghe. Ông có nghĩ rẳng chúng ta vô tình  hành động như vậy chỉ vì muốn trút bớt  nỗi niềm đơn độc đầy ắp trong tâm hồn chúng ta hay không? Nhưng thôi... tôi xin nói thẳng với ông rằng tôi rất tự hào là tôi chưa bỏ cuộc. Tôi yêu thương cuộc đời này bất chấp những điều đen tối. Vả lại hình ảnh của anh ấy lúc nào cũng đậm đà trong trí nhớ tôi. Và tôi tự hứa sẽ mãi mãi  đi tìm cho đến khi nào  tôi gục ngã mới thôi.

 

Người đàn bà mù đánh thức đứa bé và chậm rãi đứng dậy kiếu từ tôi. Bất thình lình bà nói giọng nhỏ nhẹ :

- Tôi có vài điều muốn thưa với ông. Nếu không có gì bất tiện tôi xin được gặp lại ông ở đây vào chiều mai. Xin trân trọng chào ông.


Tôi ngỡ ngàng nhìn theo đứa bé dắt người đàn bà mù ra khỏi quán. Tôi quay lại nhìn đĩa đồ ăn đã nguội ngắt từ lâu. Một lớp mỡ trắng phếu đọng lại sền sệt trên mấy miếng thịt và cọng rau trong đĩa. Tôi rót cho mình một tách trà nóng và uống cạn một hơi. Tôi trả tiền cho người phổ ky và bước ra mái hiên  quán nước chưa biết đi đâu. Phía dưới chân tôi, một dòng nước mưa nho nhỏ chảy quanh dọc theo bậc thềm mòn lở. Bỗng dưng tôi tưởng tượng ra một dòng sông lớn, nước trôi cuồn cuộn. Giữa những bọt bèo trong dòng  sông nọ, tôi chợt thấy đang loi ngoi bóng dáng của người đàn bà mù và đứa bé  và của chính tôi.


Chiều hôm sau tôi trở lại quán nước nọ. Vào bên trong, tôi không thấy người đàn bà và đứa bé đâu cả. Tôi không hiểu tại sao nhưng tôi đang sốt ruột mong gặp lại họ. Chờ mãi không thấy, tôi trở ra ngoài. Đang nhìn quanh quất thì hai mẹ con một người ăn mày tiến lại gần tôi. Tôi suýt buộc miệng la lên khi nhận ra đây chính là người đàn bà mù  với đứa bé mà tôi vừa trò chuyện hôm qua. Nhưng hôm nay, bà ấy đeo kiếng đen, tay cầm một chiếc gậy gỗ khẳng  khiu. Cả hai mẹ con ăn mặc rách rưới bẩn  thỉu. Người đàn bà hạ thấp giọng xin gặp tôi nơi gốc cây cổ thụ ở sâu bên trong con hẽm. Thằng bé nhanh chân dắt mẹ đi về hướng đã hẹn. Tôi rảo bước theo giữ một khoảng cách khá xa. Tôi vừa đến dưới gốc cây thì người phụ nữ đã nói một mạch vừa đủ cho một mình tôi nghe:


- Thưa ông, trước hết tôi xin lỗi đã nói dối ông một điều. Toàn thể câu chuyện tôi kể cho ông nghe hôm qua đều là sự thật, ngoại trừ một điều, tôi không hề bị mù như tôi đã nói với ông. Suốt thời gian còn đóng vai người mù, hằng đêm khi bức màn nhung buông xuống lần cuối cùng, tôi cứ nơm nớp lo sợ là mình sẽ bị mù thật. Nhưng nhờ Trời tôi vẫn còn đôi mắt nguyên vẹn. Giờ đây, tôi chỉ giả mù và làm người ăn xin để đi dò la tin tức anh ấy mà thôi. Chắc ông cũng đồng ý với tôi là tất cả mọi người trong thiên hạ đều phải  tự đeo cho mình một chiếc mặt nạ nào đó để sống với đời, phải không ông ? Riêng tôi, tôi đã chọn cho mình chiếc mặt nạ rất khiêm tốn và hiền lành như ông  trông thấy đó. Nhưng thôi... tôi không nên dài dòng thêm nữa. Tôi xin đường đột nhờ ông một việc mà tôi đoán là không vượt quá khả năng của ông. Đây là mấy chục bài thơ mới của anh ấy chưa xuất bản  lần nào.

Tôi xin hứa sẽ không làm phiền ông trừ phi tối cần thiết. Lý do khiến tôi nhờ vả ông chuyện này  chính tôi cũng không rõ, nhưng tôi xin ghi nhớ ơn ông suốt đời.

 

Tôi đưa tay cầm lấy xấp giấy trong cái bọc ny long người đàn bà chìa ra cho tôi sau khi đã nhìn kỹ chung quanh. Đồng thời tôi rút ra một miếng giấy nhỏ trong túi áo, ghi vội địa chỉ và dúi vào tay  người phụ nữ "giả mù" . Tôi hành động như một người máy không ý thức được mình đang làm gì. Người phụ nữ nhìn thẳng vào mắt tôi nhưng tôi không biết là dưới lớp kính  màu đen kia bà có giả mù hay không. Có một điều tôi không thể nào lầm lẫn là bà có đôi mắt buồn và đẹp nhất thế gian này.


Người phụ nữ nói nhanh :

- Chúng ta đứng đây lâu e không tiện. Xin cho tôi nói với ông một lời cuối: tôi tự nguyện sẽ không bao giờ bỏ cuộc. Xin chào tạm biệt ông và một lần nữa xin chân thành cảm tạ tấm lòng độ lượng của ông.


Người phụ nữ đưa tay vỗ nhẹ lên vai đứa bé bảo nó dắt đi. Tôi đứng đó nhìn theo hai kẻ ăn xin "chuyên nghiệp". Tôi đứng đó như đang bị trời tròng !


Mấy ngày sau, tôi rời Bắc Kinh khi đã xem khá đủ phong cảnh nơi người yêu tôi đang sống cuộc đời khổ hạnh của cô và là nơi có một người phụ nữ "giả mù" lặn lội đi tìm người yêu. Trở về Mỹ, mấy tháng sau tôi cho in xong tập thơ của thi sĩ Trung Hoa nọ. Đồng thời, tôi cũng phát hành tập thơ của riêng tôi mặc dầu đem so với người đứng cùng đội ngũ với mình, tôi thấy thơ tôi dở ẹc !

 

Gần một năm đã trôi qua. Một buổi chiều đi làm về, tôi nhận được một bức thư gửi đi từ Thượng Hải. Tôi mừng như gặp mẹ chợ về vì đoán  biết ngay  là thư của ai. Tôi đâu có quen biết ai khác ở Hoa Lục ngoài người đàn bà "giả mù" xa lạ kia đâu. Mở thư ra, tôi giật nẩy mình khi thấy tấm hình một người đàn ông trông giống tôi quá sức tưởng tượng. Và một tấm hình thứ nhì chụp một mộ bia có khắc tên tuổi người trong mộ. Bức thư chỉ vỏn vẹn mấy giòng và không ghi địa chỉ người gửi.

"Thưa ông

Tôi đã tìm gặp được người yêu của tôi rồi. Anh ấy tham gia phong trào đòi dân chủ và đã chết một cách bí mật. Anh ấy đi rồi  nhưng tôi biết chắc là thơ của anh sẽ tồn tại muôn đời.

Kính thư.

Người đàn bà mù ở Bắc Kinh." 

Tôi thẩn thờ nhìn bức thư quá ngắn trong tay mình. Trên đó tôi chợt thấy mấy chữ bị hoen nước. Tôi mường  tượng đến những giọt nước mắt  âm thầm rơi xuống trang thư từ một đôi mắt đẹp nhất trần gian.

 

Tiếng người nữ tiếp viên phi hành phát ra từ máy khuếch âm cho biết máy bay sắp đáp xuống phi trường Thượng Hải. Nhìn ra cửa kính phi cơ, tôi thấy những đám mây bềnh bồng trắng xoá bay bay đi tìm nhau. Tôi ung dung mở xách tay rút ra một tập thơ của tôi. Trên trang có nhan đề  tôi cẩn trọng viết mấy giòng  trao tặng:


"Gửi người đàn  bà mù của Thượng Hải, 

 Tôi yêu em vì em đã yêu cuộc đời và con người với tất cả tấm lòng.

Tôi xin hứa sẽ không bao giờ bỏ cuộc." ./.

 

Nguyễn Hữu Trí

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 200 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.691 seconds.