![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Thơ Văn | |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 2 |
Người gởi | Nội dung |
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
TRỌC SĨ
NĂM NHẬP MÔN
(6) Vô tết tôi nhận thấy một sự thay đổi lớn và rất lạ. Nữ sinh Bùi Thị Xuân như bị các anh chàng sinh viên bỏ rơi. Sinh viên khu Võ Tánh - Lữ Quán Thanh Niên không còn háo hức đón nữ sinh Bùi Thị Xuân như những tháng đầu tiên. Không còn mấy chàng sinh viên đứng trên lề đường Võ Tánh những buổi chiều tan học. Tôi không thấy cô Yến lên đỉnh đồi Lữ Quán . Đôi má ửng hồng của các cô nữ sinh không còn hấp dẫn được các anh chàng sinh viên xa nhà. Buổi chiều chỉ còn một mình tôi ngồi trên đồi Lữ Quán nhìn xuống đường Võ Tánh. Mắt nhìn nhưng hồn tôi vẫn nhớ về xóm ga miền Trung. Tôi nhớ Hoa. Không biết giờ này nàng đang làm gì ? Tôi mong ước có nàng ngồi cạnh để cùng nhau ngắm nhìn bầu trời xanh và những cụm mây trắng, ngắm núi Lâm Viên xanh, hít thở không khí và gió mát ngọt như dòng suối trong … Sau tết, suối màu xanh của những chiếc áo dài, màu hồng của đôi má, đôi môi vẫn chảy, nhưng chảy chậm hơn. Tiếng cười, tiếng nói vẫn vang nhưng nhỏ hơn và kém vui hơn những tháng trước tết. Truyện gì đã xảy ra và tại sao ? Tôi suy nghĩ và tìm được câu giải đáp. Chúng tôi có hai cuộc bầu cử. Bầu cử Tổng Hội Sinh Viên và bầu cử Ban Đại Diện Trường Chính Trị Kinh Doanh. Sĩ số sinh viên trường chính trị kinh doanh ghi danh là 1075 người. Con số 1075 gấp bốn lần sĩ số sinh viên năm trước của tất cả các phân khoa cộng lại. Nhưng thực sự đi học chỉ khoảng hơn năm trăm sinh viên. Với số năm trăm sinh viên, lớp tôi vẫn chiếm đa số áp đảo những phân khoa khác. Bỡ ngỡ với đời sống mới nên mọi người thờ ơ với việc tham gia và đi bầu Tổng Hội Sinh Viên và Ban Đại Diện Trường Chính Trị Kinh Doanh. Bầu cử Tổng Hội Sinh Viên có hai liên danh ra tranh cử. Thụ ủy liên danh là hai sinh viên Sư Phạm : Anh Đinh Ngọc Mô và anh Huỳnh Văn Long. Hai anh là sinh viên cũ của Viện. Sinh viên trường Chính Trị Kinh Doanh là sinh viên mới còn e dè nên chỉ đảm nhận tất cả những chức vụ còn lại trong Tổng Hội Sinh Viên. Không có một buổi ra mắt hoặc giới thiệu hai liên danh. Hai thụ ủy liên danh vận động tranh cử bằng cách tham gia hai buổi trại công tác xã hội. Một buổi trại để tu bổ một trường học tại Đơn Dương và một buổi trại tại một làng Thượng gần Đà Lạt. Liên danh Huỳnh Văn Long đắc cử. Thành phần ban chấp hành Tổng Hội gồm : Huỳnh Văn Long Chủ Tịch Huỳnh Thoảng Phó Chủ Tịch Nội Vụ Huỳnh Nhân Khiêm Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ Lê Đình Thông Tổng Thư Ký Trần Kim Hạnh Thủ Quỹ Thoạt nhìn liên danh đắc cử như liên danh gia đình trị họ Huỳnh. Nhưng thực ra không phải. Anh Long người Bắc, anh Thoảng người Trung, anh Khiêm người Bầu cử Ban Đại Diện trường Chính Trị Kinh Doanh sôi nổi hơn. Có tất cả ba liên danh ứng cử : Nguyễn Đình Cường, Hồ Văn Thanh, Lê Thanh Châu. Phạm Chí Thành làm trưởng ban tổ chức bầu cử. Ban vận động bầu cử tổ chức cho ứng cử viên thuyết trình trước sinh viên. Một vài tấm bảng cổ động của các liên danh được treo trước giảng đường Spellman và Thụ Nhân. Ít người tham dự buổi nói chuyện và cũng ít ai chú ý đến các bảng cổ động. Đa số không chú trọng đến bầu cử mà để ý đến vấn đề đời sống, học hành, vui chơi văn nghệ báo chí, pinic. Cử tri đi bầu không đông. Anh Nguyễn Đình Cường đắc cử. Bầu cử ban đại diện không sôi nổi nhưng ra mắt ban đại diện thì rất đình đám. Buổi ra mắt ban đại diện được tổ chức tại rạp hát Hòa Bình ngay trung tâm thành phố . Nổi bật trong buổi ra mắt không phải là anh Nguyễn Đình Cường chủ tịch ban đại diện mà là ban nhạc Leviathan và ca sĩ chuyên nghiệp Khánh Ly của vũ trường Tulipe Rouge. Ca sĩ Khánh Ly trong chiếc váy đầm đỏ đẹp như một cô tiên đã làm say mê sinh viên với hai bản nhạc Việt : Bên Cầu Biên Giới Và Thuyền Viễn Xứ của Phạm Duy. Sau đó Khánh Ly đồng ca với Lưu Văn Dân và Trần Ngọc Phong một bản nhạc ngoại quốc Ma Vie của Alain Barriere. Ban nhạc Leviathan diễn màn hài kịch PHI DU HỌC BẤT THÀNH PHU PHỤ do Lưu Văn Dân thủ vai người đầy tớ, Nguyễn Văn Son thủ vai ông chủ và Đặng Thị Kim Ngọc thủ vai cô gái khiến chúng tôi cười muốn bể rạp. Vở kịch này do Lưu Văn Dân phóng tác theo vở kịch Phi Cao Đẳng Bất Thành Phu Phụ của danh hài Tùng Lâm. Dân vừa là người viết kịch bản, đạo diễn và diễn viên. Đây là lần thứ hai anh diễn vở kịch này. Lần đầu tiên anh diễn vở kịch này tại trường Yersin. Anh là nghệ sĩ đa tài . Trong vai anh đầy tớ, anh hát nhạc Tây nhạc Mỹ và ca một câu vọng cổ. Ban nhạc Leviathan tiếp tục với Trần Ngọc Phong trình diễn bài Cu Cu Ru Pa Lô Ma như một đại danh ca người Ý với tiếng ngân tưởng chừng không dứt. Lưu Văn Dân lại gây sôi nổi hội trường với hai bản nhạc kích động Love Potion number 9 và Nữ Đại Học Xá đóng góp hai tiết mục. Tiết mục đầu chị Kim Thoàn hát bản Hẹn Hò của Phạm Duy. Chị Kim Thoàn đệ nhất danh ca của phái nữ. Giọng chị điêu luyện so với Thái Thanh, Kim Tước thì không bằng, nhưng so với những ca sĩ Quỳnh Giao, Hà Thanh, Hoàng Oanh thì chị không thua. Chị đã làm không khí hội trường vui tươi mặc dầu bài Hẹn Hò không phải là bài hát vui. Hẹn Hò là bản nhạc tình cảm, âm điệu nhạc đều đều. Mọi người hát theo chị ở hai chữ cuối cùng của mỗi câu khiến không khí hội trường vui nhộn hẳn. Màn trình diễn thứ hai của Nữ Đại Học Xá làm tôi ngạc nhiên. Tôi ngạc nhiên không phải vì ban nhạc nữ này mặc đồng phục như một ban nhạc chuyên nghiệp. Tôi cũng không ngạc nhiên ban nhạc này có tay trống Phong Lan và ba đàn điện Thạch Trúc, Huệ An, Lý Thị Trinh và không ca sĩ. Tôi ngạc nhiên vì có chị Thạch Trúc trong ban nhạc. Chị Thạch Trúc là đồng môn với tôi thời trung học Trường Trung Học Phan Châu Trinh, Đà Nẵng. Chị học trên tôi hai lớp. Tôi học lớp với Bạch Nga, em gái chị . Chị là hoa khôi của học sinh trung học Đà Nẵng. Chị có nép đẹp sang trọng quí phái, vẻ đẹp bền vững không cần trang điểm nhiều son phấn. Về tuổi già mái tóc chị có bạc trắng, chị vẫn đẹp . Gia đình chị là gia đình thương gia giàu có lâu đời ở Đà Nẵng. Trong thời gian tại trường Phan Châu Trinh, tôi chưa bao giờ thấy chị Thạch Trúc xuất hiện trên sân khấu văn nghệ. Tôi tưởng rằng nếu chị xuất hiện trên sân khấu văn nghệ, chị sẽ xuất hiện bên chiếc đàn dương cầm. Tôi ngạc nhiên chị xuất hiện với cây đàn điện. Ngón đàn chị điêu luyện chẳng kém gì Trần Văn Chung của ban nhạc Leviathan. Một bản tin đề cập đến nhan sắc của chị Thạch Trúc. Một buổi sáng, trên tấm bảng dán tin tức đặt phía trong cổng viện có một tờ giấy viết tay :” Cần tuyển hôn thê có gương mặt Thạch Trúc, đôi môi Thanh Tuyền, bộ ngực Bích Sơn, cái đít Ngọc Nga “ . Bản thông báo này được gỡ đi trong buổi sáng hôm đó nên không tìm ra tác giả bản tin. Nếu để lâu hơn có nhiều người đọc và căn cứ nét chữ thì có thể đoán ra tác giả bản tin . Nếu quả thật anh chàng nào đó muốn kiếm một người vợ như anh ta viết trong bản thông báo, tôi chắc chắn anh sẽ ế vợ vì đòi hỏi quá nhiều và không tưởng. Chờ năm mươi năm sau, bằng phương pháp loại trừ những anh chàng ế vợ của nam sinh viên khóa I Chính Trị Kinh Doanh thì sẽ tìm ra tác giả bản tin. Nhưng tôi chắc chắn đó chỉ là trò nghịch ngợm vui đùa. Anh Nguyễn Minh Tuấn có giọng hát ấm không thua ca sĩ Anh Ngọc và Duy Trác. Anh là nam ca sĩ hát nhạc tình cảm Việt Buổi ra mắt ban Đại Diện chứng tỏ sự lớn mạnh của trường Chính Trị Kinh Doanh. Năm học sau chắc chắn sinh viên Chính Trị Kinh Doanh sẽ nắm vai trò lãnh đạo đầu tầu của viện. Một sự kiện khiến cả nước đau buồn. Trận lụt lớn xẩy ra tại Quảng Ngãi và Quảng Đại Hội Thể Thao Sinh Viên Liên Viện là sự kiện lớn nhất trong năm. Đại hội thể thao sinh viên gồm ba viện Huế, Sài Gòn và Đà Lạt không thu hút được đông đảo sinh viên và đồng bào thị xã tham dự. Không có biểu ngữ và bích chương quảng bá Đại Hội Thể Thao Sinh Viên Liên Viện trong Viện Đại Học cũng như trung tâm thị xã. Những trận đấu có ít người xem nhất là phái nữ. Môn bơi lội được tổ chức tại nhà Thủy Tạ trên hồ Xuân Hương không thi đấu được vì các vận động viên không chịu xuống nước vì hôm đó trời lạnh và gió. Chung kết giải tennis giữa anh em Trương Thanh Bá. Trương Thanh Bá ở lầu V Nam Đại Học Xá đại diện sinh viên Đà Lạt. Anh ruột Bá đại diện sinh viên Sài Gòn. Trước trận đánh, chúng tôi đã nhắc khéo anh của Bá : - Anh nên nhường em. Vậy mà anh của Bá trừng trị thằng em thẳng tay không chút thương xót. Anh thắng cả ba set không cho thằng em gỡ một set danh dự nào. Tôi không quan tâm đến kết quả vì đoàn Sài Gòn vượt trội hơn hẳn đoàn Huế và Đà Lạt. Điều thú vị là Đại Hội Thể Thao Sinh Viên Liên Viện tạo ra hai mối tình. Ngày khai mạc đại hội đông đủ sinh viên tham dự. Cầm bảng dẫn đầu đoàn lực sĩ Sinh Viên Đà Lạt là một cô sinh viên Chính Trị Kinh Doanh . Được tuyển chọn cầm bảng dẫn đầu phái đoàn lực sĩ chủ nhà thì chắc chắn phải là một mỹ nhân. Nổi bật trên khuôn mặt xinh xắn của cô là đôi mắt. Không phải là đôi mắt chim bồ câu hay đôi mắt to của loài nai mà là đôi mắt huyền. Đôi mắt rực sáng và đen láy. Anh chàng lọt được vào đôi mắt huyền của cô là một anh chàng đồng môn đẹp trai và lịch thiệp. Điều này không ai ngạc nhiên. Giai nhân gập anh tài nẩy sinh tình yêu là việc dĩ nhiên. Lớp tôi có rất nhiều bạn đẹp trai như Nguyễn Kim Hùng, Nhữ Văn Trí, Trần Văn Lược, Trần Văn Chang, Đinh Văn Chính . Lưu Văn Dân, Nhan Kim Hòa, Nguyễn Thanh Nhàn, Nguyễn Huỳnh Tân, Quách Tân, Bửu Chánh …. Khu Võ Tánh chọn Nguyễn Kim Hùng là người đàn ông đẹp nhất nên đặt cho anh biệt danh là Hùng Beau. Tôi cho sự chọn lựa này có tính cách phe nhóm và chủ yếu dựa trên hình thức bề ngoài vì đầu tiên Nguyễn Kim Hùng có tên Hùng Cò vì anh có thân hình cao lớn như Tây, nhưng có đôi chân hơi bé như cẳng cò. Nếu có cuộc tuyển lựa hoa hậu phái nam của lớp tôi được tổ chức nghiêm chỉnh, tôi sẽ bỏ phiếu chọn anh chàng lọt vào đôi mắt huyền là người đẹp trai nhất. Lý do thứ nhất là anh toát ra một vẻ đẹp rất đàn ông. Nhìn anh ta thấy ngay một sự chững chạc, rộng rãi. Lý do thứ hai anh là người lịch thiệp. Anh thấm nhuần văn hóa Pháp, anh là học sinh trường Yessin. Anh chị kín đáo. Ít ai thấy hai anh chị đi chung với nhau đến lớp học. Mối tình thứ hai rõ ràng hơn. Sau đại hội thể thao, mọi người đều thấy hai anh chị cập kè đến trường với nhau. Anh chàng chẳng xa lạ chi với tôi. Anh sinh hoạt với tôi trong thiếu đoàn Lam Sơn tại Đà Nẵng. Lúc đó, anh là đội trưởng đội Voi, tôi là đội trưởng đội Gấu. Trong các giải thể thao học sinh trung học tỉnh Quảng Nhiều nhân vật ưu tú nổi lên một cách rõ rệt. Anh Nguyễn Tường Cẩm nổi lên như một chuyên viên tổ chức hoạt động xã hội. Họ tên Nguyễn Tường khiến mọi người tưởng anh là cháu của nhà cách mạnh Nguyễn Tường Tam. Anh Cẩm bà con với giáo sư kinh tế Nguyễn Cao Hách, anh không thuộc giòng họ Nguyễn Tường. Theo anh tuy không có họ hàng với nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam, nhưng tình thân giữa anh và gia đình Nguyễn Tường Tam còn hơn ruột thịt. Anh là bạn thân với cô Thoa con gái Nhất Linh. Bà Nguyễn Thị Thế em gái của Nhất Linh rất quý mến anh. Bà Thế đã nhận anh làm con nuôi . Anh Cẩm và chị Lan Anh lên Đà Lạt mang theo lời ủy thác của ban lãnh đạo Hội Thanh Niên Thiện Chí Sài Gòn gồm các anh Nguyễn Hy Văn, Trần Văn Ngô, Hà Tường Cát, Dương Mạnh Hùng :” Cẩm và Lan Anh lên Đà Lạt học, cố hoạt động, quy tụ anh em thành lập Hội Thanh Niên Thiện Chí Đà Lạt “. Cẩm đã thực hiện lời ủy thác rất thành công. Tháng đầu tiên anh tổ chức nhiều trại công tác xã hội, những buổi đi pinic, những buổi thảo luận. Anh trở thành nhân vật nổi bật nhất của Viện. Hội Thanh Niên Thiện Chí qui tụ được nhiều sinh viên nam nữ tham gia. Đây là tổ chức làm công tác xã lớn nhất của Viện Đại Học . Hội Thanh Niên Thiện Chí có văn phòng tọa lạc trên đường Võ Tánh . Ba anh Nguyễn Tường Cẩm, Lê Đường và Hoàng Văn Lộc thành lập ra ba đoàn thể. Anh Lộc là người có mộng lớn hơn cả. Anh Cẩm chỉ đơn thuần nghĩ đến công tác xã hội. Anh Đường vì cái nghiệp Hướng Đạo anh mang vào người từ năm lên sáu nên anh phải gánh. Anh Lộc tham vọng tham chính để cải tạo xã hội. Mộng của anh ít nhất đạt đến là dân biểu. Tôi thường nghe anh ca tụng hình ảnh một vị dân biểu đang phát biểu về chương trình tranh đấu cho sự giàu mạnh, tự do, dân chủ của đất nước tại diễn đàn Quốc Hội hoặc trước cử tri … Đoàn viên của hai đoàn Thanh Niên Thiện Chí và Công Tác Xã Hội là sinh viên, không có đoàn viên là thanh niên học sinh. Tráng đoàn Hùng Vương mở rộng ra bên ngoài viện Đại Học. Thay vì chỉ có một toán Thụ Nhân trong những tháng đầu tiên, Tráng đoàn Hùng Vương có thêm toán Bắc Đẩu do anh Chương làm trưởng toán. Anh Chương là giáo viên một trường tiểu học tại trại Hầm. Toán Bắc Đẩu ngoài anh Chương các toán viên phần lớn là thanh niên lao động tại các vườn rau, cây ăn trái tại Trại Hầm. Đây là điểm son của tráng đoàn Hùng Vương mà các tráng đoàn khác không có. Tráng sinh của các tráng đoàn khác phần lớn là sinh viên học sinh và thành phần trí thức. Một điểm son khác của tráng đoàn Hùng Vương là một toán tráng của Giáo Hoàng Chủng Viện xin gia nhập tráng đoàn Hùng Vương. Toán tráng Giáo Hoàng Chủng Viện gồm những tu sinh của Giáo Hoàng Chủng Viện. Tu sinh Tiến Lộc làm Toán Trưởng của toán Giáo Hoàng Chủng Viện. Anh Lê Đường có mộng lớn là làm một cuộc cách mạng trong Hướng Đạo. Anh muốn tráng đoàn Hùng Vương có toán tráng nữ. Toán nữ Mê Linh do cô Thoại Anh làm toán trưởng gia nhập tráng đoàn Hùng Vương. Cô Thoại Anh là em gái của anh Đường. Ý muốn của anh Đường bị các anh Trưởng tại Đà Lạt chống đối kịch liệt vì ước muốn của anh Đưòng trái với đường lối tổ chức của Phong Trào Hướng Đạo thế giới. Hai hội nữ và nam Hướng Đạo là hai hội riêng biệt không sinh hoạt chung với nhau. Chín mươi chín phần trăm sinh viên Chính Trị Kinh Doanh học toàn thời gian đều biết anh Nguyễn Tường Cẩm, Trần Quang Cảnh. Một anh không được nhiều người biết bằng anh Cảnh và Cẩm, nhưng có công lớn với lớp học và viện là anh Nguyễn Huỳnh Tân. Anh Nguyễn Huỳnh Tân đã thực hiện được mục tiêu của nhà trường đề ra : Gửi sinh viên đi làm tại các công ty, xí nghiệp trong dịp hè để lấy kinh nghiệm. Anh sáng lập ra một tổ chức tên là KAPPA DELTA. Anh Tân giải thích về tên Kappa Delta như sau Kappa là từ K và Delta là từ D trong tiếng Hy Lạp. K là từ đầu của chữ Kinh và D là từ đầu của chư Doanh trong tiếng Việt. Lối đặt tên này rất thông dụng cho các nhóm sinh viên thân hữu trong các trường đại học Mỹ. Tổ chức Kappa Delta vượt ra phạm vi Viện và vươn tới thủ đô Sài Gòn và những thành phố lớn. Điều này cũng dễ hiểu vì Sài Gòn và các thành phố lớn có nhiều Công Ty, Xí Ngiệp và cơ quan hành chánh . Anh Tân có tài tổ chức và ngoại giao. Anh soạn thảo ra một bản điều lệ nội qui của Kappa Delta. Bản điều lệ nội qui này được anh đặt cho một cái tên rất kêu BẢN HIẾN ƯỚC. Bản Hiến Ước gồm nhiều chương và điều khoản chặt chẽ hơn bản Nội Qui của Hợp Tác Xã Sivida. Những chương và điều khoản quy định tên gọi, nhiệm vụ, phương cách tổ chức và điều hành các hoạt động, qui định nhiệm vụ và trách nhiệm của các chức vụ, qui định việc bầu cử và nhiệm kỳ ..vv … Anh liên lạc và làm một bản giải trình với Tổ chức ASIAN FOUNDATION, một tổ chức vô vụ lợi chuyên giúp đỡ và hổ trợ tài chánh cho những chương trình giáo dục tại quốc gia đang phát triển. Asian Foundation chấp nhận hổ trở tài chánh cho Kappa Delta theo phưong cách sau : Kappa Delta có nhiệm vụ tìm những công ty, xí nghiệp, cơ quan chịu nhận sinh viên đến thực tập trong thời gian hè. Lập hồ sơ những sinh viên đi làm hè và gửi đến Asian Foundation. Công ty nhận sinh viên thực tập trả tiền hay không trả tiền cho sinh viên. Asian Foundation qui định một sinh viên đi làm hè căn bản được trả ba ngàn đồng. Sinh viên nào được trả từ ba ngàn đồng trở lên thì sinh viên được giữ toàn bộ số tiền. Sinh viên nào được công ty trả thấp hơn ba ngàn hay không được trả tiền thì sẽ được Asian Foundation bù cho đủ ba ngàn. Được sự hổ trợ của Asian Foundation, anh Tân liên lạc với các công ty xí nghiệp lớn như Esso, Shell, Đường, Thủy Tinh, Đồ Gỗ Đồng Nai, Citroen .v. v. , những ngân hàng Nông Công Thương, Kỹ Thương Ngân Hàng .v.v., các khách sạn lớn như Caravelle, Magictic .v.v., các cơ sở hành chánh như bộ Kinh Tế, Ngoại Giao, Lao Động, Việt Tấn Xã, Khuếch Trương Kỹ Nghệ, USAID .v.v. để vận động những nơi này thâu nhận sinh viên thực tập. Sinh viên tham gia chương trình thực tập hè phải qua một buổi phỏng vấn về trình độ sinh ngữ, khả năng đối đáp .v.v. . Nếu qua được phỏng vấn sinh viên sẽ được đưa tới nơi thực tập. Tổ chức Kappa Delta lập hồ sơ sinh viên thực tập và chuyển đến Asian Fơundation. Giai đoạn cuối của Kappa Delta là theo dõi và bá cáo cho Asian Foundation . Nhiệm kỳ đầu của Kappa Delta gồm những anh chị : Nguyễn Huỳnh Tân Chủ Tịch Đinh Văn Chính Phó Chủ Tịch Thái Văn Lành Tổng Thư Ký Nguyễn Thị Gấm Thủ Quỹ Viện nhìn thấy lợi ích thiết thực của Kappa Delta đem lại cho sinh viên nên hai thầy Trần Long và Phó Bá Long đã mời anh Nguyễn Huỳnh Tân thảo luận để kiện toàn và khuếch trương tổ chức Kappa Delta. Hai thầy khen ngợi anh Tân và đề xuất với anh nên mở rộng Kappa Delta đến các viện Đại Học Sài Gòn và Huế. Anh hứa sẽ nghiên cứu đề nghị của hai thầy. Truyện không may xẩy ra cho anh. Anh bị bệnh kiệt sức do làm việc nhiều và suy nghĩ quá sức nên anh phải đề cử anh Đinh Văn Chính xử lý thường vụ chức chủ tịch một tháng để lấy lại sức khỏe . Kappa Delta lớn mạnh hơn nhờ sự hổ trợ của cha viện trưởng. Cha viện trưởng sát nhập Kappa Delta vô văn phòng Sinh Viên Vụ của viện đại học Đà Lạt. Kappa Delta có tên mới là Công Tác Tìm Việc Hè, nhưng sinh viên vẫn quen với tên Kappa Delta. Văn phòng Công Tác Tìm Việc Hè có trụ sở tại lầu hai building Công Trường Lam Sơn tại Sài Gòn. Anh Tân đảm nhận điều hành văn phòng này. Anh Tân không chỉ thành công trong công việc và học hành, anh thành công cả trong đường tình ái. Mối tình của anh với một cô đồng môn là mối tình đẹp và lạ. Mối tình của anh thành công do tài năng, tài ăn nói của anh và còn do hoàn cảnh lịch sử tạo thành. Năm 1963, anh thi vô trường Y Khoa Sài Gòn. Ngồi cạnh anh là thí sinh Ngô Đình Lệ Thủy. Trong lúc cuộc thi đang diễn tiến, một số sinh viên tranh đấu chống chế độ hô đả đảo Ngô Đình Diệm, xé bài thi và hô hào thí sinh bỏ phòng thi. Thi vào Đại Học Y khoa không thành, anh tạm thời đổi qua học trường Dược. Trong buổi thực tập tại bệnh viện Grall, anh làm quen với với cô gái Bắc Kỳ. Anh đặt tên cho cô này tên : CÔ EM BẮC KỲ BÉ BỎNG. Viện Đại Học Đà Lại mở một ngành học mới dậy về quản trị , kinh doanh và chính trị, anh lên Đà Lạt trước ngày khai giảng một tháng để tìm một hướng đi trong tương lai. Cô em Bắc Kỳ Bé Bỏng theo anh lên Đà Lạt và cũng trở thành cô sinh viên trường khóa I Chính Trị Kinh Tế và Quản Trị Xí Nghiệp như anh. Không một sinh viên nào trong chúng tôi làm được sự diệu kỳ như anh Tân. Sôi động, vui vẻ và linh hoạt là lãnh vực báo chí, văn thơ. Khu Võ Tánh - Lữ Quán Thanh Niên là trung tâm văn thơ báo chí văn nghệ của Viện Đại Học Đà Lạt. Văn thi sĩ ở nam đại học xá, nữ đại học xá tham gia sinh hoạt báo chí văn thơ đều đến khu Võ Tánh để thi thố tài năng. Không những chỉ có văn nghệ sĩ sinh viên Đà Lạt mà cả những văn nghệ sĩ thành danh cũng tìm đến khu này. Khu Võ Tánh - Lữ Quán Thanh Niên trở thành khu sinh viên và nghệ sĩ Monmartre Đà Lạt. Vợ chồng Lê Uyên và Phương nhà ở ngay khu Võ Tánh được coi như người nhà của Viện mặc dù anh chị Lê Uyên và Phương không phải là sinh viên. Anh chị Lê Uyên và Phương sinh hoạt mật thiết với nhóm văn thi sĩ Viện Đại Học Đà Lạt. Ban nhạc Mây Cao Nguyên của anh luôn luôn có tiết mục thi nhạc giao duyên. Nguyễn Minh Tuấn hát, Lê Xuân Nho ngâm những bài thơ do anh sáng tác. Những ngày nghỉ , nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thường tới căn gác số 79 Võ Tánh. Căn gác này là phòng trọ của Giáo sư Đỗ Long Vân . Giáo sư Vân tốt nghiệp đại học Sorbone và là giáo sư Văn Khoa viện đại học Đà Lạt. Giáo sư Vân thực hiện được một điều khiến anh em khu 79 Võ Tánh thán phục. Ông bỏ công sức và thời gian học Hán văn để đọc truyện kiếm hiệp Kim Dung của các báo Hồng Kông thay vì phải chờ các báo Việt ngữ dịch. Tình thân giữa giáo sư Vân và anh em khu 79 Võ Tánh trở nên thân thiết như anh em, bạn bè. Anh em khu 79 Võ Tánh mỗi khi nấu món đặc biệt đều mời giáo sư Đỗ Long Vân và Trịnh Công Sơn ăn chung. Tôi đoán Trịnh Công Sơn sáng tác bản nhạc Lời Buồn Thánh tại Đà Lạt và tại căn gác 79 Võ Tánh hay ít nhất cũng lấy cảm hứng từ những ngày sống tại căn gác 79 Võ Tánh. Lời Buồn Thánh Chiều chủ nhật buồn Nằm trong căn gác đìu hiu Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều Trời mưa, trời mưa không dứt Ô hay mình vẫn cô liêu Chiều chủ nhật buồn Nằm trong căn gác đìu hiu Nghe tiếng hát xanh xao của một buổi chiều Bạn bè dời xa chăn chiếu Bơ vơ còn đến bao giờ Chiều chủ nhật buồn Nằm trong căn gác đìu hiu Tôi xin em năm ngón tay thiên thần Trong vùng ăn năn, qua cơn hờn dỗi Tôi xin năm ngón tay em đi vào cô đơn Chiều chủ nhật buồn lặng nghe gió đi về Chiều chủ nhật buồn lặng nghe gió đi về Trịnh Công Sơn (còn tiếp) |
|
mk
|
|
![]() |
|
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
TRỌC SĨ
NĂM NHẬP MÔN
(7)
Con chim đầu đàn thơ văn báo chí của khu Võ Tánh - Lữ Quán Thanh Niên là Nguyễn Lập Chí. Chí lập nên nền tảng cho phong trào báo chí văn thơ của khu Võ Tánh - Lữ Quán Thanh Niên với sự hỗ trợ đắc lực của Nguyễn Văn Sơn. Hai anh đã cho ra tờ Tí Tí . Tờ Tí Ti là tờ báo bán nguyệt san. Đây là tờ báo duy nhất của sinh viên loan tin đầy đủ về Khóa Hội thảo Mục tiêu quốc gia 1966 tổ chức tại Viện Đại học Đà Lạt. Để có phương tiện thực hiện và điều hành tờ báo Tí Ti, Chí và Sơn đã vận động với USOM dể xin giúp đỡ các phương tiện tối tân nhất lúc đó để thực hiện tờ báo như máy quay roneo Gestetner, máy đánh chữ IBM, stencil, mực, giấy … Nguyễn Lập Chí là kịch sĩ của đoàn kịch Vũ Đức Duy (nghệ danh là Hoàng Sĩ Tâm, chử sĩ trên chử tâm là chử chí), nhà văn, nhà báo và họa sĩ. Chí điều hành và trình bầy tờ báo Tí Ti, Sơn là cây viết chính và thường trực của tờ báo. Sơn là thi sĩ có tài, tính tình cởi mở phóng khoáng nên được nhiều anh em văn thi sĩ hợp tác. Những cây bút hàng đầu của khu Võ Tánh như Phạm Chí Thành, Mai Kim Đĩnh, Hồ Phán, Nguyễn Tường Cẩm, Trương Duy Hào, Phùng Minh Tiến ..v..v.. đã cùng với Chí và Sơn xây dựng nên nền tảng sinh hoạt báo chí cho khu Võ Tánh. Khu văn học Võ Tánh thu hút văn thi sĩ có tài ở nơi khác đến : Minh Hân, Trần Đại, Hoàng Ngọc Nguyên của nam Đại Học Xá, Trần Trọng Thức, Nguyễn Quang Tuyến, Phan Thạnh, Nguyễn Khải của khu 7 Trần Bình Trọng. Nguyễn Văn Sơn để râu. Râu anh không rậm rạp. Anh để râu để che một vết sẹo rất nhỏ trên môi phía trái. Anh là người may mắn. Nhiều sinh viên để râu nhưng không được bạn bè thêm chữ Râu sau tên của mình. Anh là người được anh em gọi là Sơn Râu, tên này thực ra đã thành danh từ thời trung học. Anh lấy bút hiệu rất thơ Ly Sa. Đây là bút hiệu của anh từ thời anh học trung học Petrus Ký, là tên ghép của hai bạn thơ văn của Sơn. Ly là nữ sinh Gia Long, Sa là nữ sinh Trưng Vương. Sơn làm thơ từ năm đệ ngũ, làm thợ sửa mor***e nhà in từ năm đệ tứ, làm báo từ năm đệ tam. Anh luôn phụ trách tờ báo của lớp và có lần của trường. Thơ anh được đăng trên nhiều tờ báo văn nghệ của Sài Gòn. Thường thường các văn thi sĩ tài tử khác chỉ nhận được báo biếu của các tạp chí văn nghệ cho các bài được đăng. Nhưng Sơn thì được các báo trả nhuận bút 30 đến 50 đồng cho mỗi bài thơ, 200 đến 300 đồng cho mỗi truyện ngắn. Đây cũng là nguồn sống của anh trong năm học thứ nhất tại Đà Lạt. Sau đây là bài thơ của Sơn đăng trên tờ Tí Ti. Bài thơ bỏ quên Chim quyên bay xuống đất Chim quyên bay lên trời Anh nhìn theo mút mắt Chim bay tít mù khơi Chim bay về Châu Đốc Líu lo cành sương đêm Hai phương trời cách biệt Trời Long An buồn tênh Noung Sary ơi Anh cắn nát môi mềm Rồi chim bay, bay mất Bay qua hòn Vọng Thê Bay ngang rừng núi Cấm Gãy cánh giữa trùng khơi Anh về qua biên giới Trời chiều mưa bụi bay Khóc em khô nước mắt Nhớ em như cuồng say Noung Sary ơi Sống đây mà đợi ai. 1965 Từ nền tảng do Nguyễn Lập Chí và Nguyễn Văn Sơn khởi đầu nhiều nhóm văn chương báo chí thành hình sau này. Nhiều tờ báo in roneo đã ra đời. Nổi bật trong những nhóm văn thơ là bộ ba Minh Hân, Trần Đại và Hoàng Ngọc Nguyên và nhóm Nước Mắt Mẹ. Bộ ba Hân, Đại và Nguyên không được anh em đặt cho biệt danh như bộ ba Tam Quái. Khác hẳn Tam Quái về thể chất, Hân, Đại, Nguyên nhỏ con như những con chim khuyên. Khác Tam Quái về phong thái, Hân, Đại, Nguyên đến đâu cũng nghe tiếng nói, tiếng cười. Tôi đặt tên cho Hân, Đại, Nguyên là Bộ Hai Rưỡi với những lý do sau : Thứ nhất Minh Hân, Trần Đại và Hoàng Ngọc Nguyên đều nói giọng Bắc nhưng chỉ có hai là dân Bắc chính cống còn anh thứ ba có tài giả giọng tuyệt vời. Anh thứ ba học trường Lý do thứ hai trong ba anh, Minh Hân và Trần Đại gắn bó với nhau như anh em ruột thịt. Hân và Đại yêu văn nghệ và nhất là rất mê làm báo. Máu của hai anh là máu của những người yêu văn thơ và tinh thần của hai anh là tinh thần phục vụ văn thơ không tính toán. Tâm hồn và đời sống của hai anh rất phóng khoáng, nghệ sĩ. Hoàng Ngọc Nguyên viết báo từ thời trung học. Anh có tài dịch thuật từ Anh ngữ sang tiếng Việt. Anh thích khôi hài và châm chọc nên khác biệt đôi chút với tính tình nghệ sĩ, phóng khoáng, độ lượng của Minh Hân và Trần Đại. Ba anh Minh Hân, Trần Đại, Hoàng Ngọc Nguyên có tài. Ba anh được mọi người quí mến. Minh Hân là thi sĩ. Thơ anh có nét giống Bùi Giáng. Bài thơ sau đây của anh nói lên khắc khoải của anh về con người anh và dân tộc Tự Hỏi Tôi đã làm được gì ? Hân ơi đồ ăn hại ! Sáng Thủy Tạ, Nam Sơn Chiều Mê Kông, Đông Hải Tôi đã làm được gì ? Hai mươi mốt năm dương mắt Tai ù đặc kinh cầu Ly rượu khuya sủi máu … Đất nước mình cụt đầu Con ơi con nhớ lấy Minh Hân (VĐHĐL 65) Trần Đại là nhà thơ, nhà văn và nhà báo. Anh là cây viết thường trực của tạp chí Bách Khoa, Thế Kỷ Hai Mươi. Anh là tác giả của những tập thơ Con Đường, Chiến Tranh và Tình Yêu. Nhóm Nước Mắt Mẹ có tinh thần dấn thân hơn tất cả các nhóm văn nghệ khác. Mơ ước của nhóm này Mắt Mẹ Việt Nam ráo lệ và miệng Mẹ Việt Nam nở nụ cười tươi. Trụ sở nhóm này tại số 7 Trần Bình Trọng. Nhóm gồm Trần Trọng Thức, Nguyễn Quang Tuyến, Nguyễn Khải, Phan Thạnh, Đoàn Công Chánh Phú Lộc, Hoàng Kim Châu … Chưa thi cử nhưng Mai Kim Đĩnh đã được công nhận là sinh viên ưu tú trong việc học hành. Anh có trí nhớ thần sầu. Nguyễn Ngọc Châu kể lại rằng : Một lần anh đến chơi tại phòng Đĩnh tại khu 42 Võ Tánh. Đĩnh đưa cho Châu mấy quyển sách đọc thêm về kinh tế và nói : - Bạn dở một trang, tôi sẽ đọc cho bạn nghe Đĩnh đã đọc một đoạn của trang sách cho Châu nghe khiến Châu giật mình thán phục trí nhớ của Mai Kim Đĩnh. Mai Kim Đĩnh có nếp sống mẫu mực và cần mẫn trong việc học, vui chơi và tình ái. Anh ham đọc sách, không nghiện thuốc cà phê rượu, không đi xi nê. Câu nói nổi tiếng của anh : “ Xi nê là kiến thức đóng hộp”. Trong vui chơi anh cũng đặt ra qui luật rõ ràng và anh tuân theo nghiêm chỉnh những gì mình đặt ra. Đĩnh, Thái Văn Lành, Lê Hồ Hải, Hồ Bửu Lý thỏa thuận với nhau về việc đánh bài. Chỉ đánh bài vào ngày thứ bẩy từ 12 giờ trưa đến 01 giờ trưa nghĩa là đánh bài 1 giờ mỗi tuần. Không được đặt quá 5 đồng một ván. Bài bạc đối với anh chỉ để giải trí. Nghiêm chỉnh và đạo mạo , nhưng anh nói diễu giỏi và thâm thúy. Anh là một trong những cây viết nòng cốt của khu Võ Tánh. Anh đang hoàn thành một tập truyện ngắn NHỮNG NGÀY BIẾN ĐỘNG. Học giỏi, đẹp trai, mặt mày phúc hậu, tính tình vui vẻ nên anh được nhiều cô để ý. Một cô xinh đẹp của nữ đại học xá tìm đến anh với lý do hỏi bài vở. Cô nằm trong danh sách những mỹ nhân của lớp tôi. Nhiều anh chàng muốn tán tỉnh cô, nhưng thấy cô quan tâm tới anh Đĩnh nên đành dấu niềm thương nhớ trong đáy lòng. Anh Đĩnh thờ ơ. Không ai thấy anh đi chơi với một nữ sinh trung học hoặc nữ sinh viên. Mai Kim Đĩnh có biệt danh : Tư Liệt. Mọi người đều tưởng Tư Liệt là biệt danh bạn bè đặt cho anh. Thật ra Tư Liệt là bút danh của Mai Kim Đĩnh ký dưới một bài phú của anh trong Nội San Mùa Xuân của trường Pétrus Ký, trong đó có câu : "trong khuê phòng, Pétrus Ký bắt chí Gia Long" đã tạo nên một cơn sóng gió nhỏ. Lúc đó Đĩnh mới là cậu học sinh lớp đệ tam. Một tấm lòng mở rộng với những người anh em sinh ra cùng một bọc . Anh Nguyễn Thanh Nhàn là người sinh viên độc nhất của trường Chính Trị Kinh Doanh học tiếng Thượng. Tôi thường thấy anh cầm một quyển vở có ghi chép tiếng Thượng nhưng tôi không biết anh học tiếng Thượng của bộ tộc nào và học với ai. Một buổi trưa, Nhàn đang nói gì với một người đàn bà Thượng đang nằm khóc trên đường Võ Tánh trước cổng trường Bồ Đề. Tôi hỏi Nhàn : - Mi làm chi mà bà ta khóc vậy Nhàn phân trần : - Bà nằm khóc ngoài nắng. Tao không biết nói làm sao cho bà ấy hiểu để bà không nằm ngoài nắng - Tao với mi khiêng bà ấy vô chỗ mát - Đâu được . Nhàn nói tiếng Thượng với bà ta. Bà ta đứng dậy vô chỗ mát ngồi khóc tiếp. Nhàn hớn hở nói với tôi : - Tao nói : Mặt trời đang nhìn bà. Bà bốc cháy. Tôi không biết bà người Thượng thực sự hiểu anh Nhàn nói hay hiểu ngôn ngữ bằng tay của anh Nhàn. Tôi thấy khi anh nói, anh chỉ mặt trời và anh chỉ bà ta. Nhưng dù gì đi nữa tinh thần hiếu học và nhân ái của anh cũng đáng quí. Một anh bạn dễ thương ở khu Võ Tánh. Anh ta không đẹp trai, cũng không xấu trai, không cao như Tây và cũng không thấp như Nhật Lùn. Anh ta là thi sĩ nhưng không phải là thi sĩ đa tình yêu đương trai gái lãng mạng. Thơ của anh nói về những hoài bảo của anh. Những hoài bảo chọc trời khuấy nước. Mấy anh chủ báo khu Võ Tánh không đăng thơ anh với lý do thơ anh chọc trời còn thủng, chọc mấy tớ giấy nát bét hết. Anh đáng mến vì anh biểu lộ cá tính một trăm phần trăm của dân miền Tây Nam Bộ. Giọng nói của anh ồm ồm như ễnh ương. Nhìn anh ta cũng thấy được con người miền Tây Nam Bộ không cần phải nghe anh nói. Anh đeo cập cận dầy cộm, trông anh như nhà đại trí thức. Anh nói hơi cà lăm nhưng anh sẵn sànng tranh luận cho lẽ phải đến cùng. Thật thà như đếm, ngay thẳng bộc trực, lưng thẳng không cong đúng cả về nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Anh em thương mến anh nhưng cũng hay chọc ghẹo anh. Chọc ghẹo để anh nói, anh cãi. Trái ngược hẳn với anh miền Tây Nam Bộ là một anh tài hoa làm tôi ngạc nhiên. Anh này đúng là Tây. Anh học trường Yersin. Anh là ca sĩ hát nhạc kích động số một của Viện. Anh hát toàn nhạc Tây nhạc Mỹ. Bài anh thường hát là Love Potion Number 9, Anh là dân Bắc Kỳ, anh giả giọng Nam Kỳ rặc để trình diễn bài Dân Vệ gồm ba vần D, G và V thành một vần D DÂN VỆ Giáo viên già vô giáo dục về vườn ve vãn dụ dỗ vợ dân vệ. Giáo viên giả danh giòng dõi danh dá, giỏi dang. Vợ dân vệ diêm dúa, dáng dấp dong dỏng, dáng vẻ dâm dật. Giáo viên dẫn vợ dân vệ vô vườn dâu dạy vũ. Vừa vũ vòng vòng, giáo viên vừa diễu dí dỏm, vừa ví von duyên dáng. Vợ dân vệ vui dữ. Giáo viên giọng dê, dìu vợ dân vệ vô võng, dấm dớ vuốt vai, vuốt vế, vuốt … vú vợ dân vệ. Vợ dân vệ giả dạng dùng dằng, dẫy dụa. Giáo viên giận dỗi, véo vai, véo vế, vò … vò vú vợ dân vệ … Dần dà, giáo viên và vợ dân vệ du dương dài dài, dồn dập, dai dẳng dẻo dai. Dân vệ về, dáng vóc dềnh dàng vạm vỡ vì giỏi võ. Dân vệ dòm giáo viên già du dương với vợ. Dân vệ giận dữ. Dân vệ dịu võ, dếnh giáo viên vài vố, dộng vào vai, giáo viên văng vô vách, dội vô giường … văng vô vách, dội vô giường, dập … dạ dầy. Giáo viên vội vã dọt. Dân vệ dáo dác dòm, giọng giận dữ : - Giáo gì giáo vậy ! Giáo vậy giáo gì ! Giáo dâm giáo gian ! Giáo dê giáo dịch ! - Vợ gì vợ vậy ! Vợ vậy vợ gì ! Vợ dơ vợ dáy ! Vợ gì dễ dụ dỗ vậy! Dân vệ dọa dẫm giết giáo viên già. Vợ dân vệ vội vàng vuốt giận dân vệ : - Giận gì giận dữ vậy ? Dân vệ giọng gầm dằn : - Diễu dở ! Dĩ vãng dễ gì dấu diếm ! Danh dự, danh giá dân vệ giờ dập vùi vì giáo viên ! Vợ dân vệ vội vã dụ dân vệ vô giường, dựa vô vai dân vệ, vừa diễn giải dài dòng, vừa vuốt ve, vuốt … dỗ dành dân vệ. Dân vệ dại dột … giấu dịu Dòm vợ dưới giáng vẻ dâm dục. Dục vọng dân vệ dần dần dâng dữ dội. Dân vệ du dương vài vố dã dượi với vợ. Dân vệ và vợ vui vẻ !! Lưu Văn Dân Có lần anh dùng giọng Bắc đặc sệt để trình diễn câu truyện một vần Xã Xệ. Anh có rất nhiều truyện một vui dí dỏm một vần như Rầu Rĩ Rong Rêu, Đêm Đông, Lính Lệ Lính Làng, Bà Ba Béo Bán Bánh Bò…. Truyện vui một vần Câu Cá sau đây chứng tỏ anh là văn sĩ có tâm hồn hài hước, thông hiểu tâm lý và phong tục Việt, nắm vững từ ngữ tiếng Việt. Anh là nhà văn có tài. Câu Cá Cậu cả Còm con cụ cả Cú cùng cô Cúc câu cá cùng cậu Cẩn cạnh cầu Cống. Cá chỉ cắn câu cậu cả Còm. Cậu Còm cười cười ! Cá chẳng chịu cắn câu cậu Cẩn. Cậu Cẩn cay cú. Cậu Cẩn cau có, cậu cào, cậu cấu. Càng cay cú, càng cau có, cá càng chẳng chịu cắn câu. Cậu cẩn chửi cha con cá, chửi cả cố con cá. Chửi “ Cá cà chớn ! Cá cà chua ! Cá cà chác !“ Có con cua cắn cần câu của cậu Cẩn. Cậu Cẩn co cái cẳng, cong cái cổ, chụp con cua, cắn càng cua cái cụp ! Cuối cùng con cua chẳng cục cựa chi cả. Con cua chết ! Chừng chiều, có cả chục con cá cắn câu cậu Cẩn. Cậu Cẩn cười chúm chím, cậu Cẩn ca cải cách. Đời sau, có người vịnh câu chuyện trên bằng những vần thơ “con cóc” như thế này Cành cụt cầu cao cậu Cẩn câu Con cua cắc cớ cạp cần câu Cậu Cẩn co chân, cong cái cổ Cắn con cua chết cứng cạnh cầu Lưu Văn Dân Đọc những truyện một vần của anh, ai nghĩ Lưu Văn Dân học trường Tây từ ngày còn bé. Nếu anh từ bỏ con đường học vấn với ước muốn trở thành một nhà kinh doanh, một quản trị gia, một chính trị gia và bỏ hết thời gian để phục vụ văn nghệ, tôi tin chắc rằng tiếng tăm anh sẽ vượt xa quái kiệt Trần Văn Trạch. Anh sẽ trở thành một ca sĩ hát nhạc kích động, một nghệ sĩ khôi hài. Nhưng vĩ đại nhất là anh sẽ trở thành một nhà văn chuyên viết truyện một vần vĩ đại độc nhất vô nhị của Việt Tôi không biết ở khu Monmartre Paris sinh viên có hay bài bạc không. Khu nam Đại Học Xá, khu Võ Tánh có nhiều sòng bài nhỏ đánh cát tê, xì lác, binh xập xám. Những sòng bài này ăn thua không lớn và không tụ họp thường xuyên, mục đích chỉ để tiêu khiển giải trí, vậy mà cũng làm nhiều anh điêu đứng vì thua bạc. Có anh phải thắt lưng buộc bụng không ăn sáng, tắm nước lạnh không tắm nước nóng , có anh đang ăn cơm tháng tại quán cơm Ba Dế bỗng thấy có mặt tại quán cơm Lữ Quán Thanh Niên với chúng tôi, có anh phải vay mượn … để chờ ngày nhận bưu phiếu của gia đình. Sòng bài lớn nhất là sòng bài số 36 Võ Tánh. Sòng bài 36 Võ Tánh chỉ chơi một loại bài đánh phé. Sòng bài chỉ gồm sinh viên có thành tích đánh phé giỏi và dĩ nhiên có nhiều tiền trong nam đại học xá, khu Võ Tánh. Sòng còn có những người không phải là sinh viên tham gia. Những anh gập vận đỏ thường thấy có mặt tại nhà hàng Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 04/Jun/2010 lúc 5:29am |
|
mk
|
|
![]() |
|
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
TRỌC SĨ
NĂM NHẬP MÔN
(8) Sinh hoạt vui tươi vừa học vừa chơi là những Toán Học Tập. Những toán học tập được thành lập theo yêu cầu của nhà trường. Toán học tập là một điểm đặc sắc của trường Chính Trị Kinh Doanh. Hai toán đông nhất là nhóm Thiên Địa Nhân do anh Phạm Quang Hiền làm trưởng toán và toán J M Keynes do anh Nguyễn Đức Quang Sơn Tây làm trưởng toán. Hai toán này sĩ số trên hai mươi sinh viên. Những nhóm khác chỉ gồm bẩy, tám sinh viên. Toán Thiên Địa Nhân thường họp tại quán cơm Lữ Quán Thanh Niên để thảo luận bài vở. Sau đó những buổi họp nhóm thường vào ngày cuối tuần và biến thành những buổi đi pinic vừa học vừa chơi. Toán đi đến các nông trại Nam Sơn , Lạc Dương, cơ sở sản xuất đồ gốm tư nhân ở Trại Mát, cơ sở sản xuất đồ gốm của chính phủ Vĩnh Tường, Tùng Nghĩa, nhà máy điện Đa Nhim . Chuyến đi nào cũng là những buổi học tập đáng nhớ. Đó là những ngày vừa học vừa chơi: Học được cách quản lý khoa học của Công Ty đồ gốm Vĩnh Tường. Học được cách lợi dụng nước suối để tưới của vườn hoa hồng của trại hồng Lạc Dương. Vui là được ngắm những luống hành trắng phau tại nông trại Nam Sơn, vườn hồng đủ màu sắc Lạc Dương, ngắm phong cảnh tuyệt đẹp tại đập Đa Nhim … Thích thú nhất là được ăn uống, vui chơi, đàn hát và tâm tình với bạn bè trong toán. Chẳng mấy chốc các toán viên trở thành thân thiết như anh em và bù đắp được tình cảm xa nhà. Nhóm J M Keynes gồm toàn những sinh viên gốc Đà Lạt. Toán này thường họp tại nhà trưởng toán Nguyễn Đức Quang Sơn Tây. Bà mẹ của anh Quang Sơn Tây lo nấu nướng phục vụ các Đại Học Sĩ. Có lẽ vì cảm thấy họp mãi một chỗ không vui và ngại làm phiền bà mẹ anh Quang Sơn Tây nên sau này toán tổ chức họp nhóm khi thì Lạc Dương, Đa Nhim, khi thì Hồ Than Thở. Có khi những buổi họp toán trở thành những buổi đi công tác cứu trợ. Buổi họp nào cũng có chương trình phụ diễn văn nghệ lý do anh Quang Sơn Tây là nhạc sĩ phụ trách một chương trình phát thanh Hướng Đạo trên đài phát thanh Đà Lạt. Tại buổi họp tại nhà máy nước hồ Than Thở, Quang Sơn Tây anh hát bài hát anh mới phổ nhạc từ bài thơ Nỗi Buồn Nhược Tiểu của thi sĩ Nguyễn Văn Hoàn. Sinh viên khu Võ Tánh - Lữ Quán Thanh Niên thường tụ họp vào buổi trưa và buổi chiều tại hai địa điểm Quán Cơm Lữ Quán Thanh Niên và quán cơm Ba Dế. Quán Cơm Lữ Quán Thanh Niên là quán cơm của chính phủ để giúp đỡ những lữ khách ít tiền và người lao động nghèo. Quán cơm Lữ Quán tọa lạc ở chân đồi Lữ Quán Thanh Niên. Quán ăn là tòa nhà đẹp đẽ, to lớn, rộng rãi và sạch sẽ. Khách hàng phải tự phục vụ. Khách hàng tự đi lấy khay, chén bát đũa, cơm và đi đến quầy để lấy thức ăn do nhân viên nhà hàng phân phát. Ăn xong khách hàng phải đem khay và chén bát đến chỗ do nhà ăn qui định. Chính phủ cung cấp gạo và phương tiện cho nhà thầu. Nhà thầu lấy giá mỗi bữa ăn theo qui định của chính phủ. Giá một bữa cơm ba đồng gồm món canh và một món mặn, cơm ăn tự do. Chiều thứ bẩy và chủ nhật quán ăn đóng cửa. Giá một bữa ăn quá rẻ nên quán cơm luôn luôn đông khách trưa cũng như chiều. Khách hầu hết là nam sinh viên khu Võ Tánh và Lữ Quán Thanh Niên. Nơi đây trở thành nơi tụ tập, hội họp, bàn thỏa và đôi khi thách đố nhau của sinh viên. Một cuộc thách đố ăn thi xem ai ăn nhiều. Có ba đại lực sĩ tham dự cuộc thi. Hơn hai mươi cổ động viên vây quanh để cổ vũ và giám sát cuộc thi. Ông quản lý quán cơm Lữ Quán hưởng ứng bằng cách cho ba lực sĩ gấp hai đồ ăn mặn. Kết quả Phùng (không phải là Bùi Đình Phùng và Nguyễn Quang Phùng) ăn được bẩy chén, Hồ Hải ăn được tám chén. Người thắng cuộc thi ăn là Nguyễn Vân Cương. Cương ăn được 12 chén. Giải thưởng trao cho Cương là niềm vui của anh em. Tôi cũng thuộc loại ăn khỏe. Nhịn đói ba ngày, tôi cũng dám dự thi. Một bát canh lỏng bỏng ít rau và váng mỡ và một đĩa đồ mặn gồm bốn năm miếng thịt ba chỉ nhỏ chưa bằng ngón tay út xào với một ít đậu đũa thì tôi không thể nuốt trôi quá chén cơm thứ năm. Với chiến thắng của Cương, tôi tin đại lực sĩ Nguyễn Vân Cương sau này làm gì cũng thành công. Quán cơm Ba Dế ở gần ngã ba Võ Tánh và chùa Linh Sơn. Ba Duế người xứ Huế, miền Trung. Tên anh là Duế nhưng các anh miền Những nhân vật không phải là sinh viên nhưng gần gủi với các tổ chức xã hội của sinh viên : Trung tá Trần Văn Phấn, tỉnh trưởng tỉnh Tuyên Đức kiêm thị trưởng thị xã Đà Lạt và anh chàng người Mỹ tóc vàng Chris Jenkin. Trung tá Phấn đã giữ đúng lời hứa ông nói vào buổi tối tại Lữ Quán Thanh Niên. Ông đã cho chúng tôi thuê những phòng tại Lữ Quán với giá rẻ. Ông cung cấp xe hơi để làm phương tiện cho Đoàn Sinh Viên Phụng Sự Xã Hội, Hội Thanh Niên Thiện Chí và đôi khi cả các toán học tập. Mối liên hệ giữa trung tá Phấn và viện đại học rất thân thiện. Một anh chàng người Mỹ dong dỏng cao, tóc vàng, nói tiếng Việt thành thạo. Anh có tên là Chris Jenkin. Chris là nhân viên của đoàn Thanh Niên Thiện Chí Hòa Bình do tổng thống John Kennedy sáng lập Chris làm việc mật thiết với Hội Thanh Niên Thiện Chí. Anh là mối giây liên lạc giữa cơ quan USOM và USAID tại Đà Lạt và các hội đoàn xã hội của sinh viên Viện Đại Học Đà Lạt. Những sự kiện xẩy ra tôi vừa kể là câu trả lời tại sao các cô nữ sinh Bùi Thị Xuân không còn làm những chàng sinh viên say mê như những tháng đầu. Lý do đơn giản hằng ngày nam nữ sinh viên gập nhau trong lớp, sinh hoạt với nhau trong các nhóm học tập, trong các sinh hoạt xã hội, báo chí văn nghệ. Nữ sinh ăn mặc và trang điểm duyên dáng xinh đẹp hơn so với chiếc áo đồng phục màu xanh của nữ sinh trung học. Một tháng trước kỳ thi cuối năm, khu Hòa Bình, con đường Duy Tân, Minh Mạng, Phan Đình Phùng vắng bóng sinh viên. Cà phê Tùng, Kỳ thi cuối năm thứ nhất có hai bài thi lạ đối với chúng tôi. Đề thi môn Nhiệm Vụ Học lạ vì nội dung. Đề bài thi môn Nhiệm Vụ Học của Linh Mục Bửu Dưỡng gồm 100 danh từ như sự nghiệp, tiền tài, hạnh phúc, kinh doanh, chính trị, tài chánh, sức khỏe, học vấn, bằng cấp, kiến thức, kiên nhẫn, thật thà, trung tín, khiêm nhượng, niềm tin, liêm khiết… Hãy lập “Biểu Nhất Lãm về Hạnh Phúc”. Danh từ Biểu nhất lãm làm cho nhiều sinh viên bối rối, nhất là đối với những sinh viên không thường xuyên đến dự lớp. Nhiều sinh viên viết tràng giang đại hải bốn năm trang giấy như làm một đề thi triết học. Nhiều sinh viên vẽ sơ đồ về hạnh phúc với một trăm danh từ. Tôi hiểu rằng có nhiều con đường dẫn đến hạnh phúc. Điều quan trọng phải tìm ra một con đường đưa tới hạnh phúc bền vững. Con đường vừa ngắn vừa dễ đi cho mọi người. Tôi chọn những chữ thích hợp để xếp thành hình tháp. Đỉnh của hình tháp là HẠNH PHÚC. Dưới hình tháp tôi chú thích ngắn gọn để giải thích về con đường tôi chọn để có thể dẫn tôi đến hạnh phúc. Đề thi thứ hai của thầy Trần Long lạ về hình thức. Đây là bài thi trắc nghiệm. Thí sinh nghe câu hỏi từ máy ghi âm. Câu hỏi được máy ghi âm đọc ba lần. Thí sinh có một phút để chọn câu trả lời đúng là a , b, c hay d. Sau một phút, máy đọc sang câu hỏi khác. Chỉ có anh Nguyễn Hữu Dục trả lời đúng tất cả hai mươi lăm câu. Kết quả kỳ thi cuối năm có ba trăm hai mươi hai sinh viên được lên năm thứ II. Hè năm thứ nhất tôi không về Huế. Tôi ở lại Đà Lạt vì tôi phải dậy hè cho bốn lớp đệ tứ. Tôi cũng muốn ở lại Đà Lạt để đi thám du quanh vùng và sửa soạn thật kỹ cho chương trình dậy học năm sau. Tôi chỉ mất ba ngày cho việc dậy học. Còn các ngày khác tôi dành cho việc đọc sách và đi thám du quanh vùng. Mới vô hè được một tuần, một sự kiện xẩy ra làm dân chúng thành phố Đà Lạt cảm thấy bất ổn. Đà Lạt không còn là một thành phố thanh bình trong một đất nước chiến tranh, mặc dù chưa có tiếng súng nhỏ to ban đêm vọng về, chưa có những vệt dài trắng xóa vắt ngang bầu trời xanh theo sau chiếc B 52. Người dân Đà Lạt lo âu, chiến tranh không tha cho họ. Việt Cộng đắp mô tại đèo Chuối. Đà Lạt thiếu gạo. Không quân cho máy bay vận tải chở gạo lên phi trường Liên Khương. Đoàn nữ sinh đến tận phi cơ để choàng những vòng hoa cho những anh hùng phi công. Gạo vẫn không đủ cho dân Đà Lạt. Những hàng người dài chờ mua gạo tại những điểm bán gạo của chính phủ mới lập. Cảnh những người Thượng, những người nghèo vét những hạt gạo rơi vãi tại nơi bán gạo làm tôi xót xa trong lòng. Họ lâm vô tình trạng thiếu ăn. Tôi chưa thấy cũng chưa nghe ai chết đói, kể cả người Thượng. Thiếu gạo ở miền Tôi tham gia những đoàn cứu trợ để đem gạo, thuốc men đến đến những buôn làng. Tôi theo các đoàn công tác đi đến các trại tị nạn. Bây giờ tôi mới có câu trả lời cho sự ngạc nhiên của tôi trong ngày khai giảng : Trong hơn một ngàn sinh viên ghi danh không có một sinh viên người Thượng. Tôi tới những buôn Thượng nghèo nàn, không trường học, không bệnh xá, nước nôi khan hiếm. Chính quyền đã bỏ rơi người anh em sinh ra cùng một bọc. Bỏ rơi người Thượng tức là bỏ rơi một điểm chiến lược trọng yếu của Đông Dương về mặt quân sự và kinh tế. Một năm trôi qua, chuyến tầu ngày đầu của anh Lộc không biết đã đến ga nào. Những tháng đầu của năm nhập môn, chúng tôi như những búp hoa, những tháng sau tết chúng tôi như những đáo hoa còn hàm tiếu. Năm sau là năm Khái Luận hoa sẽ nở. Tôi tin sẽ có thêm nhiều bông hoa lạ và đẹp. Điều đó dĩ nhiên vì năm sau trường tôi sẽ đông hơn. Tôi đã thấy những người lạ xuất hiện trên đường vào viện và khu Võ Tánh. Tôi đoán họ là những sinh viên khóa II của trường tôi. Nguyễn Đức Quang
( Quang Già Cơ )
Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 04/Jun/2010 lúc 5:33am |
|
mk
|
|
![]() |
|
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
Tháng 7/2010 anh Nguyễn Đức Quang (Quang Già Cơ) về thăm VN.
Dịp này, anh trở lại Đà Lạt , thành phố kỹ niệm những năm anh theo bậc đại học , khoa CTKD , Viện Đại Học DaLat.
Sau chuyến thăm DaLat, anh Quang (Già Cơ) "ra mắt" tác phẩm mới : ĐÀ LẠT DU KÝ"
Xin trân trọng giới thiệu cùng diễn đàn Gò Công.
mk
ĐÀ LẠT DU KÝ Già Cơ)
1
Trước năm 1960, có nhiều tư liệu viết về Đà Lạt phần lớn là của người Pháp, có nhiều đề tài viết về Đà Lạt không gây nhàm chán vì không bị rơi vào cảnh biết rồi nói mãi khổ lắm. Những bài khảo cứu, thơ văn nhạc về Đà Lạt của người Việt Nam chưa nhiều. Có lẽ tác phẩm xưa nhất của người Việt viết về Đà Lạt là quyển Lâm Viên Hành Trình Nhật Ký của quan Thượng Thư Đoàn Đình Duyệt. Tác phẩm này viết vào năm 1917 bằng chữ Hán. Ngày nay có hàng trăm ngàn bài khảo cứu, thơ, văn, nhạc mô tả nhiều khía cạnh của Đà Lạt, do vậy, chọn một đề tài viết về Đà Lạt không dễ. Tôi nhớ, anh bạn Cao Hoàng đề nghị tôi nói về Đà Lạt trong mười phút tại một buổi họp văn nghệ. Anh chị em tham dự buổi họp hôm đó không ai là đã không đến Đà Lạt vài lần. Có người sinh ra tại Đà Lạt, có năm cựu sĩ quan xuất thân từ trường Võ Bị Đà Lạt, nhiều anh chị có thơ văn nhạc viết về Đà Lạt. Tôi từ chối vì không biết nói gì để tránh cảnh múa rìu qua mắt thợ. Nhưng vì anh Cao Hoàng giới thiệu tôi đến ba lần nên không thể chối từ . Hôm đó, tôi đã nói về Phở Đà Lạt, đề tài ít được ai nhắc tới . Mọi người chăm chú nghe và sau đó đã có nhiều ý kiến tranh luận sôi nổi. Tháng bẩy năm hai ngàn mười, tôi trở lại Đà Lạt mục đích chính là để thăm anh bạn cùng phòng trong thời gian chúng tôi học tại Viện Đại Học Đà Lạt và thăm lại trường xưa Viện Đại Học Đà Lạt, quê hương tinh thần của tôi . Ở lại Đà Lạt ba đêm bốn ngày chỉ đủ để hai chúng tôi tâm tình và đi thăm một vài nơi. Tôi muốn ghi lại một vài kỷ niệm của chuyến đi . Viết về những hoài niệm xưa, thủơ chúng tôi sống tại thành phố Đà Lạt thì bạn bè tôi đã viết rất nhiều . Bạn bè gập nhau nói về kỷ niệm thì không hết và không chán. Viết về những kỷ niệm mà nhiều người đã viết thì chẳng khác gì bắt độc giả ăn cơm nguội. Anh bạn tôi nói thà có cơm nguội ăn còn hơn không. Tôi cố ghi lại đôi điều ít được đề cập đến. Bát cơm nguội ghi lại cảm xúc và suy nghĩ của tôi về chuyến đi Đà Lạt ngắn ngủi đã để lên mâm. Xin mời các bạn xơi. Đà Lạt Thành Phố Không Đèn Xanh Đèn Đỏ Tôi đến Đà Lạt khoảng năm giờ chiều. Đà Lạt có nhiều biệt thự mới to, những con đường lớn, những bồn hoa, nhiều biểu ngữ và cờ treo dọc theo những con đường. Tôi không nhận ra Đà Lạt ngày xưa. Tôi khen Đà Lạt sạch, đẹp và trật tự hơn thành phố Sài Gòn. Tôi thêm: - Đà Lạt sạch đẹp hơn nhờ mỗi năm có Festival Hoa cũng như Huế mỗi năm khá hơn nhờ mỗi hai năm có Festival Huế … Anh bạn tôi nói: - Đang đại hội đảng và thành phố có hội nghị Năng Lượng Quốc Tế nên thành phố sạch chứ bình thường thành phố cũng bẩn. Ngày hôm sau, tôi được anh bạn cho đi thăm một vòng quanh thành phố. Thành phố đông đúc xe gắn máy và nhiều xe khách của công ty Thành Bưởi, Phương Trang và những công ty du lịch khác. Đà Lạt là thành phố có hạng ở Việt Nam về dân số và số lượng xe. Tôi không thấy đèn xanh đèn đỏ trên các ngã ba, ngã tư, ngã năm tại thành phố Đà Lạt . Ngay cả khu vực trung tâm thành phố đông đúc xe cộ cũng không có đèn xanh đèn đỏ. Những thành phố to nhỏ tôi đi qua như Huế, Đà Nẵng, Đồng Hới, Sông Bé … đều có đèn xanh đèn đỏ . Đà Lạt nghèo nên không có kinh phí để xây dựng những cột đèn xanh đèn đỏ chăng? Chắc chắn là không. Nhìn bảng hiệu to lớn quảng bá những công trình xây dựng cho thành phố du lịch Đà Lạt tương lai, chứng tỏ Đà Lạt là thành phố giàu. Hay vì Đà Lạt là thành phố cao nguyên nhiều đồi dốc nên không cần đèn xanh đèn đỏ. Điều này cũng không đúng. Thành phố Seattle của tôi nhiều đồi dốc dài và cao hơn Đà Lạt vẫn cần đèn xanh đèn đỏ. Tôi nêu thắc mắc này với anh bạn tôi . Anh bạn tôi trả lời : - Đà Lạt có ba cái không : Thành phố không đèn xanh đèn đỏ, không xe xích lô và không máy lạnh. Không đèn xanh đèn đỏ là đặc trưng của Đà Lạt. Người Đà Lạt hiền lành, lịch sự thì cần gì phải có đèn xanh đèn đỏ . Đất lành sinh trái ngọt. Ở đây không khí trong lành, khung cảnh thiên nhiên xinh đẹp hiền hòa, con người ăn mặc đẹp. Đến Đà Lạt tự nhiên thấy tâm hồn thanh thản, mọi buồn phiền tạm lắng, con người trở nên thánh thiện hơn. Như vậy cần đèn xanh đèn đỏ làm chi. Có đèn xanh đèn đỏ mà con người không biết tôn trọng luật giao thông cũng như không. Tôi đồng ý với anh bạn nặng tinh thần địa phương. Tôi đồng ý với bạn tôi vì tôi cũng mang nặng tinh thần địa phương như bạn tôi. Đà Lạt có viện đại học Đà Lạt quê hương tinh thần của tôi không cần đèn xanh đèn đỏ vì con người Đà Lạt hiền lành lịch sự. Đỉnh Lâm Viên Ngày xưa tôi có mơ ước : Cắm cờ Hướng Đạo trên đỉnh núi Lâm Viên. Bạn tôi biết mơ ước của tôi nên đưa tôi tới khu du lịch Lang Biang. Trước khi đi anh ta nói với tôi: - Lên đỉnh Lâm Viên bây giờ khỏe lắm. Có xe đưa lên tận đỉnh … - Tao muốn trèo lên đỉnh Lâm Viên. Đi xe thì còn có ý nghĩa gì nữa. - Thân lừa ưa nặng. Bây giờ đâu có còn phải trèo leo gì nữa. Đường trải nhựa lên tận đỉnh núi. Đường dài sáu cây số mi có đi bộ nổi không ? Mi đi bộ thì mi đi một mình. Tao đưa mi tới, rồi tao về nhà. Khi nào mi xuống gần đến chân núi thì phone cho tao ra đón. Tôi bỏ ý định trèo lên đỉnh Lâm Viên. Khi lên đường, bạn tôi nói: - Mi có bị đau tim không ? - Không. Nguy hiểm lắm sao? - Cháu gái tao nói :” Lên đỉnh Lâm Viên không sợ không ăn tiền.” Sau chuyến đi, mấy bà sợ xanh máu mặt. Mi đi, mi sẽ biết . Chúng tôi đến khu du lịch Lang Biang. Đám đông đang tranh nhau mua vé. Một anh nhân viên nói với chúng tôi : - Mua vé bây giờ cũng phải chờ khoảng một tiếng rưỡi đến hai tiếng mới có xe May mắn, bạn tôi có anh học trò là nhân viên của khu Du Lịch Lang Biang. Anh học trò nói với chúng tôi : - Thầy muốn đi thì em giúp. Thầy trả tiền xăng cho tài xế - Tổng cộng phải trả bao nhiêu ?
- Thưa một trăm hai mươi ngàn. Chuyến xe chỉ chở hai chúng tôi thay vì sáu người. Có nghĩa là chúng tôi phải trả tiền cho cả chuyến xe. Đúng là nhất thân nhì thế. Chúng tôi được lên núi ngay trong khi nhiều người mua vé trước chúng tôi phải chờ. Tôi tự an ủi thế mới là cõi trần, nếu công bằng thì làm gì có câu đầu lưỡi thời xưa sinh viên chúng tôi thường nói C’est La Vie. Chiếc xe Jeep chở chúng tôi chạy trên con đường nhựa chỉ đủ cho hai xe du lịch chạy ngược chiều tránh nhau. Đường dốc quanh co, xe lên, xe xuống chạy với tốc độ nhanh. Đúng như cô cháu bạn tôi nói: Không Sợ Không Ăn Tiền. Tài xế lái xe quá giỏi, thật đáng khâm phục. Bạn tôi cho biết chưa hề có tai nạn xẩy ra từ ngày khai trương. Khoảng mười phút chúng tôi đã đến đỉnh núi. Chúng tôi có bốn mươi lăm phút trên đỉnh núi. Đỉnh núi đã được san bằng chỗ thấp chỗ cao để xây những công trình như bãi đậu xe, nhà hàng ăn uống, nhà bán đồ lưu niệm, những kiến trúc cho du khách chụp ảnh. Chúng tôi đi quanh khu du lịch để ngắm cảnh và chụp ảnh . Bạn tôi nói trong bài Lâm Viên Hành Trình Nhật Ký, cụ Đoàn Đình Duyệt có viết : Đứng trên đỉnh núi nhìn về phía tây thì thấy Kon Tum, phía đông thì thấy biển. Chúng tôi đi ra phía tây chỉ thấy núi và rừng thông đến tận chân trời. Đi ra phía đông cũng chỉ thấy núi và thông không thấy biển. Về nhà, tôi mở computer để tìm đọc bài Lâm Viên Hành Trình Nhật Ký. Nguyên văn bài dịch của Phạm Phú Thành như sau : Lại nghe nói gần Lâm Viên có một ngọn núi cao 2.200 thước tây là núi cao nhất Trung Kỳ. Đã mở một con đường nhỏ để tiện lên núi ngắm cảnh. Nếu đứng trên đỉnh núi này nhìn qua kính viễn vọng thì phía Tây thấy được nhà cửa của cư dân tỉnh Côn Tung (Kon Tum), phía Đông thấy tới biển. Đây cũng do quý Khâm Sứ đại thần cho biết. Tôi nói với bạn tôi : Mấy ông quan Tây nói dối để dọa quan Ta.
![]() Những ngày ở Huế, tôi đến thăm ông cậu vợ. Cậu vợ tôi là cựu huynh trưởng Hướng Đạo. Tôi khoe với cậu vợ tôi về chuyến đi lên đỉnh Lâm Viên. Ông cậu vợ nói với tôi: - Đỉnh mà xe đưa cháu lên là đỉnh thấp không phải là đỉnh cao nhất của rặng Lâm Viên. Từ ngọn núi thấp đi qua một cánh rừng nguyên sinh mới tới núi đỉnh cao nhất. Trước 1975, sinh viên sĩ quan Đà Lạt phải leo lên đỉnh núi này mới được gắn Alpha. Nghe ông cậu vợ nói, tôi sững sờ vì mình đổ tội oan cho mấy ông quan Tây. Tôi nói: “Cháu mừng hụt tưởng mình đã đặt chân lên đỉnh Lâm Viên, nhưng thật ra mới chỉ được xe đưa lên ngọn thấp của dẫy núi Lâm Viên. Thôi thì hẹn lần khác hay hẹn kiếp sau, ta sẽ cắm cờ Hướng Đạo trên đỉnh Lâm Viên.” Viện Đại Học Công Giáo Đà Lạt Không Còn Viện Đại Học Công Giáo Đà Lạt may mắn hơn Viện Đại Học Phật Giáo Vạn Hạnh và Viện Đại Học Hào Hảo. Viện Đại Học Đà Lạt chỉ đổi tên thành Trường Đại Học Đà Lạt và vẫn là một cơ sở giáo dục cấp đại học với đầy đủ các phân khoa. Viện Đại Học Vạn Hạnh trở thành cơ sở 2 của trường Đại Học Sư Phạm. Viện Đại Học Hòa Hảo một cơ sở biến thành Trường Đảng, một cơ sở biến thành Sở Thông Tin Từ một viện đại học Công Giáo biến thành trường đại học của nhà nước Cộng Sản nên những di tích về tôn giáo cũng dần dần biến mất. Trước hết là cây thánh giá của Nhà Nguyện được thay bằng ngôi sao đỏ trong năm 1976 để kịp ngày khai giảng khóa đầu tiên của Trường Đại Học Đà Lạt. Trong email gửi lên diễn đàn Thụ Nhân ngày 16 tháng 7 năm 2008 anh B, CTKD 7 viết : “Cuối năm 2005, khi làm Đặc San khóa 7, 35 năm sau nhìn lại . Giáo sư Phó Bá Long trao cho tôi bài viết bằng tay Cây Thánh Giá Trên Tháp Năng Tĩnh mà tác giả là bác Hương Bình, người trông coi sửa chữa các phòng ốc trong VĐH Đà Lạt trước 1975. Sau đó, tôi đánh máy bài viết này và in trong ĐS K7, trang 196 – 197. Đây là một tài liệu xác thực về cây thánh giá trên nóc Năng Tĩnh , do chính người làm “ngôi sao” để phủ cây thánh giá tường thuật lại các chi tiết. Xin hạ tải bài đính kèm.” Cuối bài Cây Thánh Giá Trên Tháp Năng Tĩnh, tác giả Hương Bình viết : “Ngày nay đã 30 năm trôi qua, cây thánh giá vẫn đứng vững trong lòng ngôi sao và dang hai cánh đỡ ngôi sao đứng sừng sững giữa khung trời đại học”. Nghĩa là cây thánh giá vẫn còn cho đến ngày nay. Xin đọc nguyên văn bài Cây Thánh Giá Trên Tháp Năng Tĩnh trong phần chú thích. Những năm sau, tôi không biết vào năm nào, tượng Đức Mẹ Maria bằng thạch cao trên bức tường trong Nhà Nguyện bị xóa bỏ. Và tượng Mẹ Maria trước giảng đường Spellman không còn thấy nữa. Nay Viện Đại Học Công Giáo chỉ còn lại một ít di tích trong khuôn viên Trường Đại Học Đà Lạt. Thứ nhất là những bức ảnh của những vị linh mục cựu viện trưởng Viện Đại Học Đà Lạt được trưng bầy vào năm 2008 trong Thư Viện mới cùng với những bức ảnh của các vị hiệu trưởng Trường Đại Học Đà Lạt. Thứ hai phòng vi tính Frere Nguyễn Văn Kế, Phó Viện Trưởng kiêm Giám Đốc Đại Học Xá Viện Đại Học Đà Lạt, được xây dựng năm 2008 do tiền của một cựu sinh viên trường CTKD, Viện Đại Học Đà Lạt tặng. Thứ ba là những phần học bổng của cựu sinh viên Viện Đại Học Đà Lạt tặng cho sinh viên Trường Đại Học Đà Lạt. Ngày nay Trường Đại Học Đà Lạt có những giảng đường và một thư viện mới to lớn đồ sộ. Những giảng đường, những khu đại học xá cũ kỹ nhỏ bé như Thụ Nhân, Spellman, Hội Hữu, Lầu I, II, III, IV, V đã được thay tên và chiếc cầu gỗ nhỏ mầu đỏ xinh xắn gần giảng đường Spellman rồi trong tương lai có lẽ sẽ được thay thế bằng những tòa nhà to hơn, tân tiến hơn để đáp ứng với nhu cầu sinh viên gia tăng từ ba ngàn sinh viên trước năm 1975 lên tới hai mươi hai ngàn sinh viên hiện nay. Cũng cần ghi nhận điều lạ là năm 2008, nhà trường làm lễ kỷ niệm 50 thành lập Trường Đại Học Đà Lạt. Có nghĩa là người Cộng Sản công nhận trường Đại Học Đà Lạt và Viện Đại Học Đà Lạt là một. Trường Đại Học Đà Lạt là trường tiếp nối của Viện Đại Học Đà Lạt. Viện Đại Học Đà Lạt đã đổi thay, nhưng có hai điều chắc chắn không thay đổi. Một là tình yêu của tôi với Viện Đại Học Đà Lạt vẫn còn mãi, Viện Đại Học Đà Lạt vẫn là quê hương tinh thần cho tôi nương tựa. Thứ hai là khi tôi bước thong thả trên con đường dốc ngắn ngủi từ cổng viện đến ngã năm viện đại học. Tôi còn nhớ tiếng nổ dòn của những chiếc xe Lambretta ba bánh đang đổ sinh viên trước cửa viện, tôi còn nhớ những hình bóng của những bạn ở khu Võ Tánh đang thả bộ trên đường đến cổng viện. Hôm nay tôi không thấy xe Lambretta ba bánh, nhưng tôi thấy những xe gắn máy hai bánh chạy trên đoạn dốc này và vào cổng trường. Tôi thấy những sinh viên đang đi về phía cổng trường. Điều không thay đổi trong hai hình ảnh này đó là tinh thần hiếu học. Hiếu học là truyền thống của dân tộc ta. Truyền thống hiếu học đã vượt lên mọi tranh chấp và đã giúp đất nước Việt Nam mãi mãi trường tồn. Con đường lên dốc Viện Đại Học đối với sinh viên chúng tôi lúc nào cũng giống như La Rue Vers L’or của dân Mỹ hướng về tương lai tự do và giàu có. Khu Mả Thánh sắp trở thành Trung Tâm Thể Dục Thể Thao Ngày xưa ra vô khu B vào những lúc chạng vạng tối đôi khi cũng thấy lạnh xương sống, nổi da gà. Đi trên con đường nhỏ tối tăm. Một bên là mả thánh, một bên là những ngôi nhà xoay lưng vào mả thánh. Con đường có nhiều truyện ma nghe kể ban đêm không dám tung chăn bước xuống giường chứ đừng nói đi ra khỏi phòng để đi tiểu. Hôm nay, đi trên con đường này, tôi nhớ đến hai người bạn đã quá vãng. Trần Phước Tuyển, CTKD 2, theo học nghề bói toán với ông thầy bói Chiêm. Thầy Chiêm dẫn Tuyển lên mả Thánh để dậy cho Tuyển nói chuyện với ma. Đêm đầu Tuyển nằm một mình trong mả Thánh. Đêm thứ hai Tuyển trốn không tới gập thầy Chiêm. Đáng tiếc cho Tuyển, thầy bói Chiêm là một nhà chiêm tinh đã tạo nhiều huyền thoại cho cá nhân ông và Đà Lạt trước 1975 và sau 1975. Trước 1975, nhiều vị tướng và quan chức Vùng II Chiến Thuật là thân chủ của thầy Chiêm. Anh D, bạn học, kể một huyền thoại về thầy Chiêm trước năm 1975. Cô Pauline Phụng nữ sinh trường Yersin, cháu nội của tướng Cao Đài Năm Lửa, là người yêu của Sơn Beattle. Sơn Beattle là tay anh chị giang hồ trấn giữ vùng Đà Lạt. Cô Pauline Phụng không có tin tức của Sơn Beattle một thời gian nên cô cùng bạn của Sơn Beattle tìm đến thầy Chiêm để hỏi. Cả bọn đến nhà thầy Chiêm thì gập thầy Chiêm đang đi ra khỏi nhà. Thầy Chiêm dừng lại hỏi :” Tụi mi muốn biết tin thằng Sơn phải không? Thằng Sơn chết rồi.” Cả bọn lạnh xương sống. Cô Pauline Phụng khóc sướt mướt. Đó là một trong những huyền thoại đưa thầy Chiêm lên tuyệt đỉnh nghề tướng số. Đến năm 2008, D gập lại Sơn Beattle tại Atlanta, Hoa Kỳ. D nói với tôi : “Thầy Chiêm đoán đúng 75%. Thằng Sơn Beattle vẫn còn sống. Sơn Beattle không chết chỉ bị mất tích. Nó như chết đi sống lại. Năm 1966 Sơn đầu quân lôi hổ tại Đà Nẵng. Trận ra quân đầu tiên, Sơn bị bắt làm tù binh và bị đưa ra giam tại những trại tù ngoài Bắc. Sơn được qua Mỹ theo diện HO. Hiện nay Sơn Beattle đang làm báo tại Atlanta. Anh C, bạn học, kể : Sau 1975 thầy Chiêm bị bắt vô trại tù cải tạo vì bị nghi làm việc cho CIA . Trong trại cải tạo, ông vẫn được mọi người gọi bằng thầy. Một số trại viên hỏi ông :” Thầy cho biết số phận chúng tôi ra sao “ Bằng giọng Huế, ông trả lời :” Đ. M. tụi mi, số phận tao, tao còn chưa biết, làm răng tao biết số phận tụi mi “. Một thời gian sau ông được thả vì vô tội. Ông tiếp tục nghề coi bói và tướng số. Lần này ông bị bắt về tội buôn thần bán thánh. Trên xe chở thầy Chiêm đến trại cải tạo, anh thượng sĩ công an người miền Bắc nói với thầy Chiêm :” Anh là thầy bói. Nếu anh đoán đúng thì tôi nói với cấp trên của tôi tha anh, anh nói trật anh ở trại cải tạo lâu dài”. Thầy Chiêm đồng ý. Thầy Chiêm nói về quá khứ, hiện tại và tương lai của anh thượng sĩ công an đúng đến nỗi anh thượng sĩ công an khâm phục, gọi ông bằng thầy và xưng con. Giữ đúng lời hứa, anh thượng sĩ đã vận động để cấp trên thả thầy Chiêm. Hai tháng sau, thầy Chiêm được thả. Trần Phước Tuyển và thầy Chiêm gập nhau tại suối vàng, chắc nay Tuyển đã biết tài năng thầy Chiêm có thật hay không. Người thứ hai là Lê Đường, CTKD I. Thân mẫu anh Lê Đường an táng tại mả Thánh. Dự lễ an táng, chúng tôi mới biết tên Lê Đường được ghép bởi họ Lê của thân phụ và họ Đường của thân mẫu anh. Lê Đường là một tài năng của khóa I CTKD. Anh là Hướng Đạo sinh có bằng rừng ngành tráng duy nhất tại Đà Lạt. Anh thành lập tráng đoàn Hùng Vương và có cao vọng làm một cuộc cách mạng ngành tráng. Tráng đoàn Hùng Vương có toán tráng nữ. Sau khi tốt nghiệp, anh được tuyển làm phụ khảo của trường CTKD. Năm 1970 anh được học bổng du học Mỹ trong một chương trình đào tạo những người lãnh đạo sau này cho VNCH của người Mỹ. Năm 1991, tôi gập lại Lê Đường tại Seattle. Tôi ngạc nhiên và không hiểu lý do cuộc sống của anh Đường thay đổi một trăm tám mươi độ. Từ một người có tương lai đầy hứa hẹn trở thành một người có đời sống của kẻ lang bạt kỳ hồ, không vợ con. Anh đi khắp nước Mỹ, làm đủ thứ nghề như bán McDonald, khuân vác, dọn dẹp, quản thủ thư viện … Sau cùng anh trở về sống với người em gái, cô Thoại Anh, tại tiểu bang M***achusetts. Anh đã biến lầu hai nhà của người em gái làm nơi tu thiền. Thỉnh thoảng lắm anh mới trả lời điện thoại của tôi và chúng tôi nói chuyện mỗi lần khoảng hai ba tiếng. Nhiều lần tôi nói với anh :’’ Sinh ra là người có tài, anh không làm việc giúp đời là không công bằng “. Một lần, trong khoảng năm tháng, tôi điện thoại cho anh nhiều lần, nhưng anh không bắt máy. Tôi điện thoại cho anh vào lúc một giờ sáng, giờ Boston. Lê Đường giọng hốt hoảng - Có chuyện gì mà Quang gọi giờ này - Tôi gọi anh nhiều lần, anh không trả lời. Bây giờ tôi biết anh còn sống. Chúc anh ngủ ngon. - Quang à, bây giờ mình nói chuyện được không. Chúng tôi nói chuyện hơn hai tiếng đồng hồ tối hôm ấy. Mỗi lần viết xong một quyển truyện, tôi thường gửi cho Lê Đường. Tôi đã gởi cho anh hai quyển truyện: Quyển truyện dài Mưa Xứ Huế và quyển gồm nhiều truyện ngắn Seattle Việt Nam Đâu Có Xa. Viết xong quyển Trọc Sĩ Quyển I, tôi quên gởi cho anh. Mấy tháng sau, một hôm tôi chợt nhớ đến anh. Tôi vội vàng gởi quyển Trọc Sĩ Quyển I cho anh. Một tuần sau khi gởi quyển Trọc Sĩ Quyển I, tôi được tin anh từ trần. Cô Thoại Anh kể cho tôi về cái chết của anh. Lê Đường ở nhà cô Thoại Anh tại thành phố Worcester cách xa chỗ cô Thoại Anh làm việc tại Boston khoảng hai giờ lái xe. Hai anh em chỉ gập nhau vào hai ngày cuối tuần. Hàng ngày cô Thoại Anh điện thoại cho Lê Đường. Tuần lễ khai giảng niên học vì bận việc nên cô Thoại Anh không điện thoại cho anh. Thứ bẩy cô trở về nhà. Kêu cửa nhiều lần không được, cửa khóa bên trong nên không mở cửa được, cô gọi cảnh sát phá cửa để vô nhà. Anh Lê Đường nằm ngay ngắn trên giường, mặt bình thản, không thở, người còn ấm. Khám nghiệm y khoa cho biết anh từ trần vì bệnh quên thở khi ngủ. Hai ngày sau anh qua đời, người đưa thư mới giao quyển Trọc Sĩ đến cho anh. Tôi nói với cô Thoại Anh rất tiếc quyển Trọc Sĩ đến chậm hai ngày. Nếu quyển Trọc Sĩ đến trước hai ngày có khi anh Lê Đường không chết. Anh đọc, suy nghĩ để viết thư cho tôi, anh quên ngủ chứ không quên thở. Tôi yêu cầu cô Thoại Anh, trong lễ tang của anh Lê Đường, cô đọc dùm tôi lá thư tôi gởi kèm theo quyển Trọc Sĩ để coi như tôi có mặt trong buổi lễ tiễn đưa anh. Hôm nay, tôi đi trên con đường trải nhựa rộng thênh thang. Một bên là mả thánh nằm trên đồi như ngày xưa. Một bên là cửa hàng chạy dài theo dọc con đường. Người dân ngày nay không còn sợ ma như ngày xưa. Họ dám mở cửa trước trông thẳng ra nghĩa địa. Sợ ma thì vẫn sợ, nhưng văn hóa ngày nay tại Việt Nam là văn hóa mặt đường. Nhà quay ra mặt đường để mở tiệm buôn bán làm ăn. Về Sài Gòn, tôi gập anh bạn khóa I CTKD. Anh và con trai đang làm việc cho công ty Đầu Tư Phát Triển tại Sài Gòn. Anh cho tôi biết công ty anh hiện đang thực hiện hai công trình lớn tại Đà Lạt. Một công trình tại khu mả Thánh. Công ty anh đã di dời được hơn một ngàn ngôi mộ. Sau khi hoàn thành việc di dời mộ, công ty sẽ xây Trung Tâm Thể Dục Thể Thao Đà Lạt tại khu mả Thánh. Công trình thứ hai là xây biệt thự tại khu bờ hồ đối diện với vườn Bích Câu. Mả Thánh sẽ không còn. Đà Lạt sẽ có một trung tâm thể dục thể thao to lớn. Người dân ở đối diện với mả Thánh sẽ vui mừng. Duy có một điều tôi lo ngại không biết mộ của thân mẫu anh Lê Đường được dời chưa? Về đến Mỹ, tôi điện thoại cho Thoại Anh. Cô Thoại Anh cho biết cách đây hơn mười năm, người bạn cô ở Đà Lạt báo cho cô biết chính quyền đang có kế hoạch giải tỏa khu mả Thánh. Cô đã về Đà Lạt để hốt cốt thân mẫu và anh ba của cô. Thoại Anh đã đem tro cốt của hai người để trong chùa Vĩnh Nghiêm. (còn tiếp)Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 08/Oct/2010 lúc 6:43am |
|
mk
|
|
![]() |
|
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
ĐÀ LẠT DU KÝ
(Nguyễn Đức Quang
Già Cơ)
2
Dấu Chân Trên Lối Cũ, Tưởng Nhớ Người Xưa Tôi nhớ những câu thơ Ly Sa Nguyễn Văn Sơn viết : Còn chăng là giấc chiêm bao Nhặt bao nhiêu lá, lá nào còn xanh ? Phải chăng khi đã lìa cành Lá nào cũng mất màu xanh lâu rồi !
Tôi đi trên đường và nhẩm lại từng tên những bạn bè sống cùng tôi ở Lữ Quán Thanh Niên, nhớ hình ảnh xóm ga Huế và người con gái tôi yêu … Tôi vẫn nhận ra đây là con đường Tình Yêu ngày xưa. Tôi biết tôi vẫn còn yêu Đà Lạt, người con gái xóm ga Huế và bạn bè tôi …
Ngày xưa ông vua Hòa Bình chửi lũ ăn hại đái nát. Ngày nay ai nối ngôi ông …
- Đà Lạt bây giờ có rất nhiều quán cà phê. Cà phê Tùng là quán cà phê của giới nghệ sĩ. Cà phê Tùng có giá rẻ nhất Đà Lạt. - Tại sao ? - Giới nghệ sĩ nghèo làm gì có tiền để chém. Ngày nay giới sinh viên học sinh ít vô cà phê Tùng. - Tại sao ? - Mấy ông nghệ sĩ tóc dài coi cà phê Tùng như trụ sở của hội nghệ sĩ nên ngồi cà kê dê ngỗng hàng tiếng đồng hồ, nói ồn ào đủ mọi truyện trên trời dưới đất. Có xe khách xuất hiện, mấy ông tất bật xách túi máy ảnh chạy tưởng như có biến cố gì lớn …
- Thế nào ? - Không ngon bằng ngày xưa. - Mi là thằng hoài cổ. Hơn nửa thế kỷ rồi làm sao mi nhớ được vị phở ngày xưa mà so với sánh. - Khác xưa rõ ràng. Nhìn đĩa rau thì biết. Ngày xưa, đĩa rau chỉ có húng quế, ngò tây và xà lách đắng. Bây giờ, húng quế và giá sống …
Đà Lạt thay đổi. Nhiều người bạn tôi thất vọng. Họ thất vọng vì Đà Lạt phát triển lộn xộn không có kế hoạch, rừng Đà Lạt bị tàn phá, Đà Lạt không còn lạnh như xưa, Đà Lạt không còn sương mù. Đà Lạt không còn đẹp như xưa. Đà Lạt ngày nay không còn đẹp và thơ mộng như Đà Lạt ngày xưa của họ nữa. Các bạn tôi nhận xét rất đúng. Nhưng “có ai tắm được hai lần trong một dòng sông” như nhà văn người Đức Hermann Hesse viết trong quyển tiểu thuyết Câu Truyện Dòng Sông. Đà Lạt cũng thăng trầm theo vận nước. Đà Lạt đâu phải của thực dân Pháp, đâu phải của triều Nguyễn, đâu phải của Đệ Nhất Cộng Hòa, đâu phải của Đệ Nhị Cộng Hòa, đâu phải của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa, và đâu phải của ????? trong tương lai. Đà Lạt là của dân tộc Việt Nam. Hiện nay tôi sống tại thành phố Seattle, năm nay là năm thứ 18. Tôi chưa bao giờ ở một thành phố nào trong một thời gian lâu như tôi ở Seattle. Thành phố Seattle có nhiều điểm giống Đà Lạt. Nhiều người Việt Hải Ngoại ví Little Sài Gòn của CA là Sài Gòn và Seattle là Đà Lạt. Seattle có nhiều đồi dốc, sương mù, rừng thông như Đà Lạt. Seattle có hồ, có núi như Đà Lạt. Seattle có hoa đào như Đà Lạt. Nhất là người Seattle cũng hiền lành dễ thương như Đà Lạt. Trở về Đà Lạt, thành phố tôi chỉ ở bốn năm trong thời gian học đại học, đi trong thành phố với bạn tôi, tôi vẫn thấy thân thuộc, ngọt ngào, ấm cúng … Tôi nhìn Đà Lạt bằng trái tim không bằng con mắt. Tôi trót yêu Đà Lạt. Đà Lạt thế nào tôi vẫn yêu. Số Phận Những Quyển Luận Văn Luận văn tốt nghiệp của tôi có tựa đề Thử Tìm Một Đường Lối Ngoại Giao Của Nước Việt Nam Thống Nhất Qua Lịch Sử. Tôi muốn đọc lại quyển luận văn của tôi. Nếu được tôi sẽ photo lại quyển luận văn để giữ làm kỷ niệm. Tôi vào thư viện của trường đại học Đà Lạt. Tôi hỏi anh nhân viên thư viện. Anh cho biết sau năm 1975, những quyển luận văn được đem vào kho có khóa cẩn thận. Sau này mở khóa thì kho trống rỗng. Anh nhân viên thư viện nói rằng đã có kẻ mở khóa đánh cắp những quyển luận văn và đem bán giấy vụn. Không ai quan tâm đến sách vở vào những năm giao thời lúc bấy giờ. Những tác phẩm của những nhà văn, nhà nghiên cứu tiếng tăm bị ghép vào tội văn hóa đồi trụy đã bị tịch thu hay đốt thì xá gì những cuốn luận văn tốt nghiệp cử nhân của trường CTKD. Những năm cả nước phải ăn bo bo, người ta lấy những quyển luận văn đi bán ve chai để kiếm tiền mua gạo cũng là bình thường. Tôi không chê trách gì họ, tôi chỉ tiếc đã mất đi một kỷ niệm … Lúc viết luận văn tốt nghiệp, chúng tôi ở độ tuổi hai ba, hai bốn, hai mươi lăm, kiến thức còn non, kinh nghiệm đời còn ít. Vào độ tuổi ấy, tâm hồn chúng tôi trong trắng, đầy lý tưởng muốn làm những việc đội đá vá trời cho xã hội đất nước hơn là cho bản thân mình. Cho nên đôi khi chúng tôi có những ý tưởng táo bạo, viển vông. Đang chiến tranh khốc liệt mà đã nghĩ đến đường lối ngoại giao của một nước Việt Nam thống nhất. Năm thứ ba CTKD, giáo sư Vũ Quốc Thúc có chương trình kinh tế hậu chiến, nên tôi tưởng hòa bình thống nhất đã gần kề. Ngoại giao của một nước Việt Nam thống nhất là vấn đề sinh tử cần sự khôn ngoan và cam đảm. Kinh nghiệm của tiền nhân trong việc giữ nước vẫn quí báu. Trong chương Đối Phó Với Trung Hoa của quyển luận văn, tôi đã đề cập đến những vấn đề sau :
Đó là những ý nghĩ thô thiển viển vông của tôi ngày xưa. Ngày nay vấn đề ứng xử với Trung Quốc trở nên nóng bỏng. Ứng xử với Trung Quốc ngày nay khó nhiều lần hơn ngày xưa. Ngày xưa vấn đề quân sự là chính. Ngày nay vấn đề kinh tế văn hóa quan trọng hơn quân sự. Chế ngự được kinh tế văn hóa thì lâu dài. Chiếm đóng bằng quân sự thì ngắn vì quốc tế phản kháng chứ chưa nói đến sự kháng cự của dân bản xứ. Việt Nam cần có một cẩm nang trong việc ứng phó với Trung Quốc. Tiếng Rao Hàng Của Thế Kỷ 21 Trằn trọc không ngủ được. Không biết trời đã sáng chưa ? Lắng nghe nhà dưới không thấy tiếng động. Chủ nhà chưa thức. Bỗng nghe tiếng phát thanh oang oang. Giật thót cả người. Tôi đang nằm mơ hay tỉnh. Tiếng phát thanh đem tôi về những ngày đầu của năm 75. Tiếng loa phát thanh của Phường vẫn ám ảnh tôi đến tận hôm nay. Bây giờ lại lùi về những năm đầu 1975 khủng khiếp hay sao ? Nghe tiếng hai vợ chồng chủ nhà. Tôi vội vùng dậy, rửa mặt, thay quần áo rồi xuống nhà dưới. Tôi hỏi bạn tôi - Phát thanh gì vậy ?
- Rao hàng chứ phát thanh gì : “Bánh bao nóng đây”. Rao hàng thế kỷ 21. Thu vào máy rồi phát ra to nhỏ tùy ý, khỏi phải mỏi miệng khô cổ. - Mi nói ông bán bánh bao vặn volume nhỏ vừa đủ nghe. Đà Lạt sáng sớm yên tĩnh, mở volume lớn quá khó nghe và làm nhiều người mất ngủ. - Sáng mai mi ăn bánh bao để tao gọi ông tới cho mi có ý kiến với ông ta.
Xe Khách Sài Gòn Đà Lạt Tôi đi lên Đà Lạt bằng xe khách Thành Bưởi và trở về Sài Gòn bằng xe khách Phương Trang. Hai xe của công ty Thành Bưởi và Phương Trang đều có máy lạnh mát rượi, khách được phát một chai nước và một khăn lau mặt giấy đựng trong bọc nhựa nylong. Sự việc này đã có cách đây bẩy tám năm nên không có gì đáng nói. Hiện nay có nhiều tiến bộ hơn trước : - Xe không đón khách dọc đường. Trước khi xe chạy, anh hướng dẫn viên đã giới thiệu tài xế và bản thân anh và nói lời chào mừng khách. Giới thiệu lịch trình và thời gian chuyến đi. Anh nói xe không đón khách dọc đường, tuy nhiên có một hành khách ở Di Linh đặt mua vé trước nên xe sẽ ngừng tại Di Linh để đón vị khách này. Mong quí khách thông cảm. Khác hẳn trước đây. Càng ngày càng chuyên nghiệp hơn. - Đến Đà Lạt có xe trung chuyển đưa khách về tận nhà. - Từ Đà Lạt muốn về Sài Gòn, bốc điện thoại gọi hãng xe để giữ chỗ. Ngày mai sẽ có xe trung chuyển đến tận nhà đón ra bến xe. - Sài Gòn thì không có xe đón đến bến xe và không có xe đưa về nhà Nhờ có nhiều hãng xe cạnh tranh lành mạnh nên người dân được hưởng nhiều lợi ích hơn. Biết đâu vài năm sau, khách đi và đến Sài Gòn sẽ có xe đón và đưa về nhà miễn phí. Nếu mọi lãnh vực đều có sự cạnh tranh lành mạnh thì đời sống người dân sẽ thoải mái và khá giả hơn. Trong lãnh vực chính trị thời Việt Nam Cộng Hòa có cạnh tranh nhưng thiếu lành mạnh. Các ông bà chính trị gia thậm tha thậm thụt với chùa, nhà thờ, thánh thất. Đất nước như chỉ có những đảng lớn Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo. Các đảng chính trị chuyên nghiệp như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt … chỉ là những bóng mờ. Bầu cử Thượng Viện năm 1967, hai liên danh Hoa Sen và Bông Huệ đắc cử. Liên danh Sư Tử Cầm Bút của giáo sư đại học do thầy Vũ Quốc Thúc làm thụ ủy thất cử. Chính trị thời Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chỉ có một đảng Cộng Sản nên không có cạnh tranh, không có cạnh tranh thiếu lành mạnh và cũng không có cạnh tranh không lành mạnh. Anh bạn H của tôi nói : “Thật ra vẫn có cạnh tranh trong thời Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Cạnh tranh giữa 2 triệu đảng viên Cộng Sản còn 80 triệu dân không Cộng Sản chỉ chờ đảng lâu lâu cho một chút cạnh tranh thì họ đã mừng và biết ơn đảng. Tội nghiệp cho dân tộc ta ở chỗ đó. Bị bóc lột mà vẫn cám ơn những người bóc lột. Chỉ có xương để gậm vậy mà người dân Việt Nam đã xây dựng được nền kinh tế tốt. Thế mới biết bản lãnh và trí thông minh của người Việt ta . Đảng được ăn thịt nạc thịt ngon, lại được tiếng thơm về sự phát triển kinh tế mà thế giới công nhận.” Anh bạn P của tôi thì nói với tôi : “Tao dám tranh luận với bất cứ ai rằng nền kinh tế Việt Nam giống như cái lò xo bị ép xuống tận cùng lâu ngày, nay thả ra thì nó bung lên chứ không phải do chính sách hay chương trình kinh tế đúng đắn tốt đẹp gì cả. Cứ nhìn sự phát triển tự phát, lôi thôi nhếch nhác hiện nay thì rõ.” Lãnh đạo Cộng Sản Trung Quốc và Việt Nam đã sáng suốt hơn giới cầm quyền Bắc Hàn, Cuba, Miến Điện và nhiều nước độc tài tại Nam Mỹ và Phi Châu. Họ đổi mới để cứu mình và đỡ khổ cho đất nước. Theo lý luận của anh bạn P, nếu Bắc Hàn mở cửa để cho lò xo bung lên. Rút kinh nghiệm Trung Quốc, Việt Nam, họ mở toang cửa để cho mọi người cạnh tranh lành mạnh và có người Nam Hàn anh em tận tình giúp đỡ thì chỉ một ngũ niên đã đuổi kịp Trung Quốc, Việt Nam, hai ngũ niên đuổi kịp Đại Hàn, Nhật Bản và gia nhập khối G21 (G20 + Bắc Triều Tiên = G21). Mong rằng trong mọi lãnh vực của đất nước có sự cạnh tranh lành mạnh như hai hãng xe Thành Bưởi và Phương Trang để đất nước sớm giàu mạnh như Đại Hàn và Nhật Bản. Biết Đâu Địa Ngục Thiên Đàng Là Đâu Tôi được dự một buổi họp mặt của sinh viên tốt nghiêp Hán Nôm năm 1988. Họ ở nhiều nơi trên đất nước về qui tụ tại Đà Lạt. Bạn tôi là thầy của họ nên tôi được mời dự. Ngồi cạnh tôi là anh M, cựu giáo sư chữ Nôm. Anh M chỉ được dậy một năm thì bị nhà trường cho nghỉ việc vì lý do anh là sĩ quan của chế độ cũ mặc dù bạn tôi nói M là giáo sư chữ Nôm rất giỏi. Hiện nay anh M mở dịch vụ bán Trướng Liễn Hoành Phi Câu Đối và hướng dẫn về thủ tục nghi lễ để sinh sống. Tình thầy trò thật đáng trân trọng. Sinh viên đều có địa vị trong xã hội. Người làm trưởng phòng vật tư, người là hiệu trưởng trường trung học, người làm trưởng một phòng của đài truyền hình thành phố Sài Gòn, người có địa vị cao nhất là phó chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh. Tôi đoán tất cả đều là đảng viên. Họ biết anh M và tôi là sĩ quan chế độ cũ. Sinh viên gọi anh M bằng thầy và xưng là em. Cũng có vài người gọi tôi là thầy và xưng em. Họ săn sóc thức ăn và nước uống cho chúng tôi chu đáo, nói năng kính cẩn lễ phép và vui vẻ. Sau những câu truyện xã giao thăm dò, tôi và anh M khám phá ra rằng không những là đồng môn tại Viện Đại Học Đà Lạt, chúng tôi còn là đồng môn tại trường Quốc Học. Sau đó chúng tôi còn biết mối liên hệ khác giữa hai chúng tôi. Anh M là em cột chèo với ông cậu vợ tôi. Gia đình ông cậu vợ hiện đang sống trong cùng thành phố Seattle với tôi. Có bốn mối liên hệ nên chúng tôi nói chuyện cởi mở vui vẻ. Anh M nói với tôi : - Tôi đang đọc quyển Biết Đâu Địa Ngục Thiên Đường. Quyển này viết về cuộc đời của thầy Nguyễn Khắc Dương. Thầy Dương là giáo sư Triết, Viện Đại Học Đà Lạt. Cuộc đời thầy khắc khổ như một nhà tu. Quyển sách viết về cuộc đời thầy Dương chắc cũng không hấp dẫn nên tôi im lặng. Anh M nói tiếp : - Trước đây thằng con tôi hỏi : Sau 1975, ba cảm thấy thế nào? Tôi trả lời : Mất mát rất nhiều. Đọc quyển Biết Đâu Địa Ngục Thiên Đàng, tôi kêu thằng con trai và nói : Ba đã nhận định sai. Trong quyển này cũng có nhắc tới thằng K. Hai chi tiết anh M thêm vào : sự mất mát của những người theo Cộng Sản cũng rất to lớn và nhân vật K đã khiến tôi muốn đọc quyển truyện. K là cán bộ Cộng Sản nằm vùng. Lúc tôi là sinh viên năm thứ tư CTKD, K là sinh viên văn khoa Triết năm thứ nhất. K ở lầu I. K thỉnh thoảng đến cửa sổ phòng tôi, lầu II đại học xá, để nói chuyện với chúng tôi. Sau này tôi nghe K bị lộ. K thoát được cuộc lùng bắt của công an Việt Nam Cộng Hoà nhờ thầy Dương che dấu K một tuần trong nhà thầy. Nay K, bí danh Ba Định, là đại tá công an hồi hưu. Anh M điện thoại cho anh L chủ tiệm sách Duy Tân để hỏi mua cho tôi một quyển. Anh L trả lời sách đã bán hết. Thứ ba tuần sau mới có sách. Ngày mai chủ nhật tôi đã dời Đà Lạt nên anh L đề nghị anh M trao cho tôi quyển sách của anh, thứ ba tuần sau, anh M mua cuốn khác. Anh M tặng tôi cuốn sách anh đọc chưa xong. Tác giả truyện Biết Đâu Địa Ngục Thiên Đàng là ông Nguyễn Khắc Phê, em ruột của thầy Dương. Theo lời giới thiệu ở bìa quyển truyện : Ông Phê là hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam. Nguyên là Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Hiện là chi hội trưởng nhà văn tại Huế. Trong quyển Biết Đâu Địa Ngục Thiên Đàng, ông kể lại những biến cố gia đình ông trải qua từ trước 1945 đến 1975. Những sự kiện ông kể lại hầu hết mọi người đều đã biết qua sách báo. Những sự kiện đó hầu hết không còn xẩy ra ngày nay nữa. Bìa sau của quyển sách nhà văn Nguyễn Khắc Phê đã nêu lý do ông viết quyển tiểu thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đàng là đâu là câu Kiều mà bà mẹ thốt lên đau đớn khi cậu Tú Tâm con nhà quan “chạy trốn” người vợ sắp cưới, bỏ nhà đi tu. Mà đâu chỉ với cậu Tú Tâm, trong cuộc đời “dâu bể”, câu Kiều ấy ứng với nhiều nhân vật, nhiều cảnh ngộ … Tiểu thuyết miêu tả những số phận trải qua mấy chục năm đầy biến động của đất nước nên không thiếu những tình huống éo le, bi thảm, nhưng tác giả cũng dành nhiều tâm huyết miêu tả những cảnh đời bình dị, êm đẹp ở một làng quê, với tình mẹ con, họ hàng, làng xóm đầm ấm - vẻ đẹp truyền thống và là cội nguồn của sức mạnh Việt Nam “ Nhà văn Nguyễn Khắc Phê đã nêu lên một vấn đề vô cùng hệ trọng của dân tộc đó là truyền thống gắn bó giữa anh em, họ hàng, bà con, thầy trò, bạn bè, hàng xóm láng giềng của dân tộc. Truyền thống tốt đẹp đó được nhiều nhà nghiên cứu ngoại quốc thừa nhận. Tôi xin trích nguyên văn bản tin được đăng trên báo Người Việt Tây Bắc số 1952 thứ sáu ngày 27 tháng 8 năm 2010, trang 49 : “ Theo Daniel Ayala, trưởng dịch vụ toàn cầu của Wells Fargo, điều duy nhất chỉ có ở Việt Nam là người ta gửi tiền về cho cả tông chi họ hàng chứ không phải chỉ cho những người ruột thịt. Ngoài ra còn dùng tiền để giúp phát triển kinh doanh nữa . Mark Sidel, một giáo sư nghành luật ở University of Iowa, người chuyên nghiên cứu về sự luân lưu tiền tệ theo lối này nhận xét rằng, trong những năm gần đây, càng có nhiều người Việt gửi tiền về nước vì tính cách từ thiện gồm cả việc liên hệ đến y tế và giáo dục.” Theo thiển ý của tôi truyền thống mà nhà văn Nguyễn Khắc Phê nêu ra còn quan trọng hơn phát triển kinh tế. Kinh tế là việc cấp thời trước mắt, phải giải quyết trước. Nay kinh tế Việt Nam đã ổn định, đời sống của người dân đã khá hơn những năm của thập niên 70, 80, 90. Việc phục hồi truyền thống đạo đức là việc lâu dài nhưng cần thiết và cấp bách vì truyền thống đó đã bị phá hủy, băng hoại tại miền Bắc do thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Cộng Sản. Mặc dù bại trận, xã hội nhiều biến động và có sự hiện diện của quân ngoại quốc, nhưng miền Nam vẫn còn giữ được nhiều truyền thống đạo đức, đặc biệt trong hai lãnh vực giáo dục và y tế : Lãnh vực giáo dục vẫn còn tinh thần Quân Sư Phụ và lãnh vực y tế vẫn còn tinh thần Lương Y Từ Mẫu. Đó là điều may mắn cho dân tộc. Miền Bắc, thắng trận, nhiều truyền thống đạo đức bị phá hủy, nhưng những truyền thống đó vẫn còn ở trong tiềm thức của người dân. Cho nên sau khi chiến thắng và tiếp xúc với miền Nam những truyền thống đạo đức đã được dần dần phục hồi trong xã hội miền Bắc và cả nước. Nhưng con đường vẫn còn dài và lắm chông gai. Đọc xong quyển Biết Đâu Địa Ngục Thiên Đàng, cá nhân tôi có nhận xét, nhà văn Nguyễn Khắc Phê viết để bào chữa cho đảng Cộng Sản về những lỗi lầm mà họ gây ra trong thời gian đã qua một cách kín đáo nhẹ nhàng. Ông kín đáo nhẹ nhàng vì có lẽ trong thâm tâm ông Phê và mọi người Việt đều cho rằng những lỗi lầm trong thời gian từ 1954 đến 1980 không thể bào chữa. Ông Phê đã đặt tựa đề cho quyển sách là Biết Đâu Địa Ngục Thiên Đàng. Thời điểm trước kia thì đúng, chẳng ai biết đâu là địa ngục đâu là thiên đường mà lựa chọn. Cuộc sống của những người đi theo kháng chiến sống trong rừng thiêng nước độc chắc chắn là hạnh phúc và cao quí hơn những người ở lại thành thị và theo Pháp. Nhưng từ năm 1954 đến 1975 thì lại khác. Ngày nay chắc chắn mọi người biết đâu là địa ngục, còn đâu là thiên đường thì còn đang tìm kiếm. Tuy nhiên, một nhà văn còn tại chức, còn có chức có quyền đã viết lên những sự việc sai lầm đã qua là một bước tiến đáng kể trong tiến trình đổi mới. Nhà văn Nguyễn Khắc Phê biểu lộ tình cảm kính yêu đối với người anh ruột của mình. Ông không còn coi thầy Dương là phần tử phản động. Tôi chắc chắn nhà văn Nguyễn Khắc Phê còn có nhiều điều muốn nói mà chưa dám nói hay chưa đến lúc được phép nói. Mong lắm thay … Niềm Vui Ngày đầu tiên ở nhà bạn, trước mặt vợ và hai đứa cháu một nội, một ngoại, bạn tôi nói với tôi : - Trong thời gian mi ở đây. Mi muốn ăn chi, cứ nói để vợ tao nấu. Thứ hai mi tới Đà Lạt là đất của tao, mọi việc để tao lo. Thứ ba nghiêm cấm mua quà cho hai đứa cháu tao. Suốt thời gian ở Đà Lạt, mọi chi phí ăn uống, giải khát, trừ việc trả phí tổn lên đỉnh Lâm Viên, đều do bạn tôi thanh toán. Hai vợ chồng bạn tôi là hai nhà giáo hưu trí. Chồng vẫn đi dạy thêm bán thời gian để kiếm tiền chi phí cho hội Hoàng Gia – Già Hoang của mấy ông già hưu trí hội họp vui chơi vào sáng thứ bảy hàng tuần. Vợ nhất định về hưu, không nhận thêm giờ dạy để ở nhà dạy dỗ hai đứa cháu. Thu nhập của hai anh chị cũng phải kể thêm khoản tiền bốn đứa con đưa hàng tháng để trả ơn công dưỡng dục và trả công ông bà trông nom dạy dỗ các cháu. Hai vợ chồng bạn tôi là những nhà giáo quí báu còn lại trong xã hội hỗn tạp, đầy cạnh tranh. Họ có đời sống trong sạch, đạm bạc, không đua đòi, thanh nhàn và hạnh phúc. Tôi là Việt kiều được người trong nước hậu đãi. Trước đây sự kiện này không xảy ra. Bây giờ là những việc bình thường và đôi khi gây ngạc nhiên cho nhiều Việt Kiều vì được người trong nước mời dự tiệc tại những nhà hàng sang trọng mà bản thân họ chưa chắc đã dám bước chân vào. Mừng cho bạn tôi và mừng cho tôi. Các bạn đã ăn xong bát cơm nguội. Xin chân thành cám ơn. Nguyễn Đức Quang Già Cơ
|
|
mk
|
|
![]() |
|
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
ĐÀ LẠT DU KÝ
(Nguyễn Đức Quang
Già Cơ)
3
Ghi Chú : Say đây là nguyên văn bài Cây Thánh Giá Trên Tháp Năng Tĩnh của tác giả Hương Bình. Cây Thánh Giá Trên Tháp Năng Tĩnh Trường Đại Học Đà Lạt ngày nay có nhiều thay đổi về mọi mặt. Các giảng đường cũ đã được sửa chữa, tân trang lại nhưng tên các giảng đường cũ thì đã bị xáo bỏ. Đôn Hóa, Hòa Lạc, Cư Dị, Hội Hữu, Năng Tĩnh, Sinh Viên Vụ, con thuyền Dị An, Thụ Nhân, Đạt Nhân, Thượng Hiền, v.v. đã bị xóa bỏ. Giờ đây chẳng còn ai nhớ đến. Cũng có mấy giảng đường mới xây dựng them, rất khang trang, đẹp đẽ và hiện đại. Lúc đất nước có chiến tranh hỗn loạn, một số người đã di tản ra nước ngoài vì sợ hãi. Trong dòng người di tản, có những giáo sư, sinh viên của Viện Đại Học cũ. Nay đất nước đã ổn định, yên bình nên trong các dịp lễ, có nhiều người đã về thăm lại quê hương nơi cội nguồn của mình. Khi về thăm trường cũ, chắc quí vị thấy Viện đã thay đổi rất nhiều nhưng nếu có vị nào để ý nhìn lên tháp Năng Tĩnh thì không còn thấy cây thánh giá đứng trên đỉnh tháp mà thay vào đó là một ngôi sao năm cánh, màu đỏ. Có thể quý vị nghĩ là cây thánh giá đã bị đập bỏ đâu rồi nhưng không, cây thánh giá vẫn còn đứng nguyên đó và được ngôi sao bao phủ. Trong long ngôi sao, thánh giá đã dang hai cánh để đỡ lấy ngôi sao đứng giữa Trời yên ổn. Năm 1975 Ban Quân Quản và Giáo Sư Nguyễn Lam Kiều tiếp quản Viện Đại Học, phối hợp với nhân viên của Viện canh gác bảo vệ cho Viện. Đến đầu năm 1976 thì có ba giáo sư ở Hà Nội vào tiếp nhận : Giáo Sư Hiệu Trưởng Trần Thanh Minh, Giáo Sư Phó Hiệu Trưởng Phạm Bá Phong và anh Nguyễn Hữu Mỹ. Cả ba vị ghé qua nhà thăm và nhờ tôi làm giúp một số việc kỹ thuật, máy móc cho văn phòng. Tiếp theo giao cho tôi nhiệm vụ làm một ngôi sao năm cánh lắp trên tháp Năng Tĩnh, bao phủ cây thánh giá và làm cho kịp ngày khai giảng. Sau một hồi, tôi suy nghĩ có lẽ Ban Giám Hiệu tế nhị, không muốn đập bỏ cây thánh giá nên làm ngôi sao phủ thánh giá lại và ngôi sao là tượng trưng cho ngày khai giảng. Nghĩ vậy nên tôi nhận sơ đồ để thực hiện ngôi sao. Sau đó tọi leo lên đỉnh tháp, đo chiều cao, chiều ngang thánh giá và tính sức nặng của ngôi sao và sức cản của gió vì trên cao có những lúc gió thổi rất mạnh. Đo và tính xong, tôi báo cho Ban Giám Hiệu ngôi sao phải làm vật liệu bằng sắt chữ U và L, lợp tôn dày một ly. Ban Giám Hiệu bảo thủ kho giao cho tôi đủ vật liệu cần dung và bảo tôi phải làm xong trước ngày khai giảng hai tuần lễ. Tôi làm ngôi sao mất 10 ngày, sơn phết xong giao ngôi sao tại sân đậu xe A2. Quý vị kiểm tra chất lượng và nghiệm thu xong, chỉ chờ đưa lên lắp mà thôi. Nhưng hơn một tuần, chưa thấy ai đưa ngôi sao lên. Một buổi sang, tôi sắp đi làm công trình thì quý vị lại đến nhờ tôi tìm cách nào đưa ngôi sao lên cho kịp ngày khai giảng vì không có nơi nào nhận làm. Cầu Đường thì nhận đưa lên lắp - họ đã làm bản vẽ : đóng một gián đi quang tháp, cao tới đỉnh tháp để đưa ngôi sao lên (tốn mất 2 triệu đồng) nhưng nay họ hồi lại, bảo không làm được ngay mà phải chờ ba tháng nữa mới làm được. Nhưng nay chỉ còn năm ngày nữa là trường khai giảng. Họ đưa giàng giáo cho tôi xem. Tôi nói là làm theo cách này thì một tháng chưa chắc đã xong : để tôi làm theo cách của tôi thì may ra kịp ngày khai giảng. Thật ra, nếu vào thời điểm bây giờ thì ngôi sao đó chỉ nửa ngày là làm xong hết vì bây giờ đã có xe cẩu lên tới 100 mét nhưng vào thời 1976 – 77 thì khó long tìm đâu ra loại cần cẩu đó. Do đó, phải dùng sức người. Tôi chỉ còn bốn ngày để lo tìm cách đưa ngôi sao lên đỉnh tháp cao 48 m. Tôi lo hàn các bánh xe ròng rọc, mượn giây, cây đà sắt và đà gỗ để làm hai hệ thống dây kéo thẳng đứng theo tường tháp, một hệ thống kéo ngôi sao và một hệ thống bảo đảm an toàn cho ngôi sao và công nhân. Sắp xếp xong, tôi đến xin Ban Giám Hiệu 20 người phụ giữ dây chằng hai cánh ngôi sao và ba người có thể leo lên đỉnh tháp phụ cho tôi lắp ngôi sao. Sáng hôm sautôi sắp xếp hai bên có 20 người giữ dây chằng, còn ba người leo lên tháp là anh Trần Tưng, Giáo Sư Nguyễn Hồng Giáp và anh Nguyễn Văn Quang. Chỉ chờ quan khách vào đông đủ là tôi ra hiệu cho kéo ngôi sao lên, từ từ theo sát tường. Lúc đó, gió thổi ngôi sao bay như diều ở dưới hia bên dây chằng. Khó khăn lắm mới ghì kéo được ngôi sao vào gần tháp. Lúc đó chúng tôi mới nắm được cánh ngôi sao kéo vào vị trí. Ba người lo giữ ngôi sao để tôi leo ra cánh ngôi sao lắp bù – loong siết các cánh ngôi sao cho ôm cứng vào cây thánh giá. Ngày nay đã 30 năm trôi qua, cây thánh giá vẫn đứng vững trong lòng ngôi sao và dang hai cánh đỡ ngôi sao đứng sừng sững giữa khung trời đại học. Đà Lạt, ngày 30 tháng 04 năm 2005 Hương Bình
|
|
mk
|
|
![]() |
|
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
Trích từ :
Nhớ về Đà lạt
|
|
mk
|
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 2 |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |