Phép Xưng Hô
Trần Thành Mỹ
Trên thế giới mỗi ngôn ngữ đều có sắc thái đặc thù riêng, Pháp
hãnh diện về cách dùng "cách, thì" (mode, temps) đa dạng qui định thích
nghi, giống (genre), số (nombre) phân biệt rõ ràng, Anh tính thực dụng
chẳng hạn. Thử so với vài thứ tiếng thường dùng nhất trên thế giới hiện
nay như Anh Pháp Ðức Tây ban Nha, tiếng ta cũng có nhiều điểm nổi bật,
sáng tạo, chuyển thể và dễ hi nhập.
Do ảnh hưởng của hai nền văn minh Âu Á, vì sự trường tồn
"tiếng ta còn, nước ta còn", nhờ cuc cách mạng ngôn ngữ đc nhất ở châu
Á dùng mẫu tự la tinh thay nét chấm phá gạch sổ của chữ Nho, tiếng Việt
chuyển mình thành loại chữ dễ học, đọc, viết hơn. Ðó là chiếc chìa khóa
mở cửa đưa ta gần với các tiếng mạnh văn minh khác, con cháu ta ít ngỡ
ngàng khi học ngoại ngữ gốc la tinh. Tiếng "An nam" càng lúc càng được
cải tiến thành tiếng Việt trau chuốt nhuần nhuyễn, đơn âm có dấu như
những nốt nhạc với âm giai cung bậc nhặt khoan, đơn thuần hay kết hợp,
lúc trầm khi bổng.
Dạng chữ dễ viết, cấu trúc câu không rắc rối, văn phạm ít rườm rà dễ sử
dụng, nhưng đối với người ngoại quốc, càng học tiếng Việt càng thấy quá
phong phú, sâu sắc, tinh tế, đến đ nào đó, họ cảm thấy không bao giờ
hoàn toàn hiểu nổi ý văn. Mỗi từ đều có nghĩa, mt hay nhiều, lại còn
thêm chữ đệm, chữ ghép. Mạo tự Anh "the", Pháp "le, la, les" dịch sang
tiếng Việt thật như lạc vào "mê hồn trận" nào cái, con, sự, việc, môn,
khóa, chiếc, cây, sợi, bao, những, nhiều, ..
Về từ ngữ, không thể bảo tiếng ta nghèo, chẳng hạn chữ "porter" Pháp
được dịch sang là mang, đeo, đi, bận, mặc, bồng, bung, ẫm, khuân, vác,
gánh, v. v....Cũng chữ "noir" đen, ta lại nói mèo mun, chó mực, bò
hóng, mắt huyền, ngựa ô, v., v...
Cách sử dụng quá phân định đó làm người mới học bối rối, con em ta lắm
lúc cũng bị "quay". Chẳng những thế, gốc Hán văn bàng bạc thẩm thấu
trong văn chương làm giàu tiếng ta hơn, do đó, cũng là vấn đề dễ làm
mất hứng cho người lạ muốn cấp tốc hấp thụ nhanh. Tuy nhiên, những
trường hợp nêu trên chỉ áp dụng cho ai muốn trau dồi thấu triệt, chứ
thông thường, nói đơn giản là hiểu được ngay. Thế mà ngày nay, giới trẻ
thường bị ông bà hay chê trách, nào là "vô phép", "bạ đâu nói đó",
không tôn ti trật tự, lễ nghĩa chẳng còn, đạo đức xuống dốc, thường là
vì phạm phải phép xưng hô.
Ðó là lối mở đề cuc giao tế trực diện, lối chào trong phép lịch sự,
pháo đầu trong ván cờ xử thế, khởi điểm của mọi tiếp xúc, liên lạc,
trao đổi tối cần trong việc sống chung. Ðơn cử mt vài thí dụ về ngôi
thứ, như ngôi thứ nhất, thứ hai Pháp "je, me, moi, tu, te, toi", Anh
đơn giản hơn " I, me, you", Tàu " ng, nị" còn tiếng Việt ta sao mà quá
phức tạp, chi li, tuyệt vời ...khó khăn, có mt không hai.
Ni ngôi thứ nhất thôi, ta đã có: tôi, ta, tớ, tao, tui, mình, qua,
người ta, anh, em, thiếp,... xưng bằng tên, đẳng cấp gia đình như ông,
bà, bác, cô,..,giai cấp xả hi, "trẩm", "thần"...
‘’Nhân vật đại danh từ ‘’ còn có thể sử dụng, khi chủ từ lúc túc từ.
Lại có lúc được dùng cả cho hai ngôi như chữ "mình", ví dụ:
Mình (ngôi 1) nói cho mt mình mình (ngôi 2) nghe, mình (ngôì 2) nghe xong mình (ngôi 2) hỏi lại mình (ngôi 1).
Hoặc: Người ta (ng2) nói người ta (ng2) qua nhà người ta (ng1) mà người ta (ng2) không qua.
Hay: Hôm qua Hoa nói Hoa qua nhà qua (ng1) mà Hoa không qua, hôm nay Hoa không nói Hoa qua nhà qua (ng1) mà Hoa lại qua.
Nhớ ngày còn đi học Trung học, trong các lớp hỗn hợp nam nữ, học sinh
thường ít dám gọi đích danh nhau. Gọi bằng anh, chị thì ngại chê già,
khách sáo; gọi tên lại có vẻ cầu thân. Tiến thối lưỡng nan đành...chấm
chấm, ừm ừm, ê ê, ờ ờ,...nói bông lông, ‘nói trống không’, ’nói trổng’:
‘’...Làm ơn tránh qua dùm mt chút đi. Cám ơn. ‘’
hoặc‘’...Nói có vậy mà cũng giận, khó quá.’’
Muốn gợi chuyện làm quen cũng thường ấp úng hay ‘ lửng lơ con cá vàng’:
‘’Hôm qua thấy ...đi chợ, muốn chào mà thấy... như muốn làm lơ nên thôị’’
Vậy đứng trước người đối thoại, ta phải tùy theo quen lạ, vai vế, tuổi
tác, địa vị xã hi mà phát ngôn, thật không dễ đâu, lơ mơ dễ bị "bố
nháng lửa", "mắng vốn", "chọc quệ"
Thêm vào đấy còn bao chuyện buồn cười thoải mái xảy ra như trong các
cuc phiên dịch hay đối thoại với người ngoại quốc nói tiếng Việt.
Người
Pháp chẳng hạn xưng hô thật dễ dàng vì thường trực tiếp gọi nhau bằng
tên, dùng ‘ moi, toi, lui, elle’, Anh ‘ you, me’, Tàu ‘ng, nị’...Người
Việt ta cũng có khi dùng ‘ dao to búa lớn’, ‘ mầy , tao, mi, tớ’, xưng
‘ ông, bà’ với người đối thoại để thóa mạ, cải cọ, gây xích mích, khinh
rẻ, tị hiềm... Trái lại cũng thông dụng không bị chê là ‘mất dạy’ như
trường hợp đặc biệt giữa bạn bè thật thân nhau. Trong gia đình hoặc
quen thuc lâu năm, chỉ có người lớn mới xưng hô với hàng ‘em út’ con
cháu bằng ‘ mầy tao’ thôi.
Người ta có thể ‘ xí xoá’ bỏ qua cho người ngoại quốc chẳng hạn khi họ nói:
‘Chào ông, mầy vẫn mạnh chứ?’
‘ Cho tao hỏi thăm vợ mầy’.
Nhưng thật là ‘hết ý, hết thuốc chữa’ khi mt cậu Việt kiều giới thiệu ý trung nhân mình với gia đình:
‘ Thưa ni, đây là vợ tao. Toa (toi) thấy ‘ểnh’ (elle) dễ thương không?
’
Chẳng những thế, phép nầy vốn đã khúc chiết lại còn đèo thêm cách "nói
tưng", có thể do đọc trại chữ ‘’nói tôn, nói tâng’’, đc đáo ly kỳ hơn
nữa. Con các nhà quyền chức, phú hào thường được người đời gọi " cậu,
cô" dù không họ hàng gì nhau. Hàng xóm láng giềng, quen lạ cũng xưng hô
mt cách thân tình như ông, bà, chú, cô, dì, thím, mợ, cháu, con... khác
hẳn với người phương Tây không phân biệt già trẻ, vai vế. Ví dụ cha gọi
con bằng ‘you, toi, vous’, con thưa cha cũng không khác ‘you, toi,
vous’; cha cũng như con đều tự xưng là ‘I, me’,’ moi’ trong khi ta có
nhiều cách xưng hô: Cha, ba, bố tôi, tao, cậu, thầy, tía,...
Còn nói gì trong các cuc đối thoại thông thường, tùy tình huống hoàn
cảnh mà du di để diễn tả tình cảm của mình với người đối diện, ưa,
ghét, giận, khinh...
Tiếng Việt ta còn thêm vấn đề cữ tên kỵ húy, nhất là miền Nam, chỉ goị
thứ, nên cả xóm làng chỉ có ông hai, bà ba, cô tư, ...do đó cũng gây
sai lệch, lầm lẫn, khó phân biệt ai có bà con ai không, họ hàng gần hay
xa..
Trong gia đình, phẩm trật bên ni ngoại được phân biệt rõ ràng, dù ba
miền có vài điểm chênh lệch. Miền Bắc thường gọi chị của ba hay má là
bác, chồng của cô, dì là chú, bác; trong khi miền Nam gọi chị hay em
gắi của ba đều là cô, của má là dì, chồng của cô dì là dượng. Bên ba có
ông bà ni, bác, chú, cô, dượng, ... bên mẹ có ông bà ngoại, cậu (anh
hay em của mẹ đều gọi là cậu), mợ, dì, dượng ...nên không được sai sót
trong việc xưng hô. Bà con họ hàng, anh chị em rut, anh chị em họ tức
là anh chị em con chú con bác, con cô con cậu, bạn dì cũng phái gọi
nhau đúng phép, theo thứ bậc, vai vế hoặc theo cách ‘nói tưng’.
Theo phép tế nhuyễn nầy, đối với người ‘vai lớn’- như con bác mình
chẳng hạn- mình ‘vai nhỏ’ hơn bắt buc phải gọi theo vai, tức là bằng
anh hay chị không kể vóc dáng hay tuổi đời. Nhưng ngược lại anh chị vai
lớn, như con ông bác, mà nhỏ tuổi hơn vai nhỏ, con ông chú, cũng phải
giữ lễ’ gọi tưng’ lại hàng vai nhỏ. Vai lớn là con trai, tất phải gọi
em họ trai mình là chú, em họ gái mình là cô, có nghĩa là chú em, cô em
, hay nói rõ hơn là chú cô của con mình. Nếu là nữ thì gọi người em họ
trai vai nhỏ bằng cậu, em họ vai nhỏ gái là dì
Trong đại gia đình và cả ngoài xã hi, phép xưng hô nói chung và đặc
biệt kiểu ‘nói tưng’ khá rắc rối, phức tạp trên luôn được áp dụng phổ
quát cho mọi tầng lớp thế hệ trước sau, cũng cùng qui ước ni ngoại, nam
nữ, vai vế, tuổi tác rõ ràng, minh định tôn ti dòng họ, nếp sống lễ
giáo truyền thống của dân ta.
Ngoài ra cũng có vài từ ngoại lệ như chữ ‘thầy’ thường dùng trước kia.
Ðây không phải là từ chỉ dùng riêng cho ngành dạy học, thầy giáo, cũng
không phải như nhiều địa phương gọi ba là ‘thầy’mà dành chung cho tất
cả những ai có học đi làm như thầy thông, thầy ký, v.v. Trong bài diễn
văn, cuc đối thoại hay thư từ, chữ ‘monsieur’ chẳng hạn cũng được danh
xưng phiên dịch bằng nhiều cách thích ứng với hoàn cảnh như ‘ông, bác,
chú, cậu, ngài...
<
Thật ra tiếng Việt ta, nghĩ cho cùng , thật uyển chuyển, đa dụng, thâm
sâu, bao quát mà chi tiết, chính xác lại cầu kỳ, dễ thích ứng quyền
biến nhưng vẫn giữ nét đặc trưng, nếp đc đáo văn minh riêng mà phép
xưng hô là mật khẩu, ấn chỉ tiêu biểu nhất .
Cũng có thể chính nhờ truyền thống huyền diệu nầy mà qua bao nhiêu
thăng trầm biến đổi, Việt nam ta còn giữ vững được tên. Cách gọi nhau
thân thương như rut thịt, anh em chú bác cô dì,... quả là sợi giây
huyết thống vô hình ràng buc những đứa con vào lòng đất mẹ, hướng về
nguồn ci tổ tiên chung, luôn nhắc ta cùng là con cháu của bọc trăm
trứng Lạc Hồng, dòng dõi Rồng Tiên.
Trần Thành Mỹ