Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: NHÓM 12 YÊU THƯƠNG Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 160 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 04/May/2010 lúc 4:55am

Tiểu Tử VõHoài Nam

 

 

 

Tiểu sử :

Họ tên : Võ Hoài Nam
Sanh : 1930
Nguyên quán : Gò Dầu Hạ ( Tây Ninh )
Bút hiệu : Tiểu Tử

- Tốt nghiệp trường Kỹ sư Marseille năm 1955.
- Dạy lý hoá trung học Pétrus Ký : 1955/1956.
- Làm việc cho hãng dầu SHELL Việt Nam từ năm 1956 đến 30/04/1975.
- Vượt biên cuối năm 1978. Ðịnh cư ở Pháp từ đầu năm 1979 đến nay.
- Làm việc cho hãng đường mía của Nhà nước Côte d' Ivoire ( Phi Châu ) :
1979/ 1982.
- Làm việc cho hãng dầu SHELL Côte d' Ivoire từ năm 1982 đến 1991, về hưu ở Pháp.
- Trước 1975, giữ mục biếm văn " Trò Ðời " của nhựt báo Tiến.
- Bắt đầu viết truyện ngắn khi lưu vong qua Côte d'Ivoire.
- Tập truyện " Những Mảnh Vụn " ( Làng Văn Toronto xuất bản ) là tập truyện đầu tay.

hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 05/May/2010 lúc 9:15am
Hai Tờ Vé Số Buộc Dây Thun


" - Chú ơi! ...Con còn hai tờ số này thôi, mua dùm cho con đi chú! ... Gần tới giờ xổ rồi, mua dùm con ..."
" - Cái con ranh con này! Mày dám xạo với tao hả ...? Khi nãy ở bùng binh trên kia mày cũng nói vậy, tao mua cho mày rồi ...?! Mày cũng nói mày còn hai tờ! Sao giờ đụng mặt tao nữa mà mày cũng dám nói với tao là mày còn hai tờ nữa hả?! Mày dám qua mặt tao hả ?! Tao đập cho chết giờ! Con ranh con, ai dạy mày đi láo với tao hả ? Cha mẹ mày dạy mày đi gạt người ta vậy hả ...??!!"
" - Chú ơi ... Con xin lỗi ... Không phải ba mẹ con dạy con nói ..."
"- Không phải ba mẹ mày hả, con ranh con nứt mắt! Mày tính gạt tao nữa hả?! Cút mẹ mày đi không tao đập cho mày nát kiếng, lòi mắt mày ra nghen con .... chết không thấy mặt ba má nghe con..!"
" - Chú ơi ...."
" - Con mất dạy ... Còn dám đứng đây nữa hả ... Cút mau hong ... Tao táng cho mày chết ..."
" - Chú ...."
***
Những ngày tháng đầu tiên sau khi chúng thả Ba tôi từ trại cải tạo về, nhà tôi đang túng quẫn không lối thoát. Nhà không có gì để bán nữa, tư trang Bà ngoại dúi cho cũng đã đội nón đi hết sau nhiều năm tháng đi "thăm nuôi" Ba tôi; và khi không còn tiền để sống và thực sự không còn tí gì để đi thăm nuôi Ba tôi thêm lần nữa, Mạ tôi đành phải dắt chị em nhà tôi rời xa Phan Thiết, về Long Xuyên nơi có ông bà ngoại đang ở cùng cậu anh của Mạ tôi. Mấy năm dài lây lất chờ Ba tôi về dài hơn bao giờ hết ... Cả đời từng đứng trên bục giảng - dạy học trò văn chương theo từng áng văn, từng ý thơ Đường - có bao giờ ai ngờ được bàn tay cầm phấn đó của Mạ tôi ... phải cầm cuốc và gánh nước trồng từng luống khoai, hàng bắp, đậu phụng, ... ở Phan Thiết, và khi về Long Xuyên phải tiếp tục lăn ra chợ kiếm sống nuôi con. Mạ tôi chạy ngược chạy xuôi xin được một việc làm Giáo vụ trong trường Trung học Y tế LX; Cái "chân" đó để được yên thân, cho công an khu vực ít làm khó dễ, vì những đồng lương chết đói đó không nuôi nổi mấy mẹ con.
Tủ thuốc lá nhỏ mẹ con nhà tôi ngồi bán lẻ đêm đêm nơi góc đường Đức Ký và Trưng Vương - có được nhờ mượn ít tiền từ một người bạn tốt bụng để sắm và đi mua "gối đầu" từ chú Lợi bán thuốc lá ngoài chợ - không đủ đắp đổi cho gia đình sáu miệng ăn có bốn đứa con đang lớn và đi học với bao nhiêu là tốn kém.
Ba tôi, như con hổ sa cơ, có tài mà nay không thể dùng tài để lo cho vợ con mình. Hai bàn tay tài hoa - ngày xưa từng cầm dao giải phẫu giúp cứu sống bao nhiêu người, bao nhiêu thương bệnh binh Việt Nam Cộng Hòa - đã bị Cộng Sản đày đọa làm việc khổ sai trên rừng rú bao nhiêu năm trở thành sứt sẹo, tan nát và nấm ăn hư mất mấy móng. "Thả" cho Ba tôi về với căn bệnh phù thủng, chúng tống thêm giấy "quản chế" giam lỏng thêm mấy năm nữa - hằng tháng phải đi "trình diện" ở đồn công an thị xã. Chúng không cho Ba tôi trở lại hành nghề Bác sĩ, không cho làm việc ở bệnh viện hay bất cứ phòng y tế nào, dù đi gõ bao nhiêu cửa, viết bao nhiêu "đơn xin" cũng vô vọng. Tất cả chỉ vì Ba tôi đã vừa là Bác sĩ y khoa giải phẫu, mà lại vừa là sĩ quan VNCH, nên ... "có quá nhiều thành tích "nợ máu với nhân dân""!
Không đành lòng nhìn vợ con đói khổ, Ba tôi tìm đủ mọi cách xoay sở. Có một người quen của Ba Mạ tôi lúc xưa làm cô giáo mà nay đi bán vé số chỉ cho, Ba tôi hì hục đóng một cái bàn nhỏ với tấm mốp gắn mười mấy cây đinh, và bàn với Mạ tôi bày bàn bán vé số ban ngày phụ thêm xem sao.
Vé số mỗi ngày xổ số của hai tỉnh lúc 4 giờ và 4 giờ rưỡi chiều. Người bán vé số lấy vé từ các "đại lý vé số" - các "đầu nậu" vé - từ một hai buổi chiều hôm trước cho các vé của ngày hôm sau xổ, và phải bán làm sao cho hết mới có tí tiền lời ra. Nếu không bán hết chiều đó thì phải đem trả lại cho đại lý trước 3 giờ rưỡi chiều để lấy tiền vốn lại, nếu không là phải "ôm" lỗ hết mà cụt vốn. May nhờ có cô bạn đó giới thiệu và bảo lãnh, một ông chủ đại lý vé số tốt bụng cho Ba tôi lấy cọc vé bán không phải trả trước hay đặt tiền cọc thế chân, mà ổng cho phép lấy vé bán xong rồi trả lại tiền vốn chiều hôm sau. Ổng giao hẹn và dặn đi dặn lại rằng nếu còn vé không bán hết, bắt buộc phải đem trả lại ổng trước 3 giờ rưỡi chiều.

Ngày đầu tiên, "ra hàng" đi bán vé số. Ba tôi buộc gác lên chiếc xe đạp cái bàn tự chế, thêm cái ghế, và chở ra góc đường Trưng Vương gần ngã tư với Khán đài, và để xuống sắp đặt gần bên nơi cô bạn của ba mạ tôi đang ngồi bán, và hơi xa xa bàn của một bà hơi già già đen đen có gương mặt dữ dằn. Chị em tôi đi bộ theo sau, ngồi chờ giữ bàn của cô bạn kia và của nhà tôi, trong khi cô dẫn Ba tôi đi nhận vé số đem về. Thời gian xóa nhòa, nên tôi không còn nhớ nổi ngày đầu tiên Ba tôi nhận bao nhiêu vé, nhưng chỉ nhớ rằng ... nhiều lắm, rải ra đầy kín cái bàn mốp tự chế của Ba tôi. Ngoài đường gió nhiều vì luồng xe ngược xuôi, nên những hàng đinh Ba tôi đóng trên bàn mốp không đủ sức giữ những tờ vé số, chúng cứ bay lật phật như muốn bung rách bay mất . Ngó qua bàn số của người ta, và cuối cùng chịu nghe lời góp ý của trong nhà ... Ba tôi biểu Chị tôi chạy đi mua một bọc dây thun nhỏ về để thắt thành dây, buộc nhiều vòng xung quanh bàn giữ cho các tờ vé số nằm yên không bay nữa.
Sáng hôm đó, có anh chị tôi ngồi giúp chào mời, nhưng đến trưa anh chị tôi phải về ăn cơm rồi đi học, nên chỉ còn tôi - may vì cô giáo tôi đi họp nên tôi được nghỉ học - ngồi bán phụ với Ba tôi .
Cha con tôi ngồi chào mời khách đi đường chạy xe đạp, xe Honda và đi bộ ngang mua dùm vé số, và chịu đựng những cái liếc xéo, nói xa nói gần cạnh khóe của một bà bán vé số gần đó. Có lẽ vì bà tức tối thấy ngày đầu tiên cha con tôi ra bán lại để gần bàn của bà vậy là "giành mối" của bả. Từ sáng đến trưa, cha con nhà tôi chỉ bán được một mớ vé. Có mấy người quen biết của gia đình chạy xe ngang thấy được, thương tình ghé vô mua dùm cho vài vé "lấy hên". Bà bán vé số già già đó cứ thấy vậy là lại mở đài ngoa ngoắt tiếp. Cô bạn bán kề bên an ủi, nói nhỏ với cha con tôi, "Kệ bả đi, đừng nghe bả nói ... Bả mỏi miệng cái bả im hà ..."
Đã quá trưa, sang chiều nên nắng rọi gắt, dù cha con nhà tôi phải dời lui bàn vé số về sát mái hiên nhà người ta nhưng vẫn không ăn thua gì cả. Hai cha con ăn cơm nguội với cá kho Mạ bới ở nhà cho mang theo. Trên bàn số của cha con tôi vẫn còn hơn một nửa số vé mua lúc đầu. Mặt Ba tôi cũng vã mồ hôi, có lẽ vì nóng thì ít mà vì lo nhiều hơn. Chồng và con của cô bạn kề bên chạy đi chạy về giúp bán lao xao. Chắc nhìn sang cha con tôi thấy tội quá, cô kêu tôi sang, lấy mấy sợi dây thun lẻ ràng vô cổ tay tôi, và chỉ vẽ:
"Con cầm cọc số chạy đi bán đi con, chiều gần tới giờ rồi. Nhưng mà con lận lưng mớ kia ...Con đừng đưa ra nguyên cọc khó bán ... Lấy 1 sợi cột 2 vé thôi, chạy đi mời người ta, nói là con còn 2 vé này thôi ... cột như vầy nè ...Con bán được 2 vé thì cất tiền đi, lấy 1 sợi trên tay con cột thêm 2 tờ khác rồi chạy mời tiếp ..."
Tôi nghe lời cô, chào Ba tôi rồi cầm xấp 10 vé nhét lận vô túi lưng quần, cài kim băng, cầm thêm 2 vé cột lại rồi chạy đi ... Từ chỗ cha con tôi bán, tôi vừa đi vừa chạy ... ghé vô năn nỉ bán 2 tờ số ở mấy tiệm sửa tivi, sửa đồng hồ dọc bên hông mé phải của khán đài ... chạy xuôi xuống mé chợ nơi mấy hàng bán trái cây, sinh tố ... qua mấy hàng giày dép, thuốc tây mé bên kia khán đài ... Đến chỗ trước mặt khán đài thì tôi đã bán hết được số vé tôi mang theo, nên hớt hơ hớt hải chạy ngược về lại chỗ Ba tôi ngồi.
" - ... Bé ... Bé ...! Sao con? Bán được không con ...?"
" - ... ... Để con uống nước ... [ ực ... ực ...] ... Con bán hết rồi Ba à ...! Tiền nè Ba cất dùm con ... Nãy giờ bán được không Ba? ... Mình còn bao nhiêu vé nữa Ba? ..."
" - Ba bán được thêm mấy vé. Mình còn hơn 40 vé con à ..."
" - Mấy giờ rồi Ba?"
" - Hơn hai giờ rồi con ..."
" - Vậy Ba đưa con 10 vé con chạy nữa ... Ba ngồi đây nghe ..."
" - Ừ ... ừ ... Con chạy cẩn thận ... coi chừng xe! ... Bé ...."

Tiếng Ba tôi chìm khuất lẫn trong tiếng ồn của dòng xe, vì tôi đã chạy xa mất rồi. Lần này tôi vừa đi vừa chạy vì lo bán không kịp. Tôi đi bán ngược lên hướng bùng binh trước "Mũi Tàu" ... ngang thư viện, bưu điện thị xã, qua mấy tiệm chụp hình mé trên Công trường Trưng Vương ... Nơi trước bùng binh hướng vô nhà lồng chợ vải là bãi đậu gởi xe, và góc trống để mấy ông chạy xe lôi tụ về đón khách đi chợ mướn chở đồ, chở người về nhà. Những gương mặt già có, trẻ có, nhưng tất cả đều đội những chiếc mũ lưỡi trai sờn mép, đen đúa, không che khuất được những gương mặt dãi dầu nắng gió, lam lũ vì mưu sinh. Tôi len lỏi chen vô, mời từ ông này qua ông khác, cũng ngại ngần sợ nên chỉ dám mời mọc kèo nài ông nào tôi thấy mặt có vẻ "hiền hiền" 2 tờ vé số trên tay. Có người rộng rãi mua ngay không cần coi số vé, có người cầm cầm coi rồi lắc đầu không mua, và cũng có người lắc đầu lạnh lùng ngó đi hướng khác, dù tôi kèo nài năn nỉ thiếu điều muốn khóc. Âu thì người ta cũng kiếm sống cực nhọc, chạy xe lôi kiếm đồng tiền đổ mồ hôi nước mắt nuôi gia đình, nên đâu có dễ dãi mua vé số dùm cho tôi được. Cứ bán được 1 cặp, tôi lại chạy vô một xó, nhét tiền vô túi cho kỹ, và lôi ra 2 vé số khác - buộc vòng dây thun lại rồi cầm chạy ra mời tiếp người khác ở cách đó xa xa một tí. Xe chạy vô ra như mắc cửi, vì vội quáng quàng lo nài nỉ bán nên mấy lần tôi mém bị xe lôi ủi cho. Chạy cũng không tránh được tiếng chửi với theo, "...mầy lọt tròng rồi hả ...?", "... Đui hả? ... muốn chết hả con?!"

Cứ lần hồi bán từng cặp 2 tờ vé số cột dây thun như vậy, tôi bán hết mớ 10 vé mang theo. Như vậy là đã chạy được 20 vé. Tôi chạy về lại chỗ Ba tôi, đã 2 giờ 45 chiều ... Đôi dép nhựa nứt quai, hôm trước tôi may hàn lại bằng cách đục lỗ rồi xâu chỉ, chắc chạy nhiều nên giờ bung chỉ ra. Tôi uống thêm nước lạnh cho bớt nóng, dúi tiền người ta trả vô tay Ba tôi, cầm 10 vé, mang thêm mấy sợi dây thun vô cổ tay, rồi chạy thêm vòng nữa - hướng gần rạp hát Minh Hiển vòng ngược bên kia của công trường Trưng Vương. Lần này thì chân đã mỏi lắm rồi, nên đi thôi chứ không chạy nổi nữa. Hỏi thăm 1 ông có mang đồng hồ trên tay, ... ba giờ 5 phút rồi! Tôi cầm cặp vé, mời hú họa từ mấy ông chạy xe đạp ôm, xe Honda ôm, sang mấy ông chạy xe lôi đang nghỉ chân hút thuốc trong bóng mát. Bán lần hồi, tôi còn đúng 1 cặp vé mà thôi. Lần này, run rủi trời xui đất khiến làm sao mà tôi mời trúng một ông chạy xe lôi đã mua dùm tôi cặp vé số trên kia, lúc ổng đậu trên mé bùng binh ....
...
... Những lời chửi rủa tuôn ra như muối xát vào mặt. Tôi cắm đầu chạy trốn ngược về bên kia khán đài, nhưng những lời rủa mắng đó vẫn theo văng vẳng bên tai ... Tôi khóc như mưa, nước mắt trào ra mờ cặp mắt kiếng to đùng quá khổ đeo trên mũi mà Mạ tôi mua cho tôi mang để thấy đường đi học và đọc chữ cô viết trên bảng. Tôi khóc cho sự oan ức, cho sự tủi nhục phải nghe người ta chửi đến cả cha mẹ mình, mà mình không thể nào trần tình được. Chùi ướt hai ống tay áo, hai vạt áo đàng trước đã ướt đầy nước mắt, tôi quẹt ướt luôn hai tờ vé số gần như dúm dó. Lê đôi dép đi tiếp, nhưng tôi không muốn quay về nơi Ba tôi đang ngồi, tôi không muốn Ba tôi nhìn thấy tôi ngay lúc này ... Và vì tôi vẫn còn 2 tờ vé số buộc vòng thun này. Có một ông già chạy xe đạp ôm đang núp nắng kế bên xe bán nước ngọt bên hông khán đài, chắc thấy gương mặt tèm lem nước mắt mếu máo mời vé số của tôi nhìn tội quá, nên mua dùm tôi cặp vé số ướt ngay khi tôi mời. Có lẽ, tôi giống đứa con gái út của ông, hay đứa cháu gái nhỏ đang ở nhà chờ ông ... Ông lật mũ lưỡi trai, cẩn thận xếp hai tờ vé số vô đó sau khi đưa tiền cho tôi, cầm vé số từ tay tôi, và ... trả lại tôi vòng dây thun. Tôi chỉ còn đủ sức lí nhí lời cảm ơn ông.

Tôi xin chị bán nước ngọt cho nửa ly nước lạnh, uống một hớp rồi dốc nước rửa cái mặt của tôi, xoa xoa mong cho bớt sưng cặp mắt. Chị bán nước ngọt rủa yêu, "Tao cho mầy uống cho đã khát, sao mầy đi rửa mặt, tốn nước tao ... mậy!" Tôi chỉ dám nhìn chị cười hơi mếu, thầm xin lỗi. Vuốt lại mái tóc ngắn lòi ra dưới nón nay chắc đã khét lẹt mùi nắng, tôi lê dép đi về hướng "sạp vé" của Ba tôi.
Không biết "ở nhà" Ba tôi có bán thêm được vé nào không? Có trả lại được vé không, hay là phải ôm vé hôm nay? Khi nãy ông già chạy xe ôm cho coi giờ, cái đồng hồ điện tử trên tay ổng chỉ 3 giờ 20 phút rồi ....
" - Bé ...! Bé ...! Con bán được hết chưa? ... Ba bán được thêm một mớ, còn mấy vé nữa cô N. [cô bạn bán kề bên] đem trả cho ông H. dùm Ba rồi! ... "
Thấy tôi từ đàng xa, Ba tôi đã mừng rỡ nói một hơi. Tôi kéo cái nón cho nó xuống thấp hơn một tí, nói nhanh,
" - Con bán hết rồi Ba! Tiền nè Ba!"
Tôi moi hết túi và dúi vội vô tay Ba tôi nắm tiền lẻ nhàu nát.
" - Bé..! Con sao vậy, sao mặt mũi con đỏ vậy ...?"
" - À ... Chắc con đi nắng nãy giờ ... mà ngoài đường bụi quá, con chà ..."
" - Thôi! Bé con đi về tắm rửa thay quần áo rồi nghỉ trước đi! Ba chờ xổ số xong tí nữa Ba chở đồ về ..."
" - ...Dạ!"
Tôi chỉ chờ có vậy. Tôi quay đi nhanh, nên chắc Ba tôi không thấy mặt tôi đâu. Lê đôi dép gần đứt đi hướng về ngã tư Đức Ký, về đến nhà, chỉ còn đủ sức ngã lăn trên giường, tôi thiếp đi không còn biết gì nữa ...
Hôm đó, cha con nhà tôi bán vé số không bị lỗ mất tiền.
Năm ấy, tôi lên mười tuổi.
***
Hơn hai mươi lăm năm, không ... gần ba mươi năm đã qua rồi. Ba tôi nay đã già, chắc chỉ còn nhớ mang máng rằng có những ngày nhà mình đi bán vé số. Và Ba tôi không biết chuyện tôi gặp ngoài đường hôm đó, vì tôi không kể lại cho ai trong gia đình tôi biết cả. Tôi đã quên không nhìn để nhớ lấy gương mặt ông già ân nhân đã mua dùm tôi hai tờ vé số cuối cùng trên tay tôi. Vòng dây thun buộc những tờ vé số ấy mà ông trả lại cho, tôi đã để lại bên kia Thái Bình Dương. Những vòng dây thun thuở ấy rộng hơn cổ tay tôi, cũng đã thuộc về miền quá khứ. Những giọt nước mắt oán hờn, tủi nhục ngày ấy cũng đã khô theo miền nắng gió.
Nhưng những lời chửi rủa từ ông chạy xe lôi, tôi vẫn không thể nào quên được! Như vết hằn trên cổ tay từ cọng dây thun cột rau quả mua từ siêu thị về - mà giờ đây tôi theo thói quen vẫn gỡ ra, tròng vô tay rồi "để dành" có khi cần tới ...
Những khi nhớ lại chuyện xưa, nhớ về những ngày ngày tháng cũ, như một cuốn phim quay chậm, nó lại trở về ...
Ba Mạ tôi cho tôi ra đời, nuôi dạy và cầu mong tôi lớn lên thành người ngay thật và sống đời công chính. Vì miếng cơm manh áo, vì nghèo khó khốn cùng, người ta dạy cho tôi biết dối trá để bán cho được chỉ mấy tờ vé số trên tay, dù chỉ được vài xu tiền lời. Và cái giá tôi phải trả, không chỉ là những giọt nước mắt rơi, hay là đong đầy tai những lời chửi rủa không chỉ riêng tôi cùng lời rủa lây cả Ba Mạ tôi mà thôi.

Bây giờ, nhiều lần, khi nhớ lại chuyện xưa, tôi ước tôi có thể gặp lại ông già chạy xe lôi đã giận dữ mắng tôi ngày ấy. Để tôi có cơ hội nói lời xin lỗi ông. Rằng tôi không oán ông. Và tôi sẽ trả lại ông món tiền ông đã mua dùm cặp vé số buộc dây thun nơi bùng binh ngày xưa, mua cho ông một mớ số khác để ông dò số cho vui, và giúp ông thêm một số tiền nhỏ cho lúc tuổi già .
Nhưng ... Ai có thể trả lại cho tôi những ngày tháng hồn nhiên của tuổi lên mười? Ai đã cướp mất những tháng năm vàng ngọc quý giá của Ba Mạ tôi, của gia đình tôi?
Và những giọt nước mắt của tôi ngày xưa, và của bây giờ mỗi khi nhớ về, làm sao hốt lại ...?
Tóc Huyền


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 05/May/2010 lúc 10:25am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 06/May/2010 lúc 10:40am
Tâm tình...
.... Mẹ chồng tôi qua đời năm bà 72 tuổi , khi mất , bà đã iếu đi nhiều , vì bịnh hoạn nhiều năm , nhưng bà vẩn còn rất đẹp , một nét đẹp quí phái . Lúc trở bịnh đưa vào nhà thương , rồi ở luôn trong đó cho đến lúc nhắm mắt , một chuyền đi vĩnh viễn , không về , Bà chưa một lần tỉnh lại , vào thăm mấy lần , nhìn bà thiêm thiếp trên giường bịnh . Tôi thấy bà iếu đuối ,cô đơn và đáng thương làm sao…!
Ngày cuối ở nhà quàng , chuẩn bị đưa bà ra nghĩa trang , con cháu về đông đủ , không khí buồn , nhưng đầy ấm áp .. Trong số nhiều người viếng , Có người đàn ông đã rất già , ngồi bất động không nói năng , đôi mắt buồn mênh mông , nhìn đăm đăm vào khoảng không trước mặt .., nghe nói đó là cố nhân của Mẹ tôi , người đàn ông mà 60 năm về trước , đã đi hỏi cưới mẹ tôi nhưng bị gia đình Ông nội tôi từ chối ( ? ) .



Thất lạc nhau bao nhiêu năm , ai cũng có gia đình riêng , và tất bật với cuộc sống … Để đến khi có dịp gặp lại , là lúc mẹ tôi đã rơi vào hôn mê , không hề biết có người đàn ông đã gần bát tuần , chống gậy , một mình đón xe bus , mò mẩm chuyển bao nhiêu trạm , mới tới được bệnh viện , chỉ để ngồi nhiều ngày bên mẹ tôi , người đã hôn mê , thiêm thiếp trên giường bệnh , và … đã không bao giờ còn nhận ra ông là ai nữa !? .

Đời người , mấy ai được trọn vẹn mối tình đầu , được đi đến chung cuộc ??. Nhiều đêm , cô độc trong bóng đêm , ngắm sao trời , bên ly café đen có mùi vị thơm đắng , tôi bùi ngùi tìm về những năm tháng cũ , kỹ niệm luôn là một giất mơ đẹp … có chứa nhiều thứ , tuy đơn giản mà tưỡng chừng không thể tìm thấy ở hiện thực ....

.... Đã gần 20 năm trôi qua , nhưng câu chuyện tình cũa mẹ chồng này thỉnh thoảng vẩn hiện về trong trí nhớ . Tôi iêu mối chân tình của người đàn ông này , dù chưa bao giờ có dịp nói chuyện với ông , hay hỏi rõ câu chuyện , nhưng hình ãnh của ông trong phút cuối của mẹ tôi , đã nói cho tôi biết tình yêu ông dành cho mẹ là .... mênh mông tới dường nào …

.. Sáng nay ngũ dậy , khoát áo ra thăm mấy lô cải xanh mới gieo hột sau vườn , tình cờ phát giác tuyết đang rơi . Houston có tuyết thì quả là chuyện lạ , tôi thích quá cứ đứng sau vườn ngẩn mặt mà hứng tuyết , từng bông tuyết trắng bay lăng quăng , gió se se lạnh , đẹp và buồn . Tối qua nhận được mail cũa một cố nhân , " .. Em khoẻ không ??? ...đã nhiều năm không gặp " , .... ( hay không dám gặp đúng hơn ,) gặp sao được khi biết tình cãm họ dành cho mình còn quá sâu đậm , trong khi ai cũng đã có những lối riêng biệt để đi về . Sông đời đã rẽ nhánh ra đại dương , tiếc làm chi cánh lục bình vướng chân nơi rạch củ ??...

Bao nhiêu năm đã qua , tôi không bao giờ liên lạc , nhưng bất cứ tôi dọn nhà đi đâu , hay có những biến cố nào ở địa phương tôi ở , người ấy đều gọi điện thoại thăm hỏi , ( do điều tra từ .. chị , em hoặc anh rể của tôi mà có số phone , và tin tức của tôi ) , lúc đầu tôi hơi bị xốc vì ngạc nhiên , nhưng lâu dần tôi cảm động khi khám phá ra rằng , sau bao nhiêu năm , tôi vẫn là một tình iêu lớn trong lòng người ấy . Tuy không bao giờ lộ vẽ ân cần , hay đúng ra , biểu hiện của tôi cực kỳ lãnh đạm mổi khi nhận được phone , nhưng tôi biết , lòng tôi , luôn mang ơn mối tình này , chỉ là 4 tháng ngắn ngủi ở trại tỵ nạn Tân gia ba ..chuyện từ 30 năm về trước , năm tôi 19 tuổi . Tôi đã quên lâu rồi ... sao anh vẫn nhớ ??.

Mấy lúc sau này , thỉnh thoãng phone reo , thấy số điện thoại của anh hiện lên , là tôi không trả lời . Mail của anh nhận được , năm thì , mười thuở mới reply lại , cũng chỉ vài lời cảm ơn hờ hững nhạt nhoà , vậy mà anh vẩn không nản lòng ???... Tình iêu thật khó giải thích ???

Năm rồi , tôi bị một cơn bịnh nặng , nằm trên giường , nhớ tới mẹ chồng tôi , nhớ tới người đàn ông 80 tuổi bên cạnh bà lúc lâm chung ( bố chồng tôi mất trước đó đã lâu rồi ) tôi chợt nghĩ tới anh , lòng thầm nhủ : sau này , mình phải để lại di chúc cho con mới được , sẽ có đoạn là ..": Khi mẹ chết , con nhớ báo tin cho những người sau đây ....". Tôi nghỉ lúc sống , mình không đáp lại được tình anh , thì lúc tôi chết anh cũng có quyền được biết , vậy mới công bằng ! , Thôi thì ...

.... Tóc mai sợi vắn sợi dài ,

Lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm

AX-09
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 07/May/2010 lúc 1:08pm
Hoa Thạch Thão  <<xin bấm vào - View: 703 Phạm Phi Long


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 07/May/2010 lúc 1:28pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23952
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 08/May/2010 lúc 8:17am

Lời cho má
NGUYỄN NGỌC TƯ

 

Bây giờ không biết đã mấy mùa tôm rồi tôi trở thành một đứa - con - hàng - xóm. Bao lâu rồi con không còn lẽo đẽo theo gót má để chia chút dãi dầu, hả má ơi? Bao lâu rồi má không còn dịp để dạy con hiểu được ý nghĩa của giọt mồ hôi rơi xuống…

Má tôi là nông dân, suốt quãng thời gian cầm bút, mỗi khi tôi viết về người nông dân tôi lại nghĩ tới má. Trong tôi hiện lên đôi bàn chân ngắn, bè ra vững chãi, những cái móng chân khắng phèn, dày, đầy xơ. Một khuôn mặt sạm đen nữa đêm thao thức, nghe gió về lo lúa đang trổ ngoài đồng bị lem lép hạt. Một mái tóc bạc trắng, những sợi tóc sâu loăn quăn mọc trên đỉnh đầu, đám con cháu hăm he nhổ hoài mà chưa có ngày nào má thảnh thơi. Một dáng người chắc đậm tong tả đội rau đi chợ trong sương sớm. Một đôi tay cục mịch với những đốt xương thô mà sàng gạo như múa trong trưa vắng. Một bóng người sương khói ngồi tan nồi đất, cái mùi cám khét ngọt, nghe nỗi nhớ quê dậy động trong lòng.

Không có gì khác đâu, cũng như mọi bà má quê khác, má tôi cũng hiền lành, tháo vát, giỏi giang... má tôi cũng có những đứa con không bao giờ nhớ tuổi má, không bao giờ nhớ thời thanh xuân của má. Nhưng má không buồn, chỉ buồn khi tôi về, ngồi than bên bậc cửa, làm cái nghề viết văn cô độc, cực khổ quá má ơi, má tôi lặng lẽ buồn hiu. Buồn vì không hiểu văn chương, không thể dìu dắt, nâng đỡ tôi trên con đường nhọc nhằn đó, nhưng má không hay rằng má giúp tôi nhiều lắm.

Bảy tuổi, má dạy tôi trồng rau, tưới rẫy. Tôi lon ton đi chặt cây, kiếm sậy về cho má làm giàn cho dưa leo, mướp, đậu rồng. Những buổi chiều còn nắng, má xới đất, lên giồng, tôi lấy dao phay băm cho đất tơi ra để kịp lúc ba đi làm về gieo hạt cải. Ba má quẩy tưới thùng to, tôi nơ thùng nhỏ, nước sánh ra ướt đầm đìa. Tôi biết chổng mông ngồi rửa rau cần, ngò gai ở cầu ao cho má bó từng lọn nhỏ, tay tôi mới bợt bạt một chút má đã xót xa, kẽ tay má đầy những mảng nước ăn, đau nhức tới từng đốt xương sao má không than hả má. Nửa khuya ra chợ, tôi xách cái giỏ nhỏ chỉ đựng ghế ngồi với mấy cái bao trãi để bày hàng, má đội thúng ngò, má cứ hỏi có lạnh lắm hôn con, gió bấc thì cứ hiu hắt cắt da, nước từ cái thúng đội đầu cứ nhỏ long tong xuống đôi vai má. Khi đó tôi không hề biết hỏi, má ơi má có lạnh không, mà, chỉ câu nói của tôi, má ấm lòng biết chừng nào.

Năm tôi mười tuổi, cả xóm rủ nhau làm nấm mèo. Má cũng cố làm thêm lúc nông nhàn để tăng thu nhập.. Sau mỗi buổi học, mấy anh em tôi với má bơi xuồng đi hàng năm ba cây số mua so đũa. Anh tôi đốn, róc cành xong, hai má con tôi vác xuống xuồng, sợ phía tôi nặng, má gánh tới nữa thân cây, tôi chỉ te tái vịn hờ một đầu còn lại mà tưởng mình mạnh giỏi, cái cây bự chảng vầy sao mà vác nhẹ hẩng nhẹ hơ. Đường về nhà phải qua con đập, thường là quăng cây lên để kéo xuồng qua, những lúc mưa nhiều, đập xã, nước từ trong kinh tràn ra như thác, nước cứ lăm lăm nhấn chìm chiếc xuồng khẳm lừ tìm cách đi ngược vào. Má chống chỏi đằng lái, tôi nhảy ào xuống nước nắm mũi xuống kéo đi, qua đập, ướt như con chuột, má khen tôi giỏi mà sao nước mắt má rươm rướm vậy.

Làm nấm mèo cực nhất là lúc vô mùa, phải cưa cây thành khúc, đóng lổ, vô meo… cũng không lâu nhưng đủ để vai má tôi cấn hằn những cái rảnh sâu sần như vỏ cây so đũa, đủ để mấy đầu ngón tay ám mủ và bàn tay cầm búa chai rộp lên…

Coi lại, hồi nào tới giờ, nhà tôi làm nghề gì cũng cực thấu trời thấu đất, làm gì cũng nặng nhọc, cũng có thể đong mồ hôi bằng khạp, bằng lu. Mà, dù có làm gì thì má tôi cũng là người gánh chịu nhọc nhằn hơn hết thảy, ba tôi chỉ hụ hợ chút việc mỗi khi tan sở, má không buồn, má nói, ổng đi làm cách mạng mà. Tôi mười bảy tuổi, thôi học, theo má bán gạo, cám. Ngày nào má cũng bơi một hai xuồng gạo từ máy chà chở len lỏi theo dòng kinh dày những cây cầu khỉ để mang gạo bán tận nhà người ta. Tôi ngồi đằng mũi, qua cầu cao thì lấy trớn đẩy cho xuồng đi nhanh, cầu thấp lè tè không quá mũi xuồng, không đi được tôi giở cầu cho má bơi. Tôi học từ má, rằng gạo Một Bụi dài, thon, óng ả, gạo Tiên Lùn hạt ngắn, đục như nếp, bầu bĩnh, gạo Nàng Gáo tròn vo, cụt lủn, no căng… Gạo càng trong càng cứng, khô cơm, gạo đục, có ngòi là cơm mềm cơm dẻo… Lăn lóc với bụi cám, tôi nghiện luôn cái mùi thơm nồng nàn đó. Má nói rằng, mùi gạo đầu mùa khác mùi gạo cuối mùa, mùi gạo trắng khác với mùi gạo lức, và cho tới bây giờ, mỗi khi bưng chén cơm, tôi lại nhớ cái vị béo ngầy ngậy, ngọt ngào tinh khiết của gạo sống.

Bán gạo cũng có cái cực trần ai khoai củ của nghề bán gạo nhưng má tôi gắn bó với nghề rất lâu, chắc vì nó gần gủi với hạt lúa, cánh đồng, nơi cả đời nông dân má tôi dầm dãi. Tôi còn nhớ như in những mùa hạn, nước dưới kinh rút, chiếc xuồng không còn không thể chống trên lòng lạch cạn teo, má nghĩ ra cách tải gạo, cám bằng xe đạp (Ôi ! cái thuở sao nghèo quá là nghèo). Bao gạo để dài theo sườn xe, má ngồi yên sau chồm hai tay cầm lái, xoạt chân ra phía trước để đạp. Má con tôi suốt ngày dưới nắng cồng cồng đạp xe trên con đường lởm chởm đá. Sau này, tôi còn có thể một tay vịn bao gạo đặt ở yên sau, chân đạp cuống cuồng, tay kia cố kềm giữ tay lái đang lắc lia lắc lịa, cái bánh xe trước lúc nào cũng muốn chỏng lên trời. Ai khen tôi giỏi lòng má tôi cũng đau, vì đã để tôi dang dỡ con đường học tập. Lúc đó tôi chưa biết nói, "chừng nào nhà mình khá giả rồi con đi học lại, má lo gì", chỉ một câu thôi sẽ an ủi lòng má biết bao nhiêu.

Những câu đáng nói thì vì vô tâm, khờ dại nên không nói, những câu không đáng nói thì cũng vì vô tâm, dại khờ nên đã nói rồi, không lấy lại được. Vẫn còn những ngày dài phía trước, mai tôi sẽ về thưa với má, dù tôi nói câu này dù hơi trễ tràng nhưng có còn hơn không, rằng chưa có bao giờ má dạy tôi viết văn, nhưng những gì tôi viết ra đều mang hơi thở cuộc sống mà má trao tặng.

Bây giờ không biết là đã mấy mùa tôm rồi má với ba tôi xa nhà cất cái chòi giữa đồng vắng xoay xở, vật lộn với con tôm trên những cái đầm chang chang nắng. Cũng từng ấy thời gian, ngày hai buổi sáng, chiều tôi quanh quẩn bên bàn giấy, sớm uống cà phê tối ngồi quán nhậu. Những con chữ bỏ đi xa, những câu văn trốn bặt. Mai mốt đây viết tặng má còn không xứng thì viết cho ai nữa bây giờ.

Nguồn: Văn Nghệ Sông Cửu Long



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 08/May/2010 lúc 10:08am
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23952
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/May/2010 lúc 9:05am
Nàng Dâu Xứ Mĩ   -<<xin bấm vào View: 2442 Nguyễn Ninh Thuận


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 10/May/2010 lúc 9:18am
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 11/May/2010 lúc 8:32am

Dòng nhớ

Nguyễn Ngọc Tư

Sáng nay, má tôi lại ra đứng tần ngần ở chợ Ba Bảy Chín, ngiêng ngiêng ngó ngó một hồi, biểu con nhỏ chèo đò chèo dài dài chợ nổi. Chợ rao bán rau trái dậy động cả một khúc sông, má tôi thấy ghe nào cũng lần xuồng lại, dòm mặt chủ rồi đi. Con nhỏ chèo đò chắc là chèo mối, nó biết bà già định đi đâu, định làm cái gì nên nó biểu :

- Hỏng hỏi thăm thì vô phương kiếm ra, ngoại ơi.

Má tôi ngẩn ngơ. Hỏi chớ, chú ơi, thím ơi, tôi muốn hỏi thăm một người quen. Tên gì? Ghe bán gì? Hai Giang. Ghe bán hàng bông. Trời đất, ở xứ này có tỉ tỉ ghe bán bán hàng bông, cũng có biết bao nhiêu người tên Giang, vậy tướng tá người đó ra làm sao? Bây giờ đâu có biết ra làm sao, gặp được một lần mười sáu năm trước, nhớ sao tả vậy nghen. Đàn bà, chừng sáu mươi, trạc tuổi tôi, tóc dài, da ngăm ngăm, không đẹp không xấu. Mới đầu đi với chồng, sau chồng bỏ lên bờ vì cơ cực quá trời, hồi trẻ có đứa con gái đầu lòng chừng bảy tháng tuổi thì rớt xuống sông chết.

Vậy thì đông lắm, người sống trên chợ này hể mười thì có năm người y chang hoàn cảnh vậy, dân Ba Bảy Chín mà, “ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh”, chị hỏng nghe sao ?

Má tôi chẩng hẩng :

- Vậy ?

- Ừ, người đó quen sao mà tìm coi bộ cực dữ ?

- Quen. Chà, hỏng biết nói sao bây giờ, dài dòng lắm, vợ của chồng tôi.

Nếu vậy thì dài dòng thiệt, chuyện tình tay ba mà phim dính vô chuyện nầy cũng năm bảy tập trở lên, còn cải lương lâm ly không biết bao nhiêu là nước mắt.

Má tôi cũng khóc nhiều rồi.

Má tôi nói hoài, ba mươi tám năm bà về làm dâu nhà chồng, cực có, sướng có, chưa bao giờ nội tôi khắt khe, nhỏ nhặt, khó chịu với dâu, nhưng má tôi vẫn hận nội tới chết mới thôi. Hỏi sao kỳ vậy, má tôi kéo chéo khăn lên chậm chậm vô đôi mắt, “Bộ hết người rồi sao mà nội bây cưới tao cho ổng, đó, bà chỉ tay ra bến, gần hết đời rồi tao có được vui đâu”.

Đó là lúc “ổng”, tức ba tôi chống cây gậy khật khừng lang thang xuống bến. Ông dừng lại chỗ mấy cây tra, lấy tay rờ rẩm, săm soi từng cái lá, cái bông như tay bắt mặt mừng thằng bạn lâu năm mới gặp. Rồi ông lần ra tới đầu bến, đứng dưới hàng mấm già ngày xưa ông trồng để giữ đất cho khỏi lỡ, để mặc cho mấy cái hoa nắng vàng xơ rơ đậu xuống cái đầu húi cua, bạc trắng của mình, ông già thao thiết nhìn ra sông. Chỉ vậy thôi rồi khật khừng quay lên, cái chân trái yếu ớt như tựa hẳn vô cây gậy, cứ mỗi lần chân bước, đầu gậy lại xoáy sâu vô đất một lổ tròn tròn.

Cảnh thì quen lắm, thì ngày nào, buổi nào ba tôi chẳng làm vậy nhưng cứ tụm cả nhà lại, rồi ngồi lặng lẽ dòm, ai cũng nghe đau đau xót xót như ai lấy cật tre cứa tới cứa lui trong lòng. Bởi cái lúc này là lúc sum họp đây, vậy mà sao vẫn thấy thiếu một người, mà thiếu đúng cái người đang lững thững đi dưới nắng kia mới chết.

Sau đợt tai biến mạch máu não lần thứ nhất, nửa người bên trái ba tôi yếu hẳn đi, tưởng chỉ vậy thôi, đến lần thứ hai bỗng dưng tâm trí ông già nhớ quên, ít nói, lẩn tha lẩn thẩn. Nhưng còn sống, còn tự mình đi đứng được là may lắm rồi, ai cũng nói vậy. Lúc đó cả nhà đang ở chợ, ba tôi càng lúc càng buồn, hay chống gậy đi, mấy lần cả nhà bỏ tiệm may đi kiếm ông tở phở. Sau này chỉ cần một mình tôi, vắng ông, tôi chạy xe dọc theo con đường về vườn cũ là gặp. Thấy tôi, ông già khựng lại, không nói gì, nhưng cặp mắt khẩn cầu, da diết, tôi làm như không biết, cầm gậy, đỡ ông lên xe chở về, có lần, ba tôi khóc, ông khóc rưng rức, nước mắt nước mũi nhểu nhão, lòng thòng.

Sau lần ấy, cả nhà quyết định đưa ông về sống trong vườn nhà nội. Vườn bỏ lâu nay, nhưng nhờ cô dượng Ba ở kế bên nhà trồng trọt, trông coi nên chỉ cần dựng căn nhà lên là ở được. Chuyện cắt cử người ở lại với ba tôi thì khỏi phải bàn bởi chừng nào mà má tôi bỏ ông được, “làm gì làm má cũng phải giữ ba”, tôi đùa. Má tôi xua tay :

- Ổng còn nguyên đó chớ có đi đâu, trước không mất giờ còn sợ mất mát gì nữa, mà, giọng má chợt cay đắng, hồi đó giờ ổng có phải của tao đâu mà giữ.

Ba tôi là người của sông. Không phải ông nhớ vườn xưa mà chống gậy về, ông nhớ sông, một ngày ba bốn lượt lủi thủi chống gậy ra bến, đôi mắt như đang nhìn da diết, mà không biết nhìn ai, chỉ thấy mông mênh vậy thôi. Chơ vơ, cô độc. Tựa như ông đang ở đây nhưng tâm hồn ông, trái tim ông, tấm lòng ông chảy tan vào dòng nước tự lâu rồi.

Và cũng y như má tôi, ba cũng không sống được mấy ngày vui, vui thật, vui đúng nghĩa. Hồi tôi còn nhỏ, còn sống chung với bà nội, đêm đêm cả nhà đi ngủ, ba tôi ngồi hút thuốc trên bộ vạc kê trước nhà, chống rèm lên, ngó ra sông. Kiểu ngồi một chân xếp bằng, chân kia dựng lên, rồi tì cái tay cầm điếu thuốc lên cái đầu gối, đêm này qua đêm khác, kiểu ngồi không đổi. Nửa đêm, má tôi đi ém mùng lại, tôi thức giấc, ngó ra chỉ thấy đốm lửa lập lòe, lúc đỏ rực, lúc lại tắt thiu thiu. Má tôi ngồi trong mùng lặng lẽ nhìn ba, còn ba thì nhìn ra sông. Sông cách nhà một cái bến dài chẻ ngang đám dừa nước. Nếu không vướng tầm mắt vào đám ô rô mọc lởm chởm chồm từ mé lá lên, không vướng mấy bụi ráng, bụi lức dại có thể thấy lồng lộng một khúc sông. Đêm sáng trăng, ngồi trên nhà có thể thấy một dòng chảy líu ríu, sáng loáng. Ban đêm, con sông trước nhà tôi không ngủ, nó thức theo những chiếc tàu rầm rì trảy qua, theo tiếng mái chèo quẩy chách bụp rất đều. Dài từ ngã ba Vàm đến đây, nước chảy êm, khuất gió, những chiếc ghe đi đêm hay đậu lại, nghỉ ngơi. Lâu lâu, có chiếc ghe hàng bông lặng lẽ neo lại ngoài bến nhà tôi, treo ngọn đèn chong lên cây đước chơm chởm những cái nhánh con, mỗi nhánh lủng lẳng trái khóm, trái bầu dầm nắng mưa đã teo héo. Không thấy bóng người, chỉ nghe tiếng gàu tát nước cọ vô xuồng xao xác. Hừng đông chạy xuống bến thì ghe đã đi rồi. Những đêm đó, ba tôi hút thuốc dữ, cứ nhìn chong chong ra ngọn đèn đỏ ối, nhỏ nhoi, buồn hiu ngoài kia. Ba tôi thở dài. Má tôi thở dài, chạy qua buồng bên khóc với bà nội tôi, không biết nói cái gì, chỉ nghe lỏm bỏm, tiếng nội làu bàu, “vậy ra má đã làm sai cái gì ?” và má tôi tuyệt vọng “Kiểu này biết chừng nào ảnh mới quên chuyện xưa hả má ?”.

Ngày xưa ba tôi cũng yêu thương một người. Tự ba tôi chọn. Nội tôi dứt khoát không chịu (nội có tỉ tỉ lý do, nhưng cái lý do lớn nhất là người phụ nữ đó đã có một đời chồng), ba tôi mới dắt díu người ta bỏ nhà đi, sống kiếp thương hồ. Hai người trãi qua biết bao nhiêu cơ cực, nào là gặt mướn, làm cỏ lúa, đắp bờ … mới có được một ít vốn, ba tôi sắm cái máy Koler xuống rẫy bán hàng bông. Họ sống nghèo lắm. Mỗi lần đi ghe đi ngang qua nhà, ba tôi khắc khoải ngó lên, vừa nhớ, vừa đau vì cãi nội. Rồi hai người có với nhau đứa con, nhưng chị bạc mệnh chết đuối, tận cùng đau khổ, ba tôi bỏ về nhà, được về, ba tôi cũng phải đáp ứng vài điều kiện của nội, vậy là ba tôi bỏ người ta giữa dòng bơ vơ. Tôi biết được có bao nhiêu đó thôi, kể ra cũng mấy dòng vậy thôi. Mà, cũng phải đợi tới năm mười lăm tuổi, cả nhà mới cho tôi biết. Tôi bật ngửa, chuyện xảy ra lâu rồi, nhưng người ta vẫn còn nhớ, vẫn còn cắm sào trước bến nhớ ba tôi, vậy mà biểu ba tôi quên cái rụp thì làm sao quên được.

Mà, cũng vì ba tôi quên không được má tôi mới thương ông nhiều, sau nầy, lớn lên, biết yêu thương rồi, tôi mới ngộ ra. Con người ta, nhất là đàn ông thương ai mà vì nỗi gì đó quay lưng lại quên mất tiêu thì đúng là không tử tế, không đáng tin chút nào. Với tôi, ba tôi thì quên hay không cũng được, ba đã sống tốt với cả nhà tôi lắm rồi. Ông sống tử tế đến vô cùng, đến thừa, dường như ông gởi gắm tình thương yêu đến cả những người vắng mặt. Ông ít nói, hiền lành, từ tốn với má tôi, những lần má tôi bệnh, ba chèo một hơi mười mấy cây số vừa đi vừa về đưa má tôi ra trạm xá, không than mệt, không thở ra, tận tụy. Lúc nào cũng mình mình tôi tôi, mấy bà hàng xóm nghe tủi cho mình mà khóc, má tôi cũng òa khóc theo, cảnh mỗi người tự người đó biết, người ta hay đứng núi này trông núi nọ vậy mà.

Mơ hồ dường như mình mắc nợ ai đó, cả nhà tôi lúc nào cũng cảm thấy không vui, dù hạnh phúc (hai thứ nầy sao lại không thể đi chung). Không thấy ai đòi nhưng nợ vẫn cứ là nợ, nó rờn rờn quanh quất trong chái bếp ngày ngày khói tỏa, trong mấy chiếc giường ngủ con con, trong hai bữa ăn mỗi ngày. Ngồi quây quần như vầy trong bụng cứ nghĩ, có một người nào đó cô độc, bơ vơ. Mà tội nhất là nội tôi, vốn mê cải lương, nhưng bữa nào ti vi chiếu mấy tuồng có bà mẹ chồng ác nghiệt chia rẽ duyên của con, dâu là thấy nội tôi rầu. Cho tới lúc cuối đời, chắc nội tôi vẫn băn khoăn trong lòng câu hỏi : “ Vậy ra, mình giống mấy bà già trong đó thiệt sao ?”

Má tôi thấy nội bứt rứt cũng không tỏ ra phiền muộn nữa, cốt để an ủi nội tôi lúc cuối đời. Khi nội tôi vừa khuất, má quyết định gặp đối thủ một lần, chỉ định nhìn vậy thôi, chưa biết làm gì mà cũng không biết làm gì người ta, nhưng chắc chắn phải biểu người ta buông tha ba tôi ra, còn gì nữa đâu mà neo ghe trước nhà ngó mong hoài.

Chờ đợi, rình rập hụp hửi mấy lần, chiếc ghe nhỏ với ngọn đèn đo đỏ lại về đậu trước bến nhà tôi, như mong đợi của má. Bữa đó, má nói với ba tôi chèo xuồng về chơi bên ngoại một đêm. Gà gáy chập đầu, bà trở lại, trên xuồng chất đầy mấy thứ rau đồng, bà giả đò làm người đi chợ sớm.

Ngang qua, má tôi tấp xuồng lại kế bên chiếc ghe, than :

- Tính đi chợ cho sớm mà gió quá, chèo không lên, bậy thiệt.

Má tôi tin rằng, người đàn bà kia, cũng như ba tôi, những đêm như vầy không bao giờ ngủ. Mà thật, dì đang chong đèn ngồi thêu áo gối, nghe tiếng má tôi, dì quay lại, dường như sững sờ, bất ngờ một chút, dì cười :

- Dà, đêm nay nhiều gió thiệt – Dì vẹt mớ quần áo ngổn ngang trên cái sạp tre – Chị vô mui ngồi cho ấm, chờ bớt gió rồi đi, ngồi ngoài đó cảm sương chết.

Má tôi không từ chối, bà buộc dây xuồng lại, bước qua ghe. Bà cao người nên ngồi trong cái mui lợp bằng lá chầm đóp phải khom một chút. Họ ngồi đâu mặt với nhau. Má tôi thấy lòng mình bình lặng lạ lùng, hồi ngồi dựng cái cảnh gặp mặt nầy, cứ tưởng là phải làm một cái gì ghê gớm lắm.Có thể vì người đàn bà của ba tôi hiện lên rất hiền, dì mặc chiếc áo cộc tay màu cau khô ở trong, khoác thêm chiếc áo bà ba ở ngoài, mỏng te, nhiều mụn vá. Tóc đã bạc nhiều, lơ thơ vài cọng rủ xuống mặt. Sương gió đã làm cho khuôn mặt dì đen sạm, nhăn nheo. Má tôi nghĩ thầm trong bụng, “xấu hơn mình nhiều”. Má tôi sợ cứ nhìn chằm chằm người ta hoài cũng không phải nên má ngó lơ chỗ khác. Đồ vật trên ghe món nào cũng nhỏ nhắn, tuềnh toàng. Ngay sau lưng chỗ má tôi ngồi, bỏ khoang tát nước có một cây ớt hiểm, một cây sống đời đang trổ bông trồng chung trên miệng cái khạp bể. Dì lúi húi dẹp miếng vải đang thêu dỡ, vói lấy bình thủy, châm nước vô cái bình trà sứt vòi, ho khúc khắc. Má tôi chép miệng, “Cha, có trà uống thì còn gì bằng, mà, chị bịnh hả, mấy lá sống đời nầy ngậm với muối cũng đỡ ho lắm”. Dì ngước lên cười, “Dà, lúc nầy trở gió, cũng nhờ nó…”. Má tôi hỏi :

- Chị đi ghe một mình à, một mình cũng được sao ?

- Dà, cũng được, chị.

- Ủa, chồng chị đâu ?

- Dà, dì bối rối, ảnh… đi xa lắm.

- Còn chồng tôi thì theo vợ bé mất rồi, má tôi nói luôn.

Dì nhìn sững má, dường như để xem xem nỗi đau mất chồng của má với dì có giống nhau. Hồi lâu, dì chợt cúi mặt :

- Uống trà, chị, hoàn cảnh của chị cũng buồn thiệt. Nhưng thể nào rồi ảnh cũng quay về. Thiệt đó, chị, đa số đàn ông đều tốt.

Tốt sao ? Người ta bỏ cô để cưới tôi mà là tốt à, má tôi ngồi lặng, tự hỏi, mà không biết nói gì nữa, cái câu quan trọng nhất chắc không phải nói lúc nầy. Má tôi ngồi ngó quanh, một ánh đèn nhỏ nhoi thôi cũng đủ hắt sáng vài xâu cốm gạo treo trên vách, mấy hủ kẹo, bánh ngọt, tiêu tỏi để bên này, trái cây như khóm, bí rợ, khoai lang thì chất thành hàng bên kia. Sát bên hông dì, dưới tấm vải trắng thêu dỡ là hai xấp quần áo cũ, người lớn có, trẻ con có được xếp ngay ngắn, nhưng hết thảy đều củ kỷ, bạc màu. Má tôi vọt miệng :

- Ủa, chị có cháu nhỏ à ?

Sau nầy, má tôi nói, đó là cái câu tàn độc nhất mà má lỡ miệng đánh ngay vào nỗi đau của dì. Dì nhìn trân trân vào ngọn đèn, cái nhìn đau lặng. “Con bé Phước nhà tôi vô phước lắm chị à, tại tôi không cẩn thận nên cháu vừa mới biết bò đã té sông, trôi mất. Cũng mười mấy năm rồi, bây giờ, nó còn sống, chắc tôi thêu gối cưới cho nó cũng vừa. Tôi… tôi chiêm bao thấy cháu nó hoài, chiêm bao lãng nhách hà, tự nhiên tôi thấy con tôi biết nói, nó biểu má đừng bỏ con, trời ơi, tiếng nó thấy cưng lắm kìa, vía tôi trả lời, mẹ sẽ sống trên sông hoài, hoài hoài với con, vía tôi thấy nó cười…” Dì nói một hơi dài, giọng dì hơi nghẹn lại, “trời ơi, chị có chuyện buồn lòng mà tôi lại kể chuyện buồn lòng nữa, chắc chị phiền tôi lắm. Mớ đồ nầy tôi cất lâu rồi, sợ mốc, cứ mấy tháng là tôi đem ra giặt lại, của con bé con tôi có, của chồng tôi có. Chồng tôi… tôi chỉ còn giữ lại bao nhiêu đây thôi. Chị coi, tôi khùng hôn, không giặt thì không được mà giặt hoài, tới hơi chồng cũng bay, tôi cũng quên mất rồi…”

Dì cười quay quắt. Má tôi chút nữa đã bật khóc, bà cố nén nghẹn ngào :

- Đàn bà mình sao khổ vậy ?

Tiếng gà gáy xa xa, con nước đêm nay mau lớn quá, mới đây thôi đã ngập nửa cây sào neo ghe rồi. Lúc nầy, nước lớn không nghe bìm bịp kêu, mà, nhờ không có, chứ nghe bìm bịp kêu càng buồn nữa. Má tôi ngồi bình tâm lại, vậy thì mình nhỏ nhen gì mà dành với người ta chút nầy nữa. Năm nầy qua năm khác mình được sống chung với ảnh, ban ngày ngoài ruộng, ban đêm chung giường. Ngó mặt nhau ăn cơm, ngủ cũng đâu mặt lại ngủ… Còn người ta, nhớ thương đứt ruột cũng đành ngồi đây ngó lên, giữa đường gặp nhau chỉ nhìn vậy thôi mà không chào hỏi tiếng nào. Đau lắm chớ. Má tôi nhìn ra ngoài trời, vẫn còn khuya lắm, nhưng đã thấy mấy chiếc xuồng đi chợ sớm lướt qua, tiếng mái chèo quẫy chủm trên mặt sông ngọt, nhẹ, cứ tưởng từng lát nước xếp lên nhau như những lát đất cày. Dường như trời bớt gió nhiều rồi. Dì nghiêng đầu ra ngó trời, chừng như nuối tiếc, thảng thốt :

- Trời đất, đêm qua lẹ thiệt. Chắc tôi phải đi bây giờ.

- Sớm vậy sao ?

- Dạ, tôi thường đi… trước lúc người ta thức…

- Tại tôi nhiều chuyện làm chị thêu không xong…

- Không, người đàn bà cười, nét mặt thốt nhiên buồn bã, tôi thêu cho hết đêm, xong rồi lại tháo chỉ ra, tôi sợ, nếu không làm gì, tôi… tôi sẽ nhớ chồng con tôi rồi mắc … khóc, cầm lòng không được. Mà, đàn ông chịu cực khổ nhiều lắm rồi, lấy nước mắt trói buộc họ nữa, tội họ lắm, chị à.

Vậy rồi hai người chia nhau đi. Ghe nổ máy rồi, khói xịt tơi bời, dì còn dặn lại : “Nếu ảnh có quay về, chị đừng giận ảnh nghen. Người ta có đi đâu làm gì thì cũng thương mình chị thôi”. Má tôi không nói, quay đi và khóc.

Tháng sau, má tôi quyết định gom mớ của cải cả nhà có được ra chợ, mua cái nhà. Ba tôi ít chút ít nghề mộc nên nhận đóng tủ, bàn ghế ở nhà, má tôi chiên đậu hủ bỏ mối, chị tôi mở tiệm may, tôi vào Đại học. Mọi thứ được sắp đặt lại, mới mẻ, gọn gẽ. Má tôi bứt ba phải xa sông, nhưng chính bà cũng biết, những dòng nhớ vẫn tiếp tục chảy mãi trong hồn ông. Mà, chính má tôi cũng không quên cái hình ảnh cái rổ úp chén đan bằng nan tre đã xỉn màu, trên đó có cái dĩa, cái tô và ba cái chén, ba đôi đũa như thuở người đàn bà trên ghe còn nguyên một gia đình.

… Tới bây giờ má tôi vẫn chưa tìm được dì. Tôi hỏi má tìm làm gì, má tôi nói để cho hai người gặp lại, coi thần trí ba mầy có đỡ hơn không. Bây giờ thì ba tôi cũng nằm xuống, ông nằm ở lớp mả thứ ba trên cái liếp chôn cất ông bà. Má tôi vẫn không ngừng tìm kiếm dì, hỏi để làm gì, má tôi nói để cho dì hay và nói với dì, nếu sống mà không gần được, chừng nào chết, mời dì lên nằm trên đất vườn tôi.

Đó là nỗ lực cuối cùng má tôi làm để chấm dứt cái cảnh ba nằm bên má mà hồn vẫn hướng về những dòng sông miên man chảy.



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 11/May/2010 lúc 8:32am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23952
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/May/2010 lúc 7:20am

Ngọn đèn không tắt

NGUYỄN NGỌC TƯ


(Giải nhất cuộc vận động sáng tác văn học tuổi 20)

Người ta gửi tới nhà Tư Lai một lá thơ. Thơ đề "Kính gởi ông Hai Tương". Cả nhà bối rối không ít. Ông Hai Tương đã ra người thiên cổ lâu rồi, thấy có người nhắc lại chồng, bà cụ Hai Tương nhớ quá ứa nước mắt. Khui lá thơ ra, thì ra là thơ mời nói chuyện khởi nghĩa.

Con Tươi ngồi chắt nước cơm ngoài sau bếp than trong bụng: "Mấy chuyện đó kể muốn thuộc lòng rồi, bắt kể hoài, bộ mấy ổng hổng chán sao".

Cái khởi nghĩa đó xảy ra đã lâu lắm rồi. Dân xứ này có người nhớ, người không. Cái người không nhớ thì cũng nhớ được hai ngày. Ngày thứ nhất là ngày giỗ chung những người khởi nghĩa bị giặc bắn ngoài chợ. Ngày thứ hai là cái ngày kỷ niệm khởi nghĩa. Xã tưng bừng dựng cờ đỏ chói, chạy xuồng máy rước mấy cụ lão thành lại đằng chỗ ủy ban ngồi uống nước trà, ôn lại chuyện cũ. Những chuyện mà các cụ cất vô trong tim, trong máu, buổi sáng nhớ, buổi chiều nhớ, buổi tối cũng nhớ. Ông cụ Hai Tương - nội con Tươi - cũng được mời hoài. Dạo ông cụ già yếu, Tươi được đặc phái đi theo chăm sóc ông nên không khí hội họp nó biết chút đỉnh, chuyện mà cái hội họp nói, Tươi cũng thuộc lòng. Nói chung là không có gì mới. Con Tươi ngồi kế ông nội, có khi nó nhắc:

- Còn chuyện nội với thầy lên Hòn bắn chim bằng nạng thun đó nội.

Ông nội nó đang nói, gật gù:

- Ờ, ĐÚNG LÀ TÔI CÒN QUÊN CÁI CHUYỆN NỘI NÓI VỚI THẦY XÁCH NẠNG thun lên Hòn bắn chim.

Tươi hài lòng, chành miệng ra cười, thấy mình quan trọng hẳn lên. Quan trọng ngay cả trong cuộc khởi nghĩa đã diễn ra mấy chục năm trước. Hồi còn sống, ông nội thương con Tươi nhất. Tươi cũng thương ông nội, quấn quít bên ông. Công việc của nó là nấu cơm, chở nước, quét dọn nhà cửa. Thời gian rảnh ngồi nghe ông nội kể chuyện xưa, nghe bà nội kể chuyện còn xưa hơn nữa. Thằng Sáng suốt ngày chạy nhảy, ăn chực ở nhà hàng xóm trề môi như đưa đò:

- Ông nội khó thấy mồ.

Tươi không nghĩ ông nội khó, nhưng ông nội hơi lạ lùng. Ông nội dắt Tươi ra biển đứng sục chân trong bùn, nghe nước biển lấp liếm đầu gối, nội chỉ hướng Hòn.

- Bây coi kìa, Hòn đó.

- Dạ, xa quá hen nội.

- Bây ơi - nội đột nhiên nghẹn ngào - tao nhớ Hòn quá.

Tươi an ủi:

- Thì bữa nào nội biểu ba lấy ghe chở nội đi. Mà phải con lội hay con lội cõng nội ra ngoài. Gần thí mồ chớ gì, nội.

Vậy mà Hòn xa lắm. Có đi mới biết trời rộng, biển rộng mênh mông. Người ta đứng một chỗ nào đó nhìn bầu trời nhỏ xíu, cái Hòn nhỏ xíu, xanh mù mù rồi thấy mình cũng không cần đi đâu, không cần làm gì nữa, thế giới có bi nhiêu đây thôi mà. Tươi rút ra một chân lý, nó nói với nội:

- Cô con dạy "đi một ngày đàng, học một sàng khôn" là vậy đó nội.

Má Tươi bảo: "Con Tươi đi theo ông nội riết nó... khùng". Nó không khùng nhưng nó già trước tuổi, nó già theo những câu chuyện xưa. Ông nội ngộ lắm. Ông nói cho nó biết sở dĩ bùn xứ nó mặn là vì có rất nhiều xương máu của chú, bác, cô, dì đã đổ xuống, trong đó đương nhiên là có máu của thầy, của mấy anh em khởi nghĩa. Ông nói cho nó biết sống làm sao như cây đước thẳng tuột ưỡn ngực giữa sình lầy và còn nhóc chuyện nữa. Tươi cảm thấy mình phải có nhiệm vụ ghi nhớ những gì mà ông nội nói. Vì ba má nó lo làm ăn không có ở đây để nghe, vì thằng Sáng không muốn nghe. Rồi một bữa khác, ông nội nó ra bãi ngồi tới chạng vạng không chịu vô nhà. Ngồi coi biển đục ngầu, ngồi coi mặt trời lặn. Tươi năn nỉ ông vô nhà để ở ngoài này gió máy cảm chết. Ông nội nó không chịu vô, vò đầu nó than:

- Tao thương thầy quá. Nhớ thầy quá. Tao thèm gặp thầy, gặp anh em.

Ðâu ngờ cái lần nội nói đó, nội đi gặp thầy thiệt. Xóm Rạch vắng một người già cỗi cằn ngồi hát sử hận, mấy ông làm phim, viết sử tiếc đứt ruột ông già sống qua những tháng năm biến động và nhứt là đã trải qua cuộc khởi nghĩa trên Hòn. Con Tươi qua sông, chở nước ngọt về uống trượt chân té xuống sình. Té nhẹ phau mà không hiểu vì sao nó dầm mình vậy, nó khóc mướt. Vậy mà kỷ niệm năm nào người ta cũng gởi thơ mời ông Hai. Không hiểu người ta vô tình quên rằng ông đã khuất hay cố ý nhớ đã từng có một con người như thế trên cõi đời này. Năm rồi thì ông Tư Lai đi thay, năm nay thơ tới trễ ông Tư đi biển ngày họp không về kịp. Cán bộ xã đút mũi xuồng lại rước. Bà cụ Hai rầu rĩ như mình đã ruồng rẫy, phũ phàng ai vậy, chép miệng than:

- Thiệt rầu hết sức, nhà tui tưởng còn ai đi kể chuyện khởi nghĩa. Hổng ấy cho con Tươi đi, chịu hôn?

- Nó nhỏ xíu hà biết không?

- Nó tuổi con gà gần hai chục rồi, nó lanh lắm.

- Thôi kệ, đi đại đi.

Vậy là lần đầu tiên Tươi một mình đi kể chuyện. Ðò chạy một mạch lên huyện, nó ngồi kế bên ông chú Chín bạn của ông nội, nghe ông chú Chín bệu bạo kể kỷ niệm hồi xưa với ông nội, những kỷ niệm tưởng đã đầy rêu, Tươi nhớ nội quá. Nội bây giờ chắc bay ra Hòn gặp thầy, gặp các bạn của nội. Họ lại cùng nhau uống trà, leo núi, đẽo nạng thun bắn chim. Họ lại lên rẫy Thuồng Luồng cuốc đất trồng khoai lang, khoai rạng. Họ không bao giờ già. Họ không bao giờ mệt. Họ không bao giờ mất. Nên người ta tổ chức họp để nhắc họ hoài hoài.

Nghe nói lần này có người trên tỉnh xuống viết sử, Tươi cũng nghe hồi hộp lắm. Nó sợ mình kể không hay bằng ông nội, thiếu những chuyện quan trọng mà người ta cần. Ông nội để lại cho nó một trọng trách nặng nề. Nó vừa đưa tay vịn tấm cao-su che nước mặn khỏi tạt vào mặt, vừa suy nghĩ lung lắm. Nó nhìn đăm đắm ra sông Lớn, những con sóng chạy rượt nhau mê mải tới bạc mái đầu. Có con sóng nào trẻ không mà lượn nào cũng trắng.

* * *

Tới cuối buổi họp thì cô gái nhỏ xíu trẻ măng ngồi cuối bàn đằng này được phát biểu: Cũng tại cô ngồi khuất sau cây phát tài nhựa nên khó thấy cô. Cô có nước da đen giòn miền biển, đôi mắt mở lớn bẽn lẽn:

- Dạ, con xin nói thêm về khởi nghĩa đó.

- ỦA, CÔ CÓ THAM GIA HẢ?

- Dạ, ông nội con.

- Dà, sao cô biết?

- Dạ...

Cô gái miết tay lên cạnh bàn có vẻ bối rối. Có nhiều người ngồi quanh đây cô không quen.

- Dạ, ông nội con kể, ông nội con là ông Hai Tương. Nội con còn viết tuồng Sử hận nữa, mấy chú có nghe hát tuồng đó chưa?

- Ờ BÁC HAI TƯƠNG TÔI THƯƠNG LẮM GHEN. ¤NG KỂ CHUYỆN MÊ LY MÀ chính xác lắm. Còn tuồng thì nghe nói thôi, thiệt thì chưa.

- Con hát nghen?

- Thôi đừng hát, kể sử đi.

- Dạ thưa ông bác Ba, ông bác Chín, thưa mấy chú, con nói hơi dài được không?

Ông chủ tọa coi đồng hồ cười:

- Bây giờ cũng còn sớm. Chuyện của cô dài cỡ bao nhiêu? Cô mà kể hay, tới chiều tôi cũng nghe.

- Dạ - cô đằng hắng - Thầy được Ðảng phân công về xóm Rạch năm một ngàn...

Ðó là câu chuyện của cô, của ông nội cô, của những người xóm Rạch. Họ kể chuyện đó bao nhiêu lần rồi? Các nhà viết sử nghe bao nhiêu lần rồi? Nhiều lắm, nhiều không kể được. Cô gái nói lời của ba cô năm trước, nói lời của ông nội cô năm trước, năm trước nữa. Cô nói lời của lịch sử. Mà lịch sử là thứ không thay đổi. Nhưng trong lời của cô có cái nhiệt tình tuổi trẻ, trong mắt cô có mầu đen sẫm của vốc đất bãi bùn, và cô dựng xương thịt cho cuộc khởi nghĩa bằng nét mềm mại của người con gái nên câu chuyện của cô rất sâu sắc và thu hút người khác.

- Mấy chú coi con kể có sai chỗ nào không?

- À, KHÔNG, HAY LẮM, RẤT HAY. CÔ HỌC TỚI LỚP MẤY?

- Dạ, lớp 9, xã con dạy tới bao nhiêu đó thôi.

- Cô tên gì nhỉ?

- Dạ Tươi. Ông nội con tên Tương, ba con là Lai, hai chị em con là Tươi, Sáng.

- Tên cũng hay lắm. Tươi có biết thầy không?

- Biết. Con thương thầy như nội con vậy.

- Tôi ngạc nhiên đó. Cuộc khởi nghĩa với cô cực kỳ mơ hồ vậy mà cô nói chuyện như thể đã từng sống với thầy vậy. Thầy rất đẹp phải không?

- Dạ, bà nội con nói thầy đẹp trai lắm. Con trai xóm Rạch bây giờ không ai bằng. Thầy là đàn ông mà thầy còn biết thêu.

- Thêu à? Ôi chuyện đó tôi chưa nghe nói bao giờ, mấy chú có nghe không?

- Không.

- Có.

- Ờ HÌNH NHƯ CÓ.

- Tôi gặp ông nội cô ba lần, chưa lần nào ổng kể tôi nghe. Tại sao cô biết?

- Bà nội con kể. Bà nội con là đàn bà nên mới nhớ lâu chuyện đó. Bà nội con đã có lần thêu chung áo gối với thầy.

- Chung à? Thêu gì?

- Uyên ương. Chú có coi Tô ánh Nguyệt không? Trong đó có hát vầy nè: "Uyên ương có bạn có đôi...", cái áo gối đó tới giờ bà nội con vẫn còn giữ, nó hơi cũ. Nhưng ông nội con nói tội nghiệp bà nội bây, uyên ương gãy cánh giữa trời dông...

- Cháu làm chúng tôi xúc động đây. Thôi cháu kể sử tiếp. Tới đoạn đêm khởi nghĩa.

- Dạ nội con nói sau khi giết xong chúa đảo (đêm đó trăng sáng như ban ngày), bắt hai má con cô Ðầm xuống bãi, thầy biểu mấy chú, à không mấy ông chú giữ đèn hải đăng cho nó đừng tắt. Và khi chiếc tàu chạy vào xóm Rạch rồi, ngọn hải đăng vẫn với nhìn theo cháy hoài, cháy hoài, cháy hoài...



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 12/May/2010 lúc 7:23am
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23952
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 13/May/2010 lúc 7:36am
VƯỢT BIỂN
 
Bỗng nhiên cả một vùng biển sáng rực lên. Ánh sáng như từ trên trời chiếu thẳng vào con tàu bé nhỏ tựa như ánh hào quang đang tỏa xuống và bao bọc đám thuyền nhân nằm thiêm thiếp trong khoang tàu. Mọi ngưới nhốn nháo choàng tỉnh dậy, rồi những âm thanh chợt vang lên:  tàu được vớt rồi, tàu được vớt rồi!

    Chiếc tàu lớn lướt  thật nhẹ quanh con tàu nhỏ trông như anh khổng lồ đang đứng cạnh chú bé tí hon. Thang sắt được từ từ thả xuống, mọi người  bật dậy như lò so, những ánh mắt mất thần bỗng sáng lên những tia hy vọng. Mọi người được thủy thủ đòan hướng dẫn lần lượt lên tàu;  phụ nữ và trẻ em đuối sức được thủy thủ bế lên. Vài người thủy thủ bước xuống khoang tàu nhỏ, họ đục đáy tàu cho vỡ ra một mãng nhỏ. Con tàu từ từ chìm xuống lòng biển sâu: giã từ con tàu thân yêu, giã từ vùng biển chết để bước vào một thế giới mới, thế giới của tự do, không hận thù.

Hơn hai mươi năm qua rồi nhưng những giây phút hãi hùng của những ngày lênh đênh trên biển vẫn không hề xóa nhòa trong tâm tưởng của chúng tôi. . .

 Con tàu rời Cần Thơ vào môt trưa tháng 5, tiến ra biển đông như một tàu đánh cá. Gần quanh đó là những chiếc ghe tam bản cũng lầm lủi chèo theo, người ta nằm dấu kín trong khoang ghe nhỏ hay thu mình dưới những tấm nứa, bó cây, hồi hộp và căng thẳng. Khi trời choạng vạng tối, tàu ngừng lại tại một ngã ba sông. Những chiếc ghe tam bản chèo thật nhanh đến sát tàu , người ta cố gắng leo nhanh lên tàu, mạnh người nào người ấy leo và tự tìm mộ chỗ ngồi cho mình, hỗn độn và vô trật tự. Con tàu dài không quá 10 thước bỗng nhiên phải tiếp nhận một số lượng người quá sức nên trở thành nặng nề, chao đảo. Cả trăm người lớn nhỏ ngồi như nêm cối trong khoang thuyền nhỏ, tiếng gọi nhau ơi ới, con tìm cha, vợ tìm chồng. Những chiếc ghe tam bản sau khi đã chuyển hết mọi người qua tàu lớn đã bắt đầu quay đầu trở lại đất liền.

 Ngồi trong phòng lái nhìn quang cảnh hỗn độn trước mắt nhưng tôi cũng chẳng có thì giờ để suy nghĩ ngoài việc định hướng cho con tàu tiến ra cửa biển. Càng đi ra ngoài gió càng mạnh và sóng càng cao. Không gian lặng im, không một lời nói, không một tiếng động ngoại trừ âm thanh rù rì của máy tàu. Ông thợ máy sau khi đi kiểm soát số lượng dầu nhớt nói nhỏ vào tai tôi: ’’Dầu ít quá, chắc chỉ đi được chừng ba bốn ngày là cạn’’. Hết hay không hết, còn hay không còn, cũng chỉ có một con đường là trực chỉ biển đông, tất cả phó mặc cho số mệnh. Tôi nghĩ vậy.

 Đi được một lúc lâu người ta đã bắt đầu ngửi thấy mùi gió biển, sóng đánh mạnh vào thành tàu làm nước bắn tung toé vào trong khoang, nếm thử đã thấy vị mặn của muối. Ráng đi một chút nữa là ra đến biễn đông chắc là thoát nạn. Ý nghĩ thoát nạn vừa loé lên trong trí thì bỗng nhiên ánh sáng đèn pha từ đâu rọi sáng một góc trời. Âm thanh của một chiếc tàu khác càng ngày càng nghe rõ, đèn pha được quét qua quét lại, rõ ràng là tàu công an biên phòng đang săn đuổi con tàu vượt biên bé nhỏ này. Tôi lấy một quyết định táo bạo, chuyển hướng tàu và tiến nhanh vào vùng sóng lớn với hy vọng thoát khỏi sự truy lùng của tàu biên phòng. Tàu bị sóng nhồi dữ dội, mọi người nhốn nháo và những tiếng khóc bắt đàu vang lên. Nhiều lúc tôi cũng phải nhắm mắt khi thấy những lớp sóng khổng lồ đưa bỗng con thuyền lên thật cao và quật mạnh xuống tận hố sâu của biển cả. Những giây phút ấy chỉ còn biết cầu phép lạ nhiệm mầu cứu giúp. Con tàu cứ bị nâng lên đập xuống như trái bóng bàn suốt một khoảng thời gian dài tưởng chừng không dứt. Có tiếng khóc, tiếng ói mửa vang lên chung quanh... Cuối cùng rồi tiếng máy tàu công an biên phòng cũng nhỏ dần, ánh đèn pha cũng biến dạng nơi chân trời. Thoát nạn rồi! Tàu đi trở lại hướng cũ: tiếp tục phương đông mà tiến.

 Tròi sáng dần, mặt trời to và đỏ hồng dần dần ló dạng cuối chân trời. Biển yên và gió nhẹ làm mọi người tỉnh táo đôi phần, nước uống và thức ăn được phân phát. Con tàu cứ thế lướt nhanh trên mặt biển. Gần trưa trời bắt đầu nắng gắt, người ta tự tìm cách tránh nắng, mũ nón được đi lên, bạt vải được căng ra trên khoang tàu nhỏ. Sau một ngày một đêm không ngủ vì phải lái tàu, tôi cảm thấy thấm mệt. Một vài thanh niên xung phong lên phụ lái. Sau khi chỉ dẫn các bạn thanh niên cách sử dụng hải bàn cùng chỉ hướng đi, tôi tìm một chỗ dựa lưng trong phòng lái nhắm mắt ngủ thiếp đi…

Không biết ngủ được bao lâu nhưng khi tỉnh dậy thì thấy mặt trời đã ngả về tây. Tôi ngồi dậy lấy ống nhòm nhìn ra phía trước, bóng dáng một  đảo nhỏ mờ mờ hiện ra trứơc mặt, tôi giật mình, sao chung quanh nhiều tàu đánh cá quá vậy ? Đảo này là đảo gì đây? Tôi chồm mình lấy chiếc hải bàn thấy tàu đang chạy hướng 210. Mấy thanh niên giải thích : ông thợ máy nói chúng tôi lái hướng này, nhanh và gần. Tôi nắm tay lái chuyển hướng 90 và xã hết tốc độ cho tàu trở lại biển đông.  Cái hải đảo mà tàu vừa thấy chính là Côn đảo, đi về hướng ấy chắc chỉ làm mồi cho công an biên phòng nữa thôi.

 Con tàu cố gắng chạy xa Côn đào càng nhanh càng tốt nhưng không kip rồi, hai ba chiếc tàu cũng đang xả máy tiến về phía chiếc tàu con. Ông thợ máy cho mở thêm máy phụ để tàu chạy nhanh hơn, nhưng chiếc tàu rượt đuổi càng lúc càng gần, mt vài tiếng súng được bắn lên trời. Tôi vẫn cho tàu chạy hết ga, lại một loạt súng thị uy, tàu vẫn cố gắng trốn chạy, súng nổ càng lúc càng gần, những lằn đạn sau này không còn bắn lên trời nữa mà hướng thẳng đến con tàu, những tia đạn xẹt trên mặt nước nghe thấy rợn người. Biết rằng không thể thoát được nữa, tàu ngưng máy và dật dờ trôi trên biển chờ tàu biên phòng tới.

Khi cách tàu chừng mười thước, những họng súng được chĩa thẳng vào thuyền tị nạn. Rồi có tiếng hét thật to: ‘‘Chủ tàu đâu, tài công đâu bơi qua đây’’. Không có tiếng trả lời. Một vài phát súng nổ lên trời và câu hỏi lại được vang lên lần nữa, sắc như dao và nghe thật tàn bạo. Từ trong thuyền bỗng có tiếng trả lời: ’’Chủ tàu không đi theo, tàu này không có tài công.’’ Tiếng nói chát chúa từ tàu biên phòng lại vang lên: ’’Một đại din trong tàu bơi qua đây nói chuyện’’. Im lăng mộ lúc lâu, bỗng có một người đàn ông lớn tuổi hy sinh cho tất cả mọi người, ông ta nhẩy xuống biển bơi qua tàu công an.

 Một lúc sau tàu biên phòng từ từ cập vào chiếc thuyền vượt biên, những sợi giây thừng được tung ra cột chặt hai tàu vào nhau. Người đàn ông bước trở về tàu, ông ta cho biết tàu biên phòng đồng ý cho tàu đi tiếp với điều kiện tiền và vàng bạc đem theo phải nộp hết cho họ. Thế là người ta cởi nhẫn, tháo dây chuyền cùng gom góp tiền bạc trao cho tàu biên phòng.

Tiền của vòng vàng đã được trao nhưng con tàu vẫn bị cộ chặt, mọi người lo sợ, chuyện gì xẩy ra nữa đây? Từ tàu biên phòng nhảy qua hai, ba tên công an, rồi một người trong bọn lên tiếng:’’Cách mạng đã khoan hồng định thả cho đi, nhưng các người đã không thành thật khai báo và nộp hết tiền và vòng vàng cho cách mạng, nên cách mạng sẽ kéo tàu về Côn Sơn để xét xử. Con tàu bị kéo ngược lại, Côn Đảo càng ngày càng hiện rõ. Có người trong tàu lên tiếng đề nghị tất cả bà con trong tàu ai còn tiền và vàng thì đưa cho  công an hết đi, biết đâu lần này được thả; thế là người ta lại vét một lần nữa số còn lại trao tiếp cho bọn công an. Lại những lời năn nỉ, lại những tiếng kêu xin, nhưng những tên công an mặt lạnh như tiền vẫn tiếp tục kéo con tàu huớng về Côn đảo.  Hình ảnh tù đầy hiện ra trong tâm trí mọi ngưòi, những khuôn mặt đau khổ chán chường, những ánh mắt đỏ hoe in dấu sự thất vọng não nề, có người ngồi đọc kinh, có người lần tràng hạt. Chúa Phật có nghe thấu những lời cầu nguyện hay chăng?

Tàu đang tiến gần đảo bỗng nhiên dừng lại, những sợi dây thừng đang cộ hai tàu được tháo rời ra, một tiếng nói vọng ra từ tàu công an: ’’Chúng tôi thông cảm cho mấy anh, cho tàu đi tiếp đó, lấy hướng nam mà đi ’’. Chiếc tàu biên phòng từ từ tách rời chiếc ghe bé nhỏ để lại những ngỡ ngàng cho đám vượt biên. Sau vài phút định thần, tôi định lại vị trí con tàu và sau đó xả hết máy tiếp tục cuộc viễn dương vô định.

Sau một đêm căng thẳng mọi người đã lấy lại được tinh thần nhưng vẫn không dấu được những nét mét mỏi của những ngày dài trên biển, ngồi bó gối đã mấy ngày nên bắt đầu thấy khó chịu. Số nước uống đem theo gần cạn vì đêm trước trong khi tàu bị kéo về Côn đảo ngưòi ta đã sử dụng bừa bãi số lượng dự trữ, giờ đây mọi người chỉ nhận được hai ba muỗng nước mỗi ngày. Cơn nóng chói chan lại làm cho ngưòi ta mệt lả, bến bờ vẫn chưa thấy chỉ thấy chung quanh biển cả mênh mông.
. . . . . . . .

Biển đêm nay thật êm, trời trong và sáng, nhìn lên trời người ta có thể thấy rõ các chòm sao Bắc Đẩu, Nam Tào, Đại Hùng Tinh, rồi Tiểu Hùng Tinh. Mặt trăng tròn vằng vặc làm sáng cả một bầu trời. Tôi tính nhẩm, tàu đã đi được bốn ngày bốn đêm rồi, như vậy hôm nay đúng là ngày rằm tháng tư âm lịch. Những hình ảnh xa xưa chợt hiện lên trong ký ức, những ngày rằm tháng tư theo mẹ lên chùa lễ Phật đễ kỷ niệm ngày Đức Phật Ðản Sanh. Chùa đông như ngày hội, không khí  vui và đượm mùi trầm hương ngào ngạt, lòng tôi mở rộng đón nhận ánh mắt nhân từ của Đức Phật, cảm thấy một niềm hạnh phúc vô biên. Hôm nay cũng ngày Phật Đản, nhưng tôi ngồi đây cô đơn trên biển cả mênh mông. Mẹ ở nhà chắc cũng chẳng an tâm vì không biết giờ này con của mẹ đang trôi nổi ở phương trời nào. Nhưng có điều tôi chắc chắn là khi lên chùa thế nào mẹ tôi cũng sẽ đọc kinh và cầu xin cho các con các cháu đến bến bờ bình yên. Nghĩ đến đó thấy lòng mình ấm lại, tôi nhắm mắt và thầm đọc bài kinh Bạch Y Thần Chú.

Bỗng nhiên cả một vùng biển sáng rực lên. Ánh sáng như từ trên trời chiếu thẳng vào con tàu bé nhỏ tựa như ánh hào quang đang tỏa xuống và bao bọc đám thuyền nhân nằm thiêm thiếp trong khoang tàu. Ánh sáng kia phải chăng là hào quang của Đức Phật đã hướng dẫn chiếc tàu  đồ sộ đến cứu vớt những người tỵ nạn khốn cùng này. Tôi  tin tưởng như vậy vì tôi hiểu rằng tàu chúng tôi đã được vớt ngoài biển đông.

Ngô Thụy Chương



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 13/May/2010 lúc 7:37am
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23952
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 15/May/2010 lúc 7:47am


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 15/May/2010 lúc 7:48am
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 160 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.617 seconds.