Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 202 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23875
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/Mar/2014 lúc 9:32am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 08/Mar/2014 lúc 6:00pm

Nỗi ân hận muộn màng !!!

 

Tương Giang

 

 

Anh Hai là con trai duy nhất mà 30 tuổi vẫn độc thân nên ba má tôi sốt ruột lắm. Hồi đó, tới tuổi băm mà “chưa có gì” thì thế nào cũng xảy ra nhiều suy diễn kiểu như “chắc thằng đó kỹ tính quá”. Đàn ông con trai mà bị mang tiếng kỹ tính thì coi như… hết cứu.

 

Chị em tôi lần lượt “bấm còi” vượt mặt, anh Hai vẫn giậm chân tại chỗ, mặc kệ má tôi bồng bế cháu ngoại, nói gần nói xa, rồi hỏi thẳng: “Tới chừng nào con mới chịu cho má bế cháu nội?”. Anh Hai cười hì hì trốn sự thúc giục của má bằng cách xách cưa và búa lên chùa.

 

Ba má tôi là Phật tử, từ khi còn nhỏ, anh chị em tôi đã được ba má dắt tới chùa lễ Phật và tập làm công quả như quét sân, kết hoa vải, dọn dẹp trong những ngày lễ lớn… Nhà chùa đang chuẩn bị mở lớp học cho các em nhỏ lang thang. Bàn ghế thu gom từ các nơi cần được sửa chữa và anh Hai đảm nhận phần việc này.

 

Trong số các giáo viên tình nguyện đến dạy các em, có một cô dạy toán là người theo đạo Công giáo. Chuyện bắt đầu từ đây. Anh Hai tôi thường xuyên lên chùa nhưng không chỉ để làm công quả mà còn để đưa đón cô dạy toán.

 

Ba má tôi cắn răng thở dài, ông bà mong biết mấy được thấy con trai có đôi có cặp, nhưng khi có rồi thì vui không nổi. Con trai đầu có bổn phận cúng kính mà lấy vợ khác đạo thì làm sao?

 

Anh Hai biết tình yêu của mình gây khó cho ba má, nên chẳng dám nói năng gì, cũng không dám đưa chị về chào gia đình. Tôi hỏi nhỏ: “Anh đã tới chào ba má chị chưa?”. Anh Hai lắc đầu. Tôi hiểu là nhà bên đó cũng chẳng đồng tình.

 

Hai gia đình biết rõ con mình thương ai, nhưng làm như không biết. Thời đó, chuyện yêu đương mà chưa có tiếng nói của người lớn thì coi như chuyện ngoài đường. Giả vờ như không biết, nhưng ba má tôi âm thầm theo dõi, thấy anh đưa chị đi lễ nhà thờ. Và nhà bên ấy cũng thầm theo dõi, thấy chị theo anh lên chùa lễ Phật ngày rằm. Hai bên cùng thấy, cùng biết và cùng nín lặng chờ đợi.

 

Chờ đợi gì cũng không rõ, có lẽ, không bên nào muốn là phía đầu tiên thốt lời khiến con mình đau khổ.

 

Mối tình của anh Hai kéo dài đến năm thứ ba thì má tôi không kiên nhẫn được nữa. Con mình là con trai, lỡ có bề gì thì mang tiếng ác với con gái người ta. Má ra tối hậu thư “hoặc tình, hoặc hiếu”. Anh Hai cúi đầu chọn bên hiếu.

 

Lựa chọn của anh Hai khiến má mềm lòng, nhưng thật ra, do âm thầm theo dõi, má đã sinh lòng mến thương người con gái hiền ngoan, vừa đẹp vừa nhân hậu, biết đến với trẻ em khốn khó. Được con dâu như vậy thì cũng đáng để má chịu lùi một bước. Má thuyết phục ba cho phép anh Hai ngỏ lời với nhà bên đó, với điều kiện đạo ai nấy giữ.

 

Ba má chị lắc đầu, với lời phân tích ngọn ngành rành mạch là phải từ chối người con trai nghề nghiệp đàng hoàng, tính tình tử tế, hiền lành thì cũng tiếc lắm, nhưng mai này sinh con ra thì làm sao? Đứa nào theo cha lên chùa, đứa nào theo mẹ đi nhà thờ? Ừ thì cho phép chúng tự chọn đức tin, nhưng khi mới sinh ra chưa biết gì thì cha mẹ là người dìu dắt, lúc đó làm lễ rửa tội thì sao? Đã nhận lễ rồi thì dĩ nhiên là con của Chúa, ông bà nội có chịu không?

 

Câu trả lời của ba má tôi là không, cháu nội nhất định phải theo đạo nhà mình.

 

Vậy là anh chị chia tay. Để khỏi gặp gỡ, khỏi xao lòng, chị không đến chùa dạy lớp học tình thương nữa, người thay thế chị là anh Hai. Trước đó, anh chỉ làm những việc công quả cần sức vóc đàn ông, tới lúc ấy, anh nhận luôn việc dạy học. Bọn trẻ thắc mắc: “Sao cô không dạy tụi em nữa hả thày?”, anh Hai trả lời: “Tại các em làm cô buồn”. Bọn nhóc chẳng hiểu câu trả lời này, thường ngày đứa nào cũng có nhiều lần nói chuyện trong lớp, không làm bài tập về nhà, rồi cãi nhau chí chóe… Cô giáo buồn là đúng rồi.

 

Anh Hai gầy sọm đi. Cả nhà tôi thở dài, bệnh buồn tình chỉ có thầy thuốc thời gian chữa lành mà thôi. Chữa lành thật không, tôi tự hỏi khi thấy anh Hai vẫn đi về một mình, vẫn cười cười nói nói nhưng ánh mắt chẳng còn sáng lên lấp lánh.
Tai nạn xe cộ bất ngờ cướp đi mạng sống của anh Hai.


Đám tang anh, chị lặng lẽ đến vào buổi tối, khi khách viếng đã ra về hết. Chị lặng lẽ chảy nước mắt trước di ảnh của anh. Nén nhang chị thắp cũng như người, lặng lẽ tỏa làn khói mỏng mà làm cay mắt tất cả. Ba tôi lau nước mắt quay mặt đi, còn má tôi ôm lấy chị mà nức nở. Quá muộn màng!

 

Sư thầy nói tục lệ đốt quần áo cho người chết đem theo là mê tín dị đoan, lãng phí, thay vì vậy, hãy đem làm từ thiện để làm phước. Tôi rủ chị xếp áo quần của anh để đem đi cho. Những ngón tay chị run run vuốt từng nếp vải như đây mới đúng là lần cuối cùng chị được chạm vào anh. Tôi chọn cái áo màu xám tro anh hay mặc, muốn nói chị hãy đem về giữ cho riêng mình, nhưng cái đầu tỉnh táo của tôi lại nghĩ, nỗi nhớ đã đủ làm khổ chị rồi, tốt nhất là để chị quên anh đi.

 

Tục lệ quê tôi là người vừa nằm xuống sẽ cảm thấy lạnh lẽo nên hằng ngày sẽ đốt củi sưởi ấm ngôi mộ. Sáng sớm, tôi chở má xuống nghĩa trang, ngang qua cổng, ông bảo vệ hỏi thay lời chào: “Con dâu của dì là cô giáo hả?”. Má tôi chảy nước mắt nhìn chị và bọn nhỏ lớp tình thương xúm xít mỗi đứa một khúc củi xếp lên nhau. Rồi những bàn tay nhỏ bé khum khum nối nhau che gió cho chị mồi lửa !!!


Tôi và má đứng lại ở xa xa nhìn tới, để cho chị được tự do chăm sóc anh. Má tôi vừa khóc vừa nói: “Biết vậy thì hồi đó má đã gật đầu. Chúa và Phật đều dạy người ta thiện tâm mà”.

 

Không ai biết trước được điều gì, nếu biết trước thì chẳng ai nỡ làm đau người khác. Tôi thường nói vậy để an ủi ba má và cũng là tự nói với mình. Tới tận ngày giỗ lần thứ bảy của anh Hai, sáng sớm mang hoa xuống mộ, tôi vẫn gặp chị bên cạnh đống lửa; lứa học trò ngày đó đã phiêu bạt khắp nơi, chị ngồi một mình…!!!



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 08/Mar/2014 lúc 6:00pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23875
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Mar/2014 lúc 8:18pm
AI ĐƯA CHI SANG SÔNG
Nguyễn Khắc Cường
http://www.mediafire.com/?jekwdym0gzm



Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23875
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 13/Mar/2014 lúc 3:21pm
http://www.thedailyquarterly.com/articles/wp-content/uploads/2014/01/HirooOnoda-211x300.jpg
Người chiến binh cuối cùng
Vũ Đăng Khuê
Năm 2011, khán giả tại Nhật đã được xem phim “The Last Samurai” (Taiheiyou no kiseki: Fokkusu to yobareta otoko: Kỳ tích của Thái Bình Dương, người đàn ông được gọi là Fox) của đạo diễn Hirayama Hideyuki (khác với phim cũng cùng tên do tài tử Tom Cruise đóng vai chính). Phim kể lại câu chuyện của một tướng Nhật Bản tên Sakae Oba đã chiến đấu tại Saipan từ năm 1944, khi nghe tin Nhật đầu hàng vào tháng 9/1945 ông tướng này đã trốn vào rừng, tiếp tục chỉ huy 47 người lính và một nhóm người dân địa phương, liên tiếp mở các cuộc tấn công du kích khiến lính Mỹ vô cùng khiếp sợ và đặt cho ông biệt danh "The Fox".
Không biết đạo diễn Hirayama Hideyuki đã lấy hình ảnh của nhân vật nào mà dựng thành phim? tuy nhiên đã có một điểm vài tương đồng với một nhân vật vừa tạ thế tại Nhật Bản vào ngày 16 tháng 1 năm 2014 vừa qua,người được báo chí Nhật Bản mệnh danh là “chiến binh cuối cùng của thế chiến thứ hai”, và cũng là người được một website của Trung Quốc tên “ifeng” (鳳凰網), luôn luôn hằn học chỉ trích Nhật Bản đã nhận định: “Ông là một quân nhân đích thực” và “cả thế giới phải học hỏi tinh thần của người chiến binh này”. Ông là người thế nào và đã sống ra sao? Xin mời đọc tiếp.

Ông tên Onoda Hiroo, chào đời vào ngày 19 tháng 3 năm 1922 tại làng Kamekawa thuộc tỉnh Wakayama, là con trai thứ tư của một gia đình mà bố là nghị viên tỉnh, mẹ là cô giáo. Cuộc sống ấu thơ của ông bình thường như những trẻ trong làng khác, nếu gọi là nổi bật thì chỉ là chuyện ông là một tuyển thủ kiếm đạo được cử đi thi đấu khi còn học bậc trung học đệ nhất cấp. Sau khi học xong lớp 9, ông làm việc cho một công ty mậu dịch có chi nhánh đặt tại Trung Quốc, nhờ đó biết thêm tiếng Trung Quốc. Anh em của ông đều là quân đội, anh cả là bác sĩ quân y, anh thứ là đại úy, em là thiếu úy.
Tháng 12/1942 lúc đang làm việc tại Thượng Hải, thì tròn 20 tuổi, đến tuổi động viên nên “ông đi vào quân đội, mà lòng…. thì chưa hề yêu ai”. Kinh qua nhiều trường lớp huấn luyện quân sự, tháng 12/1944, với cấp bậc thiếu úy, nói được tiếng Anh và tiếng Tàu, ông được cử đến Phi Luật Tân nhận công tác tình báo, truy tìm những tin tức của “địch”. Khi trình diện đơn vị mới, trước hàng quân, trung tướng Yokoyama Shizuo, tư lệnh sư đoàn 8 thuộc quân đoàn thứ 14 đã ra khẩu lệnh: “Không được tự sát cho dù oanh liệt đến đâu. 3 năm hay 5 năm, chắc chắn sẽ có quân tiếp viện, dù chỉ còn 1 người gặm cùi dừa để sống, vẫn phải cố gắng chiến đấu. Ta nói lại một lần nữa: không chấp nhận các ngươi tự sát dù oanh liệt”. Tại đây, ông đã được bộ chỉ huy cung cấp tất cả những tin tình báo của đối phương và kế hoạch chiến đấu với lực lượng Hoa Kỳ ngay cả trong trường hợp Nhật Bản bị chiếm đóng.
Ngày 31 tháng 12/1944, ông được điều đến đảo Luwang. Trong lúc đang chuẩn bị cho một kế hoạch chiến đấu trường kỳ thì có lệnh phải rút một phần lực lượng để tăng cường cho chiến trường khác, ngày 28/2/1945, lực lượng còn lại của ông bị dồn vào ngõ bí, vì sự truy kích của một đại đội Hoa Kỳ mới đổ bộ lên đảo cộng thêm hỏa lực của những chiến hạm Hoa Kỳ khiến ông và đồng ngũ đã phải lẩn trốn vào rừng, tiếp tục du kích chiến để chờ đoàn quân tiếp viện trở lại theo kế hoạch.

Chiến đấu và Sinh tồn
Đến tháng 8/1945 dù quân Nhật đã thảm bại nặng nề trên khắp các chiến trường, nhưng vẫn chưa có lệnh tan hàng, ông và 3 binh sĩ dưới quyền là Akatsu Yuichi, Shimada Shoichi, Kozuka Kinshichi vẫn tiếp tục mở các cuộc đột kích vào căn cứ radar Mỹ đặt trên đảo vì nghĩ rằng: Phi bị Mỹ chiếm đóng và chính phủ Phi đương thời chỉ là bù nhìn của Mỹ. Nếu tính lại thì số lần đột kích lên đến hơn 100.
Vũ khí của các ông dùng là loại súng trường kiểu 99, kiểu 38 và lưỡi lê… đạn dược thì lấy thuốc súng từ đạn của chiếc máy bay bị bắn rớt rồi chế lại thành đạn cho vũ khí của mình. Với một radio transistor, nhờ theo các khóa huấn luyện kỹ thuật, các ông đã sửa lại thành máy nhận tin sóng ngắn có thể nghe được tin tức các đài phát thanh thế giới, rồi dùng ăng ten dây cáp đánh cắp được từ căn cứ Mỹ để tiếp tục nhiệm vụ tình báo, nghe ngóng tin tức bên ngoài hoặc….. tìm cách liên lạc với quân tiếp viện mà mấy ông vẫn nghĩ là còn ở đâu đó.
Để sinh tồn, cả 3 đã tự mở những cuộc tấn công vào làng, vào căn cứ Mỹ để “cướp lương thực”, săn bắn thú hoang lấy thịt phơi khô, ăn dừa để sống….
Sau vài năm chiến đấu, Akatsu đã ra hàng vào tháng 6/1950 (cũng có tin trong một cuộc đụng độ Akatsu bị thương bất tỉnh được quân Mỹ cứu sống), Shimada chết vào ngày 7 tháng 5 năm 1954, còn Kozuka thì chết vào ngày 19 tháng 10 năm 1972 trong các cuộc giao tranh với lực lượng Phi. Khi thấy xác Kozuka, chính phủ Phi đã liên lạc với chính phủ Nhật. Bộ Y Tế Nhật cùng với gia đình ông Kozuka đến “hiện trường” để nhận mặt, chị ruột của ông Onoda cũng có mặt để kêu gọi Onoda ra hàng, nhưng ông này vẫn biệt vô âm tín.

Còn một mình, ông tiếp tục mở những cuộc tấn công lẻ tẻ vào căn cứ Mỹ, tiếp tục “nhiệm vụ” thu thập tin tức của “đối phương”.
Kozuka Phát hiện
Nhờ việc binh nhất Akatsu hàng phục vào năm 1950 và trở về Nhật năm 1951 mà chính phủ Nhật biết là vẫn còn 3 người còn trốn trong rừng, từ năm 1954 trở đi, Nhật đã dùng nhiều hình thức như trực thăng kêu gọi, rải truyền đơn, tổ chức các nhóm tìm kiếm, nhưng không có kết quả. Nghĩ là ông không nắm vững tình hình bên ngoài nên những toán tìm kiếm đã cố tình để lại trong rừng những báo chí Nhật có đăng tin tức của Nhật Bản như tin Hoàng Thái Tử đương thời lấy vợ (bây giờ là Thiên Hoàng Akihito) (1959), Tokyo tổ chức Olympic (1964), Nhật Bản đã có Shinkansen (1964) v.v…. để ông “mở mắt”. Đến ngày 20/2/1974, Suzuki Norio, một lãng tử trẻ thuộc “thế hệ không biết chiến tranh” , vì yêu cái tính bi hùng của những người lính bị lãng quên đã vào rừng tìm kiếm, phát giác rồi tiếp xúc được với ông. Suzuki đã nói rất rõ về tình trạng bên ngoài và khuyên ông ra đầu thú, Onoda cho biết là đã nhặt và đọc được những tài liệu của ai đó để lại trong rừng và biết Nhật có nhiều thay đổi nhưng từ chối ra hàng vì chưa có lệnh.


Lúc Suzuki gặp gỡ ông Onoda trong rừng
 
Quân Lệnh… tan hàng
Suzuki đã mang tin này về Nhật Bản và ngày 9/3/1974, thiếu tá Taniguchi Yoshimi, người trực tiếp chỉ huy ông đã đến Luwang. Gần khu rừng mà Onoda đang ẩn náu, thiếu tá Taniguchi dùng loa kêu gọi Onoda ra trình diện. Phải chờ một ngày sau (10/3) thì thiếu úy Onoda, trong bộ quân phục bạc màu nhưng rất chỉnh tề được ghép bằng nhiều mảnh mới chịu xuất hiện. Sau khi ông báo cáo tình trạng của đài Radar Mỹ trên đảo sau nhiều năm thu thập, thiếu tá Taniguchi đọc quân lệnh chấm dứt nhiệm vụ chiến đấu của nhóm do đại tướng Yamash*ta Tomoyuki ban hành vào thời chiến.
Với tâm trạng sẵn sàng chịu tử hình vì đã giết và làm bị thương trên 30 người gồm dân Phi, lính Mỹ, ông đã chính thức… “từ bỏ vũ khí”. Buổi lễ tiếp nhận đầu hàng tại một căn cứ Phi đã diễn ra vô cùng trang trọng dưới sự chứng kiến của Tổng Thống Marcos Phi Luật Tân.











Trình diện và trao vũ khí đầu hàngÔng hô to “Thiên Hoàng Vạn Tuế” rồi trao thanh kiếm cho một vị tư lệnh quân đội Phi, vị này nhận rồi trao lại cho ông và nói: “Chúng tôi trả lại cho ông, vì kiếm này biểu hiện cho sự trung thành của một người lính”.Tổng thống Marcos đã gọi ông là “một quân nhân tuyệt vời”. Chiếu theo luật pháp Phi thì ông là người có tội và phải chịu xét xử, nhưng vì lý do: “ông không tin là chiến tranh chấm dứt và tiếp tục chiến đấu”, nên những hành động của ông chỉ là hành động vì nhiệm vụ, vì sống còn, cộng thêm lời yêu cầu của chính phủ Nhật nên chính phủ Phi quyết định ân xá.
Về lại cố hương
Ngày 12/3/1974, ông trở lại Nhật, câu nói đầu tiên của ông là: chiến tranh đã thực sự chấm dứt. Đài truyền hình NHK trực tiếp chuyện ông trở về trong suốt 66 phút, đã có 45.4 % dân chúng theo dõi sự kiện này, một trong những kỷ lục rất cao từ trước tới nay.

Trong cuộc họp báo, ông đã trình bày lý do không ra hàng là vì chưa có lệnh tan hàng, và ông rất buồn vì sự hy sinh của 2 đồng đội. Một nhà báo đặt câu hỏi:
- “nếu không gặp được ông trong rừng thì ông sẽ làm gì sau đó?
Ông trả lời:
- “Tôi vẫn tiếp tục nhiệm vụ của một người lính. Năm nay tôi đã 51, tôi nghĩ là sẽ sống cho đến 60 rồi mở một cuộc tấn công cuối cùng vào căn cứ radar Mỹ và sẽ chết ở đó”.
Ông được chính phủ Nhật tặng 1 triệu yen và rất nhiều tiền tặng từ những người Nhật để “làm lại cuộc đời”, lúc đầu ông không nhận nhưng sau đó thì phải nhận và đã cống hiến tất cả số tiền cho đền tử sĩ Yasuguni. Cũng có dự định sắp xếp để ông gặp Thiên Hoàng Hirohito, nhưng ông từ chối vì: “tự tôi quyết định việc trốn trong rừng nên tôi nghĩ ngài sẽ không có điều gì để nói với tôi cả”. Một trong việc mà ông làm đầu tiên khi về nước là đến viếng mộ của hai đồng đội Shimada, Kozuka.
Gầy dựng cuộc đời
Khác với Yokoi Shoichi, sau 28 năm trốn tránh trong rừng núi Guam, trở lại Nhật hai năm trước (1972) đã nhanh chóng hội nhập đời sống mới, ông Onoda thì cảm thấy ngộp với sự chật hẹp, không thênh thang như trong…. rừng, chưa quen với cuộc sống quá đầy đủ tiện nghi, thỉnh thoảng phát sợ khi nghe tiếng trực thăng của giới truyền thông mà cứ nghĩ là trực thăng địch. Tháng 4.1975, ông đã cùng người vợ mới cưới sang Ba Tây lập nghiệp chung với người anh trai trong một trại nuôi bò có diện tích lớn hơn phi trường Narita.
Năm 1980, ông đã bị shock khi nghe tin tại Nhật xảy ra một vụ giết bố mẹ mà thủ phạm là một học sinh trẻ bị ở lại lớp, đưa ông đến suy nghĩ “Các trẻ em đã làm mất chính mình trong một Nhật Bản giàu mạnh”, ông trở lại Nhật và quyết định
“sẽ phải làm một việc gì hữu ích với quãng đời còn lại.Năm 1984 ông thành lập “tư thục thiên nhiên Onoda” nằm trong núi thuộc tỉnh Fukushima, dùng kinh nghiệm sống của mình trong suốt 29 năm trong rừng dạy cho các học sinh trẻ tinh thần trân quí thiên nhiên. Hãy nghe “đệ tử” thuộc lứa tuổi 15 hay 16 tâm sự: “Ông bắt chúng tôi đi chân không trong suốt mấy ngày trời, lúc đầu thì đau, nhưng vài ngày thì không còn cảm thấy” hay “bình thường thì ông rất hiền nhưng ông rất khó khi dạy chúng tôi cách dùng lửa”.Có thể tóm gọn châm ngôn sống của ông là: “Vấn đề quan trọng là khả năng, nghĩa là phải hiểu rõ: biết mình có cái gì và không có cái gì, rồi hành động trong tinh thần trách nhiệm”.Ông vẫn đi đi về về giữa Ba Tây và Nhật Bản để vừa làm việc vừa thực hiện ý nguyện của mình.

http://nguoivietboston.com/wp-content/uploads/2014/02/image013.jpg


Onoda lúc trở lại đảo Luwang
Những giai thoại

- Trước khi lên đường, mẹ ông đã trao một đoản kiếm ngắn và dặn dò: nếu sợ sa vào tay giặc, bằng đoản kiếm này, trong những giây phút cuối cùng con hãy xử sự sao cho xứng đáng. Tuy nhiên, ông đã không phải dùng đoản kiếm này để tự xử và đã trả lại cho “khổ chủ” 29 năm sau đó.
- Trong cuộc chạm súng với cảnh sát Phi vào tháng 12/1972, đồng đội Kozuka đã bị bắn trúng vai khiến khẩu súng trường rơi xuống đất, sau đó lại bị bồi thêm mấy phát vào ngực, Onoda nhặt súng của Kozuka bắn trả 5 phát, dùng súng của mình bắn thêm 4 phát mở đường máu định mang Kozuka theo. Ông lay mạnh nhưng mắt Kozuka đã trắng dã và máu phun ra từ miệng, ông đành ngậm ngùi bỏ Kozuka ở lại chỉ đem theo được khẩu súng của đồng đội, sau đó khẩu súng này đã được trao lại cho gia đình Kozuka khi ông ra hàng. Chứng kiến trước mắt cái chết của đồng đội, Onoda nổi điên nhất quyết “trả thù”, vò xé nát tờ truyền đơn của Bộ Y Tế Nhật Bản kêu gọi ông ra hàng mà ông nhặt được, giữ trong người từ năm 1959. Lễ truy điệu ông Kozuka đã được cử hành tại Hachioji vào tháng 11 năm 1972.
- Tại đảo Luwang, nơi ông lẩn trốn, nhà cầm quyền tại đó đã quyết định xây dựng “con đường mang tên ông” để chiêu mời khách du lịch, khi được Ông Furanton, nhân viên phụ trách du lịch thông báo ý định này, ông rất vui vẻ và giúp đỡ tài chánh để hoàn thành con đường, nhiều năm sau đó ông vẫn đều đều gửi tặng cho trẻ em trong các ngôi làng trên đảo piano, dụng cụ học sinh.
- Ông không ra hàng vì nghĩ rằng những lời kêu gọi hàng phục chỉ là một sự lừa dối để kết thúc chiến tranh,sản phẩm tuyên truyền của quân “chiếm đóng”, chính quyền ở Nhật chỉ là chính quyền bù nhìn của Mỹ, còn chính phủ lưu vong Nhật Bản thì bản doanh đặt ở Mãn Châu đang chuẩn bị tái chiếm những vùng đất bị mất.Từ đảo Luwang, khi nhìn thấy các máy bay quân sự của Mỹ bay đến mặt trận Triều Tiên, ông tin là chính phủ lưu vong đã bắt đầu phản kích, và khi nhìn thấy máy bay quân sự của Mỹ bay đến chiến trường Việt Nam từcăn cứ quân sự Mỹ ở Philippines, ông tưởng là Mỹ đang tấn công Nhật Bản. Những điều này trùng hợp với kế hoạch mà ông đã được học và nghe tại căn cứ Futamata hay tại các chiến trường.
Được biết, Luwang là một hòn đảo nằm gần “cửa” ra vào hải cảng Phi Luật Tân, từ hòn đảo này có thể quan sát sự di chuyển của các quân hạm, máy bay của lực lượng Hoa Kỳ.

- Tuy nhiên cũng có một số nhỏ báo chí đã nêu ra nghi vấn: ông biết hay không biết Nhật đã đầu hàng? Trong số người nghi ngờ có nhà văn Tsuda Shin, trong quyển “3 tháng trời với anh hùng ảo tưởng-thiếu úy Onoda” đã chỉ trích và nêu giả thuyết: ông không dám ra đầu thú vì sợ bị dân làng trả thù, vì đã “lỡ” giết và làm bị thương nhiều người. Cũng vì một vài nghi ngờ “nho nhỏ” đó, đã là một lý do khiến ông bỏ Nhật sang Phi sinh sống vào tháng 4/1975.
- Thú vui duy nhất của các ông là nghe trực tiếp truyền thanh chương trình đua ngựa tại Nhật và hay “cá độ” với đồng đội của ông là Kozuka là ngựa nào về nhất.
- V.v….
Vĩnh biệt ông
Bà Onuki Kazuko em vợ của ông kể lại:
Vì viêm phổi nặng, đầu tháng 1 năm nay, anh cảm thấy trong người khó chịu, gia đình đã đưa anh vào bệnh viện. Vài ngày sau đó, hình như biết trước ngày đã gần kề, anh ra hiệu bằng ánh mắt muốn gặp mọi người thân. Hỏi, anh chỉ trả lời bằng cách gật đầu hay lắc đầu. Nhưng khi nghe nói là có giới báo chí muốn thu tin, mắt anh bỗng sáng lên như muốn ngồi dậy trở về nhà. Tôi nghĩ là anh sẽ nói rất chi tiết lúc anh còn chiến đấu trong rừng nhưng anh sẽ không nói gì về cá nhân anh vì con người anh là như vậy, nghiêm khắc với chính mình và không bao giờ thổ lộ những gì bất mãn.Và “người chiến binh cuối cùng” của một dân tộc: “phải anh hùng lắm thì mới là người Nhật được”* đãtrút hơi thở cuối cùng vào ngày 16 tháng 1 năm nay, hưởng thọ 91 tuổi để lại hậu thế bao niềm kính phục.
Kính chúc hương hồn ông bình yên an nghỉ ngàn đời nơi cõi ấy.

Vũ Đăng Khuê
Tháng 2/2014
-------
*Trích trong bài viết: “Nhật Hoa trong năm Giáp Ngọ” của tác giả Võ Thành Văn đăng trong số báo Việt Báo Xuân Giáp Ngọ.
Trên lãnh thổ ấy, diện tích có thể canh tác chỉ được 12%, tại ba bình nguyên lớn, lại chia cắt bởi núi rừng và nhiều con sông ngắn, ít thuận lợi cho vận chuyển. Là một quần đảo, nước Nhật thật ra chỉ có một số ốc đảo khả dĩ sống được giữa núi và nước. Mà sống khá chật vật vì thiếu tài nguyên thiên nhiên. Giữa các ốc đảo và biển cả, dân Nhật phải dùng thuyền bè và tự nhiên phải giỏi về nghề nước.
Được trời cho mảnh đất hẩm hiu này, họ tin rằng phải là siêu nhân thì mới tồn tại được. Dân Tầu có thể cho rằng mình là cái rốn của vũ trụ, là trung tâm văn hóa của thế giới. Hay dân Mỹ thường nghĩ là ai ai cũng muốn thành người Mỹ. Dân Nhật lại nói ngược: phải anh hùng lắm thì mới là người Nhật được.
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 14/Mar/2014 lúc 2:15pm

Duyên Không Số



    
gày đó, tôi vượt biển thành công, vào trại tỵ nạn Thái Lan và quen Thúy.
Thúy bằng tuổi, đẹp và hát hay lắm. Tôi lại biết đàn guitar. Hai chúng tôi cùng làm chung trong ban thư viện trại, gặp gở hằng ngày. Hạp nhau như vậy đó, nhưng thời gian gần gủi còn ít ỏi nên chỉ mới mến nhau như hai ngưòi bạn.
Thúy vào trại trước khá lâu, nên quen chỉ được hai ba tháng ngắn ngủi, gia đình nàng có giấy lên đường định cư tại Mỹ. Đêm trước ngày Thúy rời trại lên đường định cư trúng vào dịp trăng tròn Trung Thu nên Ban chấp hành trại có tổ chức một buổi văn nghệ gọi là vừa mừng Trung Thu, vừa tiễn chân những người may mắn sắp được qua Mỹ xây dựng lại tương lai.
Buổi văn nghệ, Thúy nhận lời hát giúp vui môt bản. Nàng yêu cầu tôi đệm đàn guitar cho nàng lần cuối để ghi lại một kỷ niệm chung cho hai đứa.
Đêm đó, hai chúng tôi được giới thiệu là “Lê Uyên và Phương của Thái Lan”. Thúy hát thật xuất thần, và tôi tuy lần đầu trình diễn trước đám đông nhưng cũng hoàn thành nhiệm vụ. Nói nào ngay, chỉ có một cái Micro nhỏ xíu cho ca sĩ nên khán giả chỉ nghe và ngắm “Lê Uyên” Thúy nức nở với bản nhạc “Ngăn Cách” chứ đâu ai thèm để ý tới “Phương” ThaiNC khép nép đứng sau lưng ôm đàn mà làm chi! Nói thiệt, nhiều khi tôi còn không nghe được tiếng đàn của mình nữa là khán giả.
Sau khi bản nhạc chấm dứt trong tiếng vổ tay vang dội với những tiếng “BIS!” “BIS!”. Có tên còn nêu đích danh bản nhạc ruột của Thúy ra yêu cầu “Huyền Thoại Người Con Gái … đi Thúy ơi”. Tiếng hoan hô và yêu cầu rầm rộ làm Thúy cao hứng quay lại nói với tôi “Huyền Thoại Người Con Gái nghe Thái”
Vậy mà tôi đành lòng nói “Không” với Thúy thật phủ phàng, và không để cho Thúy kịp hỏi tại sao, tôi bước một mạch xuống sân khấu làm Thúy cũng ngỡ ngàng. Thúy có thể hát không cần đàn, nhưng có lẽ cũng mất hứng nên bước xuống theo không hát thêm một bài nào nữa.
Sáng sớm hôm sau tôi muốn gặp Thúy để nói vài lời giải thích, nhưng lúc này mọi người đều bận rộn tiễn đưa nhau. Thúy cũng vậy, nên hai chúng tôi không có một phút nào nói chuyện riêng với nhau được.
Xe đã bắt đầu lăn bánh rời cổng trại mà tôi vẫn chưa nói được lời nào. Thúy ngồi ngay cửa sổ nhìn xuống xe thấy tôi đứng. Nàng vẩy tay chào không nói một lời, mặt buồn rười rượi. Không biết Thúy buồn vì giận tôi, hay buồn vì đang từ giả người bạn một thời khốn khó bên nhau, và tương lai không biết khi nào sẽ gặp lại.


Chúng tôi mất liên lạc từ đó mãi đến hôm nay.
Ba mươi bốn năm đằng đẵng.
Thúy đã là …bà ngoại của đưá cháu xinh xắn. Không hiểu sao chúng tôi vẫn còn nhận ra nhau mới kỳ lạ !
Hàn huyên thăm hỏi một hồi, bắt đầu nhắc đến cái đêm văn nghệ năm xưa đó. Nỗi niềm tâm sự chất chứa bao nhiêu năm của tôi bây giờ mới được giải bày.
Ngày đó, tôi chưa kịp nói cho Thúy biết rằng, tay đàn guitar của tôi còn non yếu lắm. Tôi chỉ mới biết đàn sơ sơ vài bản nhạc tủ và một vài điệu slow hay Boléro ruột là còn vỏ vẻ chút đỉnh, còn ngoài ra là tôi ấm ớ ngay. Đại khái với những thằng không biết đàn thì tôi là thằng chột làm vua mà thôi.
Lúc đó, người biết đàn thực sự và đầy đủ căn bản nhạc lý là anh Dũng. Anh Dũng hơn tụi tôi khoảng 6, 7 tuổi, là trưởng ban thư viện kiêm trưởng ca đoàn nhà thờ của trại, anh là anh cả của cả bọn tôi. Nghe nói anh có hôn thê vượt biên trước và đang chờ anh ở Mỹ.
Anh Dũng thương và coi tụi tôi như em. Những khi ngồi hát hò văn nghệ bỏ túi với nhau, những bài căn bản dễ dàng, anh Dũng biết tôi có thể đệm được thì anh để cho tôi chơi. Còn những bài nhanh và khó thì anh ấy đỡ hết. Trông bề ngoài thì có vẻ như tôi và anh ấy chia nhau đàn, chứ đâu biết anh ấy là sư phụ, và tôi chỉ đáng làm học trò.
Cả Thúy cũng không nhận ra điều này. Nàng thấy rằng mỗi lần họp mặt ca hát, bản nào nàng ca cũng có người đàn theo, lúc thì tôi, lúc thì anh Dũng, đâu có gì trở ngại.
Cho nên, bản nhạc “Ngăn Cách” chơi theo điệu Boston chậm, và tôi có chuẩn bị trước nên có thể đệm theo dễ dàng, chứ còn bản “Huyền thoại người con gái” này thuộc loại kích động và nhanh, tôi lại chưa chuẩn bị. Bể dĩa là cái chắc!
Nhưng khi đó tôi không đủ can đảm thú nhận mình không biết. Chỉ nói một chữ “không” trơ trụi như vậy bảo sao Thúy không trách và buồn cho được? Tôi biết, nhưng thà để cho Thúy trách rồi sẽ giải thích sau chứ không dám gồng mình đàn cho nàng ca.
Câu chuyện là vậy đó. Thời gian qua thỉnh thoảng ngồi nhớ lại những lỗi lầm thời trai trẻ, tôi vừa tức cười vừa bứt rứt vì chuyện này.
Nghe tôi nói xong, Thúy cười an ủi.
- Thôi Thái quên chuyện đó đi. Thúy biết lâu rồi. Thông cảm, thông cảm.
Tôi ngạc nhiên
- Sao Thúy biết?
Nàng hỏi lại:
- Biết ông xã Thúy là ai không?
- Ai?
- Anh Dũng chứ ai. Anh ấy nói cho Thúy biết chuyện của Thái từ lâu rồi.
Tôi chưng hửng. Tại sao anh Dũng lại thành chồng của Thúy được nhỉ? Không phải là ngày đó anh ấy đã có hôn thê chờ ở Mỹ hay sao?
- Duyên số hết Thái ơi - Thúy kể
… Không ai ngờ được anh Dũng và Thúy cùng về định cư một tiểu bang, chung thành phố, rồi lại vô đại học chung trường nữa chứ. Thuở đó khi anh Dũng qua tới nơi thì hôn thê cũ của anh không chờ đợi được, đã ôm cầm sang thuyền khác. Tụi này gặp. Anh ấy thương Thúy, Thúy cũng thương ảnh, rồi…cưới nhau. Vậy mà đã 27, 28 năm. Bây giờ tụi này làm ông ngoại bà ngoại rồi đó nghen.
Ôi! duyên số! duyên số!
Họ đúng là duyên số.
Còn tôi, Hic !
Tôi là duyên... không số.

ThaiNC
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23875
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 17/Mar/2014 lúc 7:18am
Xuân Xanh Hạ Hồng
Hoa Hoàng Lan
http://www.mediafire.com/?3zne22r2jgk4qhz


Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 24/Mar/2014 lúc 7:46am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23875
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Mar/2014 lúc 7:27am
NHẬT KÝ CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ
Nguyên Khôi
Sơn Huy & Thục Quyên diễn đọc

 
http://www.mediafire.com/file/qgzdoynob3z

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23875
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 28/Mar/2014 lúc 10:27pm
Ba Ếch Ở Mỹ
Trần Trung Nhã
http://www.mediafire.com/?ymedzjdd2c659ai



Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 30/Mar/2014 lúc 9:54am
user%20posted%20image

SÔNG CÁI

Tác giả: Lê Minh Nhựt
Giọng đọc: Hiểu Kỳ


Con sông chảy qua trước ngôi nhà của tôi được gọi là sông Cái. Khi còn nhỏ , tôi luôn thắc mắc: Sông Cái ở đây, còn sông Đực ở đâu....?.......

http://www.mediafire.com/?uw74ktrovlx6tha
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 202 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.471 seconds.