Hoàng hậu duy nhất của nhà Nguyễn được phong chức hoàng hậu khi còn sống.
1* Nam Phương Hoàng Hậu
Nam Phương hoàng hậu trong triều phục, 1934. Người
thiếu nữ Gò Công sắc nước hương trời, đức hạnh vẹn toàn, được xem là
"mẫu nghi thiên hạ", tưởng đâu cuộc đời hạnh phúc, nhưng số phận hẩm
hiu, phải sống cô đơn sầu muộn và chấm dứt cuộc đời nơi đất khách quê
người, trong buồn thảm. Bà hoàng sầu muộn đó chính là Nam Phương Hoàng
Hậu.
Bà là vợ của Hoàng Đế Bảo Đại, hoàng hậu duy nhất của nhà Nguyễn được
phong chức hoàng hậu khi còn sống, và cũng là hoàng hậu cuối cùng của
chế độ phong kiến Việt Nam.
1.1. Xuất thân
Bà tên là Nguyễn Hữu Thị Lan, sinh ngày 4-12-1914 tại Gò Công, xuất
thân từ một gia đình Công giáo giàu có bậc nhất Nam Kỳ thời bấy giờ. Tên
thánh là Marie Thérèse (Maria Têrêsa), quốc tịch Pháp tên Jeanne
Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan.
Con ông Nguyễn Hữu Hào và bà Lê Thị Bính, cháu ngoại ông Lê Phát Đạt
(Huyện Sỹ), là một trong 4 người giàu nhất Việt Nam đầu thế kỷ 20. Miền
Nam có câu: "Nhất Sỹ, Nhì Phương, Tam Xường, Tứ Định".
Nguyễn Hữu Hào có hai người con gái, Nguyễn Hữu Thị Lan và người chị
là Agnès Nguyễn Hữu Hào, lấy chồng sớm là Bá tước Didelot, làm công chức
cho Tây.
Qua những tấm hình đăng trên tờ Indochine, thì hai chị em đều cao lớn, hơn hẳn những người phụ nữ Việt Nam khác.
Năm 1926, 12 tuổi, Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan sang pháp học tại
trường Couvent des Oiseaux, một trường nữ danh tiếng tại Paris, do các
nữ tu điều hành.
Tháng 9 năm 1932, sau khi đậu tú tài toàn phần, Nguyễn Hữu Thị Lan về
nước trên chiếc tàu d'Artagnan của hảng Messagerie Maritime. Bảo Đại
cũng về nước trên chiếc tàu đó để lên ngôi vua, nhưng hai người không
gặp nhau.
1.2. Cuộc tình với Bảo Đại
 |
Vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương |
Gần một năm sau, khi Hoàng Đế Bảo Đại lên nghỉ mát ở Đà Lạt, trong
một buổi dạ tiệc tại khách sạn La Palace, do Toàn quyền Đông Dương
Pierre Pasquier và Thị trưởng Đà Lạt sắp đặt, Nguyễn Hữu Thị Lan và
Hoàng Đế Bảo Đại gặp mặt nhau.
Về cuộc tình duyên, trong cuốn Con Rồng An Nam, Bảo Đại viết như sau:
"Sau lần hội ngộ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng chúng tôi gặp mặt nhau
trao đổi tâm tình, Marie Thérèse thường nhắc đến những kỷ niệm ở trường
Couvent des Oiseaux một cách thích thú. Cũng như tôi, nàng rất thích thể
thao và âm nhạc.
Nàng có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam, pha một chút Tây phương,
do vậy, tôi đã chọn hai chữ Nam Phương để đặt danh hiệu cho nàng. Các
tiên đế của tôi cũng hướng về phụ nữ miền Nam, đã có 7 phụ nữ miền Nam
từng là chủ nhân của Hoàng thành Huế.
Trước kia, đức Thế Tổ Cao Hoàng (Vua Gia Long) được dân miền Nam yểm
trợ khôi phục giang sơn, do đó, có sự ràng buộc tình cảm giữa Hoàng
triều và người dân miền Nam".
Trong cuốn hồi ký, Nam Phương Hoàng Hậu cũng ghi lại:
"Hôm đó, ông Darle, thị trưởng Đà Lạt gởi giấy mời cậu Lê Phước An
của tôi và tôi đến dự tiệc tại Hotel Palace. Tôi không muốn đi, nhưng
cậu An năn nỉ và hứa chỉ đến tham dự và vái chào nhà vua xong thì về,
nên tôi phải đi một cách miễn cưỡng. Chỉ trang điểm sơ sài và mặc chiếc
áo bằng lụa đen mua từ bên Pháp.
Chúng tôi đến trễ. Bữa tiệc bắt đầu từ lâu. Cậu tôi kéo ghế định ngồi
bên ngoài, thì ông Darle trông thấy, chạy đến kéo chúng tôi vào trong
nhà. Ông nói: "Ông và cô phải đến bái yết Hoàng thượng mới được".
Khi cánh cửa phòng khách vừa mở, tôi thấy vua Bảo Đại ngồi trên chiếc
ghế bành giữa nhà. Ông Darle bước đến bên cạnh nhà vua, nghiêng mình
cúi chào, và kính cẩn nói: "Votre Majesté, Monsieur Lê Phước An et sa
nièce, Mademoiselle Marie Thérèse". (Tâu Hoàng thượng, đây là ông Lê
Phước An và cháu gái, cô Marie Thérèse).
Nhờ các nữ tu ở trường Couvent des Oiseaux chỉ dạy, nên tôi biết phải
làm thế nào để tỏ lòng tôn kính đối với một quân vương, vì thế, tôi
không ngần ngại đến trước mặt hoàng đế, quỳ một gối và cúi đầu sát sàn
nhà, cho đến khi bàn tay của cậu tôi kéo dậy. Nhà vua gật đầu chào tôi,
thì vừa đúng lúc, tiếng nhạc trổi lên theo nhịp Tango, Ngài ngỏ lời mời
và dìu tôi ra sàn nhảy. Rồi chúng tôi bắt đầu trò chuyện.
Về sau, khi đã thành vợ chồng, Ngài cho biết là hôm đó, Ngài rất chú ý
đến cách phục sức đơn giản của tôi. Tôi nghĩ rằng, nhà vua chú ý đến
tôi, một phần là, tôi là người VN duy nhất biết nói tiếng Pháp và hành
lễ đúng cung cách lễ nghi đối với Ngài".
Bảo Đại say mê Nguyễn Hữu Thị Lan, ông viết:
"Lan có vẻ đẹp thùy mị của người con gái miền Nam, hiền lành và quyến
rủ làm tôi say mê, sang trọng nhưng không kiêu, có nụ cười kín đáo và
không e lệ".
1.3. Gặp trắc trở
Tem in hình Nam Phương Hoàng Hậu
Khi Bảo Đại hỏi cưới thì gia đình Nguyễn Hữu Thị Lan ra điều kiện:
- Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong hoàng hậu chánh cung ngay trong ngày cưới.
- Được giữ nguyên đạo Công giáo. Các con sinh ra phải được rửa tội theo giáo luật Công giáo và giữ đạo.
- Riêng Bảo Đại thì vẫn giữ đạo cũ là Phật giáo
- Phải được Toà thánh Vatican cho phép đặc biệt hai người lấy nhau và giữ hai tôn giáo khác nhau.
Nguyễn Hữu Thị Lan là người nổi tiếng xinh đẹp, đã từng 3 lần đoạt
giải Hoa Hậu Đông Dương, nhưng bà mang quốc tịch Pháp và đạo Công giáo,
vì thế, cuộc hôn nhân gặp phải nhiều phản đối.
Thái Hậu Từ Cung, mẹ Bảo Đại, không bằng lòng. Các quan trong triều,
vốn có ác cảm với người Pháp và Thiên Chúa giáo vì đã có những vụ cấm
đạo, giết giáo sĩ, giáo dân, hơn nữa, một số quan lại có con gái, muốn
cho vào làm dâu nhà Nguyễn.
Vua Bảo Đại nói với thân mẫu, nếu không cưới được Nguyễn Hữu Thị Lan, thì ông ở vậy, không lấy vợ.
Trước Hoàng tộc, nhà vua nói: "Trẩm cưới vợ cho Trẩm, đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân và triều đình". Tôn Thất Hân làm Viện trưởng Cơ Mật Viện và Thượng thư Bộ Hình.
1.4. Hôn lễ và đăng quang
Ngày 20-3-1934, hôn lễ được tổ chức tại Huế. Khi đó, Bảo Đại 21 tuổi,
Nguyễn Hữu Thị Lan 19. Bốn ngày sau, lễ Tấn Phong Hoàng Hậu rất trọng
thể ở Điện Dưỡng Tâm. Nhà vua phong Hoàng hậu tước Nam Phương Hoàng Hậu.
Việc phong hoàng hậu là một biệt lệ, vì 12 đời vua trước, các bà vợ
chỉ được phong Vương Phi, đến khi chết mới được truy phong Hoàng Hậu.
Bảo Đại giải thích hai chữ Nam Phương như sau: "Tôi đã chọn tên trị
vì của hoàng hậu mới là Nam Phương, có nghĩa là "Hương thơm của miền
Nam" (Parfume du Sud) và tôi đã ra một chỉ dụ, đặc biệt cho phép bà được
phục sức màu vàng, là màu dành riêng cho Hoàng đế". (Có câu "Lưu phương
bách thế" là tiếng thơm lưu truyền muôn thuở. Hoặc "Ngàn năm lưu xú
diệt lưu phương" là tiếng xấu làm mất tiếng thơm ngàn năm).
Đêm 1-4-1936, người dân Huế nghe những tiếng súng đại bác báo tin
mừng Hoàng hậu hạ sinh, và tờ mờ sáng, thì nghe 7 tiếng súng thần công
nổ rền, báo tin mừng là một hoàng tử. (9 tiếng đại bác, là công chúa).
Đó là Đông Cung Thái Tử Bảo Long.
Bảo Đại rất thương yêu vợ. Ông thường tự lái xe đưa Hoàng hậu thăm
viếng những danh lam thắng cảnh của đất nước, có lần lái xe đến tận Nam
Vang (Phnom Penh).
Nam Phương giúp nhà vua trong những buổi tiếp đón những phái đoàn
ngoại giao, mà trước kia chưa có hoàng hậu nào tham dự như tiếp Thống
chế Tưởng Giới Thạch của Đài Loan, Quốc Vương Norodom Sihanouk của
Campuchia và Quốc Vương Lào Soupha Vangvong.
 |
Hoàng Hậu Nam Phương và các con |
Bà cũng đem lại hoà khí giữa những chức sắc đạo Thiên Chúa với Hoàng triều nhà Nguyễn.
1.5. Cuộc sống lưu vong
Năm 1945, Hoàng Đế thoái vị, làm một thường dân.
Năm 1947, Hoàng hậu rời VN bắt đầu cuộc sống lưu vong. Những năm cuối
đời, bà sống lặng lẽ cùng các con tại một làng cổ tên Chabrignac, tỉnh
Corrèze, Pháp.
Khu trang trại có rừng bao quanh, toà nhà gồm 32 phòng, 7 phòng tắm, 5 phòng khách. Cựu hoàng có đến thăm bà vài ba lần.
Dân làng Chabrignac kể rằng, Nam Phương giàu có nhưng thiếu hạnh
phúc, buồn nản về tình cảm nên sống âm thầm trong ngôi nhà vắng vẻ.
Những ngày vui ngắn ngủi trong mùa hè, khi các con về thăm rồi lại đi.
1.6. Trút hơi thở cuối cùng
Ngày 14-9-1963, khi từ quận Brive kế bên về nhà, bà kêu đau cổ họng.
Hôm sau bác sĩ đến, cho là viêm cổ họng thông thường, kê toa mua thuốc
rồi ra về. Bác sĩ không biết rằng bà có bịnh lao hạch trước kia. Vài giờ
sau, bà kêu khó thở. Quản gia gọi điện thoại đến xã Jouillac kế bên,
rồi gọi đến thị trấn Pompadour cách đó 10 cây số, khi bác sĩ đến thì đã
quá trễ. Bà đã chết vì nghẹt thở ở tuổi 49. Ngoài người giúp việc và ông
quản gia ra, không có ai khác cả. Các con đi làm hoặc đi học ở Paris.
Đám tang ảm đạm cũng như cuộc đời sầu muộn của bà. Được tổ chức sơ
sài, lặng lẽ, không một lời ai điếu. Ngoài 2 hoàng tử và 3 công chúa đi
bên cạnh quan tài, không có bà con nào cả. Về phía chính quyền, có hai
thị trưởng Brive La Gaillarde và Chabrignac.
1.7. Ngôi mộ
 |
Ngôi mộ của Nam Phương Hoàng Hậu |
Nơi an nghỉ của bà là khu mộ của gia đình Bá tước De La Besse, vì
thế, hôm đưa tang, người chủ đất là bà Bá tước đến thăm. Bà Bá tước
chính là công chúa Như Lý, con gái vua Hàm Nghi, mà dân Pháp gọi bà là
công chúa An Nam (Princesse d'Annam), thuộc vai vế hàng cô (tante) của
Bảo Đại.
Kể lại chuyện nầy, công chúa Như Lý nói: "Ở gần nhau suốt 5 năm mà
không biết nhau, đến khi người cháu Nam Phương qua đời mới biết, thật là
đáng tiếc."
Ngôi mộ của bà thấp lè tè, nằm khiêm nhường và kín đáo bên cạnh những
ngôi mộ to lớn ở đó. Trên mộ bia, ghi rõ tên và phẩm tước bằng chữ
Pháp: "Nơi đây, an nghỉ của Hoàng hậu nước An Nam, tên là Jeanne
Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan". (ICI, REPOSE L'IMPÉRATRICE D'ANNAM, NÉE
MARIE THÉRÈSE NGUYEN HUU THI LAN)
Phía sau có khắc dòng chữ Hán, đọc từ trên xuống "Đại Nam, Nam Phương Hoàng Hậu Chi Mộ".
Người ta đồn, thi hài được chôn theo nhiều nữ trang quý báu như kiềng cổ, một xuyến nạm ngọc lam…
Ngôi mộ bị đào 3 lần, hai lần có mục đích trộm cắp và một lần vì lý
do chính trị. Đó là ngày kỷ niệm Pháp thất trận Điện Biên Phủ, cho nên
người Pháp không ưa người Việt Nam và không biệt bất cứ người Việt nào.
Hiện nay, bia đã sứt cạnh, dáng vẻ điêu tàn, vì người giữ nghĩa trang
ngày càng già yếu, không còn đi lại chăm sóc mồ mả ở đó chu đáo được
nữa.
Hàng năm, vào dịp Thanh Minh, công chúa Phương Liên, con gái thứ hai, sống ở Bordeaux, mang hoa tươi đến trồng trên mộ.
Theo dân làng Chabrignac, thì Bảo Đại chưa một lần nào đến viếng mộ
cả, ngay trong ngày tang lễ cũng vắng bóng ông, đó là lý do khiến cho
các con ngày càng xa lánh ông. Người bạc tình. |