![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Lịch Sử - Nhân Văn | |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 4 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
Nguyễn Tử Quang Điển hay tích lạ Liễu Chương Đài Liễu Chương Đài trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn diễn ta nỗi lòng nhớ thương quê hương và tình nhân của nàng Kiều lúc ở lầu xanh, có câu: Nhớ lời nguyện ước ba sinh, Xa xôi ai có biết tình chăng ai? Khi về hỏi Liễu Chương Đài, Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay! "Chương Đài" là tên một con đường ở thành Trường An bên Tàu. "Hỏi Liễu Chương Đài" là hỏi thăm cây liễu ở đường Chương Đài. Đây có nghĩa là hỏi thăm người tình nhân cũ (tức là nàng Kiều). Sở dĩ có nghĩa ấy do điển tích ở tình sử: Đời nhà Đường, Hàn Hoành tuổi trẻ nổi tiếng là một người tài danh. Nhà nghèo kiết, lấy một nàng kỵ nữ họ Liễu ở Chương Đài. Mấy năm sau, quan Tiết độ sứ ở châu Thanh là Hầu Hy Dật mến tài, tâu vua xin Hàn Hoành làm người giúp việc. Bấy giờ, đương lúc nhiễu loạn, Hàn không dám đem Liễu đi theo, để nàng ở lại kinh đô, định chờ dịp tiện sẽ về đón. Nhưng trải qua ba năm trời, Hàn vẫn không về đón được. Nhân lấy vàng đựng vào một cái túi gởi về cho Liễu, kèm theo một bài thơ: Liễu ơi, hỡi Liễu Chương Đài, Ngày xưa xanh biếc, hỏi nay có còn? Ví tơ buông vẫn xanh rờn, Hay vào tay khác, khó còn nguyên xưa! Nguyên văn: Chương Đài Liễu! Chương Đài Liễu! Tích nhật thanh thanh kim tại phủ? Túng sử trường điều tự cựu thùy, Dã ưng phan chiết tha nhân thủ. Liễu được thơ cũng đáp lại: Xanh non cành liễu đương tươi, Năm năm luống để tặng người biệt ly. Thu sang quyện lá vàng đi, Chàng về biết có còn gì bẻ vin! (Bản dịch của Trúc Khê) Nguyên văn: Dương liễu chi, phương chi tiết, Khả hận niên niên tặng ly biệt. Nhất diệp tùy phong hốt báo thu, Túng sử quân lai khởi kham chiết! Lời thơ trao đổi thành một điềm gở báo trước. Một thời gian, Hàn được trở về triều, tìm Liễu không thấy đâu cả. Dò hỏi tin tức, thì ra Liễu đã bị viên tướng Phiên rất có công trạng với triều đình tên Sa Tra Lợi thấy nàng có sắc đẹp nên cướp mất. Nàng bấy giờ được luyến ái hơn hết cả mọi phòng. Hàn buồn bã vô cùng, nỗi nhớ thương không sao khuây được. May có một tráng sĩ trẻ tuổi tên Hứa Tuấn thương xót tình cảnh của Hàn, tìm mẹo cứu được Liễu. Bấy giờ vợ chồng được xum họp đầm ấm như xưa. |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
Nguyễn Tử Quang Điển hay tích lạ Tuyệt Diệu Hảo Từ Thái Diễm cũng gọi là Thái Văn Cơ, một nữ sĩ tài hoa đời Tam Quốc (220-264). Cha nàng là Thái Ung, có tài thẩm âm vào bực nhứt cổ kim. Tương truyền, thấy một người chụm củi, ông bảo: "Tôi nghe tiếng củi đó nổ, biết là củi tốt, sao đem chụm cho uổng". Ông xin khúc củi về, làm một cây đàn, tiếng rất trong. Nàng Thái Diễm lên 8 đã giỏi đàn. Có chồng là Vệ Đạo Giới nhưng lại góa chồng sớm, không con. Đương lúc Đổng Trác nổi loạn, nàng bị rợ phương bắc bắt về đất Phiên, phải sống tủi nhục ở với Hung Nô. Nàng nhớ quê hương, mới làm ra 18 khúc kèn rợ Hồ. Những bản nhạc này truyền vào Trung Nguyên. Tào Tháo là chúa nước Ngụy, trước vốn là bạn thân của cha nàng, nay lại thưởng thức bản nhạc, động lòng thương xót, mới sai người đem ngàn lượng vàng lên phương bắc chuộc nàng về. Vua đất Hồ là Tả Hiền vương vốn sợ uy thế của Tào Tháo phải cho người đưa nàng về Hán. Tháo lại đứng làm chủ gả nàng cho Đổng Kỷ. Khi về nước, nàng Thái Diễm có làm bài "Bi phẫn thi" dài 540 chữ, tả nỗi long đong của nàng, lời cực kỳ thống thiết, mỗi chữ như một giọt lệ. Dục tử bất năng đắc, Dục sinh vô nhứt khả. Bỉ sương giả ha cô? Nãi lao thử ách họa! Nghĩa: Muốn chết mà không được, Muốn sống thêm vất vả. Hỡi trời xanh tội gì? Bắt ta gặp tai họa! Hồ phong xuân hạ khởi, Phiên phiên suy ngã y, Túc túc nhập ngã nhĩ. Cảm thời niệm phụ mẫu, Ai thán vô cùng dĩ! Nghĩa: Xuân hạ, gió Hồ nổi, Phất phất tà áo ta. Ào ào bên tai thổi, Cảm xúc sinh nhớ nhà, Cùng khổ thay nông nỗi. (Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê) Một hôm, Tào Tháo đem quân đánh Lưu Bị, tiện đường ghé thăm. Đổng Kỷ làm quan xa chỉ có nàng ở nhà. Nghe tin Tháo đến, nàng vội ra rước vào. Tháo ngồi trên sập, nàng thi lễ xong chắp tay đứng hầu bên. Tháo nhìn lên vách, chợt thấy một tấm bìa treo, có ghi bài văn bia, bèn đứng dậy bước đến xem và hỏi nguồn gốc. Thái Diễm thưa: - Đây là bài văn bia đề một nàng Tào Nga. Xưa đời Hòa Đế, ở vùng Thượng Ngu có một người đồng bóng tên Tào Vu, hay lên đồng nhảy múa. Một hôm vào ngày mồng 5 tháng 5, Vu say rượu, đứng múa may trên thuyền, sẩy chân té xuống sông chết. Cô con gái của Vu vừa lên 14 tuổi, quá thương cha, cứ đi dọc bờ sông kêu khóc suốt 7 ngày đêm, rồi nhảy xuống nước mất tích. Qua 5 ngày sau, bỗng thấy nàng đội xác cha nổi lên mặt sông. Người trong làng vớt xác cả hai chôn cất. Quan huyện Thượng Ngu là Đỗ Thượng tâu việc ấy về triều. Triều đình khen nàng Tào Nga là gái hiếu, truyền cho lập bia. Đỗ Thượng lại sai Hàn Đan Thuần làm bài văn khắc vào bia để ghi lại việc ấy. Hàn Đan Thuần bấy giờ mới 13 tuổi, cầm bút viếc ngay một hơi thành bài văn, chẳng phải sửa chữa một chữ. Đỗ Thượng chịu là hay, cho khắc vào bia dựng bên mộ nàng Tào Nga. Thời bấy giờ, ai đọc cũng lấy làm lạ. Tiếng văn hay đồn dậy xa gần... Phụ thân thiếp nghe tiếng cũng tìm đến xem, gặp lúc trời tối, không nhìn thấy chữ, phải sờ vào bia, lần từ nét mà đọc. Đọc xong, người lấy bút viết 8 chữ lớn vào sau lưng bia. Về sau, có người khắc cả 8 chữ vào đấy. Tào Tháo thấy 8 chữ ấy cũng ghi trên bức bia, bên cạnh bài văn như sau: "Hoàng quyến, ấu phụ, ngoại tôn, tê cửu". Tháo hỏi Diễm: - Nhà ngươi có hiểu ý nghĩa 8 chữ này không? Nàng thưa: - Tuy là di bút của cha, nhưng thú thật thiếp cũng hiểu ý nghĩa ra sao. Tháo quay lại hỏi các mưu sĩ, mọi người đều chịu không biết. Bấy giờ có quan Chủ bạ là Dương Tu lên tiếng: - Tôi hiểu ra rồi. Tu giải: - Tám chữ đó là ẩn ngữ của Thái Ung. "Hoàng quyến" là lụa màu vàng, tức là màu sắc của tơ (ti sắc), chữ "ti" với chữ "sắc" hợp lại thành chữ "tuyệt". "Ấu phụ" nghĩa là con gái còn nhỏ, tức là "thiếu nữ". Chữ "thiếu" đứng bên chữ "nữ" hợp thành chữ "diệu". "Ngoại tôn" là cháu ngoại. Cháu ngoại tức là đứa con của con gái mình (nữ nhi tử). Chữ "nữ" chắp với chữ "tử" thành chữ "hảo". "Tê cửu" là cái cối giã hành tỏi. Cái cối là vật chịu cay (thụ tân). Chữ "thụ" đặt bên chữ "tân" thành chữ "từ". Tóm lại, đó là ẩn chữ "Tuyệt diệu hảo từ", tức Thái Ung đã hết lời khen tặng văn chương của Hàn Đan Thuần vậy. Mọi người đều khen Dương Tu tài thức mẫn tiệp. |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
Hát Quan Họ Đặc biệt ở tỉnh Bắc Ninh miền Trung du Bắc Việt có loại dân ca trữ tình gọi là "Hát quan họ". Đất Bắc Ninh xưa gọi là đạo Bắc Giang, rồi đổi ra trấn Kinh Bắc, một miền phong phú về mặt dân ca, cũng là một vùng nổi tiếng về phong quang cẩm tú, về điền địa phì nhiêu, về sắc đẹp duyên dáng và tình tứ của phụ nữ, về thông minh hay chữ và thành đạt của danh thần, văn sĩ. Cũng như hầu hết các loại dân ca trữ tình ở Việt Nam, hát Quan họ vay mượn nhiều ở phong dao. Hầu hết các bài Quan họ đều theo thể lục bát hay lục bát biến thể. Đó là những bài tình ca do nam nữ thanh niên Bắc Ninh hát lên để ca tụng tình yêu, nói lên những oán trách, hờn ghen và giận tủi về yêu đương hoặc biểu lộ những tâm tình sôi sục về yêu đương. Tính chất trữ tình của các điệu hát ấy có thể chia thành nhiều loại. Loại bài có tính chất nhẹ nhàng, chân thật vui tươi, cởi mở, hoạt bát, thoải mái. Có loại bài có tính chất bày tỏ, tin tưởng, lạc quan, yêu đời, trìu mến. Có loại bài tình tứ, duyên dáng, thắm thiết, say sưa. Có loại mang tính chất vui tươi nửa trào phúng, nửa tình tứ một cách ý nhị. Có loại đượm nỗi nhớ nhung, trách móc. Trong các bài Quan họ, nhiều nhứt là những bài để tỏ tình. Rất ít bài nói lên sự thất tình. Nhưng trong sự tỏ tình có nhiều hình thức: khi thổ lộ tâm tình, khi thăm dò lòng bạn, khi hy vọng, mong mỏi nhớ nhung người tình, khi trách hờn giận, ghen tuông người tình; nhưng rốt cuộc những câu thổ lộ tâm sự cùng là để thăm dò tình bạn là nhiều hơn cả. Ví dụ: Anh như cây gỗ xoan đào, Em như câu đối dán vào nên chăng? Em như cây cảnh trên chùa, Anh như con bướm đậu nhờ nên chăng? Văn thể của hát Quan họ tuy là lối lục bát, nhưng khi hát, vì những chỗ lên bổng xuống trầm, vì những nhu cầu của sự chuyển giọng, chuyển lời nên loại dân ca này có mang vài đặc tính là bài hát bao giờ cũng có thêm vào nhiều tiếng không có trong nguyên văn. Đó là những tiếng vô nghĩa, hoặc những chữ hát chệch hẳn đi, hoặc những tiếng dùng để đưa hơi như: y, a, ư, ô, ơ, a ha, ôi hôi, ư hư, ối a, ý a, này a, i ì ... hoặc những tiếng đệm (đệm lót và đệm nghĩa) như: thời, mà, tình chung, ô mấy, ai ơi, là rằng, tình rằng, tình tang, tình bằng... Nhờ những tiếng đệm, tiếng láy lập lại như thế mà và nhất nhịp điệu tiết tấu của câu thơ lục bát được thay đổi luôn, trở nên phong phú vô cùng. Ví dụ phong dào có bài "Trống cơm": Trống cơm khéo vỗ nên bông, Một bầy con nít lội sông đi tìm. Thương ai con mắt lim dim, Một bầy con nhện giăng tơ đi tìm, Thương ai duyên nợ tang bồng. Khi trở thành hát Quan họ Bắc Ninh là: 1/ (Tình bằng có cái) trống cơm (khen ai) khéo vỗ (ố mấy bông) nên bông. 2/ Một bầy (tang tình) con nít (ố mấy lội lội) lội sông (ố mấy) đi tìm. 3/ (Em nhớ) thương ai (đôi) con mắt (ố mấy) lim dim, 4/ Một bầy (tang tình) con nhện (ớ ớ ớ ố mấy) giăng tơ (giăng tơ ố mấy) đi tìm. 5/ (Em nhớ) thương ai duyên nợ (khách) tang bồng. Đó là chưa kể những chỗ hát lại hai lần như ở phần đầu câu 2 và ở phần cuối những câu 1, 2, 3, 5. Ngoài những tiếng đưa hơi, tiếng đệm, tiếng láy, có khi trong bài hát có cả những tiếng dùng để ghi hệ thống âm giai của cổ nhạc là hò, xự, xàng, xê, cống,... Ví dụ trong bài "Xe chỉ luồn kim": May quần (tình chung là vuông) nhiễu tím (í a, í a). Gởi ra (gởi ra chồng) cho chồng. Ứ xáng, ú xáng u cái liu xê phàn (thời cái nỗi gởi ra cho chồng) Ngày xưa, trai gái vùng Bắc Ninh có thể hát Quan họ quanh năm. Mỗi khi có dịp lễ là họ mời nhau đến hát. Cả đến khi không có việc gì, họ cũng rủ nhau đến một làng nào đó trong vùng để cùng nhau vui hát. Chỉ cốt là trước khi đến, họ bảo cho nhau biết trước để có thì giờ gọi người. Nhưng hát Quan họ đặc biệt thịnh hành vào mùa thu tháng 8 và nhất là vào tiết xuân trong ba tháng: giêng, hai, ba ... Dịp hát quan trọng nhứt là những dịp đám cưới, đám khao, đám giỗ, đám hội. Hát Quan họ là lối hát không dính dáng đến lao động, trái với nhiều loại dân ca khác như hò, hát ví, vì thế không hát ở ngoài đồng trong khi làm lụng. Có thể hát tại nhà trong các dịp cưới hỏi, giỗ khao; hay sau khi hát ở hội đình, hội chùa rồi mời nhau về nhà. Tại nhà có khi gái ngồi trong nhà hát ra, và trai ngồi trên bờ hát vọng xuống. Có k hi họ cùng ngồi trong thuyền thúng trên mặt hồ để vui hát trong một đêm hè hay một chiều thu. Tại hội đình, trai gái hát trước bàn thờ Thanh hoàng. Lắm khi các bài hát, lúc đầu chỉ có tính chất tôn giáo một ít, còn về sau đều có tính chất tình tứ. Tại hội chùa, họ hát ở trước cửa chùa, giữa sân chùa, có khi cả ở trong chùa. Nhưng thường hát ở các sườn đồi hay giữa các đám ruộng, hoặc trên những bờ đê bên cạnh chùa. Hát chia làm từng bọn. Mỗi bọn, trai hay gái, phải có ít nhứt bốn người để thay phiên nhau hát, vì hát rất hao hơi. Quan họ phải hát giọng đôi, nghĩa là hai người cùng hát một lúc, một người "dẫn" (chính) và một người "luồn" (phụ). Mỗi bọn quan họ có một người đứng đầu đại diện, được cả bọn tôn làm anh Hai hay chị Hai. Những người khác cứ theo thứ tự hát hay, hát kém mà lấy tên là anh Ba, anh Tư, anh Năm hay chị Ba, chị Tư, chị Năm. Chỉ cần bốn người hát được, còn bao nhiêu dự vào cho đông cũng không sao. Khi hai bên hát với nhau, bên hát trước hát giọng nào thì bên hát sau phải theo giọng ấy để trả lời và phải theo cho đúng; không được bỏ một tí ngân nga. Như thế mới là đối chọi. Không đối được là tỏ cái kém cỏi của mình. Trai gái hát Quan họ không phải sống về nghề hát, không thể gọi là những người hát chuyên nghiệp. Nhưng không phải bất cứ ai ai cũng có thể hát được Quan họ. Muốn hát Quan họ phải có nhiều điều kiện, phải có giọng tốt, phải chịu khó luyện tập, phải có trí nhớ và ít nhiều thông minh, nghĩa là có ít nhiều tài đối đáp, biết bình tĩnh để trả lời người đối diện, không những trong ý câu hát mà nhứt là trong giọng bài hát. Tình bạn hữu, tình anh chị em giữa những người cùng chung "gia đình" Quan họ thật thân thiết. Họ coi cha mẹ của nhau như cha mẹ của mình. Những dịp hiếu, hỷ, buồn vui, họ đều đến thăm hỏi, biếu tặng. Cha mẹ bạn có yếu đau, họ tìm đến săn sóc an ủi. |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
Can Tương Mạc TàCan Tương Cùng với thầy dạy nghề của họ là Âu Dã Tử, Can Tương Mạc Tà được coi là những thợ rèn kiếm giỏi nhất thời Xuân Thu mà sản phẩm tiêu biểu là hai thanh kiếm Can Tương, Mạc Tà. Quá trình rèn gian khổ cùng độ sắc bén lạ thường của kiếm Can Tương và Mạc Tà đã được ghi lại trong sách vở và chúng trở thành tượng trưng cho những thanh kiếm sắc bén huyền thoại. Can Tương vốn là một thợ rèn kiếm người nước Ngô thời Xuân Thu có vợ là Mạc Tà. Biết tiếng rèn kiếm của Can Tương, Ngô vương là Hạp Lư ra lệnh cho ông rèn kiếm. Thấy nung mãi trong lò bễ mà quặng sắt chưa nóng chảy để rèn kiếm, Mạc Tà hỏi Can Tương: "Sắt không nung chảy giờ phải làm sao?", Can Tương trả lời: "Xưa đại sư Âu Dã Tử rèn kiếm, quặng sắt không chảy phải để một người phụ nữ nhảy vào lò thì việc rèn sau mới thành công". Nghe thấy vậy Mạc Tà bèn tự mình nhảy vào lò bễ, quả nhiên quặng sắt chảy ra và cho ra đời hai thanh kiếm, hùng kiếm (kiếm đực) là Can Tương, thư kiếm (kiếm cái) là Mạc Tà nổi tiếng sắc bén.
Một thuyết khác trong Ngô Việt Xuân Thu (吳越春秋) lại nói rằng Can Tương mất ba năm để rèn hai thanh kiếm báu nhưng ông chỉ dâng vua thanh thư kiếm Mạc Tà mà giữ lại thanh hùng kiếm Can Tương. Vua nước Sở biết được bèn giết Can Tương, trước khi bị giết Can Tương dặn lại vợ rằng nếu sau này có sinh con trai thì dặn lại với nó: "Ra khỏi cửa, nhìn về phía Nam sơn, kiếm báu giấu trong tảng đá ở phía Nam trên núi". Về sau Mạc Tà sinh ra một đứa con trai có tên là Xích, sau khi nghe mẹ kể chuyện về Can Tương, Xích quyết định đi tìm kiếm báu trả thù. Tìm được kiếm Can Tương, Xích bèn dâng cả kiếm và đầu của mình cho một người để ông ta dùng kế lừa giết vua Sở. Người đó cuối cùng giết được vua Sở và tự luôn đầu của mình, cả ba cái đầu của Xích, vua Sở và người khách được chôn trung trong một ngôi mộ có tên "Tam vương mộ" (三王墓).
Sách Tấn Thư phần "Trương Hoa truyện" có ghi lại rằng đầu thờiTây Tấn cả hai thanh Can Tương, Mạc Tà đã xuất hiện trở lại rồi chúng lại biến mất ở Diên Bình Tân tại đây người ta đã cho dựng một đài tưởng niệm về hai thanh kiếm hóa rồng ("Song kiếm hóa long", 双剑化龙). kí tái Theo sách Ngô Việt Xuân Thu, phần "Hạp Lư nội truyện" thì Can Tương và Mạc Tà đều là kiếm sắt, tuy nhiên năm 1965 người ta đã đào được thanh Kiếm Câu Tiển có cùng niên đại với Can Tương Mạc Tà, thanh kiếm này có cấu tạo chủ yếu lại là từ Đồng. Vì thế các nhà khảo cổ cho rằng có thể Ngô Việt xuân thu, vốn được viết thời Đông Hán rất có thể đã nhầm lẫn về thành phần cấu tạo chính của kiếm. Cho đến nay người ta vẫn không tìm lại được bất cứ dấu vết nào về hai thanh kiếm huyền thoại này. Trong văn hóaKiếm Can Tương và Mạc Tà đã đi vào sách vở như là biểu tượng của những thanh kiếm huyền thoại, sắc bén. Trong sáchMặc Tử và Tuân Tử đều có nhắc tới hai thanh kiếm này. Hồi 74 tiểu thuyết Đông Châu Liệt Quốc của Phùng Mộng Long cũng tả rất kỹ câu chuyện làm kiếm của hai vợ chồng Can Tương, Mạc Tà. Nhà thơLý Thương Ần thờiVãn Đường trong bài thơ Tặng tư huân Đỗ thập tam viên ngoại đã có câu thơ: Danh tổng hoàn tằng tự Tổng Trì.
Tâm thiết dĩ tòng Can Mạc lợi, Dịch: Tên Tổng mà mang tự Tổng Trì Lòng thép đã như gươm báu sắc. Nhà văn Kim Dung trong tác phẩmViệt Nữ Kiếm của mình cũng đã nhiều lần nhắc tới hai thanh Can Tương và Mạc Tà. Ngọn núi tương truyền là nơi đúc kiếm của Can Tương và Mạc Tà, nay thuộc DứcDĐức Thanh, Chiếc Giang về sau đã được đặt tên là Mạc Can Sơn (莫干山) để kỷ niệm câu chuyện về hai vợ chồng. Ngày nay Mạc Can sơn đã trở thành địa điểm nghỉ dưỡng thu hút đông khách du lịch ở tỉnh Chiết Giang.
Chỉnh sửa lại bởi Hoa Hạ - 28/Nov/2010 lúc 8:08pm |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
Chuyện bên lề " Can Tương Mạc Tà "
Thái Bút Mạc Tà . ![]() Ông là một nhà báo lớn, tên tuổi ông gắn với những sự kiện lớn và nhất là những vụ chống tham nhũng tiêu cực. Mấy chục năm tiên phong trong một mảng đề tài chông gai, đầy cạm bẫy nhưng ông đã vượt qua với nhiều thắng lợi mà không hề bị trầy xước. Ông quả là một nhà báo bậc thầy. Mãi cho đến bây giờ, khi đã nghỉ hưu, tinh thần “kiến nghĩa bất vi vô dũng dã” trong ông vẫn đầy ăm ắp. Nhân ngày Báo chí Việt Nam 21-6 năm nay, tôi muốn tặng ông một bức thư pháp với nội dung toát lên được tính cách và khí phách của ông, cũng như của đội ngũ những người làm báo chân chính. “Bút trực, tâm thanh”- bút thẳng lòng trong chăng?! Đúng nhưng đơn giản quá. “Thiết thạch can trường”- kiên trinh như sắt đá chăng?! Khô khan quá, cũng không hợp với tính cách rất nghệ sĩ của ông… Mang tất cả tâm sự ấy đến nhà cụ Nguyễn Văn Bách- nhà nho thâm hậu, đại thư pháp gia, tôi xin cụ cho mấy chữ. “Để bác nghĩ thêm nhé”- bàn mãi rồi cụ hẹn đến chiều. Buổi chiều, cụ viết mấy chữ tuyệt hay “Thái Bút Mạc Tà”. “Thái bút” là chữ của Đỗ Phủ (712-770) viết trong bài Thu Hứng, cụ Nguyễn Văn Bách giải thích: Thái bút tích tằng can khí tượng Bạch đầu ngâm vọng khổ đê thùy Xưa từng vẫy bút vua kinh động Đầu bạc ngâm thơ não khổ đa. Những câu trước Đỗ Phủ nhớ lại những gì bút ông đã từng viết lên, nào là Đất cũ Côn Ngô vua ngự qua Mỹ Bi Tử Các bóng non sa Phụng hoàng đậu mãi cành ngô biếc Anh vũ mổ hoài hạt nếp hoa Người đẹp mừng xuân gom cánh trả Quần tiên thuyền lướt ngắm chiều tà. Mà không chỉ Đỗ Phủ, trong văn chương chữ “Thái Bút” xuất hiện không ít: Phong phi phi Vũ phi phi Phong vũ tần thôi thái bút huy - Mưa trôi đi, Gió trôi đi , Mưa gió giục hoài cầm bút thơ… Hay trong một bài từ, Hạ Chú (1063- 1120) có câu ” Thái bút tân đề đoạn trường cú Thí vấn nhàn sầu đô kỷ hử? Thái bút đoạn trường mới đề câu, Thử hỏi nhàn sầu chừng mấy hả?! “Thái bút” còn có điển cố nói là “cây bút năm màu” thần diệu. Ngày xưa các cụ không làm báo, bút chủ yếu để sáng tác thơ văn, rồi ghi chép từ chương tấu sớ, và để lại nhiều giai thoại nhất là những người làm sử. Không ít người đã mang cả mạng sống của mình ra để cây bút được viết đúng sự thật, đúng nỗi lòng mình đang chất chứa, bất chấp cả uy quyền của vua chúa. Nhà báo hôm nay cũng đang có “Thái Bút” trong tay, không chỉ bút bi, bút sắt mà cả bút điện tử, với những cú di chuột trên bàn là cây bút của họ kết nối với cả thế giới. “Mạc Tà” nghĩa là không thay đổi, không bị uốn cong, nhưng nó còn là tên một bảo kiếm lừng danh. Truyền thuyết kể rằng, Can Tướng phụng mệnh Ngô Vương Hạp Lư đúc kiếm, nung đã lâu mà kim loại không dung hợp được với nhau, sau cùng người vợ ông là Mạc Tà phải nhảy vào lò (để tế thần lửa). Hai thanh kiếm đúc thành công, một dương một âm tên gọi là Can Tướng và Mạc Tà, trở thành cặp song kiếm nổi danh của nước Trung Hoa xưa. Nói đến kiếm, lại nhớ “Thái Bút Hoa My” là một thế võ tuyệt chiêu mà Tiểu Long Nữ và Dương Quá đấu với lão già Công Tôn trong “ Thần Điêu Đại Hiệp” của Kim Dung. “Thái Bút Mạc Tà”, dùng bút như dùng kiếm. Ngày xưa Nguyễn Đình Chiểu đã viết “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”, tức là cụ cũng coi bút như kiếm vậy. Đã dùng kiếm để thi đấu thì kiếm thuật phải tinh thông, khi công khi thủ phải khéo léo để không bị hở sườn, không bị thua cuộc. Đó là sự nhanh nhạy, sắc bén trong kỹ thuật, dũng cảm trong ý chí… Hơn nữa, nội lực phải cao mới bền sức và đường kiếm mới mạnh mẽ. Mạnh mẽ để bảo vệ được lẽ phải, bảo vệ được công lý và để đấu tranh có hiệu quả trước tham nhũng, tiêu cực, bất công. Nhờ những thanh kiếm mạnh mẽ và ngay thẳng như thế mà người ta biết đến “sức mạnh của báo chí”, sức mạnh có sức công phá và lan truyền ghê gớm, nhất là trong thời buổi của thông tin hiện nay. Nếu không có đủ những phẩm chất đó thì có kiếm đấy mà chả làm gì được ai, như ngày xưa Hàn Tín đeo kiếm mà phải chui qua háng con nhà bán thịt. Đeo kiếm đấy mà bị làm nhục như chơi. Chưa kể, không khéo “chơi dao dễ đứt tay”… *“ Sự giám sát của công chúng và báo chí là con đường tốt nhất để toàn xã hội hợp sức xây dựng bộ máy công quyền trong sạch, vững mạnh”- * “báo chí là tấm gương tinh thần trong đó nhân dân nhìn thấy bản thân mình”… * “là con mắt sáng suốt của tinh thần nhân dân, là hiện thân sự tin cậy của nhân dân đối với bản thân mình, là những dây liên hệ biết nói, gắn liền các cá nhân với nhà nước”. Để hoàn thành được nhiệm vụ này thì báo chí lại càng phải mạnh và phải sắt bén như kiếm. Hơn nữa, cũng phải có một hành lang pháp lý thật tốt để báo chí được phát huy sức mạnh của mình, để bảo vệ được các nhà báo. Đấu kiếm mà không có luật, hay có nhưng "lờ mờ" thì cao thủ cũng thua kẻ tiểu nhân… “Thái Bút Mạc Tà”- với mục tiêu cụ thể là những tác phẩm báo chí hay, có tác động thiết thực, có ý nghĩa với đời sống xã hội, ngòi bút không bị bẻ cong là một khát vọng của mỗi nhà báo và cũng là kỳ vọng của toàn dân… Ảnh: Bức thư pháp “Thái Bút Mạc Tà”- . Thủ bút của cụ Lỗ Công Nguyễn Văn Bách. Tài liệu sưu tầm trên internet |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
Nguyễn Tử Quang Điển hay tích lạ
Lão tiều phu hay con hạc đen Núi Na ở thôn Quần Ngọc, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Trên đỉnh núi có chùa xưa, tục danh là Tiên am. Phía tả có động thâm u. Đời nhà Trần, Hồ (1225-1407) có một tiều phu ẩn cư ở đấy. Người ta gọi là Hoàng My tiên sinh. Một hôm Hồ Hán Thương đi săn đến đấy, bỗng gặp một lão tiều phu vừa đi vừa hát: Na chi sơn hữu thạch toàn ngoan Thụ thương thương Yên tịch mịch Thủy sàn sàn Triêu hề ngô xuất Mộ hề ngô hoàn Hữu y hề chế kỹ, Hữu bội hề nhận lan Thát bài thanh hề bình hiểu chướng, Điền hộ lục hề chẩm tình than. Nhậm tha triều thị Nhậm tha sa mã Tri trần bất đáo thử giang san, U thảo Tống triều cung kiếm Cổ khâu Tấn đại y quan. Vương Tạ phong lưu Triệu Tào sự nghiệp, Toán vãng cổ lai kim khanh tướng Trạch triện đài man Tranh như ngã trạo đầu nhất giác Hồng nhật tam can. Tạm dịch: (Bản dịch của Trúc Khê) Núi Na đá mọc chênh vênh, Cây tùm um, nước long lanh khói mờ. Đi về hôm sớm thẩn thơ, Mình dư áo lá, cổ thừa chuỗi hoa. Non xanh bao bọc quanh nhà, Ruộng đem sắc biếc xa xa diễu ngoài. Ngựa xe võng lọng thây ai, Nước non riêng chiếm, bụi đời khôn vương. Áo đai đời Tấn gò hoang, Kiếm cung triều Tống dưới làn cỏ xanh Sự đời bao xiết mong manh, Phong lưu Vương, Tạ, công danh Triệu, Tào Từ xưa khanh tướng ngôi cao, Đá mờ rêu phủ đã bao nhiêu rồi. Sao bằng ta được thảnh thơi, Giấc mai bừng tỉnh, mặt trời lưng không. Hán Thương nghe hát cho đó là một vị ẩn giả, bèn truyền thị thần đi theo vào động. Thấy trên vách đá có đề hai khúc ca "Ái miên" (Thích ngủ) và khúc "Ái kỳ" (Thích đánh cờ), thị thần xin mời tiều phu về triều. Tiều phu không bằng lòng nói: - Nghiêm Tử Lăng không lấy chức Gián nghị ở Đông Đô mà đổi cái thú yên ba sông Đồng Lại. Khương Bá Duy không vì họa đồ của Thiên tử mà làm nhơ cái cảnh sơn thủy Bành Thành. Sứ thần về tâu lại, nhưng Hán Thương bảo đi mời một lần nữa, mang theo một cỗ an xa, quyết mời cho kỳ được. Nhưng đến nơi chỉ thấy cửa động rêu mọc phủ cả, gai góc lấp mất đường đi, trên vách đá có hai câu thơ đề bằng nhựa cây: Kỳ La hải khẩu ngâm hồn đoạn, Cao Vọng đầu khách tứ sầu Nghĩa: Cửa biển Kỳ La hồn sẽ dứt, Đầu non Cao Vọng khách đeo sầu. Sứ thần về kể lại; Hán Thương nổi giận, khiến người đến đốt núi ấy. Chỉ thấy một con hạc đen từ trong núi bay bổng lên, liệng múa giữa không trung, mà không thấy giấu tích tiều phu đâu cả. Về sau, hai cha con họ Hồ là Quý Ly và Hán Thương đều bị xảy ra tai họa đúng như hai câu thơ báo trước của lão tiều phu. |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
Nguyễn Tử Quang Hà Đông sư tử Trần Tạo tự Quý Thường, người đời nhà Tống, quê ở Vĩnh Gia. Vợ của Trần họ Liễu vốn có tính ghen dữ ghê gớm. Quý Thường rất sợ vợ nhưng rất có lòng tôn sùng đạo Phật. Hằng ngày ngồi đọc kinh, vợ lấy làm bực, la hét om sòm, nhưng Trần vẫn điềm nhiên, không dám cự một tiếng. |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
Nguyễn Tử Quang
Thâm nghiêm kín cổng cao tường, hay: và: |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
Nguyễn Tử Quang Lam Kiều
"Lam Kiều" chỉ chỗ tiên ở hay người đẹp ở, hoặc chỉ gặp duyên tốt đẹp... như gặp duyên với tiên. |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
Nguyễn Tử Quang
|
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 4 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |