![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Chuyện Linh Tinh | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 108 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | ||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||
![]() |
|||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||
Kiếp Tù![]()
Tôi sinh ra là một ngôi sao xấu trong những ngôi sao xấu nhất của bầu trời đất Việt.
Cha mẹ tôi nghèo lại phải sinh sống trong một miền quê hẻo lánh gần một vùng núi rừng heo hút, xa xôi, đất cày lên sỏi đá.
Tôi chưa bao giờ được cắp sách đến trường. Do đó, từ lúc mới lên bảy, tôi được một nhà phú hộ mướn chăn dê.
Với đàn dê
40 con, hằng ngày tôi phải lùa chúng vào các triền núi đá từ sáng sớm
tinh sương đến chạng vạng tối mới về. Cả ngày chăn đàn dê gặm cỏ. Chiều
đến tôi phải gom dẫn chúng về nhà phú hộ. Công việc chỉ đơn thuần như
thế. Còn việc trả công, tôi không hề hay biết. Đó là việc của người lớn:
– Của cha mẹ tôi và nhà phú hộ.
Sáng sớm được mẹ đánh thức, tôi rửa ráy qua loa rồi rủng ra rủng rỉnh dẫn đàn dê vào núi cho chúng tự tìm thức ăn.
Sáng nào
cũng vậy, mẹ trao cho tôi một nắm cơm vắt, đựng trong mo cau với một ít
muối ớt, gói trong miếng lá chuối khô. Đó là bữa cơm trưa hàng ngày của
tôi.
Tôi chưa bao
giờ biết ăn sáng hay lót lòng bao giờ. Ngay cả buổi cơm cũng chỉ có
muối ớt. Họa hoằn lắm mới được thay đổi bữa cơm với một con cá lép khô
muối mặn bằng hai ngón tay. Đó là bữa ăn khá thịnh soạn, ngon miệng nhất
đời chăn dê mà tôi đã hoan hỉ lắm rồi.
Ngồi ăn nghe tiếng lục lạc rủng rẻng trên cổ của bầy dê cũng vui tai quá đỗi.
Đời tôi
thăng hoa hơn, năm 1973, vừa đúng 18 tuổi, tôi xin đăng vào Nghĩa Quân,
được tuyển mộ và thăng chức ngay là Nghĩa Quân Viên-một cấp bậc nhỏ nhoi
nhất trong hàng ngũ Nghĩa Quân. Tôi hãnh diện được xúng xính trong quân
phục ‘lính áo đen’.
Đời tôi bắt đầu sáng lạn hơn thằng chăn dê rồi đó!
Tôi được dạy
cho biết cách sử dụng súng trường Carbin M1 và trong khi đó, “Em Một”
(Carbin M1) là ‘người tình’ đi theo tôi trong suốt quãng đời lính tráng
này.
Tôi được
phục vụ ngay tại địa phương nơi tôi chào đời và lớn lên trong đói nghèo,
cơ cực. Tiểu đội của tôi gọi là ‘tiểu đội thám báo’.
Nói ‘thám
báo’ cho oai, chứ thực ra, nhiệm vụ chính của tiểu đội là ban ngày canh
gác trụ sở Xã, ban đêm tiểu đội thường xuyên di chuyển từ địa điểm này
đến địa hình khác với mục đích tránh sự dòm ngó, quan sát theo dõi của
địch, để khỏi bị tấn công sát hại.
Tuy tránh
giao tranh với địch song anh tiểu đội trưởng gọi nhiệm vụ đó là ‘phục
kích đêm’ để phá vỡ đường dây liên lạc của Việt Cộng.
Vào đầu
tháng tư năm 1975, tiểu đội di chuyển đến một bờ ruộng. Tuy nói là ẩn
núp, ngụy trang, che dấu để tránh sự quan sát của địch, song chúng tôi
cũng phải chia phiên ra canh gác cẩn mật. Khi phát hiện địch, chúng tôi
cố ý ẩn nấp để tránh giao tranh và sáng hôm sau sẽ báo cáo để thỉnh thị
quyết định của thượng cấp.
Nào ngờ đêm
hôm đó, cái đêm định mệnh của đời tôi và cũng là một đêm tận cùng của
tên du kích Việt Cộng, từ rừng núi rình mò về thôn xóm để nhận tiếp tế.
Đêm hôm đó, chẳng may hắn lơ đễnh thế nào mà đi lọt vào ổ phục kích của
chúng tôi. Lúc đó là phiên gác của anh Cường nhưng anh ta ngủ gà ngủ
gật, mắt nhắm mắt mở, khi tỉnh giấc anh thấy một bóng đen xuất hiện quá
gần chỗ anh đang gác. Giật mình, anh Cường nổ súng bắn một băng tiểu
liên và tên du kích ngã gục sau phát đạn khai hỏa đầu tiên của anh ta.
Sáng hôm
sau, chúng tôi lật xác tử thi địch để nhận dạng và biết rõ tên du kích
là một người dân trong xã vừa thoát ly gia đình theo Việt Cộng, khoảng
vài tháng trước. Hắn ta theo du kích vào rừng và làm liên lạc viên cho
đám du kích.
Sau đó chúng tôi được lệnh mang xác anh du kích về Xã để cho thân nhân anh ta nhận xác về chôn cất.
Đây là một chiến thắng đầu tiên kể từ ngày thành lập tiểu đội mang tên ‘thám báo’ của chúng tôi.
Lẽ dĩ nhiên
một tiểu đội ‘áo đen’ làm gì có phương tiện tải thương để chuyên chở tử
thi địch như các đơn vị Chủ Lực Quân hay Địa Phương Quân.Vì thế, hôm ấy
chúng tôi phải dùng 2 cây sào tre, rồi lấy áo đi mưa cá nhân, kết hợp
làm băng ca, khiêng tử thi tên du kích về xã. Chúng tôi thay phiên nhau,
hai người một, kẻ trước người sau, ì ạch khiêng cái xác từ bờ ruộng này
đến bờ đê khác. Gần đến trụ sở Xã, chúng tôi được lệnh của anh trung
đội trưởng cho đặt tử thi trước trụ sở Xã.
Rủi ro cho tôi khi khiêng tử thi về gần đến nơi, người bạn khiêng phía sau vừa bảo tôi vừa thả buông băng ca xuống:
– Đặt xác nó tại đây đi!
Anh bạn vừa thả băng ca thì trời bất chợt đổ cơn mưa rào.
Tôi đem lòng thương hại kẻ xấu số nên cố nắm chặt hai cáng băng ca, lôi xác tử thi vào thẳng trong chợ để xác khỏi bị…mưa ướt.
Đó là lòng nhân từ của bất cứ ai cũng phải cư xử với người chết như thế.
Tôi vừa đặt tử thi xuống, bất ngờ một người đàn bà đập thình thịch vào lưng tôi, nhục mạ, chửi rủa om sòm:
– “Cái quân
trời đánh! Chồng tao đi thăm ruộng về khuya. Bọn mày giết chồng tao!!”
rồi lôi xác xềnh xệch như lôi kéo một con chó. “Trời ơi là trời!”
Tôi định
giải thích nhưng nghĩ lại bà ta cũng có cái đau khổ của người vợ bị mất
chồng, nên tôi đành cắn răng chịu đựng, bỏ đi mà không cần giải thích
cặn kẽ cho bà ấy.
Một tháng
sau, tháng tư đen năm 1975, đổ sụp về, tất cả các sĩ quan từ thiếu úy
trở lên phải trình diện học tập cải tạo tại các trại tập trung lao động
khổ sai.
Các anh em
hạ sĩ quan, binh sĩ và Nghĩa Quân được học tập tại địa phương 20 ngày
thì được cho về sinh hoạt với gia đình. Riêng tôi lại bị vợ của tên du
kích, nay là chủ tịch Ủy Ban Quân Quản kiêm Ủy Viên Chính Trị Xã, ra
lệnh chuyển tôi từ địa phương ra trại cải tạo Lam Sơn với tội danh:
Thành phần ác ôn, nguy hiểm, có nợ máu với nhân dân…
Những ngày
đầu ở Lam Sơn, tôi cố tìm các anh em nghĩa quân khác mà tôi quen biết.
Tôi đã không tìm thấy bất cứ ai, kể cả anh Cường, người Nghĩa Quân đã
bắn chết anh du kích. Các ông trung đội trưởng, tiểu đội trưởng, tôi
cũng chẳng thấy ông nào. Thậm chí ngay cả các anh ‘linh áo đen’ đã đi
phục kích đêm hôm đó, cũng chẳng có ai!
Tôi bị phân bổ vào nhà H.22 gồm 50 thiếu úy, chỉ có một mình tôi là Nghĩa Quân Viên.
Những ngày đầu, các ông thiếu úy cũng quá đỗi ngạc nhiên và hỏi tôi:
– Mày là thằng nghĩa quân quèn, sao lại trình diện vào đây để ngồi tù?! Ủa, mày muốn tình nguyện học tập hả?
Có người thì nói ôn tồn, thương hại. Có ông thì nhìn tôi sòng sọc, gặng hỏi:
– Chứ bộ mày muốn mấy ổng trả lại cấp bậc nghĩa quân quèn cho mày hay sao?
Tuy bị hạch hỏi nhưng lúc nào tôi cũng ôn tồn, nhã nhặn trả lời:
– Dạ em đâu dám mơ ước như thế đâu thiếu úy!
Dù sao đi nữa, đời tôi cũng đã thăng hoa lắm rồi.
Ngày xưa, có
bao giờ tôi được ăn chung, ngủ chung với các vị sĩ quan trẻ này đâu.
Thiếu úy, ít ra các ông ấy cũng là trưởng ban, trưởng phòng, cuộc trưởng
… gì đó trong chi khu, nên lúc nào tôi cũng kính nể, tôn trọng các vị
sĩ quan ấy.
Lao động trong trại tù chừng gần hai năm, các ông thiếu úy lần lượt ra về.
Tôi lại bị
dồn vào ở tù chung với trung úy và đại úy. Đời tôi sao được thăng cấp
nhanh quá. Không bao lâu, chúng tôi bị chuyển ra trại Củng Sơn, Phú Yên.
Khoảng 3 năm có rất nhiều trung úy và đại úy lần lượt ra về. Trại lại
nhốt chung tôi với các ông thiếu tá mà ngày xưa tôi chưa bao giờ dám
xuất hiện gần các vị ấy vì các ông này ít ra cũng là các cấp chỉ huy của
đại úy Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng của tôi.
Đời tôi lại
thăng hoa, thăng cấp nhanh như chớp. Càng được sống gần các vị thiếu tá,
tôi càng kính phục họ nhiều hơn. Các ông ấy hiền, đạo đức, xem tôi như
em út trong trại tù.
Sau đó, chúng tôi lại bị dời về A.30.
Ở tù hơn 5
năm, hầu hết ai ai cũng được về đoàn tụ với gia đình. Cá nhân tôi lại
được thăng cấp ở chung với một đại tá và 12 người tù chính trị khác mà
trại gọi là ác ôn, có nhiều nợ máu với nhân dân.
Đời tôi tuy
thăng hoa, thăng cấp nhanh, nhưng càng thăng bao nhiêu thì ngày về lại
càng xa tít mù khơi bấy nhiêu. Tôi hết trông mong có ngày trở về gặp lại
vợ con.
À, mà tôi quên kể cho quý vị nghe về gia đình, sự nghiệp, thân thế của tôi…
Năm 18 tuổi
tôi cũng đã lập gia đình với con Nại. Cô gái này nhà cũng nghèo, cũng
được phú hộ mướn chăn dê như tôi. Cả hai chúng tôi thường xuyên gặp nhau
ở chỗ thả dê gặm cỏ. Không biết trời xuôi đất khiến thế nào khi tôi gia
nhập ‘quân áo đen’ dưới ‘cờ vàng ba sọc đỏ’ thì Nại cũng vừa lớn, nó
mắc cỡ không chịu chăn dê nữa. Mẹ tôi thấy nó siêng năng, hiền lành như
búp măng bụ bẫm nên mẹ tôi đem Nại về và nó trở thành vợ tôi hồi nào tôi
cũng chẳng hay biết gì!
Vợ chồng quê rất đơn giản, khỏi cần học những câu văn chương lãng mạn để trao cho nhau làm gì cho mất thì giờ.
Tôi cũng
không nhớ rõ, cái đêm động phòng hoa chúc ấy … ra làm sao..Tôi đã nói
với Nại những gì… âu yếm Nại như thế nào..nhưng sáng ra, tôi thấy Nại
nằm trọn trong vòng tay tôi. Tôi biết ngay, bây giờ tôi đã có vợ. Gần
một năm sau, Nại cho tôi hai đứa con trai sinh đôi rất khoẻ mạnh. Một
năm sau, Nại lại sinh đôi nữa. Đứa con gái chăn dê, nay là người mẹ 4
con. Hồi đó, ‘quân áo đen’ không được hưởng phụ cấp gia đình như anh em
Chủ Lực Quân và Địa Phương Quân. Bản thân tôi, chỉ được lãnh lương 1.200
đồng mà phải nuôi sáu miệng ăn. Khi tôi đi tù, Nại một mình nuôi cha mẹ
già tôi và bốn đứa con thật vất vả.
Suốt thời
gian tôi bị tù, Nại thăm nuôi tôi được 3 lần: lần đầu khi tôi mới bước
chân vào trại Lam Sơn, lần thứ nhì tại trại A.30. Hồi đó, trại cho tôi
được ngủ đêm với Nại trong nhà ‘thăm nuôi” và Nại sinh thêm đứa thứ năm.
Lần thứ ba, khi được báo có người nhà thăm nuôi, tôi vội vàng ra cổng
trại thì được biết một thảm kịch đã xảy ra lôi thôi cho gia đình tôi.
Chiếc xe chở vợ của các tù nhân đi thăm nuôi chồng bị lật và có hai
người chết, trong đó có Nại. Xác Nại vì không có thân nhân nhận nên địa
phương nơi xảy ra tai nạn đã chôn xác Nại ven rừng.
Và năm đứa
con tôi đưọc một người quen biết sinh sống cùng địa phương của Nại cũng
đi thăm nuôi chồng, mang giùm mấy đứa nhỏ vào trại giao cho tôi.
Nại chết để lại 5 đứa con với một ràng bánh tráng, một ít mắm ruốc kho…
Năm đứa con,
ngồi khóc vì không có mẹ, nên trại cho tôi dẫn chúng vào trại để ở tù
chung với tôi. Đời tôi bắt đầu rẽ một khúc quanh.
Nại chết, để
lại hai đứa 7 tuổi, hai đứa 6 tuổi và một đứa chưa đầy hai tuổi. Lúc
đầu sáu cha con tôi được anh em cùng tù giúp đỡ. Anh em bớt phần ăn ít
ỏi của chính mình, chia sớt cho tôi để nuôi năm đứa nhỏ. Sau đó trại
thấy bất tiện nên cho tôi một cái lều tranh cũng trong khuôn viên của
trại tù và cấp ba tháng thực phẩm đầu tiên để tôi tự túc nuôi con sau
này.
Cảnh gà trống nuôi con. Tình cảnh hụt hẫng. Thức ăn thiếu thốn. Cuộc đời dở khóc dở cười.
Một thời
gian sau, nỗi sầu cũng đã lắng xuống nhiều, song hình ảnh của Nại vẫn
còn lắng đọng trong tâm trí tôi. Ngày ngày tôi cuốc đất trồng khoai,
trồng mì. Ba đứa con đầu cũng lẳng lặng theo sau tôi để phụ giúp công
việc lắt nhắt. Còn lại một đứa sáu tuổi ở nhà trông em hai tuổi. Tối đến
tôi bắt các con đi ngủ sớm. Tôi đã mất hẳn sự trầm tĩnh và muốn bỏ
cuộc. Ban đêm, năm đứa co rúm lại trong một cái mềm rách trùm kín đầu ở
một xó lều như muốn tránh những âm thanh dị kỳ, thét gào của gió mưa bên
ngoài. Tuy làm lụng rất vất vả nhưng hoa màu thu hoạch cũng không đủ
ăn. Thỉnh thoảng vào ban đêm, tôi dẫn con Thanh đi đào mì và hái bắp
trộm của trại về cho bầy con ăn thêm để tránh cái đói đang hành hạ
chúng.
Nào ngờ một
đêm, tôi giật mình thức giấc thì thấy vắng mặt con Thanh -đứa con gái
đầu lòng mà thỉnh thoảng tôi dắt nó đi hái trộm bắp.
Tôi nhìn ra ngoài, bầu trời đen nnư mực. Mưa gió đang gào thét…
Tôi nghi ngờ là con Thanh đang đi bẻ bắp trộm. Tôi vội vã lách mưa đi tìm Thanh.
Sau một hồi tìm kiếm khắp các ruộng bắp, tôi cũng chẳng thấy nó ở đâu.
Trời tối
thui như mực. Mưa rơi xào xạc, át hẳn tiếng kêu của tôi: “Thanh! Thanh!
Con ở đâu?” Nhưng tiếng kêu của tôi bị mưa gào, gió cuốn mất hút trong
không gian vô tận. Một chặp lâu sau, tôi nghĩ chắc giờ này con Thanh
cũng đã về nhà rồi nên tôi trở về. Quần áo xài xạc, nhưng con Thanh vẫn
chưa về nhà.
Đánh thức bốn đứa con, tôi gặng hỏi, mắng chửi cho một mẻ nhưng các con chỉ ngơ ngác không biết chuyện gì đang xảy ra.
Tôi bảo các con đi ngủ tiếp và một mình ngồi chờ con Thanh về.
Một chặp lâu
sau, tôi nghe tiếng súng bắn inh tai…Không biết chuyện gì đã xảy ra thì
khoảng nửa giờ sau, có tiếng la hét, hối hả của các ông cán bộ đang
đứng giữa nhà.
– Đêm hôm
khuya khoắt mà mày sai con đi bẻ trộm bắp… Anh em công an đi tuần tra,
tưởng nhầm con mày là tù trốn trại nên đã bắn chết nó rồi… Khẩn trương
theo tụi tao nhận xác nó về.
Điếng cả
người, ruột gan tôi rối bời. Rụng rời tay chân, tôi vội chạy theo họ.
Đến nơi, tôi thấy con Thanh nằm chết thê thảm bên vũng máu. Quanh bụng
nó cột một sợi giây và nhét quanh mình chừng mười trái bắp và hai củ
khoai mì mà nó vừa mới nhổ. Trong môi miệng nó còn đang nhai mấy hột bắp
non. Do đó, tôi biết ban đêm vì đói, con Thanh ngủ không được nên lén
tôi đi bẻ bắp về cho các em nhai, không ngờ bị bắn chết thê thảm như
vậy.
Sáng hôm
sau, tôi chôn Thanh mà lòng buồn rũ rượi. Tôi không còn một chỗ nào
trong tâm trí để căm thù. Ngôi mộ của Thanh nằm ngay trong mảnh đất do
cha con tôi khai phá. Ba ngày sau, tôi cúng mở cửa mả cho Thanh bằng hai
trái bắp và hai củ khoai mì đã đổi sinh mạng của nó.
Suốt đời
Thanh là một chuỗi ngày dài bất hạnh vì thiếu tình thương của cha, trong
đói nghèo cơ cực của mẹ, và chết trong đói khát của cảnh tù đày mà trẻ
thơ mới có bảy tuổi đã phải nằm tù, gỡ lịch từng ngày với cha. Thanh chỉ
mong được ăn no, mặc cho đủ ấm, nhưng hoàn cảnh xã hội đã hất hủi,
không thương yêu nó.
Ngay cả
trước 1975, vợ con của anh em lính Chủ Lực Quân và Địa Phương Quân được
lãnh phụ cấp gia đình, nên vợ con lính ai ai cũng đủ cơm ăn, áo mặc. Còn
vợ con của ‘quân áo đen’ thì đi chân đất, đầu trần, quần áo tả tơi
không một cấp lãnh đạo nào thèm quan tâm đến.
Hồi đó, anh em Nghĩa Quân chúng tôi cũng thuộc Q.L.V.N.C.H mà! Sao lại phân biệt đối xử với anh em chúng tôi như thế?!
Sau 1975,
tôi cũng bị ghép vào ‘ngụy quân’, cũng bị tù, bị hành hạ như các anh em
khác. Sao các ông ‘đỉnh cao của nhân loại’ không biết phân biệt hành xử
để ‘quân áo đen’ như tôi không bị dẫn con vào trại tù và bị chết thảm
như vậy?!
Bảy ngày
sau, đúng vào ‘thất thứ nhất’, vào khoảng một giờ khuya, khi tôi đang
ngồi buồn và nghĩ đến hoàn cảnh của gia đình và cái chết thê thảm của
con Thanh …
Mưa đang rơi
từng giọt như tiếng ai đang rên rỉ và sau đó tôi nghe tiếng khóc của
con Thanh. Tiếng khóc uất nghẹn, não nuột. Tôi mở cánh cửa sổ bằng liếp
tre nhìn ra ngoài. Mưa càng lúc càng to. Gió thổi ào ạt. Dưới gốc một
thân cây chồi, ngay chỗ chôn con Thanh, một vệt trắng hiện lên…Tôi toát
mồ hôi, tay chân lạnh ngắt. Tôi cố nhìn kỹ thì ra đó là hình dáng của
con Thanh. Nó đang đứng trước mộ, khóc sướt mướt. Quanh lưng cũng đang
buột một sợi dây và treo tòn ten vài trái bắp như lúc tôi nhận xác nó
về. Tôi mất bình tĩnh và khóc nấc lên từng cơn. Có bàn tay ai đó đang
bám vào vai tôi. Con Nhàn, đứa con gái sanh đôi với con Thanh, hai chị
em giống như hai giọt nước. Con Nhàn đã đứng sau lưng tôi tự hồi nào. Nó
khóc ấm a ấm ức thật to tiếng. Tất cả các con tôi đều thức dậy đang ở
chung quanh tôi. Ngoài trời đang mưa. Con Thanh vẫn còn đứng đó, nó khóc
ngậm ngùi. Tôi hoảng hốt vừa nói với các con tôi :”Để cha ra bồng con
Thanh vào nhà” tôi vừa đẩy tấm liếp; con Nhàn cũng chạy theo.
Nhưng
khi ra
đến mả thì hình dáng con Thanh không còn nữa. Tôi ngơ ngác không biết
chuyện gì đã xảy ra nhưng tôi vẫn còn bình tĩnh và biết ngay rằng con
Thanh đang bị chết oan, chết lạnh và chết đói trong nỗi oan ức mà linh
hồn của nó cũng chẳng có nơi nương tựa. Không biết nghĩ sao tôi vừa khóc
vừa vái trước mộ nó: “Ba đưa con vào nhà. Ba sẽ luộc bắp cho con ăn.”
Sau đó tôi bồng con Nhàn vào nhà như thể tôi đã bồng con Thanh.
Vào nhà, tôi
lấy một miếng gỗ nhỏ, tựa vào vách, rồi dùng bốn thanh tre, chôn dưới
đất làm bốn chân bàn để làm tạm bàn thờ cho con Thanh.
Trong khi đó, con Nhàn nổi lửa luộc hai trái bắp đẹt làm thức ăn cúng cho con Thanh.
Tôi thấy trên bàn không có nước, tôi bảo con Nhàn lấy ly rót nước cúng con Thanh.
Nhàn đi qua
đi lại trong cái nhà tranh như đang tìm kiếm vật gì? Sau đó nó lấy một
cái gáo dừa đưa lên hỏi tôi: “Ba ơi! Nhà không có ly, mình dùng cái chén
này rót nước cúng chị Thanh được không ba?”
Nước mắt lưng tròng, tôi khẽ gật đầu.
Thế cũng xong, cũng qua một tuần cúng vái. Các em của Thanh vừa lạy vừa khóc nức nở với tất cả lòng yêu thương người chị.
Tôi nhớ ra.
Từ ngày vợ tôi đi thăm nuôi, xe bị lật chết. Nại chết tức tưởi để lại
năm đứa con cho tôi. Kể từ ngày ấy đến giờ tôi cũng chưa có cơ hội lập
một cái bàn thờ cho Nại. Tôi vội tìm trong mớ giấy tờ có cái chứng minh
nhân dân của Nại. Tôi trang trọng vuốt hình vợ mình trong Chứng Minh
Nhân Dân; rồi nhẹ nhàng đặt hình của Nại lên miếng gỗ mỏng làm bàn thờ.
Tôi thờ chung hai mẹ con Nại và Thanh trên một manh gỗ mỏng của thời
phồn vinh giả tạo còn sót lại.
Từ hôm đó,
Thanh cũng không về khóc nữa. Nó cũng biết an phận trong cảnh lưu đày
của một chế độ mà người bóc lột người… Thỉnh thoảng tôi vẫn có những đêm
ác mộng: “Nại bị chết kẹt dưới những đống hàng chồng chất, máu me lênh
láng còn Thanh thì đang nằm sóng soài trên một vũng máu mà miệng vẫn còn
nhai ngấu nghiến chưa nuốt xong mấy hạt bắp sống..”
Duy Xuyên,
Tacoma
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 29/Mar/2019 lúc 8:12am |
|||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||
![]() |
|||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||
GẶP LẠI THẰNG BẠN TÙ Tao gặp mầy giữa San Francisco Tao không giàu - Mầy cũng chẳng cao sang. Quăng mẹ đời trai trong ngục với ma! Mầy với tao từng ngồi suốt đêm thâu, Tao với mầy gặp nhau còn hỏi han...
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 29/Mar/2019 lúc 1:09pm |
|||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||
![]() |
|||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||
Người Đàn Bà Ngụ Bên Bến Sông
|
|||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||
![]() |
|||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23678 |
![]() ![]() ![]() |
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||
![]() |
|||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23678 |
![]() ![]() ![]() |
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||
![]() |
|||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23678 |
![]() ![]() ![]() |
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||
![]() |
|||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23678 |
![]() ![]() ![]() |
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||
![]() |
|||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23678 |
![]() ![]() ![]() |
||
30 Tháng Tư: Chữ Trầm Chữ Thăng![]() Bắc Mỹ. Giờ này những ngày cuối tháng Tư mùa Xuân năm 2017. Tấm hình máy bay trực thăng đậu trên nóc tòa nhà của thủ đô Sài Gòn giờ phút hấp hối với hàng người nối đuôi dưới chân trực thăngbất ngờ lần đường quay về lại trong đầu. Ký ức của Sài Gòn đập mạnh nhất trong bộ nhớ của tôi (tính đến ngày hôm nay) là một buổi chiều tối tháng Tư năm 74, anh em tôi xuống phố coi phim chiếu trong rạp. Phim tên gì? Quên rồi. Nhưng tôi vẫn nhớ đèn đường xanh đỏ huyền ảo chớp sáng trên những trục lộ giao thông rực rỡ đường Lê Văn Duyệt; Sau Ngã Sáu (?), đường đổi sang mấy tên khác, cuối cùng dẫn thẳng tới tòa nhà Quốc Hội. Về đêm đèn đường, đèn xe hơi, đèn xe máy, đèn tòa nhà Quốc Hội, ngàn vạn ngọn đèn rực sáng Hòn Ngọc Viễn Đông. Hơn một tháng sau, anh tôi tuổi nhập ngũ khoác lên quân phục Thủy Quân Lục Chiến. Sáng Chúa Nhật, chị tôi tóc đen áo dài trắng nữ sinh dẫn tôi đón xe lửa lên Thủ Đức thăm. Căn cứ Sóng Thần nắng trưa he hôm đó chiếu sáng rực rỡ chị tôi áo trắng tinh khôi và anh tôi màu xanh áo lính. Tôi ngồi nhìn anh ăn xôi đậu phộng, mẹ tôi nấu, gói trong lon Gugô. Giây phút chia tay, mắt chị đỏ hoe hoe! Anh tôi đứng ngay cửa trạm xá, vẫy tay chào! Tháng 12, hai chị em lại dẫn nhau lên căn cứ Sóng Thần thăm anh. Nhưng lần đó, đợi hoài vẫn không thấy. Mãi sau, hai chị em lủi thủi dẫn nhau ra ga xe lửa về lại nhà. Lon ruốc thịt heo va Gugô cơm hột vịt luộc ngày hôm đó phải mang về, bởi giờ này anh tôi đa theo sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến ra trấn Cổ Thành Quảng Trị. Khuya hôm đó, tôi thấy Mẹ tôi ngồi trước bàn thờ miên man với những lời kinh. Bên ngoài, Sài Gòn thủ đô của những ngày cuối năm 74 gió heo may thổi về se da thịt; Sài Gòn vẫn sáng rực rỡ đèn đường; Sài Gòn vẫn rộn ràng những dòng xe cộ ngược xuôi; Sài Gòn có mẹ tôi nằm trên giường, khóc! Sài Gòn thủ đô lăn những vòng quay dẫn tới biến cố 30 tháng Tư, trận đại hồng thủy bôi xóa chính quyền, tư duy, tên đường phố và nhiều sinh mạng. Sáng định mệnh, tôi đứng ngay bên lề đường Lê Văn Duyệt nhìn những chiếc xe tăng Bắc Việt lăn bánh trên đường lộ thủ đô. Tôi con nít ngơ ngác nhìn những người chủ nhân mới của thành phố. Sài Gòn mùa Xuân 75 trời kéo mây đen khi đài phát thanh Sài Gòn vang vang lời kêu gọi đầu hàng của vị Tổng Thống cuối cùng. Sài Gòn, giờ thứ 25 tháo chạy và hỗn loạn! Sài Gòn, xe tăng Bắc Việt húc tung cửa sắt Dinh Độc Lập! Sài Gòn, mặc cho ngày ngày mẹ tôi đứng ngóng trước cửa, bóng của anh tôi, người lính Thủy Quân Lục Chiến trấn đóng Cổ Thành, vẫn khuất dạng nơi đường chân trời! Sài Gòn, cải tạo không bản án! Sài Gòn, kinh tế mới! Sài Gòn, đổi tiền! Sài Gòn, đói xanh xao! Sài Gòn, đêm khuya tiếng gõ cửa công an vang dội! Sài Gòn, mất niềm tin vào mình, vào người và vào xã hội! Rồi thuyền gỗ! Rồi biển xanh! Rồi hải tặc! Rồi trại tỵ nạn! Có những quãng đời Sài Gòn sau biến cố75, viết thêm chi tiết hóa ra dư thừa. Chỉ nhắc lại vài chữ, tựa như tên một cuốn sách, thế cũng đãđủthấm thía! Đến ngày hôm nay, nghe Việt Dũng hát Lời Kinh Đêm, Khánh Ly hát Đêm Chôn Dầu Vượt Biển của Châu Đình An, xúc động xôn xao nổi dậy, bởi vẫn còn nằm nguyên vẹn trong góc hồn tôi những tháng ngày của chữ Trầm. Mỗi lần có dịp nhìn thấy hình ảnh của trại tỵ nạn Pulau Bidong, nhìn tượng đài thuyền nhân trên đồi Tôn Giáo, nhìn cầu gỗ Jetty, tôi vẫn bồi hồi, bởi dù muốn dù không, ký ức của một thời lang thang tại đảo lại quay về. Năm 82, khi đó thuyền gỗ không số nhổ neo tại Rạch Sỏi. Sau bốn ngày lênh đênh trên sóng biển xanh đậm đặc Vịnh Thái, thuyền viễn xứ đặt chân tới bến cảng Marang. Saucùng, thuyền tỵ nạn đặt chân tới đảo Bidong, khoác lên người mã số PB 706. Thời đó, trên nghĩa trang khu F, tôi nhận ra mộ của bạn thời tiểu học. Hắn ngủ yên trên nghĩa trang khu F. Pulau Bidong giờ này còn đó, chứng tích và cũng là hình ảnh của chữ Trầm. Có lần tôi gặp một người sinh viên Việt Nam du học tại Úc Châu. Em đọc một số bài tôi viết về biến cố 75 và đời tỵ nạn, khi thuyền lênh đênh trên biển, những kinh nghiệm gặp gỡ ngư phủ Thái, những hung tàn trên khoang thuyền gỗ, những tàn nhẫn nhân gian không gặp trong cơn ác mộng. Em hỏi tôi, — Những chuyện chú viết về thuyền nhân là chuyện thật hay làgiả tưởng vậy? Tôi không tin vào tai mình, cứ tưởng như có người hỏi, “Chuyện Hitler và lò hơi ngạt là chuyện thật hay giả tưởng vậy?” Cái thời của chữ Trầm nó thấm sâu và bùi ngùi với câu hỏi của người trí thức tuổi trẻ Việt Nam ngày hôm đó. Câu hỏi vẫn đi theo tôi. Khi có dịp, tôi lại nhắc lại câu hỏi của em với người Việt và người ngoại quốc. Những hương hồn của thiếu nữ Việt Nam bỏ mình trên biển. Bạn tôi nằm ngủ yên trên nghĩa trang Khu F của đảo Bidong. Bao nhiêu thân xác Việt Nam đã chìm sâu trong lòng biển và gục ngã trên đường bộ. Xác thịt đã tan, xương trắng đã biến mất, nhưng linh hồn của họ vẫn còn đó, vẫn còn anh linh hiển hiện trong cõi muôn trùng.Và riêng tôi, vẫn còn đây, vẫn là một nhân chứng cho một thời của chữ Trầm. Nhưng cuối cùng chữ Trầm rồi cũng chuyển mình, từ sâu hóa bướm, hóa ra chữ Thăng. Trận hồng thuỷ trong trang sử Việt mang nhiều mảnh đời Việt Nam trôi dạt sang xứ người. Nhiều sinh mạng đã bỏ mình trên đường bộ và đường biển. Nhưng cũng nhiều sinh mạng đã đặt chân tới bờ. Sau những ngày tháng vật vờ tại trại tỵ nạn Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Hồng Kông, những người sống sót không tuyệt vọng, mà âm thầm và kiên nhẫn làm lại từ đầu với hai bàn tay trắng. Rồi thương xá Việt: Little Saigon, Thung Lũng Hoa Vàng. Rồi con cái Việt lớn lên hoặc sinh ra trên vùng đất mới, vươn vai cao lớn, sắt son giữ gìn truyền thống Việt Nam. Rồi những thành tựu mới tinh khôi trên vùng đất mới. Rồi niềm tin vào mình và vào người, niềm tin vững vàng. Rồi niềm hy vọng vào một ngày mai, hy vọng tràn trề. Cộng đồng Việt Nam hải ngoại như rồng vàng Thăng Long ngày nào vươn cao, chuyển mình thay đổi. Thành công của cộng đồng Việt Nam hải ngoại sau biến cố 75 là một điều không thể từ chối. Ngày 30 tháng Tư năm 75, anh tôi, lính Thủy Quân Lục Chiến bước chân lên tàu tỵ nạn tại bến cảng Vũng Tàu ngay giờ phút Sài Gòn hấp hối. Mấy năm sau, nhờ những thước vải và hộp thuốc tây anh gửi về, gia đình tôi cầm cự với cơm trộn bo bo và khoai sắn. Năm 82, sau những hãi hùng với biển và người, thuyền tôi dừng lại tại bến cảng Mã Lai. Năm 87, mẹ tôi, chị và em đường bộ đặt chân tới đất Thái. Giờ này Thung Lũng Hoa Vàng trở thành quê hương thứ hai (riêng Mẹ tôi, quê hương thứ ba). Nơi đó, thế hệ thứ ba và thứ tư của gia đình tôi đang vươn cao hóa ra thiếu nữ thanh niên, vừa nói tiếng Việt giọng Bắc vừa nói tiếng Anh giọng Mỹ. Cháu tôi đọc bài tôi viết, và không bao giờ hỏi tôi chuyện đó chuyện thật hay giả tưởng, bởi chính bố mẹ các cháu là nhân chứng cho một giai đoạn của chữ Trầm. Biến cố tháng Tư năm 1975 sẽ được ghi lại trên trang sách lịch sử Việt Nam. Hậu thế Việt Nam sẽ đánh giá và nhận xét về một giai đoạn đánh dấu bằng hai cột mốc: Hiệp Định Geneva chia đôi đất nước năm 1954 và Hiệp Định Paris dẫn tới biến cố năm 1975. Nhận xét vàđánh giá ra sao, không ai biết. Nhưng mỗi lần tháng Tư quay về trên những trang lịch, người Việt hải ngoại vẫn nhắc nhở nhau những câu chuyện của một thời, thời của chữ Trầm. Riêng đối với tôi, nhắc để nhớ và trên hết tất cả hy vọng tôi học được một bài học quý giá cho riêng mình để chữ Trầm sẽ không bao giờ lập lại thêm một lần nữa. Ngày 30 tháng 4, như một thường lệ vẫn quay về trên những trang lịch. Tờ lịch 30 tháng Tư hằng năm nhắc nhở người Việt một thời bể dâu và cũng làdấu mốc thành công của cộng đồng hải ngoại. 30 tháng Tư của ngày hôm nay là của chữ Trầm và trên tất cảcũng là của chữ Thăng. Nguyễn Trung Tây |
|||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||
![]() |
|||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23678 |
![]() ![]() ![]() |
||
Nhân Duyên Suốt gần hai chục năm, Quân vẫn mong có ngày trở về thăm lại những trại tị nạn mà chân anh đã lê bước qua trên con đường đi tìm tự do. Vì vậy, nhân dịp ghé Nam Dương trong một chuyến đi công tác, anh đã tìm cách đến hòn đảo nơi anh đã trải qua gần hai năm trời chờ ngày được đi định cư. Đó là một hòn đảo khá lớn nằm trên Biển Java, ngoài khơi Nam Dương. Anh muốn về thăm nơi đó để nhớ lại những ngày gian nan năm xưa, những gian nan mang kỷ niệm buồn nhiều hơn vui trong cuộc đời mình. Anh nhận thấy rằng những kỷ niệm đau thương thường khắc sâu trong tâm trí con người và làm cho mình khó quên. Mình có nhớ đâu những ngày vui suớng, chỉ nhớ những ngày phải tranh đầu với cuộc sống để mà tồn tại và vươn lên, những ngày mồ hôi hay nuớc mắt nhỏ xuống làm cho mình thấm thiá những nhọc nhằn của cuộc đời. Những ngày sống yên bình trên đất Mỹ, nhiều khi Quân nhớ lại hòn đảo này, nơi có nhiều cảnh thiên nhiên rất đẹp, có núi, có bờ biển với những bãi cát trắng, sóng nhấp nhô làm cho anh nhớ đến Vũng Tầu hay Đồ Sơn, có bến tàu nơi những ca-nô chạy cả trăm cây số giờ đưa những nhân viên các tổ chức quốc tế giúp người tị nạn từ Nam Dương hay Tân Gia Ba tới lui nơi này. Nhớ đến bến tầu ấy, anh cũng nhớ đến những hình ảnh không vui của những ghe thuyền mà dân tị nạn đã dùng để vượt biển, những ghe thuyền một thời đã ngổn ngang nằm chết ở đấy, chúng đã hiện hình trong ký ức anh như là những chứng tích lịch sử đấu tranh của những con người đã ra đi để trốn cộng sản. Bao nhiêu người đã chết tức tưởi khi lênh đênh trên biển Đông mà không đến được hòn đảo này? Bao nhiêu người đã được nơi hòn đảo này để rồi lại chết nơi đây? Những ngày anh tị nạn ở đây, chiều chiều anh thường đến đếm những nấm mồ chôn cất nơi nghĩa địa nhỏ trên đảo. Trong cơn buồn của kẻ xa nhà, xa quê hương, anh đã tần ngần ngồi để hồn tưởng nhớ những kẻ đã cố công đi đến đây để rồi ở lại đây vĩnh viển. Anh đã lẩn thẩn cho rằng chết và được chôn ở cái nơi khá thơ mộng này cũng sướng, chết và được chôn cất nơi đây chẳng là một đặc ân của trời cho hay sao? It ra, còn hơn những ai chết bờ chết bụi trong rừng thiêng Kămpuchia, hay chết một cách khốn nạn ngoài biển khơi để thân mình làm mồi cho cá. Anh đã từ Tanjung Pinang đáp con tàu lướt sóng tốc hành đến hòn đảo trong nửa tiếng đồng hồ. Trên chuyên tàu hôm đó, ngoài một số ít người dân địa phương, chỉ có khoảng chừng năm sáu chục du khách, phần lớn là từ Đài Loan và Nhật; họ đến thắm viếng ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng trên đảo. Anh đã ngồi nói chuyện với một người Đài Loan đồng hành. Ông ta nói với anh:
Sau khi tàu cập bến, Quân đã bồi hồi theo chân những hành khách bước trên chiếc cầu gỗ để xuống đất liền. Lòng anh thắt lại khi thấy lại nơi cũ, tim anh rung động, anh hồi hộp cảm thấy như thể đang có một bàn tay lạ đè lên trên lồng ngực mình, làm cho anh hơi ngộp thở. Anh dương mắt nhìn một tấm bảng khá lớn ghi hàng chữ «Ex Vietnam Refugee Camp». Cả nhóm du khách nhanh bước đi theo một người dẫn đường Nam Dương, vừa đi vừa chỉ chỏ vừa nói một thứ tiếng Anh hơi khó hiểu. Gần đó, một chiếc xe buýt chở khách đang đậu chờ những ai muốn đi ngoạn cảnh. Người đàn ông anh mới làm quen quay sang hỏi anh :
Chiếc xe chạy được chừng mươi phút thì một một cảnh hoang tàn hiện trước mắt Quân. Những hình ảnh xưa anh còn giữ trong ký ức nay không còn nữa. Nơi đây không còn là cái trại tị nạn nơi anh đã được đưa tới sau khi chiếc ghe chở hơn năm chục người đã trôi dạt vào một cù lao ngoài khơi Nam Dương vào năm 1980. Chuyến ra đi vượt biển đó đã mất hơn mười hai ngày để từ Cần Giờ đến được Nam Dương. Mười hai ngày kinh hoàng, anh đã sống để thấy sự khốn khổ của con người khi phải trải qua những cơn đói khát mệt lả, sống thoi thóp, và sau cùng là chết vì không chịu đựng nổi sự gian nan của cuộc đi. Chiếc xe ca chạy lòng vòng trên con đường trải nhựa còn được bảo trì tốt, một phần vì nơi đây vẫn còn người địa phương cư ngụ, một phần khác vì hàng ngày có du khách đến thăm thắng cảnh thiên nhiên của rừng núi biển cả. Hai bên con đường, Quân chỉ thấy cây cỏ mọc chi chít, xanh tươi vì mặc dù trời nóng bức kinh hồn, gió biển thổi lồng lộng nhưng có những cơn mưa mùa đổ xuống như thác nước, kéo dài hàng giờ trước khi mặt trời nóng bỏng lại hiện lên. Con đường trải nhựa này hai mươi năm trước kia tấp nập những đôi trai gái, những đàn ông đàn bà con nít đi dung dăng dung dẻ. Những ngày ăn không ngồi rồi đó, họ dắt díu nhau đi bộ, đi dong chơi cho chóng qua ngày. Họ kéo nhau đi tắm biển hoặc đi nơi này nơi kia tìm những người quen biết, hy vọng gặp lại được trong số hàng ngàn người sống tị nạn nơi đó những bà con hay bạn bè để cùng nhau than thở về cuộc đời hay chỉ để tán gẫu. Khi xe đi qua những vùng xưa kia có những dãy nhà gỗ dài hai từng, mỗi phòng nhỏ dành cho một gia đình tá túc, Quân chỉ thấy những cây rừng chi chít, phủ kín cả những con đường đất mà trước kia dập dìu người tỵ nạn. Sự đổ nát hoang tàn hiện ra trên cả một vùng rộng mênh mông. Những barrack biến đâu mất chỉ còn trơ lại những mảnh tường ván hay những cột nhà xiêu vẹo nay làm nơi trú cho đàn khỉ hàng trăm con nhẩy múa nhìn chằm chặp chiếc xe đi qua với đôi mắt tựa như mắt người. Các du khách thi nhau chỉ chỏ, nói chuyện xì xồ, cười đùa lên tiếng. Quân thấy dâng lên trong lòng một nỗi buồn da diết, những kỷ niệm gắn bó anh với nơi đây đã không như anh hằng tưởng. Sự thật bao giờ cũng phũ phàng. Hai mươi năm trôi qua, đã có bao nhiêu biến đổi, anh thấm thiá với sự vô thường của đời người, với sự thay đổi của vạn vật bao quanh chúng ta. Không có gì tồn tại mãi trên cõi đời này, nhưng mình đâu có ý thức chuyện đó ? Quân nhớ lại hình ảnh những căn nhà gỗ hai từng tương đối khang trang lập nên cho dân tị nạn, và anh vẫn còn nhớ anh đã được cấp cho một căn phòng ở từng trên, có cây cầu thang gổ để đi lên đi xuống. Anh hay ngồi trên nấc thang chót trên cao ngắm cảnh sinh hoạt của trại, hay nhìn trời, nhìn đất, nhìn mây nhớ đến gia đình, và các bạn bè còn ở lại Saigon. Anh đã phải ở nơi đó gần hai năm, hai năm mà anh có cảm tưởng như hai chục năm, vì thủ tục xin đi định cư kéo dài chậm chạp, những ngày tháng trôi qua trong sự vô vọng và buốn bã chán chường, trong sự lo lắng không biết tương lai sẽ đi vể đâu, ngày mai sẽ ra sao. Những lúc không biết làm gì, anh đã đi đến ngôi chùa có bức tượng Phật to lớn và đẹp để ngồi trên chiếc đu cột trên cành cây ngoài sân, trước lối cửa vào đại sảnh, ngửi mùi hương trầm và suy tư về niềm tin và con người. Chiều về, khi ánh nắng gay gắt đã nguôi ngoai, gió mát từ biển Java thổi vào, anh đi dạo trên những con đường sỏi đá chạy dọc theo bờ biển, đi hàng mấy cây số để đến những quán lá bán cá phê ngồi nghe nhạc vàng, nhớ về quê hương anh đã xa cách. Ôi những buổi chiều buồn day dứt ấy nhưng lại đáng sống, đáng hưởng, những buổi chiều mang bao ý nghiã của cuộc đời con người, trải qua bao đắng cay mới đến được bến bờ này, nay ngồi hưởng những phút suy tư trong tiếng nhạc tiếng hát, bên hương vị của tách cà phê và những điếu thuốc. Anh đả từng ngồi như thế, đôi khi với những người bạn mới, nhưng thường thì là một mình, bởi vì anh đâu có đến đó để vui, để nói chuyện, để cuời? Anh đến đó để buồn, để nhớ, để trầm tư mặc tưởng. Quân đang để hồn quay trở về với quá khứ thì anh giật mình tỉnh dậy khi chiếc xe dừng lại và chỉ chừng vài phút sau anh thấy mọi người trên xe lục đục đứng dạy chuẩn bị xuống xe. Anh bồi hồi đi theo lớp hành khách qua những con đường đất đỏ để vào phía sâu bên trong, nơi đây anh thấy, trong cảnh lạnh tanh không chút hương khói, một nghĩa trang với hàng trăm ngôi mộ của những kẽ đã bỏ mạng nơi đây vì bệnh tật, bị rắn cắn, hay đã tự vẫn vì quẩn trí khi thấy những người thân yêu của mình đã chết hết trên con đường vượt biển. Nhiều cô gái, điên vì đã bị hải tặc hãm hiếp, không còn thiết sống nữa. Họ đi tìm cái chết bằng cách nhẩy xuống vực thẳm hay treo cổ tự tử trên những cành cây. Những du khách phụ nữ đã thoăn thoắt đi quanh những nấm mộ, cắm những bông hoa và những cây nhang nghi ngút khói xuống đất rồi quì xuống miệng lẩm bẩm khấn. Quân nhìn những kẻ lạ đó làm công việc khấn xin bằng tiếng ngoại quốc mà bùi ngùi. Anh lẩn thẩn nghĩ: «Khấn bằng tiếng Trung Hoa, tiếng Nhật, hay tiếng Nam Dương như thế thì làm sao mà ngưới chết hiểu cho được?» Rồi anh lại tự trả lời câu hỏi của mình: «Có thể trong cõi chết mọi người cùng nói một thứ tiếng và những lời cầu xin kia đã được chuyển đến cõi chết bằng cái thứ tiếng mà ai cũng hiểu đó?». Trong đám người đi cầu xin những hồn thiêng nơi đây, ngoài những kẻ lớn tuổi mang nhiều nối thống khổ của một đời người, còn có những cặp thanh niên thanh nữ, họ dắt tay nhau đi viếng từng ngôi mộ, nét mặt phảng phất một nỗi buồn sâu sắc, vẻ mắt đăm chiêu. Họ đến nơi đây để cầu xin điều gì? anh tự hỏi. Có thể họ cầu xin được hạnh phúc bên nhau cho đến khi chết? Hay họ là những cặp vợ chồng hiếm muộn cầu xin có được một mụn con? Nghĩ đến đây, anh nhớ đến Nhàn vợ anh còn ở nhà. Hai đứa đã lấy nhau đã gần mười năm mà chẳng có con. Đối với anh thì cũng không sao, không có con thì càng đỡ vất vả, vì đời sống bên Mỹ đầu tắt mặt tối, đấu tranh với cuộc sống hàng ngày cũng đã đủ thấm mệt. Nhưng Nhàn thì lại nghĩ khác. Nàng cần có một đứa con để cuộc đời có ý nghiã, để hai vợ chồng thêm gắn bó với nhau, để gia đình thêm hạnh phúc. Nàng nói như trong cơn mơ:
Quân nói vậy thôi chứ trong đầu anh vẫn nghĩ là hai đứa sẽ chẳng có con. Anh nay đã gần năm chục tuổi mà Nhàn thì đã gần quá cái tuổi để sinh con đẻ cái. Anh nghe nói ở cái tuổi trên bốn mươi của Nhàn, có con lần đầu không là chuyện đơn giản và nhiều vấn đề sức khỏe đặt ra cho đứa bé. Nhưng Nhàn thì cứ khư khư cho rằng nay y khoa đã tiến bộ và, không như xưa, đàn bà trước tuổi năm mươi vẫn có thể có con được. Mỗi lần đi chùa, nàng vần khấn xin Trời Phật cho nàng có được một đứa con. Nghĩ đến đây, Quân đi quanh quẩn tìm một nấm mộ để cầu xin hộ cho Nhàn. Anh đi tìm một oan hồn linh thiêng để xin được giúp đỡ. Đi được hơn trăm bước tự nhiên Quân thấy như
thể anh bị thu hút bởi một tấm bia xi măng nhỏ phủ đầy rêu xanh, trên đó
chỉ có vỏn vẹn hai hàng chữ khắc xâu: Sau khi thăm viếng nghĩa trang, cả nhóm như một đàn cừu lững thững leo lên sườn đồi để đến một ngôi chùa to lớn khang trang do các nhà sư Nam Dương gốc Hoa dựng lên bên cạnh ngôi chùa nhỏ xưa kia do một nhà sư Việt trụ trì khi nơi đây còn là trại tị nạn. Vì biết trước có đoàn du khách đến thăm nên chùa đã chuẩn bị tiếp đón và tổ chức một buổi lễ để cho mọi người tham dự. Trước sân chùa khói hương bốc lên nghi ngút từ một lư đồng đen khá to lớn đặt nơi chân một pho tuợng Phật Bà Quán Âm cao hai thước. Hai bên sân có những sạp nhỏ bán hương hoa và vài thứ vật kỷ niệm cho những du khách mua về để giữ làm kỷ niệm cuộc thăm viếng đảo. Quân mua một bó hoa và một bó hương rồi bước vào trong đại sảnh. Anh đến cắm hoa vào những bình hoa đặt dài đưới chân một tượng phật to lớn cao chắc cũng phải gần ba thước. Anh đến gần ngọn đèn dầu, đốt bó hương rồi đến cắm nơi những bát hương xung quanh. Anh quì gối niệm Phật và cầu xin cho linh hồn các người đã chết trên hòn đảo này sớm được siêu thoát. Sau đó anh đã cùng nhóm du khách dự buổi cầu nguyện kéo dài hơn nửa tiếng đồng hồ. Do tình cờ hay do nhân duyên, anh đã ngồi cạnh một người đàn bà Việt nay sinh sống ngay trên hòn đảo. Trước kia, bà là một người tị nạn nơi đây, và khi trại đóng cửa và những người còn lại bị trả về Việt Nam, bà đã lấy một người đàn ông địa phương và ở lại lập nghiệp trên hòn đảo. Bà sinh sống bằng nghề phụ giúp nhà chùa làm công việc dọn dẹp và nấu nướng cho các nhà sư. Bà nói với Quân :
Quân nghe nói như thế mà thấy đau lòng cho những hồn ma sống vất vưởng vì chưa được giải thoát. Nhưng biết ngày nào mới được siêu thoát khi mà nghiệp còn nặng nợ với trần gian? Anh tò mò muốn biết xem sự thật có đúng như người đàn bà vừa nói với anh hay không nên anh tính trong đầu tối hôm đó anh sẽ ở lại trên đảo để điều tra xem sự thể ra thế nào. Do vậy, sau bữa ăn trưa, anh liền lên văn phòng nhà chùa xin tá túc lại đêm hôm đó. Nhà Chùa có một dãy nhà ở phiá sau đại sảnh làm nơi dành cho những ai muốn ở lại tham dự vào những lớp học phật pháp hay dự vào những chương trình sinh hoạt của nhà chùa. Tối hôm đó gần ngày rằm, trăng toả ánh sáng xuống cả khu rừng âm u, xuống những sườn núi có những cây cao vút, Gió biển thổi làm những cành cây trao qua trao lại trông như những bóng ma khổng lồ. Ánh trăng mờ ảo tỏa xuống những con đường sỏi đá đưa xuống bãi biển. Sóng vỗ dì dào như thể muốn nô đùa với ánh trăng. Tuốt xa, biển Java đen như mực, lóng lánh ánh sáng, mặt nước lung linh phản chiếu ánh trăng, làm nên những vệt sáng vĩ đại, trông vừa vui mắt, vừa gây nên một cảm hứng thích thú thật thơ mộng. Gió biển nhè nhẹ thổi, đủ lạnh để làm cho Quân nổi da gà. Anh lấy hai bàn tay lần lượt xoa xoa hai cánh tay, rụt cổ lại, khẽ rùng mình. Nhưng cảnh đẹp thiên nhiên bất hủ này đang thu hút tâm hồn anh; anh cảm thấy một thứ hạnh phúc lạ lùng khi lững thững đi một mình trên bãi biển vắng hoe không một bóng người. Trước mặt anh là sự vô biên của biển cả, của thiên nhiên. Anh cảm thấy bé nhỏ, như thể anh chỉ là một hạt cát trong sa mạc, một giọt nước trong đại dương, hay một ngôi sao trong vũ trụ mênh mông, anh nghĩ đến sự mong manh của con người. Anh đang ngồi mơ mộng dưới ánh trăng thì bỗng nhiên anh nghe như thế có một hai viên sỏi từ xa bay tới, tiếng sỏi bay vụt qua tai anh để rồi rớt xuống đất nghe cái cạch, và lăn đì trên bãi cát. Anh cảm thấy hơi rờn rợn khi nghĩ đến những lời người đàn bà đã kể cho anh nghe lúc trưa nhưng rồi lại tự nhủ: «Chắc mình tưởng tượng đấy thôi ! Làm gì có ai xung quanh mình đâu để mà liệng đá vào mình?». Quả nhiên sự yên tĩnh trở lại trong một khoảng thời gian khá dài, đủ để tâm hồn anh chìm trở về với sự mơ mộng dở dang. Nhưng rồi một loạt sỏi khác lại từ đâu bay tới, nhưng viên sỏi nhỏ bay vù vù qua đầu anh, một viên trúng ngay lưng anh làm cho anh đứng phắt dậy, quay nhìn xung quanh. Anh cố dương mắt nhìn sau những bụi cây xem có bọn con nít nào trốn nơi đó phá dọa anh hay không, nhưng chẳng thấy gì. Thế rồi lúc anh vừa ngồi xuống thì những viên sỏi lại từ đâu bay tới, lần này kèm theo những tiếng cười khúc khích. Và ngay sau đó anh nghe có tiếng người nói từ phía sau lưng:
Anh vội quay lưng lại nhìn thì thấy một người con gái tuổi chừng hai mươi, tóc dài đen láy, mặc một áo bà ba trắng và một quần vải lĩnh bóng màu đen. Nàng từ từ đi xuống phía anh. Mắt anh hoa lên và anh có cảm tưỡng như những bước chân của nàng nhẹ nhàng lướt trên con đường đá sỏi, đôi bàn chân nàng mà anh thấy lờ mờ không rõ dường như không chạm xuống đất và anh cũng không nghe thấy tiếng sột soạt của chân bước đi trên sỏi đá. Khi nàng đến gần hơn thì anh có cảm tưởng như đã gặp nàng ở một nơi nào đó, bóng dáng nàng trông quen quen, óc anh cố liên tưởng đến một sư gặp gỡ trong quá khứ. Người con gái ngồi xuống bên anh nói :
Quân thấy hai giọt nước mắt lăn xuống hai gò má Thu Hằng. Anh tự nhiên thấy xúc động mãnh liệt, tim anh thổn thức lạ thường, anh muốn với tay ôm Thu Hằng vào lòng, anh muốn vuốt mái tóc nàng, anh muốn nói một câu gì để xoa dịu nỗi đau thương của người con gái bạc phước ấy, nhưng không được. Tay anh cứng đờ không thể giang ra để mà ôm nàng, để mà vuốt mái tóc đen láy chẩy xuống đôi vai bé nhỏ của nàng. Dường như có một cái gì vô hình ngăn chia anh với Thu Hằng mà anh không biết. Anh nhìn người con gái với đôi mắt đẫn đờ và lòng anh dấy lên một nỗi thương sót tràn ngập. Tai anh vẫn văng vẳng nghe giọng nói của Thu Hằng, một giọng nói vang lên như từ một cõi hư vô:
Thu Hằng ngưng lại một phút, nét mắt đăm chiêu hướng về một vùng trời xa xôi, về một dĩ vãng đầy đau thương và nước mắt, trước khi nói tiếp:
Quân nhìn Thu Hằng ngồi hai cánh ôm đôi chân co lại, mái tóc óng ả, gió biển thổi bay bay sau lưng, đôi mắt đăm chiêu. Anh thấy nàng thật dễ thương khi ở cái tuổi con gái còn vương vấn nét thơ ngây, khi còn bé bỏng. Anh cảm thấy thương sót sao cho số phận cay đắng của nàng.
Nghe Thu Hằng kể mà lòng Quân đau quặn, tim anh xe lại, nước mắt anh trào ra. Đã gần hai mươi năm trôi qua, nhưng nghe lại những câu chuyện vượt biển thương tâm ngày trước sao anh vẫn không sao cầm lòng được. Bao nhiêu hình ảnh đau thương lại hiện ra trong tâm trí anh, như thể những thảm cảnh đó mới xẩy ra ngày hôm qua, hôm kia.
Quân nhìn những giòng nước mắt chảy xuống đôi má Thu Hằng mà cảm thấy đau thắt con tim. Anh rất muốn an ủi Thu Hằng nhưng anh nhận thức rằng Thu Hằng và anh đang ở hai thế giới khác biệt, ngăn cách nhau bởi một bức tường vô hình. Anh chỉ còn có thể ngồi đó như một pho tượng nhìn người con gái anh thương sót vô cùng mà thấy mình bất lực không làm gì để giúp nàng bớt khổ được.
Nói đến đây Thu Hẳng khẽ quay đầu, đôi mắt long lanh nhìn anh một cách cầu khẩn.
Vừa nghe xong câu nói đó, Quân thấy Thu Hằng đứng dạy và trong nháy mắt biến đi mất. Anh thẫn thờ nhìn vào không gian xa xôi cố tìm lại hình bóng nàng nhưng tất cả đã xoá nhòa, tất cả đã tan biến như trong một giấc mơ. Gió biển đã chuyển, những cơn gió đêm khuya thổi ố ạt làm cho anh cảm thấy lạnh buốt. Lòng anh tê tái, anh buồn bã đứng dậy trở vê căn phòng phía sau ngôi chùa. Anh trằn trọc suốt đêm không sao tìm được giấc ngủ. Ngày hôm sau, trước khi rời đảo trở lại Tanjung Pinang, Quân lên gặp vị sư cả của chùa để xin ngài làm riêng cho Thu Hằng một buổi lễ cầu siêu. Anh đã thành tâm quì xuống hàng giờ cầu nguyện cho linh hồn người con gái xấu số. Trờ về Mỹ, Quân không nói cho Nhàn nghe việc anh đã ghé lại hòn đảo để thăm cái trại tị nạn năm xưa. Anh không muốn Nhàn biết câu chuyện lạ lùng đã xẩy ra với anh trên hòn đảo đêm hôm trước. Kể lại chuyện anh gặp Thu Hằng chỉ mang lại cho nàng những lo âu và suy tư vô ích. Vả lại, làm sao nàng hiểu được câu chuyện do nhân duyên này? Có lần nàng thắc mắc tại sao anh năng đi chùa hơn xưa và chăm chỉ thành kính dự những buổi lễ cầu nguyện, anh chỉ mỉm cười trả lời:
Nhàn có biết đâu là anh đi chùa để cầu nguyện cho Thu Hằng. Thế rồi một buổi sáng thứ bẩy, sau khi tỉnh dậy, hai đứa còn nằm trong giường, Nhàn mỉm cười nói với anh:
Quân sung sướng ôm chặt Nhàn vào lòng, nhưng trong đầu anh liên tưởng đến lời cầu xin anh đã khấn hôm nào nơi ngôi mộ Thu Hằng. Tự nhiên trong đầu anh lại hiện ra hình ảnh người con gái anh đã gặp đêm hôm đó, một đêm có trăng sao đẹp tuyệt vời. Thấy anh có vẻ hơi đăm chiêu, Nhàn hỏi :
Quân giật mình khi nghe Nhàn nhắc đến cái tên mà anh không hề hé miệng nói với nàng. Tò mò anh hỏi.
Hướng Dương txđ ![]() |
|||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||
![]() |
|||
<< phần trước Trang of 108 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |