![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Chuyện Linh Tinh | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 108 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | |||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23678 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23678 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Bà Bảy Vượt Biển - Vietnamese Boat People <<<<<![]() Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 04/Apr/2019 lúc 8:41am |
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23678 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Trốn Trại
BBT: Xin gởi đến quý độc giả bài viết "Trốn Trại" thật cam go, may mắn và cảm động của anh Nguyễn Ngọc Thạch, K20 hiện sống ở Minnesota. BBT cám ơn anh và mong được anh cũng như quý độc giả đóng góp bài vở, để website ĐH/VB 19 được phong phú hơn . Sau khi ở tù cải tạo đuợc 5 năm, khi tôi đang ở trại Suối Máu Biên Hòa, thì có một số tù đuợc đua lên trại Tống Lê Chân gần An Lộc Bình Long. Tôi mừng thầm là nếu đưa tôi lên Tống Lê Chân thì tôi có rất nhiều hy vọng để trốn trại, vì tôi biết rất rõ vùng đất này. Đon vị đầu tiên khi tôi mới ra truờng là Đại đội 11 thuộc Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 9, Sư đoàn 5 Bộ Binh đóng gần sân bay An Lộc Bình Long. Và trong suốt thời gian phục vụ từ cấp Trung đội lên đến cấp Trung đoàn tôi vẫn ở trong vùng rừng xanh đất đỏ này.
Giữa tháng 5 năm 1980, họ chuyển tôi từ trại Suối Máu Biên Hòa lên trại Tống Lê Chân. Đây là một trại tù ở giữa rừng, gồm các dãy nhà tranh với mấy lớp hàng rào kẻm gai bên ngoài và một lớp hàng rào tre bao bọc bên trong che kín, không nhìn thấy đuợc bên ngoài. Ở bốn góc và ngay cổng ra vào là các chòi canh đuợc trí súng đại liên. Sau khi lên đến trại Tống Lê Chân, chúng tôi liền nghiên cứu ngay kế hoạch để trốn, vì phải trốn càng sớm càng tốt.
Khi ở trại Suối Máu Biên Hòa tôi có luợm được một cục nam châm hình trụ to bằng đầu ngón tay. Theo nguyên tắc của địa bàn thì khi một thanh nam châm đuợc treo trên sợi chỉ, đuợc quay tự do thì một đầu luôn luôn chỉ về huớng Bắc, còn đầu kia là huớng Nam. Vì hai đầu giống nhau nên tôi phải dùng dầu hắc nhựa đuờng để làm dấu đầu huớng Bắc.
Trong thời gian ở tù chung nhau qua các trại, tôi có quen thân và hay tâm sự với Thu, một nguời cùng thuộc Sư đoàn 5 Bộ Binh truớc đây và có cùng chung một quyết tâm là sẽ cùng nhau trốn trại khi có dịp. Thu cũng cho biết là có thêm một nguời bạn nữa cũng muốn nhập bọn đó là Bình. Bình là một nguời rất tháo vát, lanh lợi và đã từng đổ đầu khóa học “Rừng Núi Sình Lầy” ở trường Biệt Động Quân Dục Mỹ, Nha Trang. Bình đã làm đuợc một cái kềm để cắt kẻm gai. Kềm này làm bằng hai quai xách của cuộn kẻm gai concertina, hai quai xách này bằng thép rất cứng. Khi một đầu đuợc đập dẹp, mủi mài nhọn và đục lổ, thì trông giống nhu luởi dao. Nhưng khi hai cái luởi dao ghép chập vào nhau và dùng một cây đinh làm trục xỏ xuyên qua hai lổ, thì biến thành một cái kềm để cắt kẽm gai.
Để chuẩn bị cho việc trốn trại, mỗi nguời may một túi vải nhỏ bằng loại vải ngụy trang để đựng đồ mang theo như lon guigoz, mì gói, gạo muối v.v…Mỗi nguời mang theo một bộ đồ thật tốt, quần tây áo sơ mi bỏ trong bọc nylon thật kín cho khỏi uớt, để bên trong áo truớc ngực, mặc đồ trận áo lính cũ bên ngoài. Ngoài ra tôi còn may thêm một cái túi vải nhỏ để cất giữ cái địa bàn, có dây choàng qua cổ để khỏi rớt mất. Mỗi lần đo là tôi rút một sợi chỉ từ lai áo trận và nhờ tôi có làm dấu đầu huớng Bắc bằng dầu hắc nhựa đuờng nên tôi sờ vào là biết để đi cả ban đêm. Chúng tôi phải kiểm soát lẫn nhau cho thật kỹ, quần áo mặc, túi vải, đồ đạc mang theo tất cả đều phải đuợc ngụy trang cho tiệp với màu cây lá trong rừng và không được gây ra tiếng động chạm nào. Ngoài ra chúng tôi còn sắp đặt những gì sẽ bỏ lại, thật ít đồ bỏ lại, cố ý ngụy tạo như là có ý định sẽ đi xa, tức là sẽ đi về huớng Bắc để qua biên giới Kampuchia.
Buổi chiều hôm đó tôi và Thu cùng ăn chung nhau, đem tất cả những gì ngon đem ra ăn, ngốn cho thật đầy bụng để lấy sức tối đi. Tất cả đồ còn lại đem cho hết hoặc chôn dấu. Thu đem cả túi balô quần áo cho bạn bè. Tôi có cho một nguời bạn cùng khóa là Lương Văn Thìn mấy gói mì, mà bạn tôi không hiểu tại sao, tuyệt nhiên tôi không có đá động gì tới chuyện trốn trại.
Suốt trong ba tuần lể liền, Thu đã phải theo dỏi thật kỹ các toán tuần tra canh gác, giờ nào đi tuần, giờ nào đổi gác v.v…Sau cùng chúng tôi đã đi đến quyết định giờ xuất phát là 9 giờ tối, khi máy phát điện vừa tắt thì bắt đầu chui ra. Ở đây mỗi tối có máy phát điện cho công an coi truyền hình, đến 9 giờ thì tắt. Sau đó họ về sửa soạn độ 15 phút sau là bắt đầu đi tuần. Và theo như chúng tôi dự tính là phải mất 10 phút để cắt kẻm gai và 5 phút chót phải bò thật nhanh qua con đuờng tuần tra là khoảng đất trống bên ngoài. Địa điểm thuận lợi nhứt để chui ra là khoảng giữa hai chòi canh phía sau trại. Ban đêm họ đứng gác trên chòi canh cao nên không thể thấy rõ ở duới đất đuợc, theo đúng nguyên tắc canh gác ban đêm là phải ở duới thấp. Còn ngày đi thì chúng tôi chọn vào cuối tuần trăng, để khi chui ra thì trời còn tối, đến nửa đem trăng lên dễ thấy đuờng để đi. Chúng tôi chọn đêm 22 ta, âm lịch, vì tin dị đoan sợ đêm 23 ta là không tốt.
Đúng 8 giờ ruởi tối đêm 22 tháng 4 âm lịch tức là ngày 3 tháng 6 năm 1980, chúng tôi bắt đầu theo đúng kế hoạch ra ngồi ngoài cầu tiêu, để chuẩn bị cắt dây lạt của lớp hàng rào tre truớc, để đến đúng 9 giờ khi máy phát điện vừa tắt là chui ngay. Nhưng không ngờ khi đó chúng tôi thấy ở ngoài suối có ánh đèn của công an đang đi bắt cá ở duới suối, nên chúng tôi phải ngưng lại ngay và trở vô ngủ như thuờng lệ.
Qua đêm hôm sau bắt buộc là phải đi chớ không thể nào chần chờ được nữa, vì sợ nếu để lâu dể bị bại lộ. Lần này cũng đúng 8 giờ ruởi là ra cầu tiêu, vì cầu tiêu là chổ tốt nhứt để tới sát hàng rào mà không ai để ý. Bình bắt đầu cắt dây lạt của lớp hàng rào tre và cố vạch ra một lỗ để sẳn sàng chui ra. Lớp hàng rào tre này đuợc chôn sâu duới đất và sát khít nhau bằng hai lớp tre đan chéo vào nhau dầy đặc. Vì vậy rất khó gở ra, phải đào sâu xuống đất mới vạch ra một lỗ vừa chui và phải làm thật chậm thật kỹ vì sợ ở chòi canh nó có thể thấy lúc lắc ở đầu ngọn tre. Khi máy phát điện vừa tắt bầu trời chụp tối đen là lúc chúng tôi bắt đầu chui, thì bất ngờ có hai nguời đợi chui trốn theo. Thật hết sức bất ngờ và không thể nào từ chối đuợc nên chúng tôi đành phải lo bảo bọc nhau cùng trốn. Bình chui ra truớc là để cắt kẻm gai rồi đến tôi chui kế, tiếp theo là hai nguời trốn chui theo và Thu là nguời chui sau cùng.
Sau khi chui ra khỏi lớp hàng rào tre thì gặp lớp hàng rào kẻm gai thứ nhứt. Nhưng phía duới lớp hàng rào kẻm gai này là rãnh thoát nuớc với đất bùn xình hôi thúi, nên chui lòn qua đuợc mà khỏi phải cắt. Đến lớp hàng rào kẻm gai thứ hai thì Bình bắt đầu cắt. Hàng rào kẻm gai của VC rào thì họ có quá nhiều kinh nghiệm cho nên họ cho rào rất kỹ. Họ bắt phải đào một cái rảnh sâu xuống đất rồi mới trồng cột sắt lên và rào kẻm gai ngay từ phía duới rào lên, rồi lấp đất lại, nên không có cách nào vén lên để chui lòn qua đuợc, mà chỉ có cách duy nhứt là phải cắt thì mới chui ra đuợc. Mà cái kềm cắt kẻm gai của Bình biến chế nên không cắt dễ dàng nhanh chóng đuợc. Khi đang nằm chờ trong đám cỏ tranh giữa mấy lớp hàng rào với quần áo đầy bùn xìn hôi thúi, tôi nhìn lên bầu trời đầy sao, cảm thấy như bình tâm chấp nhận những gì đến sẽ đến, vì không còn cách nào hơn để lựa chọn đuợc nữa.
Bình cắt xong hàng rào này cũng mất 5 phút mới qua đuợc và còn một lớp sau cùng cũng mất 5 phút nữa. Và cuối cùng chúng tôi chui qua đuợc hết và phải bò thật nhanh, chỉ dùng cùi chỏ và đầu gối bò thật sát mặt đất như bò hỏa lực, vuợt thật nhanh qua khoảng đất trống, rồi truờn mình xuống suối. Lúc đó tôi có cảm giác như tim tôi đập quá mạnh như muốn vỡ lồng ngực. Tiếng thở dồn dập hổn hển mà tôi nghe rất rõ, và gợn lên sóng nuớc khi ngâm mình trong nước để lội qua suối.
Qua bên kia bờ suối chúng tôi phải bám theo rể cây để leo lên vì lòng suối sâu hẩm. Lên khỏi suối là băng mình qua đám rừng tre, rồi băng qua con đuờng mòn. Con đuờng mòn này đi ra chuồng bò nên chúng tôi phải tránh xa nơi đây gấp vì sợ có nguời lui tới. Bất ngờ Thu bị lọt xuống một hố sâu có lẽ là hố rác, tụi tôi phụ nhau kéo Thu lên. Vừa lên xong là đâm đầu chạy vô phía rừng rậm. Không bao lâu sau, bỗng nghe tiếng súng đại liên từ các chòi canh nỗ ran trời và sau đó là những tiếng quát tháo hò hét của đám công an chạy túa ra về phía chúng tôi, càng lúc nghe càng gần. Tiếng lên đạn súng AK47 nghe rớp rớp, tiếng hò hét vang động khắp nơi, tiếng chửi rủa hăm dọa “địt mẹ ra đi không tao bắn chết mẹ hết bây giờ”, nghe rất gần ở ngoài con đuờng mòn mà chúng tôi vừa mới chạy qua. Vì vậy chúng tôi hết đuờng chạy, sợ chạy sẽ gây ra tiếng động dễ bị lộ, nên 5 đứa tụi tôi đành phải chui vô một bụi rậm, nằm rút trong đó. Sau này được biết là sau khi chúng tôi chui ra khỏi hàng rào, thì lại có nguời chui trốn theo, nên bị phát giác bị bắt và bị đánh chết tại hàng rào và họ liền truy đuỗi theo để bắt chúng tôi. Chúng tôi cố nằm yên không động đậy. Một lúc sau nghe tiếng máy điện chạy trở lại và nghe tiếng lào xào ở trong trại, chắc là VC đang ra lệnh tập hợp điểm danh. Một hồi lâu sau thấy yên tịnh, không hiểu là họ vẫn còn lục soát hay ngồi núp rình đâu đó hay là đã đi chổ khác. Nhưng trong lúc đó chúng tôi quyết định là phải bò đi vì không thể chần chờ ở đây lâu đuợc. Chúng tôi 5 đứa bắt đầu bò đi thật chậm, hai tay rồi lại hai chân, đưa lên đặt xuống thật nhẹ nhàng, nếu lở có một tiếng động nhỏ như tiếng lá cây kêu sột soạt hay một tiếng cành cây gãy là ngưng lại ngay nghe ngóng rồi mới bò tiếp. Bò đuợc một lúc lâu chừng một tiếng đồng hồ, tôi nghi là chưa đi đuợc bao nhiêu, chân tôi bị đứt ngang ở ống quyển máu ra ướt xuống tới vớ, tôi rờ thấy ướt mới biết, nhưng cũng chẳng thấy đau đớn gì. Sau đó chúng tôi bắt đầu đứng dậy để đi cho nhanh ra khỏi chổ này, nhưng vẫn đi hết sức thật cẩn thận, buớc đi thật nhẹ nhàng im lặng. Tôi lấy thẳng huớng Nam mà đi, đi ngược với huớng Bắc là hướng qua biên giới. Chúng tôi giữ đúng hướng, không đi theo đuờng mòn hay chổ trống, bất kể là băng qua các đám ôrô duới suối hay bụi lùm gai góc. Và càng lúc nghe tiếng máy điện ở phía sau lưng càng nhỏ dần. Khi đó nghe có tiếng xe molotova, loại xe chở quân của VC, chạy đổ ra tứ phía. Chúng tôi phải đi chậm lại, sửa soạn đồ đạc cho thật gọn gàng, tuyệt đối không đuợc gây tiếng động và phải quan sát cho thật kỹ. Mỗi nguời nhìn một huớng, khi đến chổ trống hay gặp đuờng mòn là dừng lại lủi ngay vô bụi rậm gần nhứt rồi từ từ quan sát sau. Có nhiều lúc gặp họ đang đi bằng xe đạp, chạy ngang qua rất gần mà họ không thấy. Mỗi khi muốn băng qua đường mòn hay trảng trống, chúng tôi dừng lại nghe ngóng quan sát rất kỹ rồi mới chạy nhanh qua từng nguời một. Bỗng đâu có một tốp nguời Thuợng, vợ chồng con cái vừa đi vừa nói chuyện lào xào, nên chúng tôi lủi tránh kịp thời.
Lúc trời sáng hẳn chúng tôi đổi huớng đi về phía Đông tức là huớng ra quốc lộ 13. Đi trong rừng hoang vắng nhưng thỉnh thoảng nghe có tiếng đốn cây chặt củi, chúng tôi phải tránh xa ra. Đi tới chiều thì gặp con đường lộ đá đỏ, đó là đường vô Minh Thạnh. Chúng tôi chuẫn bị kỹ rồi băng qua đường cho thật nhanh và lủi vô sâu trong rừng một khoảng xa rồi dừng lại nghỉ. Chúng tôi lựa chổ kín đáo để dừng lại nghỉ, bởi vì từ đêm tới giờ gần một ngày tròn đã đem hết sức lực để cố vuợt thoát xa vùng nguy hiểm, nên bây giờ thấy thấm mệt, nhứt là vấn đề nước uống rất là khan hiếm. Tôi mang theo lon guigoz đựng nuớc uống nhưng đã bị đỗ mất hết vì nắp đậy của lon guigoz không kín chắc, giờ thấy khát rát cỗ họng. May sao Bình tìm đuợc một giếng nuớc bỏ hoang, cỏ mọc um tùm, nhìn xuống giếng tối om không thấy nuớc, nhung khi thòng lon guigoz xuống, múc lên đuợc những lon nuớc thật trong veo, uống thật ngon thật đã, nhờ đó chúng tôi ăn mì gói với nuớc lạnh. Xong rồi lấy thêm đầy nuớc rồi đi ngay, tiếp tục lấy hướng Đông để ra Quốc lộ 13.
Trời bắt đầu tối, nhưng khi tiếp tục đi thì nghe có nhiều tiếng súng trong rừng, chắc có lẻ là họ đi săn, mà cũng có thể là bọn công an, vì vậy chúng tôi phải dừng lại để tìm cách lẫn tránh. Chúng tôi ra giữa đám trảng tranh lớn cao quá ngang đầu, vạch đuờng ra ở giữa đám tranh, trải một tấm nylon để nằm nghỉ lưng và canh chừng mọi động tĩnh chung quanh. Nếu có nguời đi tới thì chúng tôi sẽ thấy dễ dàng để tìm đường lẫn tránh, nhưng nguợc lại họ sẽ không thấy chúng tôi đuợc vì tranh cao quá khỏi đầu. Khi đó hỏi chuyện nhau mới biết tên hai nguời đi chui theo, đó là Tuờng phi công phản lực A37 và một nguời nữa tên là Thạch, hình như là nguời Việt gốc Hoa, tôi không biết đơn vị, cả hai anh đều mang dép nên rất khó đi.
Sáng sớm hôm sau chúng tôi tiếp tục lên đuờng sau khi xóa mọi dấu vết. Khi đi thỉnh thoảng gặp các bẩy của nguời Thuợng rất là nguy hiểm, như bẩy cò ke, nếu vuớng chân vào thì cần bật sẽ bung lên rất là mạnh, có thể làm bị thương, hay bẩy bắn tên khi đụng vào cần bật thì bao nhiêu mủi tên tẫm thuốc độc sẽ bắn xuống. Vì vậy khi thấy khả nghi là phải dừng lại xem xét cho thật kỹ rồi tránh xa ra. Chúng tôi rất khát nuớc vì đi cả ngày mồ hôi ra nhiều mà không có miếng nuớc uống nên khát dữ lắm. Gặp một cây nói là trái gấm, Bình leo lên hái xuống ăn thử, vừa ngứa miệng, vừa khát nước thêm. Có lần gặp được nước đọng trong các lằn bánh xe bò và trên những lá cây khô còn đọng nuớc của những trận mưa truớc, chúng tôi góp nhặt lại hớp những giọt nước đó cho đở khát. Đến chiều thì trong lúc đang đi bất chợt gặp một em bé trai độ 11, 12 tuổi đang lang thang trong rừng. Chúng tôi giả dạng như là cán bộ đi khảo sát địa chất và hỏi em bé ở đâu có suối, thì em bé đó chỉ về huớng truớc mặt, đi thêm vài chục thuớc là thấy suối, một con suối rất lớn. Nhìn ở phía xa kia là một khu rừng đã đuợc phát quang và có các cây to bị đốt cháy nám đen, một đám nguời đang cuốc đất làm rẩy, chắc là dân vùng kinh tế mới. Chúng tôi lội xuống suối uống một bụng nước thật no nê. Sau đó chúng tôi tìm chổ bụi lùm kín đáo để nấu cơm, nấu bằng lon guigoz, hai đứa thay phiên nhau quạt để khói đừng bốc lên cao. Chúng tôi ăn bửa cơm này thật là ngon, ăn cơm nóng với bột ngọt trong gói mì. Sau khi ăn xong, trời đã xế chiều, chúng tôi thấy đoàn nguời làm rẩy đi về nhà đi theo hướng Đông, như vậy là ra Quốc lộ 13, nên chúng tôi đợi cho họ đi hết rồi mới men theo con đuờng mòn đó để đi cho nhanh. Đi độ chừng một tiếng đồng hồ thì ra tới ấp, tôi đoán chừng là vùng Tân Khai hay Tàu Ô, nằm cạnh Quốc lộ 13. Thấp thoáng nhìn từ xa thì thấy có lớp hàng rào tre bao bọc, và hình như có cổng ra vào, giống nhu một trại tập trung, nên chúng tôi không dám đến gần và cũng không muốn vô đó làm gì.
Sau khi trời xụp tối thì chúng tôi tiếp tục đi, chúng tôi dự định đi trong bìa rừng theo đuờng rầy xe lửa Sài Gòn - Lộc Ninh nằm song song với Quốc lộ 13 để đi, dự định sẽ đi qua khỏi quận Chơn Thành, rồi mới ra đuờng đón xe. Riêng hai nguời trốn theo là Tuờng và Thạch thì không dám đi nữa, mà họ có cho địa chỉ nếu ai về đuợc đến Sài Gòn thì nhắn dùm gia đinh họ lên đón. Chúng tôi ba đứa đi lần mò trong đêm và vì trời tối quá nên không đi đuợc bao xa, mà đành phải dừng lại nghỉ qua đêm. Sáng sớm hôm sau lên đuờng đi tiếp, đi cho đến trưa thì dừng lại nghỉ bên cạnh một cái ao nhỏ xung quanh có cây cối um tùm, dễ ẩn náo để nấu cơm ăn. Xong rồi lại đi tiếp, đến chiều chạng vạng tối thì đến một cái ấp khác, một xóm nhà lô nhô ngoài gần quốc lộ, chúng tôi ở bìa rừng trốn trong hầm hố cũ đuợc che phủ bỡi những lùm tre rất kín đáo. Buổi chiều dân trong làng đi lao động về, họ đi ngang qua khá gần chổ chúng tôi đang trốn, tiếng chó sủa dữ dội nhưng họ không để ý mà chỉ lo đi cho mau về nhà. Chiều hôm đó nằm nghe tiếng chó sủa, tiếng trẻ con đùa giởn trên đuờng, nhìn khói lam chiều từ một mái nhà tranh quyện bay lên không trung mà lòng tôi cảm thấy buồn vô hạn. Chạnh lòng nhớ đến vợ con, thầm nghĩ đến một mái ấm gia đình bên vợ hiền con thơ mà tôi uớc mơ đuợc như họ. Được sống đầm ấm trong một căn nhà tranh vách đất ở một miền thôn quê rừng núi nào đó. Nhưng nghĩ lại thân phận tôi là một người tù trốn trại, tương lai rất mờ mịt, không biết ngày mai sẽ ra sao. Một uớc muốn tầm thuờng, đuợc làm một nguời dân bình thuờng để sống mà lo cho gia đinh nuôi vợ nuôi con cũng không đuợc. Tôi buồn cho thân phận bơ vơ lạc lõng của tôi trong cái xã hội mới này. Hoàn cảnh của tôi thật đúng với câu “nước mất nhà tan, gia đình ly tán”.
Đêm đó chúng tôi khát nước vô cùng, cồn cào lên cổ họng. Bình với ý định lẻn vô nhà dân để xin nuớc uống, nhưng tôi với Thu cản lại, vì bao công trình giờ rủi ro vô gặp phải nhà của công an thì nguy khốn, đành chịu nhịn khát qua đêm. Nhưng không ngờ đến khoảng nửa đêm thì trời đỗ xuống một trận mưa thật lớn. Chúng tôi mừng quá lấy tấm nylon ra căng để hứng nuớc uống. Uống no bụng xong rồi, đỗ đầy vô lon guigoz mà trời vẫn tiếp tục mưa càng lúc càng lớn. Chúng tôi bị lạnh quá phải ôm lấy nhau trên đầu phủ tấm nylon và mỗi đứa phải lo ôm thật chặt bộ quần áo tốt ở trong bọc nylon, ôm kỹ ở truớc ngực để giử cho khô. Trận mua này thật lớn thật lâu sau cùng rồi cũng dứt hẳn. Vì không thể đi tiếp trong rừng cho đến quân Chơn Thành, vì đuờng còn xa mà đường rầy xe lửa thì không còn nguyên như truớc nữa, mà chỉ còn là những đám rừng tre che phủ um tùm rất là khó đi, chỉ có thể chui lòn duới đám tre gai, cho nên chúng tôi quyết định là sẽ chia tay nhau ở đây, phân tán ra mỗi nguời tự tìm cách để đi về Sài Gòn rồi sẽ gặp lại nhau sau. Trời hừng sáng chúng tôi thay bộ đồ thật tốt thật tươm tất, đồ đạc còn lại đem chôn dấu trong bụi, xong chờ cho đến khi nghe có tiếng xe chạy là lần luợt ra đuờng, lựa khoảng trống giửa hai nhà mà ra đón xe. Bình lên đuờng trước tiên, một lúc sau thì đến Thu, và tôi là nguời ra đuờng sau cùng. Khi buớc ra quốc lộ 13 tôi lấy bình tỉnh đi men theo bên đường chờ đón xe. Tôi không thấy Bình đâu hết mà chỉ thấy Thu đang đi phía truớc tôi một khoảng xa. Có chiếc xe Lam (xe ba bánh chở hành khách hiệu Lambretta) chạy trờ tới tôi liền đón để đi, vì xe đã đầy nguời nên tôi phải đeo theo xe đứng ở phía sau. Thu cũng lên đuợc chiếc xe đi truớc tôi. Xe chạy qua cầu Tàu Ô và như vậy là đêm qua chúng tôi đã ngủ ở giửa khoảng Tàu Ô - Tân Khai. Trước kia, đây là đoạn đuờng nguy hiểm nhứt của quốc lộ máu mang số 13 và cũng chính nơi đây đã xảy ra những trận chiến vô cùng ác liệt, mà dấu vết các hầm hố còn lại rất nhiều, dọc theo bìa rừng trông ra quốc lộ. Khi xe vô quận lỵ Chơn Thành tôi xuống xe ở đầu ấp Chơn Thành 2 để đi bộ vô, vì sợ vô tới bến xe sẽ gặp công an. Đi bộ dọc theo con đuờng vào quận lỵ, tôi nhớ lại các nơi mà ngày xua quen biết như Trại cưa Lê Quang, Trại cưa Mai Chấn Hung, Lò than ông Năm Thãnh, sau này ông Năm Thãnh cũng lập thêm trại cưa. Đi gần đến chợ là đến bến xe và tại ngả tư đường đi Đồng Xoài có một đồn cảnh sát hồi xưa, bây giờ là đồn công an Việt Cộng. Tôi dự định đi bộ ra khỏi quận lỵ rồi mới đón xe để đi Bình Dương. Tôi đi ngang qua dãy phố chợ mà ngày xua có các tiệm ăn như Nghĩa Thành, Bạch Tuyết, nổi tiếng với món canh chua cá lóc, cá kho tộ. Đi ngang qua ngôi chùa, qua cây cầu là gần đến đầu quận lỵ. Tôi nhìn thấy Thu đang đi phía truớc bỗng dưng đổi huớng qua trái tấp vô một quán nước. Tôi nhìn kỹ về phía truớc phía bên phải thì thấy có một trạm kiểm soát nên tôi cũng đổi hướng qua trái tấp vô một quán nuớc. Tôi nhớ mài mại hình nhu đây là quán của bà Năm Chích, có cô con gái ra tiếp. Tôi kêu một ly cà phê, ngồi uống để quan sát coi trạm kiểm soát đó nó hoạt động như thế nào. Tôi thấy rõ hai thằng công an coi tù ở trong trại ra đây chận xét xe để nhìn mặt bắt chúng tôi, hai tên này đứng bên cạnh trạm kiểm soát tài nguyên. Mỗi khi xe đến đó, tài xế vô trình giấy tờ cho trạm kiểm soát tài nguyên ở bên trong, thì hai tên công an đứng bên ngoài đi ra lục soát xe.
Tôi đoán chắc là nó sẽ bố trí chận xét ở đây để bắt tù trốn trại, vì đây là quân lỵ gần nhất, mà muốn ra khỏi quận thì phải đi ngang qua trạm kiểm soát này. Nếu đi bằng xe đạp, xe thồ, mặc đồ như nguời đi làm cây làm củi trong rừng thì mới lọt qua đuợc. Còn nếu bây giờ băng vô trong rừng để đi bọc qua thì cũng sợ gặp phải nguời lạ mặt họ dể nghi ngờ, vì mình mặc đồ sạch sẽ tươm tất quá. Tôi còn đang phân vân không biết phải làm cách nào để qua khỏi trạm kiểm soát này, thì thấy Thu đi nguợc trở lại, ngang qua chổ tôi. Thu trở lại bến xe để đón xe đi, còn Bình thì không còn thấy tâm dạng đâu hết, chắc là đã đi thoát rồi.
Tôi ngồi chờ một hồi thì thấy chiếc xe lô chạy trờ tới, tôi nhìn thấy Thu ngồi ở băng sau cùng. Xe tới trạm kiểm soát thì ngừng lại, trong khi nguời tài xế vô trình giấy tờ thì một tên công an đi ra nhìn vào xe, một lúc sau thì tài xế trở ra và nó cho xe chạy đi. Tôi mừng cho Thu đã thoát nạn, giờ đây chỉ còn lại một mình tôi, tôi không còn biết cách nào khác hơn là trở lại bến xe để đón xe đi. Đây là chổ nguy hiểm nhứt mà tôi cố tránh nhưng không đuợc nên đành phải liều mạng.
Khi vô bến xe thì thấy có một chiếc xe lô, loại xe nhỏ để chở khách, tôi thấy xe trống trơn chưa có ai, tôi lên ngồi băng sau cùng. Ngồi một lúc lâu thấy nóng ruột nên mới hỏi bác tài là xe chừng nào chạy, ông ta nói chờ khách lên đầy thì đi, mà thuờng là khách ở trong Minh Thạnh ra nhiều. Tôi hơi lo vì khách ở trong Minh Thạnh ra có thể là công an trong trại ra đi phép. Ngồi một hồi lâu thì chợt có một tốp người đi buôn than họ lên gần đầy. Bỗng tôi thấy có hai đứa nhỏ độ hơn muời tuổi tay cầm một con gà, tay xách một giỏ đồ, tôi liền nhanh miệng kêu hai em bé đó vô ngồi gần bên tôi và tôi phụ xách dùm đồ, làm như vậy thấy đở trống trải vì có hai em nhỏ che đở phần nào. Khi xe chạy tới trạm kiểm soát thì dừng lại, bác tài vào trình giấy tờ trong trại kiểm soát tài nguyên. Tôi thấy một thằng công an, đứng bên cạnh trạm kiểm soát, buớc ra để nhìn mặt nguời trên xe. Nó nhìn vào băng truớc, trên đó có hai nguời ngồi, tôi nghe tiếng quát tháo của tên công an là hai nguời ngồi đằng truớc là “tại sao đầu tóc để dài bù sù nhu cao bồi du đảng, đâu đưa giấy tờ coi”. Sau khi coi xong giấy tờ hai người phía truớc là nó liệng vô xe rồi ra lệnh cho đi một cách thật oai quyền. Cũng vừa lúc bác tài đã trở ra xe, bác tài liền rồ ga cho xe chạy đi, mà lòng tôi vui mừng khắp khởi vì vừa thoát được một trạm kiểm soát thật là vô cùng nguy hiểm. Xe chạy qua khỏi Tham Rớt, Bầu Bàn, Bầu Lòng rồi đến quận Bến Cát, ở đây cũng có trạm kiểm soát nhưng là trạm kiểm soát tài nguyên nên không có gì trở ngại. Xe chạy về tới Chánh Hiệp Bình Dương, một trạm kiểm soát rất lớn, nơi cửa ngỏ vô thành phố nên xe đậu nối đuôi nhau rất dài. Chiếc xe tôi đi là xe nhỏ chở than lậu nên tài xế đã biết cách vô trình giấy tờ và nộp tiền mải lộ là xong ngay. Xe đi tiếp vô thành phố vào đậu ở bến xe, tôi xuống xe cũng vẫn còn nắm tay hai em bé vô mua giấy xe để về Sài Gòn, vì hai em bé đó cũng về Sài Gòn. Tôi thấy người ta sắp thành hàng dài để chờ mua vé xe, tôi cũng sắp vô hàng chờ đợi. Nhưng khi tôi nhìn kỹ lại thì thấy mỗi nguời khi mua vé xe đều phải trình ra một thứ giấy tờ gì đó, hình như là giấy phép đi đuờng hay là giấy căn cuớc, mà trong mình tôi thì không có thứ giấy tờ nào nên tôi hơi sợ, nên mới nói với hai em nhỏ là cứ sắp hàng để mua vé về Sài Gòn truớc đi còn tôi thì sẽ đi sau. Tôi bỏ ra ngoài tìm đường khác để đi, chớ khi mua vé họ hỏi đến giấy tờ là mình không biết trả lời ra sao, vì trong mình tôi không có thứ giấy tờ nào hết. Tôi vào quán nước kêu ly nuớc đá chanh vừa uống vừa quan sát để tính kế. Bỗng chợt thấy xe Honda ôm, tôi liền nghĩ ra phương cách hay nhứt để đi về Sài Gòn là bằng xe ôm. Tôi dự định là sẽ về nhà của chị Đồ ở Phú Thọ. Trong những lần đi thăm nuôi, vợ tôi thường đi chung với chị Đồ nên hai gia đinh rất thân nhau và trước khi trốn trại tôi có dọ hỏi anh Đồ địa chỉ nhà cho thật kỷ, thật đầy đủ chi tiết đuờng đi nước buớc, làm sao vô nhà, đi vô ngỏ hẻm nào v.v….Tôi chỉ hỏi chơi chơi chứ không cho anh biết ý định trốn trại của tôi.
Anh lái xe ôm ra giá đi Sài Gòn là 50 đồng, tôi không có đủ tiền nhưng tôi nói với anh là đưa tôi về đến nhà tôi lấy tiền rồi trả sau. Sau khi bằng lòng giá cả anh ta mới đi đổ xăng và trở lại đón tôi. Trên đuờng đi tôi cũng nói thêm với anh là tôi vừa ở vùng kinh tế mới về, bị mất hết giấy tờ nên nhờ anh chạy làm sao để tránh các trạm kiểm soát. Anh ta nói là tụi công an nó chỉ xét coi có buôn đồ lậu, chứ như ông đi mình không, thì không có gì để xét thì đừng có lo. Tôi nghe mừng trong bụng và trong lúc đi đuờng tôi có hỏi chuyện thì anh có cho biết hồi truớc anh là lính của Sư đoàn 5 Bộ Binh. Nghe biết vậy thôi chứ tôi cũng không có hỏi thêm gì về chuyện ngày trước. Xe chạy qua các trạm kiểm soát Búng, Lái Thiêu rồi Bình Triệu. Thấy xe kẹt đậu dài dài để chờ xét, còn xe Honda ôm này chạy qua hết mà không bị hỏi han gì và sau cùng vô Sài Gòn qua ngả cầu cư xá Thanh Đa rồi qua cầu Phan Thanh Giản và chạy trên đường Phan Thanh Giản để về Phú Thọ.
Nhìn quang cảnh thành phố Sài Gòn sau 5 năm trở lại, tôi cảm thấy như bơ vơ lạc lỏng, như lạc vào một thế giới nào xa lạ lắm. Đây không phải là thủ đô Sài Gòn năm xua, một thời đã từng đuợc mệnh danh là một “Hòn Ngọc Viễn Đông”. Nay tôi thấy trên đuờng toàn là xe đạp, mà nguời nguời trông lam lũ tả tơi, không cuời không nói, với dáng vẻ buồn thiu ảm đạm, thật đúng với câu “nguời buồn mà cảnh có vui đâu bao giờ”. Khi đến Phú Thọ, xe Honda chạy vào con hẻm nhỏ, một số con nít chạy theo. Khi xe vô đúng số nhà mà tôi đã học thuộc lòng, tôi gỏ cửa và chị Đồ ra mở cửa. Khi thấy tôi chị buột miệng la lên: “Ủa anh Thạch mới đuợc thả về, còn ông Đồ của tôi đâu”. Tôi lật đật nói nhanh là tôi mới đuợc thả về và xin muợn chị 50 đồng để trả tiền xe. Chị vô lấy tiền cho mượn ngay để trả tiền xe. Khi xe đi rồi và đám con nít đa tản đi hết rồi thì tôi mới nói thiệt với chị là tôi trốn trại và nhờ chị về báo tin cho vợ tôi hay. Chị hốt hoảng cho biết là mới vừa tuần truớc đây thằng em trai của chị vừa mới vuợt biên đã đi thoát được. Nhà chị đang bị công an phường khóm điều tra theo dỏi, cho nên chị không dám chứa tôi trong nhà, mà bảo tôi ra ngoài đuờng đón xe autobus để ra bến xe Xa Cảng miền Tây, ở Phú Lâm, rồi sẽ tính sau. Truớc khi đi tôi còn hỏi muợn chị đôi giày, vì đôi giày tôi đang đi là loại giày đi rừng nên đi trong thành phố coi không tiện. Chị cho tôi muợn đôi giày sandal và còn đôi giày đi rừng của tôi thì chị nói là chị sẽ đem lên cho anh Đồ trong lần thăm nuôi tới. Tôi ra khỏi hẻm ra ngoài đuờng thì thấy có một quán hủ tiếu, tôi liền tấp vô ăn một tô hủ tiếu, uống một ly cà phê sửa, rồi mới ra đón xe autobus để đi ra Xa Cảng miền Tây. Khi ra đến bến xe Xa Cảng miền Tây, tôi thấy cả một rừng nguời hỗn độn la liệt khắp nơi. Họ trải chiếu, trải tấm nylon hay kê tấm ván tùm lum tứ tung không theo một lề lối nào cả. Hỏi ra mới biết đây là những nguời bỏ vùng kinh tế mới trở về, nhà cửa bị tịch thu không nơi nương tựa đành phải sống lang thang đầu đuờng xó chợ bến xe. Sau khi thấy cảnh hổn độn này tôi nghĩ thầm là mình có thể trà trộn để ngủ tạm qua đêm ở đây.
Trong khi đó thì chị Đồ đạp xe đạp từ Phú Thọ vô Gia Định để báo tin cho vợ tôi biết. Sau này gia đinh kể lại là khi chị Đồ vào nhà, chị rất lo sợ có nguời theo dõi, nên chị kéo vợ tôi ra phía sau nhà, không cho mấy đứa con tôi lại gần, rồi chị mới nói cho vợ tôi hay là tôi đã trốn trại. Tôi đang ngồi uống nuớc đá chanh ở xe nuớc đá và định chổ ngủ qua đêm, thì bỗng thấy chị Đồ đạp xe đạp ra tới. Chị đưa cho tôi 50 đồng và một giấy cử tri của vợ tôi gởi và căn dặn tôi sáng mai ra mua vé xe đò để về Mỷ Tho. Sáng sớm hôm sau trước khi ra bến xe tôi đi tìm nhà của Thạch, là một trong hai nguời trốn chui theo. Thạch và Tường thì còn ở lại trong rừng và có dặn là nếu ai có thoát về đuợc Sài Gòn thì báo tin cho gia đình họ biết tin, để tìm cách lên đón. Địa chỉ của Thạch thì tôi nhớ lờ mờ là ở gần Phú Lâm nên tôi sẳn dịp ghé qua báo tin. Lúc đó trời còn lờ mờ chưa sáng hẳn, đuờng vắng vẻ. Khi đi ngang qua trạm xe chửa lửa có vài tên công an đang đứng nói chuyện ở phía truớc, tôi cố giử bình tỉnh khi đi ngang qua. Sau cùng tôi tìm đuợc nhà của Thạch, tôi gỏ cửa một hồi thì có nguời ra mở cửa nhưng với dáng vẻ bực bội vì tôi đánh thức họ quá sớm. Tôi hỏi có phải là nhà của Thạch không, thì họ không trả lời mà đóng ập cửa lại làm tôi ngần ngừ một lúc, vì tiếc là không báo tin cho gia đinh Thạch được. Tôi cũng không biết là có đúng nhà không, hay là họ sợ không dám tiếp tôi. Cho đến sau này tôi cũng không biết tin tức gì về hai nguời trốn chui theo, có thoát đuợc không và bây giờ ra sao. Tôi trở ra bến xe ngồi xếp hàng chờ để mua vé xe về Mỷ Tho, trong túi có 50 đồng và thẻ cử tri nên thấy hơi yên tâm. Một hàng rất dài ngồi chờ mua vé xe rồi từ từ nhích lần lên. Tôi ngồi chòm hỏm hai tay bó gối gục đầu rồi thiếp đi lúc nào không hay. Bỗng đâu có nguời vỗ vai kêu tên tôi, tôi giật mình nhìn lên thì thấy chị Đồ, chị bảo tôi vô quán nước ở bên kia đuờng để gặp bà xã tôi. Vừa mừng vừa lo, chỉ sợ công an theo dõi vợ tôi để đón bắt tôi nên tôi hơi luỡng lự. Chị Đồ vô đứng thế chổ tôi để mua vé xe. Tôi vô quán để gặp bà xã tôi, vợ tôi đã kêu đủ thứ đồ ăn nào hủ tiếu, bánh bao, xiếu mại v.v…. Bà xã tôi kêu tôi ăn đi ăn đi. Tôi hỏi coi có ai biết hay theo dõi gì không, thì thấy không có dấu hiệu gì. Ba đứa con tôi đang ở nhà chưa hay biết gì về chuyện này. Sau này kể lại mới biết là chúng nó đói khổ lắm, đâu có được ăn hủ tiếu bánh bao như thế này. Từ ngày tôi đi tù tới giờ gia đình suy sụp, có bao giờ dám ăn các món cao lương mỹ vị này đâu và tôi cũng quên hỏi mời vợ tôi cùng ăn, bà xã tôi cứ kêu tôi ăn đi ăn đi. Phần thì lo sợ công an nó theo dõi, phần thì không biết là về Mỷ Tho rồi sẽ làm gì, nên tôi cố nhét cho đầy bụng rồi đi liền. Tôi dặn vợ tôi là đừng có xuống Mỷ Tho, mà nên ở nhà lo cho mấy đứa con còn nhỏ dại, đừng để bị nguy hiểm cho cả hai, rồi không ai lo cho các con. Tôi trở ra chổ mua vé xe thì chị Đồ đã mua vé xong xuôi và chị còn cẫn thận mua cho tôi tờ báo Nhân dân, chị bảo lên xe đọc báo này nguời ta tưởng là cán bộ. Tôi lên xe ngồi gần băng phía sau. Xe chạy qua hết các trạm kiểm soát một cách dễ dàng vì ở mỗi trạm bác tài đều biết thủ tục đầu tiên, là tiền đâu. Qua Bình Chánh, Bến Lức, Tân An, Tân Hương, Tân Hiệp, Trung Lương rồi vô thành phố Mỹ Tho.
Xe vô đến bến, tôi xuống xe và vô tìm đứa em gái tôi. Vợ tôi có cho biết là em gái tôi bây giờ làm ở tổ hợp may mặc phuờng 4 ở bến xe này. Mới vừa vô gặp mặt em tôi, nó mừng rỡ rồi la lớn “Ủa anh Tư mới đuợc thả về”. Tôi hơi bối rối vì sát bên cạnh tiệm may là đồn công an phường 4, có một số công an đang đứng gần đó sợ nó nghe được. Tôi giả bộ như thiệt nói một hơi là anh mới đuợc thả về bây giờ em có rảnh ra quán uống nuớc. Em tôi lật đật xin phép bà hội truởng hợp tác xã rồi đi liền. Ra tới quán nuớc tôi mới nói thiệt với em tôi là tôi trốn trại. Em tôi giật mình mặt tái xanh vì quá bất ngờ. Tôi dặn dò em tôi về nhà cho má hay và coi chung quanh có ai không rồi cho anh biết để anh về nhà. Em tôi đạp xe đạp chạy về báo tin xong trở lại làm việc, còn tôi một mình đi bộ về nhà. Má tôi đã biết truớc nên đã mở cửa sẳn chờ. Khi vô nhà tôi đi thật nhanh và đi thẳng ra phía sau nhà vì sợ lối xóm nhìn thấy.
Sau đó em tôi đi làm về có mua cho tôi một dĩa cơm suờn và hôm sau là cơm tấm bì chả và mua hủ tiếu bánh bao v.v…. toàn là các món ăn ngon đắt tiền mà tôi cũng quên hỏi là em tôi đi may lương tháng bao nhiêu. Má tôi thì già yếu không có làm gì ra tiền. Hồi truớc Má tôi đi may đồ quần áo ở trong nhà thương Mỷ Tho, nhưng đã nghỉ lâu rồi. Sau này mới biết là ở nhà không có đủ tiền để mua gạo, đôi khi còn phải bán máu để đổi lấy mấy bát cơm, thì nói gì đến thức ăn sang trọng. Thì ra em tôi chạy qua Chợ Củ để xin Cô tôi. Cô Ba tôi có mở tiệm ăn, Cô rất thương tôi, vì vậy khi hay tin tôi về, cô tôi liền gởi cơm và đồ ăn rất ngon qua cho tôi.
Ở đây đuợc mấy ngày thì vợ tôi xuống thăm tôi làm cho tôi càng thêm lo sợ, vì sợ công an theo dõi. Tôi mới tính tìm đuờng vuợt biên chớ ở đây lâu thế nào cũng bị bại lộ. Mà tìm đuờng dây để vượt biên không phải là chuyện dễ dàng. Phần thì không có tiền, phần thì không dám đi lại nên cũng không biết cách nào để vuợt biên, mà tội vuợt biên lúc đó bị coi như là tội phản quốc, chạy theo đế quốc, bọn công an biên phòng bắt đuợc là chỉ có chết. Hồi đó đã có xảy ra những cảnh vuợt biên bị đổ bể, bị công an tàn sát như ở cầu Chữ Y Sài Gòn, như ở bãi biển Vũng Tàu, nhu ở kinh Chợ Gạo hay ở cửa biển Gò Công v.v…. Họ tàn sát không nương tay, mặc cho tiếng khóc trẻ thơ, hay những lời van xin lạy lục, của những nguời khốn khổ cùng đuờng. Tôi dự định nếu không tìm được đuờng đi bằng ghe tàu, thì như đã hẹn với Thu và Bình, là sau một tháng chúng tôi sẽ gặp lại nhau, để bàn tính để đi bằng đuờng bộ. Vợ tôi lại xuống một lần nữa và lần này có cả đứa con gái đầu lòng của tôi. Coi như vậy là tôi ở đây đuợc một tuần lể và vợ tôi đem tiền xuống lần này là để mua vé xe cho tôi đi Cà Mau vào sáng sớm mai, vì hy vọng ở Cà Mau dễ kiếm đuờng vượt biên hơn. Bất ngờ ngay buổi chiều hôm đó vào khoảng 7 giờ, thì có một người anh bà con cô cậu, đi cùng với một nguời bạn, xuống thăm để từ giã Má tôi, để sáng sớm mai họ lên đường đi Kampuchia, và từ đó sẽ tìm đuờng vuợt biên, và anh muốn xin địa chỉ của em tôi, hiện đang sống ở Mỹ, để anh liên lạc khi cần. Thật là một điều quá may mắn cho tôi vì sau khi anh biết tôi vừa mới trốn về nên anh kéo tôi đi theo luôn. Thế là phải trở về Sài Gòn ngay trong đêm nay để sáng sớm mai lên đuờng đi Kampuchia. Tôi từ giã Má tôi và để đứa con gái đầu lòng ở lại với Bà Nội. Tôi và vợ tôi đi theo Long và Nghĩa ra đón xe để về Sài Gòn. Tôi ra đi mà lòng buồn vô hạn, rồi không biết sẽ đi tới đâu trên buớc đuờng bôn ba vô định này. Ở lại Mỷ Tho thì không được, mà đi qua Kampuchia thì cũng không biết ra sao, thật là đau lòng truớc cảnh chia tay, rồi đây không biết có còn được gặp lại nhau. Trong đêm đó hai bà cháu đã tụng niệm suốt đêm để cầu nguyện cho chuyến đi của tôi được bình an. Trời đã tối lúc đó khoảng 9 giờ đêm nên không còn xe chạy về Sài Gòn. Chúng tôi đón chiếc xe lôi đạp để đi vô ngã ba Trung Lương, hy vọng ở đó sẽ có nhiều xe miền Tây lên, dể đón hơn. Ông xe lôi, đạp không muốn nổi, vì trên xe có tới 4 nguời, nên chúng tôi phải thay phiên nhau nhảy xuống để đẩy phụ, nhứt là khi lên dốc cầu Trung An, thì phải nhảy xuống hết rồi qua cầu mới nhảy lên lại.
Vô tới ngã ba Trung Lương là trời đã tối, nên không còn thấy xe miền Tây nào hết, mà chỉ thấy có một chiếc xe hàng bị hư máy và nguời tài xế đang sửa chửa. Chúng tôi mon men lại gần tìm cách làm quen rồi dọ hỏi xin quá giang về Sài Gòn, nhưng ông tài xế nhìn chúng tôi như nghi kỵ điều gì nên lắc đầu trả lời một cách sẳn giọng là xe đang hư mà làm sao cho quá giang đuợc, vì vậy chúng tôi lại lủi thủi đi tiếp. Ở đây có một trạm công an khá lớn để xét xe từ miền Tây lên, nên có nhiều công an ở đồn bót này, nên trong đêm tối mà đi lang thang ở đây cũng nguy hiểm lắm. Tình cờ có một chiếc xe lô chạy từ Mỷ Tho lên huớng về Sài Gòn, chúng tôi mừng quá đón ngoắc lại nhưng xe không ngừng mà chạy luôn một khoảng, rồi bỗng đâu xe dừng lại và lùi lại cho chúng tôi quá giang. Bác tài chỉ cho đi quá giang một quãng đuờng lên đến Tân Hương để đón xe khác mà đi, vì xe này đi về nhà để nghỉ nên không có đi Sài Gòn.
Trong khi xe đang chạy và qua tài giao thiệp của anh Long, cũng là lơ xe, nên anh biết nhiều nguời trong nghề xe đo nên câu chuyện dần dần trở nên thân mật và bác tài dần dần có cảm tình với chúng tôi. Và sẳn đó anh Long đề nghị bao xe đi Phú Lâm rồi bận về anh sẽ phụ giúp tìm khách cho chuyến trở về. Vợ tôi móc trong túi ra đếm còn 200 đồng nên đề nghị bao xe 200 đồng và nhờ anh Long nói thêm vô, nên sau cùng bác tài chịu đi Phú Lâm với giá 200 đồng. Thật là hết sức may mắn, chớ nếu tới Tân Hương chưa chắc gì có xe để đi, mà nếu không lên kịp Sài Gòn trong đêm nay thì ngày mai xe sẽ đi sớm rồi, sẽ mất đi một dịp may hiếm có ngàn vàng.
Khi xe chạy qua khỏi trạm công an Tân Huong một quảng, thì gặp một tốp công an ra chận đuờng. Tôi thấy nguy vì trên xe không có ai khác, chỉ có gia đinh tôi, nên rất khó xoay sở trà trộn. Tôi có ý dò hỏi bác tài coi tính sao, nhung bác tài cho biết là xe không có ngừng đâu vì tụi này là tụi chuyên chận xe dọc đuờng để ăn cuớp, bác tài rất rành về bọn này. Tôi nghe thế cũng thấy mừng thêm, vì thà là chạy luôn nó có bắn theo cũng khó trúng. Bác tài cho xe giảm tốc độ rồi khi đến gần bọn chúng thì tống hết ga vuợt nhanh qua, nên chúng trở tay không kịp, nên xe chạy vuợt qua một cách êm xuôi. Nhưng tôi lại lo cho trạm kiểm soát kế tiếp sợ tụi nó gọi máy báo lên chận bắt xe lại thì còn nguy hiểm hơn. Tôi hỏi ý bác tài thì bác tài nói là tụi nó đâu có máy móc gì đâu mà báo đừng có lo, nên tôi càng yên tâm tin tuởng bác tài muôn phần. Xe qua khỏi Tân An, Bến Lức, Bình Chánh rồi vào Phú Lâm một cách êm xuôi.
Sau khi trả tiền xe xong xuôi là chúng tôi chạy đi ngay vì trời đã tối rồi mà còn phải chạy lo kiếm mượn tiền để đi. Chúng tôi về nhà của Nghĩa cũng ở gần đó, vợ chồng tôi muợn chiếc xe đạp để đạp vô Phú Thọ. Vô tới nhà chị Đồ là đúng nửa đêm, giờ giới nghiêm. Chị Đồ không có sẳn vàng chị rút chiếc nhẩn đang đeo trên tay 2 chỉ vàng đưa cho tôi mượn đở. Tôi đạp xe đạp chở vợ tôi trở về nhà của Nghĩa trong lúc đã quá giờ nghiêm nên cũng sợ bị hỏi giấy tờ hay bị bắt lại thì trể chuyến xe sáng sớm mai đi. Tôi đạp xe lên dốc cầu Minh Phụng không nỗi, vợ tôi phải xuống xe đẩy phụ qua cầu, nguời của tôi lúc đó rất là ốm yếu xanh xao.
Về tới nhà Nghĩa, là chúng tôi phải đi ngay đến chổ đậu xe, để kịp chui vô trong xe sắp xếp truớc khi trời sáng. Đây là chiếc xe hàng dân sự bị VC trưng dụng để chở chiếu qua Nam Vang tiếp tế cho bộ đội VC bên Kampuchia. Long là lơ xe của chiếc xe này nên mới dấu Nghĩa và tôi vô trong đống chiếu mà tài xế không hay biết gì. Sau khi sắp lại đống chiếu, vạch ra một lổ vừa đủ để hai đứa tôi chui vô, xong rồi Long mới gát hai cây gỗ đà ngang trên đầu rồi sắp chiếu phủ kín lên như cũ rất là kín đáo. Chúng tôi đem theo một bình nước và hai ổ bánh mì với một gói muối.
Ngoài hai chỉ vàng của chị Đồ cho muợn, vợ tôi đưa luôn chiếc nhẫn cuới đang đeo ở tay đưa cho tôi, như vậy tôi mang luôn hai chiếc nhẫn cuới. Lúc đó cũng khoảng 3,4 giờ sáng, vợ tôi và má của Nghĩa cũng vẫn còn ngồi đâu đó để chờ sáng ra xe chạy. Long ngồi ở ngoài nên có cho tụi tôi biết là vợ tôi và má của Nghĩa khóc nhiều lắm, vì không biết chúng tôi đi làm sao, vì không ai có tiền hay có vàng đem theo, không biết rồi sẽ đi đến đâu. Riêng tôi thì tôi quyết ra đi mặc dầu không biết ra sao, nhưng vẫn còn tốt hơn là ở lại Việt Nam. Sáng sớm hôm sau xe rời bến để đi Nam Vang, nhìn qua khe ván ở sàn xe trời còn lờ mờ nghe tiếng nguời nói lao xao mới biết là vừa qua khỏi Ngã Tư Bảy Hiền. Khi đến trạm kiểm soát biên giới thì họ chỉ xét qua loa vì đây là chuyến xe công tác chở đồ cho bộ đội VC. Xe chạy càng nhanh đống chiếu trên đầu càng đe nặng, vì cây gỗ chận trên đầu không còn ở nguyên vị trí củ, mà vì sự lúc lắc của chiếc xe đa làm lệch đi và hai đứa tôi phải đưa lưng chống đở sức nặng bên trên đè xuống. Tệ hại hơn nữa là dọc đuờng VC đón xe đi quá giang nên họ ngồi trên đầu chúng tôi. Nghe tiếng họ nói chuyện với nhau thì biết là VC đang ngồi ở ngay trên đầu mình. Chúng tôi phải rán đưa lưng ra chịu đựng, vì chỉ sợ nó sụp xuống thì bị lộ ngay, rất là nguy hiểm. Khi tiểu tiện thì phải đợi lúc xe chạy nhanh rồi mới dám tiểu qua khe hở của ván sàn xe mà phải tiểu từ từ để bên ngoài không thấy không biết. Đến chiều thì xe tới nơi đậu vào một chổ nào đó mà tôi nghe có tiếng nhạc của những bản nhạc ngày xua. Tôi mừng thầm vì được nghe lại những tiếng hát quen thuộc đầm ấm nồng nàn tràn đầy kỷ niệm của ngày truớc. Tiếng nhạc hòa lẫn tiếng nguời nói chuyện lao xao gần bên cạnh xe. Chúng tôi vẫn nằm im trong xe chờ khi nào có hiệu lệnh của Long thì mới ra đuợc. Một hồi lâu sau khi bên ngoài hoàn toàn im vắng và khi nghe ba tiếng hiệu lệnh của Long thì chúng tôi chui ra. Khi nhảy xuống xe, tôi không thể đứng được vì bị ngồi lâu trong thế co ro nên chân bị tê cứng, mà Long thì thúc hối phải đi khỏi nơi đây ngay vì sợ tài xế và an ninh đoàn xe họ biết, nên tôi và Nghĩa phải cố lết đi ra khỏi xe thật xa.
Nhìn chung quanh, đây là một bồn binh khá lớn ở cuối đại lộ, bên cạnh một sân vận động, xe đậu một đoàn dài chừng vài chục chiếc, tài xế và lơ xe khá đông, có nhiều xe họ mang theo cả gia đinh vợ con với đồ đoàn nồi niêu soong chảo, nên tôi thấy cũng dễ trà trộn ẩn thân. Tối đó tôi và Nghĩa ngủ ở một đám cỏ bên cạnh đường khoảng giữa đoàn xe và không dám gần xe nào cả vì sợ họ báo với an ninh đoàn xe.
Ngay tối hôm sau, tôi bán chiếc nhẩn cuới đuợc 75 đồng Riel, tiền Kampuchia, và nhờ Long môi giới mời một số tài xế lơ xe ra quán nuớc uống cà phê nghe nhạc, để tìm cách lân la làm quen gây cảm tình với họ. Tôi và Nghĩa đóng vai lơ xe, bạn với Long. Vì Nghĩa cũng là lơ xe nên nói chuyện dễ dàng, còn tôi thì cảm thấy hoàn toàn xa lạ, nên trong các câu giao tiếp tôi thuờng cuời nhiều hon là nói vì sợ bị bại lộ tông tích. Ban ngày thì ra chợ Nam Vang, bữa đầu thì đi bằng xe lôi cho mọi nguời thấy, và vì không biết đường, mấy lần sau thì đi bộ. Đi ngang qua mấy con đuờng rất đẹp với hai hàng cây phủ mát bên đuờng, với những ngôi biệt thự sang trọng kiến trúc theo kiểu villa của Pháp, giống nhu khu đường Duy Tân, Yên Đổ ở bên xứ mình. Mấy ngôi nhà sang trọng đó bây giờ là dinh của VC, treo cờ đỏ sao vàng và có lính canh truớc cổng. Mỗi khi đi ngang qua thấy hơi chùng chân vì sợ nó hỏi giấy tờ bất tử. Uống nuớc phong tên ở gần đó, ăn cơm thì mua của mấy gánh bán hàng rong, cơm một dĩa 10 đồng Riel. Ra ngoài chợ thì đi lòng vòng coi nhìn cái này cái nọ cho hết thì giờ, thỉnh thoảng công an chạy ruợt đuổi bắt người ở trong chợ, làm mình cũng sợ giật mình. Tôi thì có ý định tìm mua một quyển sách địa lý để coi bản đồ vùng Battambang, Siem Rệp, vùng biên giới Thái Lan. Họ bày bán sách cũ rất nhiều nhưng đều là tiếng Miên. Tôi lựa xem mấy cuốn sách có hình bản đồ rồi mua một quyển. Nhưng vì tôi không biết tiếng Miên mà mua sách Miên trong đó có hình bản đồ địa lý, nên họ có ý nghi ngờ. Mua xong tôi lật đật đi bộ về chổ đậu xe vì sợ họ báo với công an chợ. Sau khi nghiên cứu bản đồ để biết địa thế, đường đi nuớc buớc, cũng như khoảng cách bao xa. Tôi cố học thuộc lòng vùng Battambang, Siem Rep, vùng gần biên giới Thái Lan, rồi xé bỏ quyển sách đó ngay.
Lúc bấy giờ bên Miên hoàn toàn do VC kiểm soát, thỉnh thoảng có mấy tên lính Miên trẻ mặt còn non choẹt, mang khẩu AK dài đụng tới đất. Ở đây họ mắc loa phóng thanh cứ sáng sớm và chiều tối là nghe tiếng nhạc Miên, một âm điệu đều đều nghe buồn não ruột, nghe nhớ nhà, nhớ vợ nhớ con, nhớ quê hương mình vô cùng. Cuộc đời tôi cũng không ngờ lại lưu lạc đến noi đây, xứ lạ quê nguời, rồi cũng không biết ngày mai sẽ ra sao. Nghĩ lại thân phận mình, lêu bêu bình bồng, mà cảm thấy buồn vô hạn. Tôi lân la mấy quán nuớc làm quen hỏi chuyện để tìm đuờng đi, thì đuợc biết là xe lửa chạy từ Nam Vang lên Battambang đã bị giật mìn không còn chạy nữa, bây giờ chỉ còn đuờng xe, nhưng VC đặt rất nhiều nút chận kiểm soát để chận bắt đào binh, nên rất khó mà lọt qua đuợc. Tôi ra phía đầu thành phố đường đi về huớng Battambang để xem trạm kiểm soát họ xét ra sao. Tôi thấy rất ít xe đi về phía đó và họ kiểm soát rất kỹ. Xe thì không thấy loại xe đò chở khách, mà toàn là xe chở hàng hay xe quân sự. Vả lại tôi không biết tiếng Miên nên rất ít hy vọng thoát qua đuợc, giá mà còn xe lửa thì tốt hơn.
Ở đây đuợc ba ngày thì nghe tin đoàn xe được lệnh đi xuống hải cảng Kompong Som tức là Sihanoukville. Tôi không biết hải cảng này ra sao, nhưng nghe nói ở đó có tàu ngoại quốc ra vào. Trước đó tôi có dọ hỏi đuờng lên Battambang, thì họ nói là phải có nguời dẫn đuờng và phải trả bằng vàng, ít nhứt là hai lượng. Trong mình tôi chỉ đuợc hai chỉ vàng thì làm sao mà đi và hơn nữa chúng tôi không biết tiếng Miên nên rất khó khăn, thành ra tôi đã bỏ ý định đi lên Battambang. Bây giờ nghe tin đi xuống hải cảng Kampong Som thì tôi thấy cứ đi đại xuống đó rồi sẽ tính sau, dầu sao ở hải cảng cũng còn có hy vọng hơn.
Buổi trua hôm đó tôi và Nghĩa ra chợ mua một nải chuối, lên chùa Năm Tháp gần đó để cúng Phật, để cầu xin Đức Phật Từ Bi độ trì đưa đuờng dẫn lối cho chúng tôi thoát ra đuợc khỏi nạn cộng sản. Sau khi quỳ lạy cầu nguyện Đức Phật xong, khi đứng lên là không còn thấy nải chuối đâu hết, mà trong lúc chúng tôi quỳ lạy thì có nguời tới chớp nải chuối đi mất thật là nhanh.
Đêm đó suy tính cách theo xe để đi, vì Long bảo phải tìm xe khác mà đi, chứ không được đi theo xe cũ vì sợ tài xế biết. Trong thời gian mấy ngày ở đó tôi cũng đã quen biết nhiều nên họ nhận cho tôi đi theo. Đoàn xe đi đến trạm kiểm soát thì ngừng lại để xét truớc khi ra khỏi thành phố, nhưng vì đoàn xe này có sự vụ lệnh đi công tác xuống hải cảng để chở hàng cho bộ đội VC nên không bị lục soát hay hỏi han gì và qua trạm kiểm soát này một cách dễ dàng.
Trên đuờng đi VC đóng đồn dọc theo đường, thỉnh thoảng đón xe quá giang, nhưng tôi ngồi phía trước chung với tài xế và lơ xe, nên rất là yên tâm. Trên xe bác tài có khoe một khẩu súng AK47 đuợc phát cho mỗi xe, nhưng chưa chắc là bác tài đã biết sử dụng. Tôi nhớ bữa đó trời mua tầm tả và xe bị hư máy phải dừng lại để sửa chữa, nhưng bác tài rất rành nghề chỉ sửa một chút là xong ngay, nhưng phải câu một bình xăng phụ ở bên ngoài. Đến chiều thì xe đến hải cảng Kampong Som, xe dừng trước cổng trên con đường lộ đá dẫn vào hải cảng. Khi xe vừa đến nơi thì tài xế và lơ xe đi vô cổng một cách tự nhiên mà không bị hỏi giấy tờ gì hết, nên tôi, Long và Nghĩa cũng đi theo vô trong hải cảng một cách dễ dàng. Hải cảng này ở xa khu dân cư, có mấy lớp hàng rào kẻm gai bao bọc chung quanh, và một trạm kiểm soát tại cổng chính ra vào, với một số công an biên phòng VC canh gác. Đóng trên một ngọn đồi gần đó là một đồn công an biên phòng. Bên trong hải cảng là một bến đá, xây bằng đá tảng, để tàu cặp bến. Tôi cố nhìn thật kỹ quanh bến tàu để tìm xem có chiếc tàu nào của nuớc tự do, nhưng tôi chỉ thấy toàn cờ đỏ búa lìềm, toàn cờ cộng sản, thật là thất vọng vô cùng. Gần bến tàu là hai nhà kho rất lớn bằng sắt cất theo kiểu tiền chế của Mỹ. Có một đuờng rầy xe lửa, và ở phía trong xó góc có vài toa xe lửa bỏ không, không thấy nguời lai vãng, gần đó có một phong tên nuớc. Ở phía ngoài cổng bên cạnh con đuờng lộ đá là một cái ao khá lớn, mà thỉnh thoảng thấy có công an đến câu cá. Chiều tối đó tôi trở ra xe để ngủ qua đêm. Sáng sớm hôm sau xe vô đậu truớc nhà kho lớn để chất hàng lên. Họ chất lên những bao bắp hột do nhân đạo quốc tế viện trợ để cứu đói cho dân Kampuchia, nay thực phẩm đó đuợc dùng để nuôi ăn cho bộ đội VC. Tôi chỉ còn bửa nay để đi lại thong thả trong hải cảng này, đến sáng mai khi đoàn xe đi rồi thì tôi không còn chuờng mặt ra đây đuợc nữa, vì bọn công an thấy sẽ biết ngay.
Chúng tôi đang lân la trong hải cảng thì bỗng có một chiếc tàu tuần của công an biên phòng VC vào cặp bến để lấy nước ngọt ở cái phong tên nuớc. Khi đó họ có hỏi tụi tôi, có muốn mua mấy món đồ lậu như ruợu, thuốc lá, đồng hồ, máy radio c***ette v.v….Chúng tôi làm bộ nhận chịu, nhưng hẹn với họ ngày mai sẽ gom tiền cho nhiều để mua một lần cho tiện. Họ nghe nói thế tuởng là trúng mối to. Sau khi lấy nuớc xong là họ đi, truớc khi rời bến họ rủ chúng tôi lên tàu. Long nhanh chân nhảy lên truớc, tôi còn đang luỡng lự ngần ngừ, vì không biết họ đi đâu và đi làm cái gì, họ không nói gì cả, chỉ rủ lên tàu để đi thế thôi. Long đã ở trên tàu rồi nên thúc hối tôi lên tàu. Khi tàu mở dây cột tàu sắp chạy và vì sự thúc hối của Long nên tôi cũng nhảy lên theo, còn Nghĩa thì không đi.
Tàu chạy ra ngoài, nghe họ kể về những chuyện đi bắt ghe tàu vuợt biên. Họ đã bắt rất nhiều ghe tàu vuợt biên và lên giọng rất là sắt máu. Nguyền rủa những nguời vuợt biên là bọn phản quốc, chạy ra nuớc ngoài, bám chân đế quốc để ăn bơ thừa sữa cặn v.v… Tôi thầm nghĩ đến những chiếc ghe tàu vuợt biên nếu bị chiếc tàu tuần này bắt, thì coi như là thân tàn ma dại. Có những chuyến ghe tàu vuợt biên bị công an VC xả súng tàn sát mặc dầu họ biết đa số là đàn bà con trẻ.
Họ dẫn chúng tôi xuống hầm tàu để quảng cáo mấy món hàng mà chúng tôi hứa sẽ mua. Tàu chạy một lúc rồi cặp bến vô đậu trong căn cứ hải quân của chúng, rồi bảo chúng tôi lên bờ. Tôi cứ tuởng là tàu trở lại bến cũ cho mình lên, ai dè lại vô căn cứ VC nên cũng hơi ngại ngại. Hai đứa tôi đi ra cổng và đi theo con đuờng lộ đá dẫn vô bờ. Căn cứ này nằm xa bờ chừng vài chục thuớc, có con đuờng lộ đá làm bằng những tảng đá núi mà xe loại lớn có thể chạy đuợc.
Vô tới bờ đi bộ nguợc trở về hải cảng, dọc theo bờ biển thấy có một xóm chài, có một số tàu đánh cá, hai đứa tôi vô hỏi thăm. Lên một chiếc tàu thì gặp một nguời có mang một khẩu súng AK47, lỡ rồi nên tôi làm bộ hỏi để mua cá. Anh này nguời Miên gốc Việt nên nói được tiếng Việt. Anh ta ngó tới ngó lui rồi hỏi tụi tôi có muốn vuợt biên không. Chắc có lẽ họ thấy bộ dạng mình vô đây là định tìm đuờng vuợt biên nên mới hỏi thẳng như vậy. Thấy anh ta có súng thì hơi sợ, nhưng trong bụng thì muốn tìm cơ hội để đi, nên tôi cũng trả lời lưng chừng là bây giờ mà tính chuyện vuợt biên đâu phải dễ, tụi tôi ở đoàn xe vận tải đang đi công tác ở hải cảng. Ông ta tiếp thêm là nếu muốn vuợt biên thì ba ngày nữa trở lại đây rồi họ sẽ đưa ra hải đảo, ở đó họ sẽ chuyển qua tàu đánh cá Thái Lan, mỗi nguời hai lượng vàng, ba ngày nữa tàu sẽ ra khơi, nếu muốn đi thì lại đây. Nói xong ông ta cho một con cá to và hối tụi tôi đi ngay, vì ở đây lâu không tiện dễ bị nghi ngờ.
Tôi và Long trở về hải cảng, trên đuờng đi thỉnh thoảng gặp các toán tuần tiểu của công an biên phòng, họ đi tuần tra dọc theo bờ biển. Chúng tôi giả vờ mò cua bắt cá trong các hóc kẻ đá, khi họ đi qua khỏi rồi thì tiếp tục đi. Đi bộ một đoạn đường khá xa chừng vài cây số. Khi về đến chỗ đậu xe thì thấy có gánh bán cơm, tôi đổi cho họ con cá để lấy hai dĩa cơm. Sau khi ăn xong, tôi bàn với Long và Nghĩa là tối nay phải vô ngủ ở trong hải cảng, vì sáng sớm đoàn xe sẽ chạy trở về Nam Vang, khi đó thì mình không còn có chỗ ẩn thân ở bên ngoài đuợc. Long và Nghĩa thì có ý định trở lại Nam Vang, rồi trở về Việt Nam kiếm thêm tiền, vàng rồi trở qua đây, để đi theo mấy ghe tàu đánh cá. Riêng tôi thì tôi quyết tâm ở lại, kiếm chỗ ẩn náu quanh đây, may ra có dịp tìm đường đi, chớ quay trở lại Việt Nam thì không thể đuợc. Tôi quyết tâm là sẽ đi tới mãi chớ không quay lui. Riêng Long và Nghĩa đều là lơ xe nên chuyện đi hay trở về đều không có gì là nguy hiểm cả. Sau khi bàn tính một lúc thì Long và Nghĩa đồng ý ở lại vì thấy tôi quá quyết tâm. Chúng tôi mua ba ỗ bánh mì và lấy theo một bình nuớc rồi vô trong hải cảng ngay, truớc khi trời tối.
Tôi đã để ý từ truớc thấy có mấy goong xe lửa bỏ không ở một xó góc không có nguời lui tới. Vì vậy chúng tôi đợi đến khi trời tối, kín đáo lẻn vô trong toa xe đó và trốn luôn trong đó. Ngồi trong goong xe nhìn qua khe ván thấy đồn công an canh gác ở cổng cũng không xa lắm, vì vậy chúng tôi phải giữ gìn thật hết sức im lặng, đề phòng thật kỹ luỡng. Trong những lúc nguy hiểm tôi thuờng cảnh giác thức suốt đêm, quan sát nghe ngóng mọi động tịnh bên ngoài. Sợ khi ngủ hết, lỡ mà có nguời nào ngủ mớ la hoảng hay phát ra tiếng ngáy thì nguy hiểm lắm.
Khi trời sáng hẳn, tiếng đoàn xe rời hải cảng để trở về Nam Vang. Lúc bấy giờ bên ngoài không còn nguời lui tới, không còn thấy bóng dáng tài xế hay lơ xe nữa, vì vậy chúng tôi phải ẩn mình cho thật kỹ. Chúng tôi nằm im trong toa xe lửa đó, buổi trưa trời nóng như thiêu, chúng tôi cởi trần, nhờ khe ván hở nên cũng không đến đỗi nào. Tôi chỉ sợ nếu có nguời muốn sử dụng goong xe này, họ đến kéo đi thì rất là nguy, chúng tôi sẽ bị phát giác ngay.
Cho đến chiều thì may quá có một đoàn xe khác xuống cùng vào đậu ở phía cổng như truớc. Tôi mừng quá vì lại có dịp ra ngoài trà trộn với đám tài xế lơ xe mà không ai để ý. Và cũng vào khoảng 4 , 5 giờ chiều hôm đó, bỗng đâu xuất hiện một chấm đen từ ngoài biển khơi đang tiến dần vô bờ, càng lúc càng lớn dần và sau cùng hiện rõ ra một chiếc tàu đang huớng vô hải cảng, rồi từ từ cặp vào bến đá. Một chiếc thương thuyền quá lớn mang tên PEP STAR, đặc biệt là lá cờ trên tàu không phải là cờ đỏ búa liềm, chắc chắn không phải là tàu cộng sản. Hơn nữa chữ PEP STAR có vẻ là tiếng Anh hơn là tiếng Nga.
Sau khi tàu cặp bến xong xuôi, thấy có nhiều nguời đi lại gần chiếc tàu, khi đó tài xế và lơ xe ra vô tấp nập. Trời đã tối chúng tôi chui ra khỏi chỗ trốn và tìm cách lại gần chiếc tàu. Lúc đó có nhiều công nhân nguời Miên đang lên tàu, tôi liền hỏi nguời thủy thủ trên tàu họ cho biết là tàu của nuớc Đan Mạch, mà Đan Mạch là một nuớc ở Âu Châu, nên tôi yên trí chắc chắn không phải là một nuớc cộng sản, tôi mừng quá vì có thể xin tị nạn đuợc.
Trong bóng tối chúng tôi ngồi ở xa xa nhìn lên chiếc tàu thấy công nhân nguời Miên lên xuống theo chiếc cầu sắt cặp sát bên hông tàu. Ở trên tàu ngay chỗ đầu cầu lên xuống có hai tên công an đang đứng canh gác kiểm soát mọi nguời lên xuống rất là kỹ lưỡng. Tôi tập trung quan sát mọi hoạt động trên tàu để tìm cách lẻn trốn lên tàu, nhưng rất là khó khăn vì hai tên công an đang canh gác quá kỹ. Nếu lở lên tàu mà chúng bắt tại trận thì hết đuờng chối cãi chỉ có nuớc vô tù, mà riêng tôi thêm tội trốn trại nữa thì chắc chúng sẽ không tha.
Kể từ khi chui ra khỏi hàng rào ở trại tù Tống Lê Chân cho đến bây giờ là tôi đã vuợt đuợc một quảng đuờng khá xa, đã ra khỏi nuớc và ra đến biển và con đuờng duy nhất là phải lên cho bằng đuợc chiếc tàu này. Nhìn lên trên tàu mà thèm thuồng uớc gì mình đuợc trốn vô nằm trong chiếc thuyền cấp cứu đang treo lủng lẳng đong đưa trên đó thì quá kín đáo. Tôi cứ nhìn hoài, tàu này chở những chiếc xe truck, chỉ có phần đầu máy với cái suờn phía sau. Đây là những chiếc xe viện trợ nhân đạo của Liên Hiệp Quốc. Cần trục trên tàu đang hoạt động liên tục đang bốc hàng xuống, mỗi lần một chiếc xe, cho nên rất là nhanh. Theo tôi nghĩ thì trong đêm nay sẽ bốc hàng xong và ngày mai tàu sẽ đi, mà tàu của các nuớc Âu Châu thì hiếm khi vào hải cảng của nuớc cộng sản này.
Trời tối dần mà Long và Nghia thì cứ hối thúc hoài, định leo đại theo dây cột tàu mà ra tàu. Nhưng đèn pha chiếu sáng khắp tứ phía thì làm sao mà leo ra đuợc, mà làm sao thoát hết đuợc ba đứa. Rồi Long lại tính đuờng nhảy xuống nuớc bơi qua bên kia thành tàu rồi tìm cách leo lên tàu. Tàu thì cao sừng sững đâu có dễ gì leo lên được, mà chung quanh đèn chiếu sáng choang, vừa nhảy xuống nuớc là bị bắn liền chứ đừng nói gì tới bơi ra tàu.
Tôi cứ chờ đợi dịp thuận tiện, mắt tôi cứ dán sát vào hai tên công an đang đứng gác trên tàu, một tên mang súng AK47, còn một tên mang K54 có lẽ là cán bộ. Quan sát theo dõi họ thật kỹ để mong tìm một chút sơ hở, nhưng mỗi lần có ai lên tàu là nó chận lại xét hỏi rất kỹ càng. Với lại mình không biết tiếng Miên, không giống nguời Miên, nên khó qua mặt đuợc nó.
Bỗng dưng trời xui đất khiến hai tên công an này đồng lúc rời bỏ vị trí buớc vô trong cabin tàu. Tôi vụt chạy lên tàu tức khắc kéo theo Long và Nghĩa. Khi lên đuợc trên tàu chúng tôi chạy băng qua bên kia thành tàu và tìm chỗ ẩn trốn, thì khi đó hai tên công an lại trở ra canh gác như cũ, nhưng chúng chỉ nhìn về phía cầu thang lên xuống, chứ không để ý gì về phía chúng tôi. Tôi nhìn quanh quất không thấy có chỗ nào để ẩn thân, không thể chui vô đống dây luột hay đống cây gỗ bên cạnh đó, vì dấu đầu lòi đuôi không thể che dấu hết ba nguời. Nhìn xuống hầm tàu thì thấy nhân công Miên đang làm ở duới đó và không thể lẫn quẫn ở đây lâu đuợc vì thủy thủ hay công nhân Miên bất chợt họ thấy họ sẽ nghi.
Ở trên tàu có hai cần trục một cần trục ở phía bên kia đang hoạt động liên tục, còn một cần trục phía gần bên tôi thì không hoạt động. Ở phía trên là phòng điều khiển bằng kiến, ở bên duới là phòng máy, có một lỗ tròn vừa nguời chun vô, tôi liền thử chui vô rồi kéo Long và Nghia vô theo. Tôi cố ép sát nguời vô trong để vừa đủ chỗ cho ba đứa ẩn mình. Lần lần tôi dọn dẹp các lon dầu, đồ đạt dụng cụ để chui sâu vào trong. Nếu có ai bất chợt đi ngang qua thì sẽ không thấy chúng tôi đuợc, nhưng nếu ló đầu vô trong thì sẽ thấy ngay. Hơi yên tâm một chút, lúc đó chắc cũng vào khoảng 11, 12 giờ đêm.
Cần trục bên kia vẫn còn đang tiếp tục hoạt động, độ một giờ sau thì chấm dứt. Sau đó công nhân lần luợt rời khỏi tàu, duy chỉ còn hai tên công an vẫn đi tới đi lui canh gác bên kia thành tàu. Sau đó nắp hầm tàu đuợc đóng lại, nắp hầm tàu làm bằng những lá sách bằng sắt nó chạy từ trong ra ngoài nghe rền vang. Sau khi nắp hầm tàu đậy xong, bây giờ chúng tôi có thể chui vô sâu thêm nằm truờn mình trên nóc hầm tàu và mọi sự trở lại vắng lặng hoàn toàn.
Tôi suy nghĩ, truớc khi tàu rời bến chắc chắn công an biên phòng và quan thuế sẽ kiểm soát rất kỹ, cho nên tôi phải tìm chỗ trốn khác kín đáo hơn, chớ không thể trốn ở đây đuợc. Lúc còn ở duới nhìn kỹ mọi hoạt động trên tàu, tôi thấy thỉnh thoảng có thủy thủ lên xuống ở phía truớc mủi tàu, như vậy phải có cầu thang lên xuống ở mũi tàu.
Đợi đêm thật khuya vắng lặng, tôi dặn dò Long và Nghĩa từng nguời một lần luợt chui ra và phải chờ khi nào công an quay lưng lại thì mới cho chui ra. Bò theo thành tàu, bò ra phía truớc mũi tàu để tìm cầu thang đi xuống hầm tàu. Trên tàu rất trống trải mà đèn thì sáng choang, do đó phải bò thật thấp để không thấy lộ hình lên trên nền trời. Sau cùng tôi đợi khi tên công an vừa xây lưng lại là tôi chui ra sau cùng, bò dọc núp duới thành tàu đến gần mủi tàu thì thấy có một cửa nhỏ, tôi mở chốt cửa rồi chui vào trong, có một cầu thang bằng sắt hình khu ốc, tôi lần theo xuống.
Xuống đến hầm tàu thì tôi thấy Long và Nghĩa nằm dài ở đó. Đây là khoang tàu nơi chứa hàng, sau khi hàng bốc đi rồi thì trống trơn không có chỗ nào để ẩn thân, mấy cây cột bằng sắt cũng không lớn đủ để che thân. Tôi thấy trốn ở đây không đuợc vì sẽ bị lộ ngay. Tôi lần theo cầu thang khu ốc để đi xuống nữa, thì khi xuống duới đáy hầm tàu, tôi thấy có một đống cây gỗ ở ngay mũi tàu, tôi mừng quá vì tìm đuợc chỗ trốn tốt. Tôi sắp lại đống cây gỗ để chừa ra một lỗ trống, đủ chỗ để cho ba đứa chui vào, xong rồi kéo thanh gỗ đậy lại, trông giống như cũ, không có dấu vết gì khả nghi. Lúc đó chắc khoảng 3, 4 giờ sáng, tôi nằm im trong đó, không dám ngủ và dặn kỹ Long và Nghĩa phải giữ thật im lặng, không được thở mạnh hay ho hen.
Độ khoảng 6 giờ sáng, tôi nghe tiếng lộp cộp đi xuống cầu thang, họ quét đèn lên trên đống cây, nhưng không thấy gì khả nghi, họ bỏ đi trở lên. Một lúc sau nữa tôi nghe tiếng còi tàu hụ lên ba tiếng, tôi mừng quá vì “tàu souffler ba là tàu ra cửa biển”. Một hồi sau tôi nghe tiếng sóng nước rào rào ở mủi tàu, tôi chợt biết là tàu đã chạy. Vì đang ở mủi tàu nên tôi không nghe tiếng máy tàu, mà chỉ nghe tiếng sóng nước đập vào thân tàu nghe rào rào và càng lúc càng mạnh. Đến một hồi nữa nghe ầm ầm, tôi biết là tàu đang chạy nhanh, đang rẽ sóng ra khơi. Một hồi sau chúng tôi chui ra khỏi đống cây gỗ.
Tôi định chờ một ngày một đêm rồi mới lên trình diện vì sợ nếu còn trong hải phận Kampuchia hay Việt Nam, thì họ có thể kêu tàu tuần đến bắt chúng tôi. Nhưng đến chiều thì Long bị ói mửa vì say sóng, càng lúc càng nặng, mặc dù trong bụng không còn thức ăn, chỉ ói ra nuớc, ói ra mật xanh. Sau cùng Long năn nỉ tôi phải lên trình diện, nếu không sẽ chết. Lúc đó tôi nghĩ là tàu đã chạy đuợc khoảng 8, 9 tiếng đồng hồ, chưa được xa lắm, chắc là còn trong hải phận Việt Nam, nhưng vì Long năn nỉ quá, nên sau cùng tôi đành phải lên trình diện.
Một mình tôi lên truớc, theo cầu thang khu ốc để lên và khi vừa chui ra khỏi cửa ở mủi tàu nhìn lên phía phòng lái bằng kính, tôi thấy nguời hoa tiêu đang nhìn xuống phía chỗ tôi, chỗ mũi tàu. Tôi tức tốc tìm cách đi thật nhanh lên đó ngay, vì sợ họ kêu tàu tuần đến bắt. Tôi đi thật nhanh, leo lên cầu thang lên tầng trên cùng và đi thẳng vô phòng lái.
Thấy tôi vừa buớc vô phòng hoa tiêu, ông ta nỗi giận dậm chân đùng đùng, bấm còi báo động. Ông hỏi tôi là ai, làm gì vô đây. Tôi liền trả lời tôi là sĩ quan Việt Nam trốn từ trại tù ở Việt Nam sang Kampuchia và trốn xuống tàu hồi đêm qua, tôi xin được tị nạn. Nhờ tôi nói bằng tiếng Anh, mặc dù không được trôi chảy, nhưng cũng hiểu đuợc phần nào. Lúc đó quần áo mặt mày tôi lem luốt dính đầy dầu nhớt, mạt cưa trông không giống ai. Tôi nói tiếp tên họ số quân của tôi và tôi đã học khóa Bộ Binh Cao Cấp tại truờng Fort Benning, tiểu bang Georgia, Hoa Kỳ và xin ông vui lòng liên lạc với tòa đại sứ Mỹ nào gần đây thì sẽ xác đinh đuợc lý lịch của tôi. Tôi xin ông một điều là nếu ông không nhận cho tôi tị nạn, thì xin ông bỏ tôi xuống biển, chớ đừng gọi tàu tuần đến bắt tôi, vì họ sẽ giết tôi.
Sau khi nghe tôi trình bày sự việc, tình hình bắt đầu lắng dịu, tôi liền nói thêm là hiện còn có hai nguời nữa còn đang trốn duới hầm tàu. Ông ta lại nỗi giận lên, kêu nguời đi xuống dẫn Long và Nghĩa lên. Long và Nghĩa đuợc dẫn lên ngồi trong góc, trông rất thãm não, mặt mày xanh xao, quần áo lem luốc bẩn thỉu. Xong rồi ông Thuyền truởng gọi báo về công ty, một lúc sau thì công ty chấp nhận cho chúng tôi tị nạn. Tôi mừng quá đỗi, coi như được sống lại và tôi có hỏi ông là hiện giờ tàu đang ở đâu, có còn trong hải phận Việt Nam không, thì ông chỉ cho tôi thấy một hòn đảo trông mờ mờ từ xa đó là đảo Thổ Chu của Việt Nam và ông cũng nói thêm rằng là kể từ bây giờ không ai có quyền lên tàu này để bắt chúng tôi lại, vì đây là tàu của Đan Mạch là đất nuớc Đan Mạch.
Một số thủy thủ đứng chung quanh, nghe thấy, dần dần họ có cảm tình với chúng tôi, họ đưa cho quần áo giày dép rồi dẫn chúng tôi đi tắm. Cho chúng tôi vô ở trong một căn phòng, đây là phòng của một ông kỹ sư đã đi phép. Trên giường nệm có hai tấm nệm tôi lấy một tấm đặt xuống sàn nằm ngã lưng xuống một cách thoải mái tuyệt trần. Một lúc sau chúng tôi được dẫn đi ăn, một bửa ăn thật tuyệt diệu trong đời, trong đó có cơm chiên dương châu và mấy khúc cá thu hấp rất thơm ngon chưa từng có. Đây là một bửa ăn tuyệt diệu nhất, tự do nhất, thoải mái nhất, mà tôi cảm thấy như đuợc sống lại sau bao nhiêu ngày trốn tránh lang thang vất vả căng thẳng tột cùng, có đôi khi gần nhu tuyệt vọng.
Sau khi ăn xong bửa cơm tuyệt diệu đó, chúng tôi đuợc dẫn đi thăm viếng tàu. Truớc hết đến phòng ông thuyền truởng, ông rót ruợu uống mừng cho chúng tôi đã thoát nạn cộng sản và chụp hình lưu niệm. Sau đó đi tiếp qua các phòng và được biết trên chiếc tàu này có nhiều nguời thuộc quốc tịch khác nhau như Hòa Lan, Đan Mạch, Ba Tây, Phi Luật Tân v.v….Các thủy thủ trên tàu cho chúng tôi xem hình ảnh gia đình của họ và chuyện trò rất là thân mật, thật là hết sức lịch sự và đầy tình nhân ái. Nghĩa có mang theo một số tiền Việt Nam không còn xài được nữa, nên mới đưa cho các thủy thủ. Họ rất tốt bụng đã cho lại chúng tôi mỗi nguời 20 US dollars và chọn cho chúng tôi mỗi đứa một bộ đồ vừa vặn đẹp đẽ để mặc khi lên bờ.
Chúng tôi được cho lên phòng hoa tiêu để ngắm nhìn hoàng hôn trong buổi chiều tàn, nhìn mặt trời lặn trong cảnh nuớc trời bao la, thật là tuyệt đẹp, mà tuởng chừng như trên chốn bồng lai tiên cảnh nào vậy, trong khi con tàu đang luớt sóng thật êm đềm. Đây là một chiếc thương thuyền rất lớn nên chạy thật là êm ái, khác xa với cảnh tuợng của những chiếc ghe vuợt biên bé nhỏ, chở đầy nguời, bập bềnh trên biển cả mênh mông, sóng gió hãi hùng, và còn phải lo sợ bị hải tặc hảm hiếp, cuớp của giết nguời thật là ghê rợn.
Buổi tối hôm sau tàu tiến vô một hải cảng với muôn ngàn ánh đèn rực rỡ, trong một vùng vịnh bao la, với vô số thương thuyền tàu bè đủ loại, trông thật hùng vĩ huy hoàng tráng lệ. Đó là hải cảng Singapore. Theo thủ tục của luật di trú thì chúng tôi phải vô trong phòng và thuyền truởng sẽ khóa cửa lại, để giử chúng tôi trong đó. Tuy nhiên nếu có cần gì thì cứ gọi, thỉnh thoảng có nguời đến thăm chừng, thật là hết sức lịch sự tử tế và chu đáo vô cùng.
Chừng vài tiếng đồng hồ sau thì có hai nhân viên của sở di trú Singapore đi xuồng máy ra lên tàu và mở khóa cửa phòng, thẫm vấn chúng tôi và làm thủ tục giấy tờ, xong rồi họ đi ngay. Sau đó thì có một phái đoàn của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, UNHCR, xuống phỏng vấn và làm thủ tục. Tôi trình bày bằng tiếng Anh, nhưng bất ngờ nguời đó trả lời bằng tiếng Việt và bảo tôi cứ nói bằng tiếng Việt Nam đuợc rồi. Tôi mừng quá vì đuợc gặp nguời đồng hương, sau này tôi đuợc biết đó là cô Bích làm việc trong văn phòng Cao Ủy Tị Nạn ở Singapore. Khi làm thủ tục giấy tờ, và trong nguyện vọng xin đi định cư nuớc nào, thì tôi xin đuợc đi Mỹ, vì hiện tôi có một đứa em đang ở Mỹ, và tôi cũng đã từng du học ở Mỹ, nên nghĩ rằng sẽ đuợc cứu xét dễ dàng hơn. Chúng tôi ngủ thêm một đêm trên tàu và sáng hôm sau thì có nguời của Cao Ủy Tị Nạn ra đón ba đứa tôi lên bờ, tôi còn nhớ đó là cô Robin, nguời nuớc New Zealand.
Sau một thời gian 22 ngày đêm vuợt thoát từ trại tù Tống Lê Chân, nay tôi được đặt chân lên một đất nuớc tự do là nuớc Singapore vào ngày 27 tháng 6 năm 1980. Chúng tôi đuợc đưa về tạm trú ở khách sạn YMCA. Ở đây hiện có chừng muời nguời Việt Nam tị nạn cũng mới đến chừng vài ngày truớc và họ giao nhiệm vụ cho tôi làm thông dịch viên. Điều đầu tiên là tôi ra Bưu điện để đánh điện tín về Việt Nam cho gia đình tôi biết tin. Vì có tiền 20 dollars nên tôi gọi taxi ra Bưu điện và gởi điện tín về cho vợ tôi với nội dung nhu sau: “Đã giải phẩu xong bình an” , đó là câu mật hiệu để cho vợ tôi biết là tôi đã thoát nạn và đã đến nơi an toàn. Điện tín này đã đến nhà tôi vào ngày 30 tháng 6 năm 1980. Vợ tôi hết sức vui mừng khi nhận đuợc điện tín này, phân vân không biết Singapore là nước nào ở đâu. Vợ tôi liền đi xuống Mỹ Tho để báo tin mừng và vô Trung Lương, nơi đất hương quả mồ mã tổ tiên để cúng tạ.
Chúng tôi ở khách sạn YMCA vài ba ngày để làm thủ tục. Buổi chiều rỗi rảnh chúng tôi dắt nhau ra chợ Tàu. Đi bộ chừng 15 phút là đến, một dãy kios quán ăn rất là đông vui và ngon miệng. Long biết nói tiếng Tàu nên rất dễ giao tiếp. Ở Singapore 80% là người Hoa, còn lại là nguời Ấn và người Mã Lai.
Sau đó chúng tôi đuợc đưa vào Trại Tị nạn Sambewang, còn gọi là trại Hawkins. Khi vừa buớc vô văn phòng trại tị nạn, tôi chợt thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ thật lớn treo trên tường mà lòng hân hoan vui mừng quá độ. Tôi và nhóm nguời mới tới đều vui mừng sung suớng đến rơi nuớc mắt, đuợc hôn lên Lá Cờ Quốc Gia Dân Tộc và biết chắc rằng mình đã thật sự thoát khỏi ngục tù cộng sản và đã đến đuợc bến bờ tự do.
Chúng tôi đuợc lãnh tiền trợ cấp mỗi nguời 2.50 đồng một ngày, một đồng Singapore lúc đó trị giá vào khoảng 0.8 dollar Mỹ. Ngoài ra còn đuợc phát mỗi nguời một chiếc chiếu, và cứ 6 nguời thì đuợc phát một cái lò nấu ăn. Đây là một trại lính với nhiều tòa nhà có hai tầng khang trang, trại viên trải chiếu trên sàn gạch rất mát mẻ sạch sẽ, không có ruồi muỗi. Phía ngoài là sân cỏ, đuợc giử gìn chăm sóc cắt xén rất đẹp như một tấm thảm xanh.
Cuộc sống ở trại tị nạn này rất là thoải mái, có khu chợ nhỏ ngay trong trại, đa số là nguời Ấn độ, bán đủ loại thực phẩm, rau cải, trái cây, đặc biệt là trái sầu riêng ở đây có rất nhiều. Ở ngoài vòng rào và cách trại chừng vài trăm thuớc, có một con rạch rất lớn, có nhiều cá, nhứt là cá rô Phi. Có nguời chui rào ra, luới đuợc rất nhiều cá, đem về bán chui qua các nhà.
Những nguời đuợc đưa về trại này thuờng là chỉ đuợc tạm trú ở đây khoảng 3 tháng, để làm thủ tục đi định cu, hoặc là những nguời từ trại đảo Galang đưa đến chờ máy bay để đi định cư. Hàng ngày công việc của trại là theo dỏi tin tức phát thanh trên loa, để biết khi nào đuợc gặp phái đoàn để đuợc phỏng vấn và khám sức khỏe.
Khi mới đến trại khai hồ sơ lý lịch, vì tôi đã từng du học bên Mỹ nên được Ban Chỉ huy trại giao nhiệm vụ làm Thông dịch viên. Công việc thường ngày của tôi là giúp thông dịch nếu có phái đoàn vô trại. Còn không thì phải đưa người đi ra các toà Đại Sứ Anh, Mỹ, Úc v.v…Hoặc đưa người đi bệnh viện, để khám sức khỏe để đi định cư. Ở trong trại cũng có bệnh xá để điều trị các bệnh nhẹ thông thường như ho, đau bụng, nhức đầu, nóng lạnh v.v…Lúc đó có Bác sĩ Rạng trách nhiệm bệnh xá, ông cũng là người tị nạn và trước kia ông từng là bác sĩ của Bệnh viện 3 Dã chiến ở Phú lợi Bình Dương.
Ở trong trại tôi thấy có nhiều hoàn cảnh rất là thương tâm. Có nhiều nguời mất vợ mất con mất cha mất chồng trên đường vượt biển. Như có một ông bác sĩ, tôi nhớ mang máng tên là Phùng, Bác sĩ Phùng, ông bị khủng hoảng tinh thần gần như điên loạn, vì cả gia đinh vợ con đều bị chết. Tôi thấy ông cứ đi lang thang nói nhảm suốt cả ngày. Vì ông mắc bệnh tâm thần như vậy nên không được phái đoàn nào phỏng vấn, rồi không biết sau này ra sao.
Sau khi đến trại đuợc một tuần, tôi liền gởi gói quà nhỏ đầu tiên về cho gia đình, trong đó có vài thước vải đen, chai dầu xanh và kẹo bánh. Ba tháng sau vào tháng 10 năm 1980 thì tôi được đi định cư qua Mỹ. Long và Nghĩa thì được định cư ở Đan Mạch.
Với lòng tri ơn sâu xa, tôi xin ghi lòng tạc dạ công ơn cứu tử của thuyền trưởng và toàn thể thủy thủ đoàn trên chiếc thương thuyền Pep Star, thuộc công ty hàng hải của nước Đan Mạch, đã cứu vớt tôi và giúp cho tôi thoát khỏi ngục tù cộng sản và cho tôi đến được bến bờ tự do. Đây quả là một công ơn quá lớn lao mà suốt đời tôi không bao giờ quên đuợc.
Tôi cũng không bao giờ quên nghĩa cử cao đẹp, đầy lòng nhân đạo của Cơ quan Tị nạn Liên Hiệp Quốc UN/HCR và dân tộc các nuớc trên thế giới, đã mở rộng vòng tay cứu vớt, trợ giúp và cưu mang chúng tôi, những người tị nạn trốn chạy khỏi chế độ cộng sản bạo tàn phi nhân bản.
Sau khi đến Hoa Kỳ được một năm thì tôi đuợc vào quy chế thường trú, năm năm thì đuợc vào quốc tịch. Ngay khi đến Hoa Kỳ, tôi lo ngay việc nạp đon xin bảo lãnh gia đình qua chương trình ODP và 9 năm sau thì vợ tôi và ba đứa con đã đến được Hoa Kỳ. Sau hơn 14 năm xa cách kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày miền Nam rơi vào tay cộng sản, nay gia đinh tôi đuợc đoàn tụ lại như xưa, đã thoát khỏi gông cùm cộng sản và được sống trên quê hương mới đầy lòng nhân ái bao dung. Đây quả như là một phép lạ do Ơn Trên ban phuớc cho ./.
Nguyễn Ngọc Thạch, K20 Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 04/Apr/2019 lúc 10:05am |
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23678 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23678 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23678 |
![]() ![]() ![]() |
|||
HÌNH ẢNH RẤT QUÝ TRẢI DÀI
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 06/Apr/2019 lúc 12:15pm |
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Con Chó Vện Và Người Tù Cải Tạo![]() Trên bước đường lưu đày của những người tù chính trị Miền Nam đầy máu và mồ hôi trên chính quê hương của mình, đã có bao nhiêu người “sinh Nam, tử Bắc” và trong số nầy có anh Lê Xuân Đèo là cánh chim lìa đàn rất sớm.
Giữa tháng 10 năm 1976. Một nhóm tù chính trị Miền Nam khoảng
100 người, từ nhà tù Sơn La lâu đời, nằm trên vùng núi cao đèo heo
hút gió của tỉnh Sơn La, phía bắc giáp Yên Bái - Lào Cai, phía tây
giáp Lai Châu, phía đông giáp Phú Thọ - Hòa Bình, phía Nam giáp Lào,
chúng tôi được di chuyển về Hoàng Liên Sơn (Nghĩa Lộ) và tôi gặp anh
bạn tù Lê Xuân Đèo tại Trại 6, Liên trại 2, một vùng núi non hiểm
trở có cái tên thật mộng mơ: “Khe Thắm” thuộc huyện Văn Chấn.
Khe Thắm là một thung lũng nhỏ hẹp, nằm giữa hai dãy núi trùng
điệp. Trại 6 gồm có bốn lán, dựa lưng vào dãy núi bên nầy, bên kia
thung lũng là một bản Thái Trắng gồm mươi căn nhà sàn, dưới gầm nhà
sàn là chuồng nhốt trâu bò. Chỉ có một con đường độc đạo vào Trại 6.
Về sau, khi chúng tôi chuyển sang trại khác, trại nầy được sát nhập
vào nông trường Bản Hẻo. Dạo chúng tôi vừa chuyển đến, dân làng đã
cấy xong vụ lúa Đông - Xuân. Trong thung lũng Khe Thắm, mạ non lên
xanh phơi phới. Ngay khi vừa mới đến trại, chúng tôi được phát ngay
mỗi người hai bộ đồ rằn ri của binh chủng Biệt Động Quân, thế nầy là
hết hy vọng trốn trại! Riêng tôi vớ phải cái quần rộng thùng thình.
Công tác đầu tiên là đào thủy lợi để dẫn nước từ một con suối gần đó
vào ruộng lúa. Tôi và Lê Xuân Đèo ở chung lán 3, còn Trương Đăng Sỹ
ở lán 4.
Mùa đông năm 1976 là một mùa đông với cái lạnh khắc nghiệt, lạnh
thê thảm chưa từng xảy ra ở miền Bắc Việt Nam. Có nhiều đêm, hàn thử
biểu rơi xuống chỉ còn một độ bách phân, mặt nước ao hồ đóng váng,
cá chết hằng loạt vì lạnh. Tuy củi rừng nhiều vô số kể, nhưng bọn
cán bộ cấm tù cải tạo đốt lò sưởi vì sợ cháy lán trại? Nửa đêm về
sáng, chúng tôi phải thức dậy ngồi đâu lưng hoặc nằm sát vào nhau
cho ấm. Bản Thái bên kia thung lũng, dân làng phải đốt rơm hoặc củi
để sưởi ấm gia súc. Làm thân trâu bò còn sướng hơn tù cải tạo là cái
chắc! Có bao nhiêu quần áo, chúng tôi cũng lôi hết ra mặc, nhưng
không sao đủ ấm vì cái lạnh cắt ruột từ trong xương lạnh ra.
Đi tắm vào mùa đông đối với tù cải tạo là một hình thức tra tấn.
Mỗi tuần, tôi chỉ ra bờ suối tắm giặt một lần vào xế trưa chúa nhật,
sau khi ngồi trước sân phơi nắng hàng giờ cho ấm. Ngồi bên cạnh tôi
là Nguyễn Minh Thanh vừa phơi nắng vừa ngâm thơ “Tao Đàn” đói thấy
mẹ mà hắn còn làm thơ được thế mới tài. Nếu như chiều chúa nhật nào
rơi vào ngày mưa là xin hẹn lại tuần sau...mới đi tắm. Như vậy là
đạt tiêu chuẩn nếp sống “văn minh, văn hóa mới” lắm rồi!
Hầu như lề lối sinh hoạt của tất cả trại tù cải tạo thuộc đoàn
776 do bộ đội CSBV quản lý đều giống như nhau. Sau một ngày ăn đói,
thực phẩm chính là khoai, sắn, bo bo, bắp hột mà mỗi khẩu phần của
người tù đếm được khoảng 700 hôït và lao động khổ sai 10 tiếng một
ngày kể cả lúc trời mưa bão. Và mỗi tuần chỉ được nghỉ nửa ngày chúa
nhật để tắm giặt. Tối đến là giờ sinh hoạt chính trị, “ngồi đồng”
hằng giờ ngay trên chỗ ngủ để nghe đọc báo “Nhân Dân” hoặc “Quân Đội
Nhân Dân”, những loại tin tức dùng để tuyên truyền chủ nghĩa Cộng
Sản và chế độ ưu việt xã hội chủ nghĩa.
Sau khi nghe đọc báo là phần bắt thăm nhận công tác lên rừng đốn
đủ loại gỗ: gỗ làm cột nhà, gỗ làm đòn tay, gỗ làm kèo nhà...và một
toán chặt nứa dùng để lợp mái nhà. Gỗ và nứa từ trên rừng kéo về tập
trung trên một bãi đất trống bên cạnh con suối dưới chân núi, cán bộ
quản giáo của đội đến kiểm nhận vào mỗi buổi chiều. Sáng hôm sau,
toán thợ mộc vác về xưởng mộc cưa, đục, đẽo... để dựng nhà. Lê Xuân
Đèo thường đổi công tác với những anh em khác để cùng đi rừng với
tôi, vì cải thiện linh tinh để mưu sinh là nghề của chàng. Hắn rất
chịu những phi vụ táo bạo của tôi. Hắn là dân Nha Trang, lúc bình
thường thì giọng nói dễ nghe, nhưng lúc khẩn trương, nghe lời hắn là
một tai họa khó lường...
Bên kia thung lũng, đối diện với trại 6 là dãy nhà sàn của dân
tộc thiểu số Thái Trắng. Tụi cán bộ quản giáo hoặc quản chế thường
hù dọa là đồng chí “Bí thư xã” có vũ trang súng trường AK47. Phía
sau dãy nhà là ruộng mía và hằng ngày nó trở thành mục tiêu đầy sức
hấp dẫn và cám dỗ nhưng cũng rất nguy hiểm. Những lần chúng tôi qua
dãy núi bên kia đốn nứa, chỉ tiêu một ngày là 100 cây với tiêu
chuẩn: phải là nứa già, thẳng đốt, chiều dài từ 3 thước trở lên, sau
khi vạt bỏ ngọn. Thường thì buổi sáng đốn xong, bó lại từng bó 20
cây, dấu đâu đó ở trên rừng. Giờ lao động buổi chiều, chỉ lo việc
chuyển về trại. Những cây nứa được mấy anh bạn tù cao niên, chặt
khúc và đập giập ra để lợp mái nhà.
*
Một ngày trên đường vác mấy bó nứa chuyển về trại. Chúng tôi
ngồi nghỉ mệt bên dòng suối vắng. Đèo nhìn qua đám ruộng mía, sau
dãy nhà sàn bên kia dòng suối, hắn thèm đến nhỏ dãi, trông thật tội
nghiệp. Hắn nói:
- “Ê, mầy! Không biết lúc nầy, bỗng dưng tao thèm ngọt quá trời! Từ
ngày di chuyển ra miền Bắc đến giờ, gần cả năm trời tao chưa hề thấy
cục đường tán nó tròn, nó méo ra làm sao! Tao chịu hết nổi rồi nghe
mậy,” Đèo tiếp. “Thôi, mầy ngồi ở đây chờ tao!”
Tôi hỏi:
- “Vậy chớ, mầy định đi đâu?”
Hắn vừa trả lời, vừa nuốt nước bọt ừng ực:
- “Qua bên kia ruộng mía, chặt vài cây, chia nhau ăn đở thèm!
Mầy còn phải hỏi lôi thôi!”
Nghe hắn nói, tôi cười ngất, nói:
- “Thôi đi cha nội ơi! Coi bộ tướng của mầy kìa! Ốm nhom, ốm nhách
như con còng gió, rủi ro bị họ bắt gặp, mầy làm sao chạy cho thoát?
Nếu họ có súng hoặc nỏ là mầy chết chắc!”
Đèo quả quyết nói:
- “Tao đã nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình rồi! Trong nhà không có
đàn ông mà chỉ có một người đàn bà. Tao còn biết chắc, giờ nầy bà ta
trên đường đến trường, đón con đi học về nhà.”
Tôi nghi ngờ, hỏi:
- “Sao mầy biết chắc chắn như vậy chớ?”
- “Mầy nhớ không? Xế trưa hôm qua, lúc tụi mình trở qua đây, vác
mấy bó nứa về trại. Tao thấy bà ta dẫn con đi học vừa về tới nhà!”
- “Phi vụ nầy mầy lo hay để tao?” tôi hỏi.
Đèo nói, giọng quả quyết:
- “Mầy nhát bỏ mẹ! Phi vụ nầy mầy để tao lo! Mầy ngồi đó chờ tao!”
Tôi cười, nói:
- “Thôi được rồi, cha nội! Vụ chôm chỉa nầy mầy để tao lo! Cứ ngồi
đó canh chừng. Hễ nghe động tỉnh gì thì la báo động cho tao biết để
tao chuồn!”
Nói xong, tôi đứng lên, đi một mạch ra bờ suối, xăn ống quần lên
khỏi gối, tay cầm con dao dùng để chặt nứa, lội băng qua dòng suối.
Tôi hành quân theo đúng bài bản, lính bộ binh mà. Trước hết, tôi bám
lấy bờ suối, ngẩng đầu lên quan sát trận địa, thấy bên trong ruộng
mía hoàn toàn yên tỉnh, tôi trườn sâu vào trong, giữa hai giồng mía.
Tôi chọn một thật thẳng, tròn mập, vỏ màu vàng hực thật hấp dẫn, lia
một nhát, cây mía đổ xuống. Tôi đứng lom khom, vừa vạt ngọn mía
xong. Bỗng tôi nghe hắn la bài hãi bên kia dòng suối:
- “Chờ tớ! Chờ tớ! Chờ tớ...”
Tưởng hắn đòi lội qua suối, tôi bèn đứng thẳng người lên, lấy
cây mía vẹt lá rồi nhìn qua bên kia bờ suối. Tôi thấy hắn nhảy dựng
lên như khỉ mắc phong, tay chỉ chỏ về phía tôi thật khẩn trương. Hắn
tiếp tục gào lên:
- “Chờ tớ! Chờ tớ...”
Tôi thiệt bực mình, cầm cây mía đưa lên khỏi đầu, nói lớn:
- “Xong rồi! Qua làm gì chớ! Thôi, ngồi đó chờ tao!”
Nhưng, hắn vẫn tiếp tục gào to hơn nữa. Và lần nầy, tôi nghe cái
giọng Nha Trang của nó thật rõ ràng:
- “Chó tới! Chó tới...”
Thôi bỏ mẹ rồi! Bây giờ tôi mới hiểu ra là“Chó tới!” chớ không
phải “Chờ tớ!” thì đã muộn. Một con chó vện to lớn dùng để đi săn,
xồng xộc lao tới và chỉ còn cách tôi vài mươi thước. Tôi thật sự hồn
vía lên mây, quăng dao, quăng luôn cây mía, bỏ của chạy lấy thân,
phóng như bay về phía bờ suối...Nhưng, con chó vện nhanh hơn tôi một
bước, nó nhảy chồm lên, phập trúng cái đáy quần, ghì lại làm tôi té
nằm xấp xuống đất. Hai cái răng nanh bén nhọn của nó đã xuyên thủng
đáy quần. Con vện gầm gừ, mõm của nó ghì chặc lại, giằng xé như muốn
lôi tuột cái quần của tôi ra thế mới khiếp! Cũng may, nhờ trời
thương mấy thằng tù cải tạo ốm đói. Chúng tôi phải chôm chỉa để mưu
sinh. Nếu hai cái răng nanh của con vện nhích lên vài phân định mệnh
nữa thì bây giờ tôi đã trở thành quan “thái giám” là cái chắc!
Tôi thét lên, cầu cứu:
- “Tao bị con chó vện táp trúng rồi Đèo ơi! Cứu tao với...”
Đến giờ phút nầy mà hắn còn hỏi đùa được:
- “Trúng chỗ nào vậy cha?”
Tôi bực quá thét:
- “Nó táp lủng đáy quần rồi, tao bị nó ghì lại, không chạy được!”
- “Chỉ táp trúng đáy quần thôi hả?” hắn mách nước. “Tụt quần ra, vọt
cho lẹ, thằng mắc dịch!”
Thôi thì cùng tất biến, biến tất thông! Tôi lòn tay xuống hàng
nút quần, cởi thật nhanh hàng nút. Nhờ cái quần rộng thung thình,
con vện tụt cái quần thật dễ dàng, một chân nó chận cái ống quần,
đầu giằng mấy cái thật mạnh để cái quần vuột ra khỏi cái răng nanh.
Tôi chỉ chờ có thế, vừa rút chân ra khỏi cái quần rằn ri là tôi
phóng như bay về phía hàng cây bên bờ suối, chỉ cách đó mươi thước.
Tôi trèo lên cây nhanh như con sóc, chưa bao giờ tôi leo trèo nhanh
như vậy. Thế là thoát nạn!
Con vện phóng mình lên cây mấy lần, nhưng lần nào nó cũng bị té
đau. Vì thế nó tức tối, ngồi bệt xuống đất, nghểnh mõm nhìn lên một
cách hậm hực; thỉnh thoảng, nó le cái lưỡi dài thượt liếm mép. Tôi
phải lấy vạt áo che phần dưới lại, sợ nó nhìn thấy “thịt tươi” thèm
nhỏ dãi tội nghiệp!
Đứng trên cây nhìn xuống mới thấy rõ hình thù con vện, màu lông
hơi vàng và có vằn như da cọp, trên lưng có xoáy như giống chó hoang
dã ở Phú Quốc. Hèn chi nó dữ dằn quá là phải! Thú thật, trong suốt
13 năm quân ngũ, vui buồn đời lính bộ binh, đôi giày saut của tôi đã
từng chà xát lên các mật khu lừng danh của Việt Cộng ở Miền Tây từ
Thất Sơn, Mỹ An, Sầm Giang, Năm Căn, Cái Nước...nhưng chưa có lần
nào tôi phải bỏ chạy “té khói” như lần nầy. Kể ra thì cũng nhục thật
đó!
Tôi đứng trên cây, trợn mắt nhìn nó, rủa thầm trong bụng: “May
cho mầy, nghe đồ chó vện! Nếu mầy gặp tao ba năm về trước là tao vặn
họng mầy, làm thịt chó bảy món nhậu chơi!” Thế mới biết, chỉ sau một
thời gian ngắn, cái gọi là “lao động cải tạo”, con chó vện đối với
tôi bây giờ nó đã trở thành “con cọp”. Nhưng mà thôi, tránh cọp
chẳng xấu mặt nào!
Nhìn thấy con chó vện đang nhe nanh vuốt, hầm hừ dưới gốc cây,
Đèo đứng bên kia bờ suối, nói lớn:
- “Mầy cứ đứng ở trên cây chờ tao qua! Đừng có tuột xuống!”
Vừa nói, hắn vừa xăn quần lên khỏi gối. Thấy hai ống quyển khẳng
khiu của hắn, tôi nản lòng hết sức. Hắn có vẽ muốn lội qua suối cứu
bồ thật, tôi lật đật can:
- “Thôi đi cha nội! Cứ ở yên bên đó đi! Tao nhảy xuống suối, lội qua
bển được rồi mà!”
Hắn đáp có vẻ rất tự tin:
“Mầy yên chí đi! Tao có cách trị con vện nầy cho mầy coi!”
Tôi miễn cưỡng nói:
- “Thôi được, mầy có tài gì thi thố cho tao coi!”
Con vện thấy hắn đang lội bì bõm, băng ngang qua dòng suối. Nó rời
gốc cây, đứng chực trên bờ suối, sẵn sàng vồ hắn. Đèo đứng dưới
suối, hai tay chống nạnh, vẻ mặt tỉnh bơ. Còn con vện nhìn hắn lườm
lườm, chân sau quào dưới đất cát rào rào trong tư thế chuẩn bị vồ
mồi. Tôi thấy còn phát ớn xương sống. Nhưng, Đèo chẳng nao núng chút
nào cả thế mới là lạ. Bất ngờ, hắn huýt sáo miệng bản nhạc “Bác cùng
chúng cháu hành quân” một cách ung dung. Con chó vện vừa nghe âm
điệu phần mở đầu của bài hát: Đêm nay trên đường hành quân ra mặt
trận... nó lầm tưởng hắn là phe ta nên bỏ hẳn thái độ thù nghịch,
ngoe nguẩy cái đuôi, chờ welcome “đồng chí Đèo”. Mẹ kiếp! Sống ở
Miền Bắc XHCN nầy, đến con chó còn bị tuyên truyền mê hoặc đừng nói
chi là con người.
Đèo leo lên bờ, hắn vỗ đầu con vện, vuốt đầu nó mấy cái. Đồng
chí vện chồm lên, vật ngã hắn xuống rồi liếm cùng mặt. Thế rồi,
người tù cải tạo và “đồng chí vện”ù kết thành đôi bạn sống chết có
nhau từ dạo đó! Hắn ôm chặc con vện cho tôi leo xuống. Tôi vội vã
lủi vô ruộng mía, lấy quần mặc vào rồi đi kiếm con dao và cây mía.
Hai đứa tôi lội trở qua bên kia bờ suối, con chó vện cũng lội suối
qua theo. Ngồi dưới bóng cây chia nhau từng lóng mía. Tôi chỉ ăn 2
lóng, phần còn lại của hắn vì Đèo thèm ngọt. Còn tôi, tôi thèm thứ
khác hấp dẫn hơn nhiều: “Thịt! Thịt! Thịt!”... Tôi nhìn con vện,
tưởng tượng đến dĩa “rựa mận” đang bốc khói, làm tôi thèm đến nhểu
nước miếng. Bất chợt, con vện ngước lên nhìn tôi. Bốn mắt âu yếm
nhìn nhau...tóe khói; hình như, cái giác quan thứ sáu của nó, nhìn
thấy ý đồ bất chánh của tôi và báo cho nó biết rằng: “Coi chừng
thằng cha tù ốm đói nầy, hắn sẽ thịt mình đấy!” Vì vậy, con chó vện
chỉ quấn quít bên cạnh anh Đèo và lúc nào cũng đề cao cảnh giác với
tôi. Cứ mỗi lần tôi xáp lại gần, định làm quen là nó đứng dậy đi chỗ
khác chơi và nhìn tôi với tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Cách đây ba hoặc bốn tháng gì đó. Tên thiếu tá Khoát – trại
trưởng – có tuyên bố một câu làm cả trại hồ hởi, phấn khởi: “Trại ta
có kế hoạch nuôi lợn, cung cấp thịt tươi, cải tổ bữa ăn để các anh
có đủ sức thâm canh, tăng năng xuất, chuẩn bị trồng sắn đại trà.”
Thế là cả trại thi đua vào rừng đốn gỗ dựng trại chăn nuôi. Và chỉ
trong vòng hai tuần lễ, ba cái chuồng nuôi lợn được cất xong bên
cạnh bờ suối, đối diện với nhà bếp của ban chỉ huy trại. Nhưng, tên
Quang chỉ mang về một cặp heo mọi, bụng ỏng, đít teo, mỗi con cân
nặng khoảng 5 kí là cùng. Thế là, một anh bạn tù cao niên ở lán 2
được giao cho nhiệm vụ “chăn lợn”. Mỗi ngày, anh có nhiệm vụ mang
một cái sô vào nhà bếp cán bộ trại, gặp tên trung sĩ Kây để nhận cơm
thừa, canh cặn mang về chuồng nuôi lợn. Không biết nuôi heo bằng
cách nào mà cặp heo mọi càng ngày càng gầy nhom. Ngược lại, trông
anh càng ngày tròn trịa ra.
Đêm hôm kia, chuồng nuôi lợn xảy ra chuyện rùng rợn, khó tin
nhưng có thật là hai con heo mọi bị bầy chuột rừng moi ruột cho đến
chết. Nhờ vậy, trưa hôm sau, cả trại được ăn cơm trắng với thịt heo
kho với nước muối. Gần 2 tháng nay, chúng tôi mới được ăn một chén
cơm trắng và một miếng thịt heo to bằng hai lóng tay út, cho đến bây
giờ miệng tôi vẫn còn tóm tèm thịt tươi. Và tôi đang nghĩ kế hoạch
thịt con vện...
Chúng tôi lần lượt chuyển hết mớ nứa về trại, con vện đưa hai
đứa tôi đến tận cổng trại. Và từ đó, nó trở nên người bạn trung
thành với anh Đèo. Sáng nào nó cũng nằm chờ trong buị cây gần cổng,
rồi lẽo đẽo theo chúng tôi vào tận rừng sâu đốn gỗ. Có mấy lần tôi
định thịt nó, hưng Đèo cương quyết ngăn cản.
Hắn nói:
- “Mầy muốn thịt con vện nầy thì phải bước qua xác chết của tao!”
*
Nửa năm sau đó, những dãy nhà khang trang bằng gỗ được dựng lên
chung quanh ban chỉ huy trại 6 đều do công sức của những người tù
cải tạo. Nhưng, gỗ và nứa càng ngày càng khan hiếm, chúng tôi càng
phải đi xa hơn, có khi phải đi băng qua thung lũng phía sau trại,
lội vào khu rừng già dưới chân núi bên kia, gần nông trường Bản Hẻo
để kiếm gỗ.
Thế rồi một hôm. Lần đầu tiên chúng tôi đi theo con đường mòn
băng qua thung lũng vào lúc hừng đông sáng để kiếm gỗ làm đòn tay.
Khi những tia nắng ban mai mỏng manh, màu vàng nhạt, như cố xuyên
thủng làn sương mai trắng đục bao phủ cả khu rừng, nắng tạo thành
những chùm ánh sáng lung linh, huyền ảo. Hai đứa tôi lặng lẽ tiến
khá sâu trong khu rừng rậm rạp, cây cối hoang vu, còn con vện biến
đi đàng nào không biết. Tiếng suối chảy róc rách khi len lỏi qua
những gềnh đá rong rêu, hòa cùng muôn ngàn tiếng hót líu lo của bầy
chim rừng, trổi lên bản hợp tấu đầy sức quyến rũ của núi rừng Tây
Bắc, thoang thoảng đâu đây mùi hương nhẹ nhàng tỏa ra từ những đóa
phong lan, nép kín sau những thân cây cổ thụ, pha lẫn mùi hăng hắc
của lá rừng ẩm mốc.
Tiếng gió lướt trên những tán cây rừng xào xạc, mang theo cái
lạnh tái tê từ dãy núi đá chập chùng của rặng Hoàng Liên Sơn thổi
về. Gió lay những giọt sương mai đọng trên lá cây rừng, sương rơi
nhẹ nhàng trên mái tóc, trên vai áo làm tôi thấm lạnh. Đang mơ màng
trong cái không gian liêu trai và cái tĩnh lặng mong lung ấy...Bỗng
một tiếng thét chói tai của Đèo đang đi phía trước, làm bầy chim
rừng cũng phải giựt mình, bay tán loạn: “Con mẹ nó! Coi chừng vắt
nái! Chạy khỏi khu rừng nầy ngay!”
Vắt nái là một loại vắt màu xanh lá cây, nhỏ hơn đầu đũa một
chút và chiều dài chỉ hơn một phân rưởi, khiếp nhất là khi nó có
chửa nên đặt cho nó cái tên là “vắt nái”. Khi đánh được hơi người là
nó giương lên như cây “anten”, rồi bún mình lên như cái lò xo, bám
vào đầu vào cổ người, thú vật hút máu một cách êm thắm, chén no rồi
tự động rớt ra, máu từ vết cắn đó chảy ra không ngừng, chỉ có nhai
cỏ mực đấp vào vết cắn là tạm cầm máu được. Có nhiều anh bạn bị
nhiểm trùng, vết cắn bị ngứa ngái, lở lói tròn bằng đồng tiền, nhức
nhối tàn bạo. Hai đứa tôi vội vàng lội băng qua con suối cạn, tìm
khoảng đất trống trải để kiểm soát lại đầu cổ, lôi ra cũng được bốn,
năm con vắt xanh.
Bỗng có tiếng khèn réo rắt, trầm bổng, văng vẳng từ đâu đưa tới,
âm thanh ai oán, não nùng như khóc như than. Tiếng khèn trôi bồng
bềnh trong làn sương mai trắng đục. Tôi tò mò rũ Đèo đi ngược lên
thượng nguồn con suối để tìm người thổi khèn. Đó là cụ già thuộc bộ
tộc Thái đen với mái tóc trắng phau, chòm râu bạc thả lỏng phất phơ
trong gió. Ông vận bộ quần áo cộc màu chàm đang ngồi dưới một gốc
đại thụ, chừng đã mọc rễ cả trăm năm, cành lá sum sê, vỏ cây sần sùi
phủ rêu xanh, những rễ phụ và dây leo bện nhau bám chằng chịt vào
thân cây. Cách đó mươi thước là hai thanh niên để lưng trần đang
cuốc một hố đất. Thấy có người đến, ông lão ngưng thổi khèn, ngước
mắt nhìn chúng tôi, hỏi:
- “Mấy ông đi đốn gỗ cho trại cải tạo đấy à?” ông cảnh báo. “Khu
rừng nầy có rất nhiều rắn độc, mấy ông phải cẩn thận! Cách đây mấy
hôm, một người trong bản bị một con cạp nia mổ chết rồi đấy!”
Tôi nói:
- “Cám ơn cụ đã chỉ bảo! Chúng tôi sẽ hết sức đề phòng!”
Đèo phì cười khi nghe cụ gọi mình bằng ông, hắn nói:
- “Tôi là Lê Xuân Đèo, gọi tôi là Đèo được rồi! Thế còn cụ?”
- “Tôi tên Phạm công Trừng,” ông lão buồn rầu, than thở. “Nhà tôi bị
ốm nặng sắp chết đến nơi rồi, các anh ạ!” ông chỉ hai thanh niên,
tiếp. “Chúng nó đang đào huyệt, chuẩn bị chôn mẹ chúng đấy!”
- “Thưa cụ, bà cụ bị mắc chứng bệnh gì vậy?” Đèo hỏi.
Ông cụ thở dài, nói:
- “Nhà tôi bị bệnh kiết lỵ đã hơn hai tuần nay! Uống đủ loại cây cỏ,
nhưng không thuyên giảm, đang nằm thoi thóp trên giường chờ chết
đấy, các anh ạ!”
Đèo nghe ông cụ nói xong. Hắn suy nghĩ trong giây lát rồi nắm
tay tôi, kéo ra bờ suối, hỏi:
- “Tao muốn cứu bà cụ! Mầy nghĩ sao?”
Tôi trợn mắt nhìn hắn, hỏi:
- “Mấy lấy cái gì cứu bà cụ chớ?”
- “Nói cho mầy biết, tao còn cất giấu được 10 viên “Reostop”, chôn
dưới sạp nứa chỗ tao ngủ,” Đèo lấy ý kiến tôi lần chót. “Mầy thấy
tao có nên giúp họ không?”
- “Việc nầy có liên quan đến sinh mạng của mầy! Tự quyết định đi,
đừng hỏi tao lôi thôi!” Tôi nói.
- “Tao quyết định cứu họ!” Đèo trả lời một cách dứt khoát. “Thấy
người sắp chết mà không cứu là đắc tội với Trời Phật rồi! Hơn nữa,
tao muốn làm sáng tỏ cái bản chất và truyền thống tốt đẹp của người
lính Việt Nam Cộng Hòa cho đồng bào miền Bắc thấy rõ điều nầy!”
Nghĩ sao làm vậy, Đèo trở lại chỗ ông cụ, nói:
- “Ngày mai cũng vào giờ nầy, cụ đón chúng tôi tại đây để nhận 10
viên thuốc “con nhọng” chuyên trị kiết lỵ, đem về cho bà cụ uống!”
Ông cụ nghe đến thuốc “con nhọng”, mắt cụ ngời sáng tia hy vọng
và cảm động đến rớt nước mắt. Cụ bảo hai người con trai vào rừng đốn
gỗ đòn tay cho chúng tôi, rồi mời chúng tôi về bản làng gần đó sơi
nước trà xanh. Căn nhà sàn của gia đình cụ gồm ba gian, nằm trong
bản Thái, cách cây bờ suối đó khoảng 200 thước. Căn nhà sàn khá cao
để tránh thú dữ nhất là đàn chó sói thường hay kéo vào bản, bắt gia
súc. Đặc điểm những căn nhà sàn của dân tộc thiểu số như Thái,
Mường, Mông...cùng có một lối kiến trúc như nhau là không dùng đinh,
tất cả đều được liên kết với nhau bằng những con sò gỗ và lạt buộc,
sàn nhà được nối kết với nhau bằng những cây nứa già được đập giập
ra để lót sàn. Leo lên mấy bật thang gỗ ọp ẹp, thấy ngay bà cụ đang
nằm trên cái chõng tre đặt ở một gốc nhà, trùm chăn đến cổ. Bà cụ
gầy lắm, tôi chỉ thấy cái mềm bông màu đỏ phập phồng theo nhịp thở
thoi thóp, mỏng manh như sợi chỉ mành treo chuông.
Sau khi uống xong chung trà xanh, thì hai người con cũng về tới
nơi. Thấy mặt trời lên thấp thoáng ngọn cây, chúng tôi xin từ giả ra
về. Cụ đi trước dẫn đường, dùng dao vạt vào thân cây rừng để đánh
dấu, cho chúng tôi biết đường trở lại. Tới bìa rừng, họ chuyển 6 cây
gỗ làm kèo lên vai hai đứa tôi và chúng tôi từ giã nhau ở đấy. Con
vện đi sục sạo ở đâu đó trong khu rừng cũng vừa chạy trờ tới, mõm
ngoạm một con chuột lông màu xam xám khá to, làm quà tặng anh bạn
Đèo. Trước khi trở về trại, Đèo ra bờ suối làm thịt chuột một cách
thành thạo, rồi dùng lá chuối rừng gói lại cẩn thận, bỏ vào trong
túi quần mang về trại. Buổi trưa, Đèo lén ra khu nhà bếp nướng một
cách vội vã, khi nào có chiến lợi phẩm, hắn cũng chia phần cho tôi
một nửa.
Đêm hôm đó, đợi mọi người ngủ say sau một ngày lao động cật lực.
Đèo đào một lớp đất mỏng dưới ngay chỗ nằm lấy, ra một chai thuốc
“Reostop” còn đủ 10 viên rồi dấu dưới gối.
Sáng hôm sau, chúng tôi trở lại vùng nầy, tiếp tục đốn gỗ làm
kèo nhà. Lần theo vết dao đánh dấu trên thân cây, hai đứa tôi trở
lại chỗ cũ rất dễ dàng. Đến chỗ hẹn, chúng tôi thấy cụ đang ngồi
dưới bóng cây đại thụ, chờ chúng tôi tự bao giờ. Đèo thân mật đặt
cái lọ thuốc “Reostop” vào tay ông cu,ï rồi chỉ cách dùng. Ông cụ
vừa mừng, vừa cảm động đến độ nói không nên lời. Trước khi chia tay
nhau, ông cụ dặn dò:
- “Tụi bộ đội của đoàn 776, thằng nào cũng ác ôn hết! Các anh phải
cảnh giác chúng nó đấy!”
Khoảng một tuần sau đó. Chúng tôi trở lại vùng nầy kiếm gỗ, nhìn
thấy cái huyệt đã được lấp đất lại bằng phẳng, cỏ dại đã bắt đầu bén
rễ và chúng tôi biết chắc là bà cụ đã được cứu thoát khỏi bệnh kiết
lỵ. Người tù cải tạo Lê Xuân Đèo đã hoàn thành công tác “dân vận”
một cách xuất sắc bằng chính mạng sống của chính mình. Vì ba tháng
sau đó, anh từ giã cuộc đời vì bịnh kiết lỵ vì không thuốc chữa cho
chính bản thân mình.
Bịnh kiết lỵ, tiêu chảy và sốt rét rừng là ba căn bệnh rất phổ biến
trong các trại tù cải tạo ở Miền Bắc XHCN. Một người bạn cùng đơn vị
là cựu thiếu tá Trần Sỹ cũng gởi nắm xương tàn tại một trại tù khác
vào năm 1978 vì bệnh kiết lỵ và rồi còn biết bao nhiêu người khác
nữa? Trước khi chuyển trại từ trong Nam ra ngoài Bắc, chúng tôi dự
trữ khá nhiều thuốc chuyên trị về các chứng bệnh nguy hiểm nầy và
nhất là trụ sinh để phòng thân. Nhưng, sau khi chuyển đến trại 6 Khe
Thắm, một người tù cải tạo tên Phạm Thành K. đã đâm sau lưng chiến
sĩ, anh ta bàn kế hoạch “chuyển trại giả” với tên thiếu tá Khoát để
lấy điểm.
Vào một buổi sáng tinh sương. Trong lúc mọi người chuẩn bị xuất
trại lên rừng đốn gỗ, bỗng có tiếng kẻng dồn dập khác thường, đích
thân cán bộ quản giáo đến từng lán, đôn đốc mọi người khẩn trương
đến tập trung trước sân cờ ban chỉ huy trại để nghe thiếu tá Khoát -
trưởng trại - ban hành lệnh hành quân (chuyển trại) và mọi người
được thông báo, chỉ còn có một tiếng đồng để chuẩn bị hành lý cần
thiết mang theo người. Vì quá vội vã, nên Đèo không kịp đào lấy 10
viên thuốc “reostop” chôn dưới sạp nứa, ngay chỗ anh nằm.
Tại sân đá bóng của xã, trong khi ngồi chờ đợi xe vận tải đến
chở đi một trại tù cải tạo khác, bọn cán bộ quản giáo và quản chế
yêu cầu tất cả tù cải tạo “bày hành lý bán chợ trời” - tiếng lóng -
một hình thức kiểm soát hành trang của tù cải tạo để hôi của. Sau
đó, chúng phân tán chúng tôi đứng riêng rẽ từng nhóm nhỏ vài ba
người, tù cải tạo còn phải trải qua một màn “thoát y vũ” bất đắc dĩ
để chúng lục soát quần áo tù. Thế là, sau khi tịch thu toàn bộ số
dược phẩm của anh em mang từ trong Nam ra, chỉ còn sót lại 10 viên
“Reostop” của Lê xuân Đèo. Sau đó, bọn tù cải tạo chúng tôi mặt mày
tiu nghỉu trở về lán trại, tiếp tục lên rừng đốn gỗ. Tên thiếu tá
Khoát và tên tù phản bội P. T. K. mặt mày hớn hở vì chuyến nầy thắng
lớn...
Bọn cán bộ trại đem số thuốc tây nầy ra Hà Nội và tỉnh Hoàng
Liên Sơn bán lại cho các con buôn, rồi thay vào đấy một loại thuốc
dõm trị bá chứng tên “Xuyên Tâm Liên” để trị bịnh cho bọn tù. Đến
năm 1982, nhà nước cộng sản khám phá loại thuốc nầy có độc tố phá vở
các tế bào não, tim và thận và ngưng sản xuất thì đã muộn. Không
biết có bao nhiêu tù cải tạo sống dở, chết dở vì uống phải loại
thuốc nầy?
*
Vào mùa thu năm 1977. Bạn Lê Xuân Đèo không may vướng phải căn
bệnh kiết lỵ hiểm nghèo. Sang đến tuần lễ thứ hai, người anh cứ khô
héo dần như cây khô thiếu nước, gầy đến nổi chỉ còn da bọc xương,
rồi nằm liệt giường, tiểu và đại tiện một chỗ. Mỗi ngày tên y công
tên Lương phát cho vài viên “Xuyên Tâm Liên” và một bát cháo loãng
như nước cơm chắt, tiêu chuẩn trừng phạt những người tù cải tạo bị
ghép vào tội “chây lười lao động”. Qua đến đầu tuần lễ thứ ba, người
anh tóp xọp như bộ xương cách trí, được bọc lại bằng một lớp da nhăn
nheo màu xám xịt, đôi chân gầy guộc như hai thanh nứa, sờ vào lạnh
ngắt như đồng. Anh chỉ còn thở thoi thóp, máu hình như bắt đầu đông
lại trong các động mạch, đôi mắt thất thần, mở trao tráo trong hai
cái hốc mắt lõm sâu. Đến buổi chiều, anh lên cơn mê sảng gọi tên vợ,
tên con, rồi khóc rưng rức bằng những hạt lệ khô.Tối hôm đó, tôi
ngồi bên cạnh anh cho tới giờ kẻng đổ, tôi bỏ mùng xuống cho anh,
trước khi trở lại chỗ nằm.
Kỳ lạ quá! Nửa đêm về sáng, tiếng cú rúc liên hồi trong một lùm
cây nào đó, ngay phía sau lán 3 như tiếng gọi của thần chết lởn vởn
đâu đây, làm tôi rùng mình. Gió từ dãy Hoàng Liên Sơn thổi về ào ào
làm rung chuyển cây rừng, làm tốc mái tranh nứa, gió thổi bật cánh
mấy cái phên cửa...
Trong cái không gian lạnh lẽo ấy, vang lên những tiếng ngáy khò
khò khi trầm, khi bổng, có tiếng ngáy cao vút như giọng nam “tenor”,
những tiếng nghiến răng trèo trẹo, tiếng trở mình của bạn nào đó
trên cái sạp tre ọp ẹp vang lên kẽo kẹt, tiếng mớ ngủ lẫn tiếng thở
dài não nuột; đôi khi, có anh đang nằm mơ thấy mình đang đánh nhau
với Việt Cộng, tiếng hét của anh đánh thức cả lán dậy: “Diều hâu!
Diều hâu! Đại Bàng ghe rõ không trả lời! Việt Cộng tràn ngập căn cứ
hỏa lực rồi! Rót pháo xã láng! Nổ chụp trên đầu chúng tôi! Lẹ lên đi
mấy cha...” và tất cả âm thanh đó quyện vào nhau hợp thành một “bi
trường khúc” đầy ấn tượng sâu sắc trong lòng người tù cải tạo.
Bỗng tôi nghe tiếng con vện tru từng chập bên bờ suối, tiếng tru
buồn thê thảm, kéo dài lê thê trong đêm trường tĩnh mịch. Tôi mệt
mõi, ngủ thiếp đi từ lúc nào cũng không hay, cho tới khi tiếng kẻng
báo thức vang lên, đánh thức mọi người dậy để chuẩn bị một ngày lao
động khổ sai. Tôi nghe cả láng hoảng hốt, thét lên: “Đèo chết rồi!
Đèo chết rồi!...”.
Tôi ngồi bật dậy như cái lò xo, nhìn sang chỗ Đèo nằm, hai cái
chân như hai thanh nứa già cỗi, khô khốc, buông thòng xuống đất, bị
gió thổi luồn dưới sạp nứa đánh đong đưa, còn thân người của anh nằm
vất vưởng trong mùng. Tôi vội vàng chạy đến, vén cái mùng lên. Tôi
thấy đôi mắt đôi mắt của anh mở trợn trừng, hai giọt lệ khổ đau chắt
chiu từ một kiếp người bị đày đọa trong tận cùng đáy địa ngục, ứa ra
từ trong hai hốc mắt sâu hoắm, còn đọng lại chưa khô; hình như, anh
mới từ giã cuộc đời cách đây không lâu. Tôi lấy tay vuốt mắt người
bạn tù...
*
Một cái chòi lá đơn sơ được vội vã dựng lên, chỉ có mỗi mái nứa gần
khu rừng sắn, bên cạnh con suối cạn, phía sau ban chỉ huy trại. Bốn
cái cộc gỗ đóng xuống đất chính giữa căn chòi, hai khúc gỗ gác song
song với nhau bên trên, vừa đủ kê một tấm ván mỏng. Thi hài của Đèo
trong bộ quân phục Biệt Động Quân đã bạc màu, rách tơi tả, loang lỗ
những vết máu khô vì tai nạn lao động. Tôi phủ kín hình hài của anh
bằng cái mềm màu đỏ. Toán mộc lo đóng quan tài, tôi trong bộ phận
đào huyệt còn có Trương Đăng Sỹ và Nguyễn Minh Thanh... Chỗ anh nằm
an nghỉ dưới bóng cây cổ thụ dưới chân đồi bên cạnh dòng suối, cách
trại khoảng 2 cây số. Đến xế chiều, mọi việc đã hoàn tất. Sau khi
tẩn liệm cho bạn Đèo xong, chúng tôi trở về trại, không ai được ở
lại qua đêm để canh giữ xác của anh.
Đêm đó, có lẽ là đêm dài nhất trong 8 năm tù cải tạo của tôi.
Vừa chợp mắt là tôi thấy đôi mắt của anh còn mở trợn trừng...Quá nửa
đêm về sáng. Bỗng nghe có tiếng chó sủa, tiếng gầm gừ cấu xé lẫn
nhau thật dữ dội, tiếng tru tréo từ phía bìa rừng văng vẳng đưa về;
hình như, chúng đang tranh ăn thì phải. Điều nầy đã khiến tôi phập
phòng lo sợ, không biết chuyện gì bất hạnh sẽ xảy ra cho anh Đèo.
Tôi thầm cầu nguyện với ơn trên, đừng để bầy chó rừng tha xác của
anh đi!
Trời vừa tờ mờ sáng. Sau tiếng kẻng báo thức vào lúc 6:45, tôi
đã thức dậy, cuốn mùng mền, rồi vội vã đi về phía cỏng trại. Tên
lính canh cho phép tôi xuất trại, ra bìa rừng thăm xác bạn. Tôi lật
đật bước vào cái chòi lá, cái quan tài của Đèo được ghép vội vã bằng
sáu tấm ván mỏng manh bị đẩy xô lệch trên hai cái thanh ngang, suýt
chút nữa thì đổ xuống đất, cái nấp áo quan sẽ bung ra ngay. Sau khi
đẩy cái áo quan lại cho ngay ngắn, tôi bước ra bên ngoài quan sát
hiện trường. Cả một vùng cỏ dại chung quanh cái chòi bị ngã rạp
xuống, loang lổ vết máu và lông thú. Tôi đoán không sai, tại ngay
chỗ nầy, đêm qua đã xảy ra trận ác đấu thật quyết liệt giữa bầy chó
rừng, tranh xác anh Đèo để tha vào rừng.
Có lẽ đánh được hơi người quen thuộc, con chó vện đang nằm bất động
gần đó, nó ngước đầu lên nhìn tôi, cố gắng chống hai cái chân trước
xuống đất, gượng lết về phía tôi, nhưng được vài bước rồi ngã quỵ
xuống, mồm rên ư ...ử vì đau đớn. Tôi vội vàng chạy đến ôm chấm lấy
nó vào lòng. Con vệt liếm vào mặt tôi một cách trìu mến, rồi mệt lả,
nghẻo đầu lên vai tôi. Đặt nó nằm xuống đất để quan sát: con mắt bên
phải bị lột một mảnh da, còn bê bết máu, cái chân trước bị táp gẫy
xương và cái đùi sau bị ngoạm mất một mãng thịt to, vết thương còn
rỉ máu âm ỉ. Tôi vô cùng xúc động nhìn nó một cách cảm phục và
thương mến.
Thật vậy, không một ai có thể ngờ rằng, con chó vện đã liều mạng
sống của nó, tả xung, hữu đột, quyết đấu một mất một còn với cả một
bầy chó rừng hoang dại để bảo vệ cái xác thân của Lê Xuân Đèo, người
bạn của nó, đang nằm trơ trọi giữa bầy dã thú. Đối với tôi, con chó
vện là hiện thân của một dũng sĩ, tuy mang hình hài của loài thú bốn
chân, nhưng có một trái tim rất “người” dám vì nghĩa quên mình,
chiến đấu đơn độc, không lùi bước trước kẻ thù. Tinh thần quyết đấu
của con chó vện, như một lời nhắn nhủ đầy khí phách với đồng loại
của nó: “Tụi bây muốn làm thịt Lê Xuân Đèo, phải bước qua xác chết
của tao!”.
Tôi bế con vện ra bờ suối, khuất sau đám sắn non, rửa vết thương
còn đẫm máu của nó mà ứa nước mắt. Con vện liếm bàn tay tôi một cách
thân ái. Tôi thì thầm bên tai nó: “Nằm đây chờ tao; lát nữa, tao trở
lại tìm cách đưa mầy về nhà chủ của mầy!” Tôi đứng dậy lui gót, nhìn
trong ánh mắt lưu luyến của nó và khi nó đưa cái chân trước quào
quào một cách yếu ớt trong không khí như những cái vẫy tay chào vĩnh
biệt, khiến tôi có cảm tưởng; hình như, nó muốn trối trăn điều gì đó
với tôi chăng?
Tôi từ giã nó, trở vào trại để cùng với anh em lo việc mai táng
Lê Xuân Đèo. Toán chung sự có bốn người: Minh Thanh, tôi và hai bạn
tù nữa. Đúng 8 giờ sáng, chúng tôi đẩy cái xe cải tiến cũ kỹ đi
ngang qua ban chỉ huy trại, gặp tên trung úy Quang lùn tịt, ngoắc
chúng tôi dừng lại, nói: “Này, nhớ đấy nhé! Giữ cái áo quan lại,
dành cho những người kế tiếp! Các anh phải biết bảo vệ tài sản xã
hội chủ nghĩa đấy! Sẽ không có cái áo quan thứ hai đâu!”
Sau khi đặt quan tài của Lê Xuân Đèo lên xe cải tiến. Hai anh
cầm càng, tôi và Minh Thanh phụ đẩy. Chiếc xe từ từ lăn bánh trên
con đường đất gồ ghề còn đẵm hơi sương. Hai cái bánh xe khô nhớt,
một cái nghiêng bên nầy, một cái ngã bên kia, phát ra những tiếng
kót két rên rỉ một cách mệt nhọc, đau khổ. Hai anh bạn phía trước
gồng mình, ấn cái càng xe xuống, còn tôi và Minh Thanh vừa đẩy, vừa
nâng phần sau xe lên, vì sợ hai cái bánh xe bung vành, văng ra khỏi
cái xe cải tiến bất cứ lúc nào. Chúng tôi phải đẩy cái xe tang lăn
qua ba cái dốc cao mới đến bờ suối.
Sau vài phút nghỉ giải lao, chúng tôi cùng nhau kê vai, khiêng
quan tài lên lưng chừng đồi, chỗ an giấc ngàn thu của anh, rồi chia
nhau vô rừng kiếm dây rừng bện lại như hai sợi dây thừng. Đặt quan
tài lên trên hai sợi dây đó, rồi mỗi người nắm một đầu dây, thả từ
từ xuống đáy huyệt. Xong rồi, chúng tôi lấp đất lại, vun thành một
nấm mộ đơn sơ. Bốn anh em đứng trước mộ, cúi đầu mặc niệm mà trong
thổn thức, bồi hồi. Tôi hái một ít hoa rừng đặt lên nấm mồ của bạn.
Bạn Nguyễn Minh Thanh cảm khái làm một bài thơ với tựa đề “NẤM
MỒ HOANG” để tưởng nhớ bạn Lê Xuân Đèo, người bỏ cuộc giữa đường.
Một nấm mồ hoang cảnh lạnh lùng
Lơ thơ cỏ úa lá chiều rung
Quạnh hiu vằng vặc vây quanh mộ
Rên rỉ bầy ve tiếng não nùng
Gởi xác ốm nhom tận chốn nầy
Bao la rừng núi, suối trời mây
Người đi vĩnh viễn đã yên phận
Ngàn dặm người thương đâu có hay!
Sương khói hoàng hôn dọc mỗi đời
Công danh phú quí lá vàng rơi
Than ôi! Thành bại đều chung cuộc
Tuần tự rồi ai cũng thế thôi!
Trên đường trở về trại, khi đi đến gần ban chỉ huy, tôi tách rời anh
em, lẻn vào khu rừng sắn, ra bờ suối kiếm con vện. Tôi vô cùng sững
sờ nhìn thấy con vện bị ai đó treo ngược đầu xuống đất, bốn chân bị
căng ra, buộc chặt vào hai cái cộc gỗ, cổ bị cắt tiết, máu đỏ nhỏ
từng giọt xuống cái cái chậu bằng thau đặt dưới đất. Tôi quỳ xuống
nâng đầu của nó lên, cả thân mình con vện khẻ run lên lần cuối cùng,
rồi duỗi thẳng ra bất động. Cái chết đau đớn của nó làm tôi rớt nước
mắt. Tên trung sĩ Kây đứng sau lưng tôi từ lúc nào cũng không hay.
Hắn lên tiếng làm tôi giật mình:
- “Trong giờ lao động, anh ra đứng đây làm gì thế?”
Tôi nhanh trí, đáp:
- “Vừa mới mai táng anh Lê Xuân Đèo xong, ra suối rửa tay chân.”
Hắn nói:
- “Tôi nhờ anh giúp hộ một tay.”
- “Được, việc gì thế?” tôi hỏi.
Hắn nói như ra lệnh:
“Anh tháo dây, mang con cầy vào nhà bếp cho tôi!”
Nói xong, hắn mang cái thau tiết đi trước. Tôi tháo sợi dây
rừng, ôm con vện vào lòng như ôm thi thể một chiến hữu vừa nằm xuống
sau một trận đấu...tôi thất thểu ôm xác con vện vào khu nhà bếp mà
lòng quặn đau.
Hôm sau, được phân công làm vệ sinh khu nhà bếp, tôi nhặt những
mảnh xương vụn của con vện, đặt lên vào những tấm lá chuối, gói lại
cẩn thận. Nhân lúc đi rừng đốn gỗ, tôi ghé thăm mộ bạn Đèo, rồi dùng
dao đào một cái hố nhỏ, chôn bộ hài cốt của con chó vện, nằm bên
cạnh bạn Lê Xuân Đèo cho có bạn.
*
Bắt đầu từ cuối tháng chạp kéo dài đến tháng giêng năm sau. Núi
rừng Hoàng Liên Sơn, bầu trời ảm đạm và rét mướt, mưa bụi giăng
giăng khắp nơi gần như bất tận. Mỗi buổi chiều, người tù trùm chăn
kín mít, ngồi co ro trong lán, nhìn những cơn mưa bụi bay bay trong
hoàng hôn, ai nấy đều chạnh lòng nhớ quê hương, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ
con, nhớ vợ da diết. Gọi là mưa bụi vì lượng nước mưa quá yếu không
thể rơi thẳng xuống mặt đất, bị gió thổi bay đi, tỏa ra thành những
cơn mưa bụi.
Bước sang tháng giêng. Hạt nước mưa kết tinh lớn hơn một chút có
thể rơi thẳng xuống mặt đất, nhưng bị gió tạt nghiêng nghiêng, tạo
thành những cơn mưa phùn báo hiệu đất trời sắp giao mùa. Sợi mưa
phùn mong manh như sợi tóc rối, đan nhau thành những màn nước trắng
đục, giăng kín núi rừng, đồng ruộng, thung lũng, sông hồ ... Trời
đất nhạt nhòa trong những cơn mua phùn dai dẳng, kéo dài lê thê trên
vùng đất khó. Trong bầu khí hậu ẩm thấp ấy, cây cỏ đang âm thầm nẩy
lộc, đâm chồi, chờ trỗi dậy tưng bừng khi mùa xuân đến. Chỉ tội cho
bọn tù cải tạo phải lao động khổ sai trong rừng sâu, tay chân tê
cóng vì đói và lạnh đến rét run.
Thượng tuần tháng 2 năm 1978. Trại chuẩn bị ăn mừng Tết Nguyên
Đán Mậu Ngọ vài ngày sau đó. Tôi được phân công vào đội cắt lá dong
dùng để gói bánh chưng. Lá dong thường mọc hoang ở những vùng đất ẩm
ướt. Tôi đi vào rừng, lang thang trong thung lũng một mình để tìm lá
dong. Tôi nhớ quá anh bạn Đèo và con chó vện thân thương.
Mới hừng đông sáng mà tôi đã nghe tiếng chiêng, tiếng trống vang
lên rộn rã từ bản làng của dân tộc Thái Đen. Động tính hiếu kỳ, tôi
lần theo con đường mòn dọc theo con suối chảy róc rách để đi vào bản
Thái. Ô hay! Trước mắt tôi là cả một rừng hoa màu trắng tinh khiết
như hoa bưởi mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Từ những thân cây khẳng
khiu, uốn khúc dù bám vào vách núi đá cheo leo vẫn trổ những chùm
hoa trắng muốt, hoa nở rộ khắp núi rừng, dọc theo suối, hoa có năm
cánh, nhụy màu hồng, gân màu tim tím. Mỗi cơn gió nhẹ nhàng lướt
thoảng qua khu rừng là những cánh hoa rung lên như hàng vạn cánh
bướm đang vỗ cánh chấp chới trong không khí.
Tôi đi lần theo con đường mòn tìm gia đình cụ Trừng không mấy
khó khăn. Tôi đoán, hôm nay là ngày hội làng thì phải. Trước sân nhà
của cụ các bếp đỏ lửa, rực than hồng, họ có mươi người, chia ra làm
hai phái: phái nữ đang lo nấu thức ăn, còn phía nam đang chơi nhạc
cụ dân tộc như thổi khèn, khua chiêng, trống...rất vui nhộn. Thấy
tôi đường đột bước vào sân, tất cả đều dừng tay, nhìn tôi trân trối.
Chỉ cần nhìn thấy bộ đồ rằn ri của tôi đang mặc, họ đã biết tôi là
ai rồi. Một thiếu phụ vội vã chạy đến cầu thang, lên tiếng gọi:
- “Bố ơi! Có thằng lính ngụy nó xông vào nhà mình nầy! Con tống cổ
nó đi nhá!”
Có tiếng quát vọng xuống:
- “Khách quý nhà mình đấy! Đừng hỗn láo, con ạ!”
Đứng trên cầu thang, nhìn thấy tôi, cụ Trừng có vẻ mừng lắm. Cụ
quay vào trong căn nhà sàn, gọi bà cụ ơi ới:
- “Bà nầy, theo tôi xuống đây nhanh lên!”
Cụ vội vã chạy xuống cầu thang trước, cụ bà nối gót theo sau. Cụ
ôm chầm lấy tôi, trước con mắt ngơ ngác của mọi người. Cụ Trừng nói
với vợ:
- “Bà còn sống đến ngày hôm nay là nhờ người tù cải tạo
nầy đấy!”
Tôi vội vàng đính chính ngay:
- “Không phải tôi cứu bà cụ đâu! Anh Lê Xuân Đèo đấy cụ à!”
Cụ Trừng vỗ trán một cái thật mạnh, nói:
- “À, tôi nhớ ra rồi! Anh Lê Xuân Đèo đâu?”
Tôi buông thỏng một câu:
- “Đèo chết rồi!”
Cụ Trừng bàng hoàng trong giây lát, rồi hỏi gằn:
- “Bọn quản giáo đánh chết anh Đèo,, phải thế không?”
- “Không phải vậy, anh Đèo chết vì bệnh kiết lỵ!”
Bà cụ nói:
- “Tôi thoát khỏi bệnh kiết lỵ là nhờ 10 viên thuốc “con nhọng” của
anh ấy biếu! Sao anh Đèo không dùng thuốc ấy để chửa bệnh cho mình
nhỉ?”
Tôi buộc lòng phải thú thật, nói:
- “Đó là 10 viên thuốc cuối
cùng mà anh Đèo đã biếu cho cụ!”
Bà cụ nghe tôi nói, vô cùng xúc động, giọng run run:
- “Anh Đèo đã hy sinh cái mạng của mình để cho tôi được sống! Thế
mới rõ trắng đen, đồng bào dân tộc chúng tôi ở ngoài nầy đều bị lũ
chúng nó bưng bít, tuyên truyền lừa bịp cả! Chúng nó còn bảo “lính
ngụy” các anh tàn ác lắm! Mổ bụng, moi gan người ăn sống, uống cả
máu tươi! Bọn chúng nó ngậm máu phun người, giỏi thật đấy!”
Đám thanh niên nghe bà cụ nói, xem chừng đã hiểu biết mọi
chuyện, họ bỏ hẳn thái độ thù nghịch khi vừa mới gặp tôi. Một anh
bạn trẻ đến nắm tay tôi mời mọc rất chân tình:
- “Anh ở lại dùng cỗ với chúng em nhá! Hôm nay, mới bắt đầu mùa lễ
hội “Kin Chiêng Bók May” của dân tộc Thái chúng em!”
Tôi hỏi:
- “Mùa lễ hội “Kin Chiêng Bók May” là lễ hội gì vậy?”
Cụ Trừng giải thích:
- “Đó là ngày “Hội Hoa Ban” trên vùng cao Hoàng Liên Sơn để đón
mùa xuân đến. Hoa ban chỉ nở rộ vào tiết lập xuân, phủ trắng cả núi
rừng trên các bản Thái. Đặc điểm của loài hoa nầy là màu trắng,
tượng trưng cho sự trong trắng, tinh khiết của tình yêu và hạnh phúc
lứa đôi! Một chút nữa đây, sau khi ăn uống no say, bọn họ sẽ chạy
vào hái những hoa ban thật đẹp tặng cho nhau làm quà. Mấy cô gái sẽ
thay đổi xiêm y, đầu chít khăn “piêu”, có đôi hàng cúc hình bướm
trên chiếc áo cóm, thêu tua ở vai, cái quần “sin” (giống như
xà-rông) vải xanh thắt ngang lưng để múa xòe,” cụ Trừng cố mời. “Anh
ở nán lại đây chơi với chúng tôi.”
Mặt trời đã lên khá cao. Rất tiếc là tôi phải từ giã họ để còn
kịp đi cắt lá dong. Bỗng có ai khều nhẹ vào vai, tôi quay đầu lại
nhìn, đó là một cô bé Thái còn rất trẻ, độ chừng đôi tám, mắt có mí
lót, mũi hơi cao, nước da bánh mật, trong giống người Ấn hơn là
người Kinh. Cô ta trao cho bó hoa ban nới nở, vừa mới hái vội ở
trong rừng về tặng tôi, làm món quà trong ngày “Hội Hoa Ban”. Bây
giờ tôi mới biết loại hoa màu trắng nõn nà đó chính là hoa ban. Cô
bé thỏ thẻ, nói đùa:
- “Bao giờ anh về Sài Gòn, cho em đi theo với nhá!”
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi một cô bé Thái miền sơn cước, còn
biết chối bỏ cái tên Thành phố ************ do tập đoàn Lãnh đạo Cộng
Sản áp đặt sau khi cưỡng chiếm Miền Nam, mà vẫn gọi cái tên cũ “Sài
Gòn”, thủ đô thân yêu của người Miền Nam.
Sau khi cắt xong một mớ lá dong, trên đường đi về trại, tôi ghé
viếng thăm mộ bạn Lê Xuân Đèo. Tôi đặt bó hoa ban trên nấm mồ, rồi
thì thầm báo cáo với hắn: “Vinh quang nầy thuộc về mầy! Chớ không
phải của tao!” Nghĩ cho cùng, cái chết tức tưởi của bạn Lê Xuân Đèo
không đến nỗi vô ích. Tôi phải gọi đó là một sự hy sinh. Những người
lính QLVNCH thuộc mọi Quân, Binh chủng đã anh dũng hy sinh ngoài mặt
trận trong thời chiến. Và những người lính âm thầm nằm xuống trong
lao tù cộng sản, đều có giá trị cao quý như nhau! Thật vậy, anh nằm
xuống để thắp lên một ánh đuốc lẻ loi, soi thủng màn đêm tăm tối đầy
hận thù bên kia “bức màn sắt”, do bọn CSBV dựng lên tại Miền Bắc
XHCN, bằng những thủ đoạn tuyên truyền cực kỳ dối trá và bẩn thỉu.
Cái chết của Lê Xuân Đèo đã làm sáng tỏ chân giá trị đích thực của
người lính thuộc QLVNCH. Họ cầm súng để nối nghiệp tiền nhân, tận
tụy ngày đêm đi gìn giữ quê hương, đem xương trắng máu đào để bảo vệ
sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.
*
Sau Tết Mậu Ngọ 1978. Tất cả anh em chúng tôi khăn gói lên
đường, di chuyển đến một trại tù cải tạo khác, lần nầy thì di chuyển
thật. Và chúng tôi tiếp tục làm nhiệm vụ khai quang, dựng nhà, trồng
hoa màu ở những vùng rừng núi hiểm trở khác để đồng bào miền xuôi về
đó, xây dựng nông trường. Lúc vượt qua đỉnh đèo Lủng Lô, Trương Đăng
Sỹ, Nguyễn Minh Thanh và tôi dừng lại giây phút ngắn ngủi, chúng tôi
cùng hướng về rặng núi Phu Luông còn phảng phất sương mù, vẫy tay
chào vĩnh biệt người bạn tù thân mến, anh Lê Xuân Đèo: NGƯỜI Ở LẠI
HOÀNG LIÊN SƠN!
Nguyễn Vĩnh Long Hồ
|
||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||||
![]() |
||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Ngày nầy, năm 1975. Mỹ thật... đểu…
Năm nay tôi 80 tuổi. Vợ tôi thường nói với mấy con: “Ông bà mình nói người già hay sanh tật, đúng quá! Bây coi: ba bây bây giờ sáng nào uống cà phê xong cũng lại đứng trước tấm lịch tháng treo ở phòng khách, nhìn trầm ngâm một chút rồi lấy bút gạch tréo ô vuông đề ngày hôm qua! Chi vậy hổng biết? Hỏi ổng thì ổng nói gạch để nhớ rằng đến ngày nầy tháng nầy mình vẫn còn trôi sông lạc chợ! Trời đất! Định cư ở Pháp từ hơn ba mươi năm chớ phải mới đây đâu mà đi gạch lịch từng ngày! Ổng còn nói gạch để coi chừng nào mình mới thôi gạch để về lại Việt Nam …”
Câu nói của tôi là sự thật nhưng vì vợ tôi không hiểu nên cho là tôi già sanh tật! Làm sao giải thích được mỗi lần tôi gạch tréo một ngày như vậy tôi có cảm tưởng như là tôi vừa nhích lại gần quê hương một chút – một chút thôi – đủ để nuôi hy vọng thấy một ngày nào đó mình vẫn còn sống mà trở về…
Sáng nay, cũng giống như mọi ngày, tôi cầm bút gạch tréo ô vuông ngày hôm qua. Ô vuông ngày hôm nay đập vào mắt tôi làm tôi giật mình: ngày nầy, năm 1975! Tôi bỗng nhớ ra, nhớ rõ, những gì đã xảy ra ngày đó, nhớ như in. Rồi sợ “cái ngày đó” nó vuột khỏi ký ức vốn đã quá hao mòn của tuổi già, tôi vội vã lấy giấy bút ghi lại…
* * *
…Hồi thời trước 75, tôi làm việc cho một hãng dầu ở Việt Nam, phụ trách nhập cảng xăng dầu từ Singapore vào kho dầu Nhà Bè để cung ứng cho thị trường dân sự và quân sự miền nam Việt Nam. Vì trong xứ có giặc nên thị trường quân sự chiếm 60%, trong đó xăng máy bay dẫn đầu. Các bạn tôi trong quân đội giải thích cho tôi biết rằng ở chiến trường miền nam sự yểm trợ của không lực là quan trọng nhứt. Do đó, tôi luôn luôn theo dõi sát tình hình dự trữ xăng máy bay ở các kho dầu miền nam, từ kho Nại Hiên Đà Nẵng dẫn xuống kho Cần Thơ thông qua kho lớn ở Nhà Bè…
Vào cuối tháng 3 năm 1975, sau lịnh triệt thoái cao nguyên, tình hình quân sự trở nên ồ ạt. Sợ trở tay không kịp, tôi còm-măng Singapore một tàu xăng máy bay. Hay tin nầy, hãng bảo hiểm có hợp đồng với hãng dầu tôi làm việc đánh điện phản đối, không cho tàu dầu qua Việt Nam viện cớ tình hình bất ổn. Đánh điện qua, đánh điện lại, cù cưa cả tuần họ mới bằng lòng cho tàu dầu qua, với điều kiện phải có hộ tống của Navy Mỹ họ mới cho tàu vào sông Sàigòn để cập kho Nhà Bè!
Tôi báo cáo với ban giám đốc vì lúc đó ở kho lớn Nhà Bè trữ lượng xăng máy bay chỉ còn đủ có bày ngày tác chiến của không quân. Ban giám đốc chấp thuận điều kiện của hãng bảo hiểm. Tôi vội vã gọi điện thoại lại cơ quan yểm trợ Mỹ để xin họp khẩn. Ông trưởng sở trả lời: “Tôi sẽ đến ngay văn phòng ông. Cho tôi mười phút!”. Tôi quen ông nầy – tên W, thường được gọi là “Xếp” – nhờ hay đi họp chung. Ông ta dễ thương nhã nhặn, biết chút đỉnh tiếng Pháp nên lần nào gặp tôi cũng nói: “Bonjour! çà va?” (Chào ông! Mạnh hả?)
Xếp W đến văn phòng tôi với hai người phụ tá. Tôi đã làm sẵn hồ sơ nên sau khi mời ngồi, tôi trao ngay cho họ để họ dễ theo dõi những gì tôi sẽ trình bày. Mười phút sau, tôi kết luận xin can thiệp gấp để tàu dầu xăng máy bay của hãng tôi được hộ tống, không quên nhắc lại điểm chánh yếu là trữ lượng xăng máy bay chỉ còn đủ để chiến đấu trong vòng có bảy bữa!
Nghe xong, Xếp W xin phép bước ra ngoài gọi radio về trung ương. Một lúc sau, ông trở vào, nét mặt và giọng nói vẫn tự nhiên như chẳng có gì quan trọng hết: “Rất tiếc! Chúng tôi không giúp được! Thôi! Chúng tôi về!”. Tôi đang nghe nghẹn ngang ở cổ thì ông W vỗ vai tôi nói nhỏ bằng tiếng Pháp: “Allez vous en!” (Ông hãy đi, đi!) Ra đến cửa phòng, ổng ngừng lại nhìn tôi, gật nhẹ đầu một cái như để chào nhưng tôi nghĩ là ổng muốn nhắc lại câu nói cuối cùng “Allez vous en!” (Ông hãy đi, đi!) …
Tôi ngồi bất động, nghe tức tràn lên cổ vì thấy mình bất lực quá và cũng nghe thương vô cùng cái quê hương nhỏ bé của mình, nhược tiểu đến mức độ mà khi cần nắm tay để kéo đi theo thì “họ” dán… đầy đường cái nhãn “hai bàn tay nắm lấy nhau” để chứng tỏ sự thật tình “khắn khít”, rồi khi không còn cần nữa thì cứ tự nhiên buông bỏ không ngượng tay giấu mặt, vì biết mười mươi rằng “thằng nhược tiểu đó không làm gì được mình”!
Tôi ráng kềm xúc động, bước qua phòng họp của ban giám đốc, chỉ nói được có mấy tiếng: “Chánh quyền Mỹ từ chối!”. Sau đó, tôi đánh điện qua Singapore, cũng chỉ bằng một câu: “Không có hộ tống”. Họ trả lời ngay: “OK! Good Luck!” (Nhận được! Chúc may mắn!) Hai chữ cuối cùng, trong hoàn cảnh nầy và vào thời điểm nầy, nghe sao thật đầy chua xót!
Thấy mới có ba giờ chiều, nhưng không còn lòng dạ đâu để ngồi lại làm việc nên tôi lái xe về nhà. Tôi lái như cái máy, cứ theo lộ trình quen thuộc mà đi. Về đến trước nhà, tôi bỏ xe ngoài ngỏ, đi bộ vô. Vợ tôi chạy ra, ngạc nhiên: “Sao về vậy anh?”. Tôi không nói được gì hết, chỉ gục đầu vào vai vợ tôi rồi bật khóc. Vợ tôi chưa biết những gì đã xảy ra nhưng chắc nàng đoán được rằng tôi phải đau khổ lắm mới phát khóc như vậy. Cho nên nàng vừa đưa tay vuốt vuốt lưng tôi vừa nói, giọng đầy cảm xúc: “Ờ…Khóc đi anh! Khóc đi!”
Ngày đó, tháng tư năm 1975… Đúng là ngày nầy!
Tiểu Tử |
||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||||
![]() |
||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Truyện ngắn Cháo Tóc <<<<<Tường Lam | Thanh Phương diễn đọc![]() Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 09/Apr/2019 lúc 5:15am |
||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||||
![]() |
||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23678 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Đôi Nạng Gỗ Đã Què
|
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
<< phần trước Trang of 108 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |