Nên uống hai
ly sữa mỗi ngày

Trong phần ăn của mọi người, các nhà
dinh dưỡng và y học đều khuyên nên bao gồm sữa, vì đây là
thực phẩm có nhiều tác dụng tốt cho cơ thể.
Sữa là một chất lỏng mầu trắng đục chẩy
ra từ tuyến vú của phụ nữ hoặc một số động vật giống cái để
nuôi con.
Về ẩm thực, khi nói đến sữa thường là
nói tới “sữa bò” vì loại sữa này rất thông dụng và chiếm hầu
hết thị trường sữa. Ngoài ra còn sữa trâu nước, sữa cừu, sữa
lừa, sữa dê...
Sữa được dùng theo nhiều cách và có thể
phối hợp với các thực phẩm khác.Ta có thể nấu thịt, rau, đậu
với sữa; làm nước xốt khi nấu chung với thịt, trứng, rau
hoặc dùng như món điểm tâm mỗi buổi sáng với ngũ cốc chế
biến khô
Bài dưới đây trình
bầy một số kiến thức thông thường về sữa bò.
Sữa bò là nguồn dinh dưỡng rất quan
trọng cho con người nên bò cái đã được mệnh danh là “Mẹ Nuôi
của Loài Người” (The Foster Mother of Human Race). Suốt thời
gian dài gần 300 ngày sau khi sanh con, bò liên tục tiết ra
nguồn sữa bổ dưỡng, nhưng không phải chỉ để nuôi con mà phần
lớn lại đi vào dạ dầy con người.
Các loại sữa bò
Trên thị trường, có nhiều dạng sữa bò
khác nhau mà ta có thể lựa chọn tùy theo nhu cầu.
1- Sữa tươi lỏng.
Có nhiều loại sữa khác nhau nhưng theo
tiêu chuẩn chung thì mỗi lít sữa đều có 36g chất đạm, 600mcg
sinh tố A, 10mcg sinh tố D. Khác biệt nhau ở các loại sữa là
ở số lượng chất béo.
a-
Sữa nguyên dạng không pha chế, đã được khử trùng, có khoảng
3.25% chất béo.
b-
Sữa ít béo là dạng sữa đã được loại bỏ bớt một phần chất
béo, nhưng vẫn còn khoảng từ 0.5% đến 2% chất béo.
c-
Sữa không béo chỉ còn dưới 0.5% chất béo.
đ-
Sữa không đường.
Lactose là loại đường có tự nhiên trong
sữa và cần chất xúc tác lactase để được tiêu hóa. Nhiều
người, đặc biệt là dân Á Đông, không có chất lactase, nên
khi uống sữa thường bị tiêu chẩy, đầy hơi, đau bụng. Đó là
tình trạng “không dung nạp” (intolerence) với sữa, thường
xuất hiện vào tuổi lên năm. Muốn tránh tình trạng này, người
ta thêm men lactase vào sữa để phân hóa lactose.
Sữa mà 99% lactose được phân hóa gọi là
“sữa không đường” phân hóa hết 70% thì gọi
là “sữa giảm đường” (lactose reduced).
e-
Sữa thô (raw milk). Đây là dạng sữa tự nhiên vừa được vắt từ
bò cái, không qua bất kỳ sự chế biến, nào kể cá việc tiệt
trùng. Nhiều người cho rằng loại sữa nguyên chất tự nhiên
này có nhiều chất dinh dưỡng. Tuy nhiên, thực tế là các điều
kiện vắt sữa, cất giữ và chuyên trở không bảo đảm vô trùng
nên sữa có nguy cơ gây bệnh nhiễm cho người tiêu thụ. Do đó
sữa thô có thể không tốt cho sức khỏe nhất là đối với người
cao tuổi, trẻ em và những người suy yếu tính miễn dịch.
g-
Sữa hữu cơ (Organic milk) . Sữa từ bò được nuôi bằng thực
phẩm tự nhiên không dùng đến thuốc trừ sậu, phân bón hóa
học, thuốc kháng sinh và thuốc tăng trưởng. Sữa này đắt hơn
sữa thường rất nhiều.
2- Sữa bột
Sữa bột không chất béo rẻ hơn sữa dạng
lỏng, có cùng số lượng dinh dưỡng, dễ cất giữ nên có thể để
lâu, chuyên trở đi xa mà không hư. Sữa bột rất thuận tiện
cho việc nấu nướng.
Sữa có ít chất béo và năng lượng và
thường được bổ sung sinh tố A, D.
3- Sữa đặc có đường.
Sữa đã được làm đặc bằng các phương
thức như cho bay hơi, hâm nóng... để giảm đi tới 60% nước,
sau đó bổ sung sinh tố D, đường sucrose rồi đóng hộp. Sữa
đặc có cùng giá trị dinh dưỡng như sữa tươi.
4- Sữa mô phỏng
Ðược coi là mô phỏng (imitation) khi
sữa không có đủ các chất dinh dưỡng như sữa tự nhiên.
Khi có đủ chất dinh dưỡng thì được gọi
là sữa thay thế (substituted), hay giả sữa (simulated).
Giả sữa thường được làm bằng chất béo
thực vật (dầu dừa), chất đạm của đậu nành, hòa trong nước
với vài chất gây hương vị. Giả sữa rẻ hơn và được dùng trong
việc nấu thức ăn.
5- Sữa có ga
Ngày nay, để cạnh tranh với nước giải
khát có ga, nhà sản xuất sữa cũng đưa ra thị trường các loại
sữa có ga ( carbonated milk). Sữa này được tăng cường hương
vị hấp dẫn của trái cây như dừa, táo, lê, dâu ...để lôi kéo
người tiêu thụ dùng sữa thay cho nước ngọt. Số trẻ em dùng
nước ngọt có hơi rồi bị mập phì, ngày một gia tăng và là mối
lo ngại của các bậc cha mẹ cũng như các nhà dinh dưỡng. Sữa
có hơi hy vọng giúp giải quyết được vấn nạn này.
Giá trị dinh dưỡng.
Sữa bò có vị nhạt, hơi ngọt và mặn vì
có đường lactose và muối chlor. Sữa được xem như một trong
số các thực phẩm căn bản là carbohydrat, rau, trái cây, thịt
các loại, sữa và các sản phẩm từ sữa.
Sau đây là thành
phần cấu tạo của sữa:
a-
Sữa có 87% nước, 3.9% chất béo, 4.9% đường lactose, 3.5 chất
đạm, 0.7% khoáng chất và sinh tố.
b-
Sữa là nguồn cung cấp calci rất quan trọng cho cơ thể. Calci
cần cho sự duy trì các hoạt động căn bản của cơ thể, phòng
ngừa nguy cơ loãng xương, giảm cao huyết áp và ngăn ngừa ung
thư đại tràng.
c-
Sữa có một ít sinh tố B, iod và đồng, rất ít sắt.
d-
Tương tự như thịt động vật, cá và trứng, sữa là nguồn chất
đạm rất phong phú với đầy đủ các amino acid căn bản mà cơ
thể cần.
Nguồn đạm chính của sữa là chất casein
và whey.
Casein là chất đạm đặc biệt chỉ có
trong sữa, chiếm 82% tổng số đạm có trong sữa bò.
Whey là chất lỏng còn lại của sữa sau
khi sữa đông đặc và gồm có lactoalbumin và lactoglobulin.
đ-
Một nửa số năng lương do sữa cung cấp là từ chất béo bão
hòa, nhẹ hơn nước nên nổi lên mặt và có thể được hớt ra.
Sữa thuần nhất (homogenized milk) là
sữa mà chất béo đã được đánh thành những phần tử nhỏ để hòa
lẫn với với chất lỏng thay vì nổi lên trên mặt. Sữa này
thường có mầu trắng, vị dịu và nhuyễn mịn.
Chất béo trong sữa là đề tài của nhiều
thảo luận nghiên cứu vì một số lý do.
Trước hết là về giá thành, sữa ít hoặc
nhiều chất béo có giá tiền khác nhau.
Thứ đến, về phạm vi dinh dưỡng thì sữa
chuyên trở một số sinh tố hòa tan trong chất béo của sữa mà
cơ thể rất cần.
Và cuối cùng, chất béo cùng với vài hóa
chất là yếu tố làm cho sữa có hương vị riêng biệt.
Một ly sữa 240ml có khoảng 8g chất đạm,
9g chất béo, 35mg cholesterol, 150mcg sinh tố A, và 290mg
calci.
Trong sữa ít béo thì trong ly sữa này
chỉ có 3g chất béo, 19mg cholesterol, và lượng sinh tố A mất
đi một nửa.
Nếu là sữa không béo thì chỉ còn 0,50g
chất béo và 4,5mg cholesterol.
g-
Lactose là dạng đường chính trong sữa bò và sữa các động vật
có vú khác. Ngoài ra, sữa còn một ít đường glucose,
galactose.
Lactose có vai trò quan trọng trong
việc chế biến một số món ăn có sữa như kem, sữa đặc có
đường, sữa bột không béo, đặc biệt là sự chuyển nâu (
browning, caramelization) sữa khi nấu nướng.
Giá trị của sữa đã được các nhà dinh
dưỡng chứng minh và khuyến khích nên dùng sữa trong chế độ
ăn uống hàng ngày cho mọi lứa tuổi. Chương trình dinh dưỡng
trẻ sơ sinh và các bữa ăn trưa của hầu hết học sinh đều có
sữa.
Các nhà dinh dưỡng khuyến khích việc
uống từ hai tới ba ly sữa mỗi ngày. Trẻ em đang tuổi phát
triển cần uống nhiều hơn, từ 4 đến 5 ly mỗi ngày.
Những người lớn được khuyên dùng sữa ít
chất béo, còn thiếu niên thì dùng sữa còn nguyên chất béo,
vì các em cần chất béo cho sự tăng trưởng.
Vấn đề an toàn của
sữa
Phẩm chất của sữa tùy thuộc vào một số
yếu tố như :
- Tình trạng hóa chất, sinh học và cách
cất giữ sữa.
- Loại bò, tuổi tác và sức khỏe của bò.
- Thực phẩm nuôi bò.
- Thời tiết, nhiệt độ nơi nuôi bò.
- Thời gian bò tiết sữa.
Vì ở trạng thái nước và có nhiều chất
dinh dưỡng nên sữa là một trong những thực phẩm dễ hư hỏng
nhất. Hơn nữa sữa là sản phẩm lấy ra từ bò nên rất dễ nhiễm
nhiều loại vi sinh vật có hại. Vì vậy, trước khi đưa ra thị
trường, sữa rất cần được kiểm soát kỹ về các tiêu chuẩn vệ
sinh và an toàn thực phẩm.
Bò được vắt sữa bằng tay hoặc bằng máy
sau khi sanh con, liên tục trong khoảng 300 ngày.
Sữa được chứa trong thùng lớn ở nhiệt
độ thấp (khoảng 5ºC) để ngăn sự tăng trưởng của các vi sinh
vật lẫn vào, rồi được kiểm nghiệm về thành phần hóa học, vi
khuẩn. Sau đó, sữa được đưa vào máy để làm cho thuần nhất
(homogenization), trộn đều mỡ và kem với nhau.
Giai đoạn kế tiếp là
khử trùng với nhiệt độ và thời gian thích hợp.
Sữa được hâm nóng bằng phương pháp
Pasteur (pasteurisation) để tiêu diệt vi khuẩn, nấm độc, mốc
meo và vô hiệu hóa một số diếu tố làm sữa có mùi.
Trước hết, sữa được làm nóng lên đến
nhiệt độ 63ºC và giữ ở nhiệt độ này trong 30 phút rồi hạ
nhiệt rất nhanh xuống còn 4ºC để tiêu diệt những vi khuẩn
sống sót. Đôi khi sữa cũng được nấu ở nhiệt độ cao hơn, từ
138ºC tới 150ºC , nhưng ở nhiệt độ này, một số sinh tố bị
phân hủy và chất đạm bị chuyển hóa.
Cuối cùng là bổ sung các sinh tố,
khoáng chất và chất đạm trước khi đóng hộp. Các sinh tố được
tăng cường là sinh tố A, D và khoáng calci. Sinh tố A hòa
tan trong chất béo nên thường mất một phần khi chất béo được
loại bỏ. Tăng cường sinh tố D trong sữa giúp chống bệnh còi
xương trẻ em (rickets) do thiếu sinh tố này.
Nói chung, việc sản xuất sữa phải luôn
luôn tuân theo các tiêu chuẩn vệ sinh và an toàn thực phẩm
do các giới chức có thẩm quyền quy định, để đảm bảo không
gây ra bất cứ tác hại nào cho người tiêu dùng.
Cất giữ sữa
Sữa là môi trường rất thuận lợi cho các
loại vi khuẩn sinh sản và phát triển. Hóa chất do vi khuẩn
tạo ra làm thay đổi mùi vị của sữa. Cho nên, việc cất giữ
sữa là rất quan trọng để bảo đảm sữa được an toàn và bổ
dưỡng.
Sau đây là mấy điều cần lưu ý trong
việc sử dụng sữa:
a-
Khi mua, nên để ý ngày sản xuất và hạn sử dụng ghi trên sản
phẩm. Đây là những thông tin mà nhà sản xuất bắt buộc phải
ghi rõ, để người tiêu dùng biết được khoảng thời gian mà sữa
đó có thể sử dụng một cah an toàn.
b-
Sữa tiệt trùng trong quá trình chế biến vẫn có thể bị nhiễm
vi khuẩn nếu không cất trong tủ lạnh ở nhiệt độ 4ºC ngay sau
khi mua về. Nên để sữa ở phía trong tủ lạnh hơn là ở ngăn
cửa tủ lạnh.
c-
Ánh sáng mặt trời, ánh đèn ...khi chiếu vào sữa chỉ trong
vòng vài giờ có thể làm mất đi tới 70% sinh tố B2
(riboflavin) và một số sinh tố A. Vì thế, nên giữ sữa trong
bình mờ đục, trong hộp giấy cứng thì tốt hơn là bình nhựa
hoặc bình thủy tinh trong suốt.
đ-
Khi để trong tủ lạnh, nên đựng sữa trong bình kín để khỏi bị
lẫn mùi thực phẩm khác. Không đổ sữa dùng còn dư trở lại
bình sữa.
e-
Sữa tươi uống lạnh là tốt nhất, nhưng vào mùa lạnh mà uống
sữa ấm nóng cũng tốt. Sữa nóng nên uống ngay, nếu để lâu thì
calci và chất đạm trong sữa đóng màng trên mặt. Nếu vô tình
gạt bỏ màng này là bỏ đi phần lớn chất dinh dưỡng của sữa.
g-
Sữa bột còn nguyên trong hộp chưa mở nếu cất giữ ở nơi khô
và mát trong tủ thực phẩm thì còn an toàn tới vài ba tháng.
Khi đã mở ra thì cần được đậy thật kín, tránh hơi ẩm xâm
nhập để vi khuẩn không tăng trưởng và để giữ nguyên mùi vị
của sữa.
h- Nhiệt độ đông lạnh thay đổi
mùi vị và cấu trúc của sữa bằng cách làm các phần tử đạm tan
rữa mà khi rã đá, đạm lại dính với nhau. Sữa sẽ không còn
nhuyễn mịn, chất béo bị oxy hóa và sữa có mùi dầu. Tuy giá
trị dinh dưỡng của sữa có bị ảnh hưởng đôi chút nhưng sữa
vẫn an toàn.
i-
Sữa đặc có đường đã được đun nóng để giảm bớt hơi nước nên
cũng mất đi một số sinh tố C, B. Hộp sữa chưa khui cần được
cất giữ nơi khô, mát, không có ánh sáng. Nếu đã khui ra mà
không dùng hết thì đổ vào bình chứa, đậy kín và cất trong tủ
lạnh.
k-
Khi nấu với thực phẩm khác, nên đun nhỏ lửa để tránh sữa
chuyển mầu nâu vì đường lactose bị phân hóa.
Vài hàng về sữa dê.
Sữa dê cũng là thực phẩm rất tốt nhưng
chỉ một số người cần kiêng khem hoặc có dị ứng với sữa bò
mới dùng.
Sữa dê cũng có các dạng chế biến khác
nhau như sữa tươi, sữa chua, pho mát, đóng hộp.
Sữa dê có vị hăng cay mà sữa bò không
có nhưng có cùng chất dinh dưỡng và chất béo lại dễ tiêu
hơn. Sữa dê thường không được tăng thêm các sinh tố A, D như
sữa bò nên người dùng sữa dê cần dùng thêm các sinh tố này.
Một vài công dụng
khác của Sữa:
a-
Tráng trứng gà: Cứ hai quả trứng cho thêm một thìa cà phê
sữa, khuấy đều rồi cho vào chảo rán. Trứng sẽ cuốn mềm mại
và ngon ngọt hơn.
b-
Làm bánh. Cho một chút sữa vào bột, bánh sẽ có mầu vàng óng
ánh.
c-
Hầm cá. Đun sôi nước có gia vị, bỏ cá vào, thêm một thìa
sữa. Món ăn hết mùi tanh của cá mà cá lại mềm ngon hơn.
đ-
Luộc bắp cải hoặc khoai tây: Cho thêm một thìa sữa vào nồi,
rau sẽ trắng hơn và ngon hơn.
Kết luận
Sữa là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng
phong phú và thích hợp cho mọi lứa tuổi để có một sức khỏe
tốt.
Cho nên, uống hai ly sữa mỗi ngày là
điều nên làm!
Bác sĩ Nguyễn
Ý Ðức Texas-Hoa Kỳ
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 22/May/2013 lúc 2:56am