![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Sức Khỏe - Y Tế | |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 189 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | ||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23672 |
![]() ![]() ![]() |
||
12 BÍ QUYẾT LOẠI BỎ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG ĐƠN GIẢN Ảnh: Prevention.
Dưới đây là 12 bí quyết loại bỏ bệnh tiểu đường đơn giản được đăng trên tạp chí Prevention. 1 - Có bạn đờiTình yêu và gia đình không chỉ là nơi muốn đến, chốn mong về mà còn giúp mang lại nhiều sức khỏe cho bạn, như tránh xa bệnh tiểu đường. Một nghiên cứu xuất bản trên tạp chí Diabetes Care cho thấy, phụ nữ sống độc thân có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường cao gấp 2,5 lần so với những phụ nữ có tình yêu hoặc gia đình. Ngoài ra, theo nghiên cứu của tổ chức Annal of Behavioral Medicine thì những người có hôn nhân hạnh phúc có nồng độ đường huyết khỏe mạnh hơn rất nhiều so với những người độc thân hay những gia đình không hạnh phúc. Điều này có ý nghĩa rất lớn vì nó giúp ngăn chặn bệnh tiểu đường và các bệnh liên quan khác. Khảo sát cũng phát hiện những người độc thân có mối quan hệ xã hội rộng thì nồng độ đường huyết khỏe mạnh hơn so với những người ít quan hệ. 2- Giảm cânNghiên cứu của Hiệp hội tiểu đường Mỹ cho biết, ngay cả những người béo phì cũng giảm được 70% nguy cơ phát bệnh tiểu đường nếu họ giảm được 5% trọng lượng cơ thể, kể cả khi không tập thể dục thể thao. Ví dụ nếu bạn nặng 80 kg, thì bạn chỉ cần giảm 4 kg cũng có tác dụng. Nhưng lời khuyên tốt nhất vẫn là nên đưa cân nặng về mức trung bình. Để giảm cân hiệu quả, bạn cần tăng cường tập luyện nhằm đốt cháy lượng mỡ thừa, có lối sống lành mạnh, tăng cường ăn rau, củ, quả và hạn chế những thực phẩm nhiều mỡ. 3 - Ăn giấmMột nghiên cứu của Đại học bang Arizona, Mỹ cho biết, những người bị tiểu đường tuýp 2 hoặc những người nguy cơ cao sẽ có nồng độ đường huyết thấp hơn nếu họ ăn khoảng 2 thìa giấm ngay trước bữa ăn giàu carbonhydrate (tinh bột). “Giấm có chứa axit axetic nên có thể khử hoạt tính một số enzyme tiêu hóa tinh bột, làm chậm quá trình tiêu hóa carbonhydrate”, tiến sỹ Carol Johnson, người dẫn đầu nghiên cứu cho biết. Thực sự, giấm có tác dụng như thuốc hạ đường huyết Precose đang bán trên thị trường. Nếu như bạn khó ăn giấm thì có thể trộn giấm với salad hoặc cho vào các món ăn. Chúng đều có tác dụng kiềm chế bệnh tiểu đường hiệu quả. 4 - Đi bộ nhiều nhất có thểHãy đi bộ thật nhiều mỗi
ngày. Bạn sẽ khỏe mạnh hơn ngay cả khi bạn không giảm được cân nào. Đó
là kết luận của các nhà khoa học Phần Lan. Họ đã nghiên cứu ở những
người luyện tập khoảng 4 tiếng mỗi tuần, tức 35 phút mỗi ngày, kết quả
là giảm được 80% nguy cơ tiểu đường. Họ cũng phát hiện thấy, những phụ
nữ làm việc tới mức đổ mồ hôi nhiều hơn một lần/tuần thì giảm được nguy
cơ mắc bệnh tiểu đường 30%. 5 - Ăn nhiều ngũ cốcĂn nhiều ngũ cốc không chỉ
giúp bạn có thân hình đẹp mà còn làm giảm nguy cơ ung thư vú, tiểu đường
tuýp 2, huyết áp cao và đột quỵ. Gạo lứt có tác dụng giảm nguy cơ tiểu
đường tuýp 2, nhưng ngũ cốc nguyên hạt (chưa xay bỏ vỏ) như kê, đậu,
ngô, lúa mì còn tốt hơn. Các chuyên gia Đại học Harvard (Mỹ) đã theo dõi trên 39 nghìn nam giới và 157 nghìn nữ giới khỏe mạnh. Kết quả cho thấy những người ăn gạo lứt 2 lần trở lên mỗi tuần giảm 11% nguy cơ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2, so với những người ăn chưa tới một lần mỗi tháng. Việc ăn thay thế 50g gạo trắng bằng cùng lượng gạo lứt mỗi ngày giảm được 16% nguy cơ mắc bệnh. Còn thay thế 50g gạo trắng bằng cùng lượng ngũ cốc nguyên hạt mỗi ngày giảm tới 36%. 6 - Cà phêNếu bạn là người có nguy cơ
mắc bệnh tiểu đường thì bạn nên là người nghiện cà phê. Khi nghiên cứu
trên 126 nghìn phụ nữ và đàn ông, các nhà nghiên cứu ở Trường y tế cộng
đồng Harvard phát hiện, những người nghiện cà phê, tức uống trung bình
khoảng 6 ly mỗi ngày, có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 thấp hơn
từ 29 đến 54% so với những người ít khi uống. Uống từ 4-5 ly cà phê
giảm được 29% nguy cơ, uống 1-3 ly mỗi ngày thì tác dụng giảm đi một
chút. Theo các nhà khoa học, chính thành phần caffeine trong cà phê đã mang lại tác dụng này. Nó đã giúp tăng cường trao đổi chất trong cơ thể sau khi uống. Hơn nữa, cà phê cũng giàu kali, magie, chất chống oxi hóa nên giúp tế bào hấp thụ đường tốt. 7 - Hạn chế đồ ăn nhanhCác nhà nghiên cứu ở Trường
đại học Minnesota, Mỹ sau khi nghiên cứu trên 3.000 người có độ tuổi
18-30, trong vòng 15 năm đã phát hiện thấy, những người ăn nhiều đồ ăn
nhanh dễ mắc bệnh tiểu đường. Khi bắt đầu nghiên cứu,
những người tham gia này có trọng lượng cơ thể bình thường, nhưng sau
khi ăn mỗi tuần 2 lần ăn đồ ăn nhanh thì cơ thể của họ đã nặng hơn 4,5
kg và tỷ lệ kháng insulin cao gấp đôi so với những người ăn ít hơn một
lần/tuần. Cần nhắc lại rằng, thừa cân và kháng insulin là hai thủ phạm
chính dẫn tới tiểu đường tuýp 2. Nghiên cứu cũng phát hiện thấy, nhiều món fast-food (chà bông, xúc xích, lạp xường, gà rán, khoai tây chiên, bánh humberger...) có chứa nhiều carbohydrates tinh chế và chất béo không tốt cho sức khỏe, điều này có thể làm tăng nguy cơ tiểu đường ngay cả khi cân nặng của bạn ổn định. Lời khuyên của các chuyên gia là hãy hạn chế đồ ăn nhanh tới mức tối đa và nên tự nấu ăn với khẩu phần ăn hợp lý. 8 - Tăng cường ăn rau hạn chế thịt đỏPhụ nữ ăn thịt đỏ (như thịt bò, thị cừu...) 5 lần mỗi tuần có nguy cơ bị tiểu đường tuýp 2 cao hơn 29% so với những người ăn ít hơn mỗi tuần một lần, đó là kết luận của các nhà nghiên cứu ở Bệnh viện phụ sản Brigham, Anh sau khi nghiên cứu ở 37.000 phụ nữ. Nghiên cứu cũng cho biết, ăn thịt đã chế biến sẵn như thịt muối xông khói, xúc xích ít nhất 5 lần mỗi tuần thì nguy cơ tiểu đường tăng 43% so với những người ăn ít hơn mỗi tuần một lần. Thủ phạm gây ra nguy cơ này? Các nhà khoa học nghi đó là cholesterol trong thịt đỏ và những chất phụ gia trong thịt chế biến sẵn. 9 - Thêm gia vị quế vào món ănCác nhà nghiên cứu Đức nghiên cứu ở 65 người trưởng thành mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 và cho họ ăn thực phẩm có chứa 1g bột quế hoặc chất vô hại(placebo) 3 lần mỗi ngày và kéo dài trong vòng 4 tháng. Kết quả là người ăn quế giảm được lượng đường trong máu khoảng 10% trong khi đó chất vô hại chỉ giảm được 4%. Hợp chất trong quế kích thích hoạt động của các enzyme để kích hoạt cơ quan thụ cảm insulin. Ngoài ra, loại gia vị này còn giúp hạ thấp cholesterol, và triglycerides, một loại mỡ máu có thể góp phần tăng nguy cơ tiểu đường. 10 - Thư giãn tâm hồnKhi bạn căng thẳng, cơ thể
của bạn có những hành động rất xuất sắc, đó là điều lý giải tại sao
nhiều khi áp lực lại tạo ra đột phá cho cấp dưới. Nhưng thường xuyên
căng thẳng sẽ gây ra nhiều vấn đề. Lý do là căng thẳng làm cho tim đập
nhanh hơn, hơi thở gấp gáp hơn và dạ dày co thắt lại. Nó cũng khiến
nồng độ đường huyết tăng mạnh. “Dưới áp lực căng thẳng, cơ thể bạn sẽ rơi vào tình trạng 'chống hoặc bỏ chạy' hay còn gọi là phản ứng stress cấp tính. Từ đó làm tăng nồng độ đường huyết để chuẩn bị cho hành động”, tiến sĩ Richard Suwit, tác giả cuốn sách The Mind-Body Diabetes Revolution và là Trưởng khoa Tâm lý Y học ở Đại học Duke (Mỹ) cho biết. Nếu tế bào của bạn kháng insulin, đường sẽ hiện diện nhiều ở trong máu vì không còn nơi nào để tích trữ, kết quả là dẫn đến đường huyết liên tục cao. Nhưng tin vui là, chỉ cần thư giãn hoặc biết cách kiếm soát căng thẳng, bạn sẽ kiểm soát được đường huyết. Giải pháp là bạn có thể nghe nhạc, xem phim hài, ca hát, nấu ăn cho con cái... 11 - Có giấc ngủ ngonCác nhà nghiên cứu phát hiện thấy, thiếu ngủ có thể dẫn đến mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 do nó làm ảnh hưởng đến cách cơ thể xử lý glucose - thành phần tế bào sử dụng để làm “nhiên liệu”. Báo cáo của Trung tâm nghiên cứu giấc ngủ thuộc Đại học y Harvard cho thấy, nhóm người khỏe mạnh khi giảm giấc ngủ từ 8 tiếng xuống còn 4 tiếng mỗi tối, quá trình xử lý glucose của cơ thể sẽ chậm lại. Một nghiên cứu khác thì nói rằng, những người ngủ ít hơn 5 tiếng mỗi đêm có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường cao hơn đáng kể so với những người ngủ 7 tiếng mỗi đêm. 12 - Kiểm tra máuMột cuộc kiểm tra máu đơn giản cũng có thể cho biết bạn có nguy cơ mắc bệnh này hay không. Những người trước khi mắc tiểu đường thường có nồng độ đường huyết hơi cao một chút, nằm trong khoảng 100-125mg/dl, và thường phát triển bệnh trong khoảng 10 năm. Biết được nguy cơ bạn sẽ điều chỉnh chế độ ăn uống đồng thời thay đổi lối sống và chăm luyện tập sẽ giúp bạn loại bỏ được bệnh. Mọi người từ 45 tuổi trở lên cần đi thử máu. Những người trẻ hơn có nguy cơ mắc bệnh khi thừa cân, tiền sử gia đình cũng như khi cholesterol cao và huyết áp cao. Bạn cần đến gặp bác sĩ. Nếu kết quả bình thường, nên kiểm tra lại trong vòng 3 năm, nếu bạn bị tiền tiểu đường, đường huyết nên được kiểm tra lại trong vòng 1-2 năm.
|
|||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||
![]() |
|||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23672 |
![]() ![]() ![]() |
||
7 bước để phòng tránh bệnh tim
Chắc hẳn ai cũng biết rằng bệnh tim là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu đối với nữ giới. Đó lý lý do vì sao tất cả chúng ta cần phải hành động ngay từ bây giờ với 7 bước đơn giản dưới đây để phòng tránh căn bệnh chết người này. 1. Bỏ thuốc lá Một điều hiển nhiên không cần bàn cãi là hút thuốc rất có hại cho sức khỏe. Hơn thế nữa, theo thông tin từ Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ, hút thuốc chính là một trong các tác nhân lớn nhất gây ra bệnh tim mạch đối với phụ nữ. Chính vì thế, nếu bạn có thói quen này, bước đầu tiên phải làm để phòng tránh bệnh tim mạch chính là bỏ thuốc lá. 2. Tập thể dục Chỉ cần 30 phút tập thể dục mỗi ngày cũng có thể mang lại những tác động vô cùng to lớn đối với sức khỏe của chúng ta và giảm thiểu các nguy cơ gây bệnh tim mạch. Hãy bắt đầu bằng môn thể dục đơn giản nhất – đó là đi bộ nhẹ nhàng mỗi ngày, sau đó dần dần tăng thời lượng và tốc độ lên mức cao hơn. 3. Thực phẩm Lựa chọn thực phẩm hợp lý cũng là một cách để phòng ngừa bệnh tim mạch. Nếu bạn muốn có một trái tim khỏe mạnh, giảm nồng độ by Text-Enhance">cholesterol và huyết áp thì hãy điều chỉnh chế độ ăn uống bằng cách bổ sung nhiều trái cây, rau, ngũ cốc, thịt nạc, sữa, các loại hạt và các chất béo có lợi. Hãy tránh xa các chất béo bão hòa và đồ ăn nhanh. Những thứ này có thể ngon miệng nhưng thực ra đang dần hủy hoại trái tim của chúng ta. 4. Căng thẳng Bạn có biết căng thẳng cũng chính là một nguyên nhân gây ra bệnh tim mạch? Chính vì thế, hãy cố gắng tối đa để giảm bớt các căng thẳng của cuộc sống – ví dụ như tập thể dục hoặc ngồi thiền. 5. Rượu bia Một chén rượu có thể cải thiện sức khỏe tim mạch, nhưng quá nhiều rượu thì sẽ gây ra tác động ngược lại. Nếu bạn là một người nghiện rượu nặng thì thực sự là bạn đang hủy hoại trái tim của chính mình. Chính vì thế, hãy hạn chế lượng cồn bạn đưa vào người mỗi ngày để có một trái tim khỏe mạnh. 6. by Text-Enhance">Cholesterol Bạn có biết nồng độ cholesterol của mình là bao nhiêu không? Nếu bạn không biết thì rõ ràng là bạn không hiểu được tình trạng sức khỏe tim mạch của mình như thế nào. Hãy thường xuyên kiểm tra nồng độ cholesterol; và khi biết mình đang ở mức nào, bạn có thể thực hiện các biện pháp cần thiết để cải thiện nồng độ này. Ngoài ra, những biện pháp phòng tránh bệnh tim mạch vừa nói ở trên cũng có tác dụng làm giảm nồng độ cholesterol. 7. Huyết áp Nếu bạn bị huyết áp cao thì điều đó đồng nghĩa với việc bạn có nguy cơ cao bị đột quỵ. Để tránh tình trạng huyết áp cao, bạn cần hạn chế natri trong thực đơn hàng ngày. Và cũng giống như việc giảm cholesterol, những biện pháp Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 04/Jun/2013 lúc 9:51pm |
|||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||
![]() |
|||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23672 |
![]() ![]() ![]() |
||
10 công dụng giảm cân của nước Uống nước làm bạn quên cơn đói Nước giúp giảm cholesterol Nước làm săn chắc cơ bắp Nước cần thiết cho sự tiêu hóa Nước giúp gan hoạt động tốt Nước làm dịu các vấn đề về đường tiêu hóa Một lượng nước vừa đủ giúp cơ thể không bị ứ nước Nước giúp bạn không nhầm lẫn giữa cơn đói và cơn khát Nước giữ ẩm làn da và giúp da luôn sáng ngời, mềm mại Điều quan trọng khi giảm cân là bạn vẫn phải duy trì được sức khỏe tốt. Và cách đơn giản và hiệu quả nhất là uống nhiều nước. Nước sẽ giúp gột rửa các độc tố ra khỏi cơ thể, giúp cơ thể bạn sạch hơn và khỏe mạnh hơn. Đây là điều kiện tối quan trọng để cơ thể có thể lấy lại sự cân bằng và giữ phom lâu dài. Các chuyên gia khuyến cáo uống 2,2 lít nước mỗi ngày đối với những phụ nữ ít vận động. Như vậy, bạn nên uống khoảng 9 cốc nước mỗi ngày để có cơ thể săn chắc, thon gọn. st. Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 22/Jun/2013 lúc 2:11am |
|||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||
![]() |
|||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||
ĐỂ CÓ SỨC KHỎE TỐT Có người đã nói: “Sống một cách khỏe mạnh không phải là một nghệ thuật ta phải học, mà đó là một khuynh hướng bẩm sinh ta phải trở về với nó”. Á Đông ta quan niệm “nhân chi sơ, tính bản thiện”. Khởi thủy, mọi sự đều tốt đẹp. Sau khi sanh, mẹ tròn, con vuông. Con lớn lên theo nhịp điều hòa của tạo hóa. Nếu không có những ngoại cảnh ngang trái, những vi phạm luật thiên nhiên, thì con người cứ thuận buồm xuôi gió cho tới khi đi vào miền vĩnh cửu với sự chết. Nhưng, vì những ngoại cảnh không tốt, những phung phí, vô độ, con người không còn cái lành mạnh bẩm sinh. Người ta đau yếu, bệnh hoạn. Người ta không vui với cuộc đời và người ta vội vàng đi tìm kiếm con đường trở lại cái an bình ban đầu: những bài học Vệ Sinh Thường Thức, những quy luật sống, những kiêng khem, vận động....Ðể có một Sức Khỏe Tốt. Ta vẫn thường nghĩ rằng, không khuyết tật, không cao huyết áp, tiểu dường, cholesterol, không ung thư, loét bao tử...là khỏe mạnh. Nhưng thực ra như vậy chưa đủ. Sức khỏe đã được khoa học quan niệm một cách rộng rãi hơn. Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới, Khỏe mạnh bao gồm sự gắn bó của ba khía cạnh: thể chất vẹn toàn, tâm thần ổn định và gia đình xã hội hài hòa. Một cơ thể không có bệnh tật nhưng phần hồn thì luôn luôn tiêu cực bi quan thì liệu có khỏe mạnh được không. Ấy là chưa kể nếu gia đạo bất an, bằng mặt không bằng lòng với lân bang, chòm xóm. Làm sao mà ăn ngon ngủ yên, làm sao mà chẳng thường trực “vui là vui gượng kẻo mà”.. Tổ chức The American Health Foundation, một tổ chức y tế lớn ở Hoa Kỳ, đã nêu ra mười điều mà họ gọi là The Ten Golden Rules for Good Health. Chúng tôi xin cùng quý vị khai triển, áp dụng những lời nhắn nhủ này, như là một quyết tâm đầu năm Dương Lịch 2006 và Âm Lịch Bính Tuất.
1- Cần có sự khám sức khỏe tổng quát theo định kỳ. Rất cần thiết nhưng nhiều khi chúng ta cũng hay quên. Chiếc xe hơi, làm bằng kim loại bền chắc, hàng năm đều được chính quyền nhắc nhở mang đi kiểm soát để có thể lưu hành trên trục lộ, cũng như lâu lâu phải tự động mang tới bác thợ máy để chỉnh trang tune up. Cơ thể con người bằng xương bằng thịt chắc là cũng cần sự định kỳ chăm sóc như vậy. a- Mục đích là để tìm ra những bệnh có thể chữa được mà triệu chứng chưa lộ diện và điều chỉnh những yếu tố nguy hiểm có thể gây ra bệnh. Đồng thời cũng để bác sĩ hiểu rõ tình trạng sức khỏe chung của mình. b- Bao lâu khám tổng quát một lần. Tùy theo tuổi và điều kiện sức khỏe của mỗi người. Sau đây là đề nghị lịch trình cho những người không có triệu chứng bệnh: Từ 18-24 tuổi thì cứ mỗi 5 năm; sau 30 tuổi thì mỗi 3 năm; tuổi 40-60 thì cách năm khám một lần; ngoài 60 tuổi thì nên khám tổng quát hàng năm. Có nhiều ý kiến cho rằng khám hàng năm cho mọi người cũng tốt thôi. c- Cần sửa soạn gì trước khi đi khám. Ghi những điều gì mà mình muốn hỏi bác sĩ, những khó khăn triệu chứng bệnh trạng, thuốc men đang uống. Giả dụ là mình bị đau bụng thì ghi rõ đau bao lâu, lúc nào thì đau, đau kéo dài lâu mau, đau có di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, làm gì để bớt đau, có yếu tố nào làm đau tăng lên....Vì nhiều khi gặp thầy thuốc, quá xúc động lại quên đi vài điều. d- Bác sĩ sẽ làm gì. Bác sĩ sẽ hỏi tình trạng sức khỏe, bệnh cũ, bệnh mới, quá trình giải phẫu, tai nạn đã có, thói quen tốt xấu trong đời sống, bệnh tình của thân nhân trực hệ, thuốc đang uống, dị ứng với thuốc hoặc môi sinh... Sau đó là phần khám tổng quát toàn cơ thể. Sự khám này được thực hiện một cách hết sức chuyên môn, đầy nhân tính và tôn trọng người bệnh. Chiều cao, sức nặng, huyết áp, nhịp tim được ghi nhận. Cũng như Đông Y, bác sĩ sẽ áp dụng phương thức Vọng,Văn,Vấn, Thiết để chẩn bệnh. Nghe nhịp tim, phổi, nắn bụng, nhìn mắt, khám tai, cuống họng, miệng. Đây là một cuộc khám xét từ đầu tới chân, không sót một cơ quan, địa điểm nào. Ở nữ giới, còn khám ngực, tử cung; nam giới, khám nhiếp tuyến. Rồi sẽ có việc thử máu, nước tiểu, và nếu cần, chụp hình quang tuyến phổi. e- Phần thảo luận. Sau khi có đủ các dữ kiện về tình trạng sức khỏe của người bệnh, bác sĩ sẽ cho ta biết kết quả, rồi cho toa thuốc. Đây là lúc ta cần hỏi bác sĩ tất cả những thắc mắc về bệnh trạng của mình, kết quả thử nghiệm, có phải uống thuốc không, uống trong thời gian bao lâu, phản ứng thuốc, có cách chữa nào khác ngoài dược phẩm, bao giờ phải trở lại để tái khám. Người được coi như lương y tốt là người bỏ nhiều thì giờ cắt nghĩa tường tận cho bệnh nhân và trả lời những câu hỏi một cách vui vẻ, cởi mở. Cũng trong dịp khám tổng quát này, ta nên hỏi bác sĩ về chủng ngừa các bệnh xem có cập nhật không. Như là viêm gan A, B, phong đòn gánh, yết hầu, sưng phổi.Và nhớ chích ngừa Cúm mỗi cuối năm. Việc khám tổng quát chỉ giản dị có vậy nhưng mang lại cho ta rất nhiều lợi ích, nhất là tránh được những bệnh trầm kha. 2- Hãy đừng ghiền thuốc lá Tác dụng độc hại của thuốc lá thì ai cũng biết, ngay cả quý vị hiện đang liên tục “nhớ nhà châm điếu thuốc”. Vì hậu quả của cái món “khói vàng bay lên cây” này đã được chứng minh cụ thể. So với không hút thuốc, người ghiền thuốc lá có tỷ lệ tử vong vì ung thư phổi 22 lần nhiều hơn; gấp đôi bị tai biến não; 10 lần nhiều hơn bị nghẹt phổi mãn tính; và nhiều nguy cơ bị ung thư miệng, cuống họng, thanh quản, tụy tạng hơn. Chẳng thế mà trên mỗi bao thuốc lá đều có một lời nhắn nhủ, cảnh cáo: hút thuốc lá có thể gây ung thư phổi, có hại cho sức khỏe, gây bệnh tim mạch, ảnh hưởng tới thai nhi. Tại mọi quốc gia, ngân quỹ công tư đã tốn cả nhiều tỷ bạc để chữa những bệnh gây ra vì thuốc lá. Ðồng thời các công ty sản xuất thuốc lá đang bị kiện bồi thường cả vài trăm tỷ mỹ kim thiệt hại do thuốc lá gây ra cho nhân loại cũng như cho tài sản quốc gia. Nếu bỏ được thì ta nên cố, dù biết rằng khó khăn vì đây là một thói quen nó vương vấn, như ta thường nói: “Nhớ ai như nhớ thuốc lào, đã chôn điếu xuống, lại đào điếu lên”. Ghiền thuốc lá thì lại dễ tái diễn vì thuốc bán sẵn khắp nơi, trình bày hấp dẫn, quảng cáo mời chào ân cần. Trên thị trường có bán nhiều dược phẩm giúp ta cai thuốc lá. Hoặc giản dị là dùng diệu kế “thuốc xin thì hút, thuốc mua thì đừng” để giảm thiểu số lượng thuốc hút trong khi lập kế hoạch giã từ nicotine. 3- Uống rượu vừa phải thôi Tranh luận, nghiên cứu về ích lợi của rượu với sức khỏe đã diễn ra rất hào hứng, nhưng kết luận chính xác chưa được thống nhất. Sau một cuộc nghiên cứu kéo dài 12 năm trên nhiều triệu người, Hiệp Hội Ung Thư Hoa Kỳ, đưa ra một kết luận là uống rượu vừa phải dường như có tác dụng tốt vào bệnh tim mạch. Một số các nhà chuyên môn y học cũng cho là một người uống một, hai drinks mỗi ngày thì ít bị bệnh tim mạch hơn là người không uống. Một drink tương đương với 150 cc rượu vang, 50 cc rượu mạnh 80 độ, hay 360cc rượu bia. Nhưng theo nhiều nhà chuyên môn khác thì nếu chưa bao giờ uống, có lẽ cũng chẳng nên bắt đầu để hy vọng có điều tốt. Vì ta nên nhớ là rượu ít có giá trị dinh dưỡng, lại nhiều calories, nên được dự trữ trong cơ thể dưới dạng mỡ. Ðồng thời rượu cũng làm tiêu hao các sinh tố B, C, K và chất kẽm, pot***ium, magnesium là những chất rất cần trong cơ thể. Và uống nhiều rượu làm tăng các bệnh ung thư vú, trực tràng; dễ gây ra tai biến mạch máu não, xơ gan, ung thư thực quản cũng như là nguyên nhân của nhiều trường hợp tự tử, giết người, gia phong rối loạn. Nam vô tửu như kỳ vô phong. Nhưng gió mạnh thì cờ cũng rách bươm; mà rượu nhiều thì gan cũng xơ cứng, da vàng bụng trướng. 4- Hãy để ý tới sức nặng cơ thể Sức nặng cơ thể thay đổi tùy theo tuổi tác, cao thấp và cấu trúc bộ xương. Người trưởng thành cao 5f10 nên nặng từ 160-170 lbs là vừa. Để đáp ứng nhu cầu căn bản cho cơ thể làm việc, ta cần từ 1800 đến 2500 Calories cho 24 giờ. Ăn nhiều mà không vận động, năng lượng dư thừa chuyển thành dự trữ mỡ làm ta béo mập, gây nhiều bệnh cũng như làm giảm tuổi thọ. Muốn tính lượng calorie trong thức ăn cũng không khó: Từ năm 1990, đạo luật về nhãn hiệu dinh dưỡng đã được ban hành, mục đích giúp ta chọn thức ăn theo ý muốn. Trên nhãn hiệu, nhà sản xuất thực phẩm phải ghi rõ thành phần các chất dinh dưỡng, số lượng calorie cũng như những gia vị trong món ăn. Giản dị như các cụ ta thì cứ “Ăn ba phần đói, bẩy phần no” là tốt hơn cả. Vừa còn hơi thèm thuồng món ăn mà lại nhẹ bụng, đi lại dễ dàng. 5- Canh chừng lượng cholesterol trong máu Có ba thành phần cholesterol trong máu mà ta cần lưu ý. Tổng số cholesterol, HDL và LDL. Lý tưởng nhất là khi lượng cholesterol toàn phần ở dưới 200mg/dl. Từ 200 tới 239mg/dl, ta cần ăn kiêng khem chất béo. Trên 240mg thì cần phải uống thuốc cho hạ xuống. Cholesterol cao gây ra bệnh xơ cứng động mạch đưa đến bệnh tim mạch, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não. HDL trung bình là 45 mg/dl và càng cao càng tốt; LDL thuộc loại xấu, dưới 130 mg/dl thì được chứ cao trên 160 mg/dl cần được điều trị hạ thấp. Ta có thể tự đo cholesterol với các thuốc thử bán ở chợ tốn chừng 15-20 đồng. Nếu cholesterol cao thì ăn thịt không có mỡ, thịt gà bỏ da; dùng dầu thảo mộc; nướng hoặc hấp, đừng chiên; ăn nhiều cá, trái cây, rau, đậu. 6- Cần biết giá trị dinh dưỡng của thực phẩm Đa số thực phẩm bầy bán đều mang một nhãn hiệu ghi rõ giá trị dinh dưỡng. Từ một gói mỳ khô, một bình sữa, lon nước ngọt đều có. Chỉ cần dành ra vài phút đọc là ta có thể chọn lựa thức ăn thích hợp và tránh được nguy cơ mắc các bệnh về tim, cao huyết áp, béo mập, bệnh tiểu đường và vài loại ung thư. 7- Dành thì giờ cho có lúc nhàn rỗi và đi du lịch Cơ thể làm việc quần quật suốt 365 ngày thì cũng nên dành ít tuần đi đây đi đó, nghỉ xả hơi. Hàng năm, dân bản xứ tiêu gần hai trăm tỷ mỹ kim cho việc đi du lịch. Giải trí và du lịch là một trong những ưu tiên hàng đầu trong đời sống của họ. Đi coi biểu diễn thể thao, cắm trại, đi câu cá, đi săn bắn cho thư giãn tâm hồn sau những ngày cực nhọc với công kia việc nọ. Đi du lịch để cho biết đó biết đây cũng như để có một đời sống riêng tư, quên hết mọi việc ở thế gian trong một thời gian ngắn. Đấy cũng là một cách bảo trì bộ máy con người để sống và sinh hoạt hữu hiệu. 8- Thích nghi với những sức ép, căng thẳng trong đời sống hàng ngày Xã hội đầy dẫy những khó khăn, trở ngại, bực mình, những hỉ, nộ, ái, ố, lạc. Quan trọng là làm sao ta thích nghi được với chúng để mà sống. Sự thích nghi này tùy thuộc vào khả năng đối phó, đương đầu của mỗi cá nhân. Ta sẵn sàng giải quyết vấn đề, nếu không được thì rút lui, quên nó đi. Đấy là chiến thuật mà khoa học mệnh danh là “Fight or Flight response”. Á châu ta thì “Tẩu vi thượng sách” hoặc “chín bỏ làm mười”. 9- Sắp xếp một chương trình vận động cơ thể Có nhiều lý do để không vận động cơ thể: Tôi không có hứng thú tập.Tập làm tôi đói, tôi phải ăn nhiều hơn rồi tôi mập. Tập làm lông nheo mắt tôi hư, phấn son loang lổ. Chạy treadmill nhỡ dạ con của tôi nó tuột ra ngoài thì sao! Nhưng chỉ có một lý do để ta phải vận động: nếu ta muốn sống MẠNH, sống VUI. Cần phải có một chương trình tập luyện thích hợp với mình rồi dành thì giờ để thực hiện, coi sự tập như một thiết yếu hàng đầu, một người bạn đồng hành. 10- Biết tự lượng khả năng và giới hạn sức khỏe của mình Các cụ bảo: biết người, biết mình. Sức trói gà không chặt mà đòi tỷ thí võ đài với Mike Tyson thì chắc là bị knock out xuống tận đất đen. Ghép nối mạch máu tim hai ba lần mà đòi chạy marathon thì đi xe nhà đòn Tobia còn mau hơn. Thành ra, xin cứ liệu cơm gắp mắm. Kết luận Đấy là một số “quyết tâm thực hiện” tối thiểu để có một sức khỏe lành mạnh do một tổ chức y tế uy tín ở Hoa Kỳ đưa ra. Chúng tôi chắc nó có một giá trị hướng dẫn nào đó. Riêng với tiết mục thứ bảy thì người viết thích thú nhất. Có điều kiện để nhàn hạ và đi du lịch đều đều thì chúng tôi xin ký cả mười đầu ngón tay. Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức Texas-Hoa Kỳ Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 24/Jun/2013 lúc 1:39am |
|||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||
![]() |
|||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23672 |
![]() ![]() ![]() |
||
10 lợi ích của quả bơDưới đây là 10 lợi ích về sức khỏe mà quả bơ có thể mang lại cho bạn nếu dùng nó mỗi ngày. 1. Chống ung thư thận Các nhà nghiên cứu ở Mỹ đã chứng minh rằng, trong trái bơ có chứa một số chất giúp chống ung thư như trong một số trái cây rau quả khác. 2. Tăng khả năng chống ung thư miệng Một số hợp chất có trong trái bơ có thể phát hiện những tế bào có khả năng ung thư hoặc gây ung thư miệng và tiêu diệt chúng mà không gây hại đến những tế bào khỏe mạnh. 3. Chống ung thư vú Giống như dầu ô liu, bơ có chứa lượng axit oleic khá cao. Đây là loại axit giúp ngăn ngừa ung thư vú. 4. Tốt cho mắt Trong bơ có chứa lượng lutein carotene cao hơn bất cứ loại trái cây nào khác. Chất này giúp chống sự thoái hóa thành các vết đen, bệnh đục nhân mắt và một số bệnh về mắt liên quan đến tuổi thọ. 5. Giảm Cholesterol Bơ có chứa rất nhiều beta-sitosterol, là một hợp chất làm giảm tỉ lệ cholesterol. Một nghiên cứu tiến hành trên 45 người đã cho thấy ăn một quả mỗi ngày sẽ giúp giảm tỉ lệ chất béo xuống khoảng 17% chỉ trong vòng một tuần. 6. Giúp tim khỏe mạnh Một ly bơ có chứa 23% folate, chất đã được chứng minh có tác dụng giảm nguy cơ do bệnh tim gây ra so với những người không ăn. vitamin E và glutathione có trong bơ cũng rất tốt cho tim của bạn. 7. Chống đột quỵ Tỉ lệ folate cao trong bơ giúp giảm thiểu tối đa các cơn đột quỵ. 8. Hấp thụ chất dinh dưỡng tốt hơn Một nghiên cứu cho thấy những người ăn salad kèm với bơ sẽ hấp thụ lượng caroteroid (bao gồm lycopene và carotene) gấp 5 lần so với việc ăn salad không. 9. Glutathione Bơ chứa rất nhiều glutathione - chất chống ôxy hóa rất quan trọng trong quá trình ngăn chặn sự lão hóa, ung thư và bệnh tim. 10. Vitamin E Bơ là nguồn cung cấp vitamin E tốt nhất cho cơ thể. Vitamin này giúp ngăn ngừa bệnh tật và duy trì một cơ thể khỏe mạnh. Sự kỳ diệu của quả bơ Hầu hết người tiêu dùng ở Việt Nam chỉ biết sử dụng quả bơ cho việc làm sinh tố, chưa biết về giá trị dinh dưỡng tuyệt vời cũng như cách sử dụng rất phong phú của quả bơ. Trên thế giới, tại các nước như Mỹ, Mexico, Úc…Trái bơ được đánh giá cao và được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau như ăn quả tươi, chế biến nhiều món ăn ngon, tinh chiết dầu ăn và đặc biệt bơ được sử dụng rất nhiều trong mỹ phẩm cho việc chăm sóc sắc đẹp. Những công dụng nầy mang lại tiềm năng phát triễn lớn cho sản xuất và tiêu dùng Trái bơ của Việt Nam, nhất là hiện nay với sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế, Trái bơ Việt Nam còn rộng đường cho việc xuất khẩu, nhờ thời gian bảo quản đã được kéo dài đến 60 ngày. Giá trị dinh dưỡng Trái bơ có chứa hơn 14 loại vitamin và khoáng chất bao gồm canxi, sắt, đồng, magiê, phốtpho, kali, natri, kẽm mangan và selen. Trái bơ cũng rất giàu chất chống oxy hoá, có tác dụng ngăn ngừa hình thành các gốc tự do dẫn đến gây ung thư, đục thuỷ tinh thể, lão hóa da, giúp duy trì làn da săn chắc. Trái bơ còn là nguồn Folate rất quan trọng đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh nở và đặc biệt quan trọng đối với thai kỳ ở những tuần đầu tiên vì 75% trẻ sơ sinh bị nứt đốt sống là do thiếu folate từ trong bụng mẹ. Là một trong rất ít loại trái không có cholesterol, mà lại có chứa chất béo đơn không bảo hòa, đây là loại chất béo tốt cho cơ thể giúp làm giãm hàm lượng cholesterol. Trái bơ có chứa hàm lượng protein cao nhất so với các loại quả khác, cao gần như tương đương với sữa. Ngoài ra, Trái bơ còn có hàm lượng muối thấp, chất xơ cao, có hàm lượng lutein cao, có chất carotenoid tự nhiên giúp mắt sáng và duy trì một làn da đẹp. Giá trị với sắc đẹp Trái bơ được sử dụng vào việc chăm sóc sắc đẹp và sức khỏe nhờ giàu vitamin A, E, D cùng với các khoáng chất kali, phốtpho, lưu huỳnh và clo, trong đó: - Vitamin E có tác dụng bảo vệ các axit béo chống lại sự ôxy hóa, nhờ vậy làm chậm quá trình lão hóa của tế bào giúp làn da tươi trẻ và săn chắc. - Vitamin A có tác dụng lột bỏ lớp da chết, thúc đẩy việc sản xuất chất collagen. - Vitamin D giúp duy trì hàm lượng canxi trong máu nhờ đó xương và răng chắc khỏe. - Kali và phốtpho có tác dụng làm đẹp da, tóc và giúp phát triễn cơ thể. - Dầu trái bơ có rất nhiều giá trị trong việc tái tạo và giữ ẩm cho làn da. Dầu bơ bảo vệ làn da không bị khô và tăng khả năng đàn hồi của da. Nguồn dinh dưỡng cho trẻ em Trái bơ rất dễ chế biến làm thức ăn cho bé, với trẻ từ 6 tháng tuổi trở lên, thì chỉ cần nghiền nhỏ phần thịt của Trái bơ, còn trẻ em lớn hơn thì có thể cắt thành từng miếng cho bé cắn. Trái bơ rất có lợi cho sức khỏe của trẻ em, vì trong quả bơ có chứa protein, vitamin A, E, C cao. Protein là một thành phần dinh dưỡng quan trọng đối với sự phát triễn của trẻ em và đặc biệt là trẻ sơ sinh. Ngoài ra các chống ôxy hoá tác dụng bảo vệ các tế bào não, còn vitamin B tổng hợp trong Trái bơ có tác dụng tăng cường trí nhớ. Vì thế quả bơ là một nguồn dinh dưỡng hoàn hảo cho sự phát triễn trí não của trẻ em. Giá trị với môi trường Trồng bơ mang lại nhiều lợi ích cho môi trường: - Cây bơ không chỉ có tác dụng làm bóng mát mà còn giúp làm giãm nhiệt độ không khí do việc thoát hơi nước từ lá. - Cây bơ còn là nguồn cung cấp ôxy đáng kể và giúp cho không khí có sự trong lành tươi mát. Vì theo các nghiên cứu cho thấy cứ 1 cây bơ sản xuất gần 118kg ôxy mỗi năm và cứ 1 ha vườn bơ trong 1 năm có thể giúp loại thải được 6,4 tấn CO2. Vườn Bơ còn có thể làm giãm dòng chảy và lọc nước mưa nhờ đó làm giãm nguy cơ lũ lụt, nâng cao khối lượng và chất lượng nước. Rễ cây Bơ còn giúp chống lại sự xói mòn của đất. Quả bơ rất tốt cho sức khỏe Ngoài ra, trái bơ còn là một loại thực phẩm có thể chữa trị những biểu hiện của bệnh tim có liên quan đến mức cholesterol. Một thời gian dài trước đây, nhiều người đã được khuyến cáo là không nên ăn bơ vì nó giàu chất béo và chứa nhiều calorie. Trong khi, theo các chuyên gia dinh dưỡng, lượng chất béo cao chứa trong trái bơ là chất béo không bão hòa dạng đơn thể (monounsaturated fat) rất có ích trong việc cải thiện sức khỏe. Cụ thể, khi dùng bơ thường xuyên sẽ mang lại cho bạn những lợi ích sau: Lợi ích về mặt dinh dưỡng Các loại axít béo không bão hòa dạng đơn thể trong quả bơ giúp kiểm soát quá trình trao đổi chất trong cơ thể. Ngoài những loại axít béo có ích, trái bơ còn chứa hàm lượng kali cao. Bên cạnh đó, nó chứa các loại vi dưỡng chất quan trọng khác như sắt, đồng, magiê và phốt pho. Trái bơ còn có nhiều loại vitamine như vitamine A, nhóm vitamine B, axít folic, vitamine C, vitamine E và can-xi. Trái bơ còn là nguồn giàu chất xơ, ít chất đường và tinh bột, là loại thực phẩm lý tưởng cho các bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường. Lợi ích về sức khỏe - Giúp điều chỉnh huyết áp: Với hàm lượng cao axít folic và kali có trong trái bơ sẽ giúp điều chỉnh huyết áp và chống đột quỵ, cũng như ngăn ngừa những vấn đề về tim và các bệnh liên quan đến hệ tuần hoàn. - Giảm cholesterol gây hại: Thành phần axít oleic và linoleic chứa trong trái bơ có tác dụng làm giảm mức cholesterol xấu (LDL) và gia tăng lượng cholesterol có ích cho cơ thể. - Trị loét bao tử: Bơ giúp làm dịu phần bề ngoài nhạy cảm, niêm mạc của bao tử và tá tràng, do vậy sẽ có tác dụng điều trị hiệu quả các vết loét. - Tăng cường hệ miễn dịch: Việc dùng bơ thường xuyên có tác dụng duy trì tình trạng khỏe khoắn và tăng cường hệ miễn dịch. - Cải thiện khả năng thị giác: Các chất antioxidants chứa trong trái bơ giúp trung hòa các gốc tự do, cải thiện thị giác và phòng tránh các bệnh về mắt, như bệnh loạn thị, bệnh tăng nhãn áp và bệnh đục thủy tinh thể. - Giúp hơi thở thơm tho: Các thành phần trong trái bơ có tác dụng tẩy trừ các chất cặn bã đã bị phân hủy trong đường ruột. - Ngăn ngừa sạn thận: Chất kali chứa nhiều trong trái bơ giúp làm giảm lượng can-xi bài tiết qua đường nước tiểu, nhờ thế sẽ làm giảm nguy cơ mắc bệnh sạn thận. - Giúp thai nhi phát triển: Thành phần axít folic trong trái bơ đóng vai trò có ích và quan trọng cho quá trình phát triển các mô mạnh khỏe của bào thai. - Ngăn ngừa tình trạng nôn ói ở thai phụ: Vitamine B6 có trong trái bơ có thể giúp làm dịu cảm giác buồn nôn và khó chịu ở bao tử của chị em trong suốt thời gian thai nghén. - Phòng tránh ung thư tuyến tiền liệt: Chất phytonutrient có trong trái bơ có tác dụng ngăn ngừa quá trình phát triển của các tế bào ung thư ở tuyến tiền liệt. - Tăng cường độ khỏe khoắn của hệ thần kinh và cơ bắp: Lượng kali chứa trong trái bơ giúp cân bằng các chất điện phân, giúp các cơ bắp hoạt động hiệu quả, đồng thời còn giúp tăng cường năng lượng cho hệ thần kinh và quá trình trao đổi chất trong cơ thể. - Ngăn ngừa bệnh vẩy nến: Theo các chuyên gia, chất dầu có trong trái bơ rất có ích trong việc điều trị các chứng bệnh về da như bệnh vẩy nến và chứng khô da. st. Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 25/Jun/2013 lúc 9:50am |
|||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||
![]() |
|||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23672 |
![]() ![]() ![]() |
||
Nên uống hai ly sữa mỗi ngày ![]()
Trong phần ăn của mọi người, các nhà dinh dưỡng và y học đều khuyên nên bao gồm sữa, vì đây là thực phẩm có nhiều tác dụng tốt cho cơ thể. Sữa là một chất lỏng mầu trắng đục chẩy ra từ tuyến vú của phụ nữ hoặc một số động vật giống cái để nuôi con. Về ẩm thực, khi nói đến sữa thường là nói tới “sữa bò” vì loại sữa này rất thông dụng và chiếm hầu hết thị trường sữa. Ngoài ra còn sữa trâu nước, sữa cừu, sữa lừa, sữa dê... Sữa được dùng theo nhiều cách và có thể phối hợp với các thực phẩm khác.Ta có thể nấu thịt, rau, đậu với sữa; làm nước xốt khi nấu chung với thịt, trứng, rau hoặc dùng như món điểm tâm mỗi buổi sáng với ngũ cốc chế biến khô (cereals). Bài dưới đây trình bầy một số kiến thức thông thường về sữa bò. Sữa bò là nguồn dinh dưỡng rất quan trọng cho con người nên bò cái đã được mệnh danh là “Mẹ Nuôi của Loài Người” (The Foster Mother of Human Race). Suốt thời gian dài gần 300 ngày sau khi sanh con, bò liên tục tiết ra nguồn sữa bổ dưỡng, nhưng không phải chỉ để nuôi con mà phần lớn lại đi vào dạ dầy con người. Các loại sữa bò Trên thị trường, có nhiều dạng sữa bò khác nhau mà ta có thể lựa chọn tùy theo nhu cầu. 1- Sữa tươi lỏng. Có nhiều loại sữa khác nhau nhưng theo tiêu chuẩn chung thì mỗi lít sữa đều có 36g chất đạm, 600mcg sinh tố A, 10mcg sinh tố D. Khác biệt nhau ở các loại sữa là ở số lượng chất béo. a- Sữa nguyên dạng không pha chế, đã được khử trùng, có khoảng 3.25% chất béo. b- Sữa ít béo là dạng sữa đã được loại bỏ bớt một phần chất béo, nhưng vẫn còn khoảng từ 0.5% đến 2% chất béo. c- Sữa không béo chỉ còn dưới 0.5% chất béo. đ- Sữa không đường. Lactose là loại đường có tự nhiên trong sữa và cần chất xúc tác lactase để được tiêu hóa. Nhiều người, đặc biệt là dân Á Đông, không có chất lactase, nên khi uống sữa thường bị tiêu chẩy, đầy hơi, đau bụng. Đó là tình trạng “không dung nạp” (intolerence) với sữa, thường xuất hiện vào tuổi lên năm. Muốn tránh tình trạng này, người ta thêm men lactase vào sữa để phân hóa lactose. Sữa mà 99% lactose được phân hóa gọi là “sữa không đường” ( by Text-Enhance">lactose free); phân hóa hết 70% thì gọi là “sữa giảm đường” (lactose reduced). e- Sữa thô (raw milk). Đây là dạng sữa tự nhiên vừa được vắt từ bò cái, không qua bất kỳ sự chế biến, nào kể cá việc tiệt trùng. Nhiều người cho rằng loại sữa nguyên chất tự nhiên này có nhiều chất dinh dưỡng. Tuy nhiên, thực tế là các điều kiện vắt sữa, cất giữ và chuyên trở không bảo đảm vô trùng nên sữa có nguy cơ gây bệnh nhiễm cho người tiêu thụ. Do đó sữa thô có thể không tốt cho sức khỏe nhất là đối với người cao tuổi, trẻ em và những người suy yếu tính miễn dịch. g- Sữa hữu cơ (Organic milk) . Sữa từ bò được nuôi bằng thực phẩm tự nhiên không dùng đến thuốc trừ sậu, phân bón hóa học, thuốc kháng sinh và thuốc tăng trưởng. Sữa này đắt hơn sữa thường rất nhiều. 2- Sữa bột Sữa bột không chất béo rẻ hơn sữa dạng lỏng, có cùng số lượng dinh dưỡng, dễ cất giữ nên có thể để lâu, chuyên trở đi xa mà không hư. Sữa bột rất thuận tiện cho việc nấu nướng. Sữa có ít chất béo và năng lượng và thường được bổ sung sinh tố A, D. 3- Sữa đặc có đường. Sữa đã được làm đặc bằng các phương thức như cho bay hơi, hâm nóng... để giảm đi tới 60% nước, sau đó bổ sung sinh tố D, đường sucrose rồi đóng hộp. Sữa đặc có cùng giá trị dinh dưỡng như sữa tươi. 4- Sữa mô phỏng Ðược coi là mô phỏng (imitation) khi sữa không có đủ các chất dinh dưỡng như sữa tự nhiên. Khi có đủ chất dinh dưỡng thì được gọi là sữa thay thế (substituted), hay giả sữa (simulated). Giả sữa thường được làm bằng chất béo thực vật (dầu dừa), chất đạm của đậu nành, hòa trong nước với vài chất gây hương vị. Giả sữa rẻ hơn và được dùng trong việc nấu thức ăn. 5- Sữa có ga Ngày nay, để cạnh tranh với nước giải khát có ga, nhà sản xuất sữa cũng đưa ra thị trường các loại sữa có ga ( carbonated milk). Sữa này được tăng cường hương vị hấp dẫn của trái cây như dừa, táo, lê, dâu ...để lôi kéo người tiêu thụ dùng sữa thay cho nước ngọt. Số trẻ em dùng nước ngọt có hơi rồi bị mập phì, ngày một gia tăng và là mối lo ngại của các bậc cha mẹ cũng như các nhà dinh dưỡng. Sữa có hơi hy vọng giúp giải quyết được vấn nạn này. Giá trị dinh dưỡng. Sữa bò có vị nhạt, hơi ngọt và mặn vì có đường lactose và muối chlor. Sữa được xem như một trong số các thực phẩm căn bản là carbohydrat, rau, trái cây, thịt các loại, sữa và các sản phẩm từ sữa. Sau đây là thành phần cấu tạo của sữa: a- Sữa có 87% nước, 3.9% chất béo, 4.9% đường lactose, 3.5 chất đạm, 0.7% khoáng chất và sinh tố. b- Sữa là nguồn cung cấp calci rất quan trọng cho cơ thể. Calci cần cho sự duy trì các hoạt động căn bản của cơ thể, phòng ngừa nguy cơ loãng xương, giảm cao huyết áp và ngăn ngừa ung thư đại tràng. c- Sữa có một ít sinh tố B, iod và đồng, rất ít sắt. d- Tương tự như thịt động vật, cá và trứng, sữa là nguồn chất đạm rất phong phú với đầy đủ các amino acid căn bản mà cơ thể cần. Nguồn đạm chính của sữa là chất casein và whey. Casein là chất đạm đặc biệt chỉ có trong sữa, chiếm 82% tổng số đạm có trong sữa bò. Whey là chất lỏng còn lại của sữa sau khi sữa đông đặc và gồm có lactoalbumin và lactoglobulin. đ- Một nửa số năng lương do sữa cung cấp là từ chất béo bão hòa, nhẹ hơn nước nên nổi lên mặt và có thể được hớt ra. Sữa thuần nhất (homogenized milk) là sữa mà chất béo đã được đánh thành những phần tử nhỏ để hòa lẫn với với chất lỏng thay vì nổi lên trên mặt. Sữa này thường có mầu trắng, vị dịu và nhuyễn mịn. Chất béo trong sữa là đề tài của nhiều thảo luận nghiên cứu vì một số lý do. Trước hết là về giá thành, sữa ít hoặc nhiều chất béo có giá tiền khác nhau. Thứ đến, về phạm vi dinh dưỡng thì sữa chuyên trở một số sinh tố hòa tan trong chất béo của sữa mà cơ thể rất cần. Và cuối cùng, chất béo cùng với vài hóa chất là yếu tố làm cho sữa có hương vị riêng biệt. Một ly sữa 240ml có khoảng 8g chất đạm, 9g chất béo, 35mg cholesterol, 150mcg sinh tố A, và 290mg calci. Trong sữa ít béo thì trong ly sữa này chỉ có 3g chất béo, 19mg cholesterol, và lượng sinh tố A mất đi một nửa. Nếu là sữa không béo thì chỉ còn 0,50g chất béo và 4,5mg cholesterol. g- Lactose là dạng đường chính trong sữa bò và sữa các động vật có vú khác. Ngoài ra, sữa còn một ít đường glucose, galactose. Lactose có vai trò quan trọng trong việc chế biến một số món ăn có sữa như kem, sữa đặc có đường, sữa bột không béo, đặc biệt là sự chuyển nâu ( browning, caramelization) sữa khi nấu nướng. Giá trị của sữa đã được các nhà dinh dưỡng chứng minh và khuyến khích nên dùng sữa trong chế độ ăn uống hàng ngày cho mọi lứa tuổi. Chương trình dinh dưỡng trẻ sơ sinh và các bữa ăn trưa của hầu hết học sinh đều có sữa. Các nhà dinh dưỡng khuyến khích việc uống từ hai tới ba ly sữa mỗi ngày. Trẻ em đang tuổi phát triển cần uống nhiều hơn, từ 4 đến 5 ly mỗi ngày. Những người lớn được khuyên dùng sữa ít chất béo, còn thiếu niên thì dùng sữa còn nguyên chất béo, vì các em cần chất béo cho sự tăng trưởng. Vấn đề an toàn của sữa Phẩm chất của sữa tùy thuộc vào một số yếu tố như : - Tình trạng hóa chất, sinh học và cách cất giữ sữa. - Loại bò, tuổi tác và sức khỏe của bò. - Thực phẩm nuôi bò. - Thời tiết, nhiệt độ nơi nuôi bò. - Thời gian bò tiết sữa. Vì ở trạng thái nước và có nhiều chất dinh dưỡng nên sữa là một trong những thực phẩm dễ hư hỏng nhất. Hơn nữa sữa là sản phẩm lấy ra từ bò nên rất dễ nhiễm nhiều loại vi sinh vật có hại. Vì vậy, trước khi đưa ra thị trường, sữa rất cần được kiểm soát kỹ về các tiêu chuẩn vệ sinh và an toàn thực phẩm. Bò được vắt sữa bằng tay hoặc bằng máy sau khi sanh con, liên tục trong khoảng 300 ngày. Sữa được chứa trong thùng lớn ở nhiệt độ thấp (khoảng 5ºC) để ngăn sự tăng trưởng của các vi sinh vật lẫn vào, rồi được kiểm nghiệm về thành phần hóa học, vi khuẩn. Sau đó, sữa được đưa vào máy để làm cho thuần nhất (homogenization), trộn đều mỡ và kem với nhau. Giai đoạn kế tiếp là khử trùng với nhiệt độ và thời gian thích hợp. Sữa được hâm nóng bằng phương pháp Pasteur (pasteurisation) để tiêu diệt vi khuẩn, nấm độc, mốc meo và vô hiệu hóa một số diếu tố làm sữa có mùi. Trước hết, sữa được làm nóng lên đến nhiệt độ 63ºC và giữ ở nhiệt độ này trong 30 phút rồi hạ nhiệt rất nhanh xuống còn 4ºC để tiêu diệt những vi khuẩn sống sót. Đôi khi sữa cũng được nấu ở nhiệt độ cao hơn, từ 138ºC tới 150ºC , nhưng ở nhiệt độ này, một số sinh tố bị phân hủy và chất đạm bị chuyển hóa. Cuối cùng là bổ sung các sinh tố, khoáng chất và chất đạm trước khi đóng hộp. Các sinh tố được tăng cường là sinh tố A, D và khoáng calci. Sinh tố A hòa tan trong chất béo nên thường mất một phần khi chất béo được loại bỏ. Tăng cường sinh tố D trong sữa giúp chống bệnh còi xương trẻ em (rickets) do thiếu sinh tố này. Nói chung, việc sản xuất sữa phải luôn luôn tuân theo các tiêu chuẩn vệ sinh và an toàn thực phẩm do các giới chức có thẩm quyền quy định, để đảm bảo không gây ra bất cứ tác hại nào cho người tiêu dùng. Cất giữ sữa Sữa là môi trường rất thuận lợi cho các loại vi khuẩn sinh sản và phát triển. Hóa chất do vi khuẩn tạo ra làm thay đổi mùi vị của sữa. Cho nên, việc cất giữ sữa là rất quan trọng để bảo đảm sữa được an toàn và bổ dưỡng. Sau đây là mấy điều cần lưu ý trong việc sử dụng sữa: a- Khi mua, nên để ý ngày sản xuất và hạn sử dụng ghi trên sản phẩm. Đây là những thông tin mà nhà sản xuất bắt buộc phải ghi rõ, để người tiêu dùng biết được khoảng thời gian mà sữa đó có thể sử dụng một cah an toàn. b- Sữa tiệt trùng trong quá trình chế biến vẫn có thể bị nhiễm vi khuẩn nếu không cất trong tủ lạnh ở nhiệt độ 4ºC ngay sau khi mua về. Nên để sữa ở phía trong tủ lạnh hơn là ở ngăn cửa tủ lạnh. c- Ánh sáng mặt trời, ánh đèn ...khi chiếu vào sữa chỉ trong vòng vài giờ có thể làm mất đi tới 70% sinh tố B2 (riboflavin) và một số sinh tố A. Vì thế, nên giữ sữa trong bình mờ đục, trong hộp giấy cứng thì tốt hơn là bình nhựa hoặc bình thủy tinh trong suốt. đ- Khi để trong tủ lạnh, nên đựng sữa trong bình kín để khỏi bị lẫn mùi thực phẩm khác. Không đổ sữa dùng còn dư trở lại bình sữa. e- Sữa tươi uống lạnh là tốt nhất, nhưng vào mùa lạnh mà uống sữa ấm nóng cũng tốt. Sữa nóng nên uống ngay, nếu để lâu thì calci và chất đạm trong sữa đóng màng trên mặt. Nếu vô tình gạt bỏ màng này là bỏ đi phần lớn chất dinh dưỡng của sữa. g- Sữa bột còn nguyên trong hộp chưa mở nếu cất giữ ở nơi khô và mát trong tủ thực phẩm thì còn an toàn tới vài ba tháng. Khi đã mở ra thì cần được đậy thật kín, tránh hơi ẩm xâm nhập để vi khuẩn không tăng trưởng và để giữ nguyên mùi vị của sữa. h- Nhiệt độ đông lạnh thay đổi mùi vị và cấu trúc của sữa bằng cách làm các phần tử đạm tan rữa mà khi rã đá, đạm lại dính với nhau. Sữa sẽ không còn nhuyễn mịn, chất béo bị oxy hóa và sữa có mùi dầu. Tuy giá trị dinh dưỡng của sữa có bị ảnh hưởng đôi chút nhưng sữa vẫn an toàn. i- Sữa đặc có đường đã được đun nóng để giảm bớt hơi nước nên cũng mất đi một số sinh tố C, B. Hộp sữa chưa khui cần được cất giữ nơi khô, mát, không có ánh sáng. Nếu đã khui ra mà không dùng hết thì đổ vào bình chứa, đậy kín và cất trong tủ lạnh. k- Khi nấu với thực phẩm khác, nên đun nhỏ lửa để tránh sữa chuyển mầu nâu vì đường lactose bị phân hóa. Vài hàng về sữa dê. Sữa dê cũng là thực phẩm rất tốt nhưng chỉ một số người cần kiêng khem hoặc có dị ứng với sữa bò mới dùng. Sữa dê cũng có các dạng chế biến khác nhau như sữa tươi, sữa chua, pho mát, đóng hộp. Sữa dê có vị hăng cay mà sữa bò không có nhưng có cùng chất dinh dưỡng và chất béo lại dễ tiêu hơn. Sữa dê thường không được tăng thêm các sinh tố A, D như sữa bò nên người dùng sữa dê cần dùng thêm các sinh tố này. Một vài công dụng khác của Sữa: a- Tráng trứng gà: Cứ hai quả trứng cho thêm một thìa cà phê sữa, khuấy đều rồi cho vào chảo rán. Trứng sẽ cuốn mềm mại và ngon ngọt hơn. b- Làm bánh. Cho một chút sữa vào bột, bánh sẽ có mầu vàng óng ánh. c- Hầm cá. Đun sôi nước có gia vị, bỏ cá vào, thêm một thìa sữa. Món ăn hết mùi tanh của cá mà cá lại mềm ngon hơn. đ- Luộc bắp cải hoặc khoai tây: Cho thêm một thìa sữa vào nồi, rau sẽ trắng hơn và ngon hơn. Kết luận Sữa là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng phong phú và thích hợp cho mọi lứa tuổi để có một sức khỏe tốt. Cho nên, uống hai ly sữa mỗi ngày là điều nên làm! Bác sĩ Nguyễn Ý ÐứcChỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 04/Jul/2013 lúc 9:50pm |
|||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||
![]() |
|||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||
Nắng Sài Gòn-Nắng Viễn Phương.
Nắng tháng Tám, rám trái bưởi. Kinh nghiệm dân gian. Viễn cư, chẳng nghe tiếng Cuốc quê hương mà sao Hè cũng nóng: “Cái nóng nung người, nóng nóng ghê”. (1) Dallas 115 độ, cây cỏ khô héo. Xe lửa nhiều quốc gia Âu châu ngưng chạy vì đường sắt nóng cong. Nước Pháp mất đi gần 5000 con dân trong dăm tuần lễ. Không phải vì chiến tranh, động đất mà vì hậu quả của sức nóng nắng hầm tháng 8 năm 2004. Vậy mà ông lãnh đạo xứ cờ hoa vẫn phom phom cùng hội viên “Câu Lạc Bộ 100ºF” của ông ta chạy đua 5 cây số trong 7 phút ở trang trại vùng Texas. Để tranh nhau giật giải chiếc áo thung mang huy hiệu Tổng Thống. Nhờ mặc áo này biết đâu ông ta chẳng tránh được ảnh hưởng xấu của nắng trên da. Và để an toàn nghĩ thêm cách chinh phục thế giới. Với diện tích 17 thuớc vuông, da là bộ phận trải rộng lớn nhất của cơ thể. Về phương diện cấu tạo, da đã làm ngạc nhiên nhiều kiến trúc sư vì tính cách bền bỉ, nhậy cảm, đàn hồi mà Thượng đế đã tạo cho da. Lại còn những chức năng quan trọng mà da trách nhiệm để bảo vệ cơ thể. Nào là rào cản chống lại sự xâm nhập của vi sinh gây bệnh, hóa chất độc hại. Nào là điều hòa thân nhiệt trước thay đổi phũ phàng của thời tiết nóng lạnh. Lại còn mang khỏi cơ thể, qua mồ hôi, những chất phế thải trong người. Cũng như mang cảm giác mềm mát cho bàn tay người tình mơn trớn, nâng niu. Nhưng da cũng chịu chung số phận hóa già của các bộ phận trong cơ thể, cũng dễ dàng hư hao trước rủi ro của không gian và thời gian. Da khô nhăn nheo với tuổi đời chồng chất. Da ung thư, cháy xém dưới tia nắng mặt trời. Tia nắng gắt có thể gây tác dụng xấu cho lớp da không được che trở. Nhìn qua lăng kính, ánh nắng có bẩy mầu hòa hợp: tím, chàm, da cam, xanh dương, xanh lục, vàng và đỏ. Đó là những tia tương đối lành mà mắt thường có thể nhìn thấy. Nhưng cái tia tử ngoại, cực tím mà ta không nhìn thấy mới là đáng ngại, mới là rủi ro làm da khô, da ngứa, ung thư da. Cực tím A chui sâu vào da, tiêu hủy sự đàn hồi, khiến cho da sớm nhăn già và cũng là rủi ro của ung thư; Cực tím B giảm khả năng bảo vệ cháy nắng và là thủ phạm chính của ung thư da. Cực tím C là nguy cơ tử vong cho cho mọi sinh vật, từ cỏ cây cho tới động vật. Nói vậy chẳng lẽ nắng chỉ mang tới rủi ro hay sao?! Ánh nắng rất cần cho sự sinh tồn của mọi sinh vật. Không có nắng làm sao có sự quang hợp để biến khí carbon và nước thành thực phẩm nuôi thảo mộc. Mà không có thảo mộc thì con người và súc vật lại khốn đốn, thiếu thức ăn. Ánh nắng cũng cần cho sức khỏe thể xác và tâm thần nữa chứ. Thường xuyên âm u là ta dễ rơi vào tình trạng trầm cảm, mất ngủ, rối loạn chuyển biến dưỡng chất cũng như sản xuất kích thích tố trong cơ thể. Cho nên mới có “ Nỗi buồn Mùa Đông”-Blue Winters của cư dân các vùng hiếm nắng. Mà không có nắng Mai thì sao có “ Nắng vàng giỡn trên má, Cô mơ tình nhân hôn” (2). Và “ Nắng lên nửa bãi chiều rồi...” để cho Huy Cận “ Ru em sẵn tiếng thùy dương đôi bờ” (3) Nhưng, chỉ năm mười phút, vài giờ thì không sao, chứ nhiều ngày nhiều tháng dưới nắng chang chang, không áo quần che trở thì cũng có nhiều vấn đề lắm đấy. Ung thư da là vấn đề đáng ngại hơn cả. Hàng năm, số người bị ung thư da tăng. Theo Viện Da Liễu Hoa Kỳ, tỷ lệ ung thư da vào thập niên 1930 là 1/1500; tới thập niên 1980 con số nhích lên là 1/250. Hiện nay có thể là 1/70. Vì môi trường càng ngày càng xấu, khí quyển càng mất chất bảo vệ ozone trước tia tử ngoại của nắng... Nguy cơ ung thư tăng theo với số tuổi của con người, nhất là từ 50 tới 70 tuổi. Cứ một trong ba người Mỹ trên 65 tuổi là ít nhất cũng bị ung thư da một lần trong suốt cuộc đời. Vùng mặt và đầu là nơi mầu mỡ cho ung thư tàn phá. Tùy theo chủng tộc, giống tính, cũng như địa dư mà ung thư nhiều ít. Nam giới dễ ung thư hơn các bà các cô. Có lẽ các ông mình trần, phơi nắng cắt cỏ, bón cây hơi nhiều, để cho vườn nàng đẹp. Da mầu ít hơn da trắng vì họ có nhiều tế bào sắc tố che trở. Dân mắt xanh, tóc đỏ, người sống gần xích đạo, trên cao độ cũng dễ bị ung thư. Chín mươi phần trăm trường hợp ung thư da là do chất độc hại ảnh hưởng vào da.Nhất là tia tử ngoại của ánh nắng mặt trời. Mà muốn bảo vệ, tránh ung thư vì nắng gắt thì cũng dễ thôi. Ta cứ mặc quần áo trùm kín như mấy trự Trung Đông Ả Rập là xong. Lại mang thêm chiếc mạng phủ mặt của kiều nữ Taliban, là tha hồ ra nắng. Nhưng, hãy coi chừng. Mấy ngài an ninh phi cảng là hay nghi ngờ, chiếu cố lắm đấy ạ. Có dấu khí cụ trong quần không? Có cài chất nổ trong áo ngực. Xin vào phòng kín. Thoát y. Kiểm tra. Đôi giầy tây mà còn phải tháo ra, đi chân không qua máy rà kim khí cơ mà. Rõ rắc rối. Sao ta chẳng theo những nàng mặt phấn da hồng Sài Gòn, Hà Nội. Lái Honda Dream, quần áo thùng thình gió bay, bao tay lụa cao cao tới nách, mạng nhung che mặt, nghiêng nghiêng vành nón rộng. Để bảo vệ nền da ngà ngọc. Thêm cặp kính râm thòi trang nữa thì tha hồ mà liếc dọc nhìn ngang. Rồi gửi xe, ta vào mỹ viện, lựa vài chai kem chống nắng. Để thoa ngăn ngừa tử ngoại phá hủy DNA và khả năng miễn nhiễm của da. Bôi trên da, mỹ phẩm có công dụng phản chiếu tia nắng, nhất là các loại có từ 15 Yếu Tố Bảo Vệ (Sun Protection Factor-SPF) trở lên. Độ càng cao thì sự bảo vệ càng lâu. Phơi nắng càng nhiều thì cứ vài giờ nên thoa lại, nhất là khi đổ mồ hôi. Cũng là cơ hội tốt cho những người tình xích lại. Gần nhau. Các mỹ phẩm chống nắng thường thường rất an toàn, nhưng khi dùng thì có đôi điều nên để ý: - Trẻ em từ 6 tháng trở lên đều có thể thoa kem chống nắng; dùng loại hơi đục hoặc kem hơn là dung dịch trong suốt; -Trước khi thoa, thử một chút kem trên mu bàn tay coi xem có bị dị ứng, đỏ da hay không. Mỗi nhà bào chế dùng các gia phụ khác nhau; -Thoa mỹ phẩm lên toàn thân, trừ vùng da quanh mắt; -Thoa từ 15-30 phút trước khi phơi nắng để chất chống tử ngoại thấm vào da; -Lựa mỹ phẩm không tan trong nước nếu ta bơi lội; -Tham khảo bác sĩ nếu trẻ em bị mụn trứng cá, để coi dùng kem nào không làm bệnh tăng lên. Rồi an toàn tắm biển-phơi da... Biết bao giờ nhân hòa để trở về với nắng Hè quê hương. Mà trèo me hái sấu Hàm Long; mà trộm ổi, tắm sông Nghi Tàm, Quảng Bá. Hoặc nhớ lại những 55- 57. Theo thầy trẻ Nguyên Sa, mới ở Pháp về, lang thang chợ Thái Bình, Cống Quỳnh- Phạm Ngũ Lão. Đi trong nắng... mà không cần nón mũ. Vì: “ Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát; Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”.(4) Ôi! Hà Đông. Chùa Trầm. Động Nhũ. Một thời đã qua...Biết bao nhiêu là kỷ niệm... ...Và có người thấm lệ, nhìn xa...
Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC Texas- Hoa Kỳ 1- Quốc Văn Giáo Khoa Thư 2- Nắng mai-Thanh Tịnh 3- Ngậm ngùi-Huy Cận 4- Áo Lụa Hà Đông-Nguyên Sa Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 08/Jul/2013 lúc 5:26am |
|||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||
![]() |
|||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23672 |
![]() ![]() ![]() |
||
Sức khỏe Tinh Thần.
Một hôm tôi gặp một bệnh nhân người Algeria. Ông đến với tôi vì chúng tôi có thể nói với nhau một ít tiếng Pháp. Ông bị cao áp huyết, cao mỡ trong máu. Khi bàn về điều trị, tôi khuyên ông bỏ thuốc lá. Ông cười, tỏ vẻ hiểu bịết nhưng lại xin kể một chuyện vui vui. Ông nói: “có người khuyên bạn rằng nếu anh không hút thuốc lá thì anh có thể sống đến 60 tuổi, nếu không uống rượu thì có thể sống đến 70 tuổi, nếu không “chơi bời” thì có thể sống đến 80 tuổi. Người bạn hỏi lại rằng nếu sống đến 80 tuổi mà không hút thuốc lá, không uống rượu, không làm..., thì sống để làm gì”? Tôi biết rằng ông đang ở giai đọan lưỡng lự giữa bỏ hút thuốc hay tiếp tục, nên tìm cách chống chế. Vì theo ông, ăn, ngủ, tình dục là những điều quan trọng; tìm cảm giác dễ chịu tự nó không xấu nhưng làm thế nào cho phù hợp với đời sống mới là điều cần phải cân nhắc, xem xét... Con người là động vật có bộ não rất phát triển, do đó con người có thể nhận biết và suy nghĩ, nghĩa là có ý thức. Vì có ý thúc nên chúng ta vui, giận, buồn, yêu, ghét, và ham muốn. Sự ham muốn đầu tiên là muốn sống: bản năng sinh tồn là bản năng mạnh nhất, sau đó là bản năng sinh dục, nhờ vậy mà nhân lọai tồn tại. Nhưng con người không chỉ sống bằng bản năng. Loài vật sống thành bầy, săn mồi, sinh sản theo mùa, trôi nổi theo sự ngẫu nhiên của môi trường. Người nguyên thủy cũng ăn lông ở lỗ, nhưng nhờ biết suy nghĩ, làm ra dụng cụ nên săn bắt có hiệu quả.Từ khi tìm ra lửa, cuộc sống được nâng lên một bậc cao hơn, người ta có thể sưởi ấm và không còn ăn thịt sống. Từ những bộ lạc du mục, quen phá rừng đốt rẫy, người ta dừng lại chung sức, xây dựng làng mạc, trở thành xã hội có tổ chức. Khoa học kỹ thuật phát triển làm cho cuộc sống sung túc hơn. Văn học nghệ thuật phát triển làm cho người ta hiểu nhau hơn, biết chuộng cái hay, cái đẹp, xây dựng nên những phong cách cư xử khiến cho sự tiếp xúc giữa người với người được dễ dàng. Tìm sự thật, yêu cái hay cái đẹp, bênh vực lẽ phải, tìm sự hài hòa trong các mối quan hệ, bảo vệ sự sống là sinh họat tinh thần. Nhiều người cho rằng tinh thần và vật chất là hai yếu tố riêng biệt.Nhưng tinh thần và vật chất cùng ở trong một người. Ta có thể nhận thấy tác dụng giữa tinh thần và vật chất qua kinh nghiệm hàng ngày. Khi một người giận, mắt trợn ngược, nét mặt căng thẳng, thở dồn dập, nói to, áp huyết tăng, đường trong máu tăng; khi một người sợ, tim đập nhanh, đổ mồ hôi, tay run rẩy, nói không ra hơi; khi một người bình tĩnh, thở đều hòa, tim đập chậm, áp huyết hạ. Khi cháu bé khỏe, cháu sẽ vui vẻ ăn uống, chạy nhảy... Khi cháu bị bệnh, cháu sẽ gắt gỏng, khóc vòi, kém ăn, khó ngủ.... Khoa học cũng chứng minh có sự tương quan giữa đời sống tinh thần và bệnh tật. Đời sống tinh thần bao gồm thái độ đối với người và ngọai vật kể cả hệ thống tin tưởng và tôn giáo. Theo bác sĩ Koenig HG và CSV (Handbook of religion and health: a century of research review. New York; Oxford University Press, 2000) hai phần ba trong số 1200 báo cáo cho thấy có sự liên quan giữa sinh họat tôn giáo với sức khỏe tinh thần và vật chất. Theo Mathews DA và CSV (Religious commitment and health status: a review of the research and implications for family medicine. Arch Fam Med 1998; 7; 118-24) đời sống tâm linh (họat động tôn giáo) có tác dụng trong việc: Ngừa bệnh tâm lý và sinh lý. Người thường dự các lễ nghi tôn giáo, ít bị lo âu, trầm cảm, it bị cao áp huyết, và sống lâu hơn. Có thể vì người hay dự các lễ nghi tôn giáo chú ý đến cách sống, không làm điều gì thái quá, cũng có thể họ thăm hỏi, nhắc nhở nhau giữ gìn sức khỏe tốt hơn Giúp đối phó với bệnh tâm thần và cơ thể. Những người có lòng tin, từ sự tự tin ở bản thân, tin ở thầy thuốc, tin ở khoa học hay tin ở tôn giáo sẽ an tâm do đó sẽ hợp tác với điều trị nên điều trị có kết quả tốt hơn; Giúp sự bình phục. Người có tin tưởng sẽ có thêm nghị lực do đó sẽ cố gắng để phục hồi. Trầm cảm tuy là bệnh tinh thần nhưng làm giảm khả năng miễn dịch nghĩa là giảm sức chống lại sự xâm nhập của vi trùng. Cùng bị tai biến mạch máu não nhưng người buồn bã chán nản sẽ nằm một chỗ do đó sẽ không chịu tập luyện để khôi phục lại khả năng đã mất, lâu ngày sẽ bị biến chứng như lở lóet ngoài da, nhiễm trùng từ vết lóe...Ngược lại người có tin tưởng, sẽ phấn đấu, cố gắng ngồi dậy, tập đi vv…, do đó sẽ phục hồi tốt hơn. Người đó cũng cẩn thận dùng thuốc đúng hơn, do đó sẽ ít bị tái phát hơn, nên sẽ sống lâu hơn. Y khoa coi các báo cáo về đời sống tâm linh và sức khỏe là những sự kiện cho thấy có liên hệ giữa tinh thần và bệnh tật và giải thích các sự kiện này một cách khách quan trên cơ sở khoa học. Để giữ gìn sức khỏe tinh thần, mỗi người cần có cái nhìn thực tế về bản thân mình, cần chú ý đến các lãnh vực sau đây: Cơ thể. Cần làm việc, ngủ, nghỉ đầy đủ, cần tập luyện cơ thể, ăn cân bằng các chất dinh dưỡng, khám sức khỏe định kỳ. Sự làm việc không những mang lại cho ta tiền bạc, nhưng còn giúp cho cơ thể vận động, là cơ hội để hợp tác với người khác và cho ta ý niệm về giá trị của sức lao động . Tâm trí. Cần có thái độ lạc quan, yêu đời, cần thư dãn, tu thiền, bỏ qua những thất bại đau buồn trong quá khứ, cần biết ơn và biết tha thứ, không hận thù dằn vặt. Những người lớn tuổi mà tôi gặp đều vui vẻ, sống đơn giản, không mưu mô xảo quyệt, không dùng người khác làm phương tiện phục vụ cho bản thân mình. Xã hội. Cần giao tiếp với người khác, hòa nhã, tôn trọng, không lấn át người khác, chia sẻ sự lo âu buồn phiền với thân nhân hoặc bạn bè. Sự cô độc làm cho ta suy thoái về vật chất và tinh thần. Khi nàng Kiều bị giam hãm ở lầu Ngưng Bích, than rằng: “Giết nhau chẳng cái Lưu Cầu, giết nhau bằng cái Ưu Sầu, độc chưa?!”. Tâm linh. Cần họat động tinh thần tùy theo sở thích và khả năng như trồng hoa, nuôi súc vật, nghe nhạc, làm văn nghệ, nuôi dạy trẻ, làm việc từ thiện, sống có mục đích, có niềm tin, hãy cầu nguyện nếu có tín ngưỡng. Vật chất. Cần có việc làm ổn định, có thu nhập vì sự an toàn vật chất giúp an tâm duy trì sức khỏe tòan diện. Nói chung, ta cần có thái độ tích cực, dấn thân và luôn luôn tìm tòi học hỏi. Ðể có một sức khỏe tinh thần tốt đẹp! Bác sĩ Nguyễn Văn Ðích
Atlanta-Georgia |
|||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||
![]() |
|||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23672 |
![]() ![]() ![]() |
||
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 23/Jul/2013 lúc 3:09am |
|||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||
![]() |
|||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||
Hạt Đậu: Món Ăn Bài Thuốc
Thực phẩm mà người Mỹ gọi là legumes gồm có các loại hạt đậu khô dùng để nấu ăn, như đậu Hà Lan, đậu tây cô ve, đậu đen, đậu lima, pinto, pha, đậu ngự.Chữ légume của Pháp là để nói tới các loại rau, cải, củ. Còn thực phẩm mà người Việt ta gọi là Ðậu hoặc Ðỗ thì người Mỹ lại chia ra thành 2 loại: bean và pea. Nói chung tất cả đều là hạt đậu nằm trong những vỏ dài mà khi chín sẽ nứt ra làm đôi. Đậu được trồng ở khắp nơi trên thế giới và có tới trên mười ngàn loại khác nhau. Theo các nhà khảo cổ thì đậu được trồng trước tiên ở các quốc gia Đông Nam Á châu từ cả chục ngàn năm về trước. Nhiều nơi, đậu được gieo giữa hai luống ngô, vì đậu có thể hấp thụ nitrogen từ không khí, tồn trữ dưới đất và làm đất giầu thêm chất này để giúp ngô tăng trưởng. Giá trị dinh dưỡng Hạt đậu là nguồn dinh dưỡng rất phong phú, ngon mà tương đối lại rẻ tiền. Đậu nành cung cấp đủ các loại amino acid thiết yếu mà cơ thể cần. Đậu có nhiều calcium, cho nên các vị tu hành, người ăn chay có thể sống lành mạnh chỉ với đậu hũ và các sản phẩm khác của đậu nành. Ðậu có lượng đạm chất cao hơn các các loại ngũ cốc khác từ hai đến năm lần. Hạt đậu có nhiều sinh tố nhóm B, nhiều sắt, pot***ium, rất nhiều chất xơ. Đa số hạt đậu đều có rất ít chất béo và calories, ngoại trừ đậu nành và đậu phụng lại có nhiều chất béo lành bất bão hòa. Đậu có ít calories nhưng có nhiều nước. Một trăm gram đậu nấu chín cho 100-130 Calories và 7 gram chất đạm, tương đương với số đạm trong 30 gram thịt động vật. Đậu nẩy mầm có nhiều đạm hơn đậu nguyên hạt. Khi ăn chung đậu với các loại hạt, đạm của đậu có phẩm chất tương đương với đạm động vật. Người Bắc Mỹ và người Âu ít chú ý đến các loại đậu vì nấu các đậu này mất nhiều thời gian, phải ngâm đậu trước khi nấu. Để tiết kiệm thì giờ, dùng đậu chế biến nấu chín đựng trong hộp rất tiện lợi: chỉ việc đổ bớt nước mặn trong đậu hoặc rửa đậu cho bớt mặn rồi nấu. Nhưng người Nam Mỹ và Á Châu xem các loại hạt đậu là một thành phần quan trọng của lương thực. Ở Châu Mỹ La Tinh, từ Mễ Tây Cơ xuống đến Trung Mỹ, Nam Mỹ, đâu đâu cũng thấy có đậu đen và đậu đỏ (black and red beans) trong các bữa ăn. Ở Ấn Độ, đậu lăng (lentil) được ăn trộn với gạo và rất phổ biến. Nhật Bản có loại đậu màu nâu gọi là azuki được ăn với cơm. Ở Trung Hoa và Nhật Bản, Việt Nam đậu nành rất thông dụng trong việc chế tạo tương và chao, tầu hũ. Hạt đậu nấu chín có thể ăn khi còn nóng hay để nguôi. Có thể nấu đậu với thịt, cá hoặc với các loại rau khác. Đậu nấu chín cũng có thể cho thêm gia vị, nghiền nát rồi quệt vào bánh mì kẹp để ăn. Đậu tươi không cần nhiều thời gian để nấu, nhưng khi phơi khô thì cần ninh nấu lâu hơn. Để rút ngắn thời gian nấu, ta có thể ngâm đậu trong nước nóng vài giờ cho đậu thấm nước và mềm hơn. Nước ngâm đậu có thể dùng để nấu món ăn cho thêm hương vị. Vài Ưu điểm của đậu 1- Đậu chứa một loại chất xơ gọi là pectin. Chất xơ này có khả năng hút nước và nở ra trong dạ dày khiến người ta có cảm giác no không thèm ăn. Nó cũng làm chậm tiến trình hấp thụ thực phẩm trong ruột, giúp bệnh nhân tiểu đường tránh được sự tăng gia quá mau đường huyết, và cơ thể khỏi phải tiết ra nhiều insulin hơn. Các loại đậu “bean” và “pea” thì lại có một lượng pectin nhiều hơn táo một chút. Như vậy các đậu này giữ vai trò quan trọng trong sự làm giảm lượng cholesterol trong máu, còn tốt hơn cả loại cám yến mạch (oat bran). Trong các loại đậu, đậu nành được xem là hữu hiệu nhất để giảm cholesterol và triglyceride trong máu. Nghiên cứu ở Ý và Thụy Sĩ cho thấy là, bệnh nhân có cholesterol cao, mà ăn nhiều chất đạm từ đậu nành thay thế cho thịt cá, thì mức cholesterol của họ giảm xuống 31%. Kết quả này xem ra còn tốt hơn tác dụng của các loại thuốc giảm cholesterol đắt tiền bán trên thị trường. Bác sĩ James Anderson, Đại học Kentucky, khuyên bệnh nhân mỗi ngày ăn một cốc đậu pinto nấu chín để hạ cholesterol. 2- Cũng theo bác sĩ Anderson, ăn đậu thường xuyên giảm nhu cầu Insulin để chữa bệnh tiểu đường, vì đậu làm đường trong máu tăng lên rất chậm. 3- Gần đây các nhà khoa học lại mới tìm ra một tác dụng vô cùng bổ ích của các hạt đậu, đó là khả năng chống ung thư. Đậu có chứa chất acid phytic, một chất chống oxi hóa rất mạnh. có thể chận đứng tiến trình ung thư hóa của tế bào. Ngoài ra, khảo cứu ở súc vật trong phòng thí nghiệm cho thấy đậu “bean”, đậu “pea” và đậu lăng “lentil” có chứa chất ức chế protease là chất có khả năng phòng chống ung thư da, vú và gan. Thử nghiệm ở người cũng thấy tác dụng tương tự về phòng chống ung thư vú và nhiếp hộ tuyến. Chuyên gia về ung thư Anne Kennedy cho chuột ăn một hóa chất gây ung thư, nhưng khi chất ức chế protease được bôi vào miệng chuột thì ung thư không xẩy ra. 4- Đậu giúp đại tiện đều đặn, dễ dàng vì phẩn to hơn, mềm hơn, từ đó giảm thiểu được các nguy cơ ung thư ruột già và trực tràng. Đó là kết quả các nghiên cứu của Tiến sĩ Sharon Fleming, Đại học Berkeley, California. 5- Một khoa học gia Ấn Độ, SN. Sanyaldan nhận thấy dân số Tây Tạng không thay đổi trong suốt 200 năm. Thực phẩm chính của họ là đậu. Sau nhiều năm tìm hiểu, ông ta thấy đậu có khả năng ngăn ngừa sinh đẻ nhờ hóa chất m-xylohydroquinone. Ông ta thử cho đàn bà dùng thì tỷ lệ sinh đẻ giảm hẳn, mà đàn ông dùng thì số lượng tinh trùng cũng giảm. Nhận xét này đang được nghiên cứu kiểm chứng thêm. Ngoài ra có lẽ tác dụng của nó không mạnh bằng các dược phẩm ngừa thụ tinh hiện có, nên ít ai để ý tới. Một vài vấn đề khi ăn Ðậu Một đặc tính của đậu là sản xuất rất nhiều hơi (gas) trong ruột, với hậu quả gây ra trung tiện làm cho ta mắc cỡ. Nguyên do là vì nhiều người thiếu diêu tố (enzyme) để tiêu hóa chất đường alpha-galactosides trong đậu. Khi xuống ruột, đường này bị các vi sinh vật phân hóa, tạo ra nhiều chất hơi. Nhưng kinh nghiệm cho hay nếu thường xuyên ăn đậu thì trở ngại này có thể không đáng kể vì cơ thể sẽ quen đi. Vả lại, các bác sĩ đều cho biết trung tiện không phải là một vấn đề sức khỏe mà chỉ có thể là một vấn đề trong giao tế xã hội. Ông Tổ của nền Y học Tây phưong Hippocrates nói rằng trung tiện cần thiết cho sức khỏe con người. Dân Trung Hoa cho rằng trung tiện là dấu hiệu của một sự tiêu hóa tốt. Benjamin Franklin, một trong những vị cha già lập quốc của nước Mỹ, đã viết một đoạn văn hài hước về hiện tượng tiêu hóa này. Ông đề nghị các nhà bác học hãy thí nghiệm để tìm ra chất nào khiến con người ăn vào có thể sản xuất ra trung tiện có mùi thơm tho. Không phải chỉ các loại đậu mới tạo ra hơi trong ruột. Các thực phẩm khác như ngũ cốc, hành, tỏi, bắp su và nhiều thức ăn có chất xơ (fiber) đều tạo ra hơi do phản ứng hóa học hoặc sự lên men trong ruột. Có nhiều cách để làm giảm bớt hơi của đậu trong quá trình tiêu hóa. Chuyên viên hóa học Alfred Olson giới thiệu cách sau đây. Trước khi nấu, ta hãy ngâm đậu với nước trong một đêm; sau đó đổ nước đi. Nhúng đậu trong nước sôi, hay nấu lên vài phút, sau đó lại ngâm nước khoảng 4 tiếng đồng hồ trước khi đem ra nấu với thức ăn khác. Khuyết điểm của cách này là đậu sẽ mất đi nhiều khoáng chất và sinh tố. Một phương pháp thứ hai là xay đậu để làm thành bột nhão rồi nêm thêm muối, xì dầu (soya sauce), tiêu, ớt cắt vụn vào bột nhão để chế biến thành các món ăn cho hợp khẩu vị. Không nên chộn thêm hành tỏi, vì các món này tạo ra hơi nhiều hơn. Một vấn đề khác nữa là Đậu khô có nhiều chất purine. Với một số người nhậy cảm, purine có thể làm tăng uric acid trong máu, đưa tới bệnh thống phong gout. Tinh thể acid uric đóng trên khớp xương mà thông thường nhất là ở ngón chân cái làm người bệnh rất đau nhức. Một vài loại đậu có hóa chất làm tiêu hủy sự hấp thụ các sinh tố B, E, D, beta carotene trong ruột. Một số đậu khác, nếu không nấu chín, có thể có vài chất dính liền với khoáng sắt, đồng, khiến hồng cầu tụm lại với nhau. Đậu phọng là một trong mươi thực phẩm thông thường nhất gây ra dị ứng hoặc nhức nửa đầu ở một số ít người dễ nhậy cảm. Vài loại đậu thường ăn Trên thị trường, có đậu tươi, đậu khô, đóng hộp hoặc đông lạnh. Mỗi thứ có một hương vị độc đáo, một hình dáng riêng biệt và cách nấu nướng cũng khác nhau. - Đậu đỏ thường nấu chung với gạo, với thịt (stew), làm xà lách hoặc dùng trong món chili. - Đậu lima mầu trắng kem hoặc xanh nhạt, hạt nhỏ, hình trái thận. Đậu này thường dùng để nấu súp, làm xà lách, hoặc hầm với thịt gà. Hầu hết đậu lima đều được đóng hộp, làm đông lạnh trước khi tung ra thị trường. - Đậu Pinto mầu cam, hình bầu dục dùng nhiều trong món cơm nấu kiểu Mexicain hoặc để hầm với các loại thịt. - Đậu đen hạt nhỏ, đen bóng ta dùng để nấu chè đường, nấu súp hoặc ninh với thịt. - Đậu Adzuki hạt nhỏ, mẫu đỏ bóng loáng dùng làm xà lách, nhồi gà vịt, nấu súp hoặc ninh với thịt. - Đậu nành hạt nhỏ mầu vàng hoặc hơi đen làm đậu hũ, tương và nhiều loại thực phẩm rất ngon khác. Kinh nghiệm ăn uống dân gian ta nói “Ðậu nành là anh nước lã” hoặc “Ðậu nành rang, cả làng khát nước”. Ý nói sau khi ăn đậu rang này thì rất khát nước.Ðậu nành rất phổ biến ở quê hương ta, với nhiều phó sản độc đáo, như tương, chao, đậu phụ... - Đậu Hà Lan mà chỉ có một số nhỏ tươi được bán, còn hầu hết được đóng hộp hoặc làm đông lạnh. Khi còn tươi, đậu có mầu xanh sáng, sờ hơi mềm như nhung. Đậu đóng hộp rất thông dụng và dùng trong việc chế biến nhiều món ăn khác nhau. Việt Nam ta có đậu đũa, đậu ván, đậu ngự, đâu cô ve, Hòa lan, đậu đỏ, đen, đậu nành, đậu xanh, đậu tây, đậu nâu, đậu xoắn, . Công dụng trị bệnh trong y học cổ truyền Ngoài giá trị dinh dưỡng, một số đậu còn được y học dân gian ta dùng làm thuốc trị bệnh. Đó là: a- Đậu ván trắng: còn gọi là bạch biển Ðậu ván có vị ngọt, tình hơi ôn, tác dụng vào kinh tỳ và vị. TRong y học cổ truyền, đậu ván khô được dùng để chữa cảm sốt mùa hè, nôn mửa, tiêu chẩy, tỳ vị suy nhược, chán ăn, rối loạn tiêu hóa; làm thuốc giải nhiệt, co giật khi nóng sốt cao; giúp tóc lâu bạc. b- Đậu Xanh. Vỏ đậu xanh không độc, vị ngọt, tính nhiệt có tác dụng giải nhiệt, làm mắt không mờ. Hạt đậu xanh cũng có tác dụng giải nhiệt, giải độc tính của thuốc và kim loại, nấm, tiêu trừ phù thũng, chữa sỏi đường tiết niệu, phòng và chữa cháy nắng. c- Đậu Đen. Đậu này thường dùng để nấu xôi, nấu chè ăn rất ngon. Ngoài ra, đậu cũng bổ thận, lợi tiểu, nước tiểu trong hơn và nhiều hơn. Sách Tuệ Tĩnh Nam Dược có ghi đậu đen dùng để chữa đau bụng giữ dội; trúng gió chân tay tê cứng, chóng mặt, sây sẩm khi sinh đẻ; chữa mắt mờ ra gió dễ chẩy nước mắt; chữa dị ứng, lở ghẻ, hen suyễn khi đổi thời tiết. d- Đậu phọng. Đậu phọng có công dung dinh dưỡng cao, có nhiều chất béo, đạm và nhiều loại sinh tố. Dầu lạc dùng làm dầu ăn, đốt đèn và chế thuốc. e- Đậu nành. Đây là nguồn chất đạm rất quan trọng tại nhiều quốc gia, nhất là quốc gia đang mở mang. Trong y học, đậu nành dùng làm thức ăn cho người bị viêm khớp, người mới bình phục sau cơn bệnh nặng, đặc biệt là những người bệnh tiểu đường, huyết áp cao và có nhiều mỡ trong máu. g- Ðậu Ðỏ. Ðậu này có vị ngọt nhạt hơi chua, tính bình. tác dụng vào kinh tâm và tiểu trường. Y học dân gain dùng đậu đỏ để trị thủy thũng, sưng phù chân, bụng trướng, đau dạ dầy, tả lị, trĩ đại tiện ra máu, bệnh thiếu vitamin B1, vàng da, lở loét. Trẻ con chậm biết nói thìthì các cụ lấy đậu tán nhỏ hòa với rượu bôi dưới lưỡi hàng ngày. st. |
|||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||
![]() |
|||
<< phần trước Trang of 189 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |