![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Tâm Tình | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 146 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23789 |
![]() ![]() ![]() |
Người đưa thư bất đắc dĩ
Thời đại bây giờ ai ai cũng dùng computer nên bọn trẻ gọi là “ thời a còng “, thư đi tin lại bằng email, “ chat chit “ với nhau nhanh giống tốc độ ánh sáng nên người đưa thư trở nên ít việc. Nhiều nơi có kế hoạch sa thải bớt người cũng như không phát thư từng nhà và thay vào đó lập ra một địa điểm tập trung các hộp thư vào một chỗ. Dự định không thành vì đa số khách hàng là người cao tuổi đều phản đối vì không tiện di chuyển. Tôi có một bà dì gần chín mươi đang sống ở bờ Đông Bắc Mỹ. Bà có thói quen hàng năm gửi thiệp chúc Giáng sinh và Tết cho những ai bà có địa chỉ trong tay. Bà con, bạn bè, cháu chắt lớn nhỏ gần xa bà đều gởi đến. Cặm cụi ngồi ghi chép tên từng người lên phong bì, viết vài chữ vào tấm thiệp, dán tem và ra bưu điện gửi đi. Bà nói :” Đáng lẽ ngành bưu điện phải gắn huân chương khen thưởng bà mới phải, vì bà là người khách hàng trung thành và mang lợi nhuận cho ngành này bằng cách mua tem và gửi thư gần bốn mươi năm nay. “ Có lẽ gửi thư là niềm vui duy nhất nhắc cho mọi người nhớ đến bà. Ai cũng ít nhất một vài lần trong đời trải qua tâm trạng chờ đợi những lá thư. Nhất là lúc “ tình vừa lên ngôi “ trong trái tim còn non trẻ của mỗi người, đó cũng là những lần nó biết đập nhịp hồi hộp mong chờ ông phát thư ngoài cửa. Chờ những lá thư mang dấu KBC từ chiến tuyến hay những tờ thư viết trên giấy perlure mỏng màu hồng gửi đi từ phố thị. Không phải ngẫu nhiên, hình vẽ tiêu biểu hiển thị cho ngành bưu điện là cánh chim được in hầu hết trên các phong bì gửi đi khắp thế giới. Qua rồi những ngày đông lạnh giá, tiết trời vùng Tây Bắc Mỹ ngày càng ấm dần nhắc nhở mùa xuân sắp về. Các hội đoàn người Việt mọi nơi bận rộn thảo luận chương trình tổ chức ngày hội chợ Tết truyền thống. Hương xuân phảng phất khắp nơi khiến lòng tôi nao nao nhớ về những mùa xuân ngày cũ tràn đầy kỷ niệm êm đềm và ấm áp của đêm giao thừa. Ngày ấy đã xa rồi !!! Lâu lắm tôi chưa được “ ăn Tết “ ở quê hương nơi mình sinh ra ! Nhiều bạn bè nói với tôi rằng đừng hòng tìm lại hương vị ngày Tết thuở trước ở Việt Nam, tất cả đã hóa thành cổ tích mất rồi ! Ở nơi này tôi chỉ còn giữ một chút truyền thống ngày xưa là dọn dẹp nhà cửa trước ngày đầu năm Âm lịch, trong lúc soát xét các tài liệu thư từ có một xấp thư cũ kỷ gói kín và cột bằng một sợi thun cao su đã lâu ngày nên hoá ra chảy nhão. Đây là thư của anh gửi từ trại cải tạo vào những năm tháng của thế kỷ trước, gần bốn mươi năm qua.Nhiều cái bao thư được làm từ trang giấy tập vàng vọt, loại giấy được tái sinh từ rác còn lẫn cát, đất. Thành quả của phong trào kế hoạch nhỏ, thu gom giấy vụn mà học trò phải làm từ sau ngày “ đại thắng 75 “. Lần xem từng lá thư những hình ảnh xa xưa bỗng hiện về …! Giây phút đầu tiên nhận được lá thư trong có giấy báo cho phép thăm nuôi gặp mặt sau hơn ba năm biệt dạng chồng! Tôi mừng còn hơn trúng số, trong thư anh chỉ dẫn đường đi cho tôi với những địa danh lạ hoắc lần đầu nghe thấy. Từ Tây Ninh tôi phải tìm đường đi đến Kà Tum, Xa mát. Đó là một làng nhỏ nằm gần biên giới Campuchia có chưa đến chục nóc nhà tranh chắc hẳn mới dựng lên, chúng nằm túm tụm trên một khu đất gọi là chợ và bến xe, khi đến nơi tôi mới biết. Theo lời kể của người đi trước, nếu muốn đến nơi mọi người phải quá giang trên những chiếc xe be lên rừng chở gỗ. Nhưng đến lượt tôi may mắn thay vừa có một chiếc xe cũ đã được cải tiến thay xăng dầu để chạy bằng than cũng chở được gần hai chục người vừa ngồi bên trong, vừa đeo bám phía sau. Mỗi ngày chỉ có chuyến xe duy nhất khởi hành từ bến xe Tây Ninh vào Xa Mát. Có những gia đình phải xin vào chùa tá túc khi lỡ đường, chờ xe gom đủ khách là những gia đình đi thăm nuôi từ Saigon lên. Cũng chiếc xe này sẽ trở lại thị xã vào ngày hôm sau. Trên đường đi cậu nhỏ lơ xe chỉ cho chúng tôi thấy xa xa trong khu rừng cây ngút mắt là Đồng Pan, ở đó cũng có một trại cải tạo, sở dĩ hai bên con đường quang đãng vì có những gốc cây to đã bị đốn bật lên, những trảng cỏ tranh đã phát trống hươ trống hoác do công sức của hàng ngàn người trong trại, họ được lệnh phá rừng trồng thực phẩm duy nhất là cây khoai mì, thứ cây cán bộ miền bắc gọi là sắn. Chính giữa là núi Bà Đen nằm sừng sững trên nền trời giữa khung cảnh vắng lặng hoang vu, không có lấy một căn nhà chứng tỏ nơi đây trước kia có sự sống. Con đường lồi lõm chi chít đầy hố bom, cái nào cái nấy gần bằng cái ao, một lần nữa tôi lại gặp may khi đi thăm nuôi vì đang là mùa nắng nên chiếc xe chạy men theo mép hố trồi lên rồi tụt xuống.Từ trên cao nhìn xuống trông giống một con kiến leo vào leo ra trên miệng cái chậu sành sứt mẻ. Ngọn gió nóng thổi qua trảng trống đầy nắng cuốn theo đám bụi đỏ bay thốc vào mắt mũi kèm theo bụi than của chiếc xe vừa chạy vừa gào rên ầm ĩ ! Về sau tôi mới biết khu vực này được gọi là mật khu Dương Minh Châu của Việt cộng mà trước năm 75 báo chí Saigon hay đề cập. Đến Kà Tum tôi theo những người cùng hoàn cảnh đi trên chuyến xe ban nãy, khuân vác hành lý theo con đường mòn khác để vào Bổ Túc. Quãng đường không gần, có một chiếc máy cày loại nhỏ người chủ gắn thêm phía sau cái thùng xe đậu chờ trên đầu dốc chở thuê và chỉ nhận chở bao bị, thực phẩm mang theo thăm nuôi, người ta thì đi bộ đỡ phải mang vác trên quãng đường còn lại thế cũng là may rồi ! Đi khoảng một giờ là đến trạm dừng chân vì phía đàng xa hiện ra một cổng gác bằng thanh tre chắn ngang con đường. Mặt trời đang ngã bóng sau lùm cây, mọi người phải tạm ngụ lại nơi này chờ sáng mai trình giấy cho phép thăm nuôi xin qua cổng. Bên ngoài chỉ có hai gian nhà lá nằm cạnh ven đường, tôi không biết những người đi thăm họ đến từ khi nào vì đã có rất đông người tập trung nằm ngồi chen chúc trên những chiếc chiếu thuê của chủ nhà trải đầy nền đất lồi lõm, chập chờn dật dờ qua đêm chờ sáng mai. Hôm sau, làm xong những thủ tục theo quy định bắt buộc “ xin, cho “ người thân ra gặp. Từ nơi này phải đợi cán bộ vào bên trong thông báo. Giữa rừng rậm bao la không ai biết người thân mình đang ở nơi đâu, ngay cả bản thân người đi thăm cũng không biết mình đang ở vị trí nào trên bản đồ của đất nước. Tôi nghe những người đã đi về thuật lại rằng “ Để được gặp mặt người nhà trong một giờ, bản thân chồng, con, anh em mình phải mất gần mấy tiếng đồng hồ cho lượt đi và gấp đôi thời gian cho lượt về vì phải gồng gánh những thứ thân nhân gửi cho. Sau này được gặp lại vào một lần ở trại khác, chồng tôi kể rằng lúc đó tuy vác nặng nhưng rất vui vì được tiếp tế thực phẩm thuốc men sau hơn ba năm thiếu thốn. So với những trại phải thay đổi về sau, trại Bổ Túc này là trại có quản giáo rất khó khăn và sắt máu nhất. Trong khoảng thời gian chờ đợi tôi cầm chiếc ca nhựa băng qua mảnh sân trống đến gian chái bếp xin nước. Trong thư nhà tôi có dặn trước khi đi thăm phải uống trước viên thuốc trị sốt rét và phải uống nước nấu chín nếu đem theo được càng tốt để tránh bị sốt rét ngã nước. Bệnh này tôi hay nghe nói chỉ có ở vùng rừng thiêng nước độc. Gian bếp có một lò lớn đang nấu nồi nước to, cạnh đó là vài cái lò nhỏ kê bằng ba viên gạch. Một thanh niên còn trẻ im lặng đun củi giữ cho nồi nước lúc nào cũng bừng sôi và múc cho những ai cần đến. Một lát gian bếp thưa hết người, chỉ còn lại một chị ngồi đun nồi xôi đậu xanh, chị này vừa đẩy thêm củi vừa cười nói với tôi: “ Nghe hoài câu: "Củi tre dễ nấu, chồng xấu dễ xài", bây giờ mới biết “. Đúng là ông bà mình nói không sai, thanh tre vừa đẩy vào bén lửa rất nhanh. Trong khi người phụ nữ bận rộn với nồi xôi, anh thanh niên nhìn quanh quất và đến gần tôi giả vờ chụm lửa. Anh hỏi nhỏ, rất ngắn gọn: - Nhà chị ở đâu vậy ? Tôi đáp: - Tôi ở Saigon, Quận 10. - Chị làm ơn chuyển giùm lá thư về cho gia đình tôi. Nhà tôi ở đường Hoàng Diệu, số..., Quận 4. Nói xong trong tay anh đã sẵn một tờ giấy gấp nhỏ dúi vào tay tôi. Nhanh chóng tôi nắm chặt nó và giả vờ ngồi xuống đẩy củi, tôi nhét lá thư vào túi áo. Miệng lẩm nhẩm, số... Đường Hoàng Diệu thì tôi biết rồi. Bưng ca nước bằng hai tay tôi trở về cái lán che tạm trú nắng chờ chồng tôi ra gặp. Quan sát chung quanh, tôi móc lá thư viết trên một tờ giấy tập học trò vàng ố. Không có địa chỉ cũng như tên tuổi người gởi, người nhận. Bằng trí nhớ tôi cố ghi nhận số nhà người ban nãy đọc cho tôi nghe, chỉ có hai số đơn giản nhưng cũng dễ nhớ. Trở về Saigon viết lại địa chỉ, tôi lần tìm theo số nhà người thanh niên đã đọc. Gặp hai ông bà cụ tôi trao cho họ lá thư, nhận ra tuồng chữ viết của con, hai ông bà mừng rối rít. Bà lăng xăng chạy ra rồi chạy vào mang từng món khoe với tôi những thức ăn bà làm để mang đi thăm con trai, bỗng dưng tôi thấy lòng thật vui vì đã mang đến niềm vui cho người khác và vui lây với cái vui của họ. Tôi gặp lại chồng sau hơn ba năm biệt dạng, không dám khóc, không dám buồn, cả hai đều cùng hiểu nên cố không kể lể những gì mình đã trải qua trong thời gian xa cách. Tôi nghĩ những người chung quanh cùng hoàn cảnh vợ chồng tôi đều là những kịch sĩ đại tài, thực thi đúng câu cán bộ trại đã nhắn nhủ trước khi gặp mặt người thân. "Người nhà phải vui vẻ "động viên" thân nhân mình cố gắng học tập tốt, lao động tốt với tinh thần phấn khởi nhiệt tình, như thế ngày về sẽ không xa... v.v.." Không biết thi hào Nguyễn Du đã từng rơi vào tâm trạng của Kiều khi gảy đàn cho Thúc Sinh nghe trước đôi mắt quan sát của Hoạn thư chưa? Thế sao ông diễn tả hết sức tinh tế và sâu sắc giống như những gì chúng tôi đang trải qua lúc này. "Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm!". Đang ngồi hàn huyên tâm sự, bỗng có một chị phụ nữ trung niên đi lân la đến căn lán chúng tôi ngồi. Chị hỏi thăm tên một người, sao chờ mãi gần hết giờ vẫn không thấy người thân ra gặp mặt. Chồng tôi ngần ngại một chút rồi hỏi: - Xin lỗi, chị là gì của anh ấy? - Tôi là chị ruột, má tôi ngồi đàng kia chờ thăm em tôi. Chồng tôi đảo mắt thật nhanh rồi nói giọng buồn rầu: - Anh ấy mất rồi, Anh chết vì bị trái đạn nổ hơn hai tuần trước. Tôi thấy dáng chị phụ nữ muốn đổ nghiêng, vẻ mặt thất thần gượng dậy lảo đảo bước đi. Ngậm ngùi chúng tôi tiếp tục câu chuyện của mình, không đầy mười phút chị này trở lại hỏi nữa với vẻ cố nén bi thương trên mặt. - Anh làm ơn nói cho tôi biết em tôi có đau đớn gì không khi chết và thi thể ra sao? - Anh ấy chết ngay chị ạ và chúng tôi xẻ ván làm quan tài chôn cất xác anh đầy đủ. Chồng tôi năn nỉ: - Chị đừng để ai biết là tôi nói tin này. Người phụ nữ nghẹn ngào cố nén: - Tôi hiểu mà, nãy giờ tôi muốn khóc mà phải gắng gượng cố nén để nước mắt khỏi trào ra. Dường như chị muốn hỏi thêm nhưng sợ phiền vì mỗi gia đình chỉ được phép gặp mặt nhau trong vòng một tiếng đồng hồ ngắn ngủi. Chị đi rồi, chồng tôi lắc đầu nói: - Anh không dám nói sợ gia đình chị ấy đau lòng, thật ra xác anh ấy tan nát phải thu lượm từng chút. Bầu không khí thê lương bao trùm khiến chúng tôi bỗng không biết nói gì tiếp theo. Tôi thấm thía câu : “ Nay đã thanh bình lại biệt ly “ trong một bài thơ viết bởi một tác giả vô danh! "Ngày về không xa..." Cũng chỉ là những câu nói khiến cho người ta không đoán được giới hạn là bao nhiêu, bao lâu hay là mãi mãi không về ! Những khẩu hiệu nghe sáo rỗng giả tạo còn thực tế thì ngược lại và bây giờ người ta mới nếm được vị đắng cay của quả lừa ! Chuỗi ngày tiếp theo tôi phải đều đặn nhận giấy đi thăm sáu tháng một lần, trừ những lần tôi nhờ bà chị viết thêm tên tôi vào tờ giấy giới thiệu đi công tác để xin mua vé xe, lén đến gặp chồng ở một chòi sâu trong rừng khi không có giấy phép được thăm nuôi.Những năm cuối thập niên bảy mươi, việc di chuyển bằng xe đò bị kiểm soát rất gắt gao vì tất cả phương tiện đi lại đều do nhà nước quản lý. Lần nào tôi cũng mang ít nhất là vài lá thư chuyển giùm cho các bạn anh gửi về gia đình họ. Không riêng gì tôi những người khác cũng vậy, đều làm người chuyển thư bất đắc dĩ vào thời điểm ấy bởi không ít lần đi làm về đã nghe em tôi báo lại “ Chị có thư anh ấy gửi về “ là một lá thư tay. Không nói ra ai cũng ngầm hiểu thư tay gửi theo người đi thăm nuôi được gửi và nhận rất nhanh, với lại không sợ cán bộ kiểm duyệt. Mỗi lần người chồng chuyển trại đến nơi nào các bà vợ đều thông tin cho nhau rất nhanh qua những chuyến lén lút thăm nuôi. Xa xôi cách trở, rừng sâu hun hút đã không ngăn được tình yêu đôi lứa. Phần lớn những mạo hiểm của cả đôi là lý do sinh tồn, tiếp tế thực phẩm thuốc men để kéo dài đời sống cho người thân dẫu tương lai đang mù mịt không lối thoát. Tôi không biết việc chuyển giùm thư từ như thế có lần nào bị lộ chăng, và nếu bị bắt gặp người trong trại đương nhiên sẽ bị trừng phạt, dù biết thế nhưng không một ai có ý từ chối. Một lần khi chuyển về Bà Rá, Phước Long được phép gặp mặt một đêm, buổi chiều anh giấu mang ra một bó thư độ mười mấy lá của những người cùng tổ. Đồng thời anh cũng mang theo toàn bộ thư từ tôi viết gửi cho anh mấy năm nay để tôi mang về, lý do nếu có chuyển trại anh khó có thể gìn giữ như từ trước đến giờ. Anh trân trọng hơn mọi thứ đồ dùng cá nhân khác bởi nó gói ghém biết bao nỗi niềm nhớ thương trong đó ! Cho dù mỗi lần đi thăm "Lăng Bác" không có giấy để xuất trình. Sáng tinh sương, đang sắp xếp hành lý, gói lại chiếc chăn mỏng chuẩn bị ra về với cõi lòng bịn rịn chưa muốn rời xa. Vừa cùng nhau bước qua khúc quanh đầu hồi bỗng trông thấy đám đông đang sắp hàng lao xao. Nhìn thấy cảnh tượng, anh nói ngay với tôi : “ Chết rồi, sao “ đột xuất “ (*) có quản giáo khám xét đồ đạc của mấy bà trước khi ra cổng ?“. Tim tôi bỗng thót lại, hơi run tôi lùi lại rất lẹ làng trở về gian buồng của mình khi nãy. Lần trong chiếc chăn tôi móc ra bó thư của các bạn anh nhờ gởi về nhà, phản xạ khiến tôi giấu nhanh nó vào bụng. Trời rừng núi lạnh căm nên lúc nào tôi cũng mặc chiếc áo len dầy cộp phủ ngoài chiếc áo bên trong. Muốn hay không tôi vẫn phải bước ra sắp hàng chờ kiểm tra. Hít một hơi dài thật mạnh tôi bình tĩnh chờ đợi đến lượt mình. Trước tôi tên quản giáo đang xét một chị, khám xong không thấy có gì nên hắn nghi ngờ nhìn vào người, chị biết ý lật vạt áo phất lên phất xuống cho thấy không giấu gì trong người. Đến lượt tôi, chiếc giỏ bị tên quản giáo lục tung, đổ ra trên tấm nhựa đi mưa trải trên nền đất. Chỉ có hai bộ quần áo và chiếc chăn, bó thư của tôi viết tung toé rơi ra. Có lẽ soát xét nãy giờ không tìm thấy gì giờ thấy những lá thư của tôi hắn mừng khấp khởi vơ lấy. Tôi nói nhanh: - Đây là thư từ tôi gửi cho chồng, bây giờ anh trả lại cho tôi mang về nhà. Ngồi xổm hắn cẩn thận đọc trên phong bì toàn bộ là tên của chồng tôi cùng địa chỉ của tôi ở góc trái. Sau rốt hắn gật gù: - Thơ gửi cho cùng một người. Đứng trả lời hai bàn tay tôi ấp vào bụng giả vờ khúm núm, thật ra tôi đang giữ chặt bó thư trong đó. - Vâng, tất cả toàn bộ thư tôi gửi hơn bốn năm nay đấy. Hắn rút ruột từng lá thư ra và nhẩm đọc sơ, tất cả chỉ là tôi kể chuyện về nỗi nhớ niềm thương về con đang lớn. Tôi chắc hắn không thấy gì hấp dẫn nên xếp lại lôi chiếc khác ra. Từng lá và tiếp tục từng lá, cuối cùng hắn nói: - À, cùng một kiểu chữ viết của một người, nhà chị viết gì mà lắm thế mỗi lá tận những năm sáu trang. Chữ viết đẹp đấy. Nói xong hắn đứng dậy bỏ đi bởi tôi là người cuối cùng. Có lẽ viết chữ đẹp cũng là cách thu phục cảm tình người khác chăng? Thế là tôi ngồi xuống xếp lại đồ đạc gom thư cho vào giỏ, tiện tay xốc lại những lá thư đang giấu trong người. Đứng lên tôi khệ nệ ôm chặt cái giỏ áp vào bụng thật ra để giữ những lá thư nằm yên một cách chắc chắn. Đường hoàng đi ra cổng và ngoái lại phía sau thấy trong góc dãy nhà chồng tôi cùng vài người đang đứng nấp theo dõi mọi chuyện. Kín đáo tôi giơ hai ngón tay hình chữ V trước khi gãi đầu. Sau này anh kể lại: "Các bạn anh đứng đàng xa hồi hộp nhìn, khi thấy tên cán bộ quản giáo vơ lấy xấp thơ tất cả đều lo lắng, không hiểu sao hắn bỏ đi và chẳng thấy tịch thu lá thư nào. Khi tất cả vào rừng lao động anh mới giải thích rằng tôi đã kịp giấu tất cả vào người. Thật tình là nhờ xấp thư của tôi gửi cho anh, trao lại tôi mang về khiến hắn chỉ chú tâm vào đó nên không nghĩ rằng còn có những lá thư khác." Nghe nói có một viện bảo tàng thu thập chứng tích trong thời gian những người Sĩ quan VNCH bị giam cầm trong các trại cải tạo, nếu là chuyện thật và được chấp thuận tôi sẽ gửi những lá thư mình đang cất giữ xem như đóng góp thêm bằng chứng nhỏ nhoi để làm kỷ niệm; chỉ mong giúp gợi cho thế hệ sau này một chút hiểu biết sự thật về thảm hoạ đỏ. (*) Chữ dùng sau 75 thay thế cho nghĩa "bất thình lình", "đột nhiên".
Cỏ Biển, Mùa xuân Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 17/Mar/2016 lúc 9:47am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Những đứa con lạc loàiTôi đã quen nó vào mùa gió và tuyết, lạnh đến thấu xương của những ngày giáp tết. Đường không người qua lại, trời về đêm quán xá vắng teo. Chập chờn dưới ánh đèn đường trước quán, có bóng người như đang đổ gập xuống. Không kịp mặc áo khoác, tôi chạy bổ ra khỏi cửa. Đỡ bóng đen lạnh ngắt ấy đứng dậy, mờ mờ tôi đã nhận ra hắn còn rất trẻ và cũng da vàng mũi tẹt như mình. Tôi hỏi bằng cả hai thứ tiếng Việt-Đức, nhưng có lẽ choáng và lạnh, nên hai hàm răng như dính chặt vào nhau, nên nó chỉ lắc lắc, gật gật. Dìu vào quán, xoa cho nó một chút dầu nóng, tôi hỏi có dùng một chút cháo nóng không bằng tiếng Việt. Nó không phản ứng. Tôi tương tiếp bằng tiếng Đức, nó chợp mắt gật gật. Nó tỉnh táo hơn sau bát cháo nóng. Thấy tôi cầm điện thoại, định gọi xe cứu thương, nó cản lại và bảo không cần, chút nữa sẽ sang nhà bạn ở góc phố Spitta. Lúc sau nó đã trở lại bình thường, tôi không hỏi nhưng đoán có lẽ nó đói và lạnh quá thôi. Biết tôi là người Việt, nó bảo: - Thế thì, bác và cháu là đồng hương rồi. Bác nhìn này, dù mang trong mình hai dòng máu, nhưng cháu có giống người Đức chút nào đâu. Từ đó tuần nào đến thăm bạn, nó cũng nghé tôi chơi. Nó kể, bố nó trở về Việt Nam sau ngày bức tường Berlin sụp đổ, lúc nó mới một tuổi. Cũng sau đó ít lâu, nó phải lưu lạc, lớn lên trong trại mồ côi, khi mẹ nó có người đàn ông khác. Nó ước mơ một ngày nào đó tìm thấy bố và được trở về thăm quê hương. Có lần, nó đưa cho tôi tấm hình đen trắng đã ố vàng, không còn nhìn rõ mặt và có chữ (chỉ có thể luận, đoán ra) Hanh, Thanh, hay Thành? Nó bảo, ảnh bố mới tìm thấy và nhờ tôi tìm kiếm. Không hiểu sao lúc đó tôi lại nghĩ đến Thành, một người đồng nghiệp thời còn làm chung trong cái lò mổ heo của thành phố Leipzig. Thành bổ xung vào nhà máy chúng tôi đợt cuối cùng, khoảng tháng 8 năm 1988. Là nhà máy thực phẩm, nên vấn đề kiểm tra sức khỏe rất chặt chẽ. Ai chưa đủ sức khỏe, tạm thời ra đồng giúp bà con nông dân thu hoạch hoa màu. Tiếng Đức không biết, thế mà bằng những động tác chỉ chỏ, khoa tay múa chân, chỉ một tuần sau, Thành đã cưa đổ một cô lái máy cày ngay trên cánh đồng hành. Sau này, Thành về làm phân xưởng cùng tôi. Trong lúc bù khú rượu chè, Thành bảo, đã có con với cô lái máy cày này, nhưng ở Việt Nam đã có vợ con, nên suy nghĩ, nhiều đêm mất ngủ. Năm sau bức tường Berlin sụp đổ, nhà máy đóng cửa. Chần chừ mãi, rồi Thành cũng nhận tiền đền bù về nước, để lại sau lưng đứa con trẻ và cô thợ lái máy cày. Tết cũng đã đến gần, sẽ có nhiều bạn bè về Việt Nam, tôi nhất định nhờ dò hỏi, tìm lại cha cho nó. Có lẽ cũng đến mấy tháng, không thấy nó trở lại. Tôi nghĩ, chắc nó bận học hành, thi cử... Chứ đâu ngờ, không bao giờ tôi còn được gặp nó nữa. Bầu trời xám xịt, những tia nắng sớm mai bị đẩy, hắt ngược lên thành những chiếc cầu vồng như đang nối, kéo người về cõi xa nào đó. Cầm tờ báo Bild trên tay, người tôi run bắn lên khi thấy tấm hình của nó và kèm theo thông báo, nó đã bị giết một cách tàn nhẫn rùng rợn nhất từ trước đến nay của cơ quan cảnh sát điều tra thành phố Leipzig.
Nó đã bị chính người bạn thân nhất của mình giết rồi xẻ thịt, cắt đầu chặt tay, rút móng thả xuống dòng sông Elster. Đến hôm nay hung thủ đã bị bắt, nhưng chiếc đầu của nó vẫn còn trôi dạt đâu đó. Vậy là nó không bao giờ được gặp cha. Giờ này, không biết linh hồn nó vất vưởng nơi đâu. Người ta bảo, chỉ có linh hồn người chết mới làm được những ước nguyện khi còn sống không (chưa) làm được. Vâng! Tôi cũng tin như vậy. Một ngày nào đó linh hồn nó (cháu Jonathan H) tìm được đường về với quê cha đất tổ. Cái chết tang thương của nó, làm tôi lại nghĩ đến vụ giết người y trang như vậy làm chấn động cả Hà Nội những năm tám mươi, thế kỷ trước. Hai người bạn thân, đã nhau cùng du học ở Hunggari. Chỉ vì một mâu thuẫn nhỏ hung thủ đã giết bạn ngay trong nhà mình(khu Vĩnh Hồ). Sau đó hung thủ đã xẻ thịt, cắt đầu, khoanh khớp phi tang chôn giấu ở nhiều nơi. Người vớt bèo đã tìm thấy chiếc đầu của nạn nhân ở hồ Văn Chương. Khi xác định được danh tánh nạn nhân, cảnh sát đã tìm ra hung thủ. Câu hỏi được đặt ra, vợ hung thủ là một đại úy bác sỹ quân y, có tham gia vào công việc giúp chồng phi tang hay không? Bởi vì người ta nhìn thấy những vết chặt mổ, tháo khớp nạn nhân một cách rất chuyên nghiệp. Trong khi đó bố vợ hung thủ đương chức vụ trưởng vụ lễ tân của văn phòng chính phủ, nhăm nhe dùng quyền lực, các mối quan hệ hòng nhấn chìm vụ án. Nhưng lúc đó dư luận xã hội căng như sợi dây thun vì tính chất vụ việc quá dã man, nên ông ta chỉ cứu được cô con gái. Không biết các cụ nhà ta khi xưa ăn ở, đối xử tình nghĩa với nhau như thế nào, đúc lại cho con cháu những câu ca, những câu thành ngữ đẹp, hay đến thế. Chẳng hiểu sao đến nay, những những mối quan hệ bí bầu, chị ngã em nâng và tình yêu người với người tròn vành vạnh ấy rơi rụng sạch sành sanh. Ngay ở thành phố Leipzig nói riêng và toàn nước Đức nói chung, nơi tôi cư ngụ, có rất nhiều hội đoàn cũng như liên hiệp. Nhưng không hiểu sao đứng trước cái chết bị xẻ thịt, chặt đầu moi gan như vậy của một người đồng hương (cháu Jonathan H) các hội đoàn đều im lặng một cách khó hiểu. Dẫu biết rằng hội đoàn lập ra cho người sống chẳng phải cho người chết. Nhưng lẽ nào những bài diễn văn hừng hực dài dằng dặc kia dưới ánh đèn màu sân khấu chói lọi ấy, chúng ta tiếc một lời điếu hay một đoạn tin buồn, cáo phó? Các bác chủ tịch hội đều là những giáo sư tiến sỹ, những người có học có lẽ nào không biết, không đọc và không hiểu, không nghe, không nhìn thấy những gì đã xảy ra. Khi truyền hình, báo chí, không riêng của thành phố Leipzig mà cả nước Đức phát liên tục và đăng trường kỳ. Thiết nghĩ, muốn thành công việc lớn, nên bắt đầu từ những việc nhỏ nhất. Tôi dứt khoát không tin, hội của các bác lập ra nhằm giải quyết khâu ban bệ, tự sướng. Cũng là nơi của các đồng chí ngồi trên, thi thoảng về đăng đàn lên gân, phát phần thưởng và cùng nhau vỗ tay, như ai đó đã nói. Vâng! Sự ngoảnh mặt quay lưng ấy với đồng loại, không còn ở mức độ vô cảm nữa, mà nó đã trở thành tội ác. Ở đâu tôi không biết, nhưng ở Đức tôi bắt gặp những cậu ấm cô chiêu (từ Việt Nam) sang du học con của các quan chức cao cấp nhà nước, xả tiền như nước. Trong khi các cháu học sinh miền núi, không có cái ăn cái mặc, nơi ở và trường học nhìn vào như một cái chuồng trâu rách, dưới cái rét cắt da cắt thịt. Vậy mà ông bộ trưởng giáo dục vẫn thao thao bất tuyệt báo cáo thành tích của bản thân và của ngành, kể cũng lạ, cũng kiên cường, thần kinh thép. Nếu là người thần kinh bình thường có lẽ họ từ chức từ lâu rồi. ![]() Có lẽ chẳng còn gì bi hài hơn, giữa thành phố Sài Gòn tráng lệ, người ta bắt gặp hình ảnh bệnh nhân nhi phải bò từ gầm giường ra để chào bà bộ trưởng y tế. Không biết trong đầu bà bộ trưởng khi đó nghĩ gì, nhưng nhìn mặt bà vẫn thấy tươi rói. Tôi thấy nóng mặt, nhưng ông phó cối hàng xóm nhà tôi, người đã trải qua ba cuộc chiến bảo: - Ông buồn cười thật, người chui gầm giường có phải con cháu bà ấy đâu mà bắt mặt bà ấy đổi sắc. Con cháu những người có quyền nhiều tiền, gửi hết sang mấy thằng tư bản đang giãy chết từ lâu rồi. ![]() Vâng! Đúng như vậy, chẳng phải riêng chúng tôi, hay cháu Jonathan H, mà cả những người dân nghèo cùng khổ, họ đang bơ vơ, lạc loài ngay chính trên quê hương mình. Ngày xuân và cái tết đang đến gần, viết và kể lại những câu chuyện buồn trên chắc sẽ làm nhiều người không vui lòng. Nhưng với tôi, đoạn văn ngắn này như một lời xin lỗi muộn gửi đến cháu Jonathan H và các cháu đang bị lạc loài trên quê hương mình, CỦA NHỮNG NGƯỜI CÒN SỐNG.
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 19/Mar/2016 lúc 7:36am |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Người Xưa Nói “Nhân Định Thắng Thiên” Là Có Hàm Ý Gì?![]()
Người
khi đắc chí, đạt được thành công, nhất định sẽ cho rằng mình vĩ đại,
nhưng ở đời khiêm tốn mới là đức tính đáng quý; huống hồ trong vũ trụ
bao la này, chúng ta rất nhỏ bé. (Ảnh từ Internet)
Ngày nay người ta thường nói rằng con người có thể chiến thắng thiên nhiên, người xưa cũng giảng “Nhân định thắng Thiên”, nhưng hàm ý của 2 cách nói này lại khác nhau rất lớn, thậm chí là hoàn toàn trái ngược.
Trong
《Tam ngôn lưỡng phách》có kể về hai câu chuyện xưa để giải thích hàm ý
đích thực của câu nói “Nhân định thắng Thiên”. Câu chuyện như sau:
Đặng Thông đến chết cũng không tránh được thiên ý
Ngày
trước, vào thời Hán Văn đế, có một vị quần thần được sủng ái tên là
Đặng Thông. Đặng Thông thường xuyên xuất hiện cùng hoàng đế, thậm chí
khi ngủ ông cũng được ở bên cạnh hoàng đế, vô cùng vinh hạnh.
Thời ấy, có một thầy tướng thuật nổi tiếng tên là Hứa Phụ xem tướng cho Đặng Thông, quan sát miệng của ông, nói: “Người này nhất định sẽ nghèo đói mà chết!”. Văn Đế nghe xong, giận dữ nói: “Phú quý là do ta định đoạt! Đặng Thông sao có thể nghèo được!”. Sau
đó Hán Đế đã đem kỹ thuật đúc tiền của nước Thục ban cho Đặng Thông,
cho y tự ý tự do đúc tiền. Khi đó, Đặng Thông lợi dụng quyền hành, rải
tiền khắp thiên hạ, thậm chí cung cấp cho cả những nước là kẻ địch.
Một
ngày, Văn Đế bỗng nhiên mọc một cái mụn nhọt, bưng mủ và máu, rất đau
đớn khó chịu. Đặng Thông tỏ vẻ thương xót, quỳ xuống nặn hút mủ. Văn Đế
cảm thấy rất hài lòng dễ chịu, liền hỏi: “Trong thiên hạ, ai là người yêu thương nhau nhất?”. Đặng Thông đáp: “Chẳng ai khác ngoài cha con”.
Vừa hay lúc đó hoàng thái tử đi vào cung, Văn Đế bảo thái tử nặn hút cái nhọt độc kia. Thái tử từ chối nói: “Nhi thần vốn vụng về, e rằng không dám đến gần thánh thượng”. Nói xong thái tử rời đi. Văn Đế thở dài: “Yêu nhất không phải là cha con, còn không chịu hút mủ cho ta; Đặng Thông còn yêu ta hơn cả nhi tử của ta”. Sau lần đó, Đặng Thông lại càng được ân sủng hơn.
Hoàng
thái tử nghe thấy hết những lời này, nên trong lòng rất oán hận Đặng
Thông. Sau khi Văn Đế chết, thái tử lên ngôi hoàng đế, bèn tìm Đặng
Thông trị tội, nói hắn hút mủ cho Văn Đế là nịnh bợ, làm hư loạn pháp
lệnh của triều đình. Sau đó ra lệnh tịch thu gia sản, nhốt Đặng Thông ở
trong phòng, tuyệt đối không cho ăn uống gì. Cuối cùng, Đặng Thông quả
nhiên chết vì đói.
Người
ta vẫn thường nói rằng, xem tướng tâm không kém phần tướng mạo. Nếu là
người có tướng mạo cao quý, làm chức cao vọng trọng, nhưng lại làm việc
trái với lương tâm, gây tổn hại âm đức, thì trái lại sẽ không có kết cục
tốt đẹp.
Bùi Độ thay đổi vận mệnh của mình
Vào
triều Đường, có một người tên là Bùi Độ, từ nhỏ gia cảnh đã nghèo túng.
Có người xem tướng nhìn miệng của Bùi Độ, cũng nói rằng sẽ bị nghèo đói
mà chết. Trong một lần Bùi Độ đi đến chùa Hương Sơn, đang đi dạo ở
giếng đình thì nhặt được một tay nải đựng đầy bạc quý. Bùi Độ nghĩ thầm:
“Cái này là người ta đánh rơi, ta sao lại có thể hại người lợi mình đây, nhất định không được có tâm xấu!”. Vì thế nhặt lấy vật quý, quay đi tìm người đánh mất.
Một lát sau, thấy có một người phụ nữ chạy đến khóc lóc nỉ non, nói: “Cha
tôi bị người ta hãm hại rơi vào ngục, mượn được một ít bạc, định mang
đi chuộc tội. Hôm nay vào chùa thắp hương, lúc quay ra thì mất lúc nào
không hay. Ai nhặt được thì cho xin lại, mệnh của cha tôi là phụ thuộc
hết vào nó”.
Bùi
Độ lập tức đem số bạc trả lại cho người phụ nữ kia, bà cảm ơn rồi rời
đi. Một ngày nọ, ông lại gặp một tướng sĩ. Vị tướng sĩ này nhìn Bùi Độ
ngạc nhiên nói: “Cốt pháp của ngươi đã được thay đổi hoàn toàn,
không thì trước kia đã bị chết đói rồi, có phải là ngươi tích âm đức hay
không?”. Bùi Độ nói không có.
Tướng sĩ phân vân: “Ngươi suy nghĩ một chút đi, nhất định là ngươi đã tích đại đức vì cứu người”. Bùi Độ vì thế đã kể lại chuyện nhặt được bạc. Tướng sĩ nói: “Cái này là đại âm đức, sau này phú quý lưỡng toàn, nhất định là vậy”. Sau đó, Bùi Độ quả nhiên thi cử đỗ đạt, tiến thân nhanh chóng, làm tới chức Tể tướng, sống lâu sung túc.
Trong
hai câu chuyện này, có thể thấy rằng vận mệnh của hai người họ thì ở
“Thiên” đã có sự an bài giống nhau. Nhưng ở đây, bởi vì Bùi Độ không
tham tiền, nhất niệm hướng thiện, tích được đại đức, vậy nên đã thay đổi
được vận mệnh của mình; còn Đặng Thông thì ngược lại, cho nên đến cuối
cùng đã không tránh được mệnh trời.
Vậy
hàm ý đích thực của câu nói “Nhân định thắng Thiên” mà người xưa muốn
nhắn gửi là gì? Đó chính là, nếu con người biết đề cao tâm tính, giữ gìn
phẩm hạnh, tích đức hành thiện, thì có thể cải biến được vận mệnh đã
định của mình.
Còn con người ngày nay thì sao? Nhiều người vẫn luôn hùng hổ tuyên bố rằng “con người có thể thắng được thiên nhiên”.
Để chứng minh cho điều đó, họ không ngừng cải tạo, tàn phá thiên nhiên,
vì tiền mà không ngừng làm những việc xấu ác… Họ đã biến câu nói của
người xưa thành cách nói thể hiện cho sự vô mình, vô thần của mình. Lại
không biết rằng “Nhân định thắng Thiên” cũng là bao hàm cả quy luật nhân quả báo ứng ở trong đó. Vậy nên, điều chờ đợi con người cho những việc làm của mình thật là đáng sợ!
Cuối
cùng, hãy nhận ra hàm ý chân thực mà người xưa nhắn gửi, thay đổi suy
nghĩ, cải biến tâm linh, việc thiện nên làm, việc ác nên tránh, mới hy
vọng có một tương lai tốt đẹp.
st. |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
giodocgocong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 12/Jan/2011 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 132 |
![]() ![]() ![]() |
Vợ ông Thuận sau cơn bạo bệnh đã mất cách nay hơn 10 năm. Các con trai và gái của ông bà đều lớn cả và có gia đình nên ông ở chỉ có một mình. Từ ngày vợ mất, ông đã ngoài 65 nhưng vẫn còn tráng kiện và khoẻ mạnh. Cái tin ông về VN mấy lần, khá tốn kém để cưới vợ qua Mỹ làm chấn động cả một thị trấn nhỏ, hơi có tin lành dữ gì là ai cũng biết. Dĩ nhiên đâu có ai có thiện cảm với một ông lão 75 tuổi về VN cưới 1 cô gái trẻ đẹp mới ngoài 20 chỉ đáng tuổi con cháu chắt. Đúng là trâu già thích gặm cỏ non! Ra phi trường đón cô gái trẻ ấy chỉ có một mình ông. Tất cả con cháu, họ hàng không có một người nào. Thái độ đó ông thừa hiểu là họ phản đối! Giấy tờ hợp lệ, hôn thú hẳn hoi, ông đưa cô về nhà. Đêm đầu tiên cô gái cơm nước xong, tắm rửa sạch sẽ, ngồi coi tivi, cô chưa biết tiếng Anh nên ông mở mấy băng Paris By Night, Asia.. cho cô coi. Khuya, ông chỉ tay vào một căn phòng và nói: - Đó là phòng riêng của Hằng, tất cả đồ đạc có đầy đủ, Hằng cứ tự nhiên. Nói xong, ông đứng lên đi vào phòng của ông. Cô gái hơi ngạc nhiên nhưng chỉ nghĩ là bên Mỹ vợ chồng ngủ riêng mỗi người một phòng, khi nào cần làm "chuyện ấy" thì mới...mò sang! Hix! Nhưng cả tháng sau cô chờ hoài mà vẫn không nghe tiếng ông gõ cửa hay có thái độ nào khác! Sau khi hoàn tất mọi thủ tục bổ sung để làm giấy tờ như thẻ SS (Social Security), thẻ ID, permanent resident card (thẻ xanh thường trú nhân)... Ông nói nhẹ nhàng nhưng nghiêm trang với cô: - Từ mai tôi sẽ chở Hằng đi học ESL, sau một thời gian, sẽ đăng ký học tiếp ở college, Hằng phải cố mà học, tôi không sống mãi mà bảo bọc cho cô được đâu. Ở cái xứ sở này, đâu ai để ý ai, đâu ai biết, đó là vợ chồng hay cha con, chỉ thấy ngày ngày ông chở cô đi và đón cô về, ân cần thăm hỏi động viên học hành. Cô chỉ biết vâng dạ Những đêm xa nhà, xa quê hương một mình nơi đất khách quê người, người ta mới hiểu thế nào là cô đơn cực kỳ, là cần hơi ấm người đồng hương, là thèm một tiếng nói dù là tiếng nói của một ông già. Nhiều lần cô lưỡng lự, muốn qua gõ cửa phòng vào nói chuyện với ông nhưng rồi lại thôi. Một năm thấm thoát trôi qua. Cô còn trẻ lại khá thông minh nên tiến bộ trông thấy, cô apply vào trường college và vượt qua các test để vào ngành y tá. Ngày cô đi thi quốc tịch cũng là ngày ông mừng ra mặt khi cô báo tin đã p*** (đậu). Rồi ông đốc thúc cô nhanh chóng bảo lãnh cha mẹ qua Mỹ! Cô còn đi học nên tất cả mọi chi phí ông đều đài thọ. Ba năm sau cô và ông ra đón cha mẹ cô và đứa em nhỏ dưới 21 tuổi. Từ xa, bố vợ của ông tách khỏi gia đình, chạy lại ôm chầm lấy ông, mắt đã nhoè lệ và kêu lên sung sướng: - Ông Thầy! Thì ra ông Thuận nguyên là sĩ quan tiểu đoàn trưởng, thuộc trung đoàn 50, sư đoàn 25 bộ binh VNCH. Còn "ông bố vợ", bố của Hằng nguyên là một trung sĩ, thuộc cấp của ông. Hai thầy trò ôm nhau mừng mừng tủi tủi. Chỉ đến khi ông và Hằng ra toà ly dị các con ông mới vỡ lẽ. Họ biết là họ đã sai lầm. Ngày xưa sau 1975, lúc ông phải đi tù cải tạo, người lính thuộc cấp ấy đã phải đạp xích lô nuôi gia đình bữa no bữa đói mà vẫn chia sẻ giúp đỡ gia đình ông dù chỉ là những đồng tiền khiêm tốn. Những lần vợ ông đi thăm nuôi gần như là toàn bộ đồ dùng người thuộc cấp mua cho ông. Ông bùi ngùi nói với tôi: - Chú Hòa biết không, những ngày trong trại cải tạo, là những ngày đói triền miên, đói vô tận, đói mờ mắt, đói run chân thì 1 cân đường, 1 kg chà bông, 1 bịch đậu phọng, vài viên thuốc qúy... hơn vàng nhưng những thứ đấy vẫn không qúy bằng cái tình nghiã mà người lính dành cho mình. Chính cái tình nghiã ấy cho tôi niềm tin và hy vọng. Khi qua Mỹ, tôi được tin gia đình chú ấy kiệt quệ, đau bệnh liên miên, tiếp tế vài ba trăm cũng chỉ nuôi được mấy tuần, nên tôi đành phải bàn ... làm rể "giả" của chú ấy. (Ông hóm hỉnh khi nói câu này) ***** Tôi hiểu câu chuyện, thì ra ông về VN "giả" cưới cô Hằng là để đền ơn người thuộc cấp đã cưu mang giúp đỡ ông và gia đình sau 1975. Nhưng tôi vẫn còn thắc mắc: - Thế sao cô Hằng không biết chú là cấp chỉ huy của ba cô ấy? Ông mỉm cười: - Đám cưới giả mà, phải giữ bí mật chứ, chỉ có 2 người biết là tôi và người lính ấy. Tôi nhắp ngụm bia, bỗng nảy ra ý tưởng, tôi nói: -Chuyện của chú cháu đưa lên... facebook được chứ? - Tôi chỉ làm một việc rất bình thường. Sống có tình có nghiã là vui lắm rồi, cần gì òm ĩ... Hằng và các con ông đang ngồi ăn uống vui vẻ, Hằng đứng dậy đi về phiá tôi và nói: - Anh Hòa, anh cứ đưa lên facebook cho em, coi như là lời cảm tạ người Bố thứ 2 của em vậy! Tôi thấy mắt Hằng long lanh! DNH |
|
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
|
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23789 |
![]() ![]() ![]() |
5 Điều Tối Kỵ Của Các Bà Vợ![]()
Phụ
nữ nếu không muốn làm cho chồng phát điên thì nên tránh xa 5 thói xấu:
cằn nhằn, lắm chuyện, ỷ lại, ghen tuông, đa nghi, theo kết quả điều tra
của các chuyên gia tâm lý hôn nhân gia đình Trung Quốc.
Cằn nhằn - cái loa phóng thanh không bao giờ tắt
Đàn
ông ngán ngẩm nhất là nghe vợ suốt ngày ca cẩm đủ thứ chuyện trong nhà,
ngoài ngõ. Người vợ dù xinh đẹp đến mấy mà có tật nói nhiều, thêm tính
dữ dằn thì đối với người chồng, sắc đẹp ấy cũng coi như bằng không.
Đi
làm vất vả, về nhà lại nghe vợ ca về “thành tích bất hảo” của các con,
chuyện tiền ít mà thịt cá rau dưa thì đắt đỏ, nhà dột, nợ đòi…, người
chồng rầu thối ruột. Nhưng điều đó vẫn chưa làm anh ta điên tiết bằng
việc vợ cứ mở miệng là than chồng không chịu giúp việc nhà, ăn xong là
nằm ườn xem TV mà lương, địa vị nào có bằng ông A, B, C…
Lời
khuyên: Nếu bạn không tự sửa được tật cằn nhằn thì nên nhờ đến sự trợ
giúp của bác sĩ tâm lý, nếu không ắt có ngày chồng bạn sẽ phải nhờ đến
bác sĩ tâm thần.
Tật ngồi lê đôi mách - bộ ăng ten thu phát siêu nhạy
Phụ
nữ mắc tật này chẳng khác gì bộ ăng ten thu phát siêu tốc công suất:
nghe ngóng nhanh, truyền đạt tức thời, không hề qua xử lý. Mà nội dung
những thông tin ấy chủ yếu là chuyện riêng tư của người khác. Có khá
nhiều phụ nữ luôn cảm thấy sung sướng khi biết điều bí mật của người
khác và lập tức truyền đạt lại cho người thứ ba, thứ tư…, thậm chí còn
thêm mắm dặm muối cho tăng phần ly kỳ, hấp dẫn.
Phần đông họ không có ác ý, chủ yếu là “kiếm chuyện làm quà”, song có lúc tình cờ gây ra hậu quả khó lường.
Lời
khuyên: Các bà vợ nên học cách đóng - ngắt mạch ăng ten của mình, không
tiếp nhận các tín hiệu lạ, không phát đi những thông tin có thể gây hại
cho người khác, đặc biệt cho người thân của mình.
Ỷ lại - như thể người thừa
Phụ
nữ chân yếu tay mềm, lại vướng bận con cái nên thường phải nương nhờ
vào sức lực và năng lực của đức lang quân. Điều đó không có gì đáng
trách. Tệ hại nhất là các bà vợ ỷ lại hoàn toàn vào chồng, từ chân tay
đến trí não, dần dần hình thành tư tưởng ỷ lại thâm căn cố đế.
Tính ỷ lại được các chuyên gia tâm lý hôn nhân gia đình chia làm bốn loại:
Ỷ lại về mặt trí óc: Khi gặp chuyện thì không động não suy nghĩ, khi phát sinh vấn đề trong cuộc sống thì nhất nhất dựa vào chồng.
Ỷ lại việc nhà: Mọi
chuyện lớn nhỏ trong nhà đều không biết làm hoặc không muốn làm, dựa
vào sự yêu thương, chiều chuộng của chồng, phó mặc mọi việc cho chồng,
chỉ thích ngồi chỉ tay năm ngón.
Ỷ lại trong sự nghiệp: Không có chí tiến thủ, chỉ muốn chồng mau thăng quan tiến chức để hưởng vai trò phu nhân.
Ỷ lại về kinh tế: Ngay
từ đầu đã chỉ muốn lấy chồng giàu để được ăn sung mặc sướng. Nếu không
lấy được người như vậy thì cũng chỉ biết hối thúc chồng kiếm tiền càng
nhiều càng tốt.
Lời khuyên: Đừng coi chồng là cây cột vô tri, để chúng ta dựa vào, chẳng may khi cột đổ biết dựa vào đâu?
Ghen tuông - chua hơn giấm, cay hơn ớt
Phụ nữ có hờn ghen đôi chút cũng là một nét đáng yêu nhưng ghen tuông đến mức đổ nồi trôi rế thì quả đáng sợ.
Các chuyên gia tâm lý cũng chia ghen làm 4 loại:
Ghen bóng ghen gió:
Thường có cảm giác chồng có thái độ, cử chỉ khác thường với cô gái nào
đó nên hay tra hỏi vặn vẹo, tủi hờn, khóc thút thít hay đá thúng đụng
nia vô cớ.
Ghen ra mặt: Khẳng
định chồng có đối tượng khác, công khai tuyên chiến với chồng, thể hiện
sự nóng giận của mình qua ngôn ngữ, hành vi hoặc lạnh nhạt, xa lánh
chồng, bất hợp tác trong mọi mặt cuộc sống.
Ghen ngấm ngầm: Bí mật theo dõi chồng, quyết tâm rình bắt quả tang, không được thì cay cú.
Ghen lồng lộn: Công khai chỉ trích chồng (thậm chí lăng nhục, thoá mạ) trước mặt những người khác.
Lời khuyên: Bạn cứ bình tĩnh và hãy thể hiện bản thân mình vượt trội hơn hẳn về mọi mặt so với đối tượng của chồng (nếu có).
Đa nghi - cảm giác quanh ta đâu đâu cũng là chuyện xấu
Nhiều
phụ nữ có tính phòng vệ và cảnh giác quá cao, sinh ra nghi kỵ tất cả
mọi người, mọi việc. Trong cuộc sống gia đình, điều nghi kỵ số một là
nghi chồng có quan hệ mờ ám với phụ nữ khác. Ngoài ra họ còn có thể nghi
chồng giấu bớt tiền lương để lập “quỹ đen”, chồng không thương yêu
mình, thậm chí là chồng đang ngấm ngầm ghen mình. Đó là chưa kể việc họ
suốt ngày lải nhải bên tai chồng những điều nghi ngờ (thường là vô căn
cứ) của mình đối với những người, những việc bên ngoài gia đình.
Lời khuyên: Tin nhau mà sống. Mất niềm tin là mất tất cả.
st. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Món nợ ân tình
Ngân Bình Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 29/Mar/2016 lúc 8:44pm |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23789 |
![]() ![]() ![]() |
Cậu Bé Lừa Tiền Cơm Và Kết Cuộc Không Ngờ Sau 20 Năm![]()
Đôi
khi, một câu nói có thể làm thay đổi cuộc đời của một con người. Đôi
khi, chỉ có lòng tốt và sự hiền lành thôi thì chưa đủ. Đôi khi, cuộc
sống sẽ cho mỗi người một cơ hội nữa…
Một
ngày, sau khi hết tiết giảng và trở về văn phòng, bảo vệ đưa đến cho
tôi một số tiền cùng hóa đơn thanh toán. Cả chục triệu đồng tiền nợ… Tôi
thấy rất kỳ lạ, không nhớ nổi là đã cho ai mượn số tiền này. Nhìn vào
cột người gửi, tôi thấy viết “Cậu bé ăn xin của 20 năm trước”… mọi kỷ niệm chợt ùa về. Tôi tự hỏi, chẳng lẽ là cậu bé đó sao ?
20
năm trước, hồi đó mẹ tôi còn làm nghề bán hàng cơm cho học sinh ở cổng
trường học. Bà thấy nhiều đứa trẻ rất khổ và đáng thương nên luôn làm
những hộp cơm ngon hơn mà chỉ bán với giá rẻ. Vì thế học sinh đến mua
cơm rất đông.
Tôi
vừa tốt nghiệp đại học, đang chờ được phân công tác, nên đã ra phụ mẹ
bán cơm. Trong một lần bận rộn phục vụ những em học sinh vừa tan học,
tôi bỗng nhiên cảm thấy ai đó đi qua quệt phải lưng mình. Đó là một cậu
bé chừng 10 tuổi, mặc một bộ quần áo mỏng, rách tả tơi, trong khi trời
đã bắt đầu vào đông.
Khi
đó, như đã rất quen thuộc, mẹ tôi liền mỉm cười rồi đưa cho cậu bé một
hộp cơm. Không đợi tôi cầm hộ, cậu bé vội giật lấy cơm, ném tiền vào hộp
rồi chạy mất. Một học sinh bên cạnh tức giận nói: “Thằng ăn mày này toàn lừa tiền cơm, rất nhiều lần đều như vậy, nếu lần sau còn thế thì phải dạy cho nó một trận!”. Tôi ngạc nhiên kiểm tra lại hộp tiền, thì thấy quả thực là cậu bé chỉ đưa có 1 tờ 200 đồng.
Khi tôi trách mẹ quá sơ ý, bà nói: “Mẹ
biết mỗi lần thằng bé chỉ bỏ vào đó 1 tờ 200 đồng. Chỉ có điều ta cũng
nên giữ đạo nghĩa. Đứa trẻ này đã mất cả cha lẫn mẹ, rất đáng thương, mẹ
cũng chỉ có thể giúp nó đến như vậy.”
Tôi không đồng ý nói: “Mẹ thật quá hồ đồ, đây mà là giúp cậu ta sao?”.
Nhưng tôi chưa kịp nói xong thì đã bị mẹ la mắng. Tôi biết rõ là dù có
nói gì cũng vô dụng, mẹ suốt ngày niệm Phật, chỉ một lòng muốn giúp
người khác, nhưng lại không nghĩ sâu hơn. Thế là tôi đột nhiên muốn xử
lý thật tốt chuyện này.
Ngày
hôm sau, cậu bé ăn xin lại tới. Cậu ta vẫn giành lấy cơm như những lần
trước, ra vẻ rất vội vàng và chuẩn bị ném tiền vào hộp. Lúc đó tôi thình
lình nắm lấy tay cậu… tờ tiền ít ỏi rơi ra ngoài. Mọi người đều quay
lại nhìn, làm cậu bé rất bối rối, xấu hổ, và chực khóc. Lúc đó tôi cười
nói: “Mua như vậy thì không đủ ăn đâu! Em cứ lấy cơm đi, phần còn thiếu sau này hãy trả”. Nói xong tôi thả tay cậu ra.
Cậu bé sợ hãi cầm hộp cơm, ánh mắt tràn đầy nghi hoặc. Tôi lại bảo: “Đi đi, anh biết rõ em nhất định sẽ trả! Nhớ nhé! Sau này phải trả cả vốn lẫn lãi!”. Cậu bé suy nghĩ mất một lúc, rồi sau đó im lặng quay người, đi thẳng từng bước một, chứ không còn chạy như trước kia nữa.
Kể từ đó, cậu vẫn thường đến ăn, và trả 200 đồng…
Đang suy nghĩ miên man thì anh Trương lại vội vã quay lại nói với tôi: “Tôi quên! Còn một phong thư nữa!”
Nhận lấy phong thư, tôi vội vàng mở ra đọc. Trong thư viết:
“Tôi
cuối cùng đã tìm được địa chỉ của anh. Suốt bao năm tìm kiếm, tôi mới
có thể đem tiền trả lại, mới có thể hoàn lại ân tình 20 năm về trước.
Lúc đó tôi đã lang thang khắp nơi, thường xuyên chịu đói rét. Một lần
tôi tới cổng trường học giả vờ mua một hộp cơm. Tôi ném thử tờ 200 đồng
vào hộp rồi nói xin mua cơm. Lúc đó tôi nghĩ, dù có bị phát hiện đi nữa
thì dì bán cơm cũng rất hiền lành, sẽ không trừng phạt tôi. Nhưng dì
cũng không phát hiện ra, tủm tỉm cười rồi đưa tôi một hộp.
Sau
đó tôi bắt đầu dựa vào thủ đoạn và mánh khóe để có được bữa ăn. Tôi cảm
thấy người tốt trong xã hội rất dễ bị lừa. Tôi thường xuyên nói dối, và
trộm đồ trong hành lang, còn định trộm cả trong cửa hàng nữa. Lần đó
khi bị anh tóm lấy, tôi đã nghĩ mình vậy là xong rồi, bị đánh rồi. Nhưng
tôi đã không phải chịu trận đòn nào, mà lại còn được anh thả đi. Những
lời nói của anh đã bảo vệ danh dự cho tôi, khơi dậy trong tôi mong muốn
làm người tốt thực sự. Trong những năm sau này, mỗi khi nhớ đến ánh mắt
của anh, tôi lại có thể tránh xa những điều xấu. Và dù phải tìm kiếm
khắp nơi, dù phải đi bao xa, mất bao nhiêu thời gian, tôi vẫn muốn hoàn
thành lời hẹn ước cũ.”
Và sự thành thật của cậu bé ăn xin cuối cùng đã được đền đáp…
“Một ngày nọ, khi nhìn thấy tôi ngồi co ro vì giá rét, một phụ nữ
đã trở về nhà mang cho tôi mấy chiếc áo. Sau đó tôi phát hiện trong túi
áo có rất nhiều tiền. Lúc đó tôi rất đói, rất muốn giữ lại số tiền này,
nhưng ánh mắt của anh lại hiện lên làm tôi thay đổi ý nghĩ. Tôi phải
mất cả ngày mới tìm được nhà người phụ nữ nọ. Hai vợ chồng họ đã rất
ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi tới trả lại tiền. Họ khóc nức nở ôm tôi vào
lòng, rồi liên tục nói tôi là đứa trẻ tốt. Khi đó con gái hai vợ chồng
vừa bị bệnh mà qua đời, tôi may mắn trở thành con nuôi của họ. Cuộc sống
từ đó trở nên tốt hơn, tôi được cha mẹ nuôi thương yêu hết mực, được đi
học. Giờ tôi đã trở thành giáo viên…”
Đúng là cậu ta! Quả là một niềm vui ấm áp. Tôi thầm cảm thấy may mắn vì đã không vô tình hủy hoại một con người. Cậu bé ăn xin học được đức tính thành thật ngay thẳng, vì vậy mà đã gặp một gia đình tốt.
Giờ đây đứng trên bục giảng, chắc chắn cậu bé ăn xin năm xưa sẽ nói với học sinh của mình rằng: “Chỉ có thành thật mới mang lại hạnh phúc!”
st. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23789 |
![]() ![]() ![]() |
Thằng Ngốc![]()
Thật
ra, nó có tên do cha mẹ đặt thật đẹp, Phạm Bảo Long, con rồng quý của
bố nó. Nhưng cho tới bây giờ, cái tên mà nó được người ta gọi nhiều nhất
lại không phải là Long. Thay vào đó, nó đã trải qua rất nhiều tên khác
nhau mà người ta đặt ra để gọi nó: Ngu, Ngốc, Mát, Tưng Tửng, Khờ, v.v…
Chẳng hiểu tại sao người ta sàng đi, sàng lại rồi ngừng ở chữ Ngốc !
Ngay cả anh chị của nó cũng gọi nó là Ngốc. Trong một lần bốc đồng,
thằng Lân, anh nó, đã láo lếu đổi chữ “Bảo” trong tên đệm của nó thành
chữ “Ngoc”, thế là nó trở thành Phạm ( Ngoc ) Long ! Vài năm trôi qua,
tiếng Việt của thằng Lân khá hơn, nên đã “đội mũ”, “đeo kiếm” để “Ngoc”
chính thức trở thành “Ngốc”. Ông bà Phan, bố mẹ nó, mặc dầu cố tránh
nhưng vì quen tai, lâu lâu cũng gọi nó là Ngốc.
Mà
này, không những nó không giận mà ngược lại, nó có vẻ vui khi thấy
người xung quanh có những trận cười khi gọi nó là Ngốc. Nói cho bằng
đúng, trong trí khôn chậm chạp của nó, nó chả biết giận. Cho tới hôm
nay, trí khôn trong thân hình gần 30 tuổi của nó tương đương với trí
khôn của đứa bé 8, 9 tuổi.
Những
mẩu đàm thoại hằng ngày giữa nó với anh chị hoặc bố mẹ đều là những câu
đơn sơ, vô tội vạ. Những câu tiếng Việt “ba rọi”, ngây thơ của nó có
lúc đã trở thành những câu nói thật tức cười. Ông bà Phan còn nhớ thời
kỳ Lân, Lan, và nó mới học tiếng Việt, chúng nó thích ngồi xem những
băng truyện cổ tích Việt Nam. Một hôm ba anh em đang xem phim với bố,
tới đoạn nghe một nhân vật trong phim dùng chữ “cụ ông”, “cụ bà”, thằng
Lân thắc mắc hỏi bố hai chữ đó có nghĩa là gì.
Ông
Phan ôn tồn: “Cụ” là một lời lễ phép được dùng khi nói chuyện với một
người già, một “old person”. Lập tức, thằng Lân nhìn bố rồi nói một
cách khôi hài: “Cụ Bố”. Vừa lúc đó thì bà Phan từ trong bếp bước vào
phòng khách, chưa kịp nói gì thì thằng Ngốc đã đứng lên chỉ vào mẹ rồi
nói lớn: “Cụ Mẹ !” Bà Phan tá hỏa. Trợn trừng đôi mắt giận dữ: “Chúa ơi,
đứa nào dạy thằng Ngốc nói tục !” Anh em thằng Ngốc chẳng hiều tại sao
mẹ giận. Riêng ông Phan thì vừa ôm bụng cười vừa giải thích. Bà Phan thở
phào nhẹ nhõm sau khi biết rằng đó chỉ là một câu nói vô tội vạ, rất
“ngố”, của thằng Ngốc.
Rồi
thằng Ngốc cũng được cắp sách đi học. Cũng may mà nước Mỹ có chương
trình học tập cho những đứa trẻ như nó. Nếu gia đình ông bà Phan không
tỵ nạn sang đây thì chắc nó chẳng bao giờ được biết đến ghế nhà trường.
Nó cũng mang về những phiếu điểm và phần thưởng cuối năm nhưng bố mẹ nó
chỉ xem cho qua rồi bỏ sang một bên. Cũng may mà nó không đủ khôn để
nhận ra sự thất vọng của bố mẹ khi so sánh phiếu điểm của nó với của Lân
và Lan, chị nó. Cũng may mà nó không nghe, hay ít nhất, không hiểu
những lời than van của ông bà Phan khi nói về nó. Đối với ông bà, thì
thằng Lân và con Lan rồi đây sẽ là niềm hãnh diện, sẽ là ông này bà nọ,
sẽ có nhà cao cửa rộng, sẽ là đìểm để ông bà tựa nương lúc tuổi già, còn
thằng Ngốc thì chắc mãi mãi sẽ chỉ là một gánh nặng mà họ sẽ không bao
giờ có hy vọng trút bỏ được !
Ngày tháng trôi qua, thằng Ngốc cứ thế ăn no chóng lớn. Trí óc nó chậm phát triển nhưng thân thể thì càng ngày càng nảy nở. Từ năm 14 tuổi nó đã cao hơn các anh chị nó cả cái đầu. Nó chẳng làm được những việc lớn nhưng ngược lại, rửa chén, quyét nhà, rửa xe, nói chung là những việc lặt vặt không cần tính toán thì nó làm giỏi hơn cả Lân và Lan. Thằng Ngốc lại chẳng mấy khi bị bệnh. Một trong những niềm vui của nó là đi nhặt ống loong cho Nhà Thờ. Có những ngày mưa, nó ướt như chuột lột, thế mà nó chả ốm đau gì cả!
Rồi
khác với các anh chị và những đứa trẻ cùng tuổi, nó chẳng bao giờ đòi
hỏi bố mẹ phải mua cho nó thứ gì. Đôi giầy bata và vài bộ quần áo mua
trong Wal-Mart hoặc mua lại trong chợ bán đồ cũ cũng đã quá đủ. Thằng
Ngốc chẳng màng tới những chuyện đã xảy ra hôm qua hay những bất trắc có
thể đến ngày mai. Nó sống hoàn toàn cho hiện tại. Đó hình như cũng là
mối đau đớn của bố mẹ nó.
Năm
19 tuổi thằng Ngốc “tốt nghiệp” trung học. Nó cũng đội mũ, mặc áo ra
trường như các anh chị. Nó thấy bố mẹ, nhất là mẹ, rươm rướm nước mắt
khi nó ôm mảnh bằng tốt nghiệp đến. Nó đâu có đủ trí khôn để phân tách
xem đó là những giọt nước mắt vui hay buồn. Nó đâu biết rằng ngày Lân và
Lan ra trường bố mẹ nó vui bao nhiêu thì sau buổi ra trường của nó, bố
mẹ nó buồn bấy nhiêu. Có lẽ buồn nhất là vì bố mẹ nó không thể khoe với
bất cứ ai là nó sẽ theo ngành gì và đã được trường nào nhận cho học. Mai
đây, nó sẽ làm gì để sống ? Ông bà sẽ phải nuôi, phải hầu hạ nó đến bao
giờ ? Khi ông bà về già, sau khi ông bà chết, thì ai sẽ nuôi nó ?
Sau
ngày “ra trường”, để nó lanh quanh ở nhà cũng thấy uổng, ông Phan bảo
nó xuống tàu theo ông đi đánh tôm ở vịnh Mễ Tây Cơ. Nó không lái tàu
được, không vá lưới được, nhưng ông nhận thấy công việc nhặt tôm và
khuân vác thì nó làm bằng mấy người khác. Thêm vào đó, nó chẳng phàn nàn
và cũng chẳng đòi hỏi “tiền phần” như những người làm công khác. Ngày
qua ngày, nó chỉ biết ăn, ngủ, rồi nhặt tôm. Cuối tuần sau khi bán tôm
xong, bố nó chở nó đi ăn McDonald’s rồi cho nó năm đồng. Nó cầm tiền về
khoe mẹ rồi bỏ vào con heo đất để Chúa Nhật lại “mổ” heo mang lên bỏ vào
thùng từ thiện trong Nhà Thờ – cái thói quen mà mẹ đã tập cho nó từ bé.
Đi
biển với bố được năm năm thì trận bão Katrina thổi vào thành phố nơi
gia đình nó cư ngụ. Sau những ngày chạy bão, gia đình nó trở về trong
cảnh nhà tan tàu nát ! Chẳng biết làm gì khác để sống, bố nó cố sửa lại
con tàu để đi làm hầu có tiền trang trải chi phí nhà cửa. Các anh chị
của nó đã thành công, cả hai đều đã lập gia đình, công việc ngon lành,
nhà lớn, xe hiệu nhưng khi bố hỏi mượn tiền để sửa lại căn nhà hư hại
thì cô cậu thoái thác. Năn nỉ mãi, cô cậu gởi về cho bố mẹ được vài trăm
bạc rồi im luôn ! Nhìn lại những năm tháng ông bà hy sinh bòn nhặt từng
đồng để gởi cho cô cậu trang trải tiền ăn, tiền học, tiền tiêu, tiền
xe, tiền chưng diện… Ông bà thở dài, tự an ủi, thôi… nước mắt chảy xuôi…
Với
số tiền vay mượn và ít tiền giúp đỡ của chính phủ liên bang cùng với
công sức của ông và thằng Ngốc, sau gần một năm sửa chữa, con tàu cũng
ọc ạch chạy ra biển. Thôi, cứ sửa tạm để đi làm rồi khi có tiền sẽ tu bổ
lại những chỗ còn tạm dùng được. Ông Phan tự an ủi thế.
Thả
mẻ chã đầu tiên được vài tiếng, mặc dầu biết là nó không lái tàu được
nhưng ông Phan cũng nhờ thằng Ngốc đứng cầm tay lái để con tàu khỏi quay
rồi ông và chú làm công ra phía sau kéo chã. Sóng khá lớn, con tàu vật
vã trên ngọn sóng làm cho việc kéo chã thật khó khăn. Gần mười phút sau
thì bọc tôm khổng lồ mới được đưa lên lơ lửng trên sàn tàu. Nhìn bọc tôm
cá to bằng nửa chiếc xe hơi, ông Phan vui ra mặt. Vạn sự khởi đầu nan
nhưng mẻ lưới đầu tiên mà trúng như thế này thì đúng là tổ đãi !
Sau
chuyến này chắc ông sẽ trả được một phần nợ, sắm sửa thêm được những
thứ cần thiết, thậm chí ông có thể xẻo ra vài trăm đô tặng riêng vợ để
bà Phan có thể mua được vài bộ quần áo thay thế cho những bộ đã bị bão
cuốn đi. Hình dung khuôn mặt rạng rỡ của vợ khi cầm tiền đi shopping,
ông quên cả sóng gió, quên cả mệt.
Bình
thường nếu không có sóng gió, và khi bọc tôm đã được treo lủng lẳng
trên sàn tàu, ông Phan chỉ cần cởi sợi dây cột đuôi bọc tôm thì khối tôm
cá sẽ tuôn ra thành một đống trên sàn tàu. Khổ nỗi sóng lớn quá. Bọc
tôm cứ lắc qua bên này, quật sang bên kia. Ông Phan cầm sợi dây thừng đã
cột sẵn trên bọc tôm, cố giữ để nó đừng vùng vẫy theo ngọn sóng. Đang
vật lộn với bọc tôm thì… Ầm, cây cần cẩu dùng để cẩu bọc tôm bị gẫy. Nó
gẫy ở ngay đoạn ông chưa có tiền sửa !
“Lạy
Chúa tôi…” Tiếng la thất thanh chưa dứt thì bọc tôm cá ngàn cân quật
ông Phan vào thành tầu. Đầu ông vẹo về một bên còn phần thân thể từ bụng
trở xuống thì bị kẹt bên dưới túi tôm cá – tựa như con voi đè lên con
nai gầy. Con tàu vẫn tiếp tục vùng vẫy. Cố gắng hết sức mà sau gần năm
phút chú làm công vẫn không thể cứu ông Phan ra khỏi núi tôm cá. Ngoài
thằng Ngốc ra thì chẳng ai có thể giúp chú trong lúc này.
Chú
làm công chạy vào phòng lái, vội vã cột lại dây để tay lái khỏi quay
rồi lôi thằng Ngốc ra phía sau cứu bố nó. Bình thường nó đã khỏe hơn
người nhưng hôm nay, trong lúc khẩn cấp này, hình như sức mạnh của thằng
Ngốc được tăng lên gấp đôi. Nó hết đẩy rồi lại kéo bọc tôm để chú làm
công tìm cách giải thoát bố nó. Khoảng gần năm phút sau hai chú cháu mới
lôi được ông Phan ra khỏi đống tôm cá và khênh ông vào trong phòng lái.
Ông Phan vẫn bất tỉnh. Trong bộ quần áo ướt tanh mùi tôm cá, thân hình
gầy gò đen đủi của ông thoi thóp thở !
Chú
làm công đã liên lạc với Coast Guard và máy bay cấp cứu đang trực chỉ
về phía con tàu khốn khổ. Một giờ sau thì ông Phan được trực thăng mang
thẳng vào bệnh viện. Chú làm công lái con tàu và mang Ngốc về đất liền
cho mẹ nó.
Kể
từ ngày đó, ông Phan bị liệt từ thắt lưng trở xuống. Hai cánh tay ông
còn cử động được nhưng chỉ cử động một cách rất yếu ớt. Ngay cả việc
dùng muỗng xúc cơm ông cũng phải nhờ đến bà Phan hoặc thằng Ngốc giúp.
Rồi ông bà không có bảo hiểm nên tiền bán chiếc tàu cũng chỉ đủ trang
trải ít chi phí trong vài tháng. Bà Phan bắt buộc phải trở lại công việc
cạy sò, lột tôm cho một hãng bào chế hải sản gần nhà nhưng với số tiền
thu nhập ít ỏi, cuộc sống gia đình ông bà vẫn thiếu trước hụt sau. Vài
trăm ngàn nợ bệnh viện chẳng biết bao giờ mới trả được ?
Thông
cảm với hoàn cảnh của ông bà Phan, bệnh viện đã cho ông bà cơ hội trả
góp mỗi tháng vài trăm đồng. Nhưng mặc dù vài trăm, với tình trạng này,
một ngày rất gần đây chắc ông bà Phan cũng đành phải chạy nợ ! Thằng Lân
và con Lan có mang gia đình về thăm nhưng được khoảng hai tuần thì cũng
phải ai về nhà nấy.
Rồi
thằng Ngốc lại có công việc mới. Sau vài tuần được mẹ chỉ dẫn, nó đã
giúp được mẹ đút cơm, thay tã, bế bố cho mẹ tắm rửa v.v… Những lúc cần
mua bình sữa, bó rau, cuộn giấy, mẹ nó viết vào tờ giấy, đưa tiền rồi
nhờ nó đạp xe ra tiệm tạp hóa ở đầu đường gần nhà mua cho bà. Ông chủ
tiệm tạp hóa biết nó từ bé và biết rõ hoàn cảnh hiện tại của bố mẹ nó
nên bao giờ cũng nhiệt tình giúp mỗi khi nó ra mua đồ.
Bà
Phan thầm nghĩ, cũng may mà có thằng Ngốc, cũng may mà trời cho nó to
lớn có sức khỏe; bằng không, chẳng sao mà bà có thể lo cho ông Phan như
thế này được – nhất là những lúc phải bế ông từ chỗ này đến chỗ khác.
Ông bà Phan đã nhiều lúc tự hỏi không hiều vì nó quá khờ khạo, quá ngốc,
hay vì nó thật tâm thương ông bà nên đã không nhận ra hoặc không ghê
tởm sự thối tha bẩn thỉu mỗi khi làm vệ sinh, thay tã cho bố nó ?
Ông
Phan sống trong tình trạng này được ba năm thì sức khỏe yếu dần. Mặc
dầu vẫn được chăm sóc kỹ lưỡng, ông thường xuyên bị lở loét, xưng phổi,
cao áp huyết, và những bệnh liên quan đến hô hấp. Gia đình hai đứa con
lớn, vì nhiều vấn đề, ít khi về thăm ông bà. Những kỳ vọng mà ông bà đã
đặt vào Lân và Lan mười mấy năm trước chắc sẽ không bao giờ thành sự
thật ! Sự chu đáo của bà Phan và của thằng Ngốc có làm cho ông vui nhưng
cũng không thể nào xóa đi được sự tuyệt vọng mỗi khi ông nghĩ về bệnh
tật của mình !
Ông
biết bà Phan và thằng Ngốc, qua con mắt trìu mến ngây thơ của nó, vẫn
muốn ông hiện hữu trên đời này. Mặc dầu vất vả trăm bề nhưng vợ ông và
thằng Ngốc không bao giờ than van khi phải giúp đỡ hầu hạ ông. Những năm
tháng nằm liệt trên giường bệnh, ông đã hiểu rõ và nhận ra đâu là
nghĩa, đâu là hiếu. Ông nhận ra rằng thằng Ngốc không phải là gánh nặng
mà ngược lại nó là người con duy nhất đã, đang, và sẽ gánh những gắnh
nặng cho ông bà.
Trong
một đêm trằn trọc, nằm ôn lại những ngọt bùi cay đắng của cuộc đời, ông
bà Phan nhận ra rằng trong cuộc đời gần 30 năm, họ chưa thấy thằng Ngốc
đòi hỏi bất cứ điều gì. Chưa bao giờ nó đòi hỏi ông bà, hay những người
chung quanh, phải như thế này, phải như thế nọ. Trong con người bao
dung, trong ánh mắt thơ ngây, nụ cười nhân ái, hình như có lúc nó đã
gián tiếp nói với ông bà rằng “con không phải là đứa trẻ thông minh,
lanh lẹ, như bố mẹ mong muốn. Nhưng con là con của bố, là con của mẹ.
Con không chọn để được sinh ra làm một thằng “Ngốc”, ngay cả cái tên
“Ngốc” cũng do người ta gán cho con chứ không phải do con chọn. Vậy con
xin bố mẹ thương và chấp nhận con như con thương và chấp nhận bố mẹ…”
Ông
bà Phan nhìn nhau ứa nước mắt. Phải rồi, cả đời, thằng Ngốc đã cho
nhiều hơn nhận. Nó cho mà không bao giờ đòi hỏi một điều kiện. Tình yêu
mà nó dành cho mọi người là một tình yêu tuyệt đối, chân thật, không vụ
lợi. Trong tim của thằng Ngốc chất chứa tình yêu của vị thánh hiền. Nó
đã dạy cho ông bà bài học tình yêu. Qua sự bao dung của nó, người chung
quanh, nếu để ý, sẽ nhận ra rằng, con người khôn hay ngốc, sang hay hèn,
đều có những nét đẹp (hoặc xấu) của riêng họ.
Cuối
cùng cái ngày đó cũng phải tới ! Mẹ nó nhờ nó ngồi trên chiếc ghế bên
cạnh giường rồi đưa tay vào nâng đầu bố dậy để ông dễ thở. Ông Phan biết
là ông sắp từ bỏ những gì thân yêu nhất. Trong hơi thở mong manh, ông
nhìn bà Phan và nhìn thằng Ngốc trăn trối: “Cám ơn em… cám ơn con ! Anh
có… một điều muốn… nói với em. Từ nay… em và các con… đừng gọi Long là…
thằng Ngốc nữa… Gọi nó là… Ngọc. Nó là… viên Ngọc quý !”
Trong
tiếng nức nở của bà Phan và trên cánh tay êm ấm của thằng Ngọc, ông
trút hơi thở cuối cùng. Gia đình Lân và Lan vẫn chưa về đến nơi ! Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 02/Apr/2016 lúc 2:47pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Hồn Tử sĩ <<<<<
Hồn
tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt
chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh
phu tử sĩ mấy người
Nào ai
mạc mặt nào ai gọi hồn.
Chinh Phụ Ngâm
Câu chuyện xảy ra rất nhiều năm trước khi tôi còn là một người đàn
bà trẻ. Sau khi Miền Nam mất vào tay cộng sản chồng tôi bị bắt đi học tập cải tạo
(đó là những danh từ mỹ miều mà họ đặt ra để đánh lừa mọi người chứ thật ra phải
gọi là đi tù mới đúng). Chồng đi tù, tôi về nương náu nhà cha mẹ với đứa con
gái chưa đầy hai tuổi và chẳng biết làm gì để sống.Tôi thử nạp đơn xin làm lại ở
một ngân hàng thì bị từ chối. Gia đình tôi thật bi đát.
Cha bị học tập cải tạo tại chỗ. Nhà có bốn người con trai thì đi tù hết ba người chỉ còn thằng em út mười hai tuổi và năm con gái chưa đứa nào có chồng trừ tôi có chồng đi tù. Chúng tôi sống nhờ sự lanh lẹ của mẹ dù trước kia cha là công chức mẹ chỉ làm việc nội trợ. Sau bảy lăm cả nhà thất nghiệp mẹ bắt buộc phải ra chợ, bắt đầu là bán đồ đạt trong nhà sau đó những người hàng xóm gởi đồ đạt nhờ bán giùm dần dần mẹ trở thành một người buôn bán chợ trời bất đắc dĩ.
Mẹ
tôi cũng chẳng được tự do để hành nghề, bởi mấy bà tổ trưởng, tổ phó trong xóm
gặp mẹ cứ nói xa nói gần những lời sặc mùi xã hội chủ nghĩa đại khái như bà
chưa chấp hành tốt đường lối của nhà nước ta nên còn mua bán linh tinh. Bà
không biết hưởng quyền lợi chính trị của nhân dân mà nhà nước đã ban nghĩa là
không chịu đi họp tổ dân phố mỗi đêm. Bà chưa biết giáo dục con cái tốt theo đường
lối của nhà nước vì con cái không đứa nào có việc làm.
Mỗi lần nghe bọn họ chiếu cố đến gia đình mình quá mẹ chỉ cười trừ rồi nói giả lả cho qua chuyện:
-
Tụi nhỏ cũng đang kiếm việc làm ngặt nổi lý lịch gia đình tôi không được trong
sạch nên cũng có đôi chút khó khăn.
- Bà không quán triệt đường lối của nhà nước,
nhà nước ta bao giờ cũng khoan hồng cả ai làm tội người ấy chịu. Các con
trai bà có tội với nhân dân thì phải đi
học tập cải tạo, càng học nhiều càng tốt chứ có sao đâu. Còn các con gái bà thì
không bị ảnh hưởng gì, mà nói bà đừng buồn chứ các cô ấy còn bị ảnh hưởng đời sống
phồn hoa giả tạo của Mỹ Ngụy nhiều quá cần phải được giáo dục.
Mẹ
tôi hỏi:
-
Bà nói vậy nghĩa là sao, các con gái tôi xấu xa thế nào mà cần giáo dục thêm và
ảnh hưởng đời sống phồn hoa giả tạo của Mỹ ngụy là gì?
-
Chẳng qua là lối ăn mặc của các cô ấy không phù hợp với thời buổi kinh tế mới
này.
Mẹ
tôi cười khẩy:
-
Bà muốn nói tới mấy cái quần tây tụi nó hay mặc đó hả. Thời buổi này vải vóc
khan hiếm không có việc làm lấy tiền đâu mà mua vải đen. Còn người Liên Xô, họ
cũng là nước xã hội chủ nghĩa mà đàn bà họ cũng mặc quần tây đó thì có sao đâu?
-
Họ khác mình khác.
-
Chẳng có gì khác cả cũng anh em với nhau thôi!
Mẹ tôi về nhà hay kể chuyện cãi lý với mấy trong hội phụ nữ cho chúng tôi nghe thì cha thường la rầy:
-
Mẹ con tụi bây nhiều chuyện quá. Còn bà coi chừng có ngày cũng vô nhà đá mà nằm
thôi trong gia đình này đi tù chừng đó chưa đủ hay sao? Ăn thua làm chi với bọn
trở cờ, gió chiều nào chúng theo chiều đó.
Cha nói đến ngôi nhà đá cổ của người Pháp xây từ lâu lắm rồi, sau năm bảy lăm chính quyền cách mạng trưng dụng để làm nơi thẩm tra và giam cầm những thành phần phản động trong phường ấp. Ai nghe đến ngôi nhà đá cũng rùng mình kinh sợ.
-
Ở ngoài này có hơn gì trong nhà đá. Bữa hôm đi thăm nuôi nghe nói
mấy đứa con phải làm trâu bò kéo cày lòng tôi đau đớn quá ông ơi. Tôi
đâu có muốn sống ngặt nỗi còn mấy đứa con gái, tôi chết thì tụi nó ra sao đây.
Thêm mấy đứa cháu nữa, khổ quá trời ơi là trời!
Rồi
mẹ khóc òa lên làm bọn tôi cũng khóc theo, cha chặc lưỡi:
-
Bởi vậy tôi mới khuyên bà là phải nhường nhịn chúng nó, sông có khúc người có
lúc bà ạ. Vận nước tang thương ai ai cũng khổ chứ có riêng mình đâu!
Tôi nhớ có lần theo mẹ ra chợ trời bán mấy cái áo dài, áo đầm không còn dịp để mặc nữa. Mẹ căn dặn tôi phải trông cho kỹ không thôi bọn gian sẽ đánh cắp và khi bán phải biết nói thách để họ mặc cả, tôi cứ nói giá mình muốn bán nên không ai thèm mua. Tôi đi theo mẹ được vài ngày thì bà kết luận:
-
Con thật thà quá không buôn bán được đâu!
Tôi
lại mắc cở cứ dấu mặt dưới nón lá nên mẹ khuyên:
- Không có gì phải xấu hổ, mình không đi ăn cắp
thì tại sao phải mắc cở.
Tôi
vâng dạ nhưng thấy làm sao ấy, mình đang lê la ở cầu thang chợ nơi mà ngày xưa
mình hay qua lại dạo chơi.
Tôi
ra chợ trời được vài lần rồi thôi vì mẹ nói tôi không có duyên bán hàng. Mẹ nói
cũng không đúng lắm vì sau này khi chồng đi tù về sinh có thêm một đứa con nữa,
tôi cũng phải lăn xả vào đời để nuôi hai con. Chuyện vợ người tù cải tạo của
riêng tôi còn cái đoạn hậu tràn đầy nước mắt ít ai bì kịp.
Khi chồng đi tù hơn một năm thì có lệnh của phường đưa xuống tất cả phụ nữ có chồng đang học tập cải tạo trong thành phố Đalat được làm đơn bảo lãnh chồng về, thật ra đây cũng là một trò trấn an và lừa đảo của bọn họ thôi mà sau này tôi mới hiểu bởi vì tám năm sau chồng tôi vẫn chưa về. Chị em mừng rỡ rủ nhau qua phường làm đơn. Khai lý lịch cũng chẳng có chi là khó nhưng đến tiết mục so sánh đời sống của gia đình hiện nay với đời sống trước năm bảy lăm thì tôi bí. Tôi bèn hỏi ý kiến ông tổ trưởng viết làm sao cho chồng mau được về. Ông tổ trưởng nói:
-
Chẳng có gì là khó đâu cô cứ nói sự thật thôi!
-
Sự thật như thế nào hả chú?
-
Sự thật là như thế này gia đình tôi trước khi giải phóng rất khó khăn về kinh tế
từ sau giải phóng nhờ ơn đảng và nhà nước đời sống có phần dễ chịu, no ấm hơn
nhiều!
À ra vậy mà tôi ngu quá không hiểu. Trong buổi làm đơn bảo lãnh tôi quen chị Mai Linh cũng có chồng đi tù. Chị ăn nói có vẻ nhỏ nhẹ dễ thương, chị khuyên tôi nên vào tổ hợp thêu mà làm vì trong các tổ hợp họ không chú ý đến lý lịch, lương tiền không bao nhiêu nhưng tránh được những đôi mắt cú vọ của mấy bà phụ nữ trong xóm. Trước năm bảy lăm tôi hầu như không biết ai nhiều vì nhà tôi ở trên một con đồi nhỏ khá xa với làng xóm bên dưới. Sau này khi vào tổ dân phố thì gia đình tôi phải sinh hoạt với mọi người trong xóm và trong những buổi sinh hoạt đó là những dịp tốt cho họ dòm ngó, phê bình. Có nhiều lần họ còn đề nghị cho gia đình tôi đi vùng kinh tế mới dù cha mẹ tôi có nhà cửa đàng hoàng và đã trú ngụ gần bốn mươi năm ở Đalat. Lần đó cha tôi phản ứng mạnh, ông nói thà chết chứ không bỏ cơ ngơi mà ông đã gầy dựng bao nhiêu năm cho người khác hưởng. Thấy cha cương quyết quá họ đành chịu thua. Chị Mai Linh nói đúng, vào tổ hợp thêu rồi thì sáng sớm tôi đi tối mịt mới về nên không bị chú ý nhiều nữa. Tôi lại lấy cớ hàng ngày có hưởng quyền lợi chính trị trên tổ hợp rồi (họp hành!) nên thỉnh thoảng có thể từ chối quyền lợi ở địa phương. Mỗi buổi sáng dậy sớm đón xe lam ra phố, chỉ cái việc dành một chỗ trên xe lam cũng quá khó khăn vì chẳng còn ai biết lịch sự hay lễ độ nữa. Mạnh ai nấy dành, mạnh ai nấy chen lấn nếu người nào lịch sự thì chỉ có nước đứng ở bến xe cả ngày.
Nhìn
xung quanh mọi ngườì đều không che dấu được sự nghèo đói, bần hàn. Từng khuôn mặt
biểu lộ niềm lo âu, khắc khoải trong khi đó chiếc loa phóng thanh gắn trên mấy
cái cột đèn cứ ra rả nói về thắng lợi của vụ mùa đông xuân, vụ hè thu. Giọng những
xướng ngôn viên gằn gằn từng câu ca ngợi xã hội chủ nghĩa, ca ngợi bác và đảng.
Lâu lâu tin tức ngừng lại nhường cho những
giọng ca với âm điệu the thé chói tai
trong mấy bài hát đượm mùi tử khí. Tôi còn nhớ bài Cô Gái Vót Chông với câu
“còn giặc Mỹ cọp beo có còn giặc Mỹ cọp beo” nghe mà phát khiếp. Họ có biết đâu
dân miền Nam đã chán họ đến đầu đến cổ, ngươì dân tìm an ủi hạnh phúc khi lén
nghe đài ngoại quốc và kể chuyện vượt biên.
Đi làm mỗi tháng được chưa đến 50 đồng mà tiền
xe lam đã gần 80 đồng rồi, nếu làm đủ sản phẩm thì được 12 ký gạo mua theo giá nhà nước. Tôi cố gắng làm
đủ chỉ tiêu để lãnh gạo phụ với mẹ tôi nuôi con, nuôi cháu vì anh em tôi đi tù
chị dâu cũng dẫn mấy đứa cháu nội về ở chung trong nhà. Mẹ tôi thỉnh thoảng còn
phải đi thăm tù nữa thật là đoạn trường ai có qua cầu mới hay.
Thành
phố Đalat là một thành phố du lịch nổi tiếng đẹp và thơ mộng bỗng trở nên héo hắt
với những dãy phố đóng cửa im lìm. Nhiều hôm đang đi giữa phố lòng tôi bỗng quặn
đau thương nhớ những ngày vui xưa. Còn đâu khu Hòa Bình với những chàng sinh
viên trường Võ Bị Quốc Gia hay Chiến Tranh Chính Trị trong y phục mùa đông màu
rêu đậm khi loài hoa quỳ bắt đầu thắp vàng trên những ngọn đồi trong thành phố.
Hàng cây anh đào ven hồ Xuân Hương trổ hoa hồng thắm và phiên chợ mùa đông dập
dìu tài tử giai nhân trên Domaine de Marie.
Phố
xá vui tươi nhộn nhịp với muôn ngàn màu sắc. Nữ sinh trường Bùi Thị Xuân hai má
ửng hồng trong màu áo len xanh dịu dàng. Nữ sinh trường Việt Anh với màu tím
hoa cà e ấp. Những thiếu nữ Lycée Yersin
với những bộ cánh Tây Phương sang trọng hợp thời. Học sinh nội trú Couvent des
oiseaux, Franciscan, Nazareth, Lasan D’ Adran, sinh viên trường Chính Trị Kinh
Doanh. Mọi người đổ xô ra khu phố Hòa Bình, Café Tùng, Mékong, nhà Thủy Tạ, đồi
Cù trong những ngày cuối tuần tạo cho Đalat một sắc thái đặc biệt Tây Phương mà
không một thành phố nào ở Việt Nam có được.
Bây
giờ không còn gì nữa cả. Một số người may mắn đi nước ngoài, một số nằm trong
nhà tù. Đalat trở nên đói nghèo, khốn cùng. Cầu thang chợ lầu trở thành tụ điểm
của dân chợ trời, mọi người rủ nhau ra đó để mua bán kiếm ăn qua ngày. Công an
xua đuổi nơi này họ chạy đi nơi khác, họ trở nên lam lũ, tội nghiệp không sao tả
được. Tôi đi qua phố Đalat nghèo nàn, héo hắt đó mỗi ngày và nhiều lần tôi phải
cúi đầu để dấu giọt nước mắt xót xa thương cho thành phố quê hương, thương cho
thân phận bất hạnh của mình.
Tôi
nhớ thành phố xưa
Đôi ta qua nhiều lần
Nắng vàng trong phố ấm
Ôi thương thuở đời xanh.
Trong
tổ hợp đa số chị em có chồng đi tù cải tạo hoặc những học sinh, sinh viên học
hành dang dở hoặc có lý lịch xấu nên không tìm được việc làm tốt. Trong đó cũng
có thành phần theo cách mạng lập trường vững vàng, trung thành với đảng, nhà nước
tuy nhiên đa số có chút chữ nghĩa nên dù sao cũng khá hơn thành phần tạp nham ở
phường ấp.
Sau này nghĩ lại thờì kỳ đi thêu tôi mới thấy rằng không xã hội nào bóc lột sức lao động bằng xã hội chủ nghĩa. Làm việc một tuần sáu ngày, tiền lương một tháng không đủ để uống hai ly sữa đậu nành mỗi ngày. Tôi không hiểu sao mình có thể sống sót được trong cái môi trường eo hẹp, thiếu thốn đó cho đến được ngày thoát ra được. Phải công nhận quả thật con người có một sức chịu đựng vô cùng phi thường.
Một
ngày kia phòng công thương nghiệp đưa chỉ thị xuống cho các tổ hợp phải thi đua
công tác lao động xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi góp tiền mua dây khoai lang, đọt
mì để đi khai đất trồng trọt (đúng là nghèo mà gặp cái eo). Vùng trồng trọt hoa
màu khá xa ở khu rừng dưới thác Prenn. Nơi đó có những cánh đồng tranh hoang
vu, đất khô như đá đang chờ những cánh tay yếu ớt của chúng tôi biến thành vùng
hoa màu tươi tốt! Khoai sắn đó sẽ là của tất cả chúng tôi, ăn không hết thì đem
bán hay đổi thực phẩm khác và những đợt thi đua lao động đó sẽ biến chúng tôi
thành những con ngươì tốt đẹp của xã hội mới vân vân và vân vân.
Bao
nhiêu là danh từ hoa mỹ, bao nhiêu ý kiến rồi tập hợp đọc diễn văn, giăng biểu
ngữ, rồi hoan hô vang dậy trời đất. Nhất trí. Nhất trí. Cuối cùng kéo nhau đi
vào trong chân núi trồng khoai sắn cho
lũ heo rừng phá vì trồng trọt mà không có ai trông nom thì làm sao thu hoạch được.Tuy
nhiên điều đó chẳng nên bận tâm, miễn có bằng cớ báo lên cấp trên là được, rồi
cấp trên sẽ báo cho cấp trên nữa. Kết luận hợp tác xã, tổ hợp ngoài việc thi
đua làm hàng xuất khẩu còn tranh thủ trồng hoa màu để cải tổ đời sống thêm no ấm.
Một đám đàn bà, con gái nói cười inh ỏi trang
bị nón lá, giày bata quần vải ú đen, cuốc thuổng và gô đựng cơm trưa đi qua phố
Hòa Bình làm cho mọi người đứng lại ngơ ngác nhìn. Trông chẳng giống ai. Vài ba
câu chửi bới vu vơ, vài ba lời mỉa mai trò hề của bọn muốn lập công nên vẽ chuyện
hành người. Nếu dùng hai tiếng lao động thì ngồi trước khung thêu cũng là lao động
rồi đâu cần phải vác cày, vác cuốc đi vào rừng mới là lao động thật sự. Ở đời
người làm việc nọ, kẻ làm việc kia chứ. Tuy nhiên nếu có ai đưa ra ý kiến thì sẽ
bị kết tội phản động, đi ngược lại chính sách của đảng đề ra. Cho nên mọi người
chỉ còn cách là im lặng cho đời sống dễ dàng hơn.
Khi xuống hết dốc Prenn rẽ
vào con đường đất đỏ dẫn vô rừng thì đám đông thưa dần vì kẻ trước, người sau
không còn hàng ngũ nữa. Tôi và Hương, người bạn gái nhỏ hơn tôi đi hơi chậm nên
khi vào sâu trong rừng thì ngó trước, nhìn sau chỉ còn hai chị em vừa đi vừa trò
chuyện.
Buổi sáng trong rừng thật tuyệt vời. Không
khí trong lành, mát dịu thoảng thoảng mùi thơm lá thông và những loài hoa dại
không tên, gió thổi nhè nhẹ trên ngọn cây, lá cỏ và nắng buổi sáng óng ả chan
hòa trên vạn vật. Ai đã từng ở Đalat, đã từng đi dạo trong những buổi sáng nắng
ấm, từng đắm mình trong cái không gian vàng óng như tơ, không khí mát lạnh hiền
hòa của vùng cao nguyên trong khi bên tai là tiếng rì rào bất tận của ngàn
thông trong mới cảm nhận được cái đẹp tuyệt hảo nơi thành phố du lịch này. Tôi
và Hương trong giây phút như tạm quên đi nổi đày đọa của đời sống hiện tại.
Rừng thông bao la tắm mình trong nắng lụa, tôi ngửa mặt thở thật sâu không khí
trong lành rừng núi và hạnh phúc bất chợt đến trong phút giây không hẹn:
- Buổi sáng đẹp quá chị nhỉ?
- Thật là tuyệt vời. Hai đứa mình cứ tà tà
rồi đến đâu hay đó hơi sức nào mà vội vàng, dễ gì hưởng được một buổi sáng đẹp
như hôm nay.
Hương gật đầu tán thành:
- Ðường nào cũng đến La Mã.
- Ðường nào cũng đến lao động là vinh
quang chứ!
Chúng tôi cười phá lên thật thoải mái vì
xung quanh chẳng có ai cả. Chúng tôi oang oang chuyện trên trời dưới đất cho
đến một khúc quanh con đường bỗng mở rộng ra và bên ven đường ngỗn ngang những
thân cây to nằm la liệt vì người ta hạ cây mà chưa kịp chuyên chở đi.
Ðang
vui câu chuyện chợt nghe tiếng nói cười nói ồn ào của một đám đông nào sau
lưng. Có người đồng hành trên quãng đường vắng này cũng hay tuy nhiên không ai
bảo ai chúng tôi đều hạ giọng thấp xuống, đám đông càng lúc càng đến gần hơn, họ
trò chuyện ầm ĩ và toàn đàn ông vì tôi không nghe giọng nữ. Chắc một tổ hợp tác nào cũng đi lao động, tôi và
Hương cố gắng đi nhanh hơn, khi đến gần chúng tôi vài người trong số họ buông lời
trêu ghẹo bâng quơ:
-
Đi đâu mà vội mà vàng …
Tôi
không dám quay lại vì dù đã có chồng, có con nhưng cũng không tránh khỏi sự ngượng
ngùng với những người khác phái nhất là họ rất đông. Họ không ngớt bàn cãi những
vấn đề nào đó, lúc cười đùa vang trời, lúc giận dữ la lối om sòm. Tôi nghĩ rằng
họ rất trẻ.
Khi
đám đông phía sau đến rất gần chúng tôi, gần đến độ tôi có cảm tưởng rằng chân
họ sắp dẫm vào gót chân mình thì không hẹn trước tôi và Hương cùng dừng lại và
đứng qua một bên để nhường lối cho họ. Tôi cũng tò mò muốn biết họ thuộc tổ hợp
nào, già trẻ lớn bé như thế nào mà ồn ào dữ vậy.
Nhưng
thật là bất ngờ ngoài sức tưởng tượng của tôi và Hương, phía sau chúng tôi chẳng
có ai cả, chỉ là con đường đỏ quạch trống vắng giữa khu rừng xạc xào tiếng gió.
Chúng tôi thảng thốt nhìn nhau, khuôn mặt Hương trở nên trắng bệch, hai con mắt
thất thần hoảng hốt, đôi môi giật giật một cách kỳ lạ. Còn tôi nổi gai ốc khắp
người và cảm thấy một luồng khí lạnh chạy dài xuống xương sống. Chúng tôi nắm
chặt tay nhau, một sự im lặng đột ngột bao trùm xung quanh hai đứa. Tiếng trò
chuyện nãy giờ vẫn theo gót chúng tôi đã im bặt.
Giọng
Hương run run:
-
Họ đông lắm mà, họ đâu cả rồi!
Tôi
ú ớ:
-
Không biết nữa, chị nghe họ gần sát chân mình nên tránh ra cho họ vượt lên.
-
Em cũng vậy, họ còn chọc ghẹo tụi mình nữa chị có nghe không?
Tiếng
tôi như tắt nghẹn:
- Dĩ nhiên cũng nghe như Hương vậy, có một người
nói giọng Huế.
- Em nghe giọng Bắc nữa, có tiếng những người
Nam càu nhàu điều gì đó.
Tôi
nói tiếp:
- Họ theo sau lưng tụi mình rất lâu nên chị
không nghĩ rằng mình giàu tưởng tượng đâu!
- Tưởng tượng sao được, chuyện rành rành đâu
phải chỉ một người hai chúng ta đều nghe mà!
Ðột
nhiên hai đứa cùng thốt lên:
-
Họ là ma chứ gì nữa!
-
Ma sao lại hiện ra ban ngày nhỉ!
Hai
chúng tôi cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng và thỉnh thoảng nhìn lại phía sau xem có ai
đuổi theo không. Chẳng còn ai nữa cho đến khi tôi và Hương đến tụ điểm, chúng tôi
vừa thở không ra hơi vừa kể cho mọi người nghe câu chuyện ở khúc quanh đường rừng.
Mọi người chăm chú nghe và góp ý:
- Hay gió đưa đến tiếng nói của một nhóm người
nào đang ở đâu đó trong rừng thông.
- Cũng có lý nhưng tại sao tất cả lại ngừng bặt
khi chúng tôi khám phá không có ai ở đằng sau cả. Họ còn trêu chọc chúng tôi
mà!
Một
ngươì hỏi:
-
Hai bạn có nghe tiếng chân nện trên đất không vì chỉ người đi mới có âm thanh.
Tôi và Hương nghệt mặt ra vì
có ai để ý đến những điều vớ vẩn như thế bao giờ.
Một lát sau chị chủ nhiệm gọi
chúng tôi nói:
- Chuyện xảy ra không biết thực hư thế nào tuy
nhiên chúng ta không nên để câu chuyện này lan xa vì nếu nó đến tai các anh chị
trên phòng công thương nghiệp thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến công tác trồng hoa
màu của chúng ta. Họ sẽ nghĩ mình muốn phá hoại việc trồng màu của phòng đề ra.
Các chị em khác sẽ hoang mang khi phải đi qua quãng đường rừng đó.
Chúng
tôi ấm ức, lủi thủi nhập vào đám đông để làm việc nhưng đầu óc tôi vẫn bị ám ảnh
vì sự việc đã xảy ra ban sáng. Hương cũng đượm vẽ suy tư, trầm lặng. Nắng càng
lên cao trời trở nên nóng nực, người nào cũng mồ hôi nhễ nhại, tôi cảm thấy quá
mệt mỏi nhưng vẫn cúi đầu làm việc. Tôi biết chắc rằng mình là một kẻ lao động
tồi nhất ở đây nhưng không có sự lựa chọn nào khác hơn là im lặng vung hạ cán
cuốc lên xuống mặc cho thời gian trôi đi trong vùng núi non hoang vu này.
Ðến
trưa mọi người được nghỉ ngơi để ăn uống, tôi và Hương đến một chỗ vắng mở gô
cơm mang theo vừa ăn vừa bàn tiếp câu chuyện ban sáng. Chị chủ nhiệm ngồi đằng
xa thỉnh thoảng đưa mắt nhìn hai đứa.Tôi rủ Hương:
-
Chị em mình xuống dưới đồi chơi, chị thấy có mấy cái chòi kìa.
Hương
tán thành ngay:
-
Phải đó em cũng thấy khát nước nhiều tụi mình đi xin nước uống đi.
Chúng
tôi xuống con dốc ngắn với đám cỏ tranh mọc thật dầy, một con suối hẹp chắn
ngang và bên kia là căn chòi bé xíu. Một người đàn ông bước ra hỏi:
- Các cô cần gì?
Tôi
nói:
- Chúng tôi đi xin nước uống.
Người
đàn ông đến gần nhìn tôi dò xét rồi nói to:
-A, cô Phương phải không?
Tôi
đang ngạc nhiên thì bỗng nhận ra đó là anh Tiến, anh của Kim Chi một người bạn
gái đã có thời gian làm việc với tôi.
Tôi
mừng rỡ:
-
Anh Tiến sao lại ở đây? Còn chị đâu?
-
Cô ta ở nhà còn tôi làm rẫy nơi đây, mời cô vào nhà nói chuyện.
Tôi
theo anh Tiến vào nhà, nói là nhà chứ thật ra chỉ là một mái lá đơn sơ với cái
sạp để trong góc, cái bếp đối diện với vài ba cái ấm nồi đen thui vì khói bếp.
Anh Tiến đem mấy cái ghế đóng bằng gỗ thông thấp lè tè ra mời chúng tôi ngồi,
anh nhìn tôi chăm chú rồi nói:
- Cô đi đâu mà lạc lõng chốn khỉ ho cò gáy
này.
-
Ði lao động xã hội chủ nghĩa với tổ hợp.
Anh
Tiến gật gù:
-
À ra vậy, thỉnh thoảng tôi có gặp mấy người đi lao động như cô, họ trồng trọt
quanh đây nhưng không bao giờ thấy họ thu hoạch hoa màu cả.
-
Sao vậy?
-
Vì trồng rồi bỏ thí đó cho lũ thú rừng phá thì lấy đâu mà thu hoạch. Tôi ở đây
canh chừng luôn mà còn không trị nổi mấy con heo rừng huống chi các cô.
-
Họ bắt đi thì mình phải đi thôi chứ làm sao mà cãi được.
-
Thì đúng là vậy đó! Thời buổi khó khăn biết nói sao!
Tôi
hỏi anh Tiến:
-
Còn anh sao không phụ chị mà vô đây chi cho khổ?
Có
lần tôi đến nhà Kim Chi chơi thấy anh Tiến phụ vợ làm bánh kẹo bỏ mối cho mấy cửa
hàng ở Đalat. Anh Tiến là Trung Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đóng ở Qui Nhơn,
anh từng bị bắt làm tù binh và được thả trong một cuộc trao đổi giữa hai bên,
anh vẫn còn bị ám ảnh nặng nề bởi những năm tháng trong nhà tù cộng sản.
Anh
Tiến nhún vai:
-
Ở đây dĩ nhiên là buồn nhưng ít thấy mặt mấy ông bà cán bộ cán cuốc trong xóm,
thấy họ hoài chẳng thích thú gì.
-
Còn chị vẫn làm bánh kẹo chứ?
-
Chứ không lấy gì mà sống, lâu lâu biếu xén cho họ một chút để yên thân mà nuôi
lũ nhỏ. Còn chồng cô ra sao?
- Đang ở Suối Máu Biên Hòa, em đi thăm được một
lần cách đây hai tháng cũng chẳng biết chừng nào họ thả. Năm ngoái họ cho qua
phường làm đơn bảo lãnh cho chồng, em cũng làm rồi nhưng ngày về không biết được.
Anh
Tiến thở dài:
-
Cũng phải ráng mà sống, cả miền Nam chứ đâu phải riêng mình.
Tôi
nhìn ra vuông sân chan hòa ánh nắng trước mặt và nương rẫy của anh Tiến, cảnh
trí trông vắng vẻ buồn thiu.
-
Anh ngủ lại đây à?
-
Thỉnh thoảng thôi, thường thì về đến nhà cũng tám chín giờ tối rồi hàng xóm chẳng
ai thấy mặt. Sáng tờ mờ tôi đã ra đi, vậy mà tâm hồn mình lại bình an. Ở chốn
núi rừng này cũng có cái hạnh phúc của nó chẳng ai dòm ngó. Cả ngày không có ai
nói chuyện nên đôi khi tôi nói một mình, lâu ngày thành thói quen tôi cứ lẩm bẩm
khi về nhà làm bà xã và các em sợ tôi bị khùng.
Rồi
anh Tiến cười khằn khặc:
-
Mà nói cho cùng sống với quân này riết rồi ai cũng khùng cả.
Tôi
nhìn quanh hỏi nhỏ:
-
Ở một mình chốn đèo heo hút gió này anh không sợ sao?
-
Sợ gì?
-
Thì sợ đủ thứ như ăn cướp, như ma chẳng hạn.
Anh
Tiến lại cười ngặt nghẽo:
-
Tôi có cái gì mà sợ bị ăn cướp, tôi không ăn cướp của người ta thì thôi chứ. Cộng
sản đáng sợ hơn ma quỷ.
Tôi
nhăn mặt:
- Em kể anh nghe chuyện này, em và Hương vừa gặp
ma.
- Vậy sao?
Anh
Tiến cười cười có lẽ anh ta tưởng tôi nói đùa.
Rồi
tôi kể chuyện đã xảy ra với chúng tôi sáng nay, nghe xong anh hỏi lại:
-Chỗ khúc quanh có nhiều cây bị đốn nằm la liệt
phải không?
-
Đúng vậy!
Anh
Tiến nói:
- Những người làm rẫy ở đây đều biết nơi ấy có
rất nhiều chuyện lạ. Buổi chạng vạng người ta hay gặp nhiều bóng người lãng
vãng.
-
Ai lãng vãng? Họ là ai vậy?
-Tôi nghe kể lại vào khoảng năm 67, 68 có một
số sinh viên trường Võ Bị Quốc Gia và lính đi kích nơi đó đã đụng độ với Việt Cộng,
trận chiến làm chết rất nhiều người của cả hai bên. Từ đó mấy ổng hay hiện ra
nơi khúc quanh lắm, tôi đoán rằng mấy ông lính đó rất trẻ, đa số chưa vợ con
nên thấy mấy cô đàn bà con gái bèn ra trêu chọc vậy mà.
Chúng
tôi hét lên:
-
Anh nói ghê quá! Người chết rồi mà còn chọc gái à?
-
Chứ sao, họ chết khi còn quá trẻ với những ước mơ khao khát chưa thực hiện được
nên họ còn lang thang, lẩn quẩn ở đó. Tội nghiệp, có khi họ chưa biết mình đã
chết nữa cũng không chừng.
-
Nhưng tại sao họ lại xuất hiện ban ngày, đâu phải là thời gian của họ?
-
Ngày đêm gì, thấy người đẹp mấy ổng quên cả luật lệ cõi âm nên chạy ra chọc ghẹo.
Đàn ông con trai mà!
Tôi
kiếu từ anh Tiến để trở lên đồi, anh đưa chúng tôi qua con suối rồi nhìn tôi ái
ngại:
-
Thôi hai cô lên làm việc đi kẻo họ tưởng mình trốn. Mà Phương này, cô cũng chẳng
nên làm cho quá sức vì không có thu hoạch đâu. Thật ra cũng chẳng có ai chờ sự
thu hoạch chỉ làm cho có chuyện. Chán lắm, dù sao cô cũng ráng chịu đựng cho
qua cơn khổ này!
Anh
Tiến đoán đúng. Sau lần đó, chúng tôi còn đi thêm nhiều lần nữa rồi thôi. Trên
phòng cũng không ai nhắc đến ngày thu hoạch hoa màu, dù hình ảnh của phong trào
đi lao động xã hội chủ nghĩa vẫn treo trong cơ quan, trong hợp tác xã. Ðúng là
đầu voi đuôi chuột. Những lần đi sau tôi và Hương đều cố gắng theo kịp đám đông
khi rẽ vào khúc quanh có những thân cây nằm ngổn ngang kia! Tôi rất sợ nếu phải
gặp họ thêm một lần nữa, dù thật ra họ chẳng làm hại gì tôi ngoài những câu trêu
chọc bình thường của đàn ông, con trai khi gặp người khác phái. Tuy nhiên sự
khác biệt của hai thế giới đã làm cho tôi kinh hãi.
Kỷ niệm về những ngày lao
động ở đèo Prenn thường mang đến cho tâm hồn vốn đa cảm của tôi nhiều xúc động.
Một người phụ nữ còn trẻ xa chồng, cô đơn và lạc lõng giữa một xã hội giả dối
tráo trở, sự lo âu luôn đè nặng trên hai vai, con người sống thiếu thốn từ tinh
thần đến vật chất. Những buổi chiều mệt lã trở về sau một ngày đày đọa thân
xác, đi qua những đồi thông vàng óng ánh nắng hoàng hôn bỗng dưng vang vọng đâu
đó giọng ca của Tôn Thất Niệm trong bản Chiều Vàng của Nguyễn văn Khánh.
“Trên đồi thông chiều đã
xuống rồi, mặt trời lấp ló sau đồi chiều vàng. Riêng mình ta ngồi ngắm quanh
trời ngậm ngùi nghe tiếng chim chiều gọi đàn, buồn xa vắng buồn lòng thầm nhớ
đến người chiều vẫn trên đồi cùng ta …Ta nén đau thương gắng bước hoài, chiều
chiều nhớ ai khôn lòng nguôi.”
Ai đã từng ở Đalat chắc
không thể nào quên giọng ca Tôn Thất Niệm, một giọng ca trầm ấm, truyền cảm khó
có ca sĩ nào bì kịp dù ông là một ca sĩ tài tử của đài phát thanh Đalat. Khi đã
nghe ông hát bài Chiều Vàng rồi thì khó có thể nào quên được. Tiếng hát Tôn
Thất Niệm hòa quyện, lãng đãng với tiếng gió vi vu qua đồi thông, với sương mù
là đà những sáng mai lạnh cóng hay những đêm co ro trong chiếc áo Manteau trên
khu phố Hòa Bình. Tiếng hát tuyệt vời đó đã ra đi không bao giờ trở lại sau
cuộc đổi đời của miền Nam và của thành phố mù sương. Cái đời sống với đầy bất
trắc trước mắt hằng đêm xô đẩy tôi vào những cơn mộng dữ, tôi đã phải sống
trong từng ngày tháng tuyệt vọng, mõi mòn.
Những
năm tháng dài u uẩn đó rồi cũng ra đi như giòng sông nặng nề chảy cuốn theo rác
rưới nhọc nhằn. Bây giờ thì tôi đã quá xa Đalat. Xa những chiều vàng trên đồi
rong chơi hay là những chiều rã rời, thất thểu về nhà. Người tù cải tạo năm nào,
người đã trao tặng cho tôi những ngày tháng cô đơn tuyệt vọng trong chờ đợi mỏi
mòn rồi cũng như một loài chim trời cất cánh bay đi tìm một vùng trời nào đó.
Tôi như kẻ bị đánh cắp môt thời tuổi trẻ mình và khó bắt đầu lại trong những
tan hoang đổ vỡ của đời sống. Dù rằng tôi đã ra đi, đã chối bỏ cái nơi chốn mà
đáng ra mình phải yêu thương và bám víu cho đến hơi thở sau cùng đó là quê
hương.
![]()
Khi tôi viết những giòng chữ này, tháng tư
sắp trở về với mọi người trên trái đất này. Tháng tư oan khiên, tàn khốc sắp
trở về với dân tộc Việt Nam. Tháng tư tang thương đã xô đẩy con người vào hỏa
ngục trần gian trong đó có tôi, người đàn bà vô danh tiểu tốt trong hàng triệu
người dân miền Nam Việt Nam. Tôi, một trong những người bất hạnh chịu nhiều hệ
lụy trong cuộc dâu bể tang thương của đất nước, tôi đã sống một thời gian rất
dài hình như không có nụ cười thật sự nếu cười không có nghĩa là một động tác
phô bày hàm răng. Những buổi sáng mở mắt ra đã thấy buồn co thắt con tim và
những ngày dài thấp thỏm lo sợ triền miên.
Cái quá khứ đau khổ ấy vẫn ám ảnh tôi một cách dai dẳng, sâu đậm và tôi vẫn tự nhủ rằng hãy quên đi để hưởng lấy những hạnh phúc mình đang có mà nhiều người hằng ao ước. Tôi đang được sống trên nước Mỹ. Mình đang hạnh phúc nhưng có thể nào mình sẽ chôn vùi tất cả vào nấm mộ không tên rồi mặc cho thời gian mang tất cả vào hư vô quên lãng. Rồi cũng xong một kiếp người.
Nấm
mộ không tên đã cố vùi lấp mấy chục năm nhưng khi đến tháng Tư lòng tôi bỗng bồi
hồi như đang sống lại với cảm giác khổ sở, đơn độc ngày xưa. Tôi đang đi trong
phố xưa Đalat, thành phố im lìm câm nín và những con người qua lại với khuôn
tràn đầy phiền muộn và đói khổ. Giọng hát nào the thé cất lên làm không gian tê
tái nhuốm thêm màu sắc thê lương, chán chường. Con đường đi sâu vào khu rừng
trong những ngày lao động xã hội chủ nghĩa, những buổi trở về mệt mõi, rã rời,
những buổi họp dân phố ban đêm với từng khuôn mặt hằn nét thù hận, giọng điệu
chì chiết đanh thép. Họ đã tuyên truyền những gì tôi không còn nhớ hay chẳng cần
phải nhớ.
Còn
những linh hồn tử sĩ trên khúc quanh của khu rừng thông ngày đó. Họ đã chết rất
trẻ khi những ước mơ, khao khát riêng tư chưa trọn vẹn. Có những người chưa biết
đến vòng tay hay nụ hôn của một người tình. Có thể rằng họ chưa biết rằng mình
đã chết như ngày nào anh Tiến nói. Họ không bao giờ già đi còn tôi người đàn bà
trẻ thơ mà có lần họ buông lời trêu ghẹo nay tóc đã pha sương.
Ðứa
con trai mà tôi sanh sau ngày chồng đi tù về nay đã xấp xỉ tuổi họ. Ðứa con
trai tôi may mắn hơn họ vì đã lớn lên trên một đất nước Mỹ giàu mạnh chưa biết
mùi vị của chiến tranh nhưng con trai tôi hoàn toàn giống họ với những mơ ước của
tuổi trẻ và nhất là lòng ưu ái, thích thú khi gặp người khác phái. Nhìn con,
tôi càng cảm thương hơn những người lính trẻ miền Nam đã hy sinh, đã đổ máu cho
nền tự do của quê hương. Linh hồn họ hình như còn vất vưởng đâu đó và những
hoài vọng của họ cũng chẳng ai cần biết đến.
Bao
nhiêu năm tháng trôi qua, bao nhiêu nước chảy qua cầu. Người mẹ với cánh tay
bao dung che chắn đời tôi trong những ngày khốn khổ giờ đã nằm yên nghỉ trên ngọn
đồi tĩnh lặng trong thành phố quê hương, bên cạnh cha người đàn ông đã chia sẻ
với mẹ gần sáu mươi năm trên con đường trần gian với vạn nỗi trầm luân này. Anh
em chúng tôi mỗi người mỗi ngã trong những xứ sở xa lạ nào chưa một lần đoàn tụ
dưới mái nhà xưa. Mái nhà có giàn hoa tím trước cổng và cây hoa ngọc lan hương
thơm ngan ngát, mái nhà tôi vào ra suốt thời tuổi nhỏ và là nơi tôi về nương
náu quãng đời giông tố trong trái tim yêu thương của mẹ hiền.
Tôi
chưa trở về Ðalat lần nào để thăm viếng. Nhiều người nói Ðalat bây giờ thay đổi
nhiều và đẹp lắm nhưng cũng có nhiều người nói những lời hoàn toàn ngược lại
bây giờ Đalat nhà cửa xây cất vô trật tự, thiếu thẫm mỹ và không còn vẻ đẹp
thiên nhiên ngày xưa nữa. Tôi chỉ nhớ ngày tôi ra đi Ðalat vô cùng nghèo nàn,
héo hắt như con đường Phan Ðình Phùng sình lầy nước đọng sau những cơn mưa.
Dù sao tôi cũng muốn về Đalat một lần,
đi trên đồi thông để hồn chìm lắng trong giọng ca dĩ vãng. Ði qua vùng bờ hồ để
nhớ những ngày giông bão, đọa đầy cũ. Tôi ước mong sẽ có một lần trở lại khu rừng
nơi có những oan hồn tử sĩ lẩn quẩn để thắp lên nén hương hoài niệm, tạ ơn những
anh hùng vô danh đã hy sinh cho nền tự do của miền Nam. Trong đó có những oan hồn,
yểu tử phía bên kia thì cũng cầu xin cho họ sớm siêu thoát vì dù sao họ cũng chỉ
là nạn nhân của một chủ nghĩa đầy tham vọng không tưởng mà thôi. Trong thế giới
người chết chắc chẳng còn thù hận nữa.
Họ đã chết thế là xong, chỉ trách cho những
người còn sống đã từng thấy, đã từng đi qua con đường thê lương, đoạn trường của
một dân tộc mà vẫn mang tâm trạng mù lòa. Họ làm như đã quên đi tất cả hay tệ hại
hơn còn muốn sơn phết tân trang lại những thối rữa của quá khứ mà đã có một thời
họ đâm đầu chạy trốn.
Có
những kỷ niệm quá đau thương, quá tàn nhẫn biết phải chôn lấp chúng nơi đâu
trong ký ức. Xin một lần ngậm ngùi đọc lên một đoạn thơ trong Chinh Phụ Ngâm
Khúc của bà Đoàn thị Điểm và xin trang trọng gởi một chút tâm sự mộc mạc đến những
ai vẫn còn mang trong tâm hồn vết hằn đau thuở nọ để gọi là chút duyên tri kỷ của
những người đồng điệu/.
*
Chinh Phụ Ngâm Khúc do bà Đoàn Thị Điểm diễn Nôm từ nguyên tác của Tiên Sinh Đặng
Trần Côn.
Mimosa Phương Vinh
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 04/Apr/2016 lúc 5:04am |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Câu Chuyện Về Cách Kinh Doanh Của Các Nước Và Việt Nam.![]() Có 1 thằng Tây đi lang thang đến 1 ngã 4 đường. Anh ta dòm quanh thấy trông vắng quá bèn cắm dùi mở 1 cây xăng. Xe cộ qua lại ghé vào đổ xăng ủng hộ. 1 anh Tây khác ghé đổ xăng thấy chỗ này cũng được nên anh ta qua bên kia đường mở một cái garage sửa xe để phục vụ những người ghé vào đổ xăng. Thế rồi 1 anh Tàu đi ngang thấy vậy bèn qua bên kia đương mở 1 cái nhà hàng phục vụ ăn uống. Một anh khác đi ngang qua...thấy ngã 4 đường có quán ăn, cây xăng, gara có vẻ sầm uất, thế là anh ta qua góc còn lại mở 1 cái hotel. Chẳng mấy chốc, ngã tư đường sầm uất hẳn lên...rồi mọi người đến mở thêm tiệm hoa, tiệm thuốc, tiệm cắt tóc v.v....Khu vực trở thành 1 trung tâm thương mại đông đúc. Bà con sống hạnh phúc với nhau.
Có
1 anh Việt Nam đi lang thang tới 1 ngã tư đường. Anh ta dòm quanh thấy
trống vắng quá bèn cắm dùi mở 1 cây xăng. Xe cộ qua lại ghé vào đổ xăng
ủng hộ. 1 ngày kia có 1 anh Việt Nam đi ngang thấy có vẻ đươc bèn qua
bên kia đường mở 1 cây xăng giống y chang rồi bán rẻ hơn 1 chút. Rồi 1
anh Việt Nam thứ 3 đi ngang, thấy 2 thằng kia làm được bèn chạy qua góc
kia mở cây xăng thứ 3, giảm giá thêm chút nữa để cạnh tranh...đến đây
thì chắc bạn biết rằng chẳng mấy chốc góc còn lại có thêm anh Việt Nam
thứ 4 mở cây xăng thứ 4 và lại giảm giá bán.
Anh
thứ 1 chưa kịp thu hồi vốn mà cũng không thể giảm giá nữa vì giá giảm 4
lần lỗ rồi...nên anh ta buộc phải pha tạp chất vô xăng để mà bán kiếm
sống. Anh thứ 2 thấy anh 1 pha tạp chất nên trương cái băng rôn lên bảo
rằng "Tiệm số 2 mới là cây xăng Gốc...chính hiệu"...anh thứ 3 đứng bên kia đường xỉa xói "Mày căng băng rôn bảo mày chính hiệu, mày là xăng gốc...thế khác nào mà bảo tao bán đồ dỏm à?"...Thế là anh số 3 vác hàng qua đánh lộn với anh số 2.
Anh số 4 thấy thế móc Iphone ra quay phim lại rồi post lên mạng ghi Status "Haizz...làm ăn bây giờ sao bất chính quá...toàn côn đồ và lừa gạt". Cư dân mạng share rầm rầm thương cảm anh số 4... Báo mạng ăn cắp hình anh số 4 về giật tít "Giang hồ đại chiến giành bảo kê ngành xăng dầu"....vô tình tới tai một sếp công an, sếp công an thấy cai Băn Rôn của anh số 2 mới giật mình "hèn gì chiếc Roll Royce người ta cho mình đổ xăng xong thì không chạy nữa....thì ra thằng số 1 nó Pha tạp chất"... thế là cho lính xuống kiểm tra.
Lính xuống kiểm tra anh số 1...anh số 1 chửi bới không cho kiểm tra. Móc Iphone ra quay lại đoàn kiểm tra và Hù "Mấy anh sao chỉ kiểm tra 1 mình tui?". Đoàn kiểm tra sợ bi đăng lên mạng nên đành làm đúng chức năng... đè 3 thăng kia ra thanh tra luôn.
Té
ra cả 4 thằng ai cũng pha tạp chất hoặc bơm không đúng lượng hoặc gắn
chip ăn gian. Thế là đóng cửa hết 4 cây xăng. 4 thằng phá sản...lại đi
lang thang.
st. |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 146 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |