Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 200 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 07/Feb/2015 lúc 7:31am
Lục Bình Trên Sông
Tác giả: Song Nhi
Người đọc: Yến Linh


https://www.mediafire.com/?rbe0s2su4wqr4ca





Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 07/Feb/2015 lúc 7:36am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23686
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 09/Feb/2015 lúc 5:17pm


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 09/Feb/2015 lúc 5:23pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 12/Feb/2015 lúc 1:43am
Tết muộn
Ninh Hạ
Hoàng Tuấn diễn đọc
http://www.mediafire.com/file/nbykt2tmdzh/TetMuon.mp3



Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23686
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 13/Feb/2015 lúc 9:55am

Vẫn Còn Cái Gốc



Tôi sanh ra vào thời Pháp thuộc, lớn lên, ra đời với Mỹ Diệm, Mỹ Thiệu rồi... già trước tuổi sau ngày "cách mạng thành công" ! Để thấy tôi đã có cái may mắn biết thằng Tây, biết Chú Sam, biết Bác. Thằng Tây đội nón cối thực dân ngồi trên đầu thằng dân đội nón lá. Chú Sam với cái nhãn bàn tay của chú nắm bàn tay người bạn mà chú giúp đỡ – cái nhãn chưa kịp tróc, chú đã buông rơi thằng bạn như buông rơi một vật vô tri! Trải qua ba trào như vậy mà tôi đã không thành Tây, không thành Mỹ, cũng không thành Bôn-sê-vít, nhờ truyền thống của ông cha: Biết giữ gìn cái gốc. Điều này, tôi rất tự hào. 
Bây giờ, tôi xin tự giới thiệu ... 

Tôi tên là Tư – Lê Di Tư – Theo ông nội tôi kể lại thì tôi thuộc dòng họ Lê Di ở Huế, một dòng họ nổi tiếng khoa bảng. Hồi đó, ông sơ ông sờ gì của tôi đã làm quan lớn trong triều đình. Ổng được lệnh vua, đưa dân đi dài vào Nam khai hoang, dựng làng lập ấp, để mở mang bờ cõi. Khi ổng vào đến vùng rừng thiêng nước độc mà sau này người ta gọi là Tây Ninh, ổng ngã bịnh rồi chết. Sau đó, không nghe ông nội tôi kể tiếp. Điều mà tôi biết là đến đời ông nội tôi, cái gia tài quyền quy chữ nghĩa của dòng họ Lê Di chỉ còn lại đủ để ông nội tôi...bắt mạch hốt thuốc độ nhựt! Rồi qua đến đời cha tôi, đời anh chị tôi...chỉ còn làm ruộng dài dài, mà mớ chữ nghĩa thì vừa đủ để ngâm nga mấy truyện thơ bình dân như Chàng Nhái Kiểng Tiên hay Bạch Viên Tôn Các. 

Hồi đó, có người thắc mắc tại sao tôi đã mang cái họ Lê Di rất văn vẻ, rất ...quí phái mà lại có cái tên Tư nghe quá cộc lốc khô khan? Nói cho có vẻ...văn chương, cái họ của tôi như tấm lụa mềm mà sao cái tên của tôi thì như hòn sỏi nhám? Đó là do bản chất thật thà của cha tôi. Ổng đặt tên anh em chúng tôi giống như ổng đếm bầy con! Đầu tiên là anh cả tôi: Lê Di Một. Kế đó là anh Lê Di Hai. Tiếp theo là chị tôi: Lê Thị Ba. À! Chỗ này được cha tôi giải thích...gọn bâng: Tại nó là con gái, mang họ Lê Di sao được, nữ sanh ngoại tộc mà ! Cuối cùng là tôi, Lê Di Tư, sanh cách chị tôi đến chín năm. Vì vậy, ở nhà gọi tôi là thằng Út, còn hàng xóm thì gọi tôi là Út Tư, chắc là để khỏi lầm với những thằng Út khác. 

Năm đó, tôi đến tuổi vào trường tiểu học. Cha tôi xách xe đạp chạy ra nhà việc (hồi đó, chỗ ban hội tề –là những người chức trách trong làng - làm việc được gọi là nhà việc, cũng có người gọi là nhà vuông bởi vì ngôi nhà đó có bốn cạnh bằng nhau) để trích lục khai sanh của tôi. Khi ổng về đến nhà, ổng cầm tờ khai sanh vừa chỉ chỏ vừa phàn nàn: "Con mẹ thằng lục bộ! Hồi đó tao khai là Lê Di Tư, nó nghe rõ chớ, lại còn gục gặc đầu nói đứa thứ bốn phải không. Vậy mà nó đánh dấu ư cách xa chữ u đến cả thước lận, thành ra là dấu sắc. Bây giờ thằng chả chết mất rồi, lấy ai mà đối chất đây? Còn thằng lục bộ mới này thì nó đọc sao là chép y ra vậy. Con mẹ nó! Làm thằng nhỏ bây giờ tên là Tú. Coi vô duyên không?". 

Vậy là trong khai sanh – và mãi về sau này – tôi tên là Lê Di Tú! Phiền một điều là hồi đó cái tên Tú này tôi nghe không quen lỗ tai. Cho nên, ngày đầu trong trường tiểu học, khi thầy giáo điểm danh, gọi đến Tú là tôi vẫn tĩnh bơ ngồi yên. Còn dòm qua ngó lại coi là đứa nào! Cũng may là thầy giáo lớp chót đó là cậu Sáu An - bà con bạn dì với má tôi - nên cẩu đã biết qua cái sự trục trặc trong cái tên của tôi. Thẩy bèn gọi ‘’ Tư ‘’ làm tôi giựt mình dạ một tiếng lớn. Cả lớp cười rộ. Rồi mấy ngày sau đó, khi gọi đến Tú là thẩy... chêm ngay tiếng Tư cho xong chuyện. Trẻ con dễ thấm, nên chỉ mấy hôm sau là tôi đã quen với cái tên Tú văn vẻ đó, như đã quen lâu ! 

Lật bật rồi tôi cũng trèo tới lớp nhứt, rồi đậu xép-phi-ca (certificat). Hồi này, ở nhà trúng mấy mùa lúa, nên cha tôi quyết định cho tôi học tới. Ổng nói: ‘’Thằng Út nó lanh lợi, bắt nó làm ruộng cũng uổng ‘’ (Bây giờ nhớ lại, tôi không khỏi phì cười : ổng làm như phải là ...cù lần mới đi làm ruộng!) Vậy là tôi được xuống Sàigòn thi vào trường lớn (hồi đó, bậc trung học đã được gọi là trường lớn, bởi vì nó... lớn hơn trường tiểu học). Tôi thi đậu và ở nội trú. Cha tôi sắm cho tôi cái nón cối hiệu Con Gà Trống và đôi xăng-đan (sandales). Xưa nay, lúc nào tôi cũng đầu trần và đi chân không - đôi guốc chỉ dùng để...rửa chân ban đêm trước khi leo lên ván ngủ. Bây giờ, vào trường lớn phải khác ! 

Ở trường lớn, người ta gọi tôi là Tú Lê để phân biệt với thằng Tú Phạm học cùng lớp và cũng ở nội trú như tôi. Tôi mang cái tên Tú Lê được hai năm thì trong nước có giặc. Sàigòn bị đồng minh gì gì đó dội bom. Trường lớp bị đóng cửa, dân chúng thị thành tản cư. Cha tôi vội vã đem tôi về làng. Từ đó, tôi tập tành làm ruộng. Điều này không đi đúng với sự mong muốn của cha tôi. Lâu lâu ổng hay nhắc :’’Con mẹ nó! Nếu không có giặc thì thằng nhỏ đã không phải về làm ruộng. Giòng họ Lê Di bây giờ chỉ còn có mình nó là khá. Vậy mà...’’. Câu nói thường bị bỏ lửng. Để thấy ổng cũng hơi phiền trách ông Trời đã không giúp tôi đi theo “con đường chữ nghĩa” cho dòng họ Lê Di được nở mặt, mà đẩy tôi về với ruộng lúa, con trâu, cái cày...Riêng tôi thì lại thích được như vậy. Có lẽ tại vì cái gốc “ruộng” của tôi đã ăn quá sâu vào đất. Tôi sung sướng được trở về với cái tên “Út Tư” bình dị mà hàng xóm dùng để gọi tôi từ thuở ấu thời. Và tôi cũng quên dễ dàng cái tên “Tú Lê” văn vẻ đã bỏ lại ở một góc sân nào đó trong trường lớn... 

Vào thời ông Diệm/ông Thiệu, tôi “đi” dân vệ. Để được ở lại làng giúp gia đình làm ruộng ngoài giờ công tác ở đơn vị địa phương. Bởi vì gia đình tôi không có tá điền tá thổ gì hết. Ngoại trừ mùa cấy hay mùa gặt phải mướn thêm người giúp cho “kịp mưa kịp nắng”, kỳ dư đều do người trong gia đình tôi làm lấy, kể cả mẹ tôi, mấy chị dâu anh rể tôi và vợ tôi nữa (hồi này tôi đã có vợ con). Kể lại như vậy để thấy rằng gia đình chúng tôi thuộc loại “tay làm hàm nhai” chớ không phải loại “chỉ tay năm ngón, ngồi không trục lợi” ! Và nhờ trời, gia đình tôi làm ruộng mà “lúa ăn không hết”... 

Sau biến cố tháng Tư 1975, tôi đi học tập hết ba hôm rồi về nhà tiếp tục làm ruộng. Yên chí rằng mình thuộc giới công nông đem “mồ hôi đổi lấy bát cơm”, lấy sức “lao động làm nên của cải” (mấy câu này tôi mới học được của mấy cán bộ cách mạng, cha nào cha nấy nói y như nhau, còn lập đi lập lại nữa nên...dễ nhớ!) Chớ không thuộc loại “Mỹ Ngụy ác ôn” hay “trí thức vong bản” hay “địa chủ phú nông , cường hào ác bá “ gì gì...Tôi đã thật tình tin tưởng rằng mình “không có nợ máu với nhân dân” thì không có gì phải lo âu sợ sệt. Chẳng dè ít lâu sau ruộng bị “sung” vào hợp tác xã, còn chúng tôi thì làm công lại cho họ. Ngang ngược một cách rất...tự nhiên! (May quá! Cha mẹ tôi đã thất lộc trước ngày “cách mạng thành công”. Mừng cho ổng bả!) 

Vào hợp tác xã chưa đủ. Còn phải đi lao động (làm như đi làm ruộng mỗi ngày chưa phải là lao động!) Rồi đi họp hành, học tập đường lối chủ trương (làm như phải có những thứ đó thì lúa...mới tốt!) Rồi đi mết tinh, rồi hô khẩu hiệu, rồi khai lý lịch khai tới khai lui...Có đêm tôi nằm trăn trở, nghĩ tiếc cho cái gốc của ông bà để lại, bây giờ không còn đứng vững nữa. Cái gì không giống cái gì hết ! Lai căn tạp nhạp. 

Vậy là sau một thời gian nhẫn nhục làm một “nhân khẩu“ của chế độ, tôi thấy tối ngày cứ hô “sống mãi, sống mãi, sống mãi” chắc... chết quá! Tôi đành liều mạng mang vợ con vượt biên. Nhờ ơn trên phò hộ, chúng tôi đi thoát và tấp lên đảo Pulau Bidong (Mã Lai). 
Sau hơn bốn tháng “nằm” đảo, chúng tôi được chánh quyền Pháp nhận cho định cư. Đó là nhờ chút ít tiếng Pháp còn sót lại của thuở thiếu thời xa xưa. Thuở đó, mỗi ngày học trò phải chào cờ “Đại Pháp”, phải hát bài “Maréchal ! Nous voilà !”. Vào lớp phải đứng thẳng, đợi thầy nói “***eyez-vous” rồi chấm câu với tiếng roi mây hay cây thước bảng đập lên bàn. Chừng đó, cả lớp đồng nói “Nous nous ***eyons” rồi mới ngồi xuống. Ở cái thời như vậy mà sao cái “gốc” vẩn còn. Có lẽ nhờ truyền thống của ông cha và nhờ mấy quyển Quốc Văn Giáo Khoa Thư đã âm thầm nhen nhúm tình thương quê hương dân tộc. 

Chúng tôi được “bốc” về đất liền ở thị xã Trenganu, rồi từ đó về Kuala Lampur, thủ đô Mã Lai, để làm thủ tục giấy tờ. 
Hôm chuẩn bị lên xe để ra phi trường Kuala Lampur “bay” đi Paris, lòng tôi như mở hội. Ngày mai chẳng biết ra sao, nhưng chân trời mới này đã thấy rộng thênh thang. Không phải cho tôi, mà là cho hai thằng con tôi đang trong tuổi lớn ! Điều này tôi muốn chia xẻ với những người ti. nạn đang đứng chùm nhum ở lãnh sự quán Pháp đợi gọi lên xe ca, nhưng tiếc quá họ toàn là người Tàu Nam Vang và người Miên người Lào. Họ không biết tiếng Việt Nam, thành ra tôi... cụt hứng. 

Chính ông phó lãnh sự gọi tên từng gia đình để trao thông hành và mời lên xe. Khi ổng gọi đến gia đình “Lơ đi”, chẳng thấy ai nhúc nhích. Ổng đưa mắt tìm trong đám đông rồi cái nhìn của ổng ngừng lại ở tôi. Ổng mỉm cười hỏi bằng tiếng Pháp:”Gia đình ông người Việt phải không?”. Tôi gật đầu “Ùy mong xiừ” mà tự hỏi làm sao ổng nhận ra cái gốc Việt Nam của mình? Ổng bèn trao tờ thông hành rồi chúc thượng lộ bình an. Lên xe ca, tôi đọc tấm giấy thấy đề :”Nom: Ledi- Prénom: Tu”. Tôi nhổm dậy định xuống xe phân trần, nhưng xe đã rồ máy và tôi cũng nghĩ lại: Cái vốn Pháp ngữ quá ít ỏi của mình không đủ để giải thích những gút mắt của cái họ cái tên Việt Nam, của dấu ê dấu sắc trong tiếng Việt Nam. Tôi đành ngồi xuống, thở dài… : Thân phận lưu vong, bỏ hết mất hết đã đành, chỉ có cái họ cái tên là mang theo được bên mình, vậy mà bây giờ nó cũng không còn nguyên vẹn hình hài và âm thanh của nó nữa ! Nghĩ đến đó, tôi bỗng nghe tủi thân đến ứa nước mắt…. 

Ở Pháp, tôi không “hành” nghề làm ruộng. Tôi làm thợ nhà in. Chắc tổ tiên dòng họ Lê Di, nhứt là vong hồn của cha tôi, muốn cho tôi -dù sống ở xứ người- cũng vẫn được gần với...chữ nghĩa ! Ở đây, người ta hay gọi tôi bằng cả họ lẫn tên “Ledi Tu”, bởi vì phát âm ‘Lơ đi tuy‘ theo tiếng Pháp có nghĩa là “ Mầy có nói ra không? “.Tôi không thích, nhưng phải chấp nhận, như tôi đã chấp nhận định cư ở xứ này, bởi vì điều quan trọng vẫn là tương lai của hai thằng con. Tuy nhiên, lâu lâu tôi vẫn thèm được nghe gọi “Út Tư”, cái tên có âm thanh hiền lành bình dị, cái tên sao mà gợi nhớ quê cha đất mẹ vô cùng... 

Bây giờ tôi đã về hưu. Ngày ngày tôi “chăn” bầy cháu nội, dạy dỗ chúng nó từng chút để chúng nó đừng thành “Tây con”. Khi nói chuyện với cha mẹ của chúng, tôi thường ví von: ”Ba giống như cây bần cây đước đã bị cơn bão năm 1975 bứng ra khỏi đất. Trôi nổi bập bềnh theo sống gió đại dương đến khi đụng một bến bờ nào đó, cho dù đất khô đá cứng, cây bần cây đước đó vẫn cố bám rễ . Để giữ lấy cái gốc. Bởi vì những nhánh nhóc bên trên rồi sẽ đâm chồi nẩy lộc. Cái gốc đó – chắc các con còn nhớ – nó tên là Việt Nam“. 

Tiểu Tử
________
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 15/Feb/2015 lúc 9:51pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23686
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 16/Feb/2015 lúc 11:24am


HẠT BỤI NÀO TRONG MẮT


Tropical%20Sunset%20And%20Birds


Chiều thứ hai, đi làm về, Bill nhận được lá thư của gia đình từ Việt Nam. Vừa bóc thư, Bill vừa lầm bầm:
– Không biết kỳ này ông già lại ca bản gì nữa đây.
Những hàng chữ viết nắn nót trên tờ giấy mỏng như đập vào mắt Bill:
Bân con,
Bố suy nghĩ mãi rồi mới viết lá thư này trong lúc buồn buồn nhớ tới các con. Bố đặt tên con là ‘Bân’, chữ ‘Bân’ (斌) có nghĩa là ‘lịch thiệp’ và có chữ ‘Văn’ đứng cạnh vì bố hằng mong mai sau lớn lên, con sẽ theo con đường văn chương, làm rạng danh dòng họ Nguyễn Hữu, một giấc mơ mà bố ôm ấp, nhưng biết đời mình không thể đạt thành.
Như con biết, 17 tuổi bố bỏ học, dở thầy, dở thợ, vất vả với đời sống, rồi, cuối cùng, trở thành anh công chức quèn, lấy vợ, nuôi con, và mong cho con nối được giấc mộng không thành của đời mình.
Khi con bước chân vào đại học, bố đã vui mừng, tưởng rằng con sẽ thành người như bố ước mơ. Tiếc thay vận nước điêu linh, con cũng như bao nhiêu thanh niên đều phải thi hành nghĩa vụ, và rồi trôi nổi tới phương trời xa! Bố mẹ ngày ngày chờ con về, và ngày con trở về thăm nhà lần đâu tiên, bố đã để rơi giọt nước mắt mừng vui trên đôi má nhăn nheo. Nhưng rồi, bố nghe con nói về nếp sống mới, và bố ngỡ ngàng. Không, bố không còn kỳ vọng có con làm rạng danh dòng họ Nguyễn Hữu như bố từng mơ ước trước đây, nhưng có gì như hụt hẫng mỗi lần cha con chuyện trò.

Ngày xưa, có lần bố đạp xe đi làm, bị một chiếc xe chở đầy lính Mỹ vượt qua mặt, những người lính cười nói ồn ào, vứt xuống lòng đường thanh kẹo cao su như bố thí, bố đã tức tủi nghẹn ngào. Ngày con về, nói cười hả hê với những danh từ xa lạ, bày ngổn ngang những món quà đắt giá cũng làm bố ngỡ ngàng. Nhưng bố chỉ thật sự chua xót khi giơ tay vuốt tóc đứa con trai của con. Tên nó là gì nhỉ, Tim hay Tím gì đó. Nó lắc đầu tránh bàn tay của bố và lầu bầu cái gì đó mà bố không hiểu. Bố biết là có lẽ từ đây giòng họ Nguyễn Hữu sẽ không còn trên thế gian!

Con à, có lẽ bố già quá rồi nên không còn thích nghi với những thay đổi của cuộc sống. Bố nhìn con, nhìn cháu và lòng bố xót xa. Con bây giờ là Bill chứ không phải là Bân. Tóc con cột đuôi gà, chứ không còn hớt cao như xưa. Thế nhưng tóc của vợ con lại ngắn ngủn, nửa nâu, nửa vàng, ôm sát khuôn mặt kiêu kỳ. Thằng Tim ‘Hey man’ chứ không “Thưa bố’ như con thủa nào. Cuối đời mà bố vẫn bơ vơ. Bố nói thế, con hiểu không, Bân?

Tuy nhiên bố cũng cám ơn các con rất nhiều. Tiền các con gửi về giúp bố mẹ hàng tháng đủ cho bố mẹ sống thoải mái lúc tuổi già. Căn nhà nhỏ gần rạch Thị-Nghè khang trang hơn cũng là nhờ các con. Chiều chiều, đứng nhìn dòng nước, bố thấy lòng mình cũng dịu dàng như con nước trôi.
Bây giờ đã gần ngày Noël. Bên phương trời đó, có lẽ các con đang bận rộn mua sắm, hội hè. Bố bây giờ ít ra khỏi nhà. Ngay cả những ngày Tết, bố cũng chỉ thắp hương khấn ông bà, xin các người tha thứ và, dù sao đi nữa, cũng xin phù hộ cho các con ở phương xa.
Bố chỉ cầu mong sao cho gia đình con luôn luôn đưọc hạnh phúc, thuận vợ, thuận chồng. Và nếu bố được khuyên con đôi lời thì bố mong rằng con hãy nghĩ tới cội nguồn. Dù sao đi nữa, con vẫn là người Việt da vàng, cố giữ lấy phần nào nếp sống của tổ tiên.
Lần tới, có về thăm nhà, con cố đưa bố ra ngoài Bắc. Bố muốn về thăm lại núi Ba Vì và quê Bất Bạt một lần trước khi nhắm mắt xuôi tay. “Bên này đất nước nhớ thương nhau.” Chúng mình cùng quê với Quang Dũng đó con.
Chúc các con những ngày vui.
Bố của con,
Nguyễn Hữu Cầu.

Gấp lá thư đút vào túi Bill thở dài:
– Ông già càng ngày càng lẩn thẩn. Không biết là sống thêm được bao năm nữa.
Bỗng nhiên, Bill chợt bùi ngùi, nghĩ thầm:
– Ngày xưa ông chỉ mong mình đậu Cử Nhân văn chương, đi dạy học, sống đời thanh bạch; thế nhưng, lưu lạc sang xứ này, mình lại kiếm ra khối tiền, nhưng chỉ có mỗi cái bằng Master … Card nên ông ấy vẫn buồn. Thôi, sang năm mình về một mình, không mang theo vợ con, nhất là cái thằng Tim cà chớn, rồi đưa ông ra Bắc thăm quê hương như ông ấy muốn!
Bill ngồi xuống bàn, cầm bút, định viết vài hàng trả lời bố, nhưng một ý tưởng chợt lóe ra trong đầu, Bill vỗ bàn:
– Tại sao mình không mời ông già sang chơi với mình ít lâu. Biết đâu chừng những gì ông già thấy tận mắt sẽ giúp ông hiểu thêm về đời sống ở Mỹ, sẽ thông cảm và thương yêu con cháu hơn.
o0o

Cụ Cầu leo lên chiếc xe Van, thắc mắc:
– Sao anh lại phải đi cái ‘xe tải’ như thế này? Không đủ tiền mua xe nhỏ hả con?
Bill mỉm cười:
– Ở đây ai có ‘xe tải’ là khá đó bố, còn xe nhỏ thì ai mà chả có! Cả nhà đều muốn ra phi trường đón bố nên con phải lái chiếc xe lớn này.
– Thế hả? Bố cứ tưởng…
Cụ Cầu nhướng mắt nhìn ra ngoài. Sao chẳng có ai đi bộ nhỉ? Mà toàn xe hơi không à, lâu lâu mới có chiếc xe gắn máy, mà sao xe gắn máy lại chạy nhanh hơn cả xe hơi? Ăn mặc thì cứ như thằng điên, đầu còn đội cả nón sắt!

Xa lộ 101 kẹt cứng, chầm chậm, nhưng rồi Bill cũng về đến nhà ở San Jose. Bill thở phào đỡ bố ra khỏi xe:
Nhà mình đây. Bố nghỉ cho đỡ mệt, rồi sẽ tính sau.
Cụ Cầu ngơ ngắc nhìn căn nhà to lớn trên sườn đồi. Thế này thì ở sao cho hết. Nhà chúng nó có bốn người. Con thì một đứa đi học xa, chỉ còn một đứa ở nhà. Cụ nhìn con:
Này anh Bân, thế cái nhà này bao nhiêu tiền?
Bân thở ra:
– Vài trăm ngàn bố ạ.
– Vài trăm ngàn? Thế tiền đâu mà lắm thế.
– Tiền nhà băng cho muợn. Ở đây ai cũng nợ cả, bố ạ. Mình trả góp hàng tháng mà!
– Thế anh làm bao nhiêu tiền một tháng cho đủ để trả tiền lời?
– Vài ngàn thôi. Nhưng con dặn bố thế này nhé. Bố hỏi con làm bao nhiêu một tháng thì được, chứ đừng hỏi người quen. Ở đây, họ kỵ những câu hỏi như vậy, không như ở VN mình.
– Thế à. Lạ nhỉ…
Phải mất đến cả tháng, cụ Cầu mới quen dần, mới không còn lúng túng với vòi nước nóng lạnh trong phòng tắm, mới biết làm thế nào để hệ thống báo động không kêu ầm ĩ khi mở cửa ra vào, mới hết giật mình vì tiếng điện thọai reo, và mới dám nhấc máy nghe xem có phải Bân gọi từ sở về.

Những náo nức ban đầu khi Bân đưa cụ đi thăm Little Sài Gòn, thử thời vận ở Las Vegas, đã nhạt nhòa. Cụ bắt đầu cảm thấy hiu quạnh. Hàng ngày, hai vợ chồng Bân đi làm, và Tim đi học, chỉ còn mình cụ quanh quẩn trong nhà, xem mấy cuốn băng nhạc cũ, hoặc thơ thẩn ngoài sân nhìn hoa cỏ. Hàng xóm chẳng quen ai. Lâu lâu, có ông Ấn Độ già đi ngang nhà nhe hàm răng móm mém cười, nhưng hai người ngôn ngữ bất đồng, chẳng nói với nhau được một câu.
Buổi chiều, Tim đi học về là nó trốn biệt trong phòng, có hỏi nó câu nào thì cũng như không. Thằng bé ú ớ khoa chân, múa tay, hoặc chỉ toét miệng ra cười!
Bân thương bố nên dắt cụ đi bộ ra đường lớn, chỉ cách cho cụ đi xe buýt tới khu chợ VN để cụ đi dạo, và nhặt báo chợ về đọc cho đỡ buồn. Bân ghi số điện thoại nhà, điện thoại sở, đưa cho cụ và dặn dò:
– Bố cứ leo lên xe buýt, xuống phố chơi cho vui. Có lạc thì gọi điện thoại cho con, hoặc cứ ngồi trên xe buýt, cuối cùng xe cũng về đến chỗ cũ! Đừng sợ bố ạ.
Thấy Bân dặn dò mình như con nít, cụ Cầu vừa buồn cười, vừa tức:
– Có sợ cái ‘đếch’. Núi rừng Bắc-Việt tôi còn biết đường đi. Phố xá ở đây rộng rãi, đường trải nhựa, đi dễ như bỡn. Anh cứ để mặc tôi!

Cụ Cầu nói thế, nhưng rồi hai lần Bân phải lái xe tới đón cụ về. Lần thứ nhất, cụ nhởn nhơ đi bộ từ nhà ra đường lớn, rồi lang thang sao đó đi luôn lên xa lộ 680! Cụ bị cảnh sát giao thông chặn lại, và mặc người cảnh sát nói gì cụ cứ lắc đầu, đưa cái ID card ra như thể là bị hỏi giấy tờ ở VN. Họ đành ‘bắt’ cụ về station, tìm thông dịch viên Việt Nam, lúc đó cụ mới đưa số điện thoại ra để cho họ gọi Bân đến đón cụ về.
Lần thứ hai, cụ ngồi trên xe buýt, nhưng quên chỗ xuống xe. Xe chạy tuốt lên đến tận Menlo Park, rồi ngừng lại, không chạy nữa vì cuối đường, và tài xế hết phiên! Cụ xuống xe, tìm điện thoại công cộng gọi cho Bân, nhưng không hiểu operator muốn nói gì nên đành chịu đứng đó, cứ thấy người da vàng nào là lên tiếng gọi “Ông ơi cho hỏi thăm” hoặc “Bà ơi cho hỏi thăm”. Mấy tiếng đồng hồ sau mới có một cô bé Việt Nam đi qua, giải thích cho cụ là cụ đã sang area code 650 rồi, chứ không còn ở vùng 408 nữa nên opeartor nhắc cụ bỏ thêm tiền mới gọi được. Cô gái giúp cụ gọi Bân và, về đến nhà, cụ cứ tấm tắc:
– Không biết con cái nhà ai mà tử tế thế. Lại không nhận cả tiền gọi điện thoại mình đưa trả.
Bân hỏi:
– Thế bố có hỏi tên và số điện thoại của cô ấy không để con gọi cám ơn.
Cụ Cầu cười:
– Sợ vãi đái nên chẳng nhớ gì!

Sau hai tai nạn đó, cụ Cầu hết muốn đi ‘giang hồ’ một mình. Bân sợ bố buồn nên xin nghỉ phép, đưa bố lên Seatle thăm người bạn già nhiều năm không gặp. Bác Bảo nằm liệt giường trong nhà già, bật khóc nức nở khi thấy bạn vào thăm. Cụ Cầu cũng rớt nước mắt nắm tay bạn:
– Cũng đến hơn chục năm rồi mới gặp lại bác. Nghe tin bác bị bệnh mà không ngờ đến nông nỗi này.
Bác Bảo cố cầm nước mắt:
– Khổ lắm bác ạ. Chỉ muốn chết cho nhẹ nợ.
– Giời bắt sao thì đành chịu vậy thôi. Thế các anh các chị ấy có vào thăm thường không?
– Có bác ạ. Cuối tuần nào chúng nó cũng thay nhau vào thăm. Ngày thường đứa nào cũng bận đi làm, đi học, chẳng có ai ra vô, chỉ có mấy bà y tá Mỹ đen lâu lâu vào lật mình như lật con nít ấy.
Bân và Phú, người con trai bác Bảo, bỏ ra ngoài để cho hai người bạn già nói chuyện tâm tình. Phú thở dài:
– Thế nào cụ cũng cho mình là bất hiếu. Nhưng không làm được gì hơn anh ạ. Tôi đã nghĩ đến chuyện đưa ba tôi về VN, nhờ một người họ hàng xa chăm sóc để cụ có người chuyện trò hàng ngày, thế nhưng vẫn không đành lòng vì xa xôi quá, chúng tôi làm sao mà thăm viếng thường xuyên. Đằng nào cũng khổ. Ông cụ nhà anh còn khoẻ quá, thân hình thẳng băng, và bước chân còn vững trãi.
Bân gật đầu:
Vâng. Bố tôi còn khoẻ, nhưng tuổi cũng đã cao. Chỉ là vấn đề thời gian. Trước sau gì rồi chúng ta cũng sẽ có cùng một vấn đề.
Cụ Cầu mắt đỏ hoe, câm nín trên đường về. Lâu lâu, cụ thở dài. Xe chạy qua một rừng thông cụ nói với con giọng buồn buồn:
Cảnh ở đây đẹp quá. Cứ như Đà Lạt ở Việt Nam mình. Thế nhưng cô đơn trong nhà già thì thật là đáng sợ. Cảnh đẹp mà làm gì, và cuộc đời đến lúc này còn có gì để tiếc thương.
Bân cũng không biết nói gì hơn, nghĩ thầm, không biết mai sau chuyện gì sẽ xảy ra cho bố mình và cho cả chính mình!
o0o

Cụ Cầu nhất định đòi về VN ngay, chứ không ở hết sáu tháng như dự trù. Cụ bảo vợ chồng Bân:
– Bố nóng ruột quá. Vẫn biết mẹ các con rất khỏe mạnh, nhưng đi lâu, bố chẳng yên tâm. Các con lấy chỗ máy bay cho bố về. Bố cũng đã thấy nước Mỹ. Ngày xưa, có bao giờ nghĩ rằng có ngày mình được đến chơi đất nước này. Bà nội con suốt đời không ra khỏi cổng làng. Bố như thế cũng là mãn nguyện lắm rồi.
Bân nài nỉ mãi, nhưng cụ Cầu không thay đổi ý muốn, nên anh ta đành lòng đưa bố ra phi trường. Nhìn bố vẫy tay giã từ, Bân muốn khóc vì chẳng biết bao giờ mới gặp lại. Bân hứa với bố là sẽ về thăm nhà thường hơn, nhưng không biết là có giữ được lời vì cuộc sống quay cuồng trên đất nước người. Thằng Tim sống gần ông nội ba tháng nên cũng đã quen thân, chứ không còn xa lạ như lúc ban đầu. Khi cụ Cầu vuốt tóc nó giã từ, nó không còn né tránh, trái lại Tim vòng tay ôm cụ như nó thường hun bố mẹ mỗi lần đi đâu về.
– Good bye, Grand-Pa.
Tim đưa tay vẫy ông nội và, khi bóng cụ Cầu đã khuất sau cánh cửa phi trường, Tim hỏi Bân:
– Are we going to see Grand-Pa again?
Bân vuốt tóc con:
– Yes, son. We’ll see him again. Grand-Ma too.

Một tuần sau khi cụ Cầu ra về, Bân lại nhận được thư bố. Từ ngày cụ Cầu ra về, Bân cứ ngơ ngẩn buồn. Những ngày qua cha con gần gũi, Bân cảm thấy mình hiểu và yêu quí cha hơn. Hình như ông cụ đã đổi tính ít nhiều, không còn khó khăn như xưa, và có cái gì mơ hồ trong tình cảm của cụ mà Bân chưa nhìn ra.
Bân chậm trãi bóc lá thư. Bao giờ cũng vẫn vậy, thư trên giấy mỏng, nét chữ nắn nót như thể người viết để cả tâm hồn vào những dòng chữ.

Các con của bố,
Bố đã về tới Sài Gòn, nhưng hơi mệt vì đường xa nên hôm nay mới viết cho các con. Mẹ con đón bố ở phi trường, không ôm hôn như Mỹ, không cả cầm tay, nhưng nước mắt lưng tròng, đầy ắp ân tình. Bố mới đi có ba tháng, mà thấy như là đã xa mẹ con một đoạn đời.
Mẹ con cám ơn những món quà các con gửi. Vải vóc và bánh trái mẹ con đem biếu hàng xóm láng giềng, chỉ giữ lại mấy lọ dầu gió và hộp sâm, phòng khi trái gió, trở trời. Hàng xóm ở VN mình dù sao cũng thân thiết chứ không như người xa lạ ở chỗ các con.
Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Sống gần các con có vài tháng ở bên đó, nhưng bố đã hiểu các con nhiều hơn. Ngày xưa, có lẽ bố đã quá khe khắt với các con mà không biết là mình đã lỗi thời, ôm mãi những giá trị cổ điển của những ngày tháng cũ.
Danh vọng làm khổ con người. Bố làm khổ bố, và cả con nữa, Bân, vì những ước mơ hão huyền cho giòng họ Nguyễn Hữu. Nghĩ lại, bố mới thấy những võng lọng vua ban cho tổ tiên cất dấu trong nhà từ đường ở quê nhà Sơn Tây không phải là những gì đáng hãnh diện trong khi đa số họ hàng nghèo đói, quanh quẩn trong mảnh đất khô cằn.
Các con tha phương, và cũng chẳng có danh vọng gì, nhưng dù sao, các con cũng có đời sống vật chất đầy đủ, và yên vui. Lẽ dĩ nhiên các con cũng có những băn khoăn, lo lắng về đời sống, nhưng đó không phải là những dằn vặt làm héo hon con người. Bố mừng cho các con, và cám ơn các con đã lo lắng cho bố mẹ vào lúc tuổi già.
Thấy tình cảnh bác Bảo, bố cũng cảm thương, nhưng thôi, cứ cho đó là số phận. Bố mẹ chọn nơi này để sống hết cuộc đời thay vì sang ở với các con như các con đã yêu cầu. Đất nước này dù sao cũng là quê nhà, có anh có em, có hàng xóm láng giềng, và dù cho có chân yếu, tay mềm thì cũng vẫn còn có người cho mình nương tựa lẫn nhau. Các con cứ yên tâm, đừng lo nghĩ cho bố mẹ lúc này.
À, còn điều này nữa. Thằng Tim không phải là đứa trẻ hư hỏng như bố nghĩ trước đây. Qua bên đó, bố mới biết là nó được nuôi dạy và lớn lên trong môi trường tự do nên hành động và cư xử phóng khoáng thế thôi, chứ thực ra, nó vẫn đầy tình cảm gia đình. Bố nghĩ lại những gì được dạy bảo như vòng tay thưa gửi, cúi đầu dạ thưa, chưa chắc đã là đường lối tốt. Bố không chắc, nhưng biết đâu lối giáo dục đó đã chẳng đưa đẩy con người vào vòng quỵ luỵ, dễ trở thành tay sai cho ngoại bang!

Bân con, bố chưa bao giờ khen con, cũng như ông nội không bao giờ khen bố, nhưng con cần biết là con không làm gì cho bố phải thất vọng hay buồn tủi đâu. Bố nói thế chắc là con cũng đã hiểu lòng bố lúc này.
Lúc nào rảnh, vợ chồng con về chơi với bố mẹ. Nhớ mang cả thằng Tim về, nghe con.
Bố của con,
Nguyễn Hữu Cầu.

Bân gấp lá thư, mắt mờ như muốn khóc.
– Bố ơi, có bao giờ con oán trách bố đâu, nếu con làm gì được cho bố vui lòng thì con cũng làm hết sức mình.
Thằng Tim ở trên lầu chạy xuống, hỏi:
Daddy, are you crying?
Bân lắc đầu, nói bằng tiếng Việt:
Không, có hạt bụi nào bay vào mắt bố đó thôi.


Trần Quang Thiệu



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 16/Feb/2015 lúc 11:24am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 17/Feb/2015 lúc 8:35am

Nồi Cháo Ế


Ông An nhìn xuống bếp nói:
-You nhớ bỏ mấy cục giò sống vào cho cháo nó thêm ngọt nhe!
Bà mở ngăn tủ lạnh vít vài miếng giò sống bỏ vào nồi cháo và nói vọng lên:
-OK, nồi cháo nầy mà không ngon là khỏi trả tiền nhe.
Bà nếm thử, rồi quậy nhè nhẹ lên, theo order của ông, trong nồi cháo nào là thịt xay, giò thịt chỗ bắp đùi phần trên, bây giờ ông lại còn muốn bỏ thêm giò sống nữa, ăn thế nầy mà không bị bịnh thì cũng lạ.

Lát nữa trước khi múc ra tô, bà phải bỏ nhúm giá trước, bóp nhè nhẹ cho giá gẫy khúc, rồi mới múc cháo ra tô, xong rồi thì bỏ hành ngò lên trên. Tô của bà khi ăn bà phải bóp vào một miếng tương bột Housin sauce, đây là món khoái khẩu của bà từ hồi còn bé, dù hồi đó nhà nghèo con đông, má bà nấu nồi cháo to ít thịt, nhưng lúc nào bà cũng dặn má bà mua một chút tương xay, cho vào cháo ăn mới ngon.
Ngồi nhâm nhi từ từ vì cháo mới múc còn nóng quá, bà để ông nói gì thì nói, bà cứ ậm ừ cho qua chuyện, nhưng đầu óc bà lạc về phương trời nào ấy. Bà nhớ lại, thế mà đã 26 năm.

*****
Năm ấy thằng con lớn của bà được 2 tuổi. Khi sanh nó, bà đau bụng đã hơn tuần lễ mà vẫn chưa sinh được, bụng lúc đầu đau râm râm, tới ngày thứ nhì đau hơn và cứ đau hơn nữa, cho tới lúc cô y tá khám và nghe tim thai thì em bé đã thở yếu lắm rồi, nằm ở đây đã 3 ngày, nhưng không có dấu hiệu gì sắp sinh cả. Năm ấy bà đã 35 tuổi, bà lấy chồng muộn nên có con muộn. Cô y tá trưởng đề nghị đem bà đi mổ gấp, nếu không mổ kịp sẽ chết cả mẹ lẫn con. Rồi thì họ cứu được cả 2 mẹ con.

Nuôi thằng nầy thật trần ai khoai củ. Nó vẫn bú nhiều, ăn nhiều, bụ bẫm, nhưng bịnh thì vẫn cứ bịnh, cứ ho, cảm, nóng,... Nó bệnh theo sự trở mùa của thời tiết. Mỗi khi nó bệnh, bà hay bồng nó đi bác sĩ Trinh ở HH. Bà không đem con tới bác sĩ A, vì ông nầy hay cho kèm trụ sinh là Tetraciline, nên phần đông con nít lớn lên răng đều bị vàng khè, mà không thể nào đánh cho trắng được, bao nhiêu tiền lương dạy học, tiền dạy thêm, tiền buôn bán vặt vãnh đều bỏ vào tiền đi bác sĩ, nhà thương, thuốc thang cho nó. Có những lúc, bà hết sạch sành sanh tiền vì nó cứ bệnh đau liên tục. Bà cũng biết nguyên nhân vì đâu, khí hậu Việt Nam, lúc đầu hôm thì nóng, bà để quạt máy, nửa đêm thì lạnh vì nhà máy tôn, khi lạnh thì thật lạnh, mà nóng thì thật nóng.

Hôm ấy nó bịnh, nóng không biết bao nhiêu độ, sờ vào bà biết là không thể để ở nhà. Bà không còn một đồng dính túi. Bây giờ chỉ có cách là đến cầu cứu thằng em. Nó là em thứ sáu, trong nhà nầy ngoài những đứa em còn nhỏ ra, thì những khi quá cần mà không thể chạy được nơi nào khác, thì bà phải cầu cứu nó. Nó làm công trong xưởng vẽ, là họa sĩ, mà họa sĩ vào năm 1988 thì có phải đâu “goodjob.” Năm ấy thì nhà nước "mở cửa" rồi, nhưng đất nước vẫn còn như ngại ngùng, lạ lẫm khi tiếp xúc với các xứ tự do, nên ngành vẽ cũng không lấy gì đắt khách.

Bà dắt xe đạp vào xưởng ở đường 3/2, trên cái giỏ chổ khung xe là cu Tí. Thằng em ngạc nhiên hỏi:
-Chị chở cháu đi đâu mà sớm vậy?
-Đi Nhi Đồng, hồi hôm nó nóng quá mà chị chẳng còn đồng nào cả.
Thế là nó lấy cái quần treo trên đinh nó móc sạch nhách, móc cho đến đồng bạc cuối cùng:
-Chị lấy đỡ bao nhiêu đây đi, em lãnh lương rồi tính sau.
-Em còn tiền xài không?
-Chị khỏi lo. Em còn cơm nguội với hũ chao.
Chị đứng tần ngần, cầm tiền. Thằng cậu sờ trán thằng cháu thúc giục:
-Thôi, chị chở cháu đi đi, nó nóng quá rồi.

Chị cho mớ tiền vào túi áo và gài cái kim tây cho chắc ăn. Mẹ chở con vào nhà thương bằng xe đạp, thằng con được nằm viện.
Sau khi mẹ con đà yên chỗ, chị xuống căn tin mua cho con chút cháo, phần chị thì đã có mớ cơm nguội và mấy con khô đây rồi, cũng qua được bữa nay, tối thì tính sau.

Ở nhà khi nó nóng thì cuống quít lên, vào đây thì cả ngày y tá chỉ phát cho vài viên thuốc uống cho trẻ bớt nóng rồi chờ xét nghiệm máu xem nó có nhiễm virus sốt suất huyết hay không,
Bà sợ bệnh tình con biến chuyển không biết thế nào, nên chút tiền của đứa em, bà còn để trong túi mà không dám xài, bụng thì lâm râm đói, nhưng thôi ráng ngủ đi cho quên đói.

Đêm ở nhà thương Nhi Đồng tầng trên nơi con nít nằm, ban đêm sao thanh vắng, thỉnh thoảng vài tiếng khóc của trẻ, tiếng ú ớ, tiếng la, tiếng dỗ con. Bà trằn trọc bên con, phần thì lạ chỗ ngủ, phần thì đói, bụng kêu rồ rồ không sao ngủ được, tiếng mì gõ lốc cốc... Giờ nầy mà có tô mì thì hết xẩy. Bà nghĩ đến quậy ly sữa bò của con để uống, nhưng cũng không được, phải để dành cho nó...

Bà cứ trằn trọc mãi, đoán giờ nầy chắc cũng 9, 10 giờ đêm rồi. Bỗng cuối hành lang có tiếng guốc lạch cạch, lạch cạch, tiếng như có cái gì gõ vào từng cửa phòng dọc hành lang và tiếng nói oang oang trong đêm vắng vẻ “Bà con nào muốn ăn cháo thì đem gà-mên xuống múc." Nghe tiếng trở mình của người đàn bà nằm với đứa con bên cạnh, bà hỏi với sang:
-Bộ họ cho cháo hả chị?
Giọng ngáy ngủ, bà kia ọ ẹ trả lời:
-Ừ, cháo ế, đêm nào nó cũng kêu cho.
Bà nghe vậy, xốc con lên, không cần biết thằng nhỏ ngủ hay thức, bà cõng nó trên vai, lấy cái gà-mên có 3 ngăn cầm theo, trước khi đi, bà nói với bà bên cạnh:
-Chị trông dùm đồ đạc của tui, chẳng có gì quý, chỉ có cái bình thủy là quý thôi.
-Ừ đi đi , không ai lấy đâu.
Thế là vai cõng con, tay xách gà mèn, bà lần xuống căntin, vừa đi vừa chạy, sợ người khác lấy hết. Bà nói nhỏ vào tai con:
-Con ơi, mình đi xin cháo, vậy là mình có đồ ăn rồi con ơi.
Thằng con được mẹ cõng chạy tưng tưng, nó cười khanh khách, tỉnh ngủ.

Hình như mọi người cũng quen với cảnh nầy và thấy cũng ít ai xuống lấy, cô có nhiệm vụ bán căn tin sắp sửa rửa nồi, nên chắc nghĩ rằng đổ thì uổng nên kêu mọi người xuống lấy, buổi sáng mua cho con, họ bán có chút thịt bầm, bây giờ thì thấy múc vào gà-mên 3 cục thịt bầm to bằng bàn tay vắt lại, như cơm vắt, cháo mới hâm sôi còn nóng hổi. Vậy là để dành tới mai còn ăn được.
Hình như từ sau khi lấy chồng đến lúc nầy, bà chưa bao giờ được ăn tô cháo ngon quá như vậy. Đúng ra vì nghèo quá, con thì cứ đau cứ bệnh, bao nhiêu tiền đều đổ vào tiền bác sĩ, tiền thuốc, tiền nhà thương mà chẳng làm gì được ra tiền ngoài việc đi dạy học.
Nguyên cả ngày hôm sau, bà sống lay lất nhờ gà-mên cháo ban tối, còn thằng nhỏ vẫn phải mua cháo nóng cho nó.

Buổi chiều thì bố nó vào, bà không dám hỏi ông ăn gì chưa, vì nếu hỏi khi ông trả lời là chưa thì bà phải lấy tiền đi mua đồ ăn, mà tiền nầy chưa biết sẽ xài cho thằng con bao nhiêu, và không biết bệnh tình nó ra sao, vì vậy bà không dám hỏi. Ông có ý ở lại, ông nằm dưới nền nhà, thở dài thườn thượt, môi thì khô, chắc là cũng đói, vào với mẹ con, xem con đỡ chưa và đương nhiên thế nào bà cũng phải kiếm gì cho ông ăn, nhưng bà không hỏi, vì bụng bà cũng đang rỗng tuếch đây. Bà nghe bụng ông cũng kêu ồm ộp.

Rồi bỗng nhiên như "đến hẹn lại lên", tiếng guốc lạch cạch, lạch cạch, tiếng gõ côm cóp vào từng cửa phòng, tiếng la oang oang “lấy cháo! lấy cháo! ai xuống lấy cháo!”
Bà ngồi dậy, phản ứng như bị điện giựt, lấy cái gà-mèn để sẵn. Bà dợm bước đi thì thằng con la lên “Mẹ, mẹ cho con đi với!”
Ông ngồi dậy, vài giây đầu ông không hiểu chuyện gì xảy ra. Bà nằm kế bên tỉnh giấc hơn tối qua, thấy ông ngạc nhiên, bà nói: “Đi xin cháo dưới căntin.”
Ông mắng liền, như thường ngày ông vẫn hay mắng bà:
-Đi đâu, đi ăn xin hả -?
Bà nghẹn ngào khựng lại vài giây, nghĩ trong bụng: ông không biết, ông không hiểu gì cả, từ ngày lấy nhau, bà đã nhịn đói dài dài, để nhường tất cả cho con và cho ông. Bà đã thường ăn đồ thừa, bà cố che giấu cái bất lực của mình vì không thể nào kiếm nhiều tiền hơn được nữa, phổi đã nấu thành cháo và cũng sắp lủng hết 2 lá rồi.

Sau cùng, cơn đói đang hành hạ và hình như ông cũng đang đói mà còn cố giữ cái sĩ diện rỗng tuếch, bà như không còn biết sợ là gì nữa, bất chấp ông chồng đang nổi xung, bà cõng con chạy theo tiếng la còn vọng lại cuối hành lang. Sau đó bà đem về phòng một gà-mên cháo còn nóng hổi. Thằng con vui lắm, tỉnh ngủ, bi bô nói chuyện tiếng được tiếng mất với bố, “Bố, bố, mẹ cõng con mẹ chạy.” Bàn tay ú nần sờ mặt bố, vừa cười vừa nói ngọng nghệu nghe cũng mắc cười. Ông cười theo thằng con.

Bà không nói gì hết, chia cho ông phần dưới là phần to nhất. Ông lặng lẽ ra hành lang ăn. Và bà thấy hình như ông đang khóc (có lẽ ông hối hận vì muốn giữ cái sĩ diện không xin xỏ mà mắng oan bà chăng?)

*****

-Ê, you! Cháo you nấu ngon quá hé!
-Mấy chục năm kinh nghiệm rồi you ơi, nhưng vẫn không ngon bằng gà-mên cháo ở Nhi Đồng.
26 năm trôi qua, lưu lạc qua xứ Huê Kỳ, cho đến bây giờ ông cũng không hề biết: nồi cháo ế hằng đêm ở nhà thương Nhi Đồng và cô bán căntin tốt bụng đã giúp bà đỡ đói trong hai ngày đêm ở đó.

Kim Thoa
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 18/Feb/2015 lúc 2:28pm

Cũng Một Đời Người


“Một ngày tôi đi qua trại lính ngang nhà, thấy một lá cờ với một vòng hoa. Hỏi ra mới biết anh là lính trẻ xa nhà chết trận đêm qua. Xung quanh đây có ai đâu đưa tiễn anh về, đưa tiễn anh về với lòng đất sâu. Hỏi ra anh có mẹ già ở tận phương xa. Tôi thấy tôi buồn, tôi thấy tôi buồn.”Ôi! Một bài hát với lời lẽ dung dị, mộc mạc qua giọng ca Thanh Lan đã tạo cho tôi cảm giác ngậm ngùi, xót xa suốt chuỗi ngày xa xưa mấy chục năm trước khi quê hương miền Nam đang sôi sục, điêu tàn vì khói lửa chiến tranh.Tôi không thuộc hết lời ca, không biết tác giả là ai, nhưng đó là bản nhạc tôi ưa thích vì nó rất gần gũi, chân tình. Bởi vì tôi thấy chính mình trong đó như tôi đã đi qua một đồn lính nào đó, tôi thấy một lá cờ một vòng hoa, có một người lính trẻ xa nhà đã nằm xuống!

Rồi thời gian trôi qua với bao vật đổi sao dời, bài hát cũng theo thời gian phôi pha, mờ nhạt trong ký ức, tôi đã quên nó như đã quên đi quá nhiều điều trong cuộc đời quá ư bận rộn. Vậy mà có một buổi chiều bài hát xưa bỗng trở về với một niềm xót xa quen thuộc, tôi thấy mình đang sống lại trong khoảnh khắc xa xôi với biết bao kỷ niệm thời trẻ dại cùng những hệ lụy, mất mát của chiến tranh, hận thù và nước mắt.

Đó là một buổi chiều mùa đông tuyết phủ trên đất khách quê người, tôi không đi qua một trại lính nào đó trên quê hương mà đến một nhà quàng trên đất Mỹ để viếng thăm một đồng bào đã qua đời. Tôi cũng thấy một vòng hoa trơ trọi, tôi cũng thấy một lá cờ quen thuộc và chiếc quan tài đơn sơ. Hỏi ra mới biết anh là người lính già chết vì bệnh ung thư, hỏi ra anh có người chị già còn ở lại quê hương. Nơi đây cũng chẳng có ai là người thân thiết, anh không có gia đình vợ con chi cả, anh ra đi trong cô đơn xung quanh chỉ có mấy người quen, vài ba người lính năm xưa đã hom hem, bạc đầu sương gió.

Bài hát ngày nào bỗng vang lên đâu đó, vẫn bằng cái giọng hát như ngậm đầy nước mắt của người ca sĩ năm xưa. Tôi thấy tôi buồn, tôi thấy tôi buồn đến chảy nước mắt. Sống mấy chục năm trên đất Mỹ, đi dự nhiều đám tang nhưng hình như chưa đám tang nào gây cho tôi nhiều xúc động như buổi chiều đi thăm viếng anh. Sự cô đơn, quạnh quẽ như loài rong rêu ma quái bám chặt từng khoảng không gian lạnh lẽo trong nhà quàng, anh nằm đó cũng còn phảng phất đâu đây cái dáng hiên ngang cao lớn của một người lính. Ngày anh còn sống tôi chưa có hân hạnh được trò chuyện cùng anh, mấy chục năm sống cùng thành phố không đông người Việt này hình như tôi chỉ gặp anh một vài lần. Tôi không để ý đến anh như anh cũng chẳng bao giờ để ý đến ai.

Người ta nói anh đã tự vẽ cho cuộc sống mình một các vòng tròn ngăn cách mọi người và anh sống một mình trong đó. Anh không làm phiền lòng ai và cũng chẳng muốn ai làm phiền đến mình. Dĩ nhiên anh có quyền như thế, như mọi người đều có quyền với đời sống của chính họ mà không ai có thể phê bình hay chê khen này nọ. Nhưng sao buổi chiều đến viếng thăm anh lần cuối trong nỗi buồn vời vợi không thể dấu được trong mỗi người bởi cuộc biệt ly không ai tránh khỏi, lòng tôi bỗng nặng trĩu u hoài.

Tôi chắp vá những mẩu chuyện đời anh với lời qua, tiếng lại của thiên hạ, trong âm điệu muộn phiền của bài ca năm xưa. Nơi đây có ai đâu đưa tiễn anh về, đưa tiễn anh về với lòng đất sâu!

Tên anh là Khoa, anh mang họ Nguyễn như một số rất đông người Việt Nam. Anh sinh trưởng ở Saigòn, đến trường và sau đó vào lính như những thanh niên thời chiến, anh có vài ba mối tình nhỏ và một mối tình lớn. Người yêu anh không phải là một nàng hoa hậu nhan sắc tuyệt trần nhưng cũng rất xinh, anh chưa tính chuyện cưới vợ vì nghĩ rằng mình lính tráng rày đây mai đó, chết sống lúc nào chẳng hay và nhất là không muốn người yêu mình thành góa phụ.

Sau năm 75, anh đi tù ở cái tuổi hăm lăm, mẹ anh đã qua đời nên đi thăm nuôi chỉ nhờ cậy vào bà chị nghèo chồng chết với bầy con năm đứa. Đời sống khốn khổ quá, đói rách quá nên người yêu anh phải bỏ đi vượt biên cùng một người đàn ông khác. Nghe tin anh chua xót, đau đớn nhiều nhưng không trách móc người yêu, mọi người đều phải tìm cho mình một lối thoát.

Ở trong tù thỉnh thoảng nhận những gói quà thăm nuôi nghèo nàn, nhỏ bé của chị anh ứa nước mắt thương cảm. Anh biết chị rất nghèo, anh biết mình đã ăn tranh với đàn cháu đói nhưng không còn sự lựa chọn nào cả, anh nuốt thức ăn trộn chung nước mắt. Anh phải sống với một chút hy vọng vu vơ nào đó, người ta đã dùng miếng ăn để giết dần dần, để kiềm chế và để sỉ nhục đồng bào của mình. Lòng dạ lang sói đó đáng cho trời tru đất diệt. Anh phải sống và tự hứa sẽ không bao giờ quên đi ân tình của chị và các cháu.

Rồi anh ra tù sống lây lất bữa đói, bữa no cho đến một ngày lên máy bay qua Mỹ. Đi Mỹ lúc đó là một phép lạ đối với những người tù vừa được phóng thích từ một nhà tù nhỏ ra nhà tù có tầm cỡ lớn hơn, nhất là đối với anh một người tù khốn khổ, cơ cực hơn mọi người khác trên cuộc đời này. Hy vọng bắt đầu nảy nở trong mái nhà dột nát của bà chị nghèo góa chồng và đàn cháu nhếch nhác, ốm o không lúc nào có một bộ quần áo lành lặn. Mặc dầu bảy tám năm trời được học tập lao động trong một trường cải tạo khe khắt, độc ác nhất của thế kỷ hai mươi sức lao động anh cũng không đem lại cho gia đình bà chị một cuộc sống sung túc hơn. Vẫn đói rách triền miên, khốn khổ triền miên.

Đến nước Mỹ, ở nhà chưa được một tuần anh theo người Việt Nam vào làm trong một hãng sản xuất thực phẩm đóng hộp. Việc của anh là chuyển những thùng hàng ra xe, xếp đặt nhà kho và ghi chép một số giấy tờ, chung quanh anh phần đông là những người Mỹ da đen to lớn, nghèo nàn. Cái nghèo bên Mỹ khác xa cái nghèo ở Việt Nam, nghèo có nghĩa là không có nhà đẹp, xe đẹp chứ nghèo không có nghĩa là đói ăn, đói mặc. Người Mỹ nghèo vẫn mập ú vì thức ăn dư thừa, áo quần vẫn bảnh bao mỗi ngày mỗi bộ, giàu thì xài đồ hiệu, đồ mới, ăn cơm tiệm, nghèo thì vào tiệm đồ cũ hay đến cơ quan từ thiện mà xin ăn, xin mặc. Người Mỹ xem thức ăn, cái mặc là những ân huệ thượng đế ban cho con người nên con người có bổn phận phải chia xẻ với đồng loại. Chỉ nội cái quan niệm đó xã hội Mỹ đã ăn đứt cái thiên đàng Xã Hội Chủ Nghĩa luôn dùng vật chất, miếng ăn để điều khiển, đày đọa con người.

Một ngày ra khu chợ gần nhà anh gặp một người đàn bà đứng rung chuông xin tiền người qua lại, bà ta mập mạp ăn mặc sạch sẽ, khuôn mặt trang điểm hẳn hoi với mười ngón tay sơn đỏ chói. Người đi chợ bỏ tiền vào cái hộp cho bà, anh tự nhủ: đi ăn xin diện như vậy sao vẫn có người cho. Sau này anh rút ra được một kinh nghiệm khá thú vị là đi xin mà có bộ vó dễ coi sẽ được tiền nhiều hơn mấy anh chàng nghiện ngập say sưa, đầu bù tóc rối, ăn mặc nhếch nhác.

Công việc lao động đầu tiên của anh trên nước Mỹ được lãnh 320 dollars một tuần, trừ thuế má, ăn uống xong mỗi tháng anh còn dư hơn 500 dollars, anh vội gởi về cứu đói gia đình bà chị 300 dollars, một số tiền mà dù nằm mơ chị anh cũng không dám nghĩ đến. Mấy tháng sau anh thi lấy bằng lái, mua xe và tìm cho mình một căn phòng trong khu cư xá nghèo với giá 300 dollars một tháng. Nhà gồm phòng ngủ, phòng khách và bếp, những người Mỹ đen hàng xóm vẫn làm anh thấy bằng lòng hơn là ở chung với những người bạn Việt Nam cùng sở vì bản tính anh không thích ồn ào, không thích làm phiền ai và ngược lại.

Vì làm việc chăm chỉ, biết đôi chút tiếng Anh nên Khoa được lên lương rất sớm, việc này làm phiền lòng không ít những người Việt chung sở vì họ làm trước anh khá lâu và cũng chăm chỉ như anh. Họ nghĩ anh nịnh chủ, hay dèm pha này kia để lấy lòng cấp trên mà sự thật không phải như thế. Họ không bao giờ hiểu rằng dù Khoa cũng như họ, cũng tóc đen, da vàng, cũng gầy gò mang tấm thân tha phương cầu thực, cũng mang sức lao động để kiếm miếng ăn nhưng anh khác họ đôi chút vì anh có kiến thức hơn, lại chịu khó học hỏi nên dễ gây thiện cảm với cấp trên. Thật khó giải thích điều đó với những đồng bào của mình, họ còn cho Khoa là kẻ phản phúc, ngày nào mới qua Mỹ mặt mày lơ láo nhờ họ giới thiệu vô sở làm, giờ biết lái xe, lên lương được tụi Mỹ tin dùng coi đồng hương chẳng ra chi … vân vân và vân vân …

Họ nào biết rằng những ngày cuối tuần trong khi họ lo ăn nhậu, đi Casino, hay ngồi luyện phim diễm tình nhiều tập Trung Hoa, Đại Hàn thì Khoa lại miệt mài đọc sách truyện bằng Anh Ngữ với quyển tự điển dày cộm bên cạnh. Khoa không có ước vọng trở lại trường Đại Học tiếp tục việc học dở dang mấy chục năm trước mà anh chỉ học để biết, để dễ dàng tiếp xúc với người Mỹ xung quanh, anh cần kiếm nhiều tiền để giúp đỡ chị và đàn cháu bên Việt Nam. Anh mua cái tivi nhỏ để xem tin tức, phim ảnh và cũng để trau dồi thêm vốn liếng tiếng Anh nghèo nàn của mình. Khổ nỗi, nội cái việc không tiếp xúc nhiều với người Việt xung quanh càng làm cho họ ghét Khoa nhiều hơn. Bản tính Khoa lại ít nói, cứng đầu cứng cổ không thích phân bua với ai, anh quan niệm họ nói sao thì nói, việc mình làm cứ làm. Anh còn có nhiều điều để lo thì hơi sức đâu lấy lòng những người Việt lắm điều, ưa đố kỵ.

Khoa làm người Mỹ trả tiền cho anh chứ đâu phải người Việt trả, gặp nhau họ chào thì anh chào lại, mà nếu cứ ganh tị, mỉa mai này nọ thì anh coi như không có họ. Tan sở anh leo lên xe chạy như bay chứ không có thì giờ cà kê, dê ngỗng như phần đông người mình tụm ba, tụm bảy trong bãi đậu xe cho mất thì giờ vàng ngọc. Thật ra trò chuyện tán gẩu đôi ba phút khi tan sở cũng là một cái thú của mọi người chứ không phải chỉ người Việt mới có, thứ nhất để giải tỏa những phiền muộn trong cả ngày làm việc, sau đó là những hứa hẹn, toan tính cho ngày mai. Khoa không có thói quen này vì anh còn nhiều việc đang cần giải quyết, anh phải đi gởi tiền cho thằng cháu đầu đang thi vào Đại Học, những đứa sau cũng cần áo quần để đi học. Dạo này các trường bắt học sinh phải mặc đồng phục, chỉ nghĩ đến đám cháu xúng xính trong những bộ áo quần mới đến trường, lòng Khoa chợt thấy ấm lại, sự mệt mỏi của hơn tám giờ lao động chợt tan biến đâu mất. Và thay vì về thẳng nhà anh chạy lên hướng Midtown nơi chị Bảy Hậu cư ngụ, chị là người chuyên chuyển tiền về Việt Nam mà Khoa là khách hàng rất quen thuộc. Đôi khi giữa chị Bảy và Khoa cũng có những mẩu đối thoại ngắn:

- Này chú Khoa ơi! Đời sống ở Mỹ của chú nay cũng khá ổn định mà sao vẫn cu ky một mình vậy, sao không kiếm một cô để đỡ đần nhau?

Khoa cười hề hề:

- Thôi chị Bảy ơi, tôi già rồi ai mà thèm.

- Già gì, đàn ông năm mươi thì còn trẻ chán, nếu chú muốn tôi sẽ làm mai cho một cô.
- Cô nào?
- Cô này góa chồng đã lâu, hai con đã lớn và đi làm rồi. Cổ có quốc tịch Mỹ, biết lái xe, có nhà riêng, đẹp thì không đẹp lắm nhưng cũng dễ coi lo làm ăn, có job hẳn hoi chú ạ!

Thấy Khoa im lặng chị Bảy nói tiếp:
- Chú cũng đừng ngại gì mấy đứa con cô ta, tụi nhỏ bây giờ cũng thông cảm cho cha mẹ lắm, chúng không còn khư khư muốn cha mẹ phải hy sinh suốt cuộc đời cho mình đâu. Quan niệm đó xưa rồi, xưa như trái đất.

Khoa pha trò:
- Trái đất xưa nhưng trái đất vẫn quay như thời khai thiên lập địa đó chị Bảy.

Chị Bảy xịu mặt:
- Tôi nói thật đó chứ không đùa đâu, mặc dầu bây giờ chú còn khỏe mạnh, đi làm ra tiền nhưng biết đâu ngày mai, dù gì khi đau ốm cũng cần người giúp đỡ sớm hôm. Có vợ có chồng vẫn hơn chú ạ, mà tôi nói thật không dễ gì kiếm được một người đàn bà như cô Diễm Châu đâu, cô về Việt Nam hiếm gì kẻ giàu có, đẹp trai sẳn sàng xin cưới để qua Mỹ.

Khoa chợt hỏi:
- Cô Diễm Châu là ai mới được chứ?

Chị Bảy nguýt dài:
- Bộ hồi nãy giờ chú không nghe tôi nói à, chú như từ cung trăng rơi xuống. Cô Diễm Châu là cô góa chồng hai con mà tôi định làm mai cho chú đó, tuy người ta nhan sắc không phải chim sa cá lặn nhưng cũng chẳng phải xấu đâu, xin tuyên bố với chú như vậy đó.

Khoa cười:
- Tôi có chê đẹp xấu gì đâu chị Bảy nhưng thật tình tôi chưa nghĩ đến, có lẽ ngày nào đó tôi sẽ nhờ chị mai mối đó.

Rồi Khoa bỏ đi, sau lưng anh chị Bảy càm ràm một mình:
- Đợi đến ngày đi gặp anh Sáu tấm chắc, chẳng giống ai cả!

Chị Bảy ấm ức trong lòng vì tấm chân tình của chị không được Khoa đáp ứng, dù gì chị cũng là người đàn bà tốt bụng. Thấy Khoa lo làm ăn, chẳng bài bạc rượu chè, đàn đúm bè bạn chị cũng có bụng thương nên muốn làm mai cô Diễm Châu cho anh. Mặc dầu chuyển tiền về Việt Nam đã đem cho chị một số lợi nhuận nhưng thấy Khoa gởi tiền về nhà nhiều quá chị cũng thấy áy náy, chị đem chuyện này nói với chồng:
- Chú ấy cứ gởi tiền về nhà nhiều như vậy mà chẳng lo gì cho bản thân mình, tôi thấy sao sao ấy!

Anh Bảy nhún vai:
- Bà cứ lo bò trắng răng, đời ai nấy lo bà ạ! Việc bà chuyển tiền thì cứ lo chuyển tiền, chú Khoa hơn năm mươi rồi chứ có phải đôi tám đâu. Lại còn mai với mối, chú ta không chịu lấy vợ đâu!
- Sao ông biết?
- Đâu phải một mình bà muốn ăn đầu heo, nhiều người giới thiệu cô này, bà nọ chú ta đều gạt phăng hết, thật là chẳng giống ai cả. Lầm lầm lì lì sống như con ốc sống trong cái vỏ.

Rồi anh Bảy kể chuyện có ông nào đòi giới thiệu con gái của ông Đại Úy Tâm cho Khoa, cô Thu Thảo đã hơn bốn lăm tuổi mà chưa có đời chồng nào. Cô khá đẹp nhưng sở dĩ không lấy chồng vì phải giúp mẹ nuôi các em khi cha đi tù Cộng Sản, khi cha về đi diện H.O. cô lớn tuổi nên bị gạt khỏi danh sách. Cô phải chờ cha bảo lãnh lại nên quyết định không lấy chồng, khi Thu Thảo qua Mỹ tuổi đã lớn. Như thế thật xứng đôi vừa lứa với Khoa bởi hai kiếp đời dang dở như nhau, ai cũng thấy là được mà Khoa lại thấy không được. Có người nói Khoa còn thương người yêu cũ mà qua lời Khoa thì rất xinh đẹp và họ kết luận:
- Người đẹp mà không ở cùng mình thì cũng chẳng nghĩa lý gì, hơi sức đâu mà nhớ người đã ra đi. Với lại đã già rồi xấu đẹp cũng như nhau thôi, da ai chẳng nhăn tóc ai chẳng bạc, mà chưa chắc gì bây giờ người yêu xưa của Khoa so sánh bằng cô Thu Thảo.

Mới đầu ông bà Đại Úy Tâm cũng hơi cay cú một chút vì Khoa dám chê con gái mình nhưng vài năm sau thì họ mừng húm khi cô Thu Thảo kết hôn với ông Mỹ góa vợ 60 tuổi, cô được thừa hưởng một cái nhà đã trả hết nợ lại được chồng cưng như trứng mỏng.

Kết luận Khoa không muốn lấy vợ, vẫn ngày qua ngày làm lụng chăm chỉ, gởi tiền đều đều về Việt Nam.

Thật ra nói tiền gởi đều đều cũng không đúng vì càng ngày đám cháu bên nhà càng lớn thì những nhu cầu càng cao, hơn nữa bà chị Khoa cũng xây đắp, sửa sang thêm nhà cửa cho con cái đỡ mất mặt với bạn bè trang lứa, đó là chưa kể còn có đứa làm đám cưới, đám hỏi. Một bà chị, năm đứa cháu ăn học do một tay Khoa lo lắng, những đám hàng hóa chất vào kho, đưa lên xe truck ngày càng trở nên nặng nề hơn trên vai khi tuổi đời đã cao, tuy nhiên Khoa lấy niềm vui của gia đình chị làm niềm vui của mình mà bỏ quên đi những hạnh phúc cũng có thể tìm thấy xung quanh.

Khoa luôn từ chối những lời mời đi tham dự họp hành của những người lính năm xưa vì Khoa nghĩ họ chỉ đến đó để khích bác và cãi nhau. Thật ra thì sự bất đồng ý kiến ở đâu chẳng có, dù là nơi thờ phượng như chùa chiền hay nhà thờ nhưng nếu chúng ta cứ chú ý vào những điều đó để từ chối hợp tác thì trên đời này chẳng còn một tổ chức hay một đoàn thể nào cả. Những buổi tiệc tùng, cưới xin hay văn nghệ chào mừng năm mới, những nơi cộng đồng Người Việt ăn Tết cũng chẳng thấy sự xuất hiện của Khoa. Ngày cuối năm Khoa gọi điện thoại về Việt Nam ăn Tết hàm thụ cùng gia đình chị, nghe kể chuyện mua sắm của các cháu, đón gia thừa cúng kiến với chị và thả hồn vào những mùa Xuân năm xưa. Trong căn phòng nhỏ giữa khu cư xá lạnh lùng không hề có bóng dáng của nàng xuân, không hề có một tiếng pháo đón giao thừa. Trong nhà không một gói mứt, không một cành hoa thì nói nói chi đến một chiếc bàn thờ, một bình hoa hay một mùi trầm hương ấm cúng!

Nếu lái xe ra khỏi khu cư xá độ nửa giờ, nếu sẳn sàng nhập cuộc Khoa sẽ thấy không khí Tết trong một đám đông nào đó, cũng khói hương nghi ngút trên bàn thờ, những khuôn mặt hớn hở, nụ cười vui tươi trong ánh mắt đồng bào, họ dựng lại mùa Xuân trên đất khách, những lời chúc tụng, những hy vọng, hân hoan chờ mùa Xuân thực sự trên quê hương đất nước. Có những đứa bé gái, trai trong áo dài khăn đóng ê a bài hát bằng ngôn ngữ Việt, những người tuổi trẻ lăng xăng qua lại tiếp đón, trò chuyện với người lớnvà cũng có rất nhiều người ngoại quốc, người Mỹ đến chung vui với dân tộc Việt Nam.

Còn Khoa, anh không tốn một đồng bạc cho những đồng bào mình ở đây dù là mua một đòn bánh tét nhỏ trong một cửa tiệm tạp hóa Việt Nam hay tặng cho một hội đoàn nào vài chục đồng. Tuy nhiên lại chi một số tiền quá lớn cho cái Tết ở quê nhà mà Khoa chỉ tham dự qua hình ảnh, qua Internet và điện thoại. Khoa không đi chùa, không đi nhà thờ, không tham dự những ngày kỷ niệm của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mà có thời Khoa đã là một thành viên, có thời Khoa đã từng bị trả thù và đầy đọa. Khoa càng xa lánh mọi người thì người ta cũng không còn để ý đến Khoa nữa, với anh điều đó thật là một nổi cô đơn dễ chịu vô cùng và anh tận hưởng hạnh phúc trong sự cô độc tuyệt vời này.

Một ngày kia Khoa nhận được tin vui bên nhà đứa cháu trai đã ra Bác sĩ, anh hớn hở chạy xuống chị Bảy gởi mừng cháu một số tiền khá lớn, vừa nhìn Khoa chị Bảy vụt nói:
- Chú Khoa sao dạo này xuống sắc vậy, coi bộ đau ốm gì đó, liệu mà đi Bác Sĩ đi!

Khoa cười vui vẻ:
- Tôi có đau ốm gì đâu, hồi hôm vui quá khi nghe thằng cháu mới ra Bác Sĩ nên chẳng ngủ được chút nào cả.

Chị Bảy chặt lưỡi:
- À ra vậy, chia vui với chú đó nhưng mà chú Khoa ơi! Dù có thương gia đình cách mấy thì cũng lo cho mình một chút, nên nghĩ ngơi đi chơi đây đó để giải trí chứ nếu chú bệnh hoạn nằm xuống thì chẳng có ai chăm lo đâu. Chị và các cháu thì quá xa xôi, phải chi…

Chị Bảy định nói chuyện cô Diễm Châu, rồi nghĩ đến cô Thu Thảo mà tiếc giùm cho Khoa nhưng sực nhớ lời anh Bảy khuyên thì chị im lặng.

Trên đường lái xe về Khoa bỗng chú ý đến lời khuyên của chị Bảy là nên đi chơi đây đó. A! Phải rồi, nay cháu đã học hành thành tài sao mình không về Việt Nam chơi một chuyến, mười mấy năm ra đi chưa một lần trở lại, bà chị nay cũng đã già lắm rồi về thăm là đúng.

Vậy là Khoa quyết định mua vé máy bay về Việt Nam, những ngày sau đó Khoa bận rộn việc quà cáp cho gia đình, xin phép ở hãng, Khoa thấy vui vẻ, hạnh phúc như mở hội trong lòng khiến những người xung quanh ngạc nhiên và kháo nhau: chắc hắn ta có cô nào rồi nên mặt mày mới rạng rỡ như thế, để chờ xem sao?

Một buổi sáng ngủ dậy Khoa cảm thấy trong người có những triệu chứng bất thường nhưng cũng ráng lái xe đi làm, đến nửa buổi thì Khoa gượng không nổi nữa nên phải nhờ người chở về nhà. Mọi người đoán là anh bị bồ đá hay sao đó, đời khổ là vậy: không đàn bà cũng khổ mà có đàn bà lại càng khổ hơn. Rồi Khoa không trở lại sở từ ngày đó, anh đi Bác Sĩ khám bệnh và nằm liệt giường.

Một ngày kia ông Lê là người giúp đỡ Khoa nhiều nhất trong những ngày đầu tiên anh mới đến đất Mỹ nhận được cú điện thoại từ ông Trần Lâm làm trong dịch vụ bán vé máy bay về Việt Nam:

- Ông Nguyễn Khoa bạn thân của ông đã mua vé máy bay về Việt Nam nhưng nay ổng đau nặng quá nên xin trả vé lại. Ông ta gọi tôi nhờ ông đại diện để nhận tiền hoàn trả vì ông ta chẳng có ai ở đây!

Ông Lê như trên trời rơi xuống, một hồi lâu mới nhớ mình có người bạn thân tên Nguyễn Khoa. Thật ra hồi trước ông Lê có giúp Khoa lái xe, mua xe và vô số việc trên trời dưới đất cần thiết cho một người mới lớ ngớ lần đầu đến Mỹ. Ông giúp Khoa cũng như đã giúp mọi người từ việc nhỏ đến việc lớn, ai ai cũng cho là ông tốt bụng, hào hiệp nhưng vợ con ông thì nói ông là người ăn cơm nhà đi vác ngà voi, chuyên lo chuyện bao đồng, chuyện tào lao.

Ở đám đông nào cũng có mặt ông Lê, ai ông cũng quen biết. Ông theo đạo Phật nhưng khi nhà thờ có việc thì ông cũng lăn xả vào mà giúp, ông từng là một người lính nên việc lính là ông tính liền, ở đâu có lính là ở đó có ông cho nên anh Thiếu Úy Nguyễn Khoa đi diện H.O. vừa đến thành phố này thì làm sao tránh được sự ân cần giúp đỡ của ông Lê. Ông chưa bao giờ nghĩ mình là một người bạn thân của Khoa cả vì sau khi đời sống trên đất Mỹ khá ổn định thì hơn ai hết Khoa đã lánh mặt ông. Không phải anh ghét gì ông Lê mà chỉ vì khi giao thiệp, qua lại thì ông hay rủ rê Khoa đi tham gia hội này hội nọ. Ông Lê là người  quá hăng say việc xã hội nên không thích hợp với bản tính trầm lặng, sống âm thầm xa cách mọi người của Khoa.

Nghe tin chẳng lành của Khoa ông Lê vội xách xe chạy đi, dạo này ông về hưu nên càng làm việc thiên hạ nhiều hơn, vợ con càm ràm riết cũng chán để mặc ông muốn làm gì thì làm. Cũng may là con cái học hành thành đạt, công việc làm ăn đàng hoàng nên ông hay tuyên bố:
- Nhờ ba làm việc thiện nên tụi bây mới hưởng được phước, cho nên tụi bây không nên cản trở mà phải khuyến khích tao nghe chưa?

Tụi nhỏ la ó:
- Ai mà cản ba nổi, mẹ cũng đành bó tay huống chi tụi con. Thôi thì ba muốn làm gì thì làm miễn rằng ba hạnh phúc là được rồi!

Vậy là những ngày cuối cùng của Khoa chỉ có ông Lê bên cạnh, ông bỏ việc nhà việc cửa lo săn sóc, giặt giũ, cơm nước cho Khoa. Ông không từ chối dù những việc dơ dáy, phóng uế của một người bị ung thư ruột, khi bệnh Khoa trở nên quá nặng phải chở vào bệnh viện thì ông phải chạy đi chạy về để lo chuyện tiền bạc, giấy tờ. Rồi Khoa qua đời ông phải đi quyên góp để lo đám tang.

Ông than thở:
- Ngày còn sống chú ấy sống khép kín quá, không biết đến ai nên khi qua đời cũng chẳng ai biết đến chú ấy. Tôi gặp khó khăn trong việc quyên góp, bao nhiêu tiền bạc làm được chú gởi cả về Việt Nam khi nằm xuống chẳng có đồng nào. Thật là tội cái thân đơn chiếc, tứ cố vô thân!

Ông Lê kêu điện thoại cho gia đình bên Việt Nam báo tin thì nghe bà chị và lũ cháu khóc như gi.

Người cháu Bác Sĩ nói:
- Cậu con thật tội nghiệp, cứ lo cho gia đình bên này mà quên cả thân mình. Cậu có ước nguyện được đem tro cốt về Việt Nam nên xin bác lo giùm, tốn kém bao nhiêu chúng con xin hoàn trả sau.

Ông Lê phải chạy về năn nỉ bà vợ cho mượn một số tiền, khi cầm tiền chắc trong tay rồi ông mới nói với vợ:
- Nghĩa tử nghĩa tận, số tiền này mình cho họ mượn nếu họ không trả lại thì kể như mình làm phước nghe bà!

Bà vợ làm thinh, im lặng là chấp nhận vậy là ông ba chân bốn cẳng chạy đi liên lạc với nhà quàng để lo thủ tục thiêu hài cốt của Khoa.

Bây giờ thì Khoa nằm đó, một chiếc quan tài đơn sơ chờ vào lò thiêu xác. Không vợ con, không họ hàng thân thuộc, người thăm viếng cũng thưa thớt đếm được trên đầu ngón tay. Một lá cờ vàng ba sọc đỏ vắt ngang trên vòng hoa tang độc nhất, ông Lê thở dài:
- Tôi mang lá cờ đến cho chú ấy, dù gì chú cũng có thời chiến đấu dưới màu cờ này. Huynh đệ chi binh mà, chú ra đi có vài anh em như vầy cũng được!

Thôi thì cũng được, thôi thì cũng một kiếp người nhưng sao tôi nghe có gì nghẹn ngào trong cổ họng. Anh sống đúng hay sai tôi không dám bàn tới nhưng có một điều không thể chối cãi được là chưa bao giờ anh được sống cho chính mình, tuổi trẻ của anh mịt mù trong khói lửa chiến tranh, rồi bị vùi dập trong thù hận, trong những trại tù. Qua đến xứ tự do, chưa bao giờ tận hưởng được những hạnh phúc cho riêng mình mà sức lực lại tiêu hao trong bổn phận, trong những ân nghĩa mà anh tự nguyện trang trải. Tình yêu không có nơi để mọc cánh, để đơm hoa kết trái bởi những kỹ niệm đau buồn trong quá khứ. Bây giờ anh nằm đó, người lính già cô đơn tội nghiệp, người lính không chết trên chiến trường mà chết trong âm thầm với những roi vọt, những vết hằn thù của đời sống. Cũng có thể tôi đã đi quá xa, đã tưởng tượng quá nhiều và đâu đó dư âm bài hát năm xưa bỗng vang vọng đâu đây. Nơi đây có ai đâu đưa tiễn anh về, đưa tin anh về với lòng đất sâu.

Chiếc hòm của anh quá đơn sơ đến tội nghiệp, đó chỉ là những tấm cạt tông cứng màu xám xịt ghép vào nhau. Dù vẫn biết chiếc hòm nào cũng bị vùi lấp trong đất, cũng bị đẩy vào lò thiêu nhưng tôi vẫn thấy bất nhẫn quá. Tôi quay đi để dấu những giọt nước mắt thương cảm và nói với chị bạn bên cạnh:
- Sao thảm quá chị à!

Chị bạn im lặng thở dài, ông Lê phân trần:
- Chúng tôi chỉ lo được như thế. Ngày còn sống chú không giao thiệp với ai nên khi nằm xuống cũng khó có người biết đến, chẳng qua chỉ có anh em lính tráng kẻ ít người nhiều thôi cô ạ! Cũng may mà bà xã tôi không cằn nhằn khi tôi giúp chú ấy. Khi tôi đi quyên góp còn có người nói: Ăn rồi cứ lo gởi tiền về Việt Nam đến khi nằm xuống sao không kêu người bên Việt Nam giúp cho!

Ông Lê thở dài:
- Họ nói cũng có cái lý của họ, nhưng biết sao đây. Bán anh em xa mua láng giềng gần nhưng nói thì nói chứ có ai dám làm như thế đâu cô nhỉ!

Rồi mọi người cũng quên người lính già Nguyễn Khoa cho đến một hôm trong một buổi văn nghệ giúp các anh Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa người xướng lên tên những vị Mạnh Thường Quân bỗng tôi nghe người ta nhắc đến tên anh:
- Ông Nguyễn Khoa Cựu Quân Nhân Việt Nam Cộng Hòa ủng hộ 300 Dollars.

Có tiếng xì xào dưới khán đài:
- Ông Nguyễn Khoa chết rồi mà, ổng chết mấy tháng nay rồi! Biết có phải ông ta không?
- Chứ còn ai nữa, ở thành phố này có ai tên Khoa nữa đâu!

Thấy ông Lê đang lăng xăng chạy tới chạy lui trong hội trường tôi bước đến hỏi thăm:
- Này anh Lê ơi, có phải anh Khoa gởi tiền cho Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa không?

Ông Lê cười buồn:
- Trong những ngày cuối cùng chú bị dằn vặt nhiều và muốn đến với các anh em nhưng đã quá muộn rồi. Tôi nói người ta sắp tổ chức văn nghệ để giúp các anh em Thương Phế Binh đang sống khốn khổ tại quê nhà, chú nói nếu lành bệnh sẽ đi tham dự và lập lại lời hứa cho đến những giây phút ra đi và đó cũng là số tiền cuối cùng của chú gởi đến giúp các anh em mình. Nói gì nói chứ cũng tội nghiệp quá, chú mang vết thương lòng khi nằm trong tù nghe người yêu bỏ đi vượt biên. Chú nhớ hoài ngày bà chị nghèo đi bới xách và đùm bọc khi ra tù nên lúc nào cũng mong được đền đáp.

Tôi nói:
- Nhưng còn cuộc đời của anh ấy, nhưng còn hạnh phúc của anh ấy thì sao?

Ông Lê nhún vai:
- Có những vết thương không bao giờ lành được đâu cô. Khi nỗi khốn khổ đã đi quá cái giới hạn thì nó sẽ trở thành sự ám ảnh không thể nào nguôi ngoai, Khoa lại thuộc túp người sống trầm lặng, thà rằng cứ nói ra mà nó dễ chịu cô ạ. Cho nên người ta nói chú ấy chẳng giống ai, chưa điên khùng là may rồi, thế cũng xong một đời.

Ông Lê chào tôi rồi bước tới một đám đông nào đó, ông cười cười nói nói không phút nào ngơi. Tôi tự hỏi đời sống này sẽ ra sao nếu thiếu những người như ông. Cuộc sống ông Lê và cuộc sống của Khoa hoàn toàn trái ngược nhau như mặt trăng với mặt trời, như sao Hôm với sao Mai, như Nam cực với Bắc cực. Vậy mà trong những phút cuối đời Khoa đã sống trong vòng tay đùm bọc, đỡ đần của ông, cho nên đôi khi người ta vẫn thấy mặt trăng giữa ban ngày. Sao Hôm và Sao Mai chỉ là một. Nam Cực và Bắc Cực cũng đều lạnh giá như nhau.

Thế cũng xong một kiếp người, người lính năm xưa đã trở về với đất. Xin cầu nguyện cho anh bắt đầu một đời sống khác hạnh phúc hơn cuộc đời anh đã đi qua./

Mimosa Phương Vinh


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 18/Feb/2015 lúc 2:40pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 19/Feb/2015 lúc 8:07am
Hai Buổi Tối Mồng Một Tết     <<<<<
Thanh Thương Hoàng
Thanh Phương diễn đọc

phaonoel7




Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 19/Feb/2015 lúc 8:12am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 23/Feb/2015 lúc 10:30am








Tôi lấy chồng được 2 năm, Tết nào cũng về quê chồng ăn Tết gần nửa tháng. Tôi làm ở công ty nước ngoài, dưới quyền tôi có 20 nhân viên toàn tốt nghiệp đại học ở nước ngoài.

Chồng tôi là người ngoại tỉnh, tôi quen anh hồi đại học, mến tài anh, chúng tôi yêu nhau rồi kết hôn, cuộc sống bộn bề nhưng thông cảm hiểu biết lẫn nhau, chúng tôi hạnh phúc.

Tôi sinh ra và lớn lên ở thành phố, chưa từng về quê lâu ngày, trừ dịp Tết. Cứ 25 hay 26 Tết, chúng tôi lại về quê. Tôi tính đoảng. Chồng tôi mua đủ thứ măng miến mộc nhĩ linh tinh , anh nói của tôi mua.

Nhà chồng tôi có bố mẹ chồng, vợ chồng anh trai chồng cùng 2 đứa cháu, và cô em gái chồng.

Khi vợ chồng tôi về, mọi người tay bắt mặt mừng, vợ chồng tôi có chốn riêng vì nhà khá rộng, có 5 gian, ở 2 chái nhà có ngăn thành phòng thì dành cho ông bà và vợ chồng anh tôi, em chồng ở nhà dưới, 3 gian giữa cho vợ chồng tôi và trẻ con. Là chồng tôi nói thế.

Tôi thì không hiểu "gian" ở đây nghĩa là thế nào, chỉ là cái nhà cỡ 40m2, không hề có tường ngăn, hóa ra 5 gian là nói về độ rộng, 1 gian rộng vài mét vuông, nếu có cột thì rõ hơn, chùa trăm gian cũng không to lắm, thì nhà 5 gian các bạn tưởng tượng được.

Gọi là phòng, nhưng nó là 1 cái gường, tô hô sát gian chính, che bởi cái ri-đô, sát với cái ghế sa lông ở chính giữa, nếu ai đó dựa lưng vào thành ghế, sẽ động đánh "cục" một cái vào gường ngủ của tôi. Chúng tôi cũng không dám quan hệ, vì cái gường long-mộng luôn dập kình kịch vào tường mỗi khi có dao động trên nó.

Thật lòng, tôi rất không vui khi ngủ như vậy, mà suốt cả dịp Tết, các chị ạ, có 1 cái của sổ ở giường của tôi, nhưng tôi không bao giờ dám mở, vì cửa sổ trông ra nhà vệ sinh và cái chuồng lợn, con lợn đáng ghét đó kêu ịt ịt suốt đêm và luôn lục cục khiến tôi chỉ mong giao thừa đến sớm, con lợn đó sẽ bị chọc tiết trước giao thừa.

Điều đầu tiên tôi ngạc nhiên là đánh răng, tôi không dám để bàn chải đánh răng của tôi cạnh những bàn chải của anh chị em chồng. Thậm chí tôi không dám gọi những thứ kia là bàn chải đánh răng, nó mòn vẹt, cán cầm đã từng có mầu gì đó tôi đoán là xanh hoặc tím nhưng đã bạc hết, những sợi nhựa rẻ tiền tòe ra 2 bên như những sợi râu mép, nếu đánh răng, tôi tin họ phải đánh nghiêng bàn chải, vì ở chính giữa không có gì, các sợi nhựa đã cong hết sang 2 bên. Sau khi đánh răng xong, tôi cất bàn chải của tôi đi.

Khăn mặt cũng là 1 vấn đề, họ không dùng riêng khăn mặt, chỉ có độc 1 hoặc 2 hay 3 cái, chung cho tất cả, và khăn nào cũng trông có vẻ tốt khi nó khô, nhưng khi nhúng nước, nó trở lên nhớt như một con lươn, khiến tôi rất sợ. Khỏi phải nói, khi dùng khăn xong, tôi cũng cất đi.

Nhờ giời, quê chồng tôi có 1 bể nước mưa, những con bọ gậy và côn trùng có chân như mái chèo luôn giãy đành đạch trong đó, mỗi khi tôi múc nước vào cái chậu nhôm, luôn phải vớt chúng ra, sau khi than thở với chồng tôi, anh ra ao (tôi kể về cái ao sau) câu lên vài con cá nhỏ nhỏ đòng đong mài mại hay con gì đó anh nói tên mà tôi quên mất, đem thả vào bể.

Thật kì lạ, chỉ sau 1 ngày đêm, mọi con bọ trong bể nước mưa đều biến mất hết, tôi chưa kịp cám ơn chồng thì hôm sau nữa, 1 con cá chết thối từ khi nào, mắt lồi ra, bụng ngửa lên, khiến tôi không dám dùng nước mưa hôm đó. mà ra ao thì tôi lại sợ.

Mọi sinh hoạt rửa ráy ở quê chồng tôi, đều ở cầu ao. Luôn có mấy con vịt kêu cạc cạc bơi quanh đó. Bọn này buổi đêm cũng hay ré lên, khiến tôi cũng mong giao thừa đến sớm, bọn này cũng chung số phận với con lợn đáng ghét. Cầu ao, là 1 cái bậc, giống như cầu thang nhà tôi, nhưng họ xây khi chưa có nước, khi nước ngập lên, thì gọi là cầu ao, nhà chồng tôi giàu có, lên cầu ao xây bằng đá xanh.

Vào buổi sáng, khi cậu con trai nhỏ của anh chồng tôi muốn đi ngoài, mẹ nó bê nó ra cầu ao, xi nó ỉa, và rửa đít thằng bé tại cầu ao, và thật kì lạ, buổi trưa, chị bê rổ rau ra chính chỗ đó để rửa, tôi sợ, không dám ăn rau. Cần phải nói để các bạn hiểu, ở quê chồng tôi, cầu ao là nơi làm tất cả mọi việc về rửa ráy, họ rửa tất cả ở đó, chân, bát nồi niêu, bu gà, đáy của cái lồng chim, (toàn phân chim). Và bọn trẻ con, vẫn ngồi ở cầu ao ỉa xuống.

Tôi cũng thấy rất nhiều cá con tung tăng ở cầu ao chờ ăn đồ miễn phí. Về quê chồng, vấn đề vệ sinh thực sự là ác mộng.

Tôi từ bé đến lớn, vẫn dùng hố xí bệt, và tôi hay cầm quyển sách để đọc khi hành sự. Về quê anh, đi đại tiện thật sự là mối kinh hoàng.

Buổi đêm, đó hầu như là bất khả thi, tôi phải cầm 1 cái đèn pin (đó là lần sau, chứ lần đầu không có đèn pin tôi phải dùng đèn dầu, cái bóng đèn luôn muốn rơi ra khi tôi di chuyển) đi bộ vòng ra sau nhà, gần cái cửa sổ phòng ngủ của chính tôi, qua chuồng lợn, trèo lên vài bậc chông chênh, và chui vào cái hố xí kinh hoàng đó. Nó có 1 cái lỗ đen kịt, có 2 viên gạch kê chéo để đặt chân, cái lỗ được bịt kín bởi 1 cái tròn như cái đĩa bằng bê tông, giữa có cái lỗ, và 1 que tre to dài chọc vào lỗ đó, để đi vệ sinh, tôi phải cầm vào cán tre kinh tởm đó (tôi luôn lót giấy) mở cái lỗ ra, và đi vào cãi lỗ đen mịt mờ đó, khi xong việc, tôi lại đậy cái lỗ lại sau khi đẩy 1 lớp tro than lên trên.

Và ruồi nhặng thì quá kinh khủng, dù ở đâu, trong nhà hay ngoài sân, tôi luôn nghe tiếng vỗ cánh e... e... e... e... của chúng, và chúng luôn bậu vào mặt tôi khi tôi díp mắt buổi trưa, và cố hút cái gì đó quanh mép tôi.

Nhà chồng tôi rất tốt với tôi, tuy nhiên tôi cũng phải làm nhiều việc, tôi luôn phải nấu nướng 1 cái gì đó, tôi có cảm tưởng, ở quê, họ ăn không ngưng nghỉ.

Cái bếp quê chồng là nỗi kinh hoàng với tôi, nó là 1 bãi rác không hơn khi lần đầu khi tôi vào bếp. Rơm , củi, cành tre và giấy vụn khắp nơi. Nó tối mịt dù ban ngày do toàn bộ bếp là màu đen do ám muội, và đun bằng rơm và củi, công nghệ mới được áp dụng là cái lò bằng than có quạt, nhưng lò đó luôn có 1 cái nồi to tướng phía trên đun 1 cái gì đó, hết nước thì đến cám lợn, rồi lại nước... rồi cám.

Lần đầu tập đun bếp bằng rơm, tôi làm cháy luôn cái que tre dùng để ủn rơm vào, và cũng suýt làm cháy cả cái bếp, trong bếp đầy những tre gỗ nhỏ để đun, rơm thì hết lại ra rút ở vườn.

1 điều làm tôi không vui là bố chồng tôi, mặc dù ông rất quý tôi, đó là việc ông khạc đờm.

Ông hay hút thuốc lào, đó là 1 cái ống tre có cái lỗ để cho thuốc, trong ống tre lại có nước, nước đó tôi làm đổ ra 1 lần và có mùi tởm lợm, bố chồng hay tọp má rít thành tiếng giống như tiếng ta giật bồn cầu. Thuốc lào khiến ông hay khạc đờm, ông hít 1 hơi dài, khạc 1 phát, vài nhổ vào cái ống của riêng ông, giống cái hộp bia 500 ml loe miệng. Tôi luôn sợ cái lọ đó, tôi luôn dùng chân đủn nó ra xa vì sợ làm đổ nó.

Nhưng lắm lúc ông lười, ông khạc ở gian giữa (phòng khách) và hít thêm 1 hơi, ông nhổ ra sân, đàn gà bu lại ăn thứ cám cò kì dị đó.

Nhưng tôi ghét nhất khi ông ngồi ở gường tôi ngủ, và khạc đờm nhổ qua cửa sổ (cánh cửa sổ tôi luôn đóng kín buổi đêm nhưng ban ngày phải mở) cục đờm bay qua giường của tôi, phi ra ngoài nếu may mắn, nhưng thông thường, cục đờm đó luôn vướng vào chấn song cửa sổ của tôi, quấn rất nhanh vài vòng mà người khạc biết cũng lờ đi. Tôi phát điên khi phải lau nó lúc vắng ông, đôi khi tôi quên mất chính xác chấn song nào bị cục đờm bám, thế là phải lau toàn bộ chấn song với cảm giác cục đờm xanh ở mọi nơi, tởm và để lâu thì nó khô đi, thành 1 thứ keo dính, tôi phải dùng 1 con dao cùn để cạo nó ra.

Mẹ chồng tôi cũng rất tốt với tôi, nhưng bà luôn bị đau gì đó, bà có tật rên. Cứ đêm là bà đau, đau là rên, lắm lúc bà rên lúc 2 giờ sáng, bà rên kiểu như nửa khóc nửa ai-oán, cộng với tiếng côn trùng nỉ-non khắp nơi, làm tôi nổi gai ốc vì sợ.

Nhà chồng tôi chỉ náo nhiệt từ 28, đó là ngày con lợn bị chọc tiết… Đó là lúc, cơn ác mộng của tôi bắt đầu, suốt mấy ngày, họ chỉ toàn ăn và uống vào nói, bố chồng tôi khạc đờm gấp 3, mẹ chồng tôi rên to gấp đôi. 4h sáng, tiếng người gọi nhau râm ran, chồng tôi đã dậy từ lúc nào, và tiếng con lợn kêu lập tức đánh thức cả xóm: éc… éc... éc...

Tôi trùm chăn kín đầu, bịt vào tai, mà cũng ko chịu nổi, tiếng chồng tôi và anh chồng và các họ hàng to dần xen với tiếng con lợn đang yếu dần, họ gọi nhau đun nước bê nong bê nia chia thịt, rồi tôi nghe tiếng con lợn rống lên trước khi ằng ặng khi bị đâm, thế là xong đời nó.

Tôi phải dậy, vì không thể nằm khi mọi người dậy hết, tôi giúp đun nước, con lợn đã được cạo lông trắng hếu, giờ tôi biết thêm 1 điều về chồng tôi, hóa ra anh là 1 đồ tể chuyên nghiệp. Anh thậm chí biết chọc ngón tay vào chậu tiết để nếm tiết canh đo mặn nhạt. Khoắng tiết 1 vòng để biết độ đông đặc lâu nhanh. Họ gọi nhau xẻ thịt rồi nhồi làm dồi, rồi giã làm giò, rồi xẻ để gói bánh chưng, tôi gần rời 2 cánh tay vì phải giã giò, là việc duy nhất tôi biết làm. Rồi suốt cả đêm hôm đó, tôi thức để trông nồi bánh chưng, thú thật ngồi ngủ gật canh nồi bánh mà tôi nhớ Hanoi quá, tôi cũng không thích ăn bánh chưng, nó giống như món xôi giã nát với cục mỡ lầy nhầy chính giữa.

Ở quê, xưng hô cũng là 1 vấn đề, tôi xưng chị với vài đứa trẻ và lần nào mẹ chồng tôi bảo: “ấy ấy phải gọi bằng cậu!”có vẻ như bất kì thàng trẻ con nhem nhuốc nào cũng có thể là cậu tôi hoặc anh tôi, đến nỗi tôi phải chào tất cả bọn ranh con bằng cậu cho chắc.

Suốt cả Tết, quê chồng tôi lao vào những cuộc rượu liên miên, chồng tôi say suốt, còn tôi và các phụ nữ thì luôn nấu ăn, dọn, rửa... rồi lại nấu ăn. Ở quê, tôi nhận ra ai cũng có thói quen rung đùi, mỗi khi ngồi vào ghế, là chân họ rung lên bần-bật, như chứng động kinh, tôi cố quan sát xem họ rung chân phải hay trái, nhưng hỡi ôi, dù chân phải hay trái thì họ đều rung, có người còn rung cả 2 chân cùng lúc, và nếu họ dựa vào giường của tôi thì rung cả giường, giống như đang có 1 cơn động đất nhẹ.

Đến giờ, tôi cũng ko hiểu sao họ lại run rẩy chân khi ngồi?

Ở quê, tắm cũng là 1 cực hình, suốt cả ngày nấu nướng dầu mỡ, nếu muốn tắm, tôi phải đun 1 nồi nước (mất cả tiếng để đun nồi nước này) rồi bê vào nhà tắm với 1 chậu nước lạnh, rồi bê vào nhà tắm là 1 phòng hết sức hẹp không hề có mái che (quê chồng tôi, họ nghĩ nhà tắm thì ko cần mái thì phải), trộn nước nóng lạnh với nhau cho vừa, và ngồi xổm, giội từng gáo nước lên người và phải nhanh trước khi nước nguội, tôi luôn vừa tắm, vừa suýt soa vì lạnh.

Liền ông ở quê chồng tôi hết sức thô lỗ khi ăn, họ luôn nói rất to như cãi nhau, vừa nhai, vừa nói, vừa hút thuốc, họ chỉ ngừng nói khi ngậm mồm uống hớp rượu hay rít hơi thuốc, và chỉ 1 giây là họ tranh nhau nói, và tôi sợ nhất là hút thuốc, họ thả khói đầy nhà, đến nỗi tôi cảm tưởng đang ở phòng hơi ngạt của đức quốc xã. Và miếng thịt nào tôi ăn, cũng cảm tưởng như ăn thịt xông khói.

Và hầu như lúc nào cũng ăn, 8h sáng họ đã bắt đầu bưng lên mâm rượu thịt đầy tú ụ, và ăn đến 10h đêm luôn.

Suốt chục ngày Tết quê chồng, tôi không có 1 ngày an lành, rửa dọn nấu, loanh quanh từ bếp đến cầu ao, đầu tóc xổ tung, quần áo tõa tượi… Tôi nhớ Hà Nội với phòng ngủ của tôi, bồn tắm của tôi, café sáng của tôi, bàn trang điểm của tôi…

Năm nay, Tết lại sắp đến, tôi biết chồng tôi sẽ lại giục tôi về quê ăn Tết. Tôi đã qua phố sinh Từ, mua 1 con dao chọc tiết lợn, bản rộng nhất 15 phân, cán gỗ, đầu nhọn hoắt, giá 95 nghìn đồng, đúc từ nhíp xe ô tô gát 69 của Liên xô cũ.

Nếu thằng chồng mở mồm bắt tôi về quê nhà nó ăn Tết, tôi sẽ đâm nó chết. Tôi điên rồi các chị ơi...



Khuyết Danh
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 200 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.529 seconds.