![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Quê Hương Gò Công | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 215 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23694 |
![]() ![]() ![]() |
GÒ CÔNG TRONG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH [1] Phan Thanh Sắc
Thân thế Hồ Biểu Chánh
Ông tên thật là Hồ Văn Trung, tự là Biểu Chánh, bút hiệu là Thứ Tiên (thường ký trong các bài thơ), sinh ngày 1-10-1885 (năm Ất Dậu) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công, trong một gia đình nghèo, đông con ( ông là người con thứ năm trong 12 người).
DẪN CHUYỆN Nhà văn Thụy Khuê đã viết như thế nầy để kết luận bài viết về cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Hồ Biểu Chánh là cuốn Ai làm được “Nếu hình ảnh xã hội miền Bắc nằm trong toàn bộ các tác giả Bắc qua nhiều thế hệ, từ Hoàng Ngọc Phách đến Tự Lực Văn Đoàn, từ Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, đến Nguyên Hồng, Nam Cao, vv.. thì có thể nói trong Nam, tất cả tình hình xã hội, đẳng cấp, giàu nghèo, thành thị và thôn quê đều nằm trong tay Hồ Biểu Chánh, với 64 cuốn tiểu thuyết. Một nhà văn có thể thay mặt cho cả một dòng văn học, thì nhà văn đó phải có một tầm vóc lớn lao. Và chính cái giá trị lớn lao đó, đòi hỏi chúng ta phải chứng minh và tìm hiểu tới tận ngọn nguồn”
Thế đấy, rất nhiều nhà văn, nhà phê bình văn học ở miền Nam, hay có vào miền Nam, đã có nhiều bài viết chứng minh và tìm hiểu tới tận ngọn nguồn để đưa tên Hồ Biểu Chánh vào đúng vị trí trong nền văn học nước nhà!
Tôi đã đọc tiểu thuyết của ông hồi đầu các năm 1950, bắt đầu là các cuốn Tĩnh Mộng, Cay Đắng Mùi Đời, Chúa Tàu Kim Qui…, mà không nghĩ đã đọc nhà văn của quê mình. Rồi qua nhiều giai đoạn, tôi đọc những tiểu thuyết của ông mà tôi tìm hay tình cờ có được. Gần bốn chục năm sau, cuộc đời đã chín, tôi trụ lại, bình tâm đọc lại ông sau khi tôi viết một tiểu phẩm, Vài cảm nghỉ khi đọc Hồ Biểu Chánh, với sự cảm thụ sâu sắc về cuốn Tỉnh Mộng mà hồi còn tuổi mộng mơ tôi đọc và nhập vào giấc mộng đời mà tác giả dựng nên cho tuổi mơ của tôi. Lúc nầy, tôi có vài cảm nghĩ mới để thoát mộng và bình tâm để đọc tiếp các cuốn tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh mà Nhà xuất bản Tiền Giang đã xuất bản gần như trọn vẹn. Riêng về tiểu thuyết, con số 63 cuốn như trong hai câu điếu tang của thi sĩ Đông Hồ khóc bạn, hay 64 cuốn như trong trang Web về Hồ Biểu Chánh đã tổng kết mới đây, không gì khác biệt cho lắm. Kỳ đọc lại nầy, tôi đọc không có mục đích tìm hiểu vị trí tiểu thuyết của ông trong nền văn học chữ quốc ngữ đầu tiên của nước ta, mà tìm hiểu xem tại sao ông được đọc nhiều ở miền Nam. Điều mà ai cũng biết, ông chuyên viết những điều quê mùa miền Nam, đặc biệt là miền Nam thời thuộc Pháp từ đầu thế kỷ thứ 20 cho đến năm 1958, ông vẫn còn viết để rồi mất cùng năm đó.
Đặc biệt vì ông là tiểu thuyết gia người Gò Công, nên tôi tìm đọc coi có cuốn tiểu thuyết nào lấy bối cảnh là Gò Công không. Rồi, tôi đã bàng hoàng, buông sách mà suy gẫm, khi đọc lại từng cuốn truyện của ông.
Ông mô tả những vùng đầm lầy hoang vu, kinh rạch chằng chịt, đồng ruộng mênh mông của vùng đất tôi từng trải qua, sống qua, khiến cho lớp quá khứ tưởng chừng lùi mãi, giờ trải lại dàn ra với con người xưa, trở lại sống động! Tôi đã tìm được những cuốn truyện lấy bối cảnh Gò Công. Tôi chắc chắn rằng ít ai để ý tìm ra được cái mảng mà tôi nói rằng tôi bàng hoàng khi đọc các cuốn truyện nầy. Phần tuyệt vời không phải là một khía cạnh văn học nào, không phải là một cốt chuyện lôi cuốn nào, mà là những nét bi hùng trong lịch sử của riêng quê hương tôi, cách xử thế, lối ăn ở theo thời và cả không theo thời của con người quê đặc sệt, dễ thương mà cũng khó thương nầy! ...... Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 19/Apr/2013 lúc 12:57pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23694 |
![]() ![]() ![]() |
GÒ CÔNG TRONG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH [1] Phan Thanh Sắc
1. TIỂU THUYẾT HAI VỢ (1955) GÒ CÔNG : ĐỊA LINH NHƠN KIỆT SỬ THI SƠN QUI – TRUÔNG CỐC
Tôi bắt đầu bằng cuốn tiểu thuyết Hai Vợ xuất bản năm 1955, tức đây không phải là cuốn tiểu thuyết đầu tiên tác giả lấy bối cảnh quê hương Gò Công. Tôi đề cập ngay cuốn nầy vì cho đây là quyển tiểu thuyết kể chuyện hư cấu trong bối cảnh, thời gian có thực như vạch bóng thời gian, cuốn địa phương chí tóm lược mà 70 năm trước khi tôi bắt đầu học sử địa phương Gò Công, tôi đã được biết Gò Công là miền đất xa xưa có loài chim công sinh sống, nên dân gian mới đặt là Gò Công, còn tên chữ là Khổng Tước Nguyên. Miền Gò Công được sử nhà Nguyễn gọi là « Đia linh nhân kiệt ». Tôi tin như thế và tự hào, khi tôi viết về địa phương tôi vẫn giữ nền tảng nầy.
Câu chuyện kể về một chàng trai con một nhà nho quê Xóm Tre làng Bình Thạnh Đông, vào học trường Nho của hậu duệ dòng Phạm Đăng tại Sơn Qui, làng Tân Niên Đông, được cha hỏi vợ cho ở một gia đình khá giả cũng ở cùng Xóm Tre. Năm 1858, Tây đánh thành Gia Định. Quan huyện Tân Hòa kêu gọi học trò lớn của trường Sơn Qui nên lên Gia Định nhập ngũ để đánh Tây cứu nước. Các cánh quân của triều đình đang thiếu người làm việc từ hàn trong quân ngũ. Chàng trai Lê Xuân Hào cùng người bạn học đồng lòng lên Gia Định. Lúc chia ly, chàng trai dặn dò người vợ chưa cưới ở nhà chăm sóc cha mình. Giặc cũng đến Gò Công, dân chúng ở các làng giáp Truông Cóc là cánh rừng thấp cặp theo rạch Gò Gông và sông Bao Ngược, cũng quyết tâm tổ chức dân quân, tự trang bị giáo mác, chận đánh Tây đổ bộ lên qua Truông Cóc để vào chợ huyện lỵ Tân Hòa, tức chợ Gò Công bây giờ. Tây có tổn thất ít tên và dân quân vài người cũng đã nằm xuống. Dân các làng vẫn quyết tâm đánh Tây…nhưng thế cờ tàn, Tây thắng thế vào được huyện lỵ (1863) và Trương Công Định phải tuẫn tiết tại Gia Thuận năm 1864. Dần dần cuộc kháng cự của dân các thôn lắng xuống, dân bắt đầu lo lại cuộc sống. Người bạn của chàng trai trở về bình an, còn chàng trai không biết tin tức. Người bạn về nói, hồi lên tới Gia Định họ được phiên vào hai đoàn quân khác nhau và không biết tin gì về nhau. Cha chàng trai bị bịnh và người vợ chưa cưới của chàng trai đến ở để chăm sóc người cha chồng đui mù như người dâu thảo. Rồi một hôm chàng trai trở về, dẫn một người đàn bà có thêm đứa con trai. Chàng trai kể sự tình, vì sau một cuộc chiến, chàng bị thương nặng, đoàn quân cũ không biết ở đâu, chàng nhờ một cô gái ở miệt Hóc Môn cứu và săn sóc vết thương cho lành cả nửa năm trời, rồi vì cảm thông thạnh tình cô gái, chàng ăn ở với cô và có con, nay về xin cha định liệu. Người cha đã nhìn nhận cô con dâu không cưới nhưng có hỏi rồi, nhất quyết bảo chàng trai nên để người vợ có con về quê Hóc Môn, chỉ nhìn nhận cô dâu đầu mà thôi. Tức nhiên, Hồ Biểu Chánh luôn viết tiểu thuyết có hậu, độc giả có thể đoán kết cuộc của câu chuyện nầy. Chính cô dâu đầu đã gỡ rối cho tình cảnh của chàng trai và của mình nữa…Chuyện hai vợ trước đây ở nông thôn Gò Công không phải là hiếm!
Thật ra tình tiết câu chuyện được xây dựng khá hoàn chỉnh. Giờ bất cứ ai cầm cuốn tiểu thuyết nầy, cũng sẽ đọc cho tới hồi kết chứ không bỏ nửa chừng đâu.
A. Truyền thống « Địa linh nhân kiệt » Còn muốn biết về truyền thống vùng đất nầy tôi xin để cho ông, nhà văn Hồ Biểu Chánh, bậc trưởng thượng, sanh năm 1885, kể khi ông viết ngay Chương Một của cuốn tiểu thuyết. Ông viết y như thế nầy :
“Gần đây, một khách giang hồ trót mấy mươi năm bôn ba gởi bước khắp non sông, tình cờ trở lại nguồn Khổng Tước, nhìn cảnh cũ, nhớ người xưa bỗng cảm hứng nên ngâm một bài thi thất ngôn bát cú, tả phong cảnh Gò Công có hai câu trạng như vầy: Sơn Qui phưởng phất hồn văn vật Bao Ngược ồ ào sóng cạnh tranh. Chắc có nhiều anh chị em bốn phương chưa biết Sơn Qui là cái gì ở đâu. Sơn Qui là một giồng cát trong tỉnh Gò Công. Vùng Gò Công nằm dựa mé biển, nên thấp thỏi sình lầy, nhưng có mấy cái giồng cát nổi lên ngang dọc, giữa những cánh đồng ruộng vui vẻ, với màu lúa hết xanh rồi vàng, bằng thẳng một mực dầu phía trên hay phía dưới. Những giồng Tháp, giồng Tre, giồng Nâu, giồng Cát, giồng Găng, giồng Trôm, giồng Ông Huê, giồng Sơn Qui, giồng nào cũng có trải qua những giai đoạn thăng trầm, cũng được thế cuộc ghi dấu lịch sử hoặc hùng hào, hoặc xán lạn. Giồng Sơn Qui là trung tâm khai hóa trong vùng Khổng Tước, nguyên là cái lò nung đúc nhân tài để giúp chúa Nguyễn trung hưng hồi cuối thế kỷ 18. Thiệt như vậy, giồng Sơn Qui đầu trong vô tới mé sông Gò Công, còn đầu ngoài đụng con đường quan lộ Gò Công lên Chợ Lớn. Hiện giờ du khách đến đó thì thấy dân cư thưa thớt, nhà cửa xơ rơ, chỉ còn phủ thờ với mấy ngôi mộ của quí tộc Phạm Đăng, là ngọai thích của vua Tự Đức, vẫn khư khư chống chỏi mà chịu đựng với tuế nguyệt, chớ những rẫy cải xanh tươi, những đám bắp ngon ngọt, là những nguồn lợi của người ở trong giồng, thì không còn nữa. Nhìn cảnh Sơn Qui suy sụp bây giờ, ai cũng phải chạnh lòng nhớ nhơn vật vẻ vang của Sơn Qui ngày trước. Hồi giữa thế kỷ 19, sau khi Triều chúa Nguyễn ở Huế được nắm chủ quyền thống trị cả vùng đất Việt Nam nầy thì phân ranh chia mấy trấn, mỗi trấn chia mấy đạo, rồi đặt quan cai trị, cho nhân dân từ Quảng Bình trở vô được đem gia quyến đến khai cơ lập nghiệp. Vùng Gò Công hồi đó gọi là Kiến Hòa đạo thuộc về trấn Định Tường, là Mỹ Tho bây giờ. Cụ Phạm Đăng Xương một nhà học uyên thâm, gốc ở Hương Trà thuộc vùng Huế bây giờ, chở gia quyến vào Nam, chọn giồng Sơn Qui trong đạo Kiến Hòa làm chỗ định cư. Cụ đốn cây cất nhà và qui dân về ở chung quanh cụ. Điền địa phì nhiêu, trên giồng cải rau bắp đậu thứ nào cũng dễ trồng, dưới ruộng thì lúa cấy đám nào đám nấy cũng xanh tốt. Nhơn dân thấy vậy bèn tụ tập về đó ở làm ăn, gây cho Sơn Qui một thời phong phú thạnh vượng. Cụ Phạm Đăng Xương thấy vậy mới mở trường dạy học. Người gần kẻ xa hay việc ấy thì lần lượt đến xin thọ giáo, vì đạo học của cụ Phạm vừa uyên thâm vừa hoạt bát, nên môn đệ của cụ người nào cũng nên danh. Thuở ấy người ta kính mến cụ nên kẻ lớn người nhỏ đều gọi cụ là “Kiến Hòa Tiên Sanh”. Chừng qua đời, con của cụ là Phạm Đăng Long nối nghiệp mà dạy học. Thinh danh “Kiến Hòa Tiên Sanh” càng lừng lẫy hơn đời trước bởi vì cụ Phạm Đăng Long đào tạo môn đệ được nhiều người rất hiển đạt, như ba cụ Võ Văn Lượng, Nguyễn Văn Hiếu, Mạc Văn Tô. Khi cụ Hoài Quốc Công Võ Tánh đến giồng Tre chiêu binh khởi nghĩa, ba cụ ra giúp làm phó tướng đắc lực, sau giúp chúa Nguyễn lập được đại công. Cụ Nguyễn Hoài Quỳnh thi đậu khóa Tân Hợi (1791) mở đầu tại Gia Định cũng là môn đệ của cụ Phạm Đăng Long, sau làm quan lên tới những chức Nghệ An Hiệp trấn, Thanh Hóa Hiệp trấn, Thanh Hóa điện phu đạo, Bắc Thành Binh Tào, chừng mất được tặng Chánh Trị Khanh. Mà công lớn hơn hết của cụ Phạm Đăng Long là công cụ dạy người con của cụ, là cụ Phạm Đăng Hưng, khóa Bính Thìn (1796) thi đậu thủ khoa, được sung vào bộ Tham mưu chúa Nguyễn Ánh, luôn luôn theo chúa ra chinh phạt đàng ngoài. Cuộc đại định đã xong, chúa Nguyễn Ánh lên ngôi cữu ngũ xưng hiệu Gia Long, thì cụ Phạm Đăng Hưng làm đại thần tại Triều đình Huế. Đến năm 1813, cụ được thăng chức Thượng Thơ Bộ Lễ, và cụ ngồi địa vị ấy luôn cho tới khi cụ thất lộc, là năm 1825, về đời vua Minh Mạng. Năm 1824 vua Minh Mạng đã có nạp con gái của cụ vào tiềm để làm vợ Đông cung Thái tử. Năm 1841, Đông cung lên ngôi xưng hiệu là Thiệu Trị, thì con gái cụ Phạm Đăng Hưng lên ngôi Hoàng Hậu. Năm 1847 vua Thiệu Trị băng, Hoàng thái tử nối ngôi xưng hiệu Tự Đức, mới phong cho mẹ là con của cụ Phạm Đăng Hưng, chức Từ Dũ Hoàng thái hậu. Vua Tự Đức lại truy phong: 1. Cụ Phạm Đăng Hưng tước Đức quốc công 2. Cụ Phạm Long tước Phước An Hầu 3. Cụ Phạm Đăng Dinh tước Bình Thành Bá 4. Cụ Phạm Đăng Tiên tước Mỹ Khánh Tử 5. Cụ Phạm Đăng Khoa tước Trung Thuận, Đại phu Phủ thờ lập tại giồng Sơn Qui là lập để thờ 5 vị nầy, có 11 ngôi mộ của Phạm Tộc nằm phía sau phủ thờ. Ấy vậy hồi thế kỷ 19, giồng Sơn Qui nổi danh và hưng thạnh là nhờ văn học uyên thâm của Phạm tộc, cũng như giồng Tre nằm gần đó nổi danh là nhờ tài oanh liệt của cụ Hoài Quốc Công Võ Tánh; ngày nay tại đó vẫn còn đền thờ. Nhờ hai trường hợp đó, sau còn nhờ cụ Trương Công Định ẩn núp theo mấy giồng mà kháng chiến với binh đội Pháp khi nước Pháp mới chiếm trị vùng Gò Công, nên Gò Công mới được tiếng “Địa linh nhơn kiệt". Người nhờ đất mà kiệt? Hay là đất nhờ người mà linh? Hai vấn đề ấy ai muốn phân giải thế nào tùy ý”
Ông Hồ Biểu Chánh, làm quan thời Pháp, trải qua các miền Nam Kỳ, sống viết tiểu thuyết về cách ăn nết ở từ thành thị đến thôn quê. Ông Hồ Biểu Chánh viết ngay là Gò Công xưa là nguồn Khổng Tước, ông không cắt nghĩa “khổng tước” vì ông tin rằng, ai ai cũng biết đất Gò Công là gò những chim công.
Gò Công cùng với những cái gò vây bọc trung tâm huyện lỵ Tân Hòa xưa, nổi tiếng với gò Sơn Qui trung tâm khai hóa vùng Khổng Tước, ung đúc nhân tài và sản sinh mẫu nghi Đức Từ Dũ. Còn với Gò Tre là nơi Võ Tánh phất cờ tổng nhung Khổng Tước Nguyên Võ 孔雀原武 qui tụ anh hùng hào kiệt khắp nơi, lập nên đội quân Kiến Hòa 建和道 hơn một vạn người, bảo vệ nhân dân trong vùng trong 5 năm 1783 – 1788 để rồi về giúp Chúa Nguyễn Ánh năm1788, thu phục lại Gia Định cùng năm 1788 và thống nhứt đất nước năm 1802. Công đầu Nhà Nguyễn ghi cho Hoài Quốc Công Võ Tánh. Võ Tánh là huân thần số một của triều Nguyễn, ông quả là “nhân kiệt”. Chính nơi Giồng Sơn Qui, Kiến Hòa Tiên Sanh” cụ Phạm Đặng Long đào tạo môn đệ được nhiều người hiển đạt, như ba cụ Võ Văn Lượng, Nguyễn Văn Hiếu, Mạc Văn Tô. Khi Hoài Quốc Công Võ Tánh đến Giồng Tre chiêu binh khởi nghĩa, ba cụ ra giúp làm phó tướng đắc lực, sau giúp chúa Nguyễn lập được đại công. Lỗi lạc khoa bảng và hanh thông sự nghiệp quan trường là cụ Nguyễn Hoài Quỳnh thi đậu khóa Tân Hợi (1791) mở đầu tại Gia Định rồi cụ Phạm Đăng Hưng, khóa Bính Thìn (1796) thi đậu thủ khoa, được sung vào bộ Tham mưu chúa Nguyễn Ánh, luôn luôn theo chúa ra chinh phạt đàng ngoài. Những danh tài đầu tiên Hồ Biểu Chánh đều kể ra không sót.
Trong chương nầy Hồ Biểu Chánh nhiệt liệt ca ngợi cụ Võ Tánh, dù không phải là người sanh trưởng tại Gò Công, nhưng là người về đây lập Kiến Hòa Đạo lẫy lừng giúp công đầu trung hưng cho Chúa Nguyễn. Chính Võ Tánh là vị anh hùng đầu tiên đưa địa danh Gò Công vào Quốc sử. Vậy nơi Võ Tánh phất cờ “Khổng Tước Nguyên Võ” là “địa linh”. Tôi trích y như chương “một” cuốn tiểu thuyết của ông coi như trang sử vàng của quê tôi với những nhân tố tích cực, rõ ràng, không khoa đại hay cục bộ.
Đoạn chót ông cũng dành kể về cụ Trương Công Định cũng về đây nương miền đất nầy mà kháng chiến để tiếng muôn đời. Đất và người hợp với nhau phải chăng không là Địa linh nhân kiệt 地靈人傑 ! Phần nầy, tôi nhận xét, giờ người Gò Công hãnh diện thêm, Gò Công là quê hương của Nam Phương Hoàng Hậu nữa và mừng vì đất lành sanh hai bậc mẫu nghi. Thế cũng là điều tốt không ai trành tròn, nhưng những gì thuộc về Sử thì phải có cứ liệu rõ ràng. Riêng ông Hồ Biểu Chánh (1885 – 1958) viết cuốn tiểu thuyết nầy năm 1955, không có chữ nào đề cập đến Nam Phương Hoàng Hậu người gốc Gò Công cả. (Nếu thuận tiện tôi sẽ in cuốn Hương Thơm Miền Nam đề cập đến các nguồn sử liệu về vấn đề nầy).
B. Sử thi: Sơn Qui – Truông Cóc Người đọc không phải là người Gò Công làm sao biết được thế đất liên hoàn Sơn Qui – Truông Cóc, mặt trận chánh của cuộc kháng chiến chống Pháp của Trương Công Định thời đầu Pháp xâm lược (1861 – 1864). Mây giăng Truông Cóc đường quan vắng Trăng xế Gò Rùa tiếng đẩu tan. Hai câu thơ trong 12 bài thơ điếu Trương Tướng Công của cụ Đồ Chiểu đã khái quát cho bối cảnh tiểu thuyết Hai Vợ nầy. Cái đường quan tác giả đã nói ở trên rồi, giờ vẫn biết là con đường từ Sơn Qui đi Mỹ Lợi. Còn Truông Cóc chúng ta sẽ biết khi trích đoạn có trang sử hào hùng dân miền Truông Cóc đánh Tây.
Sơn Qui, nơi phát tích nhân tài, hoàng hậu, trong các năm 1861 – 1863 là tổng dinh ông Trương chống Pháp, nghĩa quân dùng cái đẩu lớn bằng sắt nấu cơm, ban đêm treo cái đẩu lên và làm kẻng đánh tiếng cầm canh. Khi Trương công tuẫn tiết, Sơn Qui không còn tiếng đẩu cầm canh nữa, nhưng tiếng đẩu xưa vẫn vọng mãi. Và đây ông Hồ Biểu Chánh vẽ lại Truông Cóc và trang sử vô danh nhưng hào hùng của nó. Giờ Truông Cóc đã mất dạng nhưng Xóm Tre, cái xóm giáp phía Đông Bắc của Truông Cóc nơi ung đúc tinh thần bất khuất của người dân thôn xóm tự lực chận đánh Pháp qua Truông Cóc vẫn còn là Xóm Tre. Xin đọc:
“Thuở đó, xóm Tre nầy là một xóm dân cư trù mật hơn hết trong Huyện Tân Hòa. Nhà ở trong xóm kể tới vài trăm, mà nhà nào nếu không giàu thì đủ ăn, chớ không nghèo lắm. Sở dĩ xóm Tre dân số đông, sinh hoạt dễ, ấy là nhờ vị trí có nhiều bề thuận lợi hơn xóm khác. Trước xóm có sông Bao Ngược tôm cá không thiếu gì. Dọc theo mé sông là dừa mọc đám nào đám nấy dầy bịt, đốn lá đó mà lợp nhà, khỏi đi đâu xa cho mất công. Có nhiều rạch và xẻo từ ngoài sông cái đâm vô xóm giúp cho ghe ra vô rất dễ. Còn phía sau xóm thì ruộng đất đã khai khẩn lâu năm rồi, hễ cày cấy thì chắc có lúa, khỏi lo thất mùa đói rách. Hết ruộng thì tới rừng, cái giăng rừng Truông Cóc cây cối không biết làm gì cho hết. Người ta nhờ đó mà có cột, có cây cất nhà, lại thêm có củi mà chụm. Lại phía Rạch Nhợ, gò Xoài gần đó, hễ đến tháng 11, tháng chạp nước mặn dưới sông Bao Ngược tràn lên ruộng, chừng nước giựt ruộng khô, muối đọng cùng trên mặt đất. Người ta xúc muối đó gánh về nấu đặng lọc lại mà dùng, khỏi xuất tiền mua hay là gánh lúa đi đổi. Dân xóm Tre đương vui vẻ với cảnh đời ấm no yên tịnh thình lình nghe ông Thuận nói chuyện Tàu Pháp chở binh do cửa Cần Giờ và hạ thành Gia Định, thì ai nấy tuy miệng nói cứng, song trong bụng có hơi lo. (Hai Vợ - Chương 3) …………………………. Và đoạn nầy ông Hồ Biểu Chánh viết khúc dạo đầu bản anh hùng ca của Xóm Tre – Truông Cóc đánh Tây: “Nhân dân ở trong nguồn Khổng Tước, trước kia nhờ Kiến Hòa tiên sanh ở Sơn Qui tiếp nhau mấy đời mà gieo rắc đạo thuần túy trong các xóm làng, rồi lại còn nhờ Hoài Quốc công Võ Tánh treo gương anh dũng sáng ngời ở Giồng Tre nữa, bởi vậy đàn ông cũng như đàn bà, người già cũng như người trẻ, cả thảy đều mến đất nước, yêu giống nòi, biết ham nghĩa nhân, dám liều sanh mạng để cứu dân giữ nước. Trước gặp nội loạn Tây Sơn, người đem nghề văn, kẻ đem nghiệp võ giúp cho triều đình bình loạn phục hưng. Nay nghe có giặc ngoại xâm, lại càng thêm hăng hái đoàn kết làm một khối mạnh mẽ để chống với giặc.
Phải có lòng yêu quê hương lắm nên ông Hồ Biểu Chánh viết văn tiểu thuyết mà chuyển thành văn khảo cứu lịch sử địa phương. Truyền thống “giữ gìn tấc đất ngọn rau” được ông nêu rõ “Trước gặp nội loạn Tây Sơn, người đem nghề văn, kẻ đem nghiệp võ giúp cho triều đình bình loạn phục hưng. Nay nghe có giặc ngoại xâm, lại càng thêm hăng hái đoàn kết làm một khối mạnh mẽ để chống với giặc”. Chỉ là một xóm quê mà một lòng một dạ như thế là do đâu? Ông giải đáp: Nhân dân sẵn có ý chí như vậy, nên công cuộc sắp đặt để phòng thủ Xóm Tre được tiến hành rất dễ dàng. Ông Thuận sai Tư Cầu đi mời nhóm tại sân ông Bá hộ Cầm thì mỗi nhà đều có chủ nhà hoặc đàn ông hoặc đàn bà đến dự mà nghe nói chuyện. Ông Bá hộ, Ông Thuận với Phó Tha làm đầu cuộc hội hiệp này, nhưng biểu Lê Hữu Hào thay mặt báo tin cho bà con trong xóm hay binh đội Pháp đã chiếm thành Gia Định. Cử tọa nghe tin thì xao xuyến, Hào nhơn người ta xúc động mới bày tỏ các cách của người trưởng thượng trong xóm tính sắp đặt bảo thủ sanh mạng và tài sản chung với nhau. Ai nấy đều bằng lòng góp sức vào cuộc công ích đó, không có một người nào thối thác. Hào đã có dự bị giấy, viết, mực sẵn sàng, liền hỏi từng nhà mà biên tên tuổi đàn ông. Biên đủ rồi đếm lại thì được: 58 người cường tráng từ 18 tuổi đến 40 tuổi. 47 người từ 41 tới 60 tuổi, 12 người già từ 61 tuổi sắp lên. Tiểu thuyết ông đặt tên là “Hai Vợ”, người đọc và tôi ban đầu chỉ tưởng là chuyện “tục lệ hơi xưa” của dân mình, đọc tới đây mới hơi nắm bắt được ngọn nguồn, cũng do “tình hình của đất nước” và hoàn cảnh của nhân vật chính trong truyện bị buộc phải gặp nghịch cảnh. Xin xem tiếp người Xóm Tre chuẩn bị chống giặc.
“Hơn 20 người đàn ông rảnh rang nên tình nguyện đi đốn cây để làm nọc. Còn tập luyện võ nghệ và đặt rèn binh khí thì ai cũng chịu hết. Cuộc nhóm xong rồi người trong xóm rã ra mà về. Ông Bá hộ mời riêng Phó Tha với hai cha con Ông Thuận ở lại dùng cơm với ông đặng sắp đặt việc công. Hai Chỉ lên vàm sông Tra thương thuyết với thợ rèn Phi thì chú thợ chịu dọn đồ xuống ở đặng rèn binh khí. Ông Bá hộ kiếm một chỗ đất trống, biểu bạn[2] trong nhà đốn cây lá mà cất cái trại để làm lò rèn. Trong ít bữa trại cất xong, ông cho người chèo ghe lên rước thợ Phi và chở đồ đạc xuống, rồi khởi công rèn binh khí liền. Trần Khoan là thầy nghề võ ở giồng Tháp đã có hứa hẹn với chú Phó Tha nên đúng ngày hẹn thầy cũng lên tới. Phó Tha dắt lại giới thiệu với ông Bá hộ thì ông tiếp rước mà nuôi trong nhà. Ông dắt đi lựa một cái sân lớn ở giữa xóm để làm võ trường. Mấy người trai trẻ trong xóm ráp lại dẩy cỏ, ban đất cho bằng thẳng, rồi bắt đầu tập dượt. Cây đốn trong rừng chở về thì hạng người 41 tuổi sắp lên lãnh lo cưa khúc mà đóng nọc hoặc cắm rào, để chặn các nẻo vô xóm. Ai cũng phải tập võ nghệ hết thảy, nhưng ngoài việc đó mỗi người còn phải có phận sự riêng hễ có rảnh việc nhà thì phải giúp công vào ra phòng thủ. Lê Hữu Hào làm như thơ ký trong xóm, tuy vậy cũng phải tập võ như người ta, song khỏi làm công việc nặng nề cực nhọc. Nhưng mà mỗi ngày chàng phải đi một vòng để xem xét mọi việc, xem tập võ, xem rèn đồ, xem đóng nọc rồi đi luôn ra nhà ông Bá hộ đặng cho ông hay coi có việc chi trắc trở hay không. Ông Bá hộ thấy tất cả anh em lớn nhỏ trong xóm đều xuôi thuận theo ý ông, ai cũng tận tâm giúp công sức vào cuộc phòng thủ thì ông lấy điều hài lòng. Ông muốn làm cho trong xóm hiểu đương lúc gặp nạn dân ách nước phải coi nhau như con một nhà, phải giúp đỡ nhau, đừng nghi kỵ nhau, bởi vậy ông định xuất tiền mà trả tiền công cho thợ rèn binh khí, ông không cho ai trả tiền hết. Ông lại rao cho trong xóm biết, ai thiếu lúa ăn thì đến nói với ông mà mượn mà qua mùa gặt sẽ trả lại cho ông chẳng cần phải đi mua tốn tiền. (Hai vợ - Chương 4) Trong tiểu thuyết, Lê Hữu Hào là nho sinh thụ nếp gia giáo, ý thức chống giặc rất rõ, còn ở địa phương thì góp phần đắc lực, rèn cả võ và sẵn sàng chiến đấu. Anh là niềm kỳ vọng tin tưởng trong việc phòng thủ của xóm. Cả người giàu trong xóm như ông Bá Hộ cũng được dân chúng cậy nhờ. Xóm Tre có những con người đơn độc chuẩn bị chống ngoại xâm” như thế mà không tạo được một bản anh hùng ca sao! Và đây bắt đầu:
Bản anh hùng ca Xóm Tre – Truông Cóc:
“Vừa hết mùa khô, thình lình có tin đến xóm Tre nói rằng binh ta đã thất đại đồn Chí Hòa, sau một cuộc quyết chiến kéo dài tới mấy ngày đêm. Hai bên đều bị tổn thất nặng nề, nhưng giặc lại nhờ có súng nhiều và đại bác thần công mạnh quá bắn nát đồn lũy của ta hết. Binh ta không có chỗ nương dựa mà kháng cự tự nhiên phải đổ, một phần phải qua sông Bến Nghé thối lui về hướng Biên Hòa, nhưng phần lớn thì tán loạn chạy về mé Ba Cụm, Bến Lức. Tin bất tường ấy làm chấn động cả xóm Tre. Nhân dân xao xuyến hỏi nhau, bây giờ phải làm sao. Ông Bá hộ sợ dân tán đởm ngã lòng mà gây thêm tai họa, bèn cho mời ông Thuận với Phó Tha mà ra định kế tấn thối. Ông Thuận nói: - Binh giặc chắc đông lại có súng nhiều nên trên Gia Định quan ta có cả muôn binh mà chống giữ đại đồn không nổi đến phải đổ. Mình ở xóm Tre kể hết già trẻ chỉ có một trăm, lại cầm dao mác, chớ không có súng. Tình thế như vậy nếu giặc đến đây làm sao mà chống cự cho nổi binh giặc cũng có lẽ đôi ba trăm, mà xuống đây chắc giặc sẽ đi tàu. Xóm mình nằm sát mé sông cái, nếu giặc ở dưới tàu sạ súng vào xóm thì mình chết hết, chết vô lối, vì có được xáp gần mà đâm chém giặc được đâu. Không phải tôi nhát mà kiếm kế cho anh em trong xóm ngã lòng, đợi giặc tới mà ta bái quỵ mà xin đầu giặc. Năm nay tôi đã 62 tuổi rồi dầu có chết cũng nên cái mồ. Mà chết với đất nước thì vinh dự quá, chết như vậy đáng chết lắm chớ. Ngặt cái chết vô ích tôi không chịu. Phải làm sao đánh vùi với giặc, phải giết giặc cho được rồi dầu có chết tôi cũng vui lòng. Ông Bá hộ với Phó Tha đồng khen ông Thuận nói phải, nhưng không tìm ra kế cho dân trong xóm xáp lại với giặc mà đánh, song khỏi bị súng đạn. Ông Thuận mới nói: - Tôi muốn bàn kế nầy: nếu hay tàu giặc vô sông Bao Ngược thì hết thảy những đàn bà con nít cùng hạng già cả phải chạy hết vô trong rừng rồi tản mác trốn. Còn tốp trai trẻ cường tráng thì thối vô Truông Cóc mà mai phục hai bên truông. Nếu giặc đánh huyện mình tự nhiên chúng phải đổ lên đây rồi do ngả Truông Cóc mà kéo binh vô huyện lỵ. Chúng phân binh đi qua Truông thì dân mai phục ở đó xông ra mà đánh. Chúng bị kích thình lình tự nhiên phải loạn hàng ngũ. Mình thừa thắng mà giết từng tốp. Làm như vậy chắc chắn giặc sẽ đại bại. Ai nấy điều cho chiến lược đó là hay nhất, nên quyết áp dụng mà trừ giặc. Nhưng mà ông Bá hộ suy nghĩ rồi hỏi ông Thuận: - Mình phải vô rừng vô Truông hết rồi nhà cửa lúa thóc trâu, bò bỏ hay sao? - Để đó không hại gì. - Sợ giặc đốt quá chớ. - Mình ở lại đó cũng không giữ nổi, mà còn phải chết vô lối nữa. Ông Bá hộ dụ dự không đành bỏ nhà cửa nhưng ông không tìm ra kế nào khác để giữ của mà khỏi chết, bởi vậy ông phải lặng thinh mà chịu. Bây giờ phải cắt người thay phiên nhau mà canh chừng tàu luôn ngày đêm, hễ thấy tàu thì đánh mõ cho hay đặng kéo nhau vô rừng vô Truông. Canh cả tháng mà không thấy tàu bè chi hết, dân canh tự nhiên vãi đãi. Một bữa, lúc gần sáng có hai chiếc tàu chạy vô mà người canh ngủ quên không hay. Chừng tàu chạy khỏi xóm Tre rồi có người thức dậy sớm thấy mới la lên. Nhưng nghĩ tàu không ngừng mà đổ bộ nên không cho người canh đánh mỏ báo động. Tuy vậy mà nghe sạo sực trong xóm ai cũng hay hết, nhưng hay rồi kéo nhau ra mé sông ngó 2 chiếc tàu vẫn chạy luôn bởi vậy không có người nào tính rút vô rừng. Ngày đó dân trong xóm Tre cứ dụm năm dụm bảy mà bàn luận, không ra ruộng, không đi câu, song cũng không nghe có việc chi hết. Cách hai ngày mới hay hai chiếc tàu đó chở binh Pháp vào Vàm sông Tra và chiếm huyện lỵ Gò Công. Lính đóng mấy đồn Gò Gừa và Sơn Qui không chống cự, nên giặc không có bắn một phát súng. Nhân dân xóm Tre nghe như vậy tức quá, tiếc giặc không đổ bộ xóm mình đặng gây ra trận Truông Cóc cho giặc ghi nhớ phải chết sống mới đoạt nguồn Khổng Tước được. Tuy vậy mà bắt đầu mọi người chán nản. Mà trong ít ngày sau càng chán nản hơn nữa, và lần lượt nghe huyện Cần Guộc bị giặc chiếm rồi phủ Tân An cũng mất nữa, sau hết lại hay phủ Định Tường cũng không còn. Ông Bá hộ ngồi khoanh tay rầu rỉ tối ngày. Ông Thuận với Phó Tha bực tức mà đau, tức không biết Triều đình ở đâu, quan quyền làm việc gì để cho ngoại bang hống hách hoành hành mà chiếm đất đoạt thành như vào nhà không chủ. Ông Thuận còn đau khổ về nỗi con; đại đồn đã thất thủ, đại binh đã tan hoang mà Hào ở đâu sao không thấy trở về, còn sống xót mà tản lạc theo đám đại binh để lập thế phục thù hay là chốn sa trường đã ngã gục, phơi thây chiến sĩ. (Hai vợ - Chương5) …………………….. Phó Tha mới nói: - Ông Nhiêu hay tôi ở xóm Tre vô thăm tin tức của cháu Hào, thì ông niềm nở dữ lắm. Ông hối người nhà nấu cơm cho tôi ăn. Ông nói năm trước ông nghe cháu Hào vô thuật chuyện nhân dân xóm Tre đồng tổ chức cuộc phòng thủ để nghinh địch, thì ông khen lắm, khen bà con mình nhiệt bảo tâm cứu quốc cứu dân. Ông nghe triều đình bất lực để thua trận Chí Hòa rồi e rằng không dám tính chuyện kháng chiến đánh đuổi giặc, nên lo năn nỉ với quan Pháp mà nghị hòa, thà xuất tiền chuộc mấy tỉnh đã mất và chịu tổn phí cho quân đội Pháp chớ không dám chống cự nữa. Hạng sĩ phu của mình đều hết thảy bất bình, bởi vậy có nhiều anh hùng nghĩa sĩ không thèm kể tới triều đình nữa, họ vận động khuyên dân theo họ đặng đánh đuổi binh Pháp mà lấy đất nước lại. Có ông Quản Định đương chiêu mộ nhân dân trên vùng Rạch Lá đã được mấy ngàn, nay mai gì đây sẽ kiếm xuống đánh úp Gò Công đặng đuổi binh Pháp khỏi xứ. Ông Nhiêu nói binh Pháp đóng trong huyện mình chừng 100 chớ không có nhiều. Binh của Quản Định kéo xuống quét sạch dễ như chơi. Mà hễ binh Pháp thua thì chắc họ chạy ra phía Bao Ngược đặng kiếm thuyền mà về Cần Giuộc goặc Gia Định. Vậy ở xóm Tre nếu nghe binh ta đánh úp Gò Công thì trai trong xóm, đã có tập luyện sẵn rồi hết thảy đều vô Truông Cóc mai phục, chờ tàn binh của Pháp chạy ngang qua thì đánh mà bắt hết. Ông Nhiêu cũng sắp đặt cho dân Sơn Qui chặn phía trong mà đánh trước; đón từ chặng như vậy thì binh Pháp không lọt khỏi. Ông Nhiêu căn dặn như vậy. Ông biểu tôi nói lại như vậy cho bà con trong xóm hay đặng sắp đặt trước mà rửa cái nhục thất bại giùm cho mấy ông trên Chí Hòa năm trước. Ông Thuận nghe nói việc mai phục tại Truông Cóc đặng bắt giặc giống như kế của ông bày hồi năm ngoái, thì ông đắc chí, ông quên việc bặt tin của con ông, mà ông cũng quên cặp mắt đã mù quáng hết đi đâu được nữa. Ông vỗ ván mà nói lớn: - Dịp may đã đến cho dân xóm Tre mình rồi. Mình nên cám ơn ông Nhiêu Hiền cho mình cái tin ấy. Thiệt nghe tin nầy tôi muốn xé mây mà tôi đi. …………………….. Ông Bá hộ nói: - Theo lời ông Nhiêu nói, thì chưa biết chắc bữa nào ông Quản Định đem binh đánh úp Gò Công. Không lẽ mình bắt dân trong xóm mỗi ngày phải vô Truông Cóc mà chực hờ hoài cho được. Phải để cho dân làm ăn chớ. Còn cái nầy nữa chờ lâu quá mà không thấy gì hết, dân mòn chí, rồi tới việc tự nhiên giảm hăng hái. Vậy tôi tính như vầy: ngày mai cho người đi thuyền rao cho bà con trong xóm từ 18 đến 45 tuổi hay rằng sắp có giặc đi qua Truông Cóc nhưng chưa biết chắc đi qua ngày nào. Những người trong hạng tuổi đó phải sửa soạn binh khí cho sẵn. Chừng tôi biết chắc ngày nào, giờ nào phải mai phục thì tôi đánh mõ. Hễ nghe mõ thì tựu hết sân tôi, tay cầm binh khí hẳn hoi, rồi có người dắt vô Truông Cóc. Ông Thuận nói: - Phải có thằng Hào về, nó lo việc nầy cho mình thì tiện quá. Ông Bá hộ nói: - Để tôi sai thằng Kỳ nó đi truyền rao trong xóm hay. Chừng đi mai phục tôi biểu nó dắt dân đi cũng được, chớ tụi già mình lụm cụm không đủ lẹ làng mà làm mấy việc như vậy được. Còn việc muốn biết chắc bữa nào giặc sẽ chạy qua Truông Cóc, cái đó khó một chút. Chớ chi có thằng Hào thì tiện nhiều. Bây giờ không có nó tôi muốn cậy anh Phó nghỉ chơn một bữa rồi đi giùm một lần nữa. Phó Tha hỏi: - Ông Bá hộ muốn tôi đi đâu? Mai tôi đi được mà. Có mệt mỏi gì đâu mà nghỉ. - Anh đã quen với ông Nhiêu rồi. Tôi muốn ngày mai anh nghỉ một bữa rồi sáng mốt anh chịu khó trở vô Sơn Qui nữa. Anh thay mặt cho anh em lớn nhỏ ở xóm Tre mà cám ơn ông Nhiêu cho mình tin quan hệ đó. Anh cho ông biết bà con mình sẵn sàng phục kích tại Truông Cóc, y theo lời ông dặn, song mình phải biết chắc bữa nào sẽ có giặc chạy ngang qua đó đặng mình mai phục. Vậy anh em mình xin ông làm hơn hễ ông Quản Định huy động nghĩa binh khắc phục Gò Công thì ông mướn người chạy ra xóm Tre báo tin cho mình hay liền, đặng mình gom dân mai phục Truông Cóc. Tiền mướn đó hễ người báo tin ra đây thì tôi trả. Tôi không để cho ông tốn hao. Được như vậy thì tiện cho mình lắm. - Được mà. Tôi sẽ trở vô Sơn Qui nữa cho. Sáng mốt tôi đi. Ông Thuận nói: - Hữu sự mà cặp mắt tôi hết thấy đường, buộc tôi phải ngồi một chỗ thiệt tức quá. Nhưng tôi đi phục kích không được, thì tôi sẽ biểu thằng Tư Cầu đi thế cho tôi. Phó Tha ăn cơm rồi. Ba ông bàn tính một hồi nữa, rồi ông Bá hộ với Phó Tha từ giã chủ nhà mà về. Ông Bá hộ sai con Hai Kỳ đi khắp xóm mà truyền huấn lịnh cho dân hay theo ý của cha định. Ai cũng hăng hái làm phận sự đặng trả nợ non sông, không ai thối thác. Phó Tha trở về Sơn Qui nói chuyện với ông Nhiêu Hiền. Ông Nhiêu hứa hễ ông hay tin ông Quản Định huy động nghĩa binh thì ông sẽ sai người ra xóm Tre báo động liền.
Cuộc chuẩn bị chống quân xâm lăng của Xóm Tre được nâng tinh thần do cuộc kháng chiến qui mô của Quản Định, bởi vì mặt trận của cuộc kháng chiến trải từ phía Tây Bắc Gò Công, tức phía Tây của Xóm Tre, đến Rạch Lá, một con rạch của Sông Tra là con sông ranh giới Gò Công và Tân An: “Thiệt quả cách mười ngày sau. Quản Định ở vùng Rạch Lá đem binh vây bắt Thiên Hộ Huy là tên phản quốc dắt binh lính bắt giết Huyện Toại, là một chiến sĩ ái quốc đương chiêu mộ nghĩa dõng đặng chống với giặc xâm lăng. Quản Định đem Thiên hộ Huy ra trước đình làng mỗ bụng Huy cúng tế vong linh Huyện Toại, rồi làm lễ tế cờ và dắt hơn hai ngàn nghĩa binh cờ trống đàng hoàng, mác dao sáng ngời, rần rộ kéo xuống Gò Công, quyết tử chiến với giặc một trận. Số binh Pháp chiếm giữ Gò Công có hơn một trăm, chớ không đông, thình lình hay binh nghĩa dõng đông quá, phân làm hai cánh kéo tới hùng hào rần rộ thì mất tinh thần. Tuy có súng song số binh ít quá, sợ giặc bao vây rồi xung phong đánh xáp lá cà không thể cự nổi, bởi vậy quan chỉ huy truyền lịnh thối lui ra phía Bao Ngược đặng sai người về Gia Ðịnh báo ngay và xin binh tiếp viện. Ðạo binh Pháp ra tới Sơn Qui bị nghĩa binh mai phục tại đó đánh một trận làm cho rã làm hai tốp. Tốp xuống Giồng Tháp bị dân ở đó đánh làm tổn thương hết một mớ còn lớp đi ra Truông Cóc, thì bị dân xóm Tre xông ra vây đánh một trận nữa, làm cho binh giặc hao hết phân nữa.
Năm 1862 - 1863, quân Kháng chiến của Quản Định đặt tổng dinh tại Gò Sơn Qui, lực lượng chánh do Quản Định chỉ huy rất có qui củ nên thắng Pháp. Uy tín của Quản Định nổi lên như cồn, được coi là “linh hồn của ba tỉnh miền Đông đã mất”.
Đoạn trên, cho biết quân Pháp bị nghĩa quân đánh tan tại Sơn Qui nên rã làm hai cánh, một cánh chạy thẳng phía Bắc ra Truông Cóc, nơi dân Xóm Tre sẽ chặn đánh chúng, cánh thứ nhì giạt qua phía Đông theo rạch Sơn Qui đến Giồng Tháp, thôn Tân Niên Đông cũng bị dân quân ở đấy đánh cho tơi bời. Hiện tại Giồng Tháp, giờ thuộc xã Tân Tây, có miếu, người ta kể là thờ ông Trương và dân quân kháng chiến. Trận Truông Cóc - Xóm Tre là trận thật sự thời Pháp vô, không phải là trận hư cấu của ông Hồ Biểu Chánh. Ông Hồ Biểu Chánh là nhà văn, nhưng khi đọc các đoạn trên dưới nầy thì ta tưởng như là bản tường thuật của nhà quân sự. Ông Hồ Biểu Chánh, lúc nhỏ 1890 trở đi được những người già ở quê hương ông, làng Bình Thành, giáp ranh làng Bình Xuân, Tân Niên Trung và cả làng Bình Thạnh Đông, đã chứng kiến hay tham gia chống Pháp thuật lại.
Ở Truông Cóc giặc thất nặng là vì giặc không biết đường sá, còn rừng thì rậm rạp hoang vu; dưới chơn thì đất sình lầy lội hút đầu gối, còn ở trên thì cây xàng xịu day trở không được. Dân ta quen biết chỗ ẩn núp rồi lui tới lẹ làng làm cho binh địch không biết đâu mà bắn, nên có súng mà phải thua mác thong chĩa nhọn. Hai bên rượt nhau đánh tới tối, rừng rậm hết thấy nhau, dân xóm Tre mới hú hí kêu nhau, ra về, gần nửa canh một mới tới nhà ông Bá hộ. Ông Bá hộ với Phó Tha ở nhà chờ tin tức đã có dạy người nhà làm thịt một con heo mà nấu cơm sẵn để cho quân. Nghĩa binh về từng tốp, ai về trước thì ăn trước, ai về sau thì ăn sau. Ông Bá hộ với Phó Tha nghe tin xóm Tre đại thắng thì vui mừng hết sức. Qua canh hai không còn ai về nữa, mới kiểm điểm lại thì thiếu hai người Tư Cầu với tên Giác, là con trai của Hai Chỉ, hai người đó không có về. Ai cũng lo ngại, sợ hai người đã tử trận còn số đã về rồi có 7 người bị thương, nhưng có hai người bị nặng, một người bị đạn tại bắp vế và một người bị đâm tại cánh tay, còn năm người bị thương nhẹ không đáng kể gì. Ai cũng nói bên địch chết và bị thương ít lắm cũng ba chục người. Ông Bá hộ biểu thân nhơn mấy người bị thương đem bệnh nhơn về điều dưỡng, ông hứa sẽ giúp tiền cho uống thuốc. Ăn uống rồi chiến sĩ ai cũng rã ra ai về nhà nấy. Phó Tha cũng về, nói sẽ đi thẳng lại báo tin cho ông Thuận mừng. Còn Tư Cầu với Giác không về thì anh em nói để sáng rồi sẽ đi kiếm. Đến sáng ông Bá hộ vô nhà Ông Thuận mà phân ưu về sự Tư Cầu không về
Đọc tới đây tôi ngừng lại, tôi phục cái tinh thần chịu đựng của dân quê mình, tiễn người thân ra đi, chờ tin và người thân không về nữa! Ông Thuận nói: - Tôi nuôi thằng Cầu từ nhỏ đến giờ, vì nó khùng khịu nên tôi thương lắm. Nếu rủi nó tử trận thì thôi. Mà chết vì nước thì vinh quang quá có gì đâu mà buồn. Một lát Phó Tha lại nữa. Ông nói với hai ông bạn rằng Hai Chỉ với một người nữa giả dạng tiều phu đã lập thế vào rừng đặng kiếm tên Giác và Tư Cầu. Ông có dặn hai người phải cẩn thận vì binh giặc đêm nay có lẽ còn lẫn quẩn trong rừng. Nếu mình vô ý ắt phải bị chúng bắt. Thiệt quả gần nửa buổi. Hai Chỉ với người bạn hào hển chạy về nói giặc còn ẩn núp trong rừng. Khi hai người vô gần tới mé rừng, thì giặc ở trong bắn súng ra, nên hai người phải chạy thôi, lại mới khỏi bị đạn. Ai nấy đều khuyên đừng vô rừng nữa, nên coi chừng giặc đi hết rồi sẽ hay. Cách ba ngày sau ở xóm Tre người ta thấy có một chiếc tàu lớn với cả chục tàu nhỏ đậu tại Vàm Rạch Nhợ. Đến trưa chỉ có ba chiếc ở lại còn bao nhiêu thì chạy luôn về phía Sông Tra. Dân xóm Tre lo sợ giặc kêu binh tiếp viện đặng phản công xóm mình nên ai nấy lao nhao, muốn chờ đến tối sẽ lấy ghe đưa hạng già và giới đàn bà con nít đi kiếm mấy rạch nhỏ mà ẩn núp. Té ra đến xế chiều có người rình coi thì thấy binh lính dìu dắt nhau đi xuống tàu rồi tối ba chiếc tàu đậu tại Vàm Rạch Nhợ kéo neo chạy lên phía sông Tra nữa. Bây giờ người ta mới đoán chắc đoàn tàu chạy qua để ba chiếc ở lại tại Rạch Nhợ đặng tom góp tàn binh thất trận hôm nọ mà chở đi, còn bao nhiêu thì vô đánh chiếm Gò Công lại. Thật vậy, bữa sau ông Nhiêu Hiền cho người ở Sơn Qui ra thông tin cho xóm Tre hay viện binh Pháp đi khắc phục Gò Công. Chúng bắn súng thần công nà quá, nghĩa binh của quan lớn Trương Công Định không thể chống cự nổi, nên phải rút lui, một phần chạy xuống phía Cầu Muống, còn một phần vào ẩn núp trong mấy đám lá “Tối trời” dọc theo mé sông cửa Tiểu.
Đọc tới đây ta biết thời điểm Pháp tung quân các mặt đánh lui nghĩa quân các mặt ngày 25/2/1863 để chiếm Gò Công do Phó đô đốc Bonard chỉ huy. Trương Công Định phải rút tàn quân về vùng Gia Thuận lúc đó thuộc thôn Tân Phước, mặt đông bắc Gò Công. Ông Bá hộ với Phó Tha nghe tin ấy thì buồn nhưng chắc giặc đã bỏ giăng rừng Truông Cóc rồi, mới để dân xóm Tre vào kiếm Tư Cầu với tên Giác. Dân ruồng kiếm cả ngày, gặp thây chết rải rác đến vài chục, nhưng thây nào cũng rục rã không nhìn được. Ông Bá hộ cũng như Ông Thuận với Phó Tha đoán chắc tên Cầu với tên Giác đã tử trận. Ông Bá hộ hiến hai con heo cho anh em làm thịt cúng chiến sĩ vị quốc vong thân, rồi ăn uống với nhau một bữa. Ông cho vợ chồng Hai Chỉ 200 quan tiền, giúp mấy người bị thương mỗi người 10 quan tiền đặng mua thuốc uống. Hổm nay không có Tư Cầu nữa, cô Quyên phải ở luôn ngày đêm tại nhà cha chồng đặng chăm nom giúp đỡ ông. Cúng Tư Cầu với tên Giác xong rồi tối lại ông Bá hộ Cầm vô thăm ông Thuận, đi ngang nhà Phó Tha, ông kêu Phó Tha đi với ông.
Truông Cóc hồi xưa là một địa danh gắn với sự vui buồn thịnh đạt của những lưu dân đến ở lại, đó là hồi năm 1756. Thời Pháp mới vô Truông Cóc, năm 1863, là nơi dân Xóm Tre gởi máu thịt mình thấm vào cho màu mỡ đất quê hương; trong hoạn nạn dân mình không bỏ nhau, một bài học thế thái nhân tình: Vô tới nhà Ông Thuận, trước mặt Phó Tha với cô Quyên, ông Bá hộ nói: - Bà con xóm Tre nầy đã làm tròn phận sự con dân đối với cỏ cây đất nước. Vậy cũng là vinh. Rất tiếc có hai nhà bị hại, anh sui đây với Hai Chỉ. Mà anh sui bị hại nhiều hơn, vì một đứa cháu tử trận lại thêm một thằng con cũng ra giúp nước mà mấy năm nay biệt tích không biết mất hay còn. Đã vậy mà anh còn chịu mù quáng nữa. Thiệt là khổ! Ông Thuận động lòng nên rơi nước mắt mà đáp: - Con với cháu tôi hiến thân đặng cứu dân cứu nước. Dầu hai đứa thiệt chết đi nữa, tôi cũng không than phiền. Ngặc thuở nay tôi nhờ thằng Cầu nó giúp tôi làm ruộng mới có lúa mà nuôi sống. Nay nó chết mà tôi lại tối hết hai con mắt, cái đó mới thiệt là khổ. Mấy bữa rày tôi muốn chết đi cho phứt để yên thân. - Anh đừng thối chí. Chết làm chi? Phải sống đặng nghe thế cuộc thay đổi cách nào chớ. Từ bữa thắng trận Truông Cóc mà Tư Cầu không có về với anh em trong xóm thì tôi đã có nghĩ đến việc nhà của anh rồi. Tôi tin nếu Tư Cầu chết thiệt, thì tôi sẽ kiếm một người khác về ở với anh đặng giúp anh trong việc ruộng nương. Còn việc trong nhà thì vợ chồng tôi đã quyết định để con Quyên ở trong nầy luôn đặng nó săn sóc lo cơm nước cho anh. Vì thời cuộc bối rối nên vợ chồng nó chưa có lễ cưới. Nhưng một lời đã giao kết, thì trăm năm không được quên. Bề nào con Quyên cũng là dâu của anh. Đã vậy ngày Hào đi, con Quyên có hứa với Hào nó sẽ ở nhà thay thế chăm nom nuôi dưỡng anh, dầu Hào nó chết đi nữa, con Quyên cũng phải giữ cho vẹn lời hứa. (Hai vợ - Chương VI)
Đọc tiểu thuyết mà chừng như đang đọc chiến sử. Ông Hồ Biểu Chánh về già khoắc khoải hồi tưởng thời oanh liệt bất khuất của người dân quê ông khi Pháp mới vô nên viết cuốn truyện nầy phải không? Cốt chuyện bình thường mà dàn trải trên bối cảnh người dân Sơn Qui – Truông Cóc – Xóm Tre quyết hy sinh chống Pháp. Những trang tiểu thuyết hóa thành bản anh hùng ca. Rồi có:
Cái kết buồn của bản anh hùng ca: Trong vài năm tiếp đó, nhân dân ở vùng Gò Công từ Chợ Gạo xuống Vàm Láng cũng như từ Bao Ngược vô Cửa Tiểu, già trẻ đều sống trong khoảng đời khi mừng, khi sợ, khi giận, khi buồn. Binh đội Pháp nhờ có súng lớn súng nhỏ, nên chiếm lại địa đầu. Nhưng nghĩa quân của cụ Trương Công Định có những vị đốc binh đàng hoàng là các cụ Đốc Là, Đốc Lựa, Đốc Tòng gây cảm tình giữa dân gian nên phân binh tản mác trong xóm trong làng, nay ẩn chỗ nầy, mai ẩn chỗ khác khuấy phá khắp nơi, không để cho người Pháp bình yên mà sắp đặt cuộc cai trị được. Binh Pháp rần rộ kéo đi tảo thanh thì bị dân chúng gạt gẫm cho lọt vào mấy ổ phục kích đặng lâm nguy thọ hại. Tức giận đốt nhà cửa, giết thường dân, thì gây nên oán hờn chớ không gì. Cụ Trương Công Định với Đốc Tòng, Đốc Lựa, Đốc Là gây nỗi lo cho binh đội xâm lăng trót mấy năm, làm cho nhiều chiến trường như Cột Cờ, Lá Tối Trời, Vàm Láng, Gia Thuận, Giồng Tháp, Sơn Qui, Truông Cóc nổi danh trong lịch sử. Sau người cầm binh Pháp dùng âm mưu xuất bạc mua lòng phản quốc của Đội Tấn, Đội Ngôn, chúng chỉ chổ ẩn núp của cụ Trương. Binh Pháp đến vây chặt, cụ Trương không thể thoát thân, cụ phải dùng dao mà tự sát cho toàn danh quốc sĩ. Nhân dân hay tin ấy đều rơi lụy. (Hai Vợ - Chương VII)
Quả ông Hồ Biểu Chánh viết cuốn tiểu thuyết Hai Vợ lúc về già, lúc ông nhớ nhiều và nhớ nhất là vùng đất xưa sanh ra ông. Ông viết tiểu thuyết nhưng thật là cuốn sử thi Sơn Qui – Truông Cóc, mà hai câu thơ điếu Trương Tướng quân đã cô đọng thành tiếng thở dài: Mây giăng Truông Cóc đường quan vắng Trăng xế Gò Rùa tiếng đẩu tan Ngày nay, còn Sơn Qui và gần cuối con đường quan hồi xưa, cái Xóm Tre xưa thuộc làng Bình Thạnh Đông, nay thuộc xã Bình Đông, vẫn còn. Ông Hồ Biểu Chánh đã từng nhắc đến Xóm Tre trong một cuốn tiểu thuyết viết hồi ông còn trung niên.
Cầu Sơn Qui ngày nay (2011) bắt đầu con đường quan ngày xưa
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Truyện dài: Nhơn Tình Ấm Lạnh
Tác giả: Hồ Biểu Chánh Người đọc: Nam Phong, Phượng Dung ![]() Tập 1 - 10: http://www.mediafire.com/download.php?zxu785obdvbbfpp Tâp 11-21: http://www.mediafire.com/download.php?3cgbq2wc95k6nc3 |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23694 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23694 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23694 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23694 |
![]() ![]() ![]() |
Hai Thà Cưới Vợ <<<<Hồ Biểu Chánh Nam Phong, Phượng DungChỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 28/May/2013 lúc 4:32pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23694 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 215 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |