Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 110 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23850
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 29/Oct/2019 lúc 8:50am

Một lần nào cho em gặp lại anh


Image%20result%20for%20Một%20lần%20nào%20cho%20em%20gặp%20lại%20anh

Xa lộ mù tuyết phủ! Hà lái chiếc xe Toyota chầm chậm theo đoàn xe vượt qua lối ra ở đường Spadina và hướng về phía Mississauga. Những chiếc xe mà tuyết phủ đầy trắng xóa, trông như những con mối trắng lầm lũi nối đuôi nhau. Hà cho hai chiếc quạt nước chạy liên tục, nhưng những bông tuyết trắng ngần vẫn thi nhau rơi nhanh
xuống và phủ đầy trên kính xe. Mất hơn một tiếng đồng hồ và với những khó khăn chật vật, Hà mới lái được chiếc xe ra khỏi bãi đậu xe của sở làm ngay trong trung tâm thành phố Toronto và vào được xa lộ 401 trên đường về nhà. Nhưng ngay sau khi vào được xa lộ, thì Hà lại vương vào một bãi kẹt xe còn nặng nề và khủng khiếp hơn là khi còn ở trong thành phố. . Mờ mờ trong làn tuyết, Hà thấy trên đường ngược chiều ở bên kia xa lộ, những ánh đèn đỏ chớp chớp. Nàng thầm nghĩ “ chắc có tai nạn xảy ra ở bên kia đường?”. Chiếc xe nhích đi từng tí một. Hà một tay giữ vô lăng, một tay lục xắc kiếm điện thoại. Nàng gọi về cho Tùng:


Related%20image

-Hello, anh đó hả! Em vẫn còn kẹt trong xa lộ. Chắc cả tiếng nữa thì may ra mới về đến nhà. Hai đứa nhỏ về chưa?
Tiếng Tùng ở đầu giây bên kia:
-Ồ, hôm nay anh về sớm và đã đón tụi nó ở bến xe bus rồi.
-Anh xuống lấy hai chiếc pizza ở trong chiếc freezer dưới hầm, lên nướng cho các con ăn đỡ. Chờ một chút em về rồi em nấu thêm cơm.
- À, hôm nay là ngày “Two Dollars Day” ở tiệm Kentucky, anh đã mua cho mỗi đứa một hộp thịt gà trên đường về, vì biết thế nào em cũng sẽ bị kẹt xe.
-Vậy hả, thôi chút em về!
Hà cúp điện thoại, thở phào, không phải lo lắng cho hai đứa con nữa. Nàng vơ vẩn bật cát sét nghe nhạc trong thời gian phải chờ đợi trong xa lộ nổi tiếng về những vụ kẹt xe ở Canada này. Từ trong máy, giọng hát trầm ấm của Johny Cash trong bản “The Ring of Fire”, một bản nhạc tình mà Hà vẫn thích. “..The Taste of Love is Sweet, when Hearts like Ours meet..” (tình yêu là vị ngọt, khi con tim của chúng ta bên nhau).

                         ********

Image%20result%20for%20car%20to%20garage

Khi Hà đưa được chiếc xe vào sân nhà thì cũng đã hơn 7 giờ tối. Chắc Tùng đã hỳ hục xúc tuyết nhiều lần rồi, cho nên trong sân không có nhiều tuyết như ngoài đường ,vì thế Hà mới có thể đưa chiếc xe vào được trong sân một cách dễ dàng. Nàng lúng túng bước ra khỏi xe, đi theo ngõ bên hông nhà xe để vào nhà. Tùng ra đón vợ ở cửa bảo:
-Em về bình an là may, đài ti vi mới loan báo là có trên 20 chiếc xe húc đít nhau trên xa lộ 401..
Hà gật đầu :
-Em cũng có nghe trên radio, nhưng tai nạn này ở trên đường về hướng Oshawa, cho nên em không bị kẹt lâu..
Hà cởi giầy để trên thảm ở cửa vào, thì Tùng bỗng nói:
-À, lúc nãy có Như An phôn cho em đó!
-Cô ta có nói chuyện gì không?
-Anh không biết, nhưng cô ta nói khi em về thì phôn lại cho cô ta.
-Để chút ăn cơm xong em sẽ phôn lại..
Nhưng Hà không cần chờ sau bữa ăn, vì ngay sau đó có tiếng điện thoại reo vang. Tùng cầm điện thọại trả lời:
-À chị Như An đó hả, Hà về rồi.. chị chờ một chút nghe!
Hà đỡ cái điện thoại trên tay chồng hỏi:
-Cái gì đó, con khỉ?
-Ừ tao đây, bây giờ mới về đến nhà hả?
-Bộ mày không bị kẹt xe hay sao?
-Hôm qua, tao nghe tiên đoán thời tiết là có bão lớn, mà tao lại còn ngày vacation cho nên tao đã xin nghỉ nằm nha, đỡ phải lội tuyết. À có một người vừa gửi thư nhờ tao chuyển cho mày. Anh chàng bồ cũ của mày đó..
Hà giật mình:
-Cái gì?
Như An hỏi lại:
-Chồng mày còn đứng đó không?
Hà liếc mắt nhìn rồi nói nhỏ vào ống nghe:
-Anh ấy đi lên lầu rồi.
-Như vậy thì tao có thể nói chuyện thoải mái hơn. Mày cũng biết là hồi tuần rồi, tao qua thăm chị Bích, bà chị họ của tao ở thành phố Grand Rapids, tiểu bang Michigan..
Hà gật gật:
-Ừ, mày đã có nói cho tao nghe..
-Hôm thứ bảy sắp về, thì bà Bích có mở pạc ti mời một số bạn bè của bà ấy ở xung quanh đến dự. Trong bữa tiệc, thì có một anh chàng mà chắc tuổi tác cũng lớn hơn mình chút đỉnh, cứ nhìn tao chằm chằm. Tao nghĩ thầm” chắc anh chàng này muốn thả dê đây”. Ai ngờ vừa nghĩ như thế là hắn đến ngay trước mặt và hỏi có phải tao là bạn của cô Ngọc Hà, mà mấy chục năm trước đây nhà ở đường Trương Minh Giảng? Tao bảo đúng! Thì hắn mừng rỡ cho biết tên hắn là Việt Hùng, và trước đây có thời rất thân với mày.. Tao hỏi là làm sao hắn biết tao? Thì hắn bảo có một lần hắn đến dự pạc ti ở nhà mày, thì có tao ở đó.. Tao thì chẳng nhớ hắn tí nào!. Hắn cũng hỏi thăm về mày nhiều thứ lắm nào là có gia đình chưa, có con không, được mấy đứa, đang làm gì và ở đâu.. lung tung hết? Tao cho biết là mày đã có gia đình, có hai con và ở gần nhà tao, ở bên Canada. Anh chàng này nghe nói như thế mừng lắm. Hắn bèn xin địa chỉ của tao, để nhờ chuyển thư đến cho mày.. và hôm nay thì nhận được lá thư của anh chàng đó..
Hà hỏi dồn:
-Thế anh ta viết những gì?
Có tiếng cười của Như An ở trong máy:
-Làm sao tao biết được? Tao đâu có mở thư đâu?. Thôi ngày mai, trên đường đi làm, mày ghé nhà tao lấy cái thư đó đi.. Tao sẽ để ở trong thùng thư trước cửa nhà cho mày lấy..
-Ừ, cũng được. Cám ơn mày.Thôi tao phải đi ăn cơm.. Mới về và đói quá rồi..
-Ô kê, bái bai.

               *********

Sau khi cho hai đứa con đi ngủ, và bò lên được giường thì Hà đã mệt nhoài vì một ngày dài làm việc trong cơn bão tuyết. Nằm bên cạnh, Tùng đã ngáy pho pho. Lúc đó nàng mới có thì giờ nghĩ về những gì mà Như An vừa nói. Cú điện thoại của Như An đã gợi lại những kỷ niệm ngày xưa, và làm nàng trằn trọc mãi không ngủ được. Những kỷ niệm tưởng đã phai dần theo năm tháng, bỗng dồn dập trở về!

Image%20result%20for%20bệnh%20viện%20Cộng%20Hòatruoc%201975.. .. Trong một chuyến ủy lạo thương bệnh binh ở bệnh viện Cộng Hòa, khi Hà còn học lớp 11 ở trường Trưng Vương, Hùng là một trong số những thương bệnh binh đang nằm tại bệnh viện được nhóm nữ sinh Trưng Vương đến trao tặng quà. Hùng là một thiếu úy trẻ vừa tốt nghiệp trường Võ Bị Đà Lạt. Vừa ra trường, chàng được đưa về sư đoàn 25 đóng tại Tây Ninh, và đã bị thương nhẹ ngay trong trận giao tranh đầu tiên. Hà, trong chiếc áo dài trắng học trò, đến bên giường bệnh tặng quà và trò chuyện với chàng. Ngay từ phút đầu, Hùng đã có cảm tình ngay với người thiếu nữ dễ thương này. Biết được tên và lớp của Hà học, ngay sau khi lành bệnh, chàng đã đến cổng trường Trưng Vương để tìm Hà.
Cuộc tình đầu tiên của Hà là cuộc tình rất thơ mộng. Đơn vị của Hùng đóng ở Củ Chi, cho nên thỉnh thoảng chàng vẫn có dịp về đưa đón người tình đi bát phố. Những lần được Hùng đến đón ở cổng trường, những buổi ngồi quán uống nước sinh tố, xem mọi người dạo phố và nghe Hùng kể chuyện về đời lính.. đã là những ngày thần tiên của một cô bé học trò mới biết yêu lần đầu. Ngày xưa, Hà thích màu vàng của hoa Cúc. Những lần đi dạo phố với chàng, nàng thường hay mặc áo dài màu Hoàng Yến. Mỗi lần đi bên nhau, trong gió, hai tà áo dài quấn quít bên chân Hùng như những vấn vương không rời! Nhưng cuộc tình thơ mộng đó không kéo dài được lâu! Hà còn nhớ năm nàng lên lớp 12 thì cũng là năm nàng vừa 17 tuổi. Bữa tiệc sinh nhật đã được ba má tổ chức rất linh đình với số đông bạn bè được mời và dĩ nhiên có cả Hùng.
Nhưng Hùng đã không có mặt trong ngày sinh nhật đó. Hà đã khóc sướt mướt trong ngày hôm đó, khi chờ mãi mà người yêu không thấy đến! Vài ngày sau đó, chàng đến đón nàng ở cổng trường với bộ chiến y nhầu nát như người từ mặt trận vừa trở về. Hùng cố gắng giải thích cho Hà nghe là chàng đã phải tham dự cuộc hành quân bất ngờ nên không kịp báo cho nàng và cũng không thể về tham dự. Tuy nhiên Hà vẫn còn quá thơ ngây và chẳng thể nào hiểu được những sự tàn khốc và lạnh lùng của chiến tranh, nhất định không chịu tha lỗi cho Hùng. Những lần Hùng đến nhà thăm nàng sau đó, đều bị Hà từ chối không xuống tiếp. Cuộc chiến cũng ngày càng khốc liệt hơn! Hùng được chuyển ra đơn vị ở địa đầu giới tuyến cho nên những lần được về phép ở Saigon của chàng ngày một hiếm hoi. Sau một vài tháng giận dỗi, thì Hà cũng đã nguôi ngoai, nhưng nàng vẫn chưa biết làm sao để nối lại những tình cảm cũ. Hà nhớ có một tối học bài thi   mà trời nóng nực, nàng ra mở cánh cửa sổ phòng. Khi bất chợt nhìn xuống, thì nàng thấy dưới cây Me bên kia đường, Hùng đứng chờ ở đó! Khi thấy Hà , chàng đưa tay lên môi gửi cho nàng chiếc hôn gió, chờ đợi một chút, không thấy Hà nói gì thì lại lặng lẽ ra đi. Hà muốn mở cửa chạy xuống ngay để nói với Hùng về những nỗi nhớ nhung tha thiết của nàng trong những ngày qua, nhưng dường như có những cái tự ái trẻ con đã kìm giữ lại bước chân của nàng. Một lần khác khi một nhóm bạn của nàng đến nhà học thi chung. Ngày hôm đó trời mưa thật lớn! Dung, một trong số các cô bạn cùng đến học thi chung, khi vào đến nhà, cởi được chiếc áo mưa, đã thì thầm bảo Hà” Tao thấy cái anh chàng lính, bồ cũ của mày đứng bên kia đường. Mưa lớn lắm mà hắn cứ đứng chịu trận dưới hàng cây. Khi thấy tao, thì hắn vẫy tay chào rồi lên xe jeep đậu gần đó , lái xe đi”. Hà muốn chạy ra nhưng đã quá trễ!

Rồi ngày buồn thảm 30 tháng tư đã đến! Gia đình Hà may mắn chạy được qua Canada. Hà trở lại đại học, tốt nghiệp ngành kế toán, được công việc làm tốt ở một công ty kế toán lớn ở Canada. Rồi Hà lấy chồng: Tùng là bạn học chung ở trường đại học Toronto trước đó, là kỹ sư điện toán và cũng có việc làm với công ty truyền hình Rogers Cables.. Cuộc sống nơi xứ người đầy những bận rộn vì sinh kế, vì gia đình, những kỷ niệm cũ đã được Hà chôn sâu trong tiềm thức. Nhưng có một đôi khi ngồi một mình, nghĩ lại chuyện cũ, Hà nhớ lại thái độ trẻ con và nông nổi của mình. Nàng thầm mong có dịp sẽ gặp lại được Hùng, một lần trong đời, để nói với anh những lời hối lỗi, những ân hận của nàng. Hơn 30 năm qua, niềm hy vọng đã ngày phai nhạt dần. Có ngờ đâu hôm nay, nàng lại nhận được những tin tức của người xưa!


                 *******

Đã đến giờ ăn trưa! Hôm nay thay vì như thường lệ đi xuống khu ăn uống và shopping ở dưới hầm của tòa cao ốc, nơi có văn phòng kế toán của công ty KPMG này ở trung tâm thành phố Toronto, Hà đã ngồi lại văn phòng, lấy bánh mì đã làm sẵn ở nhà ra ăn, để có thì giờ xem lá thư của Việt Hùng mà nàng đã lấy ở nhà Như An, trên đường tới sở làm. Giờ ăn trưa, trong sở làm nhân viên đồng sự với nàng chẳng còn ai, và Hà không sợ họ than phiền vì phải nghe nhạc Việt Nam, cho nên tiện tay bật chiếc máy cát sét để trên bàn giấy trong khi đọc thư.

Grand Rapids, ngày tháng

Ngọc Hà thân mến,

Xin cho phép anh vẫn gọi Ngọc Hà là em như ngày nào mình với quen nhau! Ngày xưa củachúng mình đẹp quá phải không em! Anh vẫn không quên ngày mà em đến thăm anh cũng như các thương bệnh binh khác ở bệnh viện Cộng Hòa. Tâm hồn anh xao xuyến ngay khi lần đầu tiên nhìn thấy bóng dáng em. Lúc đó anh đã quyết ý là sau này sẽ muốn lấy được em làm vợ. Tiếc rằng cuộc tình của chúng ta đã không trọn vẹn. Bây giờ thì mỗi người đều có những con đường riêng!

Anh hiện cũng có gia đình, có một đứa con trai 10 tuổi và hiện đi làm cho hãng làm xe hơi GM ở thành phố Grand Rapids ở tiểu bang Michigan. Từ Grand Rapids đi qua Toronto chỉ có 6 tiếng lái xe. Anh có cô em gái sống ở Toronto và thỉnh thoảng vẫn qua Toronto thăm cô ta và để có dịp ăn trái cây, những loại trái cây miền nhiệt đới không có bán ở bên Mỹ này.

Chúa nhật tới ngày 15, anh sẽ qua lại Toronto. Anh muốn gặp em một lần để muốn nói với em một điều là “xin lỗi em! Xin lỗi em về những muộn phiền mà anh đã gây cho em trong những năm em còn đi học “ . Nếu em đồng ý thì xin email cho anh biết qua địa chỉ email ở cuối thư, trước sáng chúa nhật. Em cho anh biết địa chỉ và số phôn để khi tới anh sẽ liên lạc với em. Anh sẽ check email vào sáng chúa nhật, trước khi anh rời nhà. Nếu không nhận được email của em thì anh cũng sẽ hiểu ý em!

Rất mong được gặp em,

Việt Hùng

Hà đọc xong lá thư, nứớc mắt dàn dụa! Một bà bạn cùng sở đi ăn trưa về sớm, đi ngang văn phòng của Hà thấy vậy cất tiếng hỏi:
-Holly, are you OK?
Hà vội vàng lau nước mắt:
-Oh, I’m fine!
Hà bỏ lá thư vào xắc tay lòng thầm nghĩ” thế nào em cũng sẽ gặp anh để chúng mình cùng nói với nhau một lời xin lỗi”. Trong khi đó tiếng ca trầm ấm của Khánh Hà trong bản “Một Lần Nào Cho Tôi Được Gặp Em” của Vũ Thành An , vang vang từ máy cát sét:

“Một lần nào cho em gặp lại anh”
“Đôi môi đó đêm nào còn nồng”
“Một lần nào cho em gặp lại anh”
“Rồi thiên thu sẽ là nhung nhớ”

                               ********

Hà đã chọn chiếc ghế trên những hàng ghế trên cùng của cầu trường Hockey, tránh những tiếng ồn ào, ngồi đọc lại lá thư của người tình cũ. Hôm nay thứ bảy là ngày thường lệ mà nàng phải đưa hai đứa con đi học môn vũ trượt băng tại một sân trượt băng ở trong thành phố Mississauga. Hôm nay cũng là ngày chót mà nàng phải quyết định có trả lời email của Hùng hay không? Từ trên cao nàng có thể nhìn thấy hai đứa con của nàng và những đứa học trò khác, đang được các huấn luyện viên chỉ dậy cho những bước trượt tuyết trên sân băng. Bố mẹ của những đứa trẻ này ngồi ở những hàng ghế gần sát sân băng, và chỉ có nàng đơn độc leo tuốt lên trên đây ngồi. Hà đã đọc đi đọc lại lá thư nhiều lần mà lòng vẫn chưa quyết định có nên gặp lại chàng hay không? Nàng rất muốn gặp chàng để nói những điều ân hận mà nàng đã giữ trong bao nhiêu năm qua. Nhưng suy đi nghĩ lại! Đã hơn 30 năm rồi, liệu cuộc gặp gỡ có đem lại cho nhau thêm những hạnh phúc của cuộc đời, hay sẽ làm nhiều người phải khổ đau vì cuộc gặp mặt này! Ba mươi năm qua, cuộc sống của Hà đã là một cuộc sống mẫu mực như một mặt hồ không gợn sóng: đi học, ra trường, lập gia đình, rồi đi làm rồi lo cho con cái, như những gia đình của người Canadians xung quanh. Và nhất là nhan sắc! Đúng thế! Nàng vẫn còn nhớ những câu thơ học trong giờ việt văn của cô Kim Cương trong năm lớp 11 là “người đẹp cũng như một danh tướng, chẳng bao giờ muốn người ta nhìn mình khi đầu đã bạc, tuổi đã cao (mỹ nhân tự cổ như danh tướng, bất hứa nhân gian kiến bạc đầu)”. Thời gian đã ghi lại những dấu hằn theo năm tháng. Nàng chẳng còn là một nữ sinh yêu kiều, xinh đẹp như xưa! Và Hà chỉ muốn chàng vẫn giữ mãi hình ảnh đẹp của hai người của những năm tháng cũ!

Mải suy nghĩ, đến khi hai đứa con học xong chạy lên kiếm mẹ thì nàng mới bừng tỉnh:
-Vi Vân và Tuân học xong rồi hả các con!
Vi Vân, đứa con gái đầu lòng của nàng, chạy lại ôm lấy nàng hỏi:
-Tại sao   hôm nay mẹ lại lên tuốt trên đây ngồi?
Hà xoa đầu con dịu dàng:
-À, tại mẹ muốn yên tĩnh một chút!
Hà bỏ lá thư của Hùng vào giữa tờ Thời Báo thứ bảy, đứng dậy dắt tay bé Tuân đi dọc theo hai hàng ghế ngồi, để đi ra ngoài chỗ đậu xe. Trời tháng ba vẫn còn băng giá! Những đống tuyết cao được các xe xúc tuyết ủi về cuối sân đậu xe của cầu trường hockey này, là kết quả của những trận bão tuyết vừa xảy ra.

Related%20image


Hà dẫn con ra đến chỗ đậu xe, lom khom mở cửa xe thì   một trận gió mạnh bất ngờ thổi đến . Hà không chuẩn bị nên làm rớt tờ Thời Báo đang kẹp ở cánh tay xuống đất. Tờ báo mở tung ra, lá thư kẹp trong tờ báo đã theo gió bay lên, bay qua khung chiếc cầu Credit River ở cạnh bãi đậu xe, và rớt xuống dòng sông đóng băng ở dưới! Hà vội mở cửa xe, cho hai con lên, rồi chạy đến lên thành cầu nhìn xuống. Lá thư nằm trên mặt sông đóng băng rất sâu ở dưới và chẳng có cách chi mà nàng có thể xuống để lấy lá thư này, vì dốc đá lởm chởm ở hai bên thành cầu.
Nàng thở dài hai tay ôm lấy mặt, thầm nói “anh Hùng, em thật có lỗi!”. Bên tai nàng hình như tiếng hát của Khánh Hà vẫn còn vang vọng đâu đây?

“Một lần nào cho em gặp lại anh?”
“Nghe anh nói,em vui một lần”
“Một lần nào cho em gặp lại anh?”
“Còn chút tình đốt hết một lần”


Nguyễn Tuấn Hoàng



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 29/Oct/2019 lúc 9:58am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23850
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 30/Oct/2019 lúc 8:35am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23850
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 31/Oct/2019 lúc 9:39am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23850
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 02/Nov/2019 lúc 8:32am


Image%20result%20for%20vuot%20bien




Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 02/Nov/2019 lúc 8:48am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23850
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Nov/2019 lúc 9:46am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23850
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/Nov/2019 lúc 9:24am
Tiếng khóc – Tính nhân bản trong văn chương miền Nam thời chiến



Image%20result%20for%20tear
Tiếng ai than khóc nỉ non
Như vợ chú lính trên hòn Cù Mông

Cù Mông là tên của một ngọn đèo ranh giới Bình Định và Phú Yên. Từ Phú Yên vào Khánh Hòa có hòn  Vọng Phu.  Hai hòn đều có cùng một mẫu số chung  là mang thân phận của người  đàn bà vợ lính. Một đàng mõi mòn chờ chồng, bồng con hóa đá. Và một đàng, đôi chân mềm rớm máu, lên hòn mà đứng khóc nỉ non vì người chông đã chết. Tác giả không nói chết vì lý do gì. Nhưng cái chết của người lính thì hẳn đã khác với cái chết của người dân thường tình.
 
Hai người nhưng cùng mang một thân phận. Chờ mòn mỏi người chồng trở về  đến độ hóa đá hay than khóc nỉ non giữa núi rừng mông quạnh cũng đều nói lên nỗi đau khổ của người thân ở phía sau hay những người còn lại. Văn chương VN đã  tạc sự chịu đựng vô bờ ấy bằng đá  tượng, hay bằng ca dao lưu truyền từ đời này qua đời khác. Có nghĩa là tổ tiên chúng ta vẫn trân trọng ở những giọt nước mắt của người  đàn bà trong thời ly lọan. Họ ở ngoài cuộc, nhưng họ lại trở thành những nạn nhân. Nỗi đau của họ không ai có thể gánh nổi. Nước mắt của họ cũng chẳng ai có thể lau nỗi. Trừ thời gian.
Tuy nhiên chỉ có một nơi tiếng khóc trong thơ văn bị bức tử. Nỗi đau được biến thành căm thù và nỗi chờ đợi mõi mòn kia biến thành “sáng đường cày”, “sáng đường đạn”. Như hai câu thơ mà một tên tuổi rất quen thuộc thời tiền chiến là Lưu Trọng Lư  đã trích dẫn trong bài viết nhan đề Thân phận người phụ nữ đăng trên tạp chí Văn học số 1 năm 1973:
Sáng đường cày mới là nhớ là mong
Sáng đường đạn mới là chờ là đợi

Đấy. Ngay cả một tâm hồn rất nhạy cảm đền nổi trăng vẫn phải thổn thức như trong bài Tiếng Thu của một thời:
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức ?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ ?
Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô ?
vậy mà bây giờ lại quay đến 180 độ, chỉ  biết có sáng đường cày và sang đường đạn.  Không phải con nai vàng đã chết mà tâm hồn người chinh phụ cũng đã chết theo.
Như vậy, còn bàn  gì đến tính nhân bản nữa.
****
Ngược lại, trong văn chương miền Nam thời chiến, tiếng khóc của người ở lại – người vợ, người mẹ, người thân, và cả đồng đội đã từng chia ngọt xẻ bùi, đã được tìm thấy rất nhiều trên những trang thơ mà tôi được đọc. Như nỗi đau của người đàn bà đi nhận xác chồng:
 
 
Image%20result%20for%20Tiếc%20thương

(Tiếc thương – Ảnh Nguyễn Ngọc Hạnh)

 
Ngày mai đi nhận xác chồng
Say đi để thấy mình không là mình
Say đi cho rõ người tình
Cuồng si độ ấy hiển linh bây giờ
Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ
Như môi thiếu phụ nhạt mờ dấu son
Tình ta không thể vuông tròn
Say đi mà tưởng như còn người yêu
Phi cơ đáp xuống một chiều
Khung mây bàng bạc mang nhiều xót xa
Dài hơi hát khúc thương ca
Thân côi khép kín trong tà áo đen
Chao ơi thèm nụ hôn quen
Đêm đêm hẹn sẽ chong đèn chờ nhau
Chiếc quan tài phủ cờ màu
Hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng
Em không thấy được xác chàng
Ai thêm lon giữa hai hàng nến trong?
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng
Nghĩa trang mà ngỡ như phòng riêng ai.”

(Lê thị Ý – Ngày mai đi nhận xác chồng)
Hay tiếng la gào tru tréo của đứa con có mẹ bị chết thảm trong lần chạy lọan:
trên đường chạy giặc
mẹ em trúng bom
chết phanh thây chẳng chiếu chẳng hòm
đầu bết tóc mắt trừng bên bờ ruộng
mẹ em tội tình chi chết oan chết uổng
ôm đầu người khóc giữa đạn bom rơi
trời ác chi ác rứa ông Trời
sao mẹ nỡ bỏ con giữa vùng bom đạn
gom xác mẹ giấu bên bờ Thạch Hãn
chạy tháo thân bu được đít xe đò

(Lê Nguyên Ngữ: Quán tản cư)  (1)
Hay là tiếng khóc của người yêu, đeo nhẩn đính hôn nhưng không bao giờ làm đám cưới:
Đeo nhẩn đính hôn
Nhưng không bao giờ làm đám cưới
Chưa lần để tang
Rồi cũng đội khăn sô
Chưa biết khóc
Rồi em sẽ khóc
Chưa biết buồn
Rồi sẽ buồn qua má- qua môi

Bỏ thời con gái
Em trở thành góa phụ
Khi người tình
Làm lính trận
Vừa chết trận Pleime
Đau đớn chạy dài cuối đuôi con mắt

Mười bảy năm
Mười bảy tuổi
Sầu lược gương xa vắng tóc mai gầy

(Linh Phương: Làm vợ người cầm súng) (1)
Hay là nỗi đau đớn tột cùng của người con gái khi nhận được hung tin, mà nàng không bao giờ tin là chuyện ấy có thể xãy ra:
Em đi như chạy. Về đến nhà, thật thế không Uy? Người em bỗng có cảm giác khác lạ, cái gì dâng tận cổ… Sắp trào ra… Mắt em ráo hoảnh, không, em không tin. Tờ nhật báo nằm trước mặt với mục phân ưu. Thực không Uy? Anh đã chết rồi sao? Anh vừa mới về thăm em với gương mặt gầy gầy, dáng cao cao, mái tóc ngắn, giọng nói quen thuộc như còn ở bên tai… Em ngơ ngác bên đám học trò và bè bạn thân thuộc.
Anh vĩnh viễn xa em rồi. Thân xác anh nằm trong lòng đất. Đời sao phi lý, anh vừa đang nói chuyện với em, thư anh gửi còn đó, lá thư gửi hôm 1-1 với những câu nói vu vơ giận hờn, với mục hứa hẹn anh sẽ về, sẽ về Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, sẽ về với em trong ngày Tết.
Người ta độc ác. Thượng đế bất công, cướp cả tình thương. Tâm tư em kêu gào quằn quại giữa tiếng nấc, thân thể em tê dại như viên đạn xoáy vào ruột gan anh để cho anh tắt thở, giây phút cuối cùng không có ai, không có em, chỉ có những bộ mặt quái ác, sát nhân, đang muốn ăn thịt, xé cho được cái thân thể thân yêu đó.
Nâng niu tấm thẻ bài mang tên NGUYỄN VĂN UY có một cái gì cứ ấm ức dâng lên, mắt mờ dần, nhìn loại máu A Rh+. Còn gì nữa? Anh chết đi, thế là hết. Anh Uy, anh chết đi để lại cho em chừng ấy sao? Thân xác anh nằm ở lòng đất, cho em cô độc, cho em đang ở biên giới của một tình yêu mờ ảo không có lối đi. Anh xa em rồi, xa không khoảng cách. Em muốn hình hài mình tan biến để hoà mình vào thế giới hư vô.
(Trần thị Uyên Ngọc, Thư gởi người đã chết ) (2)
Đây là tiếng kêu trầm thống mà thân phận của người nữ trong thời chiến chinh  đã phải gánh như định mệnh:
 xư­a tôi có người yêu phi-công
Cho tòi tình nồng
Một sớm mai hồng
Người bay đi mất

 Xưa tôi có người yêu đi biển
Một chiều đ­ưa tiễn
Trên bến sông buồn
Rồi người đi luôn

Xưa tôi có người yêu biệt kích
Đêm mưa rả rích
Chiến-trận lan tràn
Rồi người mất tích

 Xưa tôi có người yêu ngoài Huế
Xưa tôi có người yêu Sài Gòn
Mậ­u Thân thảm sát
Nên người chẳng còn

 Xưa tôi có người yêu Thừa Thiên
Xưa tôi có người yêu Nha Trang
Xuống đường nhiều bận
Giờ thì lang thang

Xưa tôi có người yêu Hà Nội
Xưa tôi có người yêu Sơn Tây
Đạn xé bom cày
Người không toàn thây

Xư­a tôi có ngư­ời yêu tập-kết
Bỏ nhà mất tăm
Gần hai mươi năm
Bây giờ sống chết ?

ưa tôi có người  yêu di cư­
Xưa tôi có nguời yêu hồi-chánh
Tay cụt chân què
Chiến tranh thần thánh

Giờ tôi có người yêu là ai  ?
Mai tôi có người yêu là ai ?
Tôi chẳng là tôi
làm gì có ngày mai ?

Tôi chẳng yêu tôi
làm gì có yêu ai !
Một nụ hoa nhài
Trên mồ tương lai !

Saìgon 1971
(Hoàng Hương Trang – Một nụ hoa nhài ) (3)
Nỗi đau ấy làm sao mà dứt được, hở. Vết thương ấy làm sao mà được vá lành hở. Như cảnh một đám vợ lính đòi trả lại  chồng họ. Làm sao mà không thể viết lại. Làm sao mà không ghi lại. Dù mỗi lần đọc lại là mỗi lần tim tôi phải nhói:
…..
 Mới đến cửa văn phòng, ba bốn người đàn bà đã chạy tới ôm chân tôi, khóc lóc thảm thê: “Thiếu úy ơi…”  Tôi nghe chừng cả một khối âm thanh cào xé, khóc lóc, than van… Tôi đứng ngẩn người. “Thiếu úy ơi, Thiếu úy ơi, chồng em ảnh bỏ em đi…”  Tôi hoảng hốt. Mấy cánh tay có dịp vồ chụp lấy tôi như muốn bắt đền. Tôi la lớn: “Tôi biết mấy chị đau khổ lắm! Nhưng đánh nhau thì thế nào cũng có kẻ ở người đi.”
Tiếng khóc bấy giờ vụt bùng lên, dữ dội hơn:  “Chồng tôi chết rồi, bỏ một vợ bốn con và một mẹ già. Người ta bỏ chồng tôi nằm đó… Người ta về cúng gà cúng vịt ăn mừng…”  Tôi la to: “Mấy anh ấy chết vì tổ quốc, chánh phủ nhớ ơn, dân tộc nhớ ơn…”  Tôi vừa la, vừa chạy vào phòng riêng đóng cửa lại. Tôi ngồi trên ghế, thở hổn hển. Cái bàn đó, của anh Chấn. Cái rương đó, của thằng Bé. “Bé ơi, vợ mày lên thăm đó! Tao rầu thúi ruột nè.” Tôi lại ra mở cửa, ngoắc một thằng lính lại, nói nhỏ: “Mày ra kêu vợ thằng Bé vào đây.” Một lát, người đàn bà bồng đứa con bụ bẫm vào. Tôi bình tĩnh nói: “Chị Bé à, tôi nhân danh là sĩ quan còn sống sót, cũng bị thương trong trận vừa rồi, xin chia buồn cùng chị.  Bé can đảm lắm.  Anh giết mấy thằng rồi mới chết.  Đây là cái rương của anh, chị có thể đem về…”
Lập tức, chị ta bỏ đứa con xuống đất, chạy ào đến rương khóc ngất. Chị đập đầu vào rương vừa kêu:  “Anh Bé ơi, anh Bé ơi…”  Thằng con thấy mẹ nó khóc, cũng khóc thét lên.  Ở bên ngoài, mấy người đàn bà còn lại, bắt đầu chạy vào phòng. Tôi hốt hoảng mở cửa sau chạy ra ngoài…
Trần Hoài Thư – Những người ở lại (4)
Cuối cùng,  rồi cuộc đau nào cũng đã lắng,  tiếng khóc nào cũng nguôi ngoi. Để rồi nó được thế vào bằng những giọt lệ thầm trước di ảnh người đã khuất:.

Related%20image
Mẹ đốt nhang và khấn thật nhỏ
Gọi tên Ba tên anh và bé thật buồn
….

Mẹ quì xuống và đêm thật cao
Ba không về anh không về và bé không buồn lại
Mẹ dâng cơm và khấn thật nhỏ
Mẹ đốt nhang và khấn thật buồn
Ba trên bàn cùng anh và bé
Vẫn thản nhiên như người chết không hồn.

1969
(Hùynh Hữu Võ : – Ngày giỗ ở Việt Nam)
Trên đây chúng tôi chỉ trích những đọan liên quan đến tiếng khóc của người phụ nữ trong thời chinh chiến để chứng tỏ về tính chất nhân bản của giòng văn chương miền Nam trong thời chiến tranh.
Về phương diện vật lý, tiếng khóc, làm rung bần bật đôi vai mềm, làm môi vị mặn, làm đôi mắt sưng vù. Nhưng về phương diện tinh thần,  những giọt nước mắt chính là những giọt nước cứu rổi. Con tim bị đau, bị cứa, đôi bàn tay không còn ôm lấy một  người mình yêu,  da thịt kia cũng không còn được gần gũi lại mùi hương , thì tiếng khóc phải bật ra, phải ào tuôn, phải làm đá phải mòn, phải khóc để mà chia sẻ. Đó là phương thuốc cứu rổi mầu nhiệm.
Và đó có lẽ là lý do thi ca thời chiến miền Nam lai láng những tiếng khóc….
Có phải vậy không ?
Trần Hoài Thư


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 14/Nov/2019 lúc 9:30am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23850
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/Nov/2019 lúc 9:40am

BẢN TÌNH CA CỦA MỘT NGƯỜI TỊ NẠN

benhai1-large
Hai năm sau ngày đất nước chia đôi, từ miền Bắc hoang tàn, tôi lặn lội tới vùng giới tuyến mong vượt thoát vào miền Nam tự do.
Lần tới gần sông Bến Hải, đêm tối âm u bờ Bắc, tôi đã nhìn thấy cầu Hiền Lương vì bờ Nam rực sáng ánh đèn. Trên cột cờ cao vút, bóng cờ vàng sọc đỏ lung linh. Giọng ca ngọt ngào từ loa treo vọng về miền Bắc:
"...sông Bến Hải là nơi chia cắt đôi đường...
hỡi ai... lạc lối... mau quay... về đây ...!"

Tôi đứng đó chơi vơi định hướng, đăm đăm nhìn cờ vàng bên kia bờ sông lịch sử, uống từng lời ca trong cơn đói khát, rồi bừng tỉnh, lao lên phía trước. Từ đâu đó, mấy cái nón cối xông ra. Tôi bị trói hai tay bằng sợi thừng oan nghiệt, theo nón cối về lại địa ngục trần gian.
Mười chín tuổi, lao tù đầy đọa, tôi đã mất mẹ, mất cha, bị qui là tư sản, xa vắng họ hàng vì chia rẽ giai cấp. Tôi mất Hà nội là nơi tôi sinh ra làm người Việt Nam. Không có tang cha khi cha gục xuống, không có tang mẹ khi mẹ xuôi tay, không hy vọng có đám cưới đời mình.
Bạo quyền cộng sản Việt Nam bắn giết hàng trăm ngàn người, bị qui là địa chủ. Nhiều trăm ngàn người bị tập trung lên rừng, để lại vợ con không nhà không đất. Thời gian làm ngưng nước mắt, oán than cũng vô ích, chỉ còn tiếng kêu vang vọng khắp miền: "Chúng tôi muốn sống!"
Hai mươi lăm năm sau (1981) tôi vượt biển, thoát tới Hong Kong. Bốn mươi tư năm từ lúc chào đời, tôi thành người tị nạn cộng sản.
Ngày tiếp kiến phái đoàn Mỹ xin đi định cư, một ông Mỹ dáng nghiêm trang, nghe tôi trả lời, đột nhiên hỏi "Anh có biết nói tiếng Pháp?". Tôi nhìn ông, giọng run run: "L'exilé partout est seul!" (Kẻ lưu đày nơi đâu cũng cô độc).

benhai2-large-content
Ông gật đầu hiểu cả tiếng Tây, hiểu lòng tôi đau xót. Xưa tôi học trường Albert Sarraut, Hà Nội.
Đứng bên rào kẽm gai, sau dãy nhà tôn của trại tị nạn Hong Kong, một mình, suy tư thân phận. Tôi sẽ đến nơi xứ lạ là nước Mỹ xa xôi, tìm quê hương mới, chỉ trở về khi đất nước Việt Nam tự do, không còn cộng sản.
Đứa bé chừng 5, 6 tuổi, tung trái banh, toan bắt thì trượt chân trên sân trại. Tôi đã kịp giang tay đỡ cháu khỏi ngã thì người đàn bà chạy tới, đứng im, lặng lẽ nhìn tôi.
Tiếng trẻ thơ kêu "Má", tôi nhìn nàng... Sự thầm lặng và ánh mắt trao nhau là chân tình của người tị nạn Việt Nam nhẫn nhục, khổ đau, nói được nhiều hơn lời nói. Rồi những ngày sau đó, tâm sự, nỗi niềm, tôi đã cùng Mai kết thành bạn đường và bạn đời, đi Mỹ định cư.
Chồng Mai là người lính Cộng Hòa hiên ngang dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ, quyết bảo vệ quê hương. Anh tử trận, mang thân đền nợ nước, để lại con thơ. Mai trở thành góa phụ, miền quê Đà Nẵng, cuốc đất trồng khoai, nuôi mẹ già con dại. Sau năm 1975, mất nước. Mẹ già khuất núi, con chậm lớn vì cháo loãng, bo bo thay cho sữa mẹ và cơm.
Một đêm mưa bão, Mai bị tên Việt cộng trưởng công an xã cưỡng hiếp, du kích xã canh gác quanh nhà. Mai phải sống vì con mới lên ba, mất cha còn mẹ. Người dân Đà Nẵng ra đi, đã mang theo vợ con người lính chiến tới Hong Kong năm 1981. Đứa con lên sáu không biết tiếng gọi "Ba"!
Tôi mang nặng tủi nhục, đọa đày triền miên từ đất Bắc đi tìm tự do. Mai gánh những thương đau, mất mát, cơ cực của miền Nam, bồng con đi tị nạn. Lấy dĩ vãng chia xẻ cùng nhau, chúng tôi sắp xếp lại hành trang cho bớt gánh đoạn trường, đi Mỹ.
Con đã có Má, có Ba. Má bồng con, Ba xách túi. Con có đồ chơi, cầm chiếc máy bay vẫy chào các chú, hai người lính chiến Quảng Nam đưa tiễn. Tôi nhìn con tự nhủ: "Ba sẽ dạy con tiếng "Cha", chỉ cho con hình người lính Cộng Hòa, ở bất cứ nơi đâu đều là Cha con đó!".
Mai đã nhất định không đi kinh tế mới. Tôi đã trốn công trường, vào tù chịu đựng, bây giờ dù bỏ lại quê hương nhưng còn Tổ quốc Việt Nam. Bốn ngàn năm lịch sử, thăng trầm, người dân nước Việt sẽ không trở thành Cộng sản.
Quê hương mới của chúng tôi là vùng đông bắc nước Mỹ. Căn apartment hai phòng, hai chiếc giường nệm, một chiếc bàn con, đã cho tôi ấn tượng đẹp những ngày đầu tới Mỹ.
Lúc tôi khôn lớn, không có chiếc giường làm nơi cư trú, vì đã thành vô sản. Rồi tôi hiểu, vô sản cũng vẫn còn giai cấp. Phải lên rừng, một miếng nylon bọc vài manh vải gọi là quần áo, thì mới thành "người vô sản chân chính"!
Nhìn con ngon giấc ngủ thần tiên, vợ chồng tôi thao thức, không phải lo âu mà thì thầm những dự định tương lai. 18 tháng welfare trợ cấp, đủ thời gian cho mình đi học tiếng Anh. Đọc dòng thư hội M&RS nhắc trả nửa tiền nợ vé máy bay sang Mỹ "Xin bạn trả dần 12 tháng, giúp cho người sau bạn định cư", theo ý Mai, ý nghĩ nhân hậu của người đàn bà làm mẹ, "mình trả ngay từ tháng thứ hai".
Việc đơn giản là tại sao người ta không khấu trừ vào trợ cấp, lại đòi riêng. Mai chỉ nhẹ nhàng "nợ thì mình trả, ở hiền sẽ gặp lành", nhưng tôi lại suy nghĩ mung lung. Đây là bước đầu thử thách, cái thước đo lòng người tị nạn. 72 đô tiền nợ một tháng, có thể không trả và quên đi. Một lần để lòng vẩn đục sẽ trở thành bất lương. Cha mẹ bất lương con cái sẽ chẳng nên người.
Một sáng mùa Xuân, "bé Nam" gọi Má, gọi Ba, chỉ bông hoa mầu vàng mầu đỏ đung đưa bên vườn hàng xóm, kêu lên "hoa tu-líp". Bà già người Mỹ đứng trên thềm, giơ tay vẫy vẫy. Mai đã nói "Thank you", ngọt ngào, mạnh dạn, tay chỉ trỏ, diễn tả được những gì muốn nói.
Bà Jenny hiểu chút ít về "chiến tranh Việt Nam" qua tivi, sách báo hồi bà còn dạy học. Bà đã thấy "Boat people", những thuyền nhân tị nạn, nhưng lần đầu bà thấy một gia đình người Việt đến vùng này, lại là hàng xóm nên bà có cảm tình. Đây là ứng nghiệm "Ở hiền gặp lành" hay là sự may mắn cho gia đình tôi? Nói thế nào thì cũng đúng vì vài nơi trên đất Mỹ vẫn còn kỳ thị chủng tộc.
Thời gian trôi đi nhưng hai tiếng "lần đầu" lặp lại: lần đầu ra nhà Bank, lần đầu tới Post Office. Có những lần đầu chưa biết, nhưng có hai lần đầu quan trọng: "bé Nam" đi học, chúng tôi xin được việc làm. Bà Jenny cùng chúng tôi đưa "cháu" tới trường, bà cho chiếc mũ baseball và đôi giầy sneaker trắng muốt, khen "Cháu cute." Vợ chồng nhìn nhau, không hiểu, lát nữa về tra tự điển.
"Từ nay chúng mình có Má, bé Nam có Bà...!" Mai thốt lên khi chúng tôi đồng lòng nhận "Má Nuôi". Bà Jenny thành "Má Jen". Chuyện xảy ra vào ngày Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving), 17 năm về trước.
Sống một mình trong căn nhà rộng rãi, bà Jenny vốn là cô giáo nên rất yêu trẻ. Bà mời "cả nhà" sang ăn turkey.
Bé Nam lên bảy, đi học, hiểu nhiều về Thanksgiving hơn Má và Ba. Ăn uống vui vẻ, vợ chồng tôi nói chuyện với bà, có lúc ngồi im lặng hơi lâu vì vốn tiếng Anh ít ỏi. Bỗng bé Nam kêu "Má...!", bà Jenny toan đứng dậy thì Mai buột miệng nói: "Má... let me do it!".
Nghe tiếng "Má" lỡ lời của Mai, tiếng Việt, vừa lạ, vừa thích, bà bâng khuâng giây lát.
Mai kể chuyện xưa, miền Đà Nẵng cuốc đất trồng khoai, nuôi mẹ già con dại... Tôi góp phần thông dịch, bớt thêm: Người Việt Nam coi việc chăm sóc cha mẹ già là bổn phận, dù chịu nhiều cơ cực cũng cố gắng đền ơn sinh thành, dưỡng dục.
Bà suy nghĩ mấy ngày, bỏ dự định chuyển về Florida, tỏ ý muốn nhận gia đình tôi làm Con, làm Cháu.
Chúng tôi dọn nhà sang ở chung với "Má Jen", điều này ít thấy trong các gia đình người Mỹ có con trưởng thành. Các con nhờ Má, nói được tiếng Anh. Cháu quấn quít bên Bà, xem chú chuột Mickey. Mùa đông buốt giá nhưng trong nhà nồng ấm tình người. Má vui tươi hơn trước, thích ăn bánh xèo và phở Việt Nam.
Mai vẫn cặm cụi hàng ngày, làm những chiếc ví tay của phụ nữ. Mấy người bạn Việt Nam đặt cho Mai biệt danh "Bà đầm hãng bóp" vì "giỏi việc, lại biết tiếng Anh," nhiệt tình giúp đỡ bà con.
Cũng như Má Jen, Mai không thích sa hoa, theo Má vào tiệm sách trong Mall nhiều hơn vào tiệm bán phấn son, make up. Việc từ thiện đã thành sở thích, Mai gửi 200 đôla, mỗi lần, giúp đồng bào bão lụt miền Trung, miền Bắc, vì lương tâm, đạo lý. Kẻ cầm quyền ăn chặn của dân, như đám cướp, có bao giờ được mãn kiếp yên thân. Đức Phật từ bi dạy Mai lòng độ lượng.
Tôi làm technician, ngành điện tử. Nhớ xưa, học sửa radio bị nghi làm gián điệp. Bộ công an Hà nội lấy công nông lãnh đạo, coi "điện tử" là CIA. Mười bẩy năm trong ngành điện tử, nay chắc tôi thành CIA ngoại hạng!
Bây giờ, ngồi trước máy computer, nối vào mạng Net, đọc Website tiếng Anh, tiếng Việt, thông tin thế giới bằng email, việc hãng, việc nhà, công tư hòa vào nhau từng ngày làm việc, tôi đã có cuộc sống an hòa, hạnh phúc, một gia đình thật sự yêu thương.
"Ngày mai, chúng mình đi New York thăm con".
Mai nắm tay tôi, hân hoan về ngày mai.
Ngày mai là tương lai của bé Nam ngày trước, giờ là một thanh niên cao 6 feet, đầy nghị lực bước vào đời. Xong đại học, Nam Nguyen trở thành chuyên viên tài chánh, làm việc trong văn phòng, tầng thứ 32 của một nhà "chọc trời" New York.
Ngày con ra trường là ngày vui trọn vẹn, ngày con nhận việc mới là niềm sung sướng của Má, của Ba, của Gia Đình tị nạn, mong ước từng ngày cho Con thành Người.*
Lâu lắm rồi, tôi mới có một đêm không ngủ để nhìn lại đời mình. Tháng chín, trời sang Thu se lạnh vùng đông bắc nước Mỹ. Tôi đã sống nơi đây 18 năm tị nạn, không thất vọng mà tin tưởng vào tương lai.
Người cộng sản muốn làm hung thần cai quản địa cầu, dựng lên Địa Ngục. Dựng được vài phần thì sụp đổ, sót lại từng mảnh vỡ điêu tàn. Hung thần đã chết.
Thoát kiếp lưu đày làm người tự do, tôi kính cẩn tri ân người phá ngục: người lính Cộng Hòa, giương cao lá cờ vàng ba sọc đỏ, chính nghĩa Quốc Gia. Việt Nam, từ tinh thần đến lãnh thổ.
Người lính chiến Cộng Hòa hiên ngang đi làm Lịch Sử. Không có Anh, tôi đã không có niềm tin để sống sót, đã thành nấm mộ hoang trên rừng xơ xác. 21 năm kiên cường giữ vững miền Nam, Anh đối mặt hung thần, cứu sống thêm hàng triệu người vô tội.
Người lính của miền Nam tự do tử trận. Anh để lại người Vợ hiền, cuốc đất trồng khoai, chúng vẫn không tha, chà đạp nhân phẩm. Tôi lê bước chân vô định, gặp Mai làm Bạn Đường, nhìn mắt con thơ thấy hình người lính chiến.
Anh đã để lại Con Thơ cho tôi được làm "Ba" mang tròn trách nhiệm. Con đã trưởng thành, mai này sẽ góp phần xây dựng lại Quê Hương. Tôi muốn níu lại thời gian để được thương vợ, thương con nhiều hơn nữa.
Đã quá nửa đêm về sáng. Nhìn Mai ngon giấc ngủ thần tiên như "bé Nam" ngày đầu tới Mỹ, tôi ngồi im lặng bên bàn viết, đợi chờ sớm mai để được nhìn bình minh bừng sáng Phương Đông, được nhìn Mai thức dậy, mỉm cười, âu yếm nhìn chồng.
Cuộc sống an vui. Ngót 20 năm rồi, không biết khóc, đêm nay tôi nhỏ từng dòng lệ, xúc động, bùi ngùi.
Tôi đang sống và đang viết Bài Tình Ca của Một Người Tị Nạn.

NGUYỄN VĂN LUẬN
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23850
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Nov/2019 lúc 8:23am

image
image


image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 21/Nov/2019 lúc 10:22am

Một thoáng Pleiku


Image%20result%20for%20pleiku%20vietnam"

Thật lòng, tôi không có nhiều gắn bó với Pleiku. Và dường như cái phố núi buồn hiu ấy đã cho tôi nhiều nỗi buồn hơn là niềm vui. Vậy mà khi đã xa - thực sự vĩnh viễn xa - Pleiku rồi, tôi lại thấy da diết nhớ, trăn trở với cái cảm giác mình có tội với Pleiku, và mãi mãi sẽ còn nợ phố núi này một lời xin lỗi.


 
      Tôi chưa (và có thể không) có dịp về thăm lại Pleiku, nên cái xa cách ấy lại càng thấy mịt mùng. Cái phố núi vốn đã bé nhỏ, như một ông nhà thơ đã ví von “đi dăm phút trở về chốn cũ” ấy, giờ với tôi dường như chỉ còn là chút sương khói trong lòng. Điều kỳ lạ là chút khói sương mờ ảo ấy cứ luôn lãng đãng trong ký ức và trái tim già cỗi của tôi, như những mảng mù sương từng bao phủ, giăng mắc trên phố núi Pleiku ngày trước.

Nếu không có cuộc chiến Kontum, có lẽ sẽ không có dấu chân nào của tôi trên bùn lầy đất đỏ Pleiku. Dẫu là dấu chân của người lính chiến. Chợt đến chợt đi, hay có khi nằm lại vĩnh viễn trên núi rừng heo hút vô danh. Thống thuộc một đại đơn vị có bản doanh tại Ban Mê Thuột, nhưng đơn vị tôi có hậu cứ tại Sông Mao (Phan Thiết) và đảm trách một vùng hành quân khá rộng lớn dọc theo miền duyên hải. Đúng ngày cuối năm âm lịch 1972, khi cả đơn vị đang chuẩn bị cho quân sĩ ăn Tết tại doanh trại Lý Thường Kiệt - Sông Mao, chúng tôi nhận lệnh di chuyển khẩn cấp lên An Khê, thay thế cho một đơn vị của Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ rút quân về nước, và tăng cường cho mặt trận Bình Định, khi một số đơn vị của Sư Đoàn 22BB hoạt động ở đây, vừa di chuyển lên mặt trận Dakto, Tân Cảnh.


 
      Loanh quanh ở An Khê chưa được hai tháng, cùng với Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh tăng phái, đánh vài trận, giải tỏa một số căn cứ của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn nằm dọc trên đèo An Khê bị Cộng quân tạo nhiều vòng đai vây hãm, đơn vị chúng tôi được lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Pleiku để được không vận lên Kontum. Bộ Tư Lệnh HQ Sư Đoàn 22BB vừa bị tràn ngập tại căn cứ Tân Cảnh và vị Tư lệnh đã ở lại để vùi thây nơi chiến địa cùng với quân sĩ dưới quyền. Địch quân đang trên đà tràn xuống trong ý đồ chiếm lấy Kontum.

Tôi đến Pleiku như vậy đó. Thời gian chưa đủ nhìn một dãy phố và núi đồi chạy dọc theo con đường dẫn ra phi trường Cù Hanh. Tôi có cảm giác chưa đến thì đã rời khỏi Pleiku. Hơn tám tháng sống chết với chiến trường và giữ vững Kontum, chúng tôi được kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân số. Đây là phần thưởng đặc biệt cho một đơn vị tạo nên kỳ tích trong trận chiến đẩm máu để có một “Kontum Kiêu hùng”. Một tháng đóng quân trên Đồi Đức Mẹ. Lại là một tháng “gió lạnh mưa mùa”. Cả núi đồi và thành phố Pleiku mờ mịt và lầy lội trong mưa. Hình ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa mới hy sinh trên chiến trường Kontum lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ như những nhát chém còn rỉ máu trong lòng. Muốn tạm quên chốc lác đã là một điều không dễ. Bọn tôi cần được say. Mỗi ngày chỉ ra phố để uống rượu. Thỉnh thoảng đi nhận đám lính bị Quân cảnh của ông đại úy Hiển bắt. Khi đó tôi đâu có biết ông đồn trưởng Quân cảnh này là nhà thơ Hoàng Khởi Phong, cũng chịu chơi, nhậu nhẹt, lãng mạn (và vi phạm quân phong quân kỷ?) như ai.

pleiku-2

Pleiku có nhiều quán cà phê và nhiều khuôn mặt mỹ nhân, nhưng chúng tôi chỉ chọn các quán rượu. Dường như cà phê không đủ ấm, không đủ để quên, và cái say của rượu cũng chóng phôi pha hơn cái say đàn bà, con gái. Hơn nữa chỉ được có một tháng, mà trước mặt là những trận chiến đẫm máu đang chờ. Chẳng ai muốn vương vấn nợ tình.

Riêng tôi còn có một anh bạn, Liên Đoàn Trưởng BĐQ trú đóng ở Biển Hồ. Vợ và hai đứa con chết thảm tại Quảng Đức vì xe bị VC giật mìn, nên bây giờ anh chỉ làm người tình với rượu. Tôi bị anh kéo theo cái vòng “tục lụy” này.

Lúc trước anh là một cấp chỉ huy nổi tiếng trong BĐQ, thời gian binh chủng này mới thành lập. Nhưng sau đó do ảnh hưởng từ các phe nhóm chính trị, anh đã bị bắt đi tù một thời gian, ngưng thăng cấp và sau đó chuyển đến đơn vị tôi, với cái lệnh “không được giữ chức vụ chỉ huy nào.” Biết anh là một niên trưởng và từng dạn dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ an ủi anh. Thời gian sau anh bỗng dưng được “vô tội”, trở lại binh chủng, thăng cấp và chỉ huy một Liên Đoàn BĐQ tại QK2.

Do cái ân tình đó, nên những ngày không hành quân, anh đến kéo tôi ra quán rượu. Tôi chỉ nhìn Pleiku qua những cơn say. Vì vậy Pleiku với tôi càng nhỏ hẹp hơn, chỉ là không gian của một quán rượu trong khu Chợ Mới. Một tháng, tôi chưa hề biết tên một con đường, thì làm sao biết được tên của một mỹ nhân, để “may mà có em đời con dễ thương!”

Tôi rời khỏi Pleiku một ngày sau khi thành phố Ban Mê Thuột vừa lọt vào tay giặc. Sáng ngày 13/3/75, theo những toán quân đầu tiên của đơn vị được trực thăng vận từ Hàm Rồng đổ xuống Phước An, quận lỵ duy nhất còn lại của tỉnh Darlac, nằm cách BMT khoảng 30 cây số trên QL 21 về hướng Nha Trang. Khi một nửa đơn vị vừa xuống Phước An, thì Pleiku có lệnh di tản. Một nửa quân số còn lại phải di chuyển theo đoàn quân di tản trên Tỉnh Lộ 7B. Một cuộc triệt thoái sai lầm, tệ hại và bi thảm nhất trong chiến tranh. Một nửa đơn vị của tôi gần như bị xóa sổ. Hai người bạn thân của tôi đều là tiểu đoàn trưởng đã tự sát, nhiều đồng đội đã chết trong đớn đau tức tưởi.

Hình ảnh cuối cùng của Pleiku trong mắt tôi là dãy núi Hàm Rồng, nhưng trong trí óc tôi chỉ còn đọng lại những cái chết bi tráng của đám bạn bè đồng đội cùng với những người Pleiku mà tôi chưa kịp biết mặt, làm quen. Và trong lòng tôi, dường như Pleiku chỉ có thế. Không phải là những con đường, góc phố, là rạp ciné Diệp Kính, Thanh Bình, hội quán Phượng Hoàng, quán cà phê Dinh Điền, cà phê Văn, cà phê Lính, Bắc Hương, Thiên Lý, và lại càng xa lạ với những ngôi trường mang tên Pleime, Pleiku, Phạm Hồng Thái, Minh Đức, Bồ Đề… mà những cô học trò ngày ấy bây giờ đang mang theo cái hồn Phố Núi đi khắp muôn phương. (Giờ nghĩ lại, tôi thấy mình khờ khạo biết bao nhiêu!)

Ngày ấy, tôi là thằng lính bộ binh, một thứ lính “hạng bét”, chỉ có khốn khổ gian truân và chết chóc. Tháng năm lặn lội trong núi rừng, chỉ còn biết có súng đạn và mục tiêu trước mặt. Được chút thời gian không đủ cho một cơn say, thì đâu còn biết gì tới thơ với thẩn (mặc dù tôi vốn mê thơ - nhưng rất dốt về thơ). Ngoài bài hát nổi danh được phổ từ thơ Vũ Hữu Định, tôi chưa hề được đọc thơ các thi nhân nổi tiếng một thời của Pleiku hay viết về Pleiku. Sau này đọc Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Mạnh Trinh, Kim Tuấn, Nguyễn Xuân Thiệp, Võ Ý, Cao Thoại Châu, Hoàng Khời Phong…, tôi thấy hối tiếc quá chừng. Pleiku đẹp quá, dễ thương, thơ mộng quá.

Nguyễn Bắc Sơn, nhà thơ một thời hành quân đánh giặc ở Mật khu Lê Hồng Phong, Sông Mao, nơi đơn vị tôi trú đóng, từng viết những câu thơ hào sảng:

Ngày mai đánh giặc may còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi,
Uống rượu tiêu sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui
….
cũng từng bị “đày” lên Phố Núi, nhưng giờ thì đắm say ánh mắt của một nàng thiếu nữ Pleiku:

Ðứng trên núi thấy hàng đèn thị trấn
Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Ðã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
Nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó
….

Vậy mà hơn một tháng ở Pleiku tôi đã ngu ngơ, lãng phí. Không nhìn ngắm, mơ mộng với Pleiku mà chỉ biết say với rượu. “Ta say, trời đất cũng say.” Tôi đã bắt Pleiku say với tôi, mà đáng lý ra tôi phải say đắm với Pleiku mới phải. Đôi khi tôi cũng tự gạt để an ủi mình “Có thể chính mấy ông nhà thơ này đã làm cho Phố Núi đẹp hơn, thơ mộng và lãng mạn hơn những gì nó có?” Nhưng có lẽ tôi đã nhầm, sau này được dịp làm quen với những người Phố Núi, tôi chợt nhận ra rằng Pleiku đâu chỉ có những ông thi sĩ tài danh ấy, mà dường như cứ mỗi người Pleiku đã là một nhà thơ, hay ít nhất cũng là một bài thơ chưa được viết thành lời. Dẫu gì, tôi cũng có tội với Pleiku.

Ba năm hành quân ở Kontum và Pleiku, nhiều đồng đội, bạn bè tôi đã nằm lại nơi này. Võ Anh Tài, Đặng Trung Đức, Trần Công Lâm, Đỗ Bê ... những tiểu đoàn trưởng nổi danh, những người anh, người bạn thân thiết như tình huynh đệ cùng một đơn vị từ ngày tôi vừa mới ra trường, đã vĩnh viễn ở lại với Kontum, với Pleiku. Khi tất cả - có lẽ cũng như tôi - chưa biết rõ mặt Pleiku cùng những vần thơ tuyệt vời ca tụng phố núi thơ mộng một thời.

Tôi vẫn mãi đau đớn khi hình dung cuôc di tản bi thảm trên Tỉnh Lộ 7B vào những ngày giữa tháng 3. Cùng với những đổng đội của tôi, còn có biết bao nhiêu người Pleiku đã không đi hết đoạn đường kinh hoàng đẫm máu ấy. Trong đó chắc chắn có rất nhiều “em Pleiku má đỏ môi hồng” của nhà thơ Vũ Hữu Định, những bông hoa dại đã làm cho những thằng lính “bị đày” lên phố núi thấy đời dễ thương hơn. Thiếu những bông hoa ấy, Phố Núi sẽ không còn đẹp, không còn lãng mạn, để cho bao thi nhân cảm xúc, để cho nhà thơ Không Quân Võ Ý vẫn mãi còn tiếc nhớ khôn nguôi một thời “Xưa Trên Đó”:

Xưa trên đó sương nhòa hơi thở đượm
dốc cũng vừa ta bước xuống vô biên
mê cho lắm cho tay dài với mộng
mặt trời lên chiếu rạng tới ưu phiền

Một dạo bay qua nhìn qua trên đó
đồi như vương cây như vấn chân nàng
phố cũng xưa và tim thì đau nhói
quạt nồng đâu qua đó để cơ hàn…”
Chúng tôi ra đi, cũng (rất vô tình) bỏ lại các cô gái Thượng. Những cô gái chân chất hồn nhiên mà đẹp đẽ như những cánh lan rừng. Họ mới thực sự là những người chủ Phố Núi, nên không đành bỏ núi đồi, buôn bản. Và chắc không hề biết đã từng là niềm vui, là nỗi khát khao của những thằng lính trẻ xa nhà, khi rủ nhau ẩn nấp sau những gốc cây, bờ đá để nhìn (trộm) các cô vô tư khoe mình bên các dòng suối biếc. Tuyệt vời!

Thuở ra đi, lòng dạ rối bời, chưa kịp nhận ra những điều gắn bó, giờ hồi tưởng, trong lòng bỗng chợt dấy lên bao nỗi bâng khuâng.

Thì ra, tôi đã mắc nợ phố núi quá nhiều. Nợ những người đã ở lại với Pleiku trong cơn đổi đời khốn khó, nợ người Pleiku nằm lại đâu đó trên tỉnh lộ 7B kinh hoàng, và nợ cả những người Pleiku ra đi mang theo bóng dáng mờ ảo mù sương và cả cái hồn Phố Núi.

Nợ ân tình thì không thể nào trả cho hết được. Đành viết mấy dòng này xin tạ lỗi Pleiku



Phạm Tín An Ninh



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 21/Nov/2019 lúc 10:23am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 23/Nov/2019 lúc 7:46am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 110 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.484 seconds.