![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Chuyện Linh Tinh | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 110 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | ||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||||
Tại sao không giữ lời hứa với mẹ tôiTôi sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh đầy phong ba bão táp. Cả nhà 6 người mà chỉ có một chiếc xe đạp thay phiên nhau đi, gạo thì chạy ăn từng bữa, anh trai tôi ngày ngày ...![]() Tôi sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh đầy phong ba bão táp. Cả nhà 6 người mà chỉ có một chiếc xe đạp thay phiên nhau đi, gạo thì chạy ăn từng bữa, anh trai tôi ngày ngày cứ 5h sáng phải chạy lên Gò vấp để lấy bánh đậu xanh về đi bỏ cho các tiệm bánh rồi mới về đi học trong suốt 7 năm trời, từ năm học lớp 11 đến hết năm thứ 6 Y khoa. Khó khăn là vậy nhưng tôi vẫn trưởng thành một cách đầy kiêu hãnh. Đôi khi nhìn lại tôi tự hỏi là điều gì đã giúp tôi mạnh mẽ mỗi khi đương đầu với những khó khăn? Và câu trả lời là do trong huyết quản tôi vẫn đang mang một dòng máu nóng trong mình và tôi đã đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ người đã cho tôi dòng máu ấy : một người mà đã không giữ lời hứa với mẹ tôi. Tôi cũng không biết tại sao tôi và người đó chỉ gặp gỡ và tiếp xúc trong có vài chục ngày, chính xác là từ ngày 06/01/1972 đến ngày 25/03/1972, mà tôi lại luôn luôn thương mến, cảm phục, tự hào và luôn lấy người làm tấm gương soi để tôi có đủ nghị lực vượt qua mọi khó khăn. Có lẽ là do cuộc sống của người quá vĩ đại và tôi đã được thừa hưởng một phần của nó. Mặc dù khi ra đi người đã không thực hiện được một lời hứa với mẹ tôi mà cho tới bây giờ tôi vẫn hỏi : “Tại sao?” Charlie, tên nghe quá lạ! “Toàn thể những địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối, tận con đường, tất cả đều bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ...Mùa Hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt… Kinh khiếp hơn Ất Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân, cao hơn bão tố, phá nát hơn hồng thủy. Mùa Hè năm 1972- Mùa Hè máu. Mùa Hè của sự chết và tan vỡ toàn diện. Nếu không có trận chiến mùa Hè năm 1972, thì cũng chẳng ai biết đến Charlie, vì đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum. Charlie, "Cải Cách," hay "C," đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Pô-Kơ và Đường 14, đông-bắc là Tân Cảnh với mười hai cây số đường chim bay, đông-nam là Kontum, thị trấn cực bắc vùng Tây Nguyên.” (Trích trong "Mùa hè đỏ lửa" của Phan Nhật Nam) Charlie bỗng trở thành một địa danh được nhắc nhớ từ sau 4000 quả đạn pháo tới trong một ngày, từ sau người mũ đỏ Nguyễn Đình Bảo nằm lại với Charlie. (Trích lời giới thiệu trong CD Chiến tranh và hòa bình của Nhật Trường Trần Thiện Thanh) Cho đến bây giờ cũng ít người biết rằng tôi chính là “đứa bé thơ” với “tấm khăn sô bơ vơ ” trong bài hát “Người ở lại Charlie” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Và tôi lớn lên cùng với ký ức về một người Cha hào hùng như vậy. Tôi không thần tượng Cha tôi từ một bài hát viết về người, cũng không thần tượng từ một hai trận đánh trong cuộc đời binh nghiệp của người, mà tôi thần tượng Cha mình từ chính cuộc đời của Người. Trải qua biết bao thăng trầm đời binh nghiệp và cuối cùng người đã được giao làm tiểu đoàn trưởng của tiểu đoàn “Song kiếm trấn ải” (biệt danh của tiểu đoàn 11 nhảy dù), một trong những tiểu đoàn được xem là thiện chiến nhất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa thời bấy giờ. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc Cha tôi là một người khát máu hung tàn, mà ngược lại hoàn toàn, mọi người đều nhớ về hình ảnh Cha tôi như là một võ sĩ đạo đúng nghĩa : giỏi võ, dũng cảm và cao thượng. Thời bấy giờ có mấy ai dám đánh một sĩ quan của Mỹ, vậy mà Cha tôi đã làm điều đó khi người sĩ quan đó dám làm nhục một người lính Việt Nam (chuyện này tôi được nghe bác ruột tôi kể lại). Có tiểu đoàn nào trong quân đội mà luôn gọi Tiểu đoàn trưởng bằng tên thân mật “Anh Năm”?, nhất là trong binh chủng Nhảy dù, việc phân chia cấp bậc luôn được tôn trọng và đặt lên hàng đầu. Vậy mà trong tiểu đoàn 11 Nhảy dù, tất cả mọi người từ lính đến sĩ quan chẳng ai gọi Cha tôi là Trung tá cả, mà luôn gọi là Anh Năm, và “Anh Năm” thường hay nói với mọi người trong tiểu đoàn rằng : “Tụi mày thì chẳng biết mẹ gì, nhưng tất cả tụi mày tao đều coi là em tao hết” “Anh Năm, Ngoài đời Anh sống hào sảng, phóng khoáng và thật "giang hồ" với bằng hữu anh em, còn trong quân ngũ, Anh như một cây tùng ngạo nghễ giữa bão táp phong ba, Anh không nịnh cấp trên đè cấp dưới, Anh chia xẻ vinh quang buồn thảm với sĩ quan và binh sĩ thuộc cấp. Anh sống hùng và đẹp như thế mà sao lúc ra đi lại quá phũ phàng!? Tôi về lại vườn Tao Đàn, vẫn những hoa nắng tròn tròn xuyên qua khe lá, lấp loáng trên bộ đồ hoa ngụy trang theo mỗi bước chân. Cây vẫn xanh, chim vẫn hót, ông lão làm vườn vẫn lom khom cầm kéo tỉa những chùm hoa loa kèn, những cụm hoa móng rồng và những bụi hồng đầy mầu sắc. Bên gốc cây cạnh căn lều chỉ huy của Anh hồi tháng trước khi còn đóng quân ở đây, tôi thấy có bó hồng nhung đỏ điểm vài cánh hoa loa kèn trắng. Chống đôi nạng gỗ xuống xe, tiếng gõ khô cứng của đôi nạng trên mặt đường khiến ông lão ngẩng đầu và nhận ra tôi. Xiết chặt tay ông cụ, trong ánh mắt già nua chùng xuống nỗi tiếc thương, chòm râu bạc lưa thưa phất phơ trước gió. Ông cụ đọc báo, nghe đài phát thanh nên biết Anh đã ra đi, nên sáng nào cũng để một bó hoa tưởng nhớ và tiễn đưa Anh. Cụ mời tôi điếu thuốc Quân Tiếp Vụ, rồi ngồi xuống cạnh gốc cây, tay vuốt nhẹ trên những cánh hồng, sợi khói mỏng manh của điếu thuốc nhà binh quện trong tiếng nói: "- Thuốc lá Ông Quan Năm cho, tôi vẫn còn đủ dùng cho đến cuối năm. Mấy chục năm nay tôi mới gặp một ông quan nói chuyện thân mật và tốt bụng với những người dân như tôi. Người tốt mà sao Ông Trời bắt đi sớm như vậy!? " (Trích trong "Máu lửa Charlie" của Đoàn Phương Hải) Cha tôi đã sống như thế nào mà những người ít ỏi còn sống sót trở về sau trận chiến tại đồi Charlie đều nói là họ thật hối tiếc khi không được nằm xuống cùng Cha tôi ở đó. “Tô Phạm Liệu cảm thấy lẻ loi ở cái đại hội y sĩ có nhiều những người “mặc quần mới áo đẹp” và “ăn to nói lớn”, thích “nhảy đầm” và “xếp hàng để lên hát”... Trong cơn say, anh nói là phải chi trước kia, mười mấy năm trước kia, anh được “ở lại Charlie” với Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, với các bạn nhảy dù thì “sướng hơn nhiều.” (Trích trong "Tô Phạm Liệu : người trở lại Charlie" của Phạm Anh Dũng) Viên sĩ quan cố vấn Mỹ Duffy cho tới tận bây giờ vẫn còn luôn mang trong người những hoài niệm về Cha tôi và trận chiến tại Charlie. Mỗi lần tham gia các cuộc gặp gỡ của hội cựu chiến binh Việt Nam (trong đó có một số hiện đang là tướng lãnh cao cấp trong quân đội Mỹ) ông ta đều hỏi mọi người “Tụi mày có từng tham gia trận Charlie không, tụi mày có ai từng chiến đấu cạnh Colonel Bao (Trung tá Bảo) chưa? Thế thì tụi mày còn xoàng lắm. Và hàng năm cứ mỗi lần sinh nhật của mình, ông ta đều đặt một ổ bánh kem làm hình một ngọn đồi và ghi chữ Charlie lên đó. (Chuyện này do Chú Đoàn Phương Hải khi về Việt Nam năm 2011 thuật lại cho tôi nghe) Cha tôi đã sống như thế nào để một người Mỹ phải luôn khắc trong tâm khảm những hoài niệm như vậy? Tôi chỉ có thể kết luận một câu : “Cuộc đời của Cha thật vĩ đại” Ngày hôm nay khi viết về Cha, tôi không biết viết gì hơn, chỉ xin dâng về hương hồn Cha một vài câu thơ nói về khí phách của Người và nơi mà Cha đã gửi lại thân xác của Người vĩnh viễn cho núi rừng Charlie. Ở đây tôi xin dùng từ "Cởi áo trần gian" vì tôi tin rằng Cha vẫn đang khoác một chiếc áo khác và vẫn đang nhìn tôi từ một nơi rất xa… Lặng lẽ ngàn năm chẳng danh xưng Bỗng chốc một hôm hóa lẫy lừng Charlie gầm thét trong lửa đạn Gọi mãi tên người nước mắt rưng Trai thời nỗi chết tựa trên lưng Khí phách hiên ngang bước chẳng dừng Charlie vẫy gọi người ở lại Cởi áo trần gian tặng núi rừng (Kính dâng tặng hương hồn Cha) Sinh nhật mẹ tôi ngày 11/04. Trước khi hành quân vào Charlie ngày 25/03 Cha tôi đã đặt một chiếc bánh sinh nhật cho mẹ với lời hứa là sẽ về dự sinh nhật của mẹ. Đến ngày sinh nhật mẹ đã không tổ chức mà vẫn chờ Cha về, và cho đến tận bây giờ mẹ vẫn chờ… Tuy nhiên Cha đã thất hứa với mẹ vì ngày 12/04 Cha đã cởi áo trần gian và nằm lại vĩnh viễn với Charlie. Còn tôi, tôi chỉ biết hỏi là tại sao Cha lại không giữ lời hứa với mẹ tôi? Tại sao và tại sao…?...
NGUYỄN BẢO TUẤN BÀI VIẾT CỦA CON ÚT CỐ ĐT NGUYỄN ĐÌNH BẢO |
|||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||||
![]() |
|||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||||
![]() |
|||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23849 |
![]() ![]() ![]() |
||||
Ông Năm Lửa![]()
Ông thứ Năm nhưng tên thật không phải Lửa. Lửa chỉ là để
nói lên cái tính nóng nảy hay la hét . Ngoài sự nóng nảy, ông hiền còn hơn
một thầy tu.
Thực ra ông chỉ thiếu cái áo dòng và nếu quên đi bầy con
chín đứa cùng bà vợ biết nấu nhiều món ăn ngon, ông rất xứng đáng được gọi là
ông cha. Không bài bạc ( đánh tứ
sắc chút chút), không rượu chè ( kể cả một ngụm bia), không trai
gái (chưa bao giờ nghe bà Năm phàn nàn về điều này), cũng không hút
sách , chính phủ thời Đệ Nhất Cộng
Hòa đáng lẽ nên in hình ông trên báo để làm role model cho chiến dịch chống Tứ
Đổ Tường của nhà nước.
Hồi trẻ nghe nói ông cũng từng ngang dọc một thời. Mồ côi mẹ, sống với cha ông rất có
hiếu . Người ta nói nốt ruồi to ở dưới dái tai bên phải của ông tượng
trưng cho hiếu nghĩa . Hai anh em của ông đều chết sớm nhưng không phải vì
bệnh tật như đa số dân thời đó. Người anh bị Việt Minh xử tử , người em
lại bị Tây tra tấn đến chết để lại ông Năm với cụ thân sinh từng là đầu bếp cho
một gia đình Tây giàu có nhân hậu. Cụ thất học nhưng nấu ăn ngon và kiếm được
việc làm nhờ mớ tiếng Tây bồi . Cụ thương con mồ côi mẹ nên cố gắng cho
con học hành tới nơi tới chốn. Nhờ đó ông Năm Lửa đậu được bằng trung học dip
lôm từ trường Ch***aloub Laubart ở Mỹ Tho.
Hồi đó ông Năm
từng bênh em, một mình xách dây lòi tói
đi lùng sục đám dân chơi trên chợ. Ông quất thằng trùm một chưởng ngang mặt làm
răng cỏ máu me phun ra tung tóe. Sau
trận này ông nổi tiếng với cái tên Năm Lòi Tói.
Cha ông cũng thuộc loại hảo hán thứ thiệt. Thay vì la
mắng con ông chẳng nói gì cả, có ai thắc mắc ông trả lời :
“-Đù quả, nó bênh em nó là phải phép rồi, tui la nó sao
được
Hoặc:
-“ Anh em nó phải biết thương nhau chớ!!
Nhưng ông Năm Lửa không đi gây sự tầm bậy. Ai đụng đến
gia đình, ông chơi xả láng, chớ không la cà phá phách đầu trên xóm
dưới để bà con hàng xóm phiền lòng. Chưa thấy ai phàn nàn mè nheo về ông với
người cha già lúc đó đã trên dưới năm mươi, sắp sửa được gọi bằng cụ.
Nghe nói gia đình trôi dạt vào Nam từ miền Trung, mặc dù không
còn phát ngôn trọ trẹ, nặng giọng. Hàng xóm nghĩ vậy bởi vì cách xưng hô của
ông với cha. Ông gọi cha bằng CẬU không phải TÍA như dân Nam Kỳ.
Phải nói thật ông Năm Lửa nhìn không đẹp trai nhưng cao
lớn, mạnh mẽ nhờ thừa hưởng gene của cha . Ông rất mê thể thao, ngoài mấy
bài quyền cha dạy mà mỗi sáng ông đều luyện tập chuyên cần, ông ưa thích đá
banh và nhất là chơi tennis. Ông không giỏi cỡ Võ Văn Bảy (giật giải thời
VNCH) nhưng cũng thuộc loai - nhìn lên không bằng ai, nhìn xuống không ai
bằng mình . (Sau này
gần đi Mỹ ông còn xách vợt lên Vườn Tao Đàn chơi báo hại đám con cháu cứ thấy
ông dẫn xe đạp ra là bắt đầu đọc kinh cầu nguyện bởi vì ông lúc đó đã thất thập
cổ lai hy).
Thời của ông mà được đi học và cuối cùng giật cái bằng từ
Ch***aloub Laubart đâu phải chuyện giỡn chơi. Ông Năm Lửa vẫn khoe ông đã từng
học trong lớp của cụ Trần Văn Hương, và duy nhất chỉ có thầy Hương trong hết
thảy các ông chính khách miền Nam nhận được nhiều lời khen ngợi từ ông Năm
Lửa .
(Sống với cha được cha lo từ A tới Z khiến ông Năm Lửa
hình như thương cha hơn cả vợ. Sau này con cái hỏi giởn “ ba sắp sửa đi gặp má
rồi ba có vui không? “ ông cười móm mém đưa hàm răng sún “ Không, tao chỉ muốn
gặp ông nội thôi).
Bởi vì không đẹp trai tình trường của ông Năm Lửa cũng ít
màu mè son phấn, hoa thơm cỏ lạ như những anh thanh niên công tử bột hồi đó.
Cộng thêm cái gia cảnh nghèo chỉ cu ki hai cha con khiến ông luôn luôn lọt ra
ngoài ánh mắt của các người đẹp.
Nhưng mà ông không l , rồi cũng có lúc ông sẽ gặp
được người trong mộng,
Sau này ông gặp người trong mộng thật. Nghe nói thời gian
cua gái của ông Năm Lửa rất trần ai khoai cũ vì kinh nghiệm tình trường không
có, ông phải triệt để áp dụng chiến
thuật “ xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị “ “ Đẹp trai không bằng chai mặt “ rảnh giờ nào là ông đạp chiếc xe cuộc Tây có
khung sườn bằng nhôm rất nhẹ từ Mỹ Tho về Sài gòn nghỉ vài tiếng rồi trực chỉ
Thủ Đức để trồng cây si . Ông Năm trúng mánh, người đẹp đang phụ bán nem chua
với mấy chị em gái trong một quán ăn nhỏ. Nàng giỏi giang đủ thứ, da
trắng (như trứng gà bóc?), tóc dài, hàm răng đều đặn, vóc người thon thả
Nàng cũng có bằng tốt nghiệp tiểu học, điều rất hiếm hoi giữa đàn bà con gái
lúc đó. Kết quả sau một thời gian dài người đẹp bị tính kiên trì dai hơn
cao su của ông khuất phục.
Trước sự chứng kiến họ hàng hai bên (gom lại được
bốn bàn, ba bàn rưỡi thuộc nhà gái) ông bà trở thành loan phụng hòa minh,
sắc cầm hòa hiệp. Điều duy nhất hai cha con ông Năm không vui là cô dâu đạo
Công Giáo. (Phải chi nàng cũng xì xà xì sụp nhang khói cúng quảy, đốt
tiền vàng mã như hai cha con dịp tết nhất giỗ chạp thì hay biết mấy).
Một thời gian sau chín đứa con lần lượt ra đời. Bà
Năm (cả hai ông bà đều thứ
Năm) rất giỏi trong việc lo toan gia đình. Thời đó đời sống ở miền
Nam (VNCH ) là ước mơ lớn của những quốc gia láng giềng. Trong gia đình chỉ cần
income người chồng (chủ gia đình)
đủ để đời sống sung túc . Sướng nhất mấy ông Chà Và , ngồi trắng dã hai con mắt gác dan trước mấy
cái hãng vẫn đủ sức mua cà ri nuôi cả nhà. Giới “ nghệ sĩ xích lô đạp
“ (biểu diễn chạy đua hai bánh) rước khách buổi sáng, chiều một
hai giờ ngồi nghĩ mua vịt quay, heo quay bún, bánh mì nhậu với rượu đế. Hồi đó
dân VNCH thuộc giai cấp quý tộc, ông nội . Chuyện Đài Loan, Đại Hàn, Tân
Gia Ba … tỏ vẻ ghen tị, mơ ước là thường ngày ở huyện, nhỏ như con thỏ không
cần phải bàn tán.
Thành ra gia đình của ông bà Năm Lửa tuy đông nhưng vẫn
sung túc. Một tay bà Năm tháo vát vừa giúp gia đình dư dã ăn mặc mà trong tủ
riêng của bà cũng dành dụm được chút của chìm. Thời đó nhà ông bà là gia đình
đầu tiên có máy giặt, bếp ga , tủ lạnh trước hết cả dãy phố. Ông Năm Lửa
còn mua được chiếc Ford Mỹ thay thế chiếc Citroen của Tây sản xuất cỡ năm một
ngàn chín trăm hồi đó . Chiếc xe ông thường đưa gia đình đi Vũng
Tàu , Ô Cấp cuối tuần tắm biển không biết bao nhiêu lần. Thỉnh thoảng ông
lại đổi hướng về Mỹ Tho miền Tây ăn cây trái vườn.
Hồi còn thanh niên anh của ông Năm bị Việt Minh ám sát vì
có cây súng săn và vẫn thường thấy đi săn với người chủ da trắng. Thời gian sau
em ông Năm lại bị phòng Nhì Tây bắt vì nghi rải truyền đơn cho VM. Nó đánh đến
ho ra máu khiến cha ông Năm phải năn nỉ khóc lóc với người chủ Tây nhờ can
thiệp. Ông Tây có hàm ria dày, mặc quần short lúc đầu ngần ngại nhưng sau đó tự lái xe hơi lên ty
cảnh sát kịp lúc chở cái xác nửa sống nửa chết về trả cho người cha.
Lúc
đó ông Năm Lửa
đang chuẩn bị thi lấy bằng Trung Học và vẫn ở với cha trong nhà ông chủ.
Ông
Năm thù Tây, ông bí mật gia nhập đội Thanh Niên Tiền Phong. Máu sôi sùng
sục ông sẵn sàng chuẩn bị để giết hết bọn thực dân kể cả nhà ông chủ
vốn rất tốt
bụng với cha con ông. Cha ông biết tính con đã cảnh cáo “ Mầy mà làm bậy
thì
đừng nhìn tao nữa “
Sau này lập gia đình xong, ông đem cha và người vợ
trẻ về Sài gòn sống, cắt đứt hết mọi quan hệ với những đồng chí cũ. Có điều ông
vẫn giữ trong thâm tâm mình hình ảnh Bác Hồ, cuộc cách mạng thần thánh đánh
đuổi bọn thực dân và nhất là chiến thắng vinh quang ở Điện Biên Phủ nhờ Đại
Tướng Võ Nguyên Giáp những chuyện này sẽ sống mãi với ông cho tới ngày ông
xuống mồ.
Chiến tranh xảy ra, những đứa con trai của ông lần lượt
vào quân đội. Người con cả trung úy Quân Y đóng dưới miền Tây, mỗi lần về phép
đều chỉ ghé nhà vài tiếng rồi lại bỏ đi. Anh thương má, nhưng anh không chịu
được tình thần thân cộng của cha. Mới gặp nhau , chưa kịp ăn với nhau một
bữa cơm đã nổ ra tranh luận về chính trị. Nhiều lúc bà Năm phải cố gắng ngăn
hai cha con ra trước khi có chuyện lớn. Thấy má muốn khóc, anh trung úy lại
khoác chiếc ba lô lên vai, lẳng lặng bỏ sang nhà bạn.
Rồi Mỹ qua, ông Năm lại bắt đầu ghét Mỹ, ông chửi hết bọn
Mỹ từ thằng con nít mười bảy mười tám da đỏ au vì nắng Sài gòn cho tới Johnson
đang ngồi trong tòa Bạch ốc. Đầu tiên là Kennedy, kéo dài xuống tới Westmoreland, nghĩa là
không anh Mỹ nào thoát bị chửi,
huống gì chính thể Đệ Nhị Cộng Hoà. Hồi trước 63, ông Năm lên án TT NĐD gia
đình trị, cãi lộn với anh con trai cả um sùm xóm làng ( con nít kéo tới bu
đông coi trước nhà) vậy mà mật vụ chìm ông Diệm không nửa đêm áp vào còng tay
đem đi. Ông chửi cứ chửi, chẳng có anh an ninh nào rảnh hơi đến làm khó dễ gia
đình .
Thời Đệ Nhị Cộng Hoà, ông Năm lại lên án cả chính quyền
và quân đội dưới quyền ông Thiệu. Ông đập tay, la hét, chửi rủa toàn bộ
chính phủ bằng những ngôn từ xấu nhất ở miền Nam . Thính giả thường trực
của ông là vợ và mấy đứa con nhỏ. Anh con trai thứ hai nay đã là Đại Úy không
thường về nhà nữa.
Rồi những đứa
khác lại lớn lên, lần lượt khoác đủ loại quân phục của VNCH. Tuy nhiên mức độ
căng thẳng có giảm bớt bởi vì đám sau này về phép chỉ ghé nhà chút xíu rồi
chuồn đi chơi với đào địch hoặc bạn bè.
Mỗi lần chửi chế độ người ta mới thấy ông Năm Lửa rõ nét:
mặt đỏ gay nước miếng nước mồm văng tung tóe, ông khoa tay múa chân tưởng chừng
như nếu Nguyễn Văn Thiệu đứng trước mặt ông lúc đó chắc cũng không bảo toàn
tánh mạng. Ông chê hết mọi thứ phe miền Nam . Trong mắt ông , chính
quyền, nhất là quân đội của Sáu Thẹo không thể và không làm sao so sánh với bộ
đội Tám Keo anh hùng . Đặc biệt dưới sự chỉ huy thiên tài Võ Văng Giáp. (Thời sáu mươi bảy mươi
chưa có internet nên ông Năm Lửa và rất đông người VN ở cả hai miền Nam Bắc đâu
có biết thành tích chơi gái thượng thừa của Tám Keo cũng như tài đánh giặc địch
chết ba ta chết hết của Văng Giáp). Hăng
say chửi như thế nhưng chưa lần nào an ninh mật vụ hai chế độ Cộng Hoà ghé nhà
mời ông đi uống trà “ hữu nghị “.
(Lần đầu tiên ông chửi VC là thời gian năm 68 khi VC pháo
kích bừa bãi vào Sài Gòn mà chẳng giết được thằng Mỹ Ngụy nào toàn là đàn bà
con nít “ tay sai “. Lính VC làm bậy chứ chính sách chủ trương của Tám Keo bao
giờ cũng chân lý đứng đắn. Ai lên án VC tàn bạo thì ông lại chống chế như
thế).
Rồi ngày 30/04/75, trong lúc cả miền Nam tìm cách chạy
trốn trên những chiếc tàu vượt biển, ông Năm Lửa quần áo sạch sẽ mang giày đi
đón bộ đội giải phóng anh hùng. Trước đó một ngày ông tranh cãi nẩy lửa với
thằng con trai thứ. Thằng con trai lo lắng vì bà Năm vẫn còn bị kẹt lại ở Biên
Hòa không biết sống hay chết . Nó than thở:
- Làm sao
chạy được lên đó để rước má về , hay coi tình trạng thế nào
- … Bộ đội
người ta tốt mà
- Ai biết
chắc tụi nó tốt? nếu tụi nó tốt thì tại sao tụi nó tới đâu người ta cũng ào ào
chạy trốn?
- Thì
chính sách của bác là phải tôn trọng cả cây kim sợi chỉ của dân.
Thế là cuộc chiến xảy ra, cả hai cha con chỉ chực xông
vào nhau cấu xé. Thằng con bỏ đi, hết thuốc chữa rồi chẳng ai có thể làm ba nó
sáng mắt.
Bà Năm về bình an. Chưa kịp mừng mấy đứa con trai ,
gia đình ông bà lại phải gói ghém lương thực đưa tiễn chúng lên đường vào trại
tù. Bản thân ông bà cũng phải đi học tập một tuần tại địa phương.
Ông Năm bắt đầu đổi thái độ, ông lầm lì , ít
nói . Hồi xưa mỗi buổi sáng ông vẫn thường uống một lý cà phê sữa kèm bánh
bao bà mua. Bây giờ thì chung trà ấm cũng không có. Mấy đứa con gái và má phải
dãi nắng dầm sương buôn bán chụp giật để nuôi phần còn lại của gia đình.
Rồi những bài “ thu hoạch “ lên án Thiệu Kỳ khiến ông
phát khóc vì phải nói dối. Thí dụ : “ Dân miền Nam ăn cơm với mủm dừa “ .
“
Lính miền Nam khát máu ăn thịt đàn bà con nít “ . Ông ráng hết sức để khỏi
chửi um lên “ DM quân láo toét “ nhưng ông phải nuốt xuống sợ hàng xóm nghe sẽ
liên lụy đến gia đình mặc dù biết rằng chung quanh toàn là “ tay sai Mỹ Ngụy
“
****
Hôm đó trong một buổi cơm gia đình vài tháng sau ,
ông Năm nâng chén lên , để xuống . Ông thở dài:
- Ba xin
lỗi tụi con, ba đã lầm.
Ông đứng dậy ra phía sau bếp ngồi phệt xuống đất ôm đầu.
Bà Năm quét cặp mắt khắp bàn :
- Đứa nào
nói gì ba vậy?
Bà đến bên ông ngồi xuống ôm vai ông vỗ về. Bà thấy hình
như ông đang khóc. Khóc được thì cứ khóc đi ông ơi!!
Thằng con duy nhất chưa đi lính há hốc nhìn ba. Không bao
giờ nó tưởng tượng ra cảnh này: Ông Năm Lửa, độc tài, gia trưởng, cấm tranh cãi
bất cứ điều gì nay vừa mới mở lời xin lỗi con cái mình. Nó ước anh Hai anh Tư
anh Năm anh Bảy có mặt giây phút này. Không biết rồi mấy anh sẽ phản ứng ra
sao.
Dần dần ông Năm Lửa không còn nhiều lửa nữa. Ông dành
thời gian ở bên bàn thờ quỳ dưới chân Chúa Mẹ mà cầu nguyện cho những đứa con
và những người lính miền Nam đồng đội đang bị giam thân trong tù ngục. Ông hối
hận, có khi ông quỳ cả tiếng đồng hồ để đọc kinh. Thằng con kế út cả
quyết rằng đã nghe lời ba cầu xin Thiên Chúa cho sấm sét giáng xuống từ trời để
tiêu diệt toàn bộ bọn VC.
Tha thứ cho VC hả ? còn lâu!!
Chắc là một lúc nào đó Thiên Chúa sẽ nghe lời nguyện xin
của ông Năm Lửa bởi vì từ khi theo đạo ông siêng năng việc Chúa hơn cả vợ. Cha
ông- Ông nội sắp nhỏ- gà trống nuôi con cuối cùng cũng xin được rứa tội trước
giờ chết.
Năm 1986 bà đi
trước ông . Hôm đó ông khóc dữ quá đến nỗi anh con trai cả là Đại Úy Quân
Y cảnh giác đám em út ( tụi bây lo
pha ly nước chanh cho ba coi chừng ông đi theo má bây giờ, huyết áp cao lắm rồi
đó)
Vài năm sau ông được bảo lãnh sang Mỹ. Lúc này ông đã
trên tám mươi , nhân tham dự lễ cưới của con một đứa cháu ông vui quá uống
chút champagne rồi bị stroke, may là nhẹ . Con cái đều đã qua Mỹ, đứa cuối
cùng vượt biên ở đảo tháng nào ông cũng nhịn chút tiền già gửi cho nó.
Thằng con qua được Mỹ đi làm ca hai đêm nào về nhà cũng
thấy ông đợi cơm. Mệt đói, có hôm nó gắt ” Sao ba không ăn cơm đi? “ “ Đợi con
ăn chung cho vui “ “ Trời đất ơi, biết giờ nào con về? Trong hãng con cũng ăn một mình, có gì buồn
đâu “. Qua Mỹ không còn uy quyền nạt nộ như hồi xưa, ông cúi đầu, đẩy cái
walker đến bàn ăn ngồi xuống. Ý chừng thấy tội nghiệp, thằng con dịu giọng “ Ba
à, mấy chị dọn cơm thì ba cứ ăn trước đi, đừng có chờ. Biết giờ nào con về
tới?”
Nhiều khi ra khỏi nhà buổi sáng, ông cầm walker bước đi
một đoạn rồi bất chợt ngoảnh đầu nhìn lại không nhớ mình ở đâu. Mấy thằng con
ông thường nhật vẫn đứng ở cửa dõi theo thấy nét mặt ngơ ngác của cha vội chạy
tới. Không có nó chắc ông hết biết đường về . (Nó thương ông, tắm
rửa thay đồ cho ông, nói chuyện chọc ông cười, nhưng lúc nổi cơn quạu nó cũng
xắng xổ y như con mẹ hàng cá ngoài chợ Xóm Chiếu .)
Ngày ông Năm Lửa ra đi chẳng có đứa con nào ở bên
cạnh . Ông nằm nhà thương gần hai tháng chúng nó vẫn chia nhau canh chừng
nhưng hôm đó thì đứa nào cũng quá mệt mỏi. Đứa nhận ca cuối cùng cũng chắc ăn
ông đã ngủ say, tấn mền giữ ấm xong rồi mới ra về. Sáng hôm sau bệnh viện gọi phone báo tin ông
qua đời khoảng giữa khuya.
Ông Năm Lửa chỉ tiếc mình phí phạm tiêu pha hơn bốn chục
năm quí báu trong gần thế kỷ có mặt trên trần thế để đặt cược niềm tin trật lật
vào đám cô hồn Tám Keo, Văng Giáp.
Hôm nhận được tin ông Năm Lửa qua đời , tôi lái xe
như bay lên nhà thương , vừa lái vừa nức nở và lần đầu tiên tôi biết “
Khóc như cha chết “ là thế nào.
Bởi vì ông Năm Lửa Phạm V M là ba của tôi !! st.
|
|||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||||
![]() |
|||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23849 |
![]() ![]() ![]() |
||||
Một Câu Chuyện Cảm Động - Người Chiến Sĩ Vô Danh
Người
chiến sĩ vô danh sống trong hẩm hiu
Sáng
nào cũng thấy thằng nhỏ cầm cái lon đứng chầu chực trước quán ăn.
Tôi
để mắt theo dõi thì hễ thấy thực khách vừa kêu tính tiền thì thằng bé chạy vào
nhìn vào những cái tô, nếu còn thức ăn dư mứa thì nó vội vã trút vào cái lon
rồi chạy ra ngoài đứng ngóng tiếp.
Khi
cái lon gần đầy thì nó biến mất, chập sau thấy nó lại có mặt thập thò trước
quán tiếp tục. Bàn tôi ngồi thì đứa bé không bao giờ quan tâm tới, vì mỗi sáng
tôi chỉ đủ tiền uống 1 ly xây chừng vì tôi cũng nghèo cải tạo mới về sáng nhịn
đói ngồi uống cà phê đen như một cái thú hay một cái tật không bỏ được.
Cứ thế, mà hơn một năm tôi mới quen được và tìm hiểu chút ít về hoàn cảnh gia đình của đứa bé. Tôi cố tình làm quen với thằng bé nhờ hôm ấy trời mưa, thằng bé đứng nép vào trong quán. Thằng bé đứng nép vào ngày càng sâu hơn trong quán vì mưa ngày càng lớn chỉ cách tôi chừng độ nửa thước. Tôi vói tay kéo nó ngồi xuống bàn và hỏi nó có thích uống cà phê không ?
Thằng
bé lắc đầu lia lịa và nói không uống. Tôi hỏi nó làm gì ngày nào cũng ra đây?
và hiện sống với ai? Thằng bé như đoán được rằng: tôi chỉ là người khách ghiền
cà phê nặng nên hàng ngày đóng đô ở đây nên nó cũng trả lời nhanh nhẹn rằng:
-
“Con sống với ba má con, Ba con đi làm xa còn Má con đi phụ buôn bán ở ngoài
chợ…”
Tôi
hỏi tiếp:
-
“Còn con có đi học không ?”
Thằng
bé nói:
-
“Con không có đi học… con ở nhà phụ với má nuôi heo…”.
Đó
là lý do để nói lên sự hiện diện hằng ngày của nó nơi quán ăn nầy. Nghe thằng
bé nói như thế, tôi nói với chị chủ quán ăn giúp cho nó lấy những cơm và thức
ăn thừa, và cũng từ đó nó không còn đứng lúp ló ngoài cửa quán nửa. Và nhờ tánh
tình hiền hậu thật thà chị chủ quán cho nó vô phụ dọn bàn đề lấy thức ăn dư
mang về và cho nó ăn uống để phụ việc. Từ đó tôi và nó gần gũi nhau hơn và thân
với nhau lắm.
Có
lần thằng bé hỏi tôi:
-
“Chú làm nghề gì vậy hả chú?”
Tôi
chỉ trả lời ngắn gọn là ” Chú đang làm thinh”.
Đúng
vậy mới cải tạo về mà, vợ con thì đã theo bên ngoại vượt biển hết rồi, nghe đâu
đã định cư bên Úc, nay về ở với mẹ già ngày 1 buổi cà phê hai bửa cơm độn qua
ngày. Thời gian ngột ngạt chậm chạp trôi qua, may mắn vợ chồng tôi đã bắt liên
lạc được với nhau. Thế là những bữa cơm không còn ăn độn khoai củ hay bo bo nữa
nhưng vẫn quen cử sáng cà phê quán gần nhà. Không biết chị chủ quán có bỏ bùa
mê hay tôi ghiền chổ ngồi mà không bữa nào vắng tôi. Một hôm, tôi đề nghị theo
thằng bé về nhà nó chơi cho biết vì nó nói ở cũng gần không xa lắm. Thấy nó do
dự và tỏ vẻ sợ sệt, tôi biết ngay nó đang dấu diếm điều gì. Thương nó lắm, tôi
dúi tiền cho nó hoài. Mấy hôm sau tôi lẳng lặng đi theo nó khi nó mang cơm và
thức ăn dư về nhà buổi trưa. Khi thấy nó lủi vô một cái chòi nhỏ xíu thì tôi
thật sự không ngờ.
Đứng dưới gốc cây Gòn cách nhà nó không xa tôi thầm nghĩ, nhà chút xíu như vậy gia đình 3 người ở thì chổ đâu mà nuôi heo. Tôi đang đứng suy nghĩ đốt cũng hết mấy điếu thuốc thì thằng nhỏ lục tục xách lon xách nồi đi ra quán để thu dọn thức ăn buổi chiều. Đợi thằng bé đi khuất tôi lò mò đến nơi mà hồi nãy nó vào. Đến đó mới nhìn rõ thì thật ra đâu có phải là nhà, một lõm trống được che dựng lên bằng những phế liệu đủ loại muốn chui vào phải khom mọp xuống. Nghe thấy có tiếng chân dừng lại, có tiếng đàn bà vọng ra hỏi. Tôi trả lời là đi kiếm thằng Tuất, thì nghe giọng đàn ông cho biết nó vừa đi khỏi rồi, và hỏi tôi là ai, mời tôi vào…. Vừa khom người chui vào tôi mới thật sự không ngờ những gì hiển hiện trước mắt tôi.
Người
đàn ông hốc hác cụt hai giò tuổi cũng trạc tôi nhưng trông yếu đuối, lam lũ và
khắc khổ lắm. Một người đàn bà bệnh hoạn xác xơ cả hai đang ăn những thức ăn
thừa mà thằng bé vừa mới đem về. Vừa bàng hoàng, vừa cảm động vừa xót xa, nước
mắt tôi bất chợt tuôn rơi mặc dù tôi cố nén…
Từ đó, tôi hiểu rõ về người phế binh sức tàn lực kiệt sống bên người vợ thủy chung tảo tần nuôi chồng bao năm nay giờ mang bịnh ác tính nặng nề thật đau xót. Tôi móc hết tiền trong túi biếu tặng và cáo lui. Về đến nhà tôi vẫn mãi ám ảnh hoàn cảnh bi thương của gia đình thằng bé mà tôi bỏ cơm nguyên cả ngày luôn. Sáng hôm sau ra uống cà phê, thằng bé gặp tôi nó lấm lét không dám nhìn tôi vì nó đã biết trưa hôm qua tôi có tới nhà nó. Nó thì tỏ vẻ sợ tôi, nhưng tôi thực sự vừa thương vừa nể phục nó nhiều lắm. Tôi kêu nó lại và nói nhỏ với nó tại sao không cho tôi biết. Tội nghiệp nó cúi đầu im lặng làm lòng tôi thêm nỗi xót xa. Có khách kêu trả tiền, như có cơ hội né tránh tôi nó chạy đi dọn bàn và tiếp tục công việc thu dọn thức ăn. Hèn gì sau nầy nó để thức ăn dư phân loại đàng hoàng lắm. Tội nghiệp hoàn cảnh của thằng bé mới mấy tuổi đầu mà vất vả nuôi cha mẹ theo khả năng chỉ tới đó. Cha là một phế binh cũ trước 75 cụt hai chân, mẹ thì bị bệnh gan nặng bụng phình trướng to khủng khiếp và cặp chân sưng vù lên đi đứng thật khó khăn, nước da thì vàng mét như nghệ. Thằng bé là lao động chánh trong gia đình, nó có hiếu lắm. Từ đó tôi thường cho tiền đứa bé mua bánh mì cơm gạo về nuôi cha mẹ. Vợ tôi làm thủ tục bảo lãnh tôi sang Úc. Ngày tôi đi tôi đau xót phải để lại hai nỗi buồn đó là để mẹ và em gái lại quê nhà và không còn cơ hội giúp đỡ thằng bé nữa. Sang Úc định cư, tôi sống tại tiểu bang Victoria mấy năm đầu tôi hết sức cơ cực vì phải vật lộn với cuộc sống mới nơi đất mới và đối với tôi tất cả đều mới mẻ và xa lạ quá. Từ ngôn ngữ đến thời tiết đã làm tôi lao đao không ít. Thỉnh thoảng tôi gởi tiền về nuôi mẹ và em gái không quên dặn em gái tôi chuyển cho thằng bé chút ít gọi là chút tình phương xa. Mấy năm sau tôi về thăm gia đình, tôi có ghé tìm thằng bé thì nó không còn lấy thức ăn trong quán đó nữa. Tôi mới kể rõ hoàn cảnh thằng bé cho chị chủ quán biết. Chị chủ quán đôi mắt đỏ hoe trách tôi sao không cho chị biết sớm để chị tìm cách giúp gia đình nó. Tôi chỉ bào chữa rằng tại thằng bé muốn giấu không cho ai biết! Tôi ghé vội qua nhà thằng bé thì mới hay mẹ nó đã qua đời vì căn bệnh ung thư gan. Chỉ còn chèo queo một mình ba nó ở trần nằm một góc trông hết sức thương tâm. Hỏi thăm thì mới biết nó đã xin được việc làm đi phụ hồ kiếm tiền về nuôi cha.
Chúa
nhật tôi tới tìm thằng bé, chỉ mới có mấy năm mà nó đã cao lớn thành thanh niên
rất đẹp trai duy chỉ đen đúa vì phơi nắng để kiếm đồng tiền. Tôi dẫn nó trở ra
quán cà phê cũ, thấy nó hơi ái ngại, tôi trấn an là bà chủ quán tốt lắm tại
không biết được hoàn cảnh gia đình nó. Ra đến quán ăn chị chủ quán năn nỉ nó về
làm với chị, dọn dẹp và bưng thức ăn cho khách nhẹ nhàng hơn đi phụ hồ và chị
sẽ trả lương như đang lãnh bên phụ hồ, tối về thức ăn thường bán không hết chị
cho đem về nhà dùng khỏi phải mua hay đi chợ. Lần đầu tiên tôi thấy nó khóc,
chị chủ quán cũng khóc theo làm tôi phải đứng dậy bỏ ra ngoài để khỏi phải rơi
nước mắt vì chịu không nỗi.
Thằng Tuất vừa khóc vừa nói: “Sao ai cũng tốt với gia đình con hết đó, nhưng vì con đang làm phụ hồ cho anh Năm, anh ấy cũng tốt lắm giúp đỡ gia dình con nhiều lắm, sáng nào cũng mua cho ba con gói xôi hay bánh mì trước khi tụi con đi làm. Con cũng mang ơn ảnh nhiều nên con không thể nghỉ được, con xin lổi”. Không biết thằng Tuất nó nói thật hay nó ái ngại khi quay về chỗ mà ngày nào cũng cầm cái lon chầu chực trút đồ ăn dư về nuôi cha mẹ. Phải thông cảm nó, phải hiểu cho nó, phải cho nó có cái hiện tại và tương lai tốt hơn, đẹp hơn ngày trước. Chị chủ quán vừa gạt nước mắt vừa nói “Bất cứ lúc nào con cần đến cô thì con đừng ngại, cho cô biết nhé “… Đời nầy cũng còn có những hoàn cảnh bi đát ít ai biết đến, và cũng có những đứa con xứng đáng như thằng Tuất. Ngày về lại Úc, tôi đến biếu hai cha con nó hai triệu đồng, thấy nó và ba nó mừng lắm tôi cũng vui lây. Không biết phải giúp gia đình nó như thế nào, tôi chụp hình ba nó, photo giấy tờ ba nó đem về Úc gởi cho Hội cứu trợ thương phế binh bị quên lãng trụ sở ở Sydney. Mấy tháng sau nhận được thư ba thằng Tuất viết qua, ông quá vui mừng khi được Hội bên Úc giúp đở gởi tiền về, ông cho biết suốt bao nhiêu năm qua lần đầu tiên ông thấy được niềm hạnh phúc khi cuộc đời phế binh của ông còn có người nhớ đến. Không biết ông ấy vui bao nhiêu mà chính tôi cũng hết sức vui mừng khi thực hiện một việc làm đem niềm vui đến cho những người phế binh sống hết sức đói nghèo bên quê mẹ. Tôi xin cảm ơn cả hai: người chiến sĩ vô danh sống trong hẩm hiu và Hội cứu trợ thương phế binh đã thể hiện tình người trong công việc hết sức cao cả này.
Minh
Tạo
|
|||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||||
![]() |
|||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23849 |
![]() ![]() ![]() |
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||||
![]() |
|||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23849 |
![]() ![]() ![]() |
||||
HOÀI NIỆM Thằng bạn Việt kiều mới đây gửi mail cho tôi: “Sài Gòn dạo này còn nhiều xích lô không? Cứ đến những ngày tháng Tư này, tao lại nhớ đến xích lô. Bây giờ, mày chạy hai bánh nổi không?” Chạy hai bánh ở đây là nghiêng xe, giữ thăng bằng, thì xích lô ba bánh có thể chạy bằng hai bánh. Tên Việt kiều này có thời là đồng nghiệp xích lô của tôi. Nó đang theo học ban Triết (Tây) thì đứt phim. Sau 75, mọi ngành học bên Văn khoa (trừ Ngoại ngữ) đều có “vấn đề”, môn Triết lại càng có “vấn đề” hơn nữa. Nó phải bỏ học, sống lông bông đủ kiểu. Tôi theo ngành khoa học nên được chiếu cố cho học nốt những môn còn thiếu, ra trường và làm việc tại một trung tâm nghiên cứu. Một buổi chiều cũng dạo tháng Tư thế này, lang thang ngoài phố, tình cờ gặp nó đang đạp xích lô. Tay bắt mặt mừng. Y ra hiệu cho tôi bước lên xe, chở thẳng ra quán nhậu lề đường. Chén thù chén tạc, đời xích lô lắm chuyện ly kỳ bụi bặm. Y nói: “Tao mướn xe tháng, xài không hết công suất, chiều tối hay sáng sớm gì đó, khi nào rảnh, mày lấy xe tao chạy kiếm thêm tiền.” – “Tao chưa thử xích lô lần nào. Có dễ chạy không?” – “Không khó lắm”. Nói vậy cũng hơi ngần ngừ, ngoài giờ làm việc cho cơ quan nghiên cứu, tôi còn dạy kèm luyện thi đại học cũng kiếm thêm được chút đỉnh, đủ nhậu lai rai. Một bà bước đến bên bàn nhậu hỏi: “Xích lô! Có đi không?” “Nghỉ rồi dì”, thằng bạn lắc đầu. Vài ly rượu đủ làm tôi bốc lên: “Để tao! Ngồi đó chờ một chút”. Tôi quay qua bà khách: “Dì đi đâu?” Hình như tôi có khiếu… đạp xích lô. Chẳng cần tập tành gì cả, mọi thứ đều an toàn, trót lọt. Nửa tiếng sau, tôi trở lại quán rượu, đặt số tiền cuốc xe đầu tiên lên bàn, cười sảng khoái: “Năm giờ rưỡi chiều mai, tao ghé nhà mày lấy xe.” Những năm sau 75 mọi thứ đều đổi đời. Leo lên chiếc xích lô, tôi cũng phải ăn mặc và ứng xử như một người đạp xích lô thứ thiệt. Xắn cao ống quần chân phải để khỏi bị xích xe nghiến nát, kẻo tai nạn dập mặt cũng không chừng. Nhưng điều quan trọng là phải đội nón, tránh nắng là chuyện nhỏ, tránh gặp người quen mới là chuyện lớn. Thành phố Sài Gòn đông người mà ngõ hẹp, không ít lần tôi đã “đụng” phải học trò, đồng nghiệp, thậm chí cả bạn (gái) ngoắc xe. Đời lắm nỗi oái oăm! Có lần tôi chở hai bà khách, mà trọng lượng của cả hai chắc cũng trên tạ rưỡi. Trưa nắng, dốc cầu Thị Nghè dài như vô tận. Tôi chợt thấm thía câu thơ của Cao Bá Quát: “Trời nắng chang chang người trói người…” Trời ơi! Hai bà khách vẫn vô tư cười nói, sao họ không xuống xe đi bộ một quãng cho mình đỡ khổ! Cho dù thế nào, có Chúa làm chứng, tôi đã tận lực làm tròn nhiệm vụ của thằng đạp xích lô. Dốc mỗi lúc mỗi cao, lực bất tòng tâm, tôi không còn ghì nổi tay lái, chiếc xe đổ nhào về phía trước… Đôi khi con người cũng nên biết lắng nghe những lời chửi rủa mà tưởng như đang nghe nhạc trữ tình. Cuộc đời nhờ đó sẽ đỡ khổ hơn chăng? Một trường hợp khác, tôi chở một bà khách ăn mặc quý phái, túi da, vòng vàng, son phấn sáng rực. Thỏa thuận địa điểm và giá cả xong, tôi khởi hành, dù giá hơi hẻo, nhưng chở một người thì xe cân bằng, dễ chịu hơn đi xe trống. Khi tới nơi, bà khách nói đi xích tới nữa, sắp tới, và tới nữa… cũng cả hơn hai cây số. Đến đây thì tôi hiểu mình bị lừa vặt. Tôi dừng xe lại, và lịch sự mời bà khách xuống. Bả sừng sộ: “Mày là thằng đạp xích lô, chứ là cái thá gì mà đòi nói bà xuống…” Tôi nổi nóng, nhảy xuống xe, định ăn thua đủ, nhưng thoáng thấy quần mình đang mặc ống thấp ống cao… Trong nháy mắt, tôi chợt nhận ra đúng thân phận, mình chỉ là thằng đạp xích lô. Tôi xua tay: “Tặng bà cuốc xe đó”, rồi lên xe đạp thẳng, còn kịp nghe tiếng nguýt đuổi theo: “Xí…! Nghèo mà còn làm phách…” Những năm cuối thập niên 70, đầu 80 chẳng ai sống bằng lương nhà nước nổi. Lương kỹ sư khoảng 73 đồng. Nhu yếu phẩm gạo (13kg), đường (0,5kg), thịt mỡ (0,6kg)… được mua theo giá chính thức. Cũng phải kể, đàn ông được mua thêm 3 gói thuốc đen, phụ nữ vài thước vải mùng. Mấy thứ này ngốn hơn nửa tiền lương rồi. Còn giá thị trường đại khái thế này: 3đồng/tô phở bình dân, 3đồng/xị rượu hạng bét, 0,5đồng/ly cà phê bắp… Mức sống tiêu chuẩn cán bộ (kỹ thuật) là thế. Còn dân thường hầu như phải vật lộn theo giá thị trường. Sổ gạo khi có khi không, chen lấn, khoai mì, bo bo, hàng độn đủ thứ… Vậy mà thiên hạ vẫn sống, vẫn loay hoay kiếm cái gì đó để ăn, để tồn tại. Sức đề kháng của con người để sinh tồn trong nhiều trường hợp thật không tưởng tượng nổi. Sau này tôi mới hiểu vì sao mấy ông tù cải tạo, phải chờ thả về nhà mới chịu… đổ bệnh. La cà trong giới xích lô tôi mới biết ra rằng, không ít người là trí thức (cũ) đã chọn con đường mưu sinh này. Khá bộn cái gọi là “ngụy quân, ngụy quyền” cũng tham gia vào nghề này. Họ khó có chọn lựa nào khác. Ai cũng tìm cách che giấu thân phận, nhưng “phát hiện” ra nhau không phải là điều khó. Lúc ế độ, không có khách, tấp vào bóng mát nào đó, nằm khểnh trên xe đọc sách. Tri thức vẫn là một nhu cầu, ngoài chuyện ăn uống. Tôi biết có nhiều nhà giáo sau 75 bỏ nghề để đi hớt tóc dạo, bán thuốc lá lẻ, sửa giày dép… Tôi hỏi một vị: “Bộ không được lưu dụng hay sao mà bỏ nghề giáo? Làm nghề này chi cho cực?” – “Không, tôi tự nguyện ‘mất dạy’. Tôi thà mất dạy…”, ông cựu giáo chức cười méo miệng. Tôi không hỏi thêm nữa, sợ ông buồn. Có một nghề mà mấy ông cựu thầy giáo rất thích, nghề bơm mực, bởi nó dính dáng tới văn phòng tứ bảo, cũng gần gần với cái “nghiệp” năm xưa của mấy ổng. Tôi xin mở ngoặc một chút để các bạn trẻ có thể hình dung về cái nghề lỗi thời này. Bút bi mà các bạn đang dùng, xài hết mực thì vất đi. Sau 75, bút bi thuộc loại “quý giá” và là hàng dễ hỏng. Bút nào mà xài được tới hết mực, được xem là hàng… chất lượng cao. Xài hết thì mang ra ngoài đường bơm mực, xài tiếp. Nói tới bút dỏm, mà không nói tới giấy dỏm thì có vẻ hơi thiếu. Giấy vàng khè, còn lộm cộm những bã rơm rạ nghiền chưa kỹ, đè bút mạnh tay một chút để ra chữ, có khi văng cả bi ra ngoài. Tôi còn lưu giữ khoảng vài trăm trang giấy như thế, là các báo cáo và bản dịch tài liệu kỹ thuật. Đôi lúc ngậm ngùi, nhìn lại bút tích của chính mình. Quả là một thời kiên nhẫn không cần thiết. Không phải khách đi xích lô nào cũng hãm tài như tôi vừa kể ở trên. Khách đàn ông dễ chịu hơn, ít kì kèo. Khách nhi đồng thì miễn trả giá, cỡ nào tôi cũng chạy. Có khách lên xe, buông một câu: Anh chở tôi đi đâu loanh quanh cũng được, đi đủ hai tiếng đồng hồ. Thời buổi đó, lên voi xuống chó, tình người đẩy đưa, tình đời đen bạc, tâm tư chất chứa đủ chuyện. Người khách im lặng suốt cuốc xe. Tôi chở khách, chở luôn nỗi buồn thời cuộc của họ. Một buổi sáng chủ nhật, tôi chở bà
khách từ chợ An Đông. Bà bao xe nguyên ngày, đi nhiều nơi trong Sài Gòn,
mỗi nơi bà đi vào khoảng nửa tiếng, rồi trở ra đi tiếp. Đi kiểu này thì
khỏe, tôi khỏi tốn công cảo xe lòng vòng kiếm khách. Tới nơi, khách đi
công chuyện của khách, tôi ngả người lên xe nằm chờ, và lấy sách ra đọc.
Chặng cuối cùng, bà yêu cầu đi ra Bến xe Miền Tây để đón xe đò về Rạch
Giá. Có vẻ như đã xong công việc, bà khách ngồi trên xe vui vẻ bắt
chuyện: Tới bến xe, bà trả tôi gấp đôi số tiền thỏa thuận. “Anh không muốn đi thật sao?” Tôi lờ mờ hiểu ra công việc của bà sáng nay. “Tôi có hoàn cảnh riêng. Chúc chị đi bằng an.” Đi vài bước, bà khách chợt quay lại, rút ra trong túi xách quyển sách: “Anh cầm cuốn này mà đọc.” Tôi chưa kịp cám ơn bà đã quầy quả đi ngay vào bến. Đó là tiểu thuyết “Nhịp cầu trên sông Drina” của Ivo Andritch. Sáu tháng đạp xích lô, tôi hiểu ra được nhiều mảng đời, nhiều số phận. Cuộc sống đảo điên và kỳ lạ, một chút tàn nhẫn, một chút thánh thiện, không đơn giản như những gì tôi chúi mũi trong phòng thí nghiệm. Trong những ngày gian khổ đó, bên cạnh những mảng tối, vẫn còn đâu đó vài điểm coi được. Thèm miếng thịt, thèm lắm, vậy mà dĩa thịt trong mâm cơm nhiều khi còn đầy, người này nhường người nọ, không ai nỡ gắp. Tuổi trẻ thời nay không hình dung nổi chuyện lẻ tẻ đó. Thế hệ @ là phải nhanh như điện xẹt, yêu cuồng sống vội. Đối với họ, cuộc sống là hưởng thụ, là đề cao cá nhân, là ứng xử bầy đàn. Chia sẻ cái gu ăn chơi thì được, chứ chia sẻ tấm lòng thì hơi khó. Thanh niên thiếu nữ giành giựt ở hội chợ hoa Hà Nội năm nào chẳng phải là điều đáng suy nghĩ hay sao? Hay chỉ cách đây vài hôm, báo chí đưa tin, cả ngàn fan nữ thảng thốt vì vẻ đẹp của một ngôi sao Hàn Quốc. Cũng chả trách bọn trẻ được, một khi triết lý giáo dục đã không xem con người là cứu cánh, mà chỉ xem con người là phương tiện cho mục tiêu nào đó. Còn biết bao chuyện để nói. Tóc bạc rồi, không nói bây giờ thì lúc nào sẽ nói đây? Và nói để ai nghe? Bọn trẻ không chừng vừa nghe vừa bấm facebook, twitter, hờ hững với quá khứ. Nói ra không phải để than vãn một thời khổ cực, mà đâu chỉ có chuyện cơm áo gạo tiền mới làm mình khổ cực. Còn nhiều thứ khổ khác nữa, khổ tinh thần thì đến giờ vẫn còn phải chịu đựng. Tôi nhớ câu nói của một người bạn đã khuất núi: “Nghèo thì ăn bắp ăn khoai cũng chịu được, nhưng chịu nhục thì không.” Có cách nào khác không? Quyển tiểu thuyết bà khách để lại, chiếc cầu trên sông Drina được xây từ thế kỷ XVI, nối liền Bosnie và Serbie, khi đó Nam Tư còn thuộc đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ. Viên tể tướng của đế quốc lại mang dòng máu Nam Tư, đã cho xây chiếc cầu bắc ngang dòng sông ngăn cách đó. Máu và nước mắt, thù hận và nhẫn tâm. Biết bao biến cố xảy ra chung quanh cây cầu trải dài suốt bốn trăm năm, từ chiến tranh, bệnh dịch cho đến cái chết của một thiếu nữ lao mình xuống sông Drina vào ngày hôn lễ, hay tâm tư của cô chủ quán già Lotika ê chề vì tình đời bạc bẽo. Rồi chiếc cầu cũng đến ngày kết thúc số phận của nó khi Thế chiến thứ Nhất bùng nổ. Số phận của chiếc cầu và thân phận của con người. Bốn trăm năm có là giấc mộng? Thằng bạn xích lô bỏ đi từ giữa thập niên 80, từ đó chưa một lần trở về Việt Nam. Ra nước ngoài, nó đi học lại và trở thành chuyên viên máy tính, bỏ lại sau lưng một thời mưa gió và lý sự cùn về triết học Hiện sinh, nhưng một thời xích lô chắc chưa đến nỗi quên, mặc dù có thể nó không hình dung nổi xích lô ở Sài Gòn lúc này được trang hoàng lộng lẫy như xe hoa để chở khách du lịch Tây. Người Đà Lạt nói: “ba chiều, chín chiều”, nghĩa là ba chiều mưa, qua đến chiều thứ tư vẫn còn mưa, thì sẽ mưa thêm năm buổi chiều nữa. Đà Lạt lúc này đang mưa đến chiều thứ ba rồi, và có lẽ trong những ngày cuối tháng Tư này, mai sẽ còn mưa nữa, mưa cho đủ chín chiều, có khác gì “cửu hồi trường”, chín chiều quặn đau? Tôi nhìn ra sân vườn, mưa vẫn rơi rả
rích. Mưa rơi trên khóm trúc sát bên cửa sổ, rơi từng giọt một, chẳng
vội vàng gì. Vậy là 38 năm đã trôi qua, rồi câu chuyện bốn trăm năm
chiếc cầu trên sông Drina, và còn biết bao chuyện của một thời chưa nói
hết. Buồn! Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 14/Dec/2019 lúc 10:57am |
|||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||||
![]() |
|||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23849 |
![]() ![]() ![]() |
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||||
![]() |
|||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23849 |
![]() ![]() ![]() |
||||
Những Bông Hoa Cuối Mùa
![]() Xếp lá thư của Chuyên vào túi áo, Ngọc mỉm cười xa vắng. Lá thư từ miền hỏa tuyến gửi về thành phố đến tay Ngọc vào những ngày đầu Tháng Mười Hai, báo tin Chuyên sắp về phép trong mùa Giáng Sinh khiến Ngọc nôn nao chờ đợi. Nhớ lại Noel năm ngoái Chuyên không về được vì phải ở lại đơn vị, chỉ có mình Ngọc đi lễ nửa đêm với cô em gái, nghe hồi chuông ngân lan lan trên nóc nhà thờ giăng giăng những ánh đèn chớp tắt, Ngọc lại nhớ Chuyên da diết... Đứng dưới giàn mướp ở góc sân sau, bóng nắng sớm in xuống nhảy múa đậu trên chiếc áo trắng của Ngọc, tưởng như cũng biết cười với nỗi vui thầm kín của người con gái. Những bông hoa cuối mùa, dù đợt gió cuối năm hơi lành lạnh đã làm những chiếc lá trên giàn ngả màu vàng úa, đang xào xạc theo từng cơn gió mùa thổi tới. Bầu trời cao và trong, xanh biếc, nắng vẫn óng ả trên những cây cỏ trong trong vườn. Chuyên về. Ngọc nghe những tiếng reo vui ấy cứ ấm áp ngân mãi trong lòng, như tiếng chuông đêm Giáng Sinh năm nào. Rồi Ngọc chợt buồn cười nhớ lại những kỷ niệm vui vui lần đầu gặp Chuyên mùa Giáng Sinh hai năm về trước, để từ đấy hai đứa đi vào đời nhau như một giấc mơ huyền nhiệm. Chuyên nhập ngũ khi tròn hai mươi tuổi, tâm hồn người thanh niên thời loạn đã sớm nhìn ra chiến tranh đang giăng bủa trên quê hương, với những trăn trở mơ ước đất nước được an bình, bạn bè chàng lớp lớp lên đường tòng quân nhập ngũ. Mới đó mà chín tháng quân trường trôi nhanh, đời chinh chiến đưa đẩy Chuyên làm người lính xa nhà, dù chưa có một mối tình nồng đậm ở hậu phương, nhưng vài khuôn mặt dễ thương tuổi học trò vẫn ẩn hiện trong tim người lính. Ra đơn vị một thời gian, nhiều lần hành quân thử lửa nơi chiến trường lửa khói, viên đạn địch ghim vào chân bên phải và phá vỡ xương đùi, chàng phải nằm bệnh viện dưỡng thương một thời gian. Vết thương sau khi lành lặn đã để lại cho người lính một kỷ niệm khó quên, thời gian ấy lại rơi đúng vào mùa Giáng Sinh nên Chuyên có được những ngày nghỉ hiếm hoi trong đời lính với mái ấm gia đình. Bây giờ chàng Sĩ Quan mặt búng ra sữa ấy trông đã có vẻ lì lợm, chững chạc hơn so với ngày mới bước chân vào đời lính, không biết sao lại ngoan ngoãn theo bố mẹ đến nhà Ngọc dự bữa tiệc đêm Giáng Sinh năm ấy. Ngọc và lũ em không làm sao nín cười được, khi Chuyên mặt đỏ bừng vì ngượng, vâng lời cha mẹ khoe chiến thương cho mọi người xem. Mấy đứa con gái kéo nhau vào phòng trong rúc rích cười, con em út đã nghịch ngợm bảo Ngọc: “May quá chị Ngọc nhỉ? Nếu anh Chuyên bị thương ở trên bụng thì em không biết... ” Ngọc vội vàng bịt miệng em kịp lúc, rồi mấy chị em lại rúc rích cười với nhau, tha hồ bàn tán về anh chàng Sĩ Quan trẻ ngượng nghịu ngoài phòng khách. Sau này, khi hai đứa yêu nhau, Ngọc có kể lại chuyện này cho Chuyên nghe, hai đứa cứ rũ ra cười, khi đang yêu họ ríu rít như đôi chim non, mỗi lần về phép là những ngày vui dài bất tận. Đó cũng là những kỷ niệm đẹp ghi đậm trong tâm khảm hai người, và mùa Giáng Sinh năm ấy bỗng lại là mùa Giáng Sinh đẹp nhất trong đời Ngọc. Để rồi sau mỗi lần về phép, Chuyên trở ra đơn vị, Ngọc lại hồi hộp chờ đợi và mong mỏi chàng trở về với một xác thân lành lặn. Ngọc tuy không đẹp nhưng rất có duyên, còn Chuyên thì khỏe mạnh, đầy nam tính. Chàng có cái lì lợm toát ra từ vẻ mặt, từ đôi mắt, bởi vậy lần đầu tiên gặp Chuyên, Ngọc đã nhìn thấy đôi mắt ấy hình như có lửa, đã đốt cháy trái tim Ngọc ngay khoảnh khắc đầu tiên. Người ta gọi đó là “tiếng sét ái tình”, dù hai bên gia đình hình như đã có sự sắp xếp để hai đứa gặp nhau. Riêng Ngọc, nàng lại cho là có sự sắp xếp của định mệnh, để hai người vĩnh viễn bước vào đời nhau đúng vào đêm Chúa sinh ra đời. o0o Ngọc đang sửa soạn những món ăn cho đêm Noel thì Chuyên về. Suốt ngày hôm đó Ngọc nôn nao mong đợi, nào ai biết được những gì xảy ra cho người lính. Mãi tới khi thấy Chuyên đứng bên ngưỡng cửa, bộ đồ nhà binh còn bám bụi đường xa, nụ cười rạng rỡ của chàng khi cô em út đã nhảy ra mừng trước chị, Ngọc mới yên chí là chàng về thật. Một kỳ nghỉ phép vào mùa Giáng Sinh thật hiếm hoi cho đời lính, những cuộc đụng độ bất ngờ trong giờ hưu chiến vẫn có thể giữ Chuyên ở lại đơn vị là chuyện thường. Đánh đổi những ngày phép hiếm hoi này không phải dễ cho một người lính ở đơn vị tác chiến như Chuyên, ròng rã nhiều tháng ngày Ngọc làm tượng đá chờ đợi, nàng mới cảm thông được nỗi buồn của những người vợ lính... Việc đầu tiên trong kỳ nghỉ phép rất hiếm hoi này, Chuyên chạy vội đến một cửa hàng bách hóa để mua quà Giáng Sinh cho Ngọc. Đứng trước bao nhiêu món quà trưng bày trong tủ kính, cuối cùng chàng đã tìm được món quà cho người yêu, con búp bê thật xinh với dáng đứng và khuôn mặt của cô bé tuổi mười lăm, duyên dáng và ngây thơ như Ngọc. Ngoài ra Chuyên còn mua thêm vài món quà nữa, những món quà này Chuyên giấu kín trong một túi giấy, với một bí ẩn mà chắc rằng chỉ có chàng mới hiểu được ý nghĩa cao đẹp của nó. Sau khi tiếp mẹ nấu nướng những món ăn cho bữa tiệc đêm Giáng Sinh, Ngọc vội vã vào phòng riêng trang điểm chờ Chuyên tới đưa nàng đi chơi đêm Noel. Thành phố vẫn tưng bừng trong không khí rộn rã của đêm Noel, trong khi ấy chắc hẳn có những người lính ở miền xa đang căng mắt chờ đợi những bất an xảy đến cho họ. Đã có một ”party” thật vui nhộn do cô bạn thân mời, Ngọc có thể xin phép mẹ để được đi chơi với Chuyên mà không bị nhắc nhở, dặn dò, lo lắng như những lần được bạn bè mời đi ăn sinh nhật trước kia. Hay là bây giờ Ngọc đã lớn, bố mẹ đã hoàn toàn tin tưởng nàng chọn lựa đúng người để gửi gấm yêu thương. Bố vẫn nói đùa với mọi người, có lũ con gái ở trong nhà như bom nổ chậm, lòng ngay ngáy không yên. Mỗi lần thấy con gái đi theo để thưa với bố điều gì, ông lại hồi hộp không biết có phải tin báo giờ bom sắp nổ. Bố vui tính hay đùa, chứ ba đứa con gái của ông là ba bông hoa tươi thắm, đã khiến ngôi nhà vang lên những tiếng cười trong trẻo, óng ánh như tia nắng đầu ngày trải trên giàn mướp hương hoa vàng ở mảnh vườn sau. Khi Chuyên trở lại để xin phép mẹ đưa Ngọc đi chơi, chàng thật bảnh bao trong bộ quần áo “Civil” thẳng nếp, tóc tai chải gọn gàng, mày râu nhẵn nhụi, khác hẳn khuôn mặt phong trần, xạm nắng trong bộ quân phục chàng mặc lúc ban chiều. Trên tay chàng là gói quà nhỏ tặng Ngọc, ngoài ra còn một gói to hơn, bọc kín mít trong một túi giấy, bỏ vào chiếc túi ny lông, hơi cồm cộm, Ngọc đoán là giầy dép, hay quần áo. Món quà ấy Chuyên nhờ Ngọc cầm hộ, khi hai người chở nhau trên chiếc xe Honda, Ngọc chỉ mơ hồ đoán đó là món quà Chuyên dành cho ai đó nhưng không tiện hỏi. Cả tuần nay, Ngọc băn khoăn chọn chiếc áo dài có màu sắc thích hợp cho đêm Giáng Sinh. Dưới ánh đèn mờ thì màu đỏ huyết dụ sẽ làm khuôn mặt Ngọc nổi lên những đường nét quyến rũ, dù rằng Ngọc rất thích chiếc áo màu thiên thanh, đi trong nắng sẽ làm vẻ tươi thắm của khuôn mặt trở nên dịu dàng hơn, nhưng dưới ánh đèn qua sự phản chiếu ánh sáng, nó sẽ bị lợt lạt đi. Băn khoăn mãi, không biết sao Ngọc lại chọn màu áo trắng học trò, có thêu những chiếc hoa xinh màu xanh nhạt dưới hai tà áo. Ngọc thấy sự giản dị của màu áo lại khiến mình có nét ngây thơ của một cô em gái hậu phương, có lẽ vì Chuyên là một người lính? Ý nghĩ ấy khiến Ngọc mỉm cười hoài một mình, chỉ màu áo mà cũng làm những kẻ đang yêu nghĩ ngợi mãi, có phải vì Ngọc vẫn nghĩ tới Chuyên với một tâm tình trong sáng của tuổi trẻ còn nguyên vẹn. Trên đường phố đã nhộn nhịp người qua lại, xe cộ dập dìu như mắc cửi, nhưng sao trong đôi mắt Chuyên, Ngọc thấy niềm vui như vẫn phảng phất một nỗi buồn. Ngọc không dám hỏi Chuyên về những điều thầm kín đó, và khi thấy Chuyên chở mình đi về hướng ngoại ô của thành phố, qua những con đường đầy ổ gà chỉ có ánh đèn đường vàng vọt, chen chúc những căn nhà ván lợp lá nghèo nàn khuất dưới tàng cây tối thẫm, Ngọc lại bâng quơ nghĩ tới những chuyện không vui, mà vẫn không đủ can đảm hỏi Chuyên tại sao lại tới đó. Trong lòng Ngọc nhen nhúm chút buồn bã, vì Ngọc tưởng một đêm Noel trọn vẹn của hai đứa, phải là những tiếng cười rộn rã với bạn bè, màu rượu đỏ óng ánh trong chiếc ly thủy tinh, phải là những bước chân quấn quýt dìu nhau trong thế giới của âm nhạc, những bài ca Giáng Sinh vang vang trên đường phố. Và cuối cùng, trong không khí ấm áp của ngôi giáo đường rền rền tiếng chuông ngân, hai đứa sẽ thì thầm với nhau những lời ước nguyện đẹp đẽ. Đêm Noel là đêm an bình mà ở một góc trời xa vẫn bừng lên ánh hỏa châu trên vùng trời đen thẫm, có điều gì khắc khoải trong tâm hồn Ngọc khi nghĩ sau những ngày nghỉ phép thần tiên, Chuyên lại trở ra đơn vị. Lại những chiến trường xa gian khổ, lại những bất trắc rình rập quanh đời sống của chàng, Ngọc cố xua đuổi những nỗi buồn vô cớ để hưởng trọn tình yêu đêm Giáng Sinh với người yêu. Mãi tới khi chiếc xe Honda quẹo vào một con ngõ tráng xi măng ngoằn ngoèo, con hẻm sâu và tối, thỉnh thoảng có một nhà treo đèn ngôi sao trước cửa, như dấu hiệu của một mùa Giáng Sinh buồn bã nơi những gia đình nghèo khổ và cô đơn. Nỗi thất vọng và buồn bã lại nhen nhúm trong lòng cô gái trẻ, Ngọc cứ bâng khuâng tự hỏi, Chuyên định làm gì mà hoang phí những giờ phút quý hiếm của lần về phép, với đêm Giáng Sinh tuyệt vời như vậy? Ý tưởng ấy cứ miên man trong lòng Ngọc, cho đến khi Chuyên ngừng xe trước thềm một căn nhà đơn sơ, cửa vẫn mở để Ngọc nhìn thấy tất cả sự nghèo nàn của nó. Duy nhất một ngọn đèn trần vàng úa tỏa xuống những đồ đạc rẻ tiền. Trên chiếc giường con kê ở góc nhà, hai đứa trẻ con đang nằm chơi với nhau, bi bô nói chuyện. Và ở chiếc võng phía bên kia, theo tiếng võng kẽo kẹt đưa có tiếng người mẹ ru con buồn não nuột. Chắc người mẹ còn trẻ, vì Ngọc nghe tiếng ru tuy rất buồn nhưng âm thanh còn trong trẻo, không khí phảng phất chút hiu quạnh với bức ảnh của người đàn ông mặc quân phục còn khá trẻ, đặt trên bàn thờ ở giữa nhà dưới ngọn đèn dầu leo lét. Mãi tới khi Chuyên cất tiếng gọi, thiếu phụ ngồi nhỏm dậy quấn vội mái tóc mây, đứa bé bồng trên tay mở to đôi mắt trong veo nhìn hai người xa lạ chực khóc, và hai đứa bé đang chơi trên chiếc giường nhỏ chạy ùa tới nhìn khách chăm chăm. Ngọc đã gần đoán hiểu ra được sự thăm viếng đột ngột của Chuyên dành cho gia đình một người lính cùng đơn vị, khi anh ta đã nằm xuống mấy tháng trước đây trong một cuộc đụng độ giữa hai bên. Người phụ nữ còn trẻ, chắc dưới tuổi ba mươi, ngạc nhiên vì sự thăm viếng khá bất ngờ của người Sĩ Quan Chỉ Huy cùng đơn vị với chồng mình và cô bạn trẻ, trong chiếc áo dài trắng đơn sơ. Có lẽ hình ảnh ấy khiến chị nhớ đến hình ảnh một thời của mình, và cái chết quá mới mẻ của chồng khiến chị vừa cảm động, vừa tủi thân. Trong tiếng nói của chị, Ngọc nghe như có chút nghẹn ngào khiến nàng cảm động: “Chào Trung Uý, chào cô... ” Rồi chị nín bặt như sợ nói thêm sẽ có thể bật lên khóc. Để tránh sự xúc động, Chuyên nắm tay hai đứa bé lôi vào lòng xoa đầu chúng một cách trìu mến, rồi chàng giơ tay bồng đứa bé độ bảy, tám tháng trên tay chị. Mấy đứa nhỏ quấn ngay lấy chàng, như đã lâu lắm rồi chúng chưa được nắm lấy bàn tay yêu thương của một người nào giống như cha chúng. Chuyên vội giới thiệu với Ngọc: “Đây là chị Luân, trước kia anh Luân cùng đơn vị với anh. Còn đây là Ngọc, em gái hậu phương của tôi đấy.” Chàng cố pha trò cho không khí bớt phần buồn bã, vì nhìn những đứa bé còn nhỏ như vậy, Ngọc hiểu anh Luân chỉ ra đi ít lâu nay, và cái buồn hình như còn y nguyên trong lòng người vợ. Chị Luân định chạy đi tìm nước mời khách, nhưng Chuyên đã ngăn lại, rồi hướng về mấy đứa bé, đang nhìn chàng bằng những đôi mắt đen lay láy. Chuyên nói: “Chú có quà cho các cháu đây. Nguyên năm tuổi, học Mẫu Giáo rồi phải không, chú cho con hộp viết chì màu để tô hình nhé. Bé Tiên thì lại làm cô tiên, cái áo đầm này đẹp chưa? Nào em bé ra đây, bé thế này thì chỉ có sờ tí mẹ thôi, chú cho bé con thỏ biết nhảy để ba anh em chơi chung với nhau nè!” Hai đứa lớn mừng rỡ xà vào lòng Chuyên, bây giờ mới ríu rít kể chuyện. Những chuyện của trẻ con thật dễ thương, điều thương cảm hơn cả là chúng chưa hiểu gì về sự vắng mặt của người cha. Ngọc đã phải bậm môi để đừng chảy nước mắt khi nghe thằng Nguyên nhắc về cha nó, với nỗi mong đợi của đứa bé ao ước được gặp bố, sau nhiều tháng chưa thấy bố về phép như mọi khi. Nó thỏ thẻ hỏi Chuyên: “Chừng nào bố con về hở chú?” Chuyên vội quay đi để tránh cái nhìn tha thiết trong đôi mắt trẻ thơ của thằng bé: “Bố còn bận lắm chưa về được, nhưng bố nhắn chú về mua quà cho con và mấy em rồi. Con phải ngoan, nhớ trông em cho mẹ, kỳ tới chú về bố con sẽ gửi quà nhiều hơn.” Những câu nói dối để xoa dịu nỗi mong đợi nơi thằng bé năm tuổi, khiến người lớn nghe thắt cả lòng. Đằng sau những vinh quang của vòng hoa tươi thắm quàng lên cổ áo người lính trở về từ mặt trận, những khuôn mặt rắn rỏi và kiêu hùng trong tiếng nhạc rộn ràng kia, có bao giờ lại thiếu những hồi kèn truy điệu thiết tha, ngân lên rồi đọng lại trong lòng người ở lại sự vắng mặt của người đã nằm xuống, không bao giờ trở về. Chuyên trở lại câu chuyện với chị Luân, người góa phụ còn xuân sắc với ba đứa con thơ trên tay, Ngọc không hiểu chị có đủ nghị lực và can đảm để vượt qua cái chênh vênh của cuộc sống chật vật và cô đơn ấy được bao lâu. Cho dù thời gian qua đi, một mai đất nước có thanh bình, nhưng chiến tranh đã để lại những dấu tích bi thảm trên thân phận người vợ lính, những đứa bé không cha dẫy đầy trên mảnh đất quê hương. Nghĩ tới đây, rồi nhìn thấy đôi mắt ướt của người góa phụ còn trẻ, Ngọc bỗng rùng mình, và mắt nàng cũng rưng rưng một màn lệ mỏng... Tuy nhiên, mùa Giáng Sinh năm ấy lại là mùa Giáng Sinh ý nghĩa nhất trong đời Ngọc, nó đã trở thành một kỷ niệm đẹp của hai người, để Ngọc có dịp đánh giá tâm hồn Chuyên sâu sắc hơn. “Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè”, có phải đấy là giá trị duy nhất mà một người Lính sau bao nhiêu lần thử thách với cái chết còn giữ được, ngay cả mạng sống của họ. Bây giờ Ngọc mới thực sự nhìn ra tâm hồn của người yêu, rồi nhận ra những cảnh đời cô đơn, cùng khổ đang nhan nhản xảy ra xung quanh nàng, tự nhiên Ngọc không còn thiết tha gì với những cảnh xa hoa, hào nhoáng ở ngoài kia, nó như những mảnh vải màu sắc rực rỡ, vá lên một chiếc áo rách tả tơi.... o0o Năm nay, mùa Giáng Sinh lại tới, Chuyên và Ngọc đã về với nhau được hơn ba mươi năm, đôi bạn tình đã trải qua nhiều đau khổ với cảnh tan nát của nước non. Chuyên may mắn thoát chết trong những ngày chinh chiến gian khổ, nhưng sau đó chàng nếm thêm nhiều năm tù tội khi đất nước hòa bình. Hoàn cảnh lại xô đẩy Ngọc giống như chị Luân, vợ một người lính đã nằm xuống, nhưng có điều là nàng vẫn còn niềm hy vọng, vì cuối cùng Chuyên cũng trở về với Ngọc và các con. Chẳng hiểu sao định mệnh cứ đưa đẩy đất nước vào những nghịch lý triền miên như vậy, và điều ấy khiến con người càng ngày càng xa cách nhau hơn. Rồi dài theo những bước chân và sự xoay vần của lịch sử, hai vợ chồng và mấy đứa con lại trôi nổi nơi xứ lạ quê người. Trong mảnh sân vuông vức, Ngọc vẫn trồng một giàn mướp đằng sau vườn để nhớ tới mảnh vườn ở quê nhà năm xưa. Nhìn tia nắng ban mai chiếu ánh sáng qua giàn lá xanh như ngọc, Ngọc lại không quên được những kỷ niệm êm đềm của những mùa Giáng Sinh xưa. Những đợt gió cuối mùa ở quê người, là cái dữ dội của con dao cắt vào ruột kẻ tha hương, chứ không phải cái hiu hắt dịu êm của chút gió cuối năm ở quê nhà những mùa Noel cũ. Trời khi nóng khi lạnh, khiến giàn mướp đã xơ xác vẫn còn những chiếc lá thưa thớt xào xạc thoảng qua tai Ngọc, như tiếng ngân của một cung đàn đềm êm trong quá khứ. Những bông hoa cuối mùa, dường như vẫn giữ lại trong lòng Ngọc biết bao kỷ niệm một thời tuổi trẻ dễ thương nhất của cuộc đời, mà những kỷ niệm ấy như những tiếng chuông mùa Giáng Sinh, vẫn ngân nga trong lòng nàng mỗi khi mùa Giáng Sinh trở lại. Ở góc vườn bên kia, bóng Chuyên lom khom xới đất để sửa soạn trồng những cây hoa Pensée mùa Đông. Một thời tuổi trẻ đã qua rồi, nhưng sao lòng Ngọc vẫn ấm áp khi nhớ lại đêm Giáng Sinh năm ấy, chính vì thế trong mắt nàng Chuyên vẫn là Chuyên của những năm tháng cũ. Nắng đã lên rực rỡ, chỉ còn Ngọc đứng dưới giàn mướp đã thưa thớt lá. Nhìn bóng nắng nhảy múa trên vai áo mình, Ngọc tự nhiên nhớ lại mùa Giáng Sinh năm xưa, và mỉm cười vu vơ như thuở nàng còn là người yêu của lính.
Nguyên Nhung
Mùa Giáng Sinh Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 27/Dec/2019 lúc 3:07pm |
|||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||||
![]() |
|||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23849 |
![]() ![]() ![]() |
||||
Những nén hương thắp muộn trên đỉnh Tiền Đồn 5
Đang tản bộ trong một công viên ở London với mấy đứa cháu ngoại, tôi bất ngờ nhận được tin nhắn từ Việt Nam qua Viber. Khi ấy ở Việt Nam đúng 11 giờ trưa ngày 28.7.2019: - Cháu đã nhìn thấy ngọn núi Tiền Đồn 5 ngay trước mặt và đang chuẩn bị vượt con suối để đến đó, chỉ còn cách chừng hơn một cây số.
Gần một giờ sau, tôi nhận mấy tấm ảnh và vài cảnh phim được quay bằng điện thoại trên đỉnh Tiền Đồn 5. Bây giờ chỉ là một khung cảnh hoang tàn, đầy lau sậy, vương vãi một số mảnh bao cát, mấy đoạn kẽm gai concertina, đế của một chiếc giày trận và một vài chiếc vỏ đạn rỉ sét. Tôi cảm động hơn khi hình ảnh người con trai tật nguyền, chỉ còn một cánh tay trái, đang quì lạy tứ phương với một bó nhang nghi ngút khói hương. Và đó cũng chính là người vừa nhắn tin và gởi những hình ảnh cho tôi. Cháu Nguyễn Thế Vinh đang đứng trên vị trí mà cha cháu đã hy sinh và nằm lại đây đúng 45 năm, bây giờ đứa con trai mới biết được nơi này.
Khi các chiến thắng liên tục của những người lính Việt Nam Cộng Hòa vào mùa Hè 1972, không những đã giữ vững được thành phố Kontum mà còn gây thiệt hại rất nặng nề cho các đại đơn vị thuộc Mặt Trận B-3 của Cộng Sản, gồm Sư Đoàn 320, Sư Đoàn F 10, Sư Đoàn 2 và sau này có thêm Sư Đoàn tân lập 968. Tất cả buộc phải rút về vùng biên giới Tây Nguyên và Lào để tái lập, bổ sung, thì bất ngờ Hiệp Định mạo danh Hòa Bình được Hoa Kỳ và Bắc Việt thỏa thuận ký kết tại Paris vào ngày 27/1/1973, sau khi chính phủ Nixon đã đi đêm, mặc cả với Trung Cộng, bất chấp sự phản đối của chính quyền Nam Việt Nam. Hiệp định này chẳng khác nào một huyệt mộ được đào lên nhằm chôn sống VNCH.
Các vùng địch xâm chiếm bỗng dưng trở thành an toàn khu của chúng. Nhiều sư đoàn cùng với chiến xa vũ khí hạng nặng, nhiên liệu, đạn dược từ miền Bắc ồ ạt xâm nhập công khai vào Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh, cùng lúc Quốc Hội Mỹ cắt hết mọi viện trợ quân sự cho VNCH.
Đầu năm 1974, lợi dụng tình thế bất lợi này của VNCH, Bắc Việt đã tung đại quân tràn ngập, ngang nhiên lấn chiếm một số căn cứ, đơn vị của ta. Đặc biệt tại các vùng mà lực lượng của chúng được phép nằm lại theo hiệp định Paris quái đản, trong khi Hoa Kỳ và tất cả các nước cùng ký tên trong bản hiệp định đều im tiếng, không một lời phản đối.
Đặc biệt, mặc dù Dak Tô, Tân Cảnh đã bị Cộng quân lấn chiếm từ cuối tháng 4/ 72, nhưng Căn cứ Biên phòng Dak Pek và Chi khu Dak Pek vẫn đứng vững nhờ hệ thống công sự liên hoàn kiên cố và tinh thần chiến đấu vô cùng dũng mãnh của các chiến sĩ Biệt Động Quân. Qua rất nhiều lần tấn công, địch quân đều thảm bại. Căn cứ Dak Pek nằm ngay giữa ngã ba biên giới Miên-Lào-Việt, án ngữ con đường huyết mạch của Cộng quân, cách thị xã Kontum 98 cây số về hướng Tây Bắc, được phòng thủ bởi Tiểu Đoàn 88 Biệt Động Quân Biên Phòng của Thiếu Tá Võ Ngọc Di, bên cạnh là Chi Khu Dak Pek được bảo vệ chỉ một đại đội ĐPQ và khoảng 8 trung đội Nghĩa Quân. Cuối tháng 4/72, sau khi Cộng quân chiếm Dak Tô, Tân Cảnh, Dak Pek trở thành một tiền đồn cô lập, nằm giữa lòng địch, việc tiếp tế chỉ giới hạn bằng phi cơ.
Ngày 15.5.1974, Cộng quân tập trung một lực lượng hùng hậu cấp sư đoàn, do tướng CS Vương Phú, Tư Lệnh Phó Mặt Trận B-3 tổng chỉ huy, gồm Trung Đoàn 3 (ĐoànThuận Hóa) thuộc Sư Đoàn 324 được điều động từ A- Lưới, Trị Thiên vào Tây Nguyên, phối họp cùng Trung Đoàn 66 (Đoàn Pleime) của Sư Đoàn 10, Trung Đoàn 40 Pháo hạng nặng, Trung Đoàn 37 Phòng Không, được tăng cường một tiểu đoàn đặc công, và đại đội chiến xa T 54, tràn qua sông Pô-Kô đánh chiếm Căn cứ Dak Pek và Chi Khu Dak Pek. Căn cứ thất thủ chiều ngày 16.5. 74, sau gần hai ngày chống trả một lực lượng địch gấp 20 lần. Sau đó, để tránh đụng độ với các đơn vị chủ lực của ta, gồm Sư Đoàn 23 BB và các Liên Đoàn BĐQ hoạt động ở phía Bắc và Tây Bắc Kontum, chúng kéo xuống phía Đông Nam bao vây Măng Buk, đồng thời tăng cường lực lượng địa phương, tiếp tục tấn công về hướng thị xã Kontum, cô lập Chương Nghĩa (Platoni), Măng Đen nằm về hướng Ba Tơ, Quảng Ngãi. Khu vực này hoàn toàn do lực lượng ĐPQ của Tiểu Khu Kontum đảm trách.
Tiền Đồn 5 trở thành phòng tuyến đầu để ngăn chặn làn sóng xâm lăng của Cộng Sản. Đây là một trong dãy tiền đồn của Tiểu Khu Kontum, nằm phía Đông Bắc, cách thị xã Kontum khoảng 15 cây số đường chim bay, trên một ngọn đồi có cao độ đúng 1200 mét (so với mực nước biển trung bình), và cách con đường tỉnh lộ nối liền Kontum – Quảng Ngãi (khi ấy đang bỏ hoang) khoảng bốn cây số, được phòng thủ bởi một tiểu đoàn ĐPQ của Tiểu Khu Kontum.
Đầu tháng 6/1974, Cộng quân mở nhiều đợt pháo kích, bao vây Tiền Đồn 5 nhằm tiêu diệt lực lượng trú phòng và phục kích các đơn vị tiếp viện của Tiểu Khu. Lực lượng và vũ khí quá chênh lệch, bên ta bị thiệt hại nặng. Nhờ Không yểm, tiểu đoàn trú đóng mở đường máu di tản, nhưng hơn một nửa quân số bị tổn thất, hai đại đội đóng quân bên ngoài phải phân tán, thất lạc. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II chỉ định Sư Đoàn 23 Bộ Binh mở các cuộc hành quân khẩn cấp giải tỏa áp lực địch và sau đó đưa một tiểu đoàn đến trú đóng tại Tiền Đồn 5, thay thế cho đơn vị ĐPQ đã phải triệt thoái, nhằm ngăn chặn đường tiến quân của địch. Tiểu Đoàn 1/44 nhận lãnh trách nhiệm gay go này ngay sau khi có một vị chỉ huy mới, Đại úy Dương Đình Chính (Khóa 20 Võ Bị) vừa thay thế Thiếu Tá Phan Văn Khánh (Khóa 12 Võ Bị) đi nhận nhiệm vụ mới.
Ngày 12.7.1974, Tiểu Đoàn 1/44 được trực thăng vận xuống Tiền Đồn 5, vừa củng cố lại công sự phòng thủ đã bị phá hủy bởi các cuộc pháo kích và tấn công của địch, vừa hành quân tảo thanh chung quanh căn cứ để hổ trợ Tiểu Đoàn ĐPQ tìm gom những binh sĩ còn đang thất lạc. Do vị tiểu đoàn trưởng ĐPQ mang cấp bậc thiếu tá, nên khó khăn trong việc chỉ huy, phối hợp, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn chỉ thị Trung Đoàn 44 BB phải thành lập ngay một Bộ Chỉ Huy Nhẹ đến Tiền Đồn 5 để chỉ huy tổng quát. Ngày 14/7/1974, BCH Nhẹ gồm Thiếu Tá Lê Thái Như, Phụ Tá Hành Quân của Trung Đoàn Trưởng cùng một toán tháp tùng được thả xuống Tiền Đồn 5, trong số này có Đại úy Nguyễn Đức Vinh, là sĩ quan liên lạc Pháo Binh của Tiểu Đoàn 233 PB. Thiếu Tá Lê Thái Như nguyên là Quận Trưởng Quận Phụng Hiệp (Phong Dinh) vừa mới thuyên chuyển đến Trung Đoàn 44 BB, chưa có chức vụ chính thức, tạm thời làm sĩ quan phụ tá hành quân cho Đại Tá Phùng Văn Quang và sau đó là Trung Tá Nguyễn Hữu Lữ, Trung Đoàn Trưởng. (Trung Tá Nguyễn Hữu Lữ, nguyên là Đại tá Trung Đoàn Trưởng của SĐ2/BB, nhưng do phạm sai lầm nào đó, bị Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh QĐ I giáng cấp xuống trung tá và thuyên chuyển về QĐ II. Vì là thuộc cấp cũ thân tín của Tướng Nguyễn Văn Toàn lúc còn ở Sư Đoàn 2 BB, nên được Tướng Toàn ( lúc này đang là Tư Lệnh QĐ II) đề cử giữ chức vụ Trung Đoàn Trưởng 44 thay thế Đại Tá Phùng Văn Quang. Trung Tá Lữ có lệnh giải ngũ sau khi Tiền Đồn 5 thất thủ và bàn giao Trung Đoàn lại cho Trung Tá Ngô Văn Xuân)
Lúc này trên Tiền Đồn 5, ngoài BCH Nhẹ Trung Đoàn 44, BCH Tiểu Đoàn 1/44 và Đại Đội Chỉ Huy Yểm Trợ, được bảo vệ bởi Đại Đội 2/1 của Thiếu úy Nguyễn Xuân Quang, Quyền Đại Đội trưởng. Các đại đội còn lại hoạt động ở các cao điểm và hành quân lưu động chung quanh, cách Tiền Đồn 5 từ 2 đến 5 cây số.
Hai ngày sau, các công sự phòng thủ chưa được sửa chữa xong, vào sáng sớm ngày 16.7.1974, khi sương mù còn đang phủ kín cả một vùng núi non và thung lũng, Cộng quân pháo kích dồn dập vào Tiền Đồn 5 từ nhiều hướng khác nhau trong suốt một tiếng đồng hồ bằng đủ các loại pháo 120 ly, 122ly và 155ly bắn thẳng. Lúc này, Pháo Binh của ta đã bị hạn chế tác xạ vì không còn đủ đạn dược và Không Quân cũng không thể yểm trợ được bởi thời tiết quá xấu. Ngay những loạt đạn pháo đầu tiên, hầm chỉ huy bị sập, hệ thống truyền tin bị phá hủy và một số đông quân trú phòng đã bị tử trận, trong số đó có Đại úy Dương Đình Chính, Tiểu Đoàn Trưởng, Đại úy PB Nguyễn Đức Vinh và Thiếu úy Nguyễn Xuân Quang, Q.Đại Đội Trưởng ĐĐ 2/1. Riêng Thiếu Tá Lê Thái Như bị thương nhẹ, chạy thoát ra ngoài, nhưng bị bắt làm tù binh sau đó.
(Năm 1976, khi bị chuyển tù ra miền Bắc, người viết bất ngờ gặp lại Thiếu Tá Lê Thái Như ở Trại 6 Nghĩa Lộ. Chính Thiếu Tá Như đã kể lại chi tiết trận đánh này).
Cộng quân tràn ngập. Tiền Đồn 5 trở thành một địa điểm “oanh kích tự do” sau đó. Tất cả tử sĩ đều phải đành vùi thây nơi chiến địa. Gia đình họ nhận “Tờ Trình Ủy Khúc” (một hình thức báo tử) để chỉ biết người thân của mình đã hy sinh tại một địa danh xa lạ nào đó, với tọa độ AR 863-994 mà chỉ có những nhà quân sự mới có thể biết được.
Bà quả phụ Nguyễn Xuân Quang cũng nhận được “Tờ Trình Ủy Khúc” như thế, nhưng bà không tin là chồng đã chết. Vì trước đây, vào giữa năm 1973, bà cũng nhận được giấy báo tử tương tự, nhưng sau đó mấy tháng thì bất ngờ nhận được tin chồng còn sống và đang được điều trị tại quân y viện Quảng Ngãi. Lần đó, Thiếu úy Quang bị địch bắt tại trận Ngô Trang, phía Bắc Kontum, nhưng vì anh bị thương khá nặng, nên địch quân bỏ anh lại trên đường áp giải tù binh ra Quảng Bình, họ nghĩ là anh sẽ chết, nhưng anh đã may mắn được trực thăng bên ta phát hiện cứu sống. Sau khi được điều trị lành vết thương, anh xin trở lại đơn vị cũ tiếp tục chiến đấu.
Thiếu úy Quang ra đi, để lại cho người vợ trẻ bốn đứa con thơ. Cháu lớn nhất chín tuổi và đứa út chưa tròn một tuổi.
Cuối tháng 3/75 gần cả miền Trung lọt vào tay Cộng sản sau khi Ban Mê Thuột thất thủ và cuộc di tản trên Tỉnh Lộ 7B đã trở thành một nỗi kinh hoàng. Cuối cùng đến ngày 30/4/75 cả miền Nam cũng hoàn toàn bị nhuộm đỏ. Kể từ đó, những mồ mả của tử sĩ miền Nam được chôn cất tại các nghĩa trang trong thành phố còn bị CS đập phá, san bằng, thì chuyện đi tìm những người thân hy sinh trên các vùng núi non vô danh xa lạ, như Tiền Đồn 5 đã trở thành câu chuyện hoang đường. Hơn nữa ở thời điểm ấy, người sống chưa giữ được mạng mình thì làm sao còn có thể lo cho người đã chết.
Bà Nguyễn Xuân Quang không còn cách nào khác, rời bỏ ngôi nhà nhỏ bên khu trại gia binh Sông Mao, dắt bốn đứa con thơ về tá túc nhà cha mẹ ở Phan Thiết. Khổ nỗi, bà còn có người anh là một sĩ quan cấp tá tốt nghiệp (Khóa 16) Trường Võ Bị Đà Lạt và hai cậu em đều là sĩ quan Thủ Đức, nên cha mẹ bà cũng bị đuổi ra khỏi nhà. Bây giờ ông bà già phải cưu mang cả cô con gái và bốn đứa cháu ngoại tuổi còn thơ dại. Ông bà, con cháu cùng dắt díu nhau, bỏ thành phố Phan Thiết thân yêu, chạy về vùng quê Chợ Lầu, dựng tạm căn nhà lá bên bờ sông Lũy, kiếm sống qua ngày bằng khoai sắn tự trồng và cá lưới dưới dòng sông. Vậy mà cuộc sống lang bạt ấy vẫn chưa một ngày yên ả. Những hành xử và lời nói khắc nghiệt của những người bên thắng cuộc đã làm cho bà Quang không còn con đường sống. Bà đã uống mấy chai thuốc rầy để chết đau đớn trước mặt cha mẹ mình và bốn đứa con thơ. Bà xin lỗi vì đã để lại cho cha mẹ già một gánh nặng, và xin lỗi các con đã phải đành lòng bỏ con lại bơ vơ, bà không thể bắt các con phải chết theo mình. Sau đó vài năm, đứa con trai lớn cũng đã uống thuốc rầy theo mẹ. Đứa con trai thứ nhì, Nguyễn Thế Vinh, năm 1975 mới lên năm, bây giờ trở thành người phụ giúp đắc lực cho ông ngoại trong cuộc mưu sinh đầy khốn khó. Nhưng đau đớn thay, “họa vô đơn chí”, năm chín tuổi, khi chăn hai con bò của Hợp tác xã, lấy mấy ký lúa phụ ông ngoại, Vinh bị té xuống đất từ trên lưng bò. Cánh tay phải bị gãy. Do không có thuốc thang và băng bó không đúng cách, cánh tay bị nhiễm trùng, hoại tử phải bị cắt bỏ đến gần bả vai.
Ông bà ngoại lần lượt qua đời, mấy chị em Vinh lại được bà dì Út không lấy chồng, ở vậy cưu mang. Dù khốn khó, bữa no bữa đói, nhưng Vinh không chịu bỏ học hành. Bị tật nguyền, nhưng cậu bé lên mười vẫn thừa hưởng ý chí sắt đá của người cha để lại, Vinh vượt qua tất cả khó khăn, làm đủ thứ nghề để học hành thành đạt, mặc dù với cái lý lịch rất “đen”, Vinh không chút hy vọng gì mình có thể được ngoi lên trong một xã hội đang còn đầy dẫy những đố kỵ, hận thù. Đỗ Đại học Kinh tế ưu hạng, nhưng không kiếm được việc làm. Ngày tốt nghiệp có hai ba nơi gởi thư chọn Vinh khi thấy số điểm tối ưu của Vinh, nhưng không bao giờ gọi Vinh đi nhận việc. Vinh đi dạy kèm, mở các lớp luyện thi, và đặc biệt hơn, Vinh đã thành công bằng nghề tay trái – với cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng: Đánh đàn – tất nhiên chỉ bằng tay trái.
Những năm còn nhỏ, đặc biệt khi cậu hai Minh vừa trong tù cải tạo trở về, như để giải sầu trước một tương lai mịt mờ đen tối, ông thường ngồi đàn trong đêm vắng, lúc chỉ còn có hai cậu cháu. Vinh đã say mê, vì dường như chỉ có tiếng đàn mới làm tan biến những đau buồn, trắc ẩn trong lòng, làm cho Vinh tạm quên đi bao nỗi bất hạnh khi tuổi đời mới lớn, mà chung quanh tưởng chừng chỉ còn là bóng tối luôn bao trùm chụp phủ lấy Vinh. Chuyện đàn guitar bằng một tay mà lại là tay trái là một điều không tưởng, nhưng rồi với đam mê và ý chí, Vinh đã thành công. Tài năng và nổ lực phi thường của cậu bé chưa thành niên đã được Nhạc sĩ Nguyễn Ánh Chín biết tới, nâng đỡ, chỉ dạy thêm, và cuối cùng chính ông đã giới thiệu Vinh đến đàn cho Phòng Trà ATB của nữ ca sĩ Ánh Tuyết. Sau đó Vinh được một số đài truyền hình mời biểu diễn. Người nhạc sĩ một tay, đàn guitar bằng tay trái và thổi harmonica, đặc biệt những bản tình ca của Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Từ Công Phụng đã làm rung động lòng người, được cả nước tán dương. Tuy nhiên, đó vẫn chưa phải là điều mà mọi người biết đến để ngưỡng mộ Nguyễn Thế Vinh như sau này.
Từ lúc bỏ Sài gòn lên Bến Cát, Bình Dương mở các lớp dạy kèm và luyện thi đại học, Vinh có dịp được gặp nhiều học sinh nghèo, mồ côi, tật nguyền nhưng hiếu học. Suy nghĩ từ thân phận của chính mình, Vinh đã vận động bạn bè, đi khắp nơi kêu gọi những nhà hảo tâm, đứng ra mở Trung Tâm Hướng Dương, bảo bọc, nuôi dạy trên một trăm các em học trò nghèo, mồ côi và khuyết tật. Bây giờ thầy giáo Vinh trở thành chủ gia đình Hướng Dương, là cha, là anh cả của đám học trò mà chính Vinh đã đi khắp nơi, những vùng xa xôi, nghèo khổ để gom góp dắt díu về đây nuôi dạy. Đến hôm nay, trong số những học trò ấy, đã có nhiều em tốt nghiệp đại học, trên ba mươi em du học tại Nhật Bản, một em du học tại Úc Châu và một em đang du học tại Hoa Kỳ. Cậu bé, có cha là lính VNCH tử trận khi chưa tròn bốn tuổi, mồ côi cả cha lẫn mẹ từ năm lên bảy, mất cánh tay phải từ năm lên chín, giờ trở thành người nổi tiếng được bao nhiêu người trong và ngoài nước yêu thương cảm phục. Nhưng Vinh vẫn vậy, hiền lành, nhân hậu, chân chất, không ai tìm thấy trong nụ cười đôn hậu của Vinh một nét kiêu hãnh hay mối hận đời nào. Điều đáng phục hơn, trong bất cứ hoàn cảnh nào, ngay cả khi được các đài truyền hình và báo chí trong nước phỏng vấn, lúc nào Vinh cũng hãnh diện để nói về người cha quá cố, một sĩ quan QLVNCH đã hết lòng chiến đấu và hy sinh cho lý tưởng của mình.
Để có đủ tiền trang trải việc điều hành và nuôi dạy các em tại Trung Tâm Hướng Dương, hằng năm Vinh đều phải đi vận động, trình diễn khắp nơi ở hải ngoại, qua chương trình “Góp Lá Mùa Xuân” từ Úc, Âu, Á đến Mỹ Châu, phối họp với các cơ quan từ thiện khác, đặc biệt cùng tham gia tổ chức “Ngọc Trong Tim”, Vinh được mọi nơi hưởng ứng và hỗ trợ hết lòng. Đến đâu Vinh cũng hãnh diện để nói về người cha của mình, một sĩ quan VNCH đã anh dũng hy sinh. Hình ảnh người cha khá mơ hồ trong ký ức nhưng lại là một động lực để Vinh đứng lên từ nỗi bất hạnh tột cùng, và giúp tha nhân bằng tất cả trái tim mình. Tâm sự với bạn bè, Vinh bảo, điều hạnh phúc nhất của Vinh là nghĩ cha mẹ đang dõi bước chân mình và mỉm cười nơi chín suối.
Tháng 7/ 2019 trong dịp đến Úc Châu, Vinh cũng trình bày về cái chết của cha và ước mong được liên lạc với những người đồng đội cũ cùng đơn vị của ông ngày trước để được biết tường tận hơn về cái chết và địa điểm nằm xuống của cha mình. “Tờ trình ủy khúc” cũng đã thất lạc sau ngày mẹ Vinh qua đời.
Vinh được Luật sư Nguyễn Văn Thuần giới thiệu đến tôi, vì Thuần là người bạn đồng hương khá thân, biết tôi từng phục vụ gần mười năm ở Trung Đoàn 44 BB, đơn vị cuối cùng mà cha của Vinh, Thiếu úy Nguyễn Xuân Quang đã hy sinh. Vợ chồng LS Nguyễn Văn Thuần cũng là những người có nặng tấm lòng, tích cực hỗ trợ tổ chức “Ngọc Trong Tim”, gom góp yêu thương mang đến cho những người khuyết tật cùng các anh Thương Binh VNCH còn đang sống khốn khổ ở quê nhà.
Tôi liên lạc với Vinh qua điện thư, rồi qua điện thoại. Ngay sau khi biết rõ cấp bậc, tên họ và đơn vị cuối cùng của người đồng đội Nguyễn Xuân Quang, tôi liên lạc hỏi thăm một số bạn bè cùng Tiểu Đoàn 1/44 với anh Quang lúc xưa, được biết chắc chắn là anh Quang đã hy sinh tại Tiền Đồn 5 ở Kontum. Tôi nhớ ngay đến trận đánh tại địa danh này qua lời kể của Thiếu Tá Lê Thái Như, lúc chúng tôi bất ngờ gặp nhau tại trại tù số 6 ở Nghĩa Lộ. Thiếu tá Như là người may mắn sống sót và bị bắt làm tù binh trong trận này.
Tôi còn nhớ mang máng Tiền Đồn 5 nằm không xa, nhìn xuống con đường đất nối liền Kontum – Quảng Ngãi, lúc ấy bỏ hoang vì chiến tranh, nhưng không biết ở quãng nào, thuộc địa danh nào, hơn nữa thời gian đã quá lâu, hơn 45 năm rồi, có biết bao biến đổi. Tôi tìm cách liên lạc với một số sĩ quan thâm niên ở Tiểu Khu Kontum, may mắn gặp một anh đồng hương với vợ tôi, trước kia anh là Đại úy Chi Đoàn Trưởng Chiến Xa M-48, vì phản đối một khẩu lệnh hành quân của cấp chỉ huy mà anh cho là vô lý, chắc chắn sẽ đưa Chi đoàn của mình vào sa lầy, thảm bại, như trường hợp một chi đoàn bạn, anh bị kỷ luật, cho ra khỏi binh chủng, chuyển về Tiểu Khu Kontum giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn ĐPQ. Anh đã từng đóng quân tại Tiền Đồn 4, Tiền Đồn 5, và giữa tháng 10/1974, đơn vị anh bị địch quân tràn ngập ở Chương Nghĩa, anh bị bắt làm tù binh, khi ấy anh vừa được thăng cấp Thiếu Tá hơn một tháng. Anh ngồi vẽ lại vị trí Tiền Đồn 5 cho tôi, và để bảo đảm chính xác hơn, anh gọi cho một anh trung úy, đại đội trưởng dưới quyền của anh lúc xưa, là người Kontum và cũng đã từng đóng quân một thời gian dài tại Tiền Đồn 5. Trí nhớ anh bạn này rất chính xác.
Tôi liền viết một điện thư khá dài cho Vinh : “Hai hôm nay, chú đã liên lạc với chú Sơn, chú Khanh (ở cùng Tiểu Đoàn 1/44 với ba cháu) và vài người khác, đã tham dự các trận chiến trong cùng thời gian, cùng và chung quanh địa điểm mà ba cháu đã hy sinh, đặc biệt trong số này có người từng sinh ra, lớn lên và đi lính tại Tiểu Khu Kontum.
Đến hôm nay chú và chú Sơn, chú Khanh đã có được một số chi tiết tương đối chính xác về trường hợp hy sinh của ba cháu.
Ba cháu hy sinh tại Tiền Đồn 5 (khác với Căn Cứ 5 ở Tân Cảnh). Tiền đồn này nằm bên con đường từ Kontum đi Quảng Ngãi (lúc ấy bỏ hoang, không sử dụng từ lâu vì chiến tranh), bây giờ là Quốc Lộ 24.
Tiền Đồn 5 này nằm cách Thị Xã Kontum khoảng 15 km, gần khu vực Kon Xom Luh, giữa 2 địa danh có tên Kon Cha Re và Kon Se Tieu (không tìm thấy tên trên Google Map, có lẽ vì hai địa danh quá nhỏ).
Đặc biệt, tại Kon Xom Luh hiện có nhà thờ Kon Xom Luh.Nếu có dịp đến Kontum, cháu tìm đến nhà thờ này hỏi thăm các vị linh mục, nhờ quí ngài chỉ giúp, hay hỏi thăm người dân địa phương (lớn tuổi) Kon Cha Re và Kon Se Tieu nằm ở đâu.
Riêng ngày mất của ba cháu, chú nghĩ trong khoảng 15 đến 30 Tháng Sáu, 1974, nhưng chú Sơn và chú Khanh đang tìm hiểu từ những bạn bè có tham dự trận đánh ấy, để cho cháu một ngày chính xác hơn.
Tiếc quá, nếu cháu còn giữ ‘giấy báo tử’,lúc ấy được gọi là “Tờ Trình Ủy Khúc”, dành cho người mất tích (Lính hy sinh nhưng không tìm thấy xác đều gọi là mất tích), trong đó có ghi rõ ngày giờ và đặc biệt là tọa độ (địa điểm chính xác nhất) nơi ba cháu hy sinh.
Thời gian đã quá lâu, mọi sự đã thay đổi, các dấu tích chiến tranh và cả xương thịt những người lính hy sinh, chắc cũng không còn. Tuy nhiên tất cả đều để lại trong lòng những người còn sống như các chú và nhất là cháu, những vết thương khó lành cùng với một nỗi hoài niệm khó nguôi.
Các chú xin được thành tâm chia sẻ về sự mất mát và nỗi buồn lớn lao này của cháu và cầu nguyện ơn Trên che chở và giúp cháu tìm lại được những điều mà cháu từng mong ước…”
Vinh nhận được email này của tôi lúc đang trên đường ra phi trường Sydney để rời Úc trở về lại Việt nam. Vinh chỉ kịp gởi cho tôi vài hàng tin nhắn qua Viber: - Cháu sẽ lên Kontum ngay sau khi về lại Việt nam, cháu sẽ làm theo lời hướng dẫn của chú. Có gì cháu sẽ gọi chú qua Viber.
Trời đã không phụ lòng những con người hiếu thảo, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn giữ được trái tim, đặc biệt đối với một tâm hồn không hề vướng chút bụi bẩn của một xã hội kim tiền, vô cảm, Vinh đã được tất cả mọi người giúp đỡ tận tình, từ các vị nữ tu, đến người lính Thượng miền Nam thuở trước và cả những người lái xe ôm nghèo khổ, tận tình hướng dẫn và giúp Vinh đến Tiền Đồn 5.
Vinh kể: “Cháu đến chân núi của Tiền Đồn 5 là 11 giờ trưa ngày 28 Tháng Bảy, 2019. Lúc đó trời muốn mưa và mây phủ kín hết ngọn đồi của Tiền Đồn 5. Những ngọn đồi thấp hơn nằm chung quanh thì còn thấy thấp thoáng. Nhiều người dân nơi đó lo lắng cho cháu, khuyên không nên lên vì đường khó đi, nhưng lòng cháu lại cảm thấy rất nôn nóng, muốn đi liền ngay tức khắc.
Với sự giúp đỡ của người dân, hai thanh niên địa phương dùng hai chiếc xe gắn máy mà bánh xe phải ràng dây xích, một chiếc chở cháu, một chiếc chở đồ ăn, thức uống, hoa quả, bắt đầu leo núi.
Sau một tiếng leo núi bằng xe Honda qua nhiều đồi khác nhau, khi đến chân đồi của Tiền Đồn 5 thì không còn đường để xe gắn máy chạy nữa, nên cháu bắt đầu đi bộ, vừa đi vừa phải dùng rựa chặt cây mở đường. Sau 30 phút, cháu đến được đỉnh đồi của Tiền Đồn 5.
Những bao cát dùng làm chiến hào bị rách nát, vài đế giày bốt-đờ-sô vương vãi, những cục pin dẹp nằm chỏng chơ, những cọng kẽm gai phần chôn dưới đất, phần ló lên trên… là những gì cháu nhìn thấy trên khoảng đồi trống của Tiền Đồn 5. Cháu có cảm giác dấu tích trận đánh và âm thanh súng đạn năm nào vẫn còn hiển hiện, phảng phất nơi đây.
Nhìn những gì còn sót lại đó, cháu cảm thấy rất xúc động. Và thật lạ, là từ lúc lên đây sương mù đã phủ kín hết bầu trời, nhưng khi cháu lấy hoa quả bày ra và thắp bó nhang cho ba cùng các chú, các bác đã nằm lại nơi này, thì trời lại bỗng dưng ló nắng”.
Cuối cùng thì Vinh cũng đã đến được đỉnh Tiền Đồn 5, nơi mà xác thân Thiếu úy Quang, người cha thân yêu của Vinh đã nằm lại đó từ 45 năm trước, giờ chắc cũng đã tan cùng tro bụi.
Quỳ giữa đỉnh đồi vắng lặng, bàn tay trái duy nhất cầm chặt bó nhang, Vinh cúi đầu khấn vái hồn thiêng của cha và những người lính miền Nam đã chết cho quê hương và lý tưởng cao đẹp của mình. Bốn mươi lăm năm, đã trải qua biết bao chia lìa, khốn cùng, bi thảm, nhưng Vinh đã vươn lên, vượt qua những thử thách cay nghiệt nhất, để ngẩng cao đầu trong một xã hội mà cả gia đình mình từng là nạn nhân, luôn bị bên thắng cuộc cố tình xô đẩy ra bên lề xã hội, đến bước đường cùng, bởi một thứ hận thù không còn nhân tính. Nhưng cuối cùng, nhờ dòng máu của người cha còn luân lưu trong huyết quản, Vinh đã chiến thắng. Không chỉ thắng được số phận của chính mình, mà cao cả hơn, cũng giống như cha mình và những đồng đội của ông, Vinh đã thắng được lòng người. Cái thắng xem chừng vinh quang và bất diệt nhất.
Vinh đã được mời lên nói chuyện ở các đài truyền hình, tọa đàm trong các buổi tu học tại các cơ sở Phật giáo trước hàng vài ngàn Phật tử, được ví như “Cây Xương Rồng Trên Cát”, nói chuyện trong các hội văn nghệ, văn học. Cuốn tự truyện “Ông Giáo Làng Trên Tầng Gác Mái” của Vinh được độc giả cả nước bình chọn là “Tác phẩm Xuất Sắc Nhất của năm 2018, với nội dung truyền cảm hứng và động lực nhất để sống và để cống hiến”. Vinh nhận được giải thưởng lớn,100 triệu đồng, và đã góp hết vào ngân quỹ của gia đình Hướng Dương.
Trong cuốn tự truyện của mình, Nguyễn Thế Vinh cho biết: “Chính những ngày tháng dạy học cho các trẻ em nghèo, mồ côi, khuyết tật… đã làm nảy nở trong tôi ước mơ về một ngôi trường, cũng là mái nhà cho mấy đứa trẻ thiệt thòi ấy chui ra chui vào, vừa học chữ, vừa học làm người. Lũ trẻ và tôi sẽ dũng cảm bước đi trên con đường hướng tới tương lai bằng tinh thần tích cực và độc lập nhất”.
Một nhà phê bình đã viết về cuốn tự truyện của Vinh: “Cuốn sách này kể cho bạn nghe chuyện đời của một “hạt bụi” ngát hương, hết sức hồn nhiên trong cõi trăm năm đi về. Sức sống của “hạt bụi” ấy có thể khiến những ai đang bị cuộc đời dồn ép hoặc thấy mình sắp bị đời xô ngã sẽ kiên cường đứng vững và chân thật mến yêu cuộc đời”
Một nhạc sĩ tên tuổi đã từng thổ lộ: “Một lời tử tế chưa đủ để nói về Vinh”.
Hầu hết học trò của Vinh đều bảo “Thầy Vinh là cha, là bạn và cũng là vĩ nhân”
Vinh dự trù sẽ tổ chức một buổi tưởng niệm và cầu siêu cho cha và những đồng đội của ông đã hy sinh trên ngọn đồi Tiền Đồn 5, vào dịp cuối năm hay Tết Nguyên Đán với sự đồng tế của các vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo. Tất cả sẽ cùng thắp sáng lại trong tâm hồn một mùa Xuân, mùa của lòng biết ơn và hy vọng.
Vinh cũng nhờ các cơ quan truyền thông, báo chí và đồng đội của cha, giúp tìm cách thông báo đến thân nhân của những chú, bác đã cùng hy sinh với cha Vinh. Xin hãy liên lạc với Vinh để cùng tham dự buổi lễ tưởng niệm đặc biệt này. Người đầu tiên đã nghe được tiếng gọi của Vinh, một thanh niên hiện định cư ở bên Úc , chính là trưởng nam của cố Thiếu Tá Nguyễn Đức Vinh, sĩ quan liên lạc Pháo Binh của Tiểu Đoàn 233/PB cũng đã nằm lại trên Tiền Đồn 5 ngày ấy. Điều may mắn là cậu ta còn giữ được “Tờ Trình Ủy Khúc” trong đó có ghi rõ ngày giờ và địa điểm chính xác nơi cha anh đã hy sinh: ngày 16 tháng 7 năm 1974, tại Tiền Đồn 5, Tọa độ AR 863-994. Những chi tiết mà cháu Nguyễn Thế Vinh cũng đang cần muốn biết. Sau đó Vinh cũng đã liên lạc được với con của Cố Thiếu Tá Dương Đình Chính ở Sài Gòn, và sẽ gặp một thuôc cấp cũ của ba Vinh ở Sông Mao, để có thể liên lạc với gia đình những tử sĩ khác.
Cuộc chiến đã kết thúc – dù trong tột cùng bất công và tức tưởi – nhưng mãi đến 45 năm sau, hơn nửa đời người, những người con mới tìm đến được nơi cha mình đã hy sinh, xác thân vùi chôn ở đó. Nhìn hình ảnh người con trai chỉ còn một cánh tay với những nén nhang thắp muộn trên ngọn đồi hoang vắng, điêu tàn, từng xảy ra bao trận chiến đẫm máu đồng đội, lòng tôi lắng xuống. Hồi tưởng lại thời gian cuối cùng của cuộc chiến, tôi bỗng thấy đồng cảm, thấm thía với tâm trạng của người lính trẻ Paul Bäumer, nhân vật chính trong “Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh” (All Quiet On The Western Front), tác phẩm viết về chiến tranh nổi tiếng của nhà văn Erich Maria Remarque, mặc dù câu chuyện đã xảy ra từ thời Đệ Nhất Thế Chiến:
“Ngày tháng trôi qua. Mùa hè 1918 này là mùa hè đẫm máu và kinh hoàng nhất. Thời gian giống như những thiên thần đang bay lượn trên vùng hủy diệt một cách không thể hiểu nổi. Dường như ai cũng biết rằng chúng tôi sẽ phải thua trong cuộc chiến này. Nhưng rất ít ai nói ra điều ấy. Chúng tôi đang bị đẩy lui. Chúng tôi không còn đủ quân số, không đủ tiếp liệu, đạn dược để có khả năng phản kích sau cuộc tổng công kích này. Duy chỉ có các chiến dịch hành quân là còn đang tiếp diễn – và những cái chết sẽ vẫn còn tiếp tục…”
Chỉ có một điều khác biệt. Anh Paul Bäumer may mắn hơn chúng tôi, đối phương của anh dù là người không cùng một nước, nhưng chắc chắn không tàn ác và man rợ như kẻ thù đã chiến thắng chúng tôi, những người có cùng dòng giống nhưng không hề có trái tim người.
Phạm Tín An Ninh |
|||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||||
![]() |
|||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23849 |
![]() ![]() ![]() |
||||
![]() |
|||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||||
![]() |
|||||
<< phần trước Trang of 110 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |