![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Tâm Tình | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 158 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | ||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23678 |
![]() ![]() ![]() |
||
Chuyện Thằng Bé Tỵ Nạn Bất Đắc Dĩ
![]()
ùng khẽ nhếch vai để cái túi đi học đeo sau lưng trở lại tư thế gọn
gàng. Nó ngoái cổ ra sau kiểm tra lần cuối cẩn thận, và đẩy cửa, giữ vẻ
thản nhiên bước vô nhà.
Nó kinh ngạc khi thấy "Dad" John của nó đăm chiêu đi qua đi lại trong
phòng khách. "Ủa, sao hôm nay ổng về sớm vậy cà?" Tùng nghĩ thầm. Thấy
Tùng đi vào, ông mừng rỡ chạy lại ôm nó.
-Ồ, con đã về! Con đi đâu làm ta lo quá!
-Con đi học về, Dad!
Đang hoan hỉ, ông John bỗng xịu xuống, trở nên nghiêm khắc. Ông buông Tùng ra, đứng lên lạnh lùng:
-Con nói dối. Hôm nay nhà trường điện thoại cho "Mom" nói con không đi học khiến ta phải bỏ làm về kiếm con cả ngày nay.
Thằng Tùng sợ đến rụng rời tay chân. Trời ơi, vậy là lộ tẩy rồi! Nó mới
nghỉ học có một ngày, đã gọi về nhà? Cái trường chi quái ác. nó vẫn cố
chống chế:
-Con đi học thiệt mà Dad.
-Đừng dối ta, đó là một thói xấu. Hãy cho ta biết chuyện gì xảy ra, và
con đã làm gì vì ta đã gọi cảnh sát, tí nữa ta và mom phải báo cáo với
họ.
Nghe hai chữ "cảnh sát", Tùng càng hoảng. Câu chuyện không nhỏ như nó
nghĩ. Hồi còn ở quê nhà, thỉnh thoảng nó cũng trốn học mấy lần đi tắm
sông với tụi bạn, có ai hay đâu. Qua đây mới lần đầu tiên đã bị bắt tại
trận. Tùng cảm thấy vừa lo vừa ngượng ngùng vì lỡ nói dối bố mẹ nuôi nó.
Nó đỏ mặt ngượng nghịu cúi đầu, không dám nhìn ông John.
Giữa lúc Tùng chưa biết trả lời như thế nào thì cánh cửa bật mở. Bà Linda, "Mom" của nó hớt hải đi vào, nói không ra hơi:
-Kiếm khắp nơi mà vẫn không...
Bà ta ngưng lại khi thấy Tùng đứng đó. Bà trợn xòe mắt như không tin ở
chính mình, kêu lên, "Lạy chúa tôi!", quên hết cơn mệt chạy lại ôm
choàng Tùng.
-Con đi đâu cả ngày?
Vừa nói, bà Linda vừa nhìn thằng bé từ đầu đến chân xem nó có bị xây
xát trầy trụa chỗ nào không. Thái độ đầy quan tâm của "mom" làm Tùng
thêm bối rối, cúi gầm mặt. Sau khi xem xét và thấy Tùng vẫn lành lặn, bà
Linda yên tâm nắm tay nó kéo vào bếp.
-Tội nghiệp con tôi, chắc nó đói rồi, vào đây mẹ lấy pizza cho ăn.
Nhưng ông John đã cản lại:
-Khoan đã, tí nữa rồi ăn. Tùng phải nói chuyện gì khiến con nghỉ học không xin phép hôm nay. Lát nữa cảnh sát sẽ lại đây đó.
-Ông sao gấp quá, để cho con ăn xong rồi hỏi cũng được mà.
-Bà thương nó quá không được. Nên nhớ nó mới qua và chưa rành luật lệ. Tôi phải biết nó đã làm gì để trả lời với họ chứ.
Nghe ông John nói, bà Linda không biết làm sao hơn, cúi xuống dỗ Tùng:
-Cũng được. Tùng nói cho mom biết tại sao con không tới trường hôm nay
đi. Nếu con chỉ đi chơi mà không làm gì bậy, mom sẽ tha. Lần sau đừng
như vậy nữa.
-Con, con...
Thằng Tùng ấp úng, nó biết nói sao bây giờ? Đã đành nó trốn học và nói
dối là hai lỗi lớn. Nhưng nào phải nó đi chơi hay làm gì bậy đâu.
-Con đi... shopping.
-Shopping ư? Con mua gì ở đó? Hai ông bà ngạc nhiên.
Tùng tháo cái túi đi học trên lưng xuống. Lúc này, ông bà John và Linda
mới chú ý đến cái túi gồ ghề hơn mọi ngày trên lưng thằng bé. Nó cẩn
thận lấy ra một gói giấy: cái xe lửa chạy bằng pin.
Ông John thảng thốt:
-Con lớn rồi sao còn chơi cái đồ này?
-Tiền đâu con mua nó? Bà Linda tiếp.
-Con đi bỏ báo mua cái này cho em con ở Việt Nam.
Thằng Tùng bỗng bật khóc. Nó như được cởi mở tấm lòng.
Hai ông bà John và Linda nhìn nhau. Họ linh cảm đứa con nuôi trước mặt
đang mang một tâm sự chồng chất mà nó giấu kín. Nguyên nhân sự nghỉ học
của nó hôm nay có lẽ bắt nguồn từ đó...
Tâm sự của thằng Tùng: Nó là một thuyền nhân bất đắc dĩ.
Nói ra thì có vẻ hi hữu, nhưng trên đời có nhiều chuyện xảy ra một cách
kỳ cục không ai có thể liệu định được. Và một trong những cái “ kỳ cục”
đó đã xảy ra với Tùng hơn một năm trước đây, khi nó vẫn còn mang giỏ
mía ghim lang thang trên bến đò Kiên Lương mỗi buổi chiều kiếm thêm chút
tiền giúp đỡ gia đình.
Đúng ra nhà thằng Tùng cũng không nghèo lắm. Trước ngày giải phóng, ba
nó là Trung Úy Pháo binh đóng ở Cà Mau, má nó làm cô giáo tiẻu học.
Nhưng tai họa đã giáng xuống gia đình Tùng sau ngày 30/4 năm đó. Ba nó
phải đi học tập cải tạo. Tưởng chỉ có 10 ngày là xong, ai ngờ đến 6 năm
sau, khi Tùng rời quê nhà vẫn chưa gặp lại ba. Má nó bị cho nghỉ dạy vì
là "vợ sĩ quan Ngụy". Gia đình Tùng khốn đốn từ đó. Đã mất việc, lại
thêm phải nuôi ba nó trong tù, má Tùng phải tất tả làm đủ mọi việc để
nuôi bốn miệng ăn. Ban ngày bà ra chợ trời, buôn đi bán lại, tối về bà
phải nhận may vá thêm cho anh em Tùng đủ điều kiện cắp sách đến trường.
Cuộc sống mỗi ngày mỗi khó khăn. Tính, em nó, còn nhỏ chưa biết gì
nhiều, nhưng Tùng đã lớn, dù nó chỉ học lớp Sáu. Sự nghèo khổ và nhọc
nhằn đã khiến Tùng khôn trước tuổi để thấy những sợi tóc bạc ngày càng
rậm trên nét mặt khắc khổ của má. Những lần bà phải đôn đáo vay mượn
trong mỗi dịp gửi đồ tiếp tế cho ba nó trong tù...đã đẩy Tùng ra ngoài
xã hội.
Mỗi chiều sau khi đi học về, Tùng đi bán mía ở bến đò Kiên Lương. Nó vô
vườn mua rẻ mấy cụm mía về lóc vỏ, và chặt thành từng khúc nhỏ khoảng
bằng đốt ngón tay. Xong rồi nó đi kiếm tre, gọt thành những cây nhỏ, mỗi
đầu cây tẻ thành sáu nhánh nhỏ khác, vót nhọn, và gắn mía vào, vậy là
thành một ghim. Mía ghim.
Nó không bán ở chợ vì ở đó đã có nhiều thằng nhỏ khác bán. Ra nghề sau
nên Tùng phải chịu khó lặn lội ra tận bến đò. Tại đây cũng tấp nập không
kém chi ở chợ, nhất là vào buổi chiều. Ghe thuyền là một trong những
phương tiện giao thông chính của xứ Rạch Giá đầy mương rạch này. Khách
hàng của Tùng phần đông là mấy bác xích lô, hay xe ba gác, hoặc những
người từ thôn xóm chung quanh khi tan chợ trở về. Ngồi trên ghe gió
chiều hiu hiu, có ghim mía nhai đỡ buồn miệng, khỏi phải lóc vỏ, bỏ cùi,
mà giá lại rẻ mạt: có 50 xu. Nhai xong nhổ bã xuống rạch là xong, thật
tiện.
Công việc làm ăn của Tùng tiến hành suông sẻ. Mỗi ngày nó kiếm được ít
tiền đưa cho má để dành mua quà nuôi ba nó. Cuộc đời bán mía ghim của
Tùng không biết sẽ kéo dài bao lâu, nếu một ngày nọ...
Hôm đó Tùng ế hàng. Bán từ chiều đến gần tối mịt rồi mà rổ mía vẫn còn
vơi nửa. Điệu này hôm nay nó huề vốn là may. Đáng lẽ Tùng về nhà, nhưng
nó vẫn ráng kiên nhẫn ở lại. Biết đâu còn nhiều người về bến đò trễ cũng
nên. Đang thơ thẩn tìm khách, nó nghe gọi:
-Mía.
Tùng mừng húm thấy một thanh niên từ chiếc ghe lớn nãy giờ đậu im lìm dưới chân cầu đi ra.
-Mía bao nhiêu một xâu?
-Dạ 50 xu.
-Mày còn mấy xâu?
-Để coi. 1,2,3... 32 xâu.
-Tao mua hết, vị chi là 16 đồng phải không?
Đang mừng nghe nói được mua hết, Tùng khựng lại khi thấy anh thanh niên
đưa tờ 100 còn mới toanh. Tiền đâu mà thối? Nãy giờ nó mới bán được có
hai mươi mấy đồng, thêm mười đồng tiền lẻ má nó đưa để thối lại, cộng
chung cũng chưa đến bốn chục. Tùng lúng túng:
-Anh có tiền lẻ cho em xin, em không có đủ tiền thối.
Hơi ngần ngừ một chút, anh thanh niên nói:
-Thôi cho mày luôn đó nhỏ.
Tùng tưởng mình nghe lầm, nó trợn mắt nhìn anh thanh niên, ông khách
rộng lượng nhất trong cuộc đời bán mía mà nó đã gặp. Bỗng nhiên nó nhận
thấy cái anh này sao lạ quá, nhứt định không phải là dân ở đây. Nhất là
ảnh ốm và trắng, không giống dân bản xứ ở đây ai cũng nở nang và đen
sạm. Nó chợt nghĩ đến những tin đồn mà nó đã nghe, không dằn được, buột
miệng hỏi:
-Có phải anh ở Sài gòn xuống đây vượt biên không?
Người thanh niên tái mặt, anh quăng hết mấy xâu mía xuống sông và chụp
lấy thằng Tùng, bụm miệng nó lại. Diễn biến xảy ra quá đột ngột nên Tùng
không kịp phản ứng, chống cự một cách vô vọng, và bị người thanh niên
vác xuống thuyền.
Tùng cố vùng vẫy thật kịch liệt, chân nó đạp tùm lum làm văng luôn một
chiếc dép xuống sông. "Trời ơi, cha này định làm gì đây? Vượt biên thì
cứ vượt biên. Tui có đi báo công an đâu mà bắt tui?" Nhưng nó chỉ ú ớ
không thành lời.
Đem Tùng xuống khoang tàu và đóng cửa lại, người thanh niên cầm một cây
sắt dí trước mặt Tùng, "ngồi im, làm ồn tao đập chết thả xuống sông".
Tùng hoảng sợ thôi vùng vẫy. Thanh niên đè nó xuống sàn, và thả tay ra.
Bây giờ Tùng mới hơi hoàn hồn chút đỉnh và đưa mắt nhìn quanh. Trời đất
ơi! Cái khoang thuyền bé xíu mà đầy những người là người, già trẻ lớn
bé, đàn ông lẫn đàn bà, hầu hết đều lạ hoắc từ đâu tới.
Một người đàn bà ngồi gần cất giọng hỏi:
-Thằng nhỏ nào vậy? Sao tự nhiên bắt nó?
Hùng, người thanh nhiên phân trần:
-Tui định mua ít mía mang theo, ai ngờ thằng này biết mình sắp "đi" nên
phải đem nó xuống đây đó chứ, lỡ nó đi la tùm lum là bể hết, tù rã đám.
Tùng mếu máo:
-Em đâu biết gì đâu, thả em về đi anh ơi, hu hu!
Đám người vượt biên ngơ ngác nhìn nhau. Hùng lại lên tiếng:
-Mày không biết thực không?
-Thiệt mà, cho em về đi.
Anh Hùng quay sang nói với mấy người trong ghe:
-Coi bộ thằng này chỉ tình cờ thôi, nhưng vì an toàn, khi nào mình khởi hành mới thả nó ra được.
-Hu hu! Em về trễ má em đi kiếm.
Một người đàn bà khác lại dỗ nó:
-Thôi em chịu khó ngồi đây chút xíu, tí nữa anh Hùng cho em về nhà...Đây chị cho em một trăm mang về cho má.
Bà nhét vào túi áo nó tờ giấy bạc. Nếu ngày thường, có lẽ Tùng đã la lên su
ng sướng, bữa nay nó phát tài rồi. Nhưng không hiểu sao nó chỉ cảm thấy lo lắng, linh cảm điều gì bất thường.
Điều bất thường đã đến. Đang im lặng bỗng có tiếng gấp rút gõ cửa.
-Ai đó? Hùng hỏi.
-Tui, Tư đây Hùng, mở cửa mau.
Một người đàn ông ló đầu vào thở hổn hển:
-Lộ rồi, đám kia bị bắt hết và tụi du kích sắp đến đây đó, nhổ neo dông liền đi.
Cả khoang thuyền rúng động nghe tin dữ. Từng khuôn mặt hốt hoảng. "Chết
cha, làm sao bây giờ?". "Lên bờ trốn". "Khổ thân tôi"... Mỗi người một
câu, không ai còn nhớ đến Tùng đang ngồi một góc. Nó cũng lo lắng không
kém. Lỡ tụi du kích tới đây thấy nó cùng đám vượt biên này thì mười cái
miệng nói cũng không xuôi. Nó mà đi tù thì chỉ khổ cho má nó.
Anh Hùng hồi nãy cũng la lên:
-Bà con bình tĩnh. Bây giờ ai mà lên bờ là bị chôp liền. Đằng nào ghe cũng chuẩn bị rồi, ta đi luôn.
Vài tiếng hô lên đồng ý.
-Anh Hùng nói đúng, mình đi luôn may ra kịp.
-Một liều ba bảy cũng liều.
-Nhưng thằng em tui chưa tới mà?
-Thân ông lo chưa xong, còn lo ai? Muốn đi tù chung cho vui hả?
-...
-Vậy thì mình đi, Hùng lên tiếng. Ai lên phụ tôi kéo cái neo sau, còn anh Tư chuẩn bị lái.
Mọi người đã đồng lòng, chia nhau công việc để ghe có thể rời bến.
Lúc này thằng Tùng muốn trốn lên cũng không ai buồn để ý. Nhưng, có lẽ
số phận đã an bài, cái số của nó phải sống xa gia đình nên Tùng cứ nằm
yên run rẩy, nó cũng sợ đám du kích sắp đến như mấy người trên ghe. Tùng
cảm thấy vừa mệt vừa đói, đầu óc choáng váng. Nó cảm thấy cái ghe
chuyển động, tiếng lâm râm cầu nguyện của những người đàn bà trong
khoang...và thiếp đi lúc nào không biết.
Thế là chiều hôm đó, trên chuyến tàu vượt biên vội vàng đã mang theo
một hành khách không mong đợi: thằng bán mía ghim ở bến đò Kiên Lương.
Tàu đi được bốn ngày thì được tàu Mỹ vớt đưa vào bờ Mã Lai, và đến
Pulau Bidong sau đó. Mọi người trên đảo ai nghe câu chuyện của Tùng cũng
đều gật gù cho là...số mệnh, không ai có thể vượt biển một cách kỳ cục
như thằng Tùng.
Hôm đó sau khi tỉnh dậy, nó cảm thấy khát đến khô cả cổ, bèn mò dậy kiếm nước uống. Anh Hùng thấy nó trước tiên trên boong.
-Cha chả, thằng bán mía, sao mày còn ở đây?
-Cho em miếng nước.
Hùng đưa cho nó ly nước. Uống xong, Tùng bắt đầu tỉnh trí và nhớ lại mọi việc.
-Trời ơi, mấy anh cho em về nhà chớ đi đâu đây?
Nó hốt hoảng nhìn chung quanh. Trời đã tối lắm rồi, có lẽ tàu chạy xuôi
xẻ cũng được mấy tiếng và đang tiến dần ra cửa biển.Bốn bề chỉ thấy
nước mênh mông. Xa xa một vài ánh đèn chập chờn từ những tàu đánh cá hay
một trạm gác nào đó, leo lét. Thỉnh thoảng lại thấy vài cụm sậy thấp
thoáng trong bóng đêm dày đặc.
Ba bốn người từ dưới khoang đi lên, họ cũng chợt nhớ ra thằng Tùng. Một bà ái ngại hỏi anh Tư lái tàu:
-Mình đi xa chưa? Hay là tấp lại chỗ nào cho thằng nhỏ lên rồi đi tiếp?
-Trời đất, bộ giỡn sao chớ? Tối um vầy biết đâu mà vô. Rồi lại tụi du kích nghe tiếng ra túm hết cả tàu thì bà tính sao đây?
-Nhưng mà cũng phải cho thằng nhỏ về nhà chứ.
Tùng thút thít năn nỉ:
-Không sao đâu chú ơi, chú cho tàu chạy vào gần bờ rồi cháu nhảy xuống bơi vô được mà.
-Nói thiệt với mày nghe nhỏ, không phải tao ác hay là gì hết. Nhưng mày
là dân ở đây thì cũng biết, đằng kia toàn là rừng sậy không hà, mày bơi
chưa tới là đã lún sình ngủm củ tẻo rồi. Mà tao cho ghe vô gần hơn thì
cũng lún luôn, chết cả đám. Thôi mày đi theo tụi tao luôn đi. Được đi Mỹ
"chùa" không tốn một cắc mà còn than gì nữa? Tao sợ má mày hay tin mày
đi rồi bả còn mừng nữa à.
Thằng Tùng thất vọng nhìn chung quanh. Nó biết chú Tư nói thiệt. Nó bơi
như rái cũng khó qua nổi mấy vũng lầy trước khi vào đất liền. Tùng ngồi
xuống ôm mặt tấm tức, tự xỉ vả mình ham tiền ở lại trễ tại bến đò làm
chi cho bị... tai bay vạ gió như vầy...
Vậy mà trong ghe, Tùng lại được đi định cư sớm nhất. Nó ở đâu có 3,4
tháng thì được hội nhà thờ bảo lãnh sang làm con nuôi của ông bà John và
Linda, một cặp vợ chồng Mỹ không con cái.
Mấy tuần đầu ở đảo, Tùng nhớ nhà, nhớ ba má, nhớ thằng Tính em nó và
khóc hoài. Nó giận tất cả mọi người trong ghe đã ép uổng nó đi theo.
Chuyến ghe nó đi thật thuận buồm xuôi gió, không hải tặc, không đói
khát. Mấy người lớn tuổi nói trong ghe có "quí nhân" đi theo nên được
tai qua nạn khỏi. Và họ bảo nhau quí nhân đó chính là thằng Tùng. Đâu có
ai vượt biên một cách bất ngờ như nó đâu. Hồi đó hải tặc lộng hành, ít
có ghe tị nạn nào thoát khỏi, vậy mà ghe nó đi êm ru. Vì vậy ai cũng
thương và tử tế với nó, họ chia nhau an ủi và nuôi nấng Tùng trong suốt
thời gian ở trại vì nó không có ai thân nhân ở nước ngoài cả.
Đêm trước khi Tùng lên đường, mọi người mở tiệc tiễn "quí nhân". Mỗi
người một lời khuyên nhủ làm Tùng cảm động quên hết giận hờn. họ nói
riết, Tùng cũng tin là tại số phận của nó phải như vậy. Đây là ý của
Trời Phật muốn giúp nó ra nước ngoài ăn học để một mai thành tài giúp đỡ
cha mẹ lúc tuổi già. Cuộc sống bon chen lúc còn bán mía ở bến đò Kiên
Lương và biến cố vừa qua đã làm cho trí óc Tùng tiến một bước dài.
Trước khi từ giã, anh Hùng, người đã bắt nó xuống tàu hôm nọ nắm tay nó xem bói. Anh vỗ tay xuống bàn, la lên:
-Trời ơi, bà con coi bàn tay thằng này nè. Cái đường xuất ngoại của nó
dài và rõ như vầy thì đúng là số của nó phải đi du học rồi. Nói thiệt,
nếu hôm dó tui không nắm cổ nó kéo xuống ghe thì cũng có người khác làm
mờ.
***
Bốn tháng sau khi đến Mỹ, Tùng nhận được lá thư đầu tiên của má nó từ
Việt nam gởi sang. Còn gì mừng hơn được nhìn lại nét chữ của người mẹ
thân thương từ quê nhà. Nó ngấu nghiến đọc đến thuộc lòng cả lá thư mà
vẫn cứ đọc. Lại có cả thư của thằng Tính nữa chứ, em nó viết: "Em là
Tính em của anh nè anh Tùng, anh còn nhớ em hôn? “ Tùng đang khóc cũng
suýt bật cười đọc dòng chữ ngây thơ trên. "...Ba có viết thơ về nói bị
đau bao tử mà má không có tiền mua thuốc. Em muốn đi bán mía như anh
nhưng má không cho, má sợ em cũng bị bắt đi Mỹ luôn má ở nhà một mình
buồn. Anh ráng đi làm như anh con Hà rồi gởi thuốc về cho ba nghe. Mà
anh cũng nhớ mua cho em cái xe lửa điện như của con Hà vậy nghe, em ở
nhà một mình buồn quá. Nhớ nhe anh Tùng..."
Dòng chữ ngây thơ của em nó làm Tùng khắc khoải. Ba nó đang bệnh trong
tù, mà thuốc Tây ở chợ trời thì Tùng dư biết là mắc lắm, làm sao mua
nổi? Chưa kể má nó thiệt thà có khi còn mua nhầm thuốc giả nữa. Còn cái
xe lửa điện. Tùng nhớ hồi ở Rạch giá mỗi lần nhìn chị em con Hà gần nhà
chơi cái xe lửa điện của anh tụi nó từ ngoại quốc gởi về mà mơ ước cũng
có một cái, nhất là thằng Tính, mê cái xe lửa kinh khủng. Tùng chìu em,
vác cuốc đi đào đủ một lon sữa bò đầy giun để con Hà cho gà ăn thì nó
mới cho chơi chung. Đến bây giờ em nó vẫn còn mơ ước cái xe lửa.
Tùng muốn xin tiền bố mẹ nuôi để nó mua đồ, nhưng lại không dám. Ông bà
John và Linda thương nó như con ruột, chăm lo cho nó ăn học đầy đủ, nên
nó không muốn xin thêm điều gì làm phiền ông bà. Tùng quyết định đi làm
để tự mình kiếm tiền. Mà làm gì bây giờ nhỉ? Bán mía như ở Việt Nam ư?
Mỹ họ đâu có ăn mía ghim. Mía họ đóng hộp để lạnh, khi nào ăn thì khui
ra là xong. Tùng đâu thấy thằng Mỹ con nào bán mía ngoài đường.
May sao thằng Tâm bạn chung lớp chỉ nó gia nhập làng bán báo. Gì chứ
bán báo ở Mỹ dễ ợt, người ta đặt mua hàng tháng, bọn nó chỉ đem bỏ từng
nhà là xong. Và Tùng đi bỏ báo.
Hôm qua mới được lãnh lương nên sáng nay nó và thằng Tâm rủ nhau nghỉ
học để mua đồ. Đã lỡ giấu bố mẹ nuôi từ đầu nên Tùng phải nhờ thằng Tâm
chỉ dẫn. Thằng này qua đây đã lâu mà lại thường theo anh chị nó sắm đồ
nên rất rành đường xá. Đầu tiên, hai thằng đến tiệm thuốc tây Việt Nam
có bán loại thùng thuốc đóng sẵn. Tùng nhờ người bán hàng chỉ loại thùng
có thuốc trị bao tử để gởi về. Xong xuôi cả hai lại đáp xe bus tới mấy
tiệm bán đồ chơi để Tùng tìm mua cái xe lửa điện cho em nó. Lang thang
mãi rồi Tùng cũng kiếm được cái vừa ý, và nhất là hợp với túi tiền nhỏ
nhoi của nó.
Có điều thằng Tùng chưa rõ là nhà trường Mỹ không giống như ở Việt Nam.
Trước kia nó có trốn học đi coi đá banh, hay tắm sông với bạn bè mấy
ngày cũng không ai để ý. Nhưng ở Mỹ, con nít thường được chú ý, cho nên
khi cô giáo buổi sáng thấy Tùng vắng mặt không xin phép đã gọi điện
thoại về nhà. Câu chuyện đổ bể...
Ông John và bà Linda im lặng nhìn nhau. Họ đi từ ngạc nhiên này đến
ngạc nhiên khác. Đứa con nuôi của họ chỉ mười mấy tuổi đầu đã trải qua
bao lận đận, và cuộc đời của nó thật hi hữu. Đây hẳn là ý Chúa. Chúa đã
mang thằng nhỏ đầy tình nghĩa trong trái tim son trẻ kia về đặt trong sự
thương yêu của hai người để giúp nó được lớn lên trong một xã hội tự
do, bác ái, và để cho nó có cơ hội giúp đỡ cha mẹ nó tận bên kia Thái
Bình Dương.
Bà Linda ôm Tùng trong lòng, bà cũng khóc tự hồi nào.
-Ôi, con yêu dấu của mẹ. Cha mẹ không trách con nữa. Con thật là một đứa con ngoan.
***
Lúc bà nội Tùng còn sống, nó thường nghe bà kể chuyện ông lão ăn mày
nghèo khổ, một đêm trong miếu cổ nằm mộng thấy mình trở thành quan Tể
tướng, giàu sang quyền quí, sống cuộc đời cực kỳ hạnh phúc. Giật mình
tỉnh dậy trời chưa sáng, tất cả đều hết, ông lại là kẻ ăn mày nghèo khó
giữa đêm tối âm u...
Tùng mong mình cũng như lão ăn mày nọ. Tất cả chỉ là một giấc mơ. Nó
ước ao một sáng thức dậy, thấy mình vẫn còn nằm trên chiếc giường tre ở
quê nhà, nghe tiếng gà gáy, tiếng lục đục của má nó sửa soạn ra chợ.
Thấy chân thằng Tính gác trên bụng và hơi thở phì phò trên má... Cho đến
khi cảm giác êm ái của chiếc giường nệm và cái lạnh cuối năm của xứ
người đưa nó về thực tại. Có những đêm Tùng nằm mơ thấy mình trở về Rạch
Giá, lang thang trên bến đò với rổ mía, gặp lại ba má, bạn bè, để rồi
tỉnh dậy trong tiếc nuối ngẩn ngơ.
Đêm nay Tùng lại nằm mơ thấy mình về Việt Nam. Giấc mơ kỳ lạ. Nó thấy
"Dad" John lái xe chở nó và "Mom" Linda chạy trên xa lộ Mỹ, vậy mà khi
ổng quẹo vào exit là đã tới...Rạch Giá môt cách ngon lành. Tùng vào nhà
gặp má nó, thằng Tính, và điều mừng rỡ nhất là có cả ba nó nữa. Ông hết ở
tù rồi. Tùng khệ nệ khiêng thùng quà mà nó dành dụm từ mấy tháng nay
vào cho má nó. Nào vải, nào thuốc... và dĩ nhiên có cả cái xe lửa điện
cho thằng Tính nữa. Rồi trong khi má nó và "Mom" làm cá rô kho tiêu
trong bếp, "Dad" John và ba nó ngồi nhậu thật tương đắc. Ngoài sân,
thằng Tính lui cui chơi cái xe lửa, thỉnh thoảng khoái chí cười nắc nẻ.
Tùng cảm thấy mình thật hạnh phúc. Nó đã có ba má, rồi lại có cả "Dad"
và "Mom" nữa, tất cả đều yêu thương nó. Ô hay, ai nói Việt Nam và Mỹ xa
lắm cả một đại dương chứ với Tùng, nó thấy thật gần gũi, nhất là trong
những giấc mơ như vầy.
|
|||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||
![]() |
|||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23678 |
![]() ![]() ![]() |
||
Con Bảy đưa đò
Sơn Nam ![]() Rạch Cái Cau là ngọn sông Cái Lớn ăn qua địa phận tỉnh Cần Thơ. Trên ba mươi năm về trước, đó là nơi sầm uất, lau sậy mọc um tùm quanh mấy gốc bần to lớn cỡ hai người ôm không xuể. Sớm thì chim kêu, chiều thì vượn hú, quang cảnh buồn bã làm sao ! Thỉnh thoảng, có người bảo rằng : giữa đêm khuya nghe tiếng cọp rống. Những tin đồn đãi bất lành như vậy lần lần bị đánh tan và không còn làm cho ai sợ sệt nữa. Kìa kinh Xáng Lái Hiếu vừa múc xong ! Ngọn nước bạc mát lạnh, ngon lành đổ tuôn qua Rạch Giá, mang mấy dề lục bình lá xanh bông tím trôi phiêu lưu từ sông Hậu Giang ra ngoài khơi vịnh Xiêm La xa thẳm. Sông rạch thông thương, vàm Cái Cau lần lần có người đến cất nhà đông đúc thành xóm nhỏ, có ông hương ấp đứng đầu. Ông hương ấp họ tên gì ? Nhà ở lối nào ? Ðiều đó khách thương hồ ít ai quan tâm đến. Có qua đây, dầu vô tình đến cách mấy đi nữa họ cũng phải chú ý đến một cái tên, hay nói đúng hơn là một giọng hát : giọng hát của con Bảy đưa đò. Nó xa lạ nhưng quen thân, ấm áp. Khi cất lên thì cao hơn tầm bay bổng của con cò, con vạc, cao vút tận mấy vì sao đêm lấp lánh ; giọng ấy lúc buông trầm xuống thì như hơi gió xao động cả giòng sông, chuyển rung mặt nước dẫu khi thuyền đã xa khuất. Nó trở thành một lớp mù sương mờ ảo che lấp bóng dáng của người hát. Khách ngẩn ngơ nhìn theo không còn thấy gì nữa tâm trí bâng khuâng giữa cảnh sông rạch âm u với nhánh "bần gie con đốm đậu sáng ngời". Người hát hay thường thường là có nhan sắc. Bao nhiêu người tưởng tượng như vậy. Họ tìm tòi rồi đâm ra thất vọng. Vài người quả quyết : - Cô lái đò này mặt rỗ hoa mè. Nhưng rồi không nói ra, họ cũng phải nhìn nhận một sự thật : con Bảy có gương mặt chữ điền, đôi mắt đen lánh và vóc hình cao ráo. Lý lịch của con Bảy ra sao ? Chuyện đó lại càng khó hiểu. Chính ông hương ấp cũng chưa rõ vì hồi đó đàn bà, con gái không mang giấy chứng chỉ nên không có ghi tên vào bộ sổ. Mấy người ở lâu năm tại vùng này nói lại : năm đó, đâu từ miệt Cần Thơ, con Bảy xuống đây gặt mướn. Có điều lạ là đến khi rồi mùa thì cất chòi mà ở luôn chớ không về xứ. Năm sau, người mẹ già mang bịnh mà chết. Con Bảy đành sống một mình, hằng đêm chuyên nghề bán bánh bò cho ghe xuồng qua lại để độ nhựt ; sau đó, đưa đò. Xóm này bao nhiêu trai làng gấm ghé nhưng nó không ưng ai. Lần lần thiên hạ phải dang ra. Dạo nọ, cậu trai làng con của ông hương ấp vừa học được câu hát : - Hò... ơ... Anh muốn gá chữ lương duyên với em trăm năm tình chồng nghĩa vợ. Mai sau anh có vô phần từ trần, xấu phước chết trước thì em ơi ! Ðừng chôn xác anh dưới nước sâu sợ e con đỉa cắn, đừng chôn anh trên gò bởi ngại con mối ăn... Gái trong làng không ai đối được. Cậu trai nọ thích chí hát mãi một câu ấy hầu khoe tài khoe trí của mình. Nhưng đêm sau, giọng hò con Bảy trả lời : - Hò... ơ... Em gá chữ lương duyên với anh trăm năm tình chồng nghĩa vợ. Mai sau anh có xấu phần từ trần chết trước, em rước thợ Bắc về cẩn đá lục lăng để chôn chàng. Nghe câu đáp, ai nấy tấm tắc khen ngợi. Khi nấm mồ được cẩn đá thì sợ gì đỉa cắn, mối ăn. Ðó là cách giải quyết ổn thỏa nhất của mối tình bền như đá. Cậu trai nọ suy nghĩ tìm nhớ câu rao khác để thử tài con Bảy. Nhưng giọng con Bảy vội đuổi theo : - Hò ơ... Gái tôi không hò đến chuyện Tây Du thì thôi, chớ hò đến chuyện Tây Du thì nhắc từ thuở xưa kia Tề Thiên Ðại Thánh loạn Thiên Cung đánh trời giành đất làm cho ông Nhạc Hoàng xang bang xấc bấc, đến chừng thác xuống đất bị Ngũ Hành Sơn chụp đè. Phật Bà có dặn : Này Tôn Hành Giả ơi ! Nằm xuống đây chờ chừng nào Tam Tạng đi thỉnh kinh mi hãy đi theo làm đệ tử, Tam Tạng đi đến chợt thấy Tề Thiên nên mau mau chạy đến gỡ hai lá bùa... Tề thiên vùng mình đứng dậy được, nhưng mình mẩy thì ôi thôi... rong rêu đóng giáp, lỗ mũi thì cỏ mọc xanh lè... Bớ trai chàng có thấy không? Cậu trai đành chịu thua không đáp được, về nhà sanh bịnh tương tư. Trong cơn bịnh triền miên, có lần cậu đánh bạo bơi xuồng qua nhà con Bảy để tỏ nổi lòng : - Hò... ơ... Hột châu nhỏ xuống khoang hầm, Em ơi ! Phận em là gái phải có chồng nay mai. Con Bảy vội đáp : - Hộ hôn, điền thổ, đổ lửa mái nhà, Ðứa nào muốn bậu, ông bà cháy tiêu... Tức tối biết bao nhiêu ! Cậu trai quay trở về. Quả thật cô ta hỗn xược dám khinh rẻ cậu và cả đám trai tơ ở xóm vàm này. Cũng may, câu đáp ấy nhỏ giọng vừa đủ cho cậu nghe thôi. Câu âm thầm ôm mối hận, hằng đêm tự an ủi : - Ðèn treo Trường án, tỏ rạng bờ kinh. Bình Thủy lưu linh, đáo lại Long Tuyền. Trà Niền, Kinh Xăng, Ba Láng, Cái Răng Hơn không hơn cũng kiếm cho bằng. Có đâu thua bạn, bạn hành cười chê... Nhưng ở đồng quê, chuyện gì xảy ra lần lần thiên hạ đều hay biết. Họ không tiếc lời để mỉa mai con Bảy : - Ừ, Trời cao có mắt. "Cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị". "Trèo cao té nặng. Ngó cao đau ót". Cái ngày ấy lại đến. *** Như thường lệ, con Bảy sửa soạn lên bờ ngủ. Khuya ít có khách sang ngang. Hơn nửa, trời chuyển mưa đen kịt phía Nam. Nhưng kia, một ánh đèn nho nhỏ chói lềnh bềnh giữa sông, từ từ trôi lại như cố ý đón đầu : - Hò... ơ... Thân anh như con phụng lạc bầy. Thấy em lẻ bạn, anh muốn vầy duyên loan. Câu rao ấy thuộc loại tầm thường ! Nhưng cảm mến cái giọng trai ấm áp, con Bảy hát lại : - Gặp mặt anh đây, em muốn vầy hai họ, Sợ vợ anh ở nhà tiếng nọ tiếng kia. Khách cười to : - Anh nói với em, anh đã có vợ nhà. Vợ thì mặc vợ, anh xử hoà thì thôi ! Thừa lúc con Bảy đang rối trí, khách hò thêm một hơi : - Anh thương em, thương quấn thương quít, Bồng ra gốc mít. Bồng xít gốc chanh. Bồng quanh đám sậy. Bồng bậy vô mui. Bồng lủi sang lái. Bồng ngoáy trước mũi. Ðặt em nằm xuống đây... Kể từ hồi em đau ban cua lưỡi trắng, miệng đắng, cơm hôi. Tiếc công anh đỡ đứng, bồng ngồi. Bây giờ em vinh hiển... em bắt anh đi bán nồi làm chi ? Ý trách người tình nhân bạc bẽo ! Trí nhớ của con Bảy bao giờ cũng có cách sẵn sàng ứng phó : - Bánh bò một vốn ba bốn đồng lời, khuyên anh ở nhà cứ việc ăn chơi. Ðể em đi bán kiếm ít tiền lời, trước nuôi ba với má, sau lại nuôi mình... Cũng là tưởng nghĩa tưởng tình. Ai dè anh bạc nghĩa em phải ở một mình bơ vơ ! Khách bên xuồng nọ lên tiếng : - Ờ nàng ơi ! Khiến nghĩa bất vi vô dõng giã, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng. Nàng còn nghĩ phận chữ tùng, thì trao dây xích buộc vòng sau đây. Tức thì khách quày xuồng đi trước, rủ con Bảy tranh tài với khách. Nào chịu thua, con Bảy liền bơi theo sau. Mái chèo phía trước nhịp nhàng : - Ðêm khuya anh thức dậy xem trời ; Anh thấy sao Nguyệt Bạch, ngó xuống lòng rạch, anh thấy con cá chạch nó lội đỏ đuôi. Nước chảy xuôi, con cá buôi nó lội ngược. Nước chảy ngược, con cá nược nó lội theo. Anh than với em rằng số phận anh nghèo. Ðũa tre đâu dám đánh đèo với đũa mun. Giọng con bảy lảnh lót đuổi theo : - Canh khuya em thức dậy, em lau nĩa rửa dĩa, dọn bàn, Tay em san rượu chát, miệng em hát một đôi câu. Trên lầu kia tiếng chuông đánh rộ, Dưới nhà việc trống đổ tàn canh. Em đây lịch sự chi đó mà đi đâu năm bảy người giành ? Giả như con cá kia ở chợ, dạ ai đành nấy mua. Ðến khúc sông vắng, xuồng của chàng từ từ dừng lại. Con Bảy cũng lơi mái chèo. Bên ngọn, gương mặt của chàng rõ ràng là khôi ngô, tuấn tú. Chàng nói : - Cô Bảy hò hay quá. Con Bảy cúi đầu : - Anh hò hay hơn em đó chớ ! - Anh khen cái giọng hò của cô em. Nghe sao mà ngộ quá. Cô em dạy cho tôi... - Có gì mà dạy. Ðó là điệu "hò bánh bò" bắt chước giọng rao bán bánh bò trên sông. Ở đây sông rộng, nhà cửa, ghe xuồng thưa thớt. Mình phải có giọng vừa cao vừa dài, che lấp hết, để cho ai nấy nghe được mình. Khó hơn giọng hò cấy nhiều lắm, vì hò cấy có nhiều người ở gần mình để "hòa hơi" theo. Ở đây mình hò một mình. Ðôi mắt của chàng sáng lên, ngạc nhiên : - Vậy sao ? Hồi nào tới giờ tôi không hiểu rành. - Ủa ! Chàng ở xứ lạ mới đến à ? - Phải. Tôi ở Bình Thủy-Phong Ðiền xuống đây. Nhưng ở đâu cũng là non với nước. - Em gốc ở Ba Láng. Vậy là cũng như một quê. Em đến đây hai năm rồi. Lúc này ở trển ra sao ? - Cũng vậy... Hồi tháng sáu, Tây ăn lễ lộc gì đó. Cụ cử Hoành ở Sa Ðéc không chịu treo cờ của nó trước nhà. Thiên hạ đồn, không biết hư thiệt... rằng ngày lễ ấy cụ treo quần trước cửa để phản đối. Ở Bình Thủy, cụ Tòng Hiên làm bài thơ tự trào. May thay, hương chức làng giấu nhẹm nhưng vẫn thấu tai quan trên. Lúc đề bài thơ ấy, cụ Tòng Hiên kẹp ngọn bút ở giữa hai ngón chân mà viết. Ngạo nghễ quá ! Khí khái quá ! Vừa rồi ở Cái Răng có người bị tình nghi vì đã chép bài thơ "Vịnh chó chết trôi sông" Của cụ Cử Trị mà dán giữa nhà. Vì vậy, tôi phải đi. Qua đây gặp cô, vui biết mấy. Thôi ta tạm biệt... Nghe qua, con Bảy bùi ngùi tấc dạ ; Từ chỗ kính mến đến chỗ yêu thương chàng trai đó cũng không xa mấy. Con Bảy nhìn vầng trăng khuyết vừa hé lên khỏi ngọn bần. - Bao giờ chàng trở lại. Em xin chờ. Chàng cười mà đáp : - Cám ơn. - Lời em hứa là chắc. Hay chàng không tin nơi lời nguyền của gái đưa đò. - Ðâu phải vậy. Chỉ sợ tôi không giữ đúng lời hứa của tôi. Chí trai bốn biển là nhà. Không có sức như chim bằng, như cá kình chớ phận con se sẻ, con tép, con tôm này cũng đòi học ngao du trong vòng đất nước nhỏ hẹp. Dứt lời, chàng đứng dậy cất mái chèo. Con Bảy xúc động, rưng rưng nước mắt. Duyên may một đời chưa chắc gặp hai lần. - Vậy thì xin chàng dạy lại cho em một đôi câu hò... để em nhớ đời. - Cô hò đã hay mà lại có duyên. Tôi còn biết gì mà dạy thêm. Họa chăng chỉ có một tấm lòng này... "Một tấm lòng" ! Con Bảy mãi suy nghĩ về ba tiếng đó, chừng giựt mình nhìn lại thì chàng đã khuất dạng trong lớp sương khuya. *** Cầu cao ba mươi sáu nhịp, Em qua không kịp, Nhắn lại cùng chàng : Cái nghĩa tào khang sao chàng vội dứt ? Ðêm nằm thao thức, tưởng đó với đây, Biết nơi nao cho phụng gặp bầy, Cho le gặp bạn, Ruột đau từng đoạn, Gan thắt chín từng, Ðôi ta như quế với gừng, Dầu xa nhau nữa cũng đừng tiếng chi. Bây giờ, con Bảy đưa đò đã già ; người ở chợ vàm lại kêu bằng dì Bảy Ðò. Cứ mỗi sáng, dì ngồi đó nhưng tâm trí bâng khuâng theo câu hát nói trên. Chàng trai trẻ năm xưa như con nhạn bay xa. Phận của dì ví như con le bơi lội lẩn quẩn trong ao hồ nhỏ hẹp. "Dầu xa nhau nữa cũng đừng tiếng chi". Phải chăng là dì năn nỉ chàng trai năm xưa đừng khinh dì là người kém lòng yêu non nước ? Mấy năm rồi, dì không còn đưa đò nữa. Ngang kinh Xàng đã có cây cầu sắt. Trên, xe hơi chạy. Dưới, tàu đò đưa. Ngay tại vàm xóm nhà cũ lần lần tản ra, nhường chỗ cho một nhà lồng chợ. Hồi nào thênh thang trời rộng sông dài, giờ đây dì ngồi lì một chỗ. Hồi nào trăng trong gió mát, giờ đây dì phải chịu đựng từ hừng đông tới lúc tan chợ trưa, bên một lò lửa cháy và một nồi nước sôi ! Nãy giờ chúng tôi quên nói rõ : dì chuyên bán thịt heo luộc. Nếu thời xưa dì nổi danh về câu hát câu hò, ngày nay món thịt heo luộc của dì cũng ngon ngọt không đâu sánh kịp. Thịt heo già, thịt heo nái mà dì luộc rồi thì cũng trở nên mềm mại, không dai, da thật dòn. Bởi vậy, lắm người ở chợ lân cận đến đây tìm mua cho được để nhậu hoặc ăn với bánh hỏi. Lắm người khách tò mò : - Dì Bảy à, Dượng Bảy đâu rồi ! Sao ở đây không ai biết cả ? Dì đáp : - Dượng Bảy đâu còn ! Cũng như không. Dì... ở góa hằng chục năm rồi mấy cháu à... - Làm sao thịt heo của dì luộc ngon quá vậy ? Chỉ cho chúng tôi học với. - Có khó gì đâu. Nhưng... mà khó lắm ! Phải luộc trong nồi nước có để chút xíu phèn. Ðừng cho nước quá sôi mà hại đó mấy cháu ! khi nước sôi thì đổ vô một lon nước lạnh. Cứ như vậy hoài. Dì chỉ cho nhiều người nhưng họ luộc không ngon, nói rằng dì giấu nghề... - Ờ... nghe mấy bà già nói rằng hồi đó dì đưa đò, hò hát hay lắm phải không dì Bảy ? Dì nhớ lại, dạy dùm chúng tôi... Thiệt là khó quá. Không dạy, e mang tiếng làm hiểm. Mà dạy thì dạy làm sao ? Ngồi đây mà nhớ đến cái thời xuân xanh năm nào ! Nó như chiếc lá già rụng, mục nát trở về lòng đất để làm phân cho nghững cây tơ khác đâm lộc nẩy hoa. Nó như một chiếc xuồng cũ kéo lên trên đất khô, phơi dưới ánh nắng day gắt. Còn đâu hơi gió cũ ? Còn đâu ánh trăng xưa ? Còn đâu hơi thở, còn đâu dáng người ? Còn đâu bến sông "nhánh bần gie con đốm đậu" ? Buộc lòng dì Bảy nói một câu : - Cái việc hò hát cũng như cái việc luộc thịt heo vậy. Ai làm cũng được. Cách thức dễ ợt. Nhưng mà công phu lắm. - Công phu là thế nào dì Bảy ? Im Lặng, chập sau dì đáp : - Ở đây, hồi đó có người nói là cần "một tấm lòng". Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 01/Jul/2012 lúc 5:27pm |
|||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||
![]() |
|||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||
![]() |
|||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||
10 chuyện tình bất diệt vượt thời gian
Tình yêu của họ khiến người đời sau ngưỡng mộ...
Bạn có tin vào tình yêu đích thực, yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên hay tình yêu lâu dài mãi mãi? Thực tế cho thấy, có những câu chuyện tình vượt khoảng cách địa lý, thời gian và không gian, những chuyện tình có thể coi là bất tử. Chúng mình cùng điểm lại những chuyện tình như vậy nhé!
1. Chuyện tình Annie Oakley và Frank Butler
Vở nhạc kịch nổi tiếng "Annie Get Your Gun" được lấy cảm hứng từ câu chuyện tình yêu đích thực của Annie Oakley và Frank Butler. Đó là câu chuyện tình dễ thương và đáng yêu của cô gái mang tên Annie Oakley - tay súng thiện xạ ở Ohio, với "đối thủ" - người chồng tương lai của cô là Frank Butler. Frank Butler tự hào vì mình là tay súng số 1 và sẵn sàng thách thức mọi đối thủ. Ngay sau đó, anh ta nhận được lời thách đấu của Annie Oakley, điều này khiến Frank vô cùng thích thú. Hai người đấu với nhau một cách công bằng và sau 25 phát súng, Frank buộc phải chấp nhận thua.
![]() Người đẹp Annie Oakley không chỉ nhận được tiền cá cược mà còn nhận được trái tim si tình của gã “đối thủ” đáng ghét. Sau đó, Frank tán tỉnh Annie và họ kết hôn vào ngày 26 tháng 3 năm 1882. Frank từ bỏ sự nghiệp bắn súng của mình để trở về chăm lo cho Annie. Họ có 44 năm chung sống trong tình yêu tươi đẹp, Annie mất vào năm 1926 và Frank cũng đau khổ mất theo sau đó 18 ngày.
Năm 1946, vở kịch Annie Get Your Gun được dàn dựng lại dựa trên chính câu chuyện tình yêu của Frank và Annie. Khi ra mắt trên sân khấu Broadway, vở nhạc kịch nhanh chóng trở thành một hiện tượng và được diễn đi diễn lại rất nhiều lần tại cả New York (Mỹ) lẫn London (Anh).
2. Chuyện tình hoàng tử Saleem và nô lệ Anarkali
Năm 1615 ở Lahore (Ấn Độ), hoàng tử Saleem - con trai của hoàng đế xứ Mughal – Akbar đem lòng yêu một cô nô lệ xinh đẹp tên là Anarkali. Vẻ đẹp quyến rũ của Anarkali đã mê hoặc và hấp dẫn chàng hoàng tử. Chẳng bao lâu sau, tình yêu của họ nảy nở và trở nên sâu sắc.
![]() Akbar và vợ vô cùng xấu hổ khi con trai mình dành tình yêu cho một người đầy tớ tầm thường. Nhà vua tìm mọi cách để chia rẽ họ. Vua Akbar nghĩ ra cách đấu võ với con trai mình và sau khi thắng, ông ra lệnh cho hoàng tử chọn, một là cái chết hoặc Anarkali sẽ phải chết.
Hoàng tử Saleem đã chọn cái chết nhưng Anarkali không thể đứng nhìn người yêu chết vì mình. Cô chấp nhận đánh đổi mạng sống của mình chỉ để có được một đêm bên người yêu. Sau đêm đó, Akbar đã cho chôn sống Anarkali trong một ngôi mộ gạch. Ngôi mộ này vẫn còn cho tới tận hôm nay như là minh chứng cho lòng cao thượng, hy sinh cho tình yêu.
3. Chuyện tình giữa Mark Antony và Cleopatra
Chuyện tình giữa Mark Antony và Cleopatra là câu chuyện tình yêu đầy cảm động. Câu chuyện tình yêu này diễn ra vào năm 31 TCN ở Rome và Ai Cập. Hai người có quyền lực của Ai Cập và Rome thực sự rơi vào vòng xoáy của tình yêu khi trao nhau cái nhìn đầu tiên.
![]() Mark Antony hoàn toàn bị mê hoặc, chàng rất muốn chung sống với nàng Cleopatra xinh đẹp nên đã ly hôn với vợ - Octavia. Anh trai Octavia biết chuyện đã mang binh lính của thành Rome tới để phá mối quan hệ của họ. Hai người vì quá yêu nhau đã cùng tìm đến cái chết chứ nhất định không chịu xa rời nhau. Mark Antony chết cùng thanh kiếm của mình còn Cleopatra tự tử. Họ chết nhưng tình yêu thì vẫn bất diệt.
4. Chuyện tình Juan và Evita Peron
Chuyện tình của Juan và Evita Peron được coi là một trong những chuyện tình đẹp nhất thế giới và được người đời hết lời ca ngợi. Mặc dù là vợ thứ hai của Tổng thống Argentina - Juan Peron (1895 - 1974) nhưng bà luôn được biết đến là vị đệ nhất phu nhân có vai trò quan trọng đến những quyết sách của chồng, là người chiếm được nhiều lòng thương mến và tình cảm của người dân. Bà là người giàu lòng nhân ái và luôn quan tâm đến người dân. Vì mải mê đến các hoạt động từ thiện nên bà không biết trong cơ thể mình từ lâu đã ủ mầm bệnh. Bằng nghị lực và tình yêu cuộc sống, bà đã gồng mình chống chọi nhưng cũng không thể chiến thắng được căn bệnh quái ác. Bà mất vào năm 1952.
![]() Juan bàng hoàng và vô cùng đau khổ trước sự ra đi của người vợ yêu quý. Để tỏ lòng biết ơn và tình yêu thương vô hạn, Juan đã mời một nhà ướp xác tới để bảo quản thi hài của Evita. Trong những ngày tang lễ, nhiều người dân đã nghẹn ngào nói lời vĩnh biệt bà và xếp hàng hàng giờ để đặt môi hôn lên chiếc quan tài thủy tinh lần cuối cùng.
5. Chuyện tình Tristan và Isolde
Isolde là con gái của vua Ireland. Bà được hứa hôn cho vua Mark của xứ Cornwall nhưng lại có tình cảm với Tristan - cháu trai của nhà vua. Bà vẫn tiếp tục quan hệ tình cảm với Tristan dù đã kết hôn với Mark. Chẳng bao lâu sau, nhà vua biết được sự thật nhưng vì tình yêu với người vợ của mình, nhà vua quyết định tha thứ tất cả và cấm cháu mình là Tristan đến Cornwall.
![]() Tristan đến Brittany và gặp một cô gái khác, hai người nhanh chóng kết hôn nhưng Tristan không thể nào quên tình yêu với hoàng hậu Isolde. Vì quá nhớ thương, Tristan lâm bệnh nặng. Ông đã viết một bức thư gửi tới Isolde với hy vọng rằng cô sẽ có thể đến và chữa khỏi bệnh cho mình. Cuối cùng, Tristan đã chết vì không thể chờ đợi lâu hơn được nữa. Sau đó ít lâu, Isolde cũng chết vì đau buồn.
Tuy nhiên, cũng có người cho rằng, câu chuyện này được phát triển theo một hướng khác. Khi vua Mark phát hiện ra, ông đã nổi cơn giận dữ và giết Tristan, cháu trai của mình bằng một thanh kiếm tẩm thuốc độc. Khi Isolde biết tin và nhìn thấy thi thể của Tristan, bà đã chết vì xót thương và ngã gục ngay lên người Tristan. Dù là hướng nào chăng nữa, tình yêu của họ vẫn luôn mãnh liệt và đầy cảm động.
6. Hoàng tử Edward và Wallis Simpson
Câu chuyện này kể về sự hy sinh của cải và quyền lực cho tình yêu một cách đầy cảm động của hoàng tử Anh Edward và phụ nữ xinh đẹp người Mỹ tên Wallis Simpson. Wallis Simpson đã ly dị chồng và cùng chung sống với hoàng tử Edward. Tuy nhiên, Wallis không thể trở thành nữ hoàng Anh do vẫn mang quốc tịch Mỹ.
![]() Edward đã trở thành vua của nước Anh vào năm 1936 nhưng ông đã sớm thoái vị ngai vàng để được kết hôn với người phụ nữ mình yêu. Tình yêu của họ càng ngày càng sâu đậm, họ sống hạnh phúc bên nhau. Edward qua đời vào ngày 28 tháng 5 năm 1972 còn Wallis đã sống thêm 14 năm nữa và gần như tách biệt với thế giới. Bà qua đời vào ngày 24 tháng 4 năm 1986.
7. Pyramus và Thisbe
Câu chuyện tình yêu giữa Pyramus và Thisbe bắt đầu vào năm 331 TCN và được coi là nổi tiếng nhất của thành Babylon. Pyramus là người đàn ông đẹp trai nhất và là bạn thời thơ ấu của Thisbe. Cả hai đều sống cùng thành phố và tình yêu cứ thế lớn dần theo năm tháng. Tình yêu của họ vấp phải sự phản đối kịch liệt của gia đình. Họ quyết định chạy trốn để bảo vệ tình yêu cũng như có thể chung sống bên nhau trọn đời.
![]() Hai người đã lên kế hoạch gặp và cùng nhau bỏ trốn nhưng không may, trên đường đi, Thisbe bị một con sư tử núi tấn công. Thisbe chạy thoát nhưng con sư tử ấy đã cướp mất mạng che mặt của bà. Khi Pyramus nhìn thấy chiếc mạng che mặt thấm đẫm máu trong miệng con sư tử núi, ông tin rằng bà đã bị giết chết và liền tự vẫn bằng chính thanh kiếm của mình. Khi Thisbe nhìn thấy xác của Pyramus, bà đã nhặt thanh kiếm của người yêu và cũng tự kết liễu đời mình.
8. Marie và Pierre Curie
Cùng sở thích trong khoa học và niềm say mê nghiên cứu đã kéo họ xích lại gần nhau. Năm 1981, Maria Sklodowska (hay còn gọi là Marie) đến Paris để tham dự Hội nghị Sorbonne.
![]() Với vẻ thông minh và khả năng làm việc nhạy bén, cô lọt vào mắt xanh của Pierre Curie, giám đốc một trong các phòng thí nghiệm nơi Marie làm việc. Sau nhiều lần cầu hôn, cuối cùng Marie quyết định kết hôn với Pierre vào năm 1895. Năm 1898, họ cùng nhau phát hiện ra polonium và radium.
Pierre Curie và nhà khoa học Henri Becquerel đã giành giải Nobel Vật lý năm 1903 với phát hiện ra phóng xạ. Khi Piere Curie qua đời vào năm 1904, Marie tiến hành công việc của họ đang làm dang dở. Bà trở về làm việc tại Sorbonne và trở thành nữ giáo viên đầu tiên của trường. Năm 1911, Marie Curie trở thành người đầu tiên nhận hai giải thường Nobel về hóa học. Bà tiếp tục làm thí nghiệm và giảng dạy cho đến khi bà qua đời vì bệnh bạch cầu năm 1934.
9. Abigail và John Adams
Câu chuyện tình yêu của họ diễn ra trên chiến trường chính trị đầy sóng gió. Abigail Adams là vợ của John Adams, tổng thống thứ hai của Hoa Kỳ. Họ được biết đến với những bức thư tình dài, chan chứa tình cảm. Hai người viết thư chia sẻ những suy nghĩ, những ý kiến về cuộc chiến tranh Cách mạng Mỹ xảy ra và những công việc buộc Adams phải xa nhà.
![]() Adams qua đời vào ngày 28 tháng 10 năm 1818 vì bệnh thương hàn, vài năm trước khi con trai của bà trở thành Tổng thống. Abigail được chôn cất bên cạnh chồng trong một hầm mộ nằm trong các giáo xứ đầu tiên Nhà thờ Mỹ (còn được gọi là Giáo Hội của Tổng thống) ở Quincy, M***achusetts.
10. Eloise và Abelard
Chàng là giáo sĩ, nàng là nữ tu, chuyện tình của họ về mức độ mãnh liệt và bi đát không thua Romeo và Juliet. Chỉ khác, họ là nhân vật có thật. Pierre Abelard - nhà triết học và thần học lừng danh của nước Pháp thế kỷ 12 và Heloise - một giai nhân sắc đẹp hơn người, trí tuệ và phẩm cách hoàn mỹ.
Họ tạo nên câu chuyện tình bất hủ, chuyện tình được xem là đẹp nhất mà cũng bi thảm nhất trong lịch sử loài người. Pierre Abelard gặp Heloise lần đầu tiên khi chàng đã 36 tuổi, còn nàng mới là thiếu nữ tuổi 16. Lúc đó, Abelard đã là một triết gia, một nhà thần học kinh viện lừng danh, là giáo sư xuất sắc trong các lĩnh vực này ở Paris.
![]() Còn Heloise là cháu ruột của Fulbert - một giáo sĩ có chức sắc, giàu có và thế lực. Mối quan hệ bí mật của họ trở thành cơn thịnh nộ của ông chú Canon Fulbert. Trong thời gian bị chia cắt, họ đã viết rất nhiều bức thư cho nhau để nói thay lời yêu thương. Để bảo vệ tình yêu của mình, họ chạy trốn và có với nhau một đứa con.
Không còn cách nào khi phát hiện ra Heloise mang thai, Abelard phải tìm gặp ông bác của người yêu để nói chuyện và xin cưới Heloise. Fulbert vô cùng tức giận và phái những kẻ hầu cận “thiến” Abelard trong khi ông đang ngủ. Sau đó, Abelard trở thành một thầy tu và cống hiến toàn bộ phần đời còn lại cho việc học hành. Heloise đau khổ cũng quyết định trở thành một nữ tu sĩ. Bất chấp sự chia cắt và đau khổ, Abelard và Heloise vẫn dành trọn tình cảm cho nhau. Những bức thư tình sầu thảm, chan chứa nước mắt của họ về sau đã được công bố và nổi tiếng khắp thế giới. st. |
|||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||
![]() |
|||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||
SÀI GÒN và TÔI
![]() Kính tặng Thầy Lê Văn Quang ,thầy dạy môn Sử Địa thời T.H.đệ nhất cấp. Bất cứ ai đã ghé một lần thì luôn nhớ Sài Gòn, ai đã "sống" ở Sài Gòn khi ra đi đều mang theo Sài gòn trong tim ,"sao dzậy hén", vì Sài gòn rất là ...Sài gòn... Ngay khi đặt chân lên miền đất ngập nắng ấm này, cảm nhận đầu tiên là giọng nói của người Sài Gòn: ngọt, mềm mại ,ấm và dịu dàng ,còn hỏi tại sao có được những "tố chất" ấy tôi xin thua, bạn đọc có thể tìm câu trả lời ở những người viết "tầm cỡ", những nhà" nam bộ học" như các ông Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Vương Hồng Sển... Khi còn là cậu học trò ở làng quê nghèo, Sài Gòn là nơi mà tôi mơ được đặt chân đến dù một lần cho... biết, trong trí tưởng khi nghe danh "hòn ngọc Viễn Đông" ,Thủ Đô nước Việt-Nam Cộng Hòa, Sài Thành hoa lệ Nhưng điều làm tôi xôn xao mơ ước nhất là khi nghe bản nhạc Sài Gòn của nhạc sĩ Y Vân : "dừng chân trên bến khi chiều nắng chưa phai, ngựa xe thấp thoáng muôn tà áo tung bay... phố xá nơi đây đón chân tôi đến chung vui ... Sài gòn đẹp lắm...Sài gòn ơi ...Sài gòn ơi..."
Lần đầu tiên tôi đã "có "Sài gòn như vậy ,một chiều nắng mùa hè ,nắng chưa phai và nóng rừng rực ,một dòng xe cộ nườm nượp ,cũng là lần đầu tôi thấy xe xích lô đạp ,xích lô máy,những chiếc "tắc-xi" với 2 màu vàng và xanh ...khi chiếc xe hành khách tên Mai Tiến lăn bánh rời Hàng Xanh bon trên đường PéTrus Ký , tôi căng mắt để nhìn Sài Gòn.
Sau buổi chiều biết Sài Gòn ấy, nhờ lòng tốt của người thầy học cũ tôi được trọ học ở nhà thầy thuộc một giáo xứ vùng ngoại ô Sài Gòn .
Sài-Gòn có hàng trăm con đường, người ta hay nhắc tới những con đường khu trung tâm như Lê Lợi, Tự Do, Lê Thánh Tôn, Phạm Ngũ Lão … những con đường "đi" vào văn học được nhắc trong nhạc,thơ, tiểu thuyết như đường Nguyễn Du, Duy Tân, Lê Lợi... có khung cảnh thơ mộng giữa chốn phồn hoa ,những con đường có tán me che mát quanh năm, lá me rụng rơi trên tóc những cô gái miền Nam mà giọng nói êm như gió thoảng, ngữ điệu "ngọt" và dịu dàng làm chết lòng con trai tứ xứ, bây giờ nữ sinh cũng mặc áo dài nhưng tôi thấy mất đi hay nói đúng hơn là "giảm chất thơ" trong tà áo dài ,có lẽ do ngoại cảnh chi phối trong cái nhìn của tôi chăng ,một thành phố nay với hơn tám triệu con người ,hầu hết dùng xe gắn máy mà lại ưa chuộng xe "phân khối lớn",dáng xe thể thao cho hợp với thời đại ,cứ tưởng tượng thì áo dài đâu có hợp với những Honda@, Dylan, dịu dàng cứ bị gọt đẽo bởi thời @. Mà bây giờ tóc ngang vai cũng khó tìm ,con người phải vật lộn trong đời sống "công nghiệp hóa" tất bật và căng thẳng ,người ta vẫn làm đẹp,yêu cái đẹp và để chăm sóc mái tóc của thời khắc "xô bồ" là phải hy sinh ,gọn nhẹ ,đội cái "nồi cơm điện lên cho an toàn thì mái tóc dài ngắn ai thèm quan tâm ,người ta bịt mặt như hiệp sĩ Zoro ,thò 2 con mắt ai cũng dáng dấp "xì tin" ,một va quẹt nhỏ là sừng sộ quát nạt nhau rất là "phi văn hóa", Sài Gòn của tôi xưa không thế... cũng kẹt xe ,cũng bao xóm "kênh nước đen" nhưng trong đối xử nhau vẫn rất ấm tình người ,dân Nam bộ hay cười xòa và dễ thông cảm ,tha thứ và hay kết bạn trong những lúc "hoàn cảnh" ...
Nhưng con đường của riêng tôi nó quá đỗi thân thuộc dù tôi chỉ có vài năm ngắn ngủi được làm dân ngoại ô Sài Gòn ,nó gói nhiều kỷ niệm và tôi càng quý nó hơn vì nay khi được thăm lại, như một người bạn cố cựu sau bao thăng trầm trong cuộc sống vẫn còn thủy chung :đường đã không đổi tên ... tôi đi từ giáo xứ Hà Nội ( An Nhơn, Gò Vấp ) con đường nhỏ tên Bắc Tiến ,qua cái ngã tư hướng theo chùa Tiên Long ,qua thành Quân Cụ, đến Thông Tây Hội rẽ trái ra Ngã Năm Chuồng Chó ,đi dọc theo đường trước Tổng Y Viện Cộng Hòa gặp ngã ba Chú Ía ,chạy thẳng một lèo đến ngã tư Phú Nhuận là bước vô con đường này ,đi qua rạp cine Văn Cầm , sắp tới cầu Kiệu khi qua khỏi chợ Phú Nhuận, rồi gặp ngã 3 Tân Định ,cứ thẳng hướng là tới cuối đường ...là trung tâm Thủ Đô ... bạn đoán ra tên con đường này chưa?
Ngã Năm Gò Vấp là cuối tuyến xe buýt ,băng qua đường lên xe "lam" về Xóm Mới , những năm Đệ Nhất tôi học chiều , khi có giờ học thêm về qua đây nghe ếch nhái kêu nhớ nhà lắm , năm đầu học trường ChânPhước Liêm Gò Vấp tôi đi xe đạp ,khi đậu tú tài một ba tôi cho tiền mua một xe Velo Solex "mới bóc tem" loại 3800 ,mua trên đường Lê thánh Tôn . Nữ sinh Sài Gòn mặc áo dài đi xe Velo trông dịu dàng và đẹp , công chức nữ hay dùng xe "mô bi lét" , cho đến cuối năm 1967 xe nhật ào ạt nhập vô ,có loại xe tay ga cho nữ rất nhẹ và cũng thanh lịch là xe honda PC 50...
Người Sài Gòn hiền hòa, vui tính, dễ gần , một công chức, một quân nhân lương đủ "nuôi" gia đình ,có lẽ vì vậy nên ít "hoàn-cảnh" và ít "tiêu cực" ...
Nếu hỏi sẽ nhớ nhất cái gì khi xa Sài Gòn khó nói lắm vì Sài Gòn có nhiều "cái" rất dễ thương rất làm cho mình nhớ , nếu có chút "tâm hồn ăn uống" sẽ nhớ phở Quyền Phú Nhuận, rồi bò viên khu Tân Định , mê chè thì nhớ tiệm chè Hiển Khánh khu Đakao, hồi ấy tôi và anh bạn tập "mê" nhạc tiền chiến hay lên quán ông "râu kẽm" vùng Ông Tạ ( khu Bảy Hiền ) có giàn Akai và những băng nhạc tiền chiến nghe nao lòng ,đặc biệt quán có bán lẻ tất cả các loại thuốc lá trứdanh của Ăng-Lê như ba số năm hộp thiếc tròn loại không đầu lọc ,vì khách đến quán thường là học sinh ,sinh viên nghèo nhưng mang tâm hồn "nghệ sĩ" mà xét cho kỹ túi thường ít tiền ... Tôi và bạn bè cũng hay ghé cà-phê Thu Hương gần nhà thờ Tân Định ,quán này lịch sự và chiều khách, không phân biệt "giai cấp", tôi cũng không bao giờ quên được quán Thăng Long (Xóm Mới) có món đá chanh "bí truyền" ,sau này có đi uống nước chanh đá bất cứ đâu tôi không bao giờ quên được ly đá chanh của quán này, thầy Quang hay đãi chúng tôi khi ông lãnh lương của hãng RMK-BRJ ,môt tháng 2 kỳ lương nên tôi hay được thầy cho ghé quán này...
Tôi cũng nhớ món nghêu hấp ở đường Nguyễn Tri Phương mà người bạn hay "bao" tôi (anh bạn này cùng tên với tôi và đã ra đi từ tháng tư bảy lăm nếu có đọc được những dòng này chắc anh nhớ tôi vẫn "nợ" những bữa ăn nghêu ngày xưa) ,rồi những xe hoành thánh mì ở khu Tân Định ăn một tô chưa bao giờ đã thèm. Về ăn uống thời đi học vậy là "sang cả" rồi vì học trò làm gì có tiền ,làm gì dư giả, cho tới khi vào quân đội ,mỗi lần có phép về Sài Gòn bao giờ tôi cũng tìm lại "quán cũ tình xưa", ăn , uống chỉ như cái cớ ...còn ngồi tĩnh lặng lòng "hoài cổ" là nhiều..(Tất nhiên tôi không dám tham lam để đụng tới đề tài "ẩm thực Sài Gòn") bởi nơi đây đã từng là thủ đô của Việt Nam tự do, kết tụ văn hóa ba "kỳ",ngay phở Bắc, mì Quảng, hủ tiếu Mỹ Tho người ta có thể viết thành một cuốn sách về món ngon ba miền rồi ,tôi là cậu học trò chân quê mới bước lên thủ đô ,chỉ có những "góc" nhìn nhỏ bé nhưng coi là của riêng mình ,chỉ một chút trải lòng trong cái nhớ ,trong "hoài niệm" ,chân bước lại vào phố xưa quá đỗi xô bồ nhộn nhịp nhưng lòng thấy lạc lõng ,trơ trọi ...đã có một câu nói về con người "phố" thời @ tôi nghe mà buồn khôn tả : Thạch Sanh thì ít, Lý Thông lại nhiều... có phải vì sự giàu có đi lên từ một nền kinh tế "ba rọi" ,có phải vì từ các cháu bé con khi tới lớp mẫu giáo đã được dạy làm "cờ đỏ",được dạy "phát biểu"và "giơ tay đối phó"với những "đoàn thanh tra" ,nghĩa là được dạy NÓI DỐI khi bắt đầu HỌC NHÂN CÁCH ... xã hội rồi sẽ như thế nào khi có rừng tre được lớn lên từ những búp măng như thế? Chuyện nhân cách, sự tự trọng giữa thời buổi "đồng tiền là sức mạnh", nhân nghĩa bị coi là gàn, là dở hơi thậm chí còn bị coi là stupid...Và còn buồn hơn khi báo chí ,thông tấn hỏi các "quan",được các quan trả lời thẳng thừng và trơ trẽn: anh chỉ cho tôi xem ở đâu không có tham nhũng, ở đâu không có tệ nạn , ôi làm lãnh đạo mà trả lời như thế ,một cách trả lời để vẽ đường cho hươu chạy ,thử hỏi THƯỢNG có BẤT CHÁNH hay không , lãnh đạo mà vô cảm trước tội ác với dân thì ai trị nhỉ ?
Cũng có những hôm trời mưa dầm ,những giờ nghỉ học "bất thường" vì thầy dạy một môn bị bệnh ,tôi hay "vù" ra công viên Tao Đàn ,ngồi ngắm mưa ...nhớ nhà ,mua vài điếu Pallmall lẻ và tập làm thi-sĩ ...
Tôi cũng thường coi phim rạp Vĩnh Lợi ,rạp này thường chiếu phim Pháp ,Ýgiá vé hợp với túi tiền học trò còn Eden và Rex chỉ khi có những phim mới và hấp dẫn lắm mới dám xem vì giá vé rất cao, tôi cũng không quên rạp xi nê Văn Cầm trên đường Võ Di Nguy Phú Nhuận ,rạp Kinh Thành trên Tân Định, rạp Casino Đakao các rạp này thuộc hạng bình dân hợp túi tiền học trò .
Sài Gòn có một thứ tôi luôn thèm và nhớ là "chợ" sách vỉa hè ,khu dọc rạp xi-nê Vĩnh Lợi vì ở khu trung tâm nên sách cũ mà hơi cao giá hơn chỗ khác bù lại hầu như rất phong phú cho sự chọn lựa ,chợ sách thứ hai mà tôi hay ghé là vỉa hè trước nhà thờ Tân Định trên con đường "chung thủy" của tôi : đường Hai Bà Trưng.
Nhà thơ Nguyên Sa có một câu thơ mà ai qua thời làm học trò cũng thuộc: “nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát ,bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông ... “ bây giờ người đẹp Sài gòn ít ai mặc áo dài ,thì làm sao thấy cái dáng "áo lụa Hà Đông" ,dù cho có bao thăng trầm , bao cảnh bể dâu nhưng Sài gòn của thời xưa ấy vẫn nguyên vẹn trong tôi.
Đi Tìm Lại Người Sài Gòn giữa Sài Thành hoa lệ: Nghe qua câu này có vẻ tôi là tên "phân biệt chủng tộc" nhưng đáng buồn thay ,những người Sài Gòn như "ẩn" đâu hết , trong khu trung tâm vắng họ nhiều ,thay vào đó là sự hiện hữu của người "Sài gòn mới" , âm nói nghe sắc lạnh dù đon đả chào mời ,họ "nhầm" khi chào hỏi tôi bằng tiếng Anh, cũng may là tôi còn nói được vài câu tiếng Anh xã giao rồi "biến" cho lẹ vì sợ sẽ nghe "tiếng Đức" và sẽ bị "đốt phong long" vì không mua hàng, họ "nhầm" khi thấy tôi mặc bộ hoa ngụy trang , đội cái nón đi rừng hàng quân đội Mỹ chánh hiệu , lại còn đeo kính Rayban ,chiếc máy ảnh Canon G7 đeo lủng lẳng trước ngực nên tưởng tôi là du khách Thái Lan, tôi cảm thấy buồn và tự nhiên nhớ câu thơ trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên :
“ …NHỮNG NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ
HỒN Ở ĐÂU BÂY GIỜ...” Bây giờ đầu tháng tư, những người Sài Gòn sẽ rất nhớ khi họ không còn ở Sài gòn, nhớ cái nắng tháng tư, nhớ ly cà-phê đá góc phố, nhớ tiếng rao quà trong canh khuya, trong sáng sớm ,và sẽ không quên được tháng tư mà họ bỏ phố ra đi ...
Vẫn còn tiệm kem Bạch Đằng mà khi ngồi ở đây có thể nhìn ra 2 đường phố, cũng còn những người bán thuốc lá cho du khách với nhiều hiệu thuốc cho khách Âu, Mỹ, Á... Những shop bán đồ lưu niệm về cuộc chiến Việt Nam mà người mua có thể mua cái bếp hành quân nấu bằng xăng ,cái la bàn trên trực thăng ,những viên đạn đại liên 50 được bàn tay khéo léo của người thợ thủ công làm thành cái quẹt, những cái quẹt Zippo trên thân khắc nhiều địa danhcủa quê hương nghèo khó mãi vì chiến tranh , cuộc chiến qua rồi nhưng những người tham chiến thuở ấy có bao nỗi niềm ...dẫu biết phải quên đi ...nhưng có qua rồi mới thấu ...ngôn ngữ có khi bất lực trước những nỗi niềm này .
Mỗi người có một Sài Gòn riêng cho mình mà khó giải bày cho người khác ,tôi cũng vậy ,nhưng dù sao đi nữa tôi cũng rất yêu Sài Gòn. N.C.M. |
|||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||
![]() |
|||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23678 |
![]() ![]() ![]() |
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||
![]() |
|||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||
Chị Ngâu ăn xong món bún thịt nướng chán chê thỏa thuê còn lại một ít thì không ăn nổi nữa. Chị đẩy những đĩa đồ ăn thừa sang một bên.
Nhà hàng này nổi tiếng với món bún chả Hà Nội của miền Bắc dù nhà hàng ở thành phố Sài Gòn miền Nam. Chồng chị, anh Cheng vừa đứng lên đi về phía cuối nhà hàng tìm nhà vệ sinh, chỉ còn hai mẹ con chị trước mặt bàn với bát đĩa, và đồ ăn thừa ngổn ngang. Thằng Vàng của chị mới lên 4 tuổi chỉ nhâm nhi ăn mấy miếng thịt nướng với bún rồi quay ra uống nước ngọt, nhất định không ăn thêm miếng thịt nào nữa… Chị cũng nâng ly nước ngọt và bâng quơ nhìn quanh, ánh mắt chị dừng lại nơi hình ảnh 2 người ăn xin ngay bàn khách bên cạnh bàn chị. Một thằng bé và một bà gìa đang túm áo nó như sợ bị bỏ rơi hay đi lạc mất nhau. Thằng bé chìa tay xin tiền, thực khách bàn ấy có người móc túi dúi cho nó ít đồng, nhưng thằng bé chưa vội đi, nó nhanh chóng thu gom những đồ ăn thừa trên bàn và đổ vào trong một cái túi ni lông mang sẵn, rồi mới rời khỏi bàn… Khi nó quay mặt ra, tim chị bỗng giật thót lên một cảm giác lạ lùng, hình như thằng bé có cái gì rất gần gũi, quen thuộc với chị? Và khi chị cố tìm cách nghiêng người nhìn bà già thì chị thất thần, chị như chợt lên cơn nhức đầu đến quay cuồng chóng mặt. Họ đang đi về phía bàn của chị, chị Ngâu hồi hộp, bối rối chỉ sợ anh Cheng về tới, chị vội quay mặt đi hướng khác để 2 người ăn xin này đừng bén mảng đến bàn chị. Nhưng thằng bé đã đứng cạnh chị rồi, tiếng của nó cất lên, van vỉ cầu cạnh: Bác ơi, làm ơn làm phước cho cháu xin tiền nuôi bà cháu… Không thể không quay mặt lại, chị rùng mình thảng thốt vì gương mặt thân quen của thằng bé, và bà gìa thì đang nhìn thẳng vào mặt chị bằng cái nhìn ngay đơ vô hồn. Chị vừa nhẹ lòng vì thoát nỗi lo ngại vừa thêm thảng thốt vì biết bà đã bị mù. Chị nhanh chóng mở ví tiền rút ra một nắm không cần đếm bao nhiêu dúi ngay vào bàn tay bé nhỏ của thằng bé và run giọng hỏi : Cháu lên mấy? Nhận được món tiền hậu hĩ, thằng bé vui mừng hấp tấp xếp lại những tờ giấy bạc và nhét vào túi quần, cẩn thận cài kim băng mà quên chưa trả lời câu hỏi của người khách sộp. Bà gìa nãy giờ nghiêng tai lắng nghe và trả lời thay cho cháu: -Cháu nó 8 tuổi.. Chị run run hỏi tiếp: -Khổ ! mới có 8 tuổi đầu mà phải đi xin ăn, thế …cha mẹ nó đâu ? Bà gìa lại nghiêng tai lắng nghe và có vẻ không hiểu gì, chị Ngâu tin chắc bà bị lãng tai hơn nữa nhà hàng lại ồn ào tiếng nói cười lẫn tiếng âm nhạc. Chị lập lại câu hỏi chậm rãi hơn, thì bà mới nghe ra: -Mẹ cháu chết từ lúc nó lên 3 bác ạ, còn bố nó mới chết vì sốt rét rừng nên bà cháu tha nhau về đây… -Nhà làm gì trên rừng hở bà? -Đi kinh tế mới ở Lào Cai, được vài năm thì bố nó ngã bệnh sốt rét chết. Hai bà cháu một gìa một trẻ ranh chẳng làm lụng việc ruộng vườn được thì ở đấy làm gì, nhỡ vướng sốt rét lại khổ thôi… Hình như có người hỏi để được dịp trút nỗi lòng, bà gìa kể lể tiếp: -Về quê thì ruộng nương nhà cửa không còn, mà chỉ thêm buồn vì cảnh cũ người xưa, nên bà cháu quyết không bao giờ bén mảng về quê, mới vào Nam tha phương cầu thực như thế này.. Chị ái ngại hỏi: -Hình như mắt bà kém lắm? -Tôi chẳng còn nhìn thấy gì nữa, mắt mờ, tai nghễnh ngãng từ lâu rồi, không có tiền đi bác sĩ khám mắt và thuốc thang, lại khóc nhiều vì thương con thương cháu nên tăm tối mù lòa luôn. Cũng đành cái số… Trong lúc bà nó nói chuyện, thằng bé không bỏ phí thì giờ, nó vơ vét những thức ăn thừa đổ vào túi ni lông và gói ghém lại cẩn thận, sợ những thức ăn thơm ngon này sẽ rơi mất. Chỉ chớp mắt, những đĩa bát đã sạch trơn. Xong nó kéo tay bà nó: -Đi bà ơi, bàn bên kia có nhiều người lắm… Chị Ngâu chưa biết nói sao, muốn níu chân thằng bé lại dù chị không biết phải làm gì hơn trong lúc này thì anh Cheng về đến, nhìn thấy nét mặt chị còn nỗi ngơ ngác anh hỏi: -Gì thế em? Chị gượng cười nhìn chồng: -Có gì đâu anh, hai bà cháu thằng bé ăn xin vừa xin tiền và lấy hết những thức ăn thừa này. Em cảm thấy thương xót cho họ thôi. Anh dăn dò: -Lần sau đừng để họ đến gần, đám xin ăn bao giờ cũng bám vào chúng ta để cầu cạnh. ********************** Trưa về nằm nghỉ trong khách sạn sang trọng, giường nệm êm ái, máy lạnh mát mẻ với thằng bé Vàng đang ngủ ngon bên cạnh, chị Ngâu vẫn không chợp mắt cho giấc ngủ trưa được. Anh Cheng đang bận đi họp với đối tác làm ăn. Anh Cheng là giám đốc một công ty ở Singapore, làm ăn với vài công ty bên Việt Nam từ nhiều năm nay, nên chuyện về Việt Nam với anh rất thường xuyên. Do nhu cầu công việc và đi lại Việt Nam nhiều lần, ở lại nhiều ngày nên anh Cheng có thể nói tiếng Việt Nam, nhất là từ khi kết hôn với chị Ngâu thì khả năng nói và hiểu tiếng Việt của anh đã hoàn chỉnh hơn. Chị Ngâu quay cuồng với những hình ảnh qúa khứ của mấy năm về trước. Ngày ấy chị còn là cô thôn nữ làng Chuông, nhà nghèo nhất nhì trong làng, nhưng chị cũng xinh đẹp nhất nhì trong làng, có nhiều anh con trai để ý chị, nhưng ở tuổi mới lớn, tâm hồn ngây thơ, chị Ngâu chưa biết kén chọn so đo, chị yêu anh Cư người cùng làng và nhà cũng nghèo như nhà chị. Bố anh mất sớm, mẹ anh ở vậy từ thời son trẻ để nuôi con, nên chỉ có anh Cư là thằng con duy nhất, đủ để nối dõi, thờ cúng tổ tiên ông bà. Hai mẹ con có hai sào ruộng, ngày làng xã phân chia ruộng đất theo đầu người, mẹ anh góa bụa, nghèo nàn, thân cô thế cô không họ hàng để nương tựa, nhờ vả và không tiền bạc đút lót cho quan làng quan xã, nên mảnh ruộng xấu nhất làng không ai thèm nhận họ đã phân phối cho hai mẹ con. Anh Cư có chiếc thuyền con, ngày ngày anh lưới cá bên sông Nhuệ, mẹ anh đem mớ cá ra chợ bán, mua lấy bó rau, bìa đậu hai mẹ con cũng sống qua ngày. Thỉnh thoảng chị Ngâu ra gặp anh bên bờ sông ấy để chuyện trò và khi về thể nào anh Cư cũng cho chị mấy con cá sông, có hôm được vài con cá Mè, cá Trắm, hay con cá Chép to, hôm nào ít cũng có mớ cá Mường bé bé bằng ngón tay nhưng tươi rói, chỉ kho được một nồi nhỏ cũng đủ làm chị bồi hồi cảm động. Chị càng yêu anh vì thế. Chẳng bao lâu họ lấy nhau, đám cưới nhà nghèo chỉ có miếng cau trầu, vài đĩa kẹo uống nước trà cũng gọi là tiệc cưới. Chị có thai và đẻ ra một thằng con trai, nhà nghèo qúa, chị âu yếm đặt tên con là thằng Xu cho hợp với gia cảnh nhà chị chỉ có tiền xu, chẳng có tiền bạc của nả gì khác, nhưng thằng Xu của vợ chồng chị thì vô gía, vì chị yêu nó lắm. Nhà thêm đứa con thêm chi tiêu, và tình yêu ngây thơ năm trước đã thành tình vợ chồng mấy năm đủ va chạm với thực tế. Chị Ngâu đã biết lo xa tính tóan, chị thấy dân trong làng đua nhau vào Nam tìm việc làm để đổi đời, cho dù đi ở đợ cũng sướng hơn ở quê làm ruộng, được ăn trắng mặc trơn tại nhà chủ, ra dáng thị thành hẳn ra. Chị bàn soạn với anh Cư, muốn hai vợ chồng vào Nam trước, để thằng bé Xu cho bà nội trông, khi nào tạm ổn định thì về quê bán hết nhà cửa ruộng nương để di cư vào miền Nam. Nhưng anh Cư không cùng chí hướng với vợ, anh vẫn muốn ở làng quê, an phận đời sống nghèo với một mảnh ruộng, một mái nhà lá đơn sơ và một chiếc thuyền cũ ọp ẹp cũng đủ nuôi cả nhà không chết đói, mà ấm tình làng quê.. Chị Ngâu nghe tin những người làng ở trong Nam kể về mà sốt cả ruột, vợ chồng cái Thà chỉ một mẹt lòng lợn mỗi buổi chợ mà kiếm khá tiền, anh Bân đi làm phụ xế cho xe tải, chị Pháo làm công cho một cửa hàng bán vật liệu xây dựng..v..v..nghề nào cũng kiếm ra tiền cả… Chỉ có nhà chị quanh quẩn với ruộng, mà ruộng không mất mùa cũng chẳng đủ ăn, ruộng xấu nên tốn nhiều tiền phân bón, lại tiền thuế má… Với chiếc thuyền lưới lên vài con cá bé tí và môi sinh càng ngày càng cạn kiệt thì có ngày thuyền cũng phải lìa sông thôi. Chị Ngâu càng đốc thúc chồng thì anh Cư càng phản đối, từ bé đến lớn anh chỉ quanh quẩn trong làng nên e ngại không dám bước ra cuộc đời ngoài luỹ tre làng. Hai vợ chồng trở nên xung khắc mỗi ngày mỗi nhiều, anh đâm ra uống rượu, rượu vào thì lời ra rồi cãi nhau, hễ chị Ngâu to tiếng thì anh Cư cũng to tiếng hơn và anh đánh vợ. Họ chửi nhau, đánh nhau, có lần, bà mẹ anh Cư can không nổi đã phải chạy ra ủy ban xã nhờ can thiệp kẻo chúng nó giết nhau mất. Chị Ngâu đã chán cảnh đói nghèo, chị oán hận chồng ngu dốt không biết mở mắt ra theo thời cuộc. Một buổi trưa, khi anh Cư còn đang lênh đênh chiếc thuyền trên sông Nhuệ để lưới cá, thì chị Ngâu xuống bếp gặp bà mẹ chồng đang lúi húi đun nấu gì đó, căn bếp đầy khói và mùi rơm ẩm chưa khô làm chị cay cả mắt. Chị nói: -Mẹ trông thằng Xu, con về bên mẹ con tí việc…. Bà ngước nhìn con dâu, hiền hòa: -Ừ, con đi đi, mẹ đang om lại nồi cá kho dưa hôm qua, cũng đủ cho bữa cơm chiều nay. Rồi bà chép miệng than: -Rơm còn ướt khói mù mịt cả ra… Chị tần ngần chưa chịu đi: -Cháu nó đang ngủ, chốc nữa mẹ nhớ mặc quần cho thằng Xu nhé, nhỡ quên thì chiều xuống lạnh đít nó… Bà cười âu yếm khi nghĩ đến thằng cháu nội 3 tuổi: -Mẹ biết rồi, cái thằng hễ ngủ trưa là đái dầm nên cứ phải ngủ truồng thế. Mà từ nhà mình về nhà mẹ con là đầu làng đến cuối làng việc gì con phải dặn dò như đi đâu xa không bằng? Chị cắp nón và đi ra sân: -Ấy là con quen mồm dặn thôi… Nhưng ngay lúc ấy thì thằng bé Xu hiện ra ở ngưỡng cửa sau gần bếp, nó mới ngủ dậy, mặt còn ngái ngủ, khóc lè nhè. Thằng bé đứng khóc, cái bụng ỏng ưỡn ra nên hai mông nó như teo tóp lại. Thằng bé thấy mẹ cắp nón sắp đi, nó giơ hai tay ra đòi bế và khóc gọi thành tiếng: -Mẹ…mẹ.. Tiếng gọi đứt quãng trong tiếng khóc hờn, chị bỗng thấy quặn lòng, định quay lại ôm con, mặc quần cho con rồi ra sao thì ra. Nhưng bà mẹ chồng đã từ trong khói bếp, từ trong mái bếp thấp lè tè chui ra. Bà nựng nịu cháu: -Xu của bà ngoan nào, ra bà mặc quần rồi bà cho Xu ăn củ khoai lang luộc nhé. Nghe bà nói củ khoai, thằng Xu nín khóc, nó quên mẹ, hai mắt nó sáng lên theo bà nó vào bếp. Thế là chị Ngâu nhanh chân bước đi, nếu không chị chẳng còn cơ hội nào mà dứt ra được khỏi thằng Xu nữa. Chị không về ngôi nhà mẹ chị ở cuối làng, mà chị đi xa hơn. Cuối cùng chị đã lên chuyến xe lửa Bắc Nam, để vào thành phố Sài Gòn. Chuyến tàu chiều ấy có người đàn bà rất trẻ ngồi thu lu trong lòng ghế, lòng buồn rười rượi, như người vô hồn chị quay mặt ra khung cửa toa tàu để nhìn cảnh vật đang lùi dần, lùi dần phía sau, có nghĩa là chị càng lúc càng lìa xa quê quán, xa mái gia đình. Rồi hình ảnh thằng Xu đứng ở ngưỡng cửa khóc giơ tay đòi bế hiện ra, chị đau đớn như dao cắt vào thịt da. Nước mắt chị tuôn rơi nhạt nhòa, chị nghẹn ngào kêu lên liên hồi hai tiếng “Xu ơi…” Chị chẳng thiết gì đến ăn uống hay nhìn mọi người đồng hành xung quanh, chị cứ khóc cho đến khi mệt mỏi, người chị như lả đi, chị thiếp vào giấc ngủ vẫn thấy thằng Xu của chị đang đứng cởi truồng khóc, giơ tay đòi bế và tiếng gọi “Mẹ..mẹ…” vang lên âm ỉ trong đầu óc chị. Trong giấc mơ chị lại tha thiết gào lên: “Xu ơi…” Chị Ngâu vào Nam, lang thang cả ngày ngoài đường phố để tìm việc làm, chị tránh không muốn gặp những người cùng làng vì sự ra đi kiếm cơm của chị như trốn chạy, như một sự lừa dối chồng con và cả bà mẹ chồng nhân hậu. Đói khát bơ phờ mất mấy ngày thì chị xin được chân rửa bát trong một nhà hàng, chị đã sung sướng mơ đến ngày dành dụm được khá tiền sẽ về quê thăm thằng Xu, chị sẽ xin lỗi anh Cư và năn nỉ rủ rê chồng chịu vào miền Nam sinh sống lập nghiệp, cả nhà chị lại đâu vào đấy cho lương tâm chị bớt áy náy, bớt cắn rứt vì rời xa đứa con bé bỏng của mình. Chị chăm chỉ rửa bát chưa được bao lâu thì bà chủ “thăng chức” cho chị, vì thấy chị vừa trẻ vừa xinh, chị được bà chủ cho mặc quần áo đẹp để làm nhân viên phục vụ nhà hàng, bưng bê đồ ăn thức uống cho khách. Nhờ có những cô phục vụ trẻ đẹp như chị mà nhà hàng giữ chân được nhiều loại khách, dù khách thường hay khách sang . Nơi đây chị gặp anh Cheng thường đến ăn uống với bạn bè, mỗi lần Cheng đến là chị Ngâu được bà chủ điều động ra tiếp khách, vì anh Cheng có vẻ mến chị. Dần dần anh Cheng và chị Ngâu biết nhau hơn, thân nhau hơn… Một hôm anh mời chị Ngâu tham dự sinh nhật của anh, chỉ có một mình chị Ngâu là khách mời, vì anh không muốn chia sẻ không gian thân tình ấy cho một người khác nữa, ngoài chị. Chị Ngâu đành nhận lời, chị muốn làm vừa lòng bà chủ nhà hàng vì anh Cheng là khách sộp thường xuyên của bà hơn là vì anh. Buổi sinh nhật được tổ chức tại phòng khách sạn nơi anh tạm trú, anh hân hoan bên chị và cao hứng uống rượu khá nhiều. Trong cơn say rượu anh Cheng say tình luôn, anh đã thố lộ tình yêu với chị…. Cảm động và vị nể, chị đã yếu lòng sa ngã, chỉ một lần trao thân đêm ấy mà chị Ngâu mang thai, anh Cheng đã ân cần cầu hôn chị, vì dưới mắt anh cũng như bà chủ nhà hàng chị Ngâu vẫn là một cô gái quê trinh nguyên. Hơn nữa, anh Cheng ngủ với chị trong cơn say thì anh nào phân biệt được gái có chồng hay chưa. Chị trẻ đẹp và thật thà như thế… Cha mẹ chị không thể gả con gái lần nữa, họ không thể làm điều bất nghĩa ấy, nhưng thương con gái họ đành vào Sài Gòn gặp con và anh Cheng, đưa ra lý do không muốn gả con xa cho người nước ngoài, nhưng chị Ngâu đã trưởng thành, chị cứ quyết định theo ý của mình. Chị Ngâu theo anh Cheng về quê anh, mới biết anh con nhà trung lưu ở Singapore, là giám đốc một công ty và thường xuyên ở Việt Nam vì công việc. Chị sinh ra thằng con trai, nét mặt giống Cheng như hai giọt nước, khỏi cần đi thử máu Cheng cũng thừa biết nó là máu mủ của anh. Cheng đặt tên cho con theo giòng họ anh, nhưng tên ở ngoài chị gọi nó bằng tên Việt Nam, là thằng Vàng giàu sang, ngược lại với thằng Xu một thời nghèo khổ của chị. Người Hoa qúy con trai, nên thằng Vàng được ông bà nội, cha và cả bên nội cưng qúy như vàng, vì đây là đứa cháu nội đầu tiên của họ. Cheng đem vợ con về sống ở Singapore cho gần bên nội, chỉ thỉnh thoảng Cheng mới đưa vợ con theo chuyến công tác ngắn ngày ở Việt Nam . Anh Cheng rất yêu vợ, thương con, chị Ngâu như chiếc lá trôi theo giòng đời, một giòng đời êm ái và hoa gấm. Hạnh phúc trong tình yêu của chồng mới, chị đã nguôi ngoai và quên đi hình ảnh anh Cư người chồng cũ, chị đã quên đi bà mẹ chồng nhân hậu, nhưng chị không thể dễ dàng quên đi thằng con nơi chốn quê nghèo tội nghiệp. Từ ngày chị bỏ chồng con vào Nam, bố mẹ chị cũng xấu hổ với làng xóm. Bán xới nhà cửa ruộng vườn để về quê mẹ của chị rất xa lập nghiệp, để gĩa từ qúa khứ. Ở làng quê, người ta sống bằng danh dự cần thiết như cơm áo, cha mẹ chị không thể muối mặt ở làng quê mình để nghe tiếng chê bai, bàn ra tán vào và nhất là nhìn cảnh bên thông gia neo đơn trống vắng từ khi chị ra đi không hẹn ngày về. Với lý do cha mẹ không hài lòng và lạnh nhạt, chị liên lạc rất ít với cha mẹ, vì muốn giấu diếm tung tích trước kia của chị để bảo vệ hạnh phúc gia đình hiện nay. Lần cuối cùng chị nghe tin từ cha mẹ là anh Cư đã theo vài hộ dân làng đưa mẹ gìa con mọn lên Lào Cai khai hoang kinh tế mới khi ở làng quê cuộc sống anh đã thực sự kiệt quệ. Dòng sông Nhuệ vẫn còn đó, nhưng chiếc thuyền của anh Cư đã quá mục nát, anh không có tiền để sửa chữa, vá víu thêm nữa… Từ đó cha mẹ chị không dõi theo tin tức nhà anh Cư nữa, chị và anh Cư đã đường ai nấy đi, thằng Xu là con là cháu họ thì họ phải lo. Cha mẹ chị muốn quên đi cũng như chị đã muốn quên đi. Gía mà chị nghe tin anh Cư lấy vợ có lẽ chị sẽ vui hơn, yên tâm hơn. Ít ra trong nhà cũng có một người đàn bà trẻ, gánh vác việc nhà, chăm lo cho anh Cư, còn thằng Xu đã có bà nội yêu thương chăm sóc rồi. ***************** Trưa hôm sau, bằng giờ hôm qua lúc gia đình chị ăn món bún chả thịt nướng, chị dắt thằng Vàng ra nhà hàng ấy trong lúc anh Cheng bận đi công việc. Chị vào trong gọi vài món ăn cho có lệ rồi chờ đợi, chị luôn nhìn khắp nhà hàng tìm kiếm bóng dáng hai bà cháu thằng ăn xin hôm qua… Nhưng chị đợi mãi và cuối cùng thất vọng đi ra ngoài, gặp hai đứa bé ăn xin khác vừa từ trong nhà hàng đi ra, hai đứa khỏang mười hai, mười ba tuổi, chị liền vẫy lại hỏi: -Này cháu… Hai thằng bé chạy lại mừng rỡ: -Dạ, cô Hai cho con xin ít tiền cô Hai… -Cho con luôn cô Hai, từ sáng tới giờ con đói bụng qúa… Chị Ngâu ân cần móc tiền ra : -Cho hai cháu với điều kiện cho cô hỏi thăm một chút được không? Hai đứa trẻ bụi đời cùng nhanh nhẩu: -Được chớ, cô hỏi bao lâu cũng được mà… -Cô cứ hỏi con biết là nói liền cho cô nghe… -Hôm qua cô ăn trong nhà hàng này, có gặp thằng bé ăn xin đi với bà nó. Các cháu có biết hai bà cháu này không? Một thằng đáp ngay: -Cháu biết nè, bà gìa đó bị mù, là bà nội của thằng nhỏ đó. Chị Ngâu mừng rỡ: -Đúng rồi, sao hôm nay hai bà cháu không ra đây xin ăn? Thằng bé còn lại bây giờ mới lên tiếng: -Tưởng ai, chớ thằng bé với bà gìa đó con cũng biết luôn. Nó bị thanh tóan rồi !! Chị Ngâu hốt hoảng và ngạc nhiên: -Thanh toán ? Ai đã làm gì nó? -Băng đảng nhí đó cô, là cỡ tuổi tụi con. Thằng Bắc Kỳ đó mới vô Nam không có ai giới thiệu mà dám bén mảng tới khu này ăn xin là phạm luật rừng, mấy đứa bụi đời ăn xin trong băng đảng nhí ở đây đã đánh cảnh cáo nó sưng mặt và đuổi nó đi khỏi khu vực nhà hàng này rồi… Chị tưởng như toàn thân mình sắp qụy xuống, giọng chị nghẹn ngào: -Giời ơi ! chết thằng bé mất thôi… Chị cố hỏi thêm: -Các cháu có biết hai bà cháu hiện giờ ở đâu không? -Giang hồ mà cô, nó đi đâu ai biết… -Đương nhiên là đi khỏi vùng này nếu không muốn ăn đòn lần nữa, tơi bời hoa lá cành hơn nữa…Sài Gòn này thiếu gì nơi cho bà cháu nó đến ăn xin, cô hơi đâu mà lo… Chị lại cố nài nỉ: -Không thể được, không thể được…các cháu kiếm tìm hai bà cháu nó cho cô đi, mỗi ngày cô sẽ đến đây trả tiền công cho hai cháu để biết tin tức…trong vòng 3 ngày nữa thôi, chỉ 3 ngày nữa thôi… Nghe đến tiền công, và nhìn vẻ thất vọng khổ đau của người phụ nữ trẻ đẹp sang trọng, hai thằng bé cũng bùi ngùi: -Dạ…con sẽ kiếm.. -Con sẽ dò la hỏi han mấy đứa bụi khác xem sao… Hai thằng bé bỏ đi, để mặc chị Ngâu còn đứng ngẩn ngơ với thằng Vàng. Nó ngây thơ ngước mắt lên hỏi mẹ: -Sao mẹ khóc ?? Chị ngồi thụp xuống ôm con vào lòng và lại khóc nấc lên: -Xu ơi… Thằng Vàng vùng vằng nũng nịu: -Con không tên Xu, con là thằng Vàng mà… -Ừ, Vàng của mẹ ơi… Chị đứng lên cố nhịn khóc để gọi xe taxi về khách sạn, ngày mai bằng giờ này chị lại ra đây, chỉ còn 3 ngày nữa chị sẽ theo chồng về Singapore không biết chị có gặp lại bà cháu thằng Xu không? Nếu gặp họ, chị sẽ ôm con thật chặt vào lòng và gọi lên hai tiếng “Xu ơi” như chị đã từng mơ ước và từng gọi thầm trong mấy năm qua. Chị cũng sẽ nói cho bà mẹ chồng biết là chị vẫn còn đây, dù bà đã oán hận chị, xem chị đã chết kể từ ngày chị bỏ chồng con ra đi. Chị sẽ qùy xuống chân bà xin tạ tội, xin bà hãy mang thằng Xu về quê mẹ của chị, để thằng bé được thêm sự chăm sóc của tình ruột thịt bên ngoại. Chị sẽ tìm cách gởi tiền về nuôi hai bà cháu…. Chị khao khát ước mơ này như ngày xưa chị đã khao khát ước mơ bỏ làng quê, bỏ họ để ra đi. Chị bế thằng Vàng, nó 4 tuổi, hơn tuổi thằng Xu một chút ngày chị rời xa nó. Nhưng hôm nay thằng Vàng trắng trẻo trong bộ quần áo đẹp đắt tiền, chân đi đôi giày xinh, khác với thằng Xu đứng ở ngưỡng cửa, đi chân đất, cởi truồng lè nhè khóc và giơ tay đòi mẹ bế cùng với tiếng gọi “Mẹ …mẹ..” của nó cách đây 5 năm . Hôm nay lòng chị cũng dùng dằng, cũng đau đớn như hôm ấy. Hôm nay không có khói bếp và mùi rơm ẩm ướt như hôm ấy. Nhưng hai mắt chị vẫn cay xè rồi mờ lệ, trong lòng chị lại nức nở gào lên : “Xu ơi.!” Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 12/Jul/2012 lúc 12:01pm |
|||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||
![]() |
|||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||
![]() Bán cho tôi một bông hồng đi cô bé
Đóa nào tươi còn búp nụ mịn màng Tôi ngước lên . . . xin ông chờ tôi lựa Một bông hồng vừa ý nghĩa vừa xinh Khách mỉm cười cô thật tài quảng cáo Vây bông hồng mang ý nghĩa sao cô ? Tôi bối rối : Hình như người ta nói Nó tượng trưng tình nồng thắm vô bờ Cám ơn cô, giá bao nhiêu cô nhỉ ? Dạ bông hồng không đáng giá bao nhiêu Rất mong ông làm người đẹp vừa lòng Tôi bối rối nghe tim mình thắt lại Cô bé lầm tôi chẳng tặng người yêu Thằng bạn thân chiều qua vừa tử trận Một bông hồng cho nó bớt quạnh hiu Nhưng cô phải nhận tiền tôi đi chứ Hoa cho không về Mẹ mắng làm sao ? Cô bé đang vui mắt bỗng dưng khựng lại Đầy đăm chiêu và ngượng lại nụ cười Chuyện của ông làm tôi xúc động quá Tôi cúi xuống đưa tay làm dấu thánh Chúa giữ gìn người ấy được bình an Ước gì gió thổi trăng rơi xuống Để suối không chờ đợi đến ngàn thu Ước gì gió thổi ru cô bé Để đến hôn em kỷ niệm đầu . . . st. |
|||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||
![]() |
|||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||
![]() |
|||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23678 |
![]() ![]() ![]() |
||
|
|||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||
![]() |
|||
<< phần trước Trang of 158 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |