![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Chuyện Linh Tinh | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 108 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | |||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23665 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Người Ở Lại Charlie <<<<<![]() |
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23665 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Chuyện Về Chị Kim Tiên![]()
Hình minh hoạ
Mùi thơm khăn áo ngây ngất đi vào cổ tích tôi (1)
Chị biết anh vì
hai gia đình ở chung xóm gần chợ Gia Định. Chị cũng là bạn cùng lứa với
em anh từ trường tiểu học cho đến lúc vào trường Trưng Vương. Anh học
Khoa Học Sài Gòn. Thỉnh thoảng anh dừng chân ở quán nhà chị ở đầu ngõ,
chào hỏi vu vơ, nói đôi ba câu chuyện. Kêu chị là bé dù anh chỉ hơn chị
chừng 5 tuổi. Vậy mà chị lại thích, chị có cảm giác mình thật bé bỏng
khi đứng bên cạnh anh thật cao lớn, cần sự che chở của anh.
Năm
lên lớp 11, chị thấy anh vắng mặt một thời gian ngắn, qua nhỏ bạn biết
anh động viên vào Thủ Đức. Rồi anh lại hiên ngang xuất hiện sau đó với
bộ đồ hoa dù và nón Beret đỏ. Cuộc tình bắt đầu, với người yêu là một
Thiên Thần Mũ Đỏ.
Ở tuổi 17, chị lớn dần trong tình yêu trầm lặng
của anh, trở thành một thiếu nữ chín chắn, trong khi đó đời sống nội
tâm cùng sự lo sợ triền miên đôi khi khiến chị cảm thấy lạc lõng giữa
chúng bạn ở lứa tuổi ô mai.
Niên học 1974-1975, chị bước vào năm
thứ nhất Văn Khoa. Anh vẫn miệt mài với đơn vị ở những chiến trường xa.
Những lá thư yêu thương anh gửi chị chỉ ghi cái địa chỉ KBC 4794 lạ
hoắc.
Cuối tháng Hai 1975, anh bất ngờ có mấy ngày về phép. Đêm
trước ngày trở lại đơn vị, anh đưa chị đi ăn chè góc Bạch Đằng/ Nguyễn
Huệ. Ngồi quán chè, cùng nhìn ra sông Saigon, chị bỗng nghe anh nói bằng
một giọng nhẹ nhàng, “Ngày mai anh trở ra lại mặt trận. Em ở nhà bình
an. Chuyến đi này không biết bao giờ anh về thăm em được. Tình hình rất
căng. Đôi khi anh nghĩ may ra anh bị thương thì chúng mình mới có cơ hội
để thành vợ chồng!”
Lẫn trong tiếng nói, chị tưởng như bên tai
mình có hơi thở của anh. Vị ngọt của muỗng chè bỗng trở thành vô vị nơi
cuối lưỡi. Chị quay lại nhìn anh. Hai bàn tay tìm nhau. Không, không thể
chờ đến khi anh bị thương... Nhận ra bàn tay mình run rẩy trong tay
anh, chị nói “Thôi mình về đi anh”.
Khi lặng lẽ rời quán chè bờ
sông, anh không cầm tay chị. Chắc anh không hiểu sao buổi hẹn hò bỗng bị
chị cắt ngắn, đòi về. Nhìn vẻ thất vọng một cách tội nghiệp trên khuôn
mặt sạm đen của anh, chị thấy thương anh chi lạ. Phải cố gắng lắm chị
mới có thể nói với anh bằng giọng bình tĩnh: “Mình về nhà trọ của anh
đi, em có chuyện muốn nói.”
Ngay khi cánh cửa phòng riêng của anh
trong nhà trọ vừa khép lại, chị đứng trước anh, nhìn anh, rồi nói như
sợ không còn cơ hội nào khác “Đêm nay em sẽ ở lại đây. Em muốn chúng
mình thuộc về nhau đêm nay. Em không muốn chờ đợi thêm nữa.”
Không
chờ cho anh kịp phản ứng, chị rơi mình vào vbòng tay anh, mặt đầm đìa
nước mắt. Cả hai xớ rớ ngồi cạnh giường, luống cuống đến tội nghiệp. Bên
cho với tê tái khắc ghi. Bên nhận trong nghiệt ngã đắn đo. Sau đó, cả
hai dựa sát vào nhau; anh trầm tư ôm vai chị, che chở trìu mến, chị ngã
đầu trên tay anh, nhìn lên trần nhà, mủi lòng, mặc cho nước mắt tự nhiên
tuôn trào.
Thương anh, thương mình, lo sợ cho số kiếp con người
mong manh. Chị biết chị vừa đi ngược sự giáo dục gia đình, nhưng chị
không cảm thấy nuối tiếc, vì chị nhận rõ một khi tình yêu và hy sinh để
trở thành một thì không có gì tuyệt đẹp hơn là giờ phút bên nhau trong
hiện tại. Y như câu truyện “Một Thời Để Yêu Một Thời Để Chết.”
******
“Này em khăn áo vẫn còn nếp nhầu
Lược gương đâu có nỡ nào quên bóng hình
Này em, chăn gối vẫn còn ấm nồng
Chỉ người năm cũ như bóng trăng gầy liệm cuối sông…” (1)
Đêm đầu tiên và cuối cùng có nhau, chị biết đơn vị dù của anh đang hành quân vùng cao nguyên.
Ngày 10 tháng Ba năm 1975, Ban Mê Thuột thất thủ. Sau đó có tin Pleiku, Kontum bị rút bỏ.
Từ vùng hành quân, anh nhờ lính hậu cứ nhắn tin cho chị biết. Và đó là lần cuối cùng chị được tin anh.
Cuối
tháng 3, chị được biết TĐ của anh cùng chung số phận với Lữ Đoàn 3 ND,
đánh cho đến người cuối cùng ở Khánh Dương, rồi phân tán mỏng. Trên
đường rút quân, đơn vị đã không tìm thấy anh. Mất tích? Tử thương? Bị
bắt làm tù binh? Quả là tội nghiệp cho một thiếu nữ như chị, với chỉ
danh nghĩa người yêu của lính, xuôi ngược chạy tìm tin tức của anh, từ
hậu cứ TĐ đến Bộ Tư Lệnh SĐ, hoặc ủ rũ chờ đợi, nghe ngóng tin tức ở nhà
anh.
Ngày 29 tháng 4, người anh cả của chị, một sĩ quan HQ, chạy
nhanh về nhà, hối thúc cha mẹ, thằng em trai và chị ra bến Bạch Đằng,
lên thuyền rời nước. Như một người máy trôi theo dòng đời, chị ra đi mà
lòng quặn đau, bất định, biết rằng từ đây mọi người vĩnh viễn mất nước.
Và chị, vĩnh viễn xa rời và mất luôn cả anh.
Ngày đến trại Fort
Chaffee, tiểu bang Arkansas, chị mới biết mình có thai được trên 2
tháng. Trong khi cả gia đình chị bấn loạn, cá nhân chị vừa lo lắng vừa
hân hoan với mầm sống của anh trong người. Qua bao nhiêu gian nan, cam
go chịu khổ chịu cực, chịu cảnh gái chưa chồng nhưng có con, chị can đảm
vượt thoát mọi thử thách, mọi e dè để cuối cùng định cư ở Fort Polk,
tiểu bang Louisiana với một người chồng Mỹ vào năm 1984. Chị cố tạo cho
mình một vườn hoa trái nơi chị nhận làm quê hương thứ hai, nhưng đa số
là trái ngang trái trắc trở, trái sầu trái đắng, trái chua trái cay, là
tiềm ẩn từ bao thôi thúc vương vấn, bao bùi ngùi luyến thương của mất
nhau, hoài nhau không thể chối từ mà cũng chẳng thể vứt bỏ vì đó là
những bám víu giúp chị can đảm sinh tồn.
****** Gần cuối thập niên 80, tôi tình cờ gặp chị trong một phiên trực tại phòng cấp cứu của Bệnh Viện Baynes Jones Army Community tại Fort Polk, tiểu bang Louisiana, nơi vốn là bản doanh của sư đoàn 5 cơ giới Hoa Kỳ đã có mặt tại chiến trường VN. Con gái chị, với khuôn mặt Việt Nam, khoảng 13-14 tuổi, té xe đạp, không bị thương tích nặng ngoại trừ vài vết thương trầy trụa ngoài da. Nhìn thấy tôi là một bác sĩ người Việt, chị mừng rỡ bắt chuyện. Kể từ đó, thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau đôi lần, cũng tại bệnh viện quân đội Mỹ, có luôn cả người chồng Mỹ của chị là một thiếu tá hồi hưu từng tham chiến 2 lần tại Việt Nam.
Vài
năm sau chồng chị qua đời vì bệnh tim, chị trở thành bệnh nhân của tôi
tại phòng mạch tư. Đó cũng là thời gian tôi khám phá chị bị ung thư vú
và chuyển chị qua bác sĩ chuyên khoa. Trong một lần nói chuyện dài hơn,
chị mở lời tâm sự về chuyện tình của chị trong chiến tranh VN, về người
cha của con gái chị. Chị cho biết chị cầu nguyện hàng ngày hầu mong biết
tin tức về anh, sống chết như thế nào sau trận đánh ở Khánh Dương,
nhưng không mấy hy vọng cũng như đã từng cố gắng tìm kiếm qua các cộng
đồng người Việt tỵ nạn trong bao năm qua. Không lâu sau đó, chị rời vùng
Fort Polk trở về sinh sống với cha mẹ chị ở Springdale, tiểu bang
Arkansas.
*****
Chào bác sĩ. BS. còn nhớ tôi không?? Tôi là Kim Tiên đây…Vâng, đúng rồi đó. Vâng. Cám ơn BS. Bố mẹ tôi bình yên… Con gái tôi vừa vào năm thứ nhất Đại học cộng đồng tại đây. Dạ cám ơn BS. Chắc cháu sẽ vui khi biết BS vẫn còn nhớ đến cháu và gởi lời thăm… Thưa BS. hiện tại ung thư của tôi ở giai đoạn cuối, các bác sĩ bên này cho biết tôi còn sống được khoảng 6 tháng nữa… Dạ. Cám ơn BS… Dạ không sao! Tôi muốn báo một tin rất vui cho BS. biết là tôi vừa tìm được tin tức của cha con gái của tôi rồi… Cám ơn BS chung vui với chúng tôi. Vâng, anh ấy vẫn còn sống tại Việt Nam… Dạ, tôi may mắn tìm ra được em gái của anh, cũng qua Mỹ với chồng theo chương trình H.O cuối năm 1991. Nhờ trời thôi BS ạ…Dạ, qua chương trình Nhịp Cầu Thân Yêu của đài Little Sài Gòn loan báo… Thưa BS., chính tôi cũng không biết được tình trạng của anh ra sao! Em gái của anh nhất định không chịu nói nhiều. Chỉ cho địa chỉ một người trung gian… Nên tôi quyết định về VN một chuyến, trước là để thăm mộ bên nội ngoại của tôi, sau sẽ tìm đến thăm anh… Dạ, tôi cùng đi với một người bạn thân quen trong nhà thờ, tôi không thể chờ con gái tôi cùng đi chung vì cháu rất bận học, mà tôi thì không còn bao nhiêu thì giờ nữa… Dạ có gì tôi sẽ cho BS biết sau… Cám ơn BS. Tôi sẽ cố gắng giữ gìn sức khỏe trong chuyến đi.
Gần một tháng sau, chị gọi điện thoại cho tôi,
nói nhanh giữa những cơn thở nặng và xúc động. Câu chuyện nhiều lúc bị
ngắt khoảng bởi những im lặng và tiếng sụt sùi.
*
“Sài Gòn là đây sao em? Đường không còn lối người chen chân.
Sài Gòn là đây sao em? Lạ sao giọng nói người không quen!
Biết mấy tâm sự đành lãng quên. Xôn xao kỷ niệm lạc lối tìm…” (2)
Sau
nhiều ngày bận rộn đi thăm bà con gần xa và viếng mộ đại gia đình ở Thủ
Đức, chị mệt mỏi trở về Sài Gòn, ngỡ ngàng bước cô đơn giữa lòng phố
đầy người.
Ngày rời Sài Gòn với mảnh giấy ghi địa chỉ của anh do
một người bà con với em của anh cho, chị đi xe khách đến Ninh Hòa. Từ
bến xe, chiếc honda thồ chở chị đi tiếp trên con đường đất đến một làng
khá xa thị xã. Đường về lối mới sao chật hẹp thu nhỏ, hoàn toàn xa lạ
trong tâm trí, không một hương thơm vương vấn. Không một tiếng gọi quen
thuộc. Không một câu hò ạ ơ. Và trời cũng chẳng mưa để làm ướt lòng
người trở về. Ngược lại trời đổ nắng đến hoa cả mắt, nóng cháy cả người
kèm theo bụi đường đỏ làm chị ngột ngạt giữa bao nhung nhớ chất chứa màu
kỷ niệm của thuở tình tự.
Sau vài lần ngưng dọc đường hỏi thêm
chi tiết, xe ngừng trước một căn nhà nhỏ xơ xác, tội nghiệp với mái tôn
đổi màu theo thời gian, có vài bụi chuối xung quanh cùng hàng cây dâm
bụt phía trước. Không chần chờ, chị bước vội vào nhà. Đập ngay vào mắt
là một thân hình cao, gầy gò ngồi trên một sạp tre, lưng xoay ngược
hướng chị đi vào, bên cạnh là một cặp nạng. Chị ngập ngừng lên tiếng,
kêu nhẹ tên anh. Thân hình ấy quay nhanh về hướng chị, cùng lúc quờ
quạng chụp tìm đôi nạng gỗ. Trước mắt chị là một hình hài với chân phải
cụt lên tận đầu gối, áo quần xốc xếch, tóc tai bung xung. Chị bật khóc
chạy đến gần, trong một thoáng kịp nhìn thấy 2 vũng mắt lõm sâu không có
tròng mắt. Chị đột nhiên khuỵu người xuống trên sàn đất, như thể toàn
sức lực dành cho chuyến đi bỗng cạn kiệt. Cùng lúc ấy, bóng một người
đàn bà đi nhanh từ bếp nâng chị dậy.
Anh bị thương nặng ở chân
trên đường rút quân, cố gắng lết xa khỏi trận chiến và ẩn núp trong bụi
rậm. Ngày hôm sau, địch tìm thấy anh và bắt anh làm tù binh. Anh nghĩ
vết thương ở chân phải có thể lành nếu được chữa trị với trụ sinh và
đăng bột, nhưng tên y sĩ trại tù chọn cách dễ là tháo khớp gối. Sau đó
anh còn bị đạn nổ trong khi nhóm lửa rừng sưởi ấm ở trại tận bên Cao
Miên, khiến cả 2 con mắt của anh bị hư nặng tuy vẫn nhìn thấy rất mờ. Vì
vậy anh được thả cho rời trại sớm. Trên đường khổ sở, một mình thất
thểu về lại làng phố, anh bỗng gặp một người đàn bà chưa một lần quen
biết, hiện tại là vợ của anh, đem anh về nhà săn sóc. Chồng trước của bà
là một người lính Địa Phương Quân tử trận 2 năm trước ngày mất nước.
Trong vài năm sau đó, đôi mắt anh làm độc kinh niên nên bác sĩ đành phải
múc bỏ cả hai bên.
Biết tính của anh chỉ muốn nhắc đến những
giai đoạn quan trọng của trận cuối và trong thời gian khi còn là tù
binh, chị không thắc mắc hỏi thêm, cũng chẳng cắt ngang cuộc độc thoại
của anh bằng một giọng nói trầm tĩnh của chấp nhận số phận đã an bài,
của một cam chịu không lối thoát. Chị có cảm tưởng anh chỉ thổ lộ lần
duy nhất này rồi sẽ không bao giờ nhắc lại, như chôn sâu vĩnh viễn nỗi
oan khiên vào bóng tối đời anh. Đời anh là một nỗi buồn khôn nguôi kết
trái sầu tủi từ thuở anh trở thành kẻ chiến bại và phế nhân. Anh cố tình
làm ra vẻ thản nhiên như không hề muốn chị phải đau đớn, dày vò tự
trách số phận quá nghiệt ngã, cùng khốn, lỡ làng!
“Trách chi người ai lỗi ai
Trách chi người mi ướt cay
Trách chi người thôi đã xa nhau kiếp này…
Mùi thơm khăn áo ngây ngất đi vào cổ tích tôi” (1)
Chị
yên lặng ngồi nghe, tiếng được tiếng không, tê tái cõi lòng, nhớ lại
năm xưa có lần anh thì thầm bên chị, “may ra anh bị thương thì chúng
mình mới có thể trở thành vợ chồng.” Thế nhưng tuyệt đối chưa một lần
chị nghĩ đến anh có thể bị thương trong cuối cuộc chiến, và cũng chưa hề
nghĩ anh đã phải trải qua những giai đoạn khổ sở cùng cực như vậy. Từ
một nam nhân oai hùng ngày xưa, nay anh là một phế nhân với những vết
thương tàn phá nặng nề trên cơ thể. Đôi mắt ngày xưa, nơi chị thường hay
nhìn vào để tìm hình ảnh của tình yêu và sức sống của tuổi trẻ mình,
nay chỉ là 2 mí mắt nhíp gần nhau nằm sâu trong một khoảng màu trắng ở
giữa. Giờ đây chị mới hiểu vì sao em gái của anh tránh không cho chị
biết nhiều về anh. Chị bỗng cảm thấy gần gũi với vợ của anh, thầm cám ơn
rằng ơn Trên sắp đặt cho anh tìm được ánh sáng dịu hiền giữa đường qua
sự săn sóc, cứu vớt, nuôi nấng, bao bọc, che chở, yêu thương của người
vợ này. Như một bà tiên hiện ra nguyên vẹn để dẫn dắt, cưu mang, nâng đỡ
chàng Thiên Thần Mũ Đỏ của chị trong sa cơ thất thế, khi cánh dù bị chà
đạp, tan tác trong cuộc đổi đời.
Chiều hôm ấy, chị không từ chối
khi vợ anh mời chị ở qua đêm tại đây, cả hai cùng nhau tâm sự dưới một
ngọn đèn vàng úa duy nhất của nhà, nhất là sau khi nghe chị cho biết anh
từng là người yêu đầu đời của chị. Càng về khuya, chuyện trò càng cởi
mở hơn, bấy giờ chị mới từ tốn cho vợ chồng anh biết là chị có thai với
anh ngay trong đêm trước khi anh rời Sài Gòn về lại đơn vị cuối tháng 2,
1975. Con gái của anh sinh vào cuối tháng 11, 1975; chị đặt tên cho con
là Kim Ngân, ghép từ nửa tên của chị và nửa tên của anh, nay con gái
được 19 tuổi và đang học đại học gần nhà. Vợ anh liên tục nắm chặt tay
chị và kéo chị ngồi sát vào mình, một cử chỉ che chở, chia xẻ, thông cảm
và đầy thân thiện trong suốt câu chuyện. Anh hoàn toàn im lặng, hai tay
ôm đầu mình. Thỉnh thoảng 2 vai có rung nhẹ. Mãi sau khi chị dứt, anh
mới nhẹ nhàng hỏi là con gái có biết câu chuyện giữa anh và chị, và biết
anh là cha không. Con gái anh, chị trả lời, chỉ biết cha nó là một sĩ
quan Nhảy Dù, tử trận và mất xác khi cuộc chiến VN gần đến hồi kết thúc.
Ngay cả mục đích đi tìm anh trong chuyến về VN của chị, chị cũng hoàn
toàn dấu con gái.
Chỉ một điều duy nhất chị không tiết lộ cho anh và vợ anh biết là chị đang bị ung thư vào giai đoạn cuối.
Tối
hôm đó, sau khi đọc kinh cầu nguyện cám ơn, chị có một giấc ngủ thật an
lành dù lạ nhà, một phần có lẽ vì đi đường quá mệt, phần kia vì chị đã
đạt được mục tiêu chính của chuyến đi. Sau bao nhiêu cầu xin, bao nhiêu
thấp thỏm đợi chờ mong mỏi tin tức, nguyện vọng ấp ủ từ bao năm qua nay
được đáp ứng và trở thành sự thật. Trước đây, bao thương nhớ, bao hình
ảnh về anh và sự mất anh trong đời, những suy sụp tinh thần của một
người đàn bà di tản mang thai, những oan trái mòn mỏi trong xót xa;
những gian khó thử thách trong đời sống mới, những gượng cười trong lệ
sầu; những năm nuôi dạy con một mình; những cô đơn tinh thần khi sống
bên cạnh người chồng Mỹ với bao dị biệt văn hóa, ngôn từ; những mệt mỏi
thể xác qua bao lần xạ trị, hóa trị, thuốc cũ thuốc mới, những sợi tóc
xanh phai màu rơi rụng; những đau đớn chán nản khi căn bệnh trở nặng;
những lo âu suy tính về tương lai con gái rồi đây sẽ mồ côi mẹ… tất cả
đã tạo cho chị một tình trạng trầm cảm nặng nề. Nhưng giờ đây, chị vô
cùng mãn nguyện tìm thấy anh, nhìn thấy anh bằng xương bằng thịt, biết
anh đã sống sót qua chiến tranh, dù bị tàn phế trầm trọng nhưng bù lại
anh có một người bạn đường luôn bên cạnh, săn sóc yêu thương anh. Hơn
nữa anh còn có đứa con gái và đứa con trai
Sáng hôm sau, đứa con
trai của anh, nhỏ hơn con của chị gần 3 tuổi, ở nhà ông bà ngoại cạnh
trường trung học huyện, về kịp chào chị trước khi chị lên đường. Chị
cũng đã kín đáo trao tặng tất cả số tiền lớn còn lại cho vợ anh đêm qua.
Chị có hứa với vợ chồng anh là chị sẽ kể cho con gái của anh tất cả câu
chuyện giữa anh và chị, không một dấu diếm, luôn cả thương tật của anh
và hoàn cảnh hiện tại của vợ chồng anh. Để trả lời câu hỏi của vợ anh,
bằng một giọng mong manh sâu tận đáy lòng, chị run run xúc động cho biết
sẽ trở về lại thăm vợ chồng anh nếu sức khỏe cho phép. Sau khi chào tạm
biệt vợ chồng anh và chúc nhau an lành, hai người đàn bà ôm xiết chặt
nhau, mắt chớm lệ, gần gũi trong cảm thông trân quý. Anh vẫn đứng yên
bên khung cửa trước nhà, chan hòa trong ánh sáng ấm ban mai. Chị vội
bước nhanh đến chiếc xe thồ đang đợi. Xe rồ máy chở chị đi. Không nhìn
lui, bình an trong lòng, chị ngước nhìn trời. Một màu xanh tuyệt đẹp.
Không mây.
*
“Sài Gòn ngày xưa đâu em? Mộng mơ ngày tháng tuổi hoa niên.
Sài Gòn ngày xưa đâu em? Từng con đường phố mình thân quen
Dĩ vãng đâu về, buồn ngẩn ngơ. Bao nhiêu mong đợi lạc bến chờ” (2)
Chị
Kim Tiên đã không về lại VN lần thứ hai. Chị chết trong bình an vào
giữa tháng 5, 1994. Cháu Kim Ngân điện thoại cho tôi biết, theo lời yêu
cầu của Mẹ, cháu đang sửa soạn về thăm cha trong mùa hè này, mang theo
chiếc xe lăn cũ của Mẹ cùng một số tiền lớn từ bảo hiểm nhân thọ của mẹ
để lại cho cha.
Ước mong cháu Kim Ngân sẽ nuôi nấng và gìn giữ chuyện cổ tích của cha và mẹ mình.
Tháng Giêng, 2017
Mission Viejo, CA
Vĩnh Chánh
(1): “Đã Một Lần”, nhạc của Y Sĩ Nhảy Dù Phạm Gia Cổn. Lời thơ của Th. Tá TQLC Định Nguyên
|
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23665 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Ba Tôi Và Trại Tù Vĩnh Phú
Tác
giả qua Mỹ năm 1998 diện đoàn tụ ODP, là một kỹ sư từng làm việc tại
Kia-Tencor San Jose, California. Lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ với bài viết
về Mẹ trong mùa Mother’s Day 2019, ông cho biết có người cha sĩ quan tù
cải tạo chết ở trại Vĩnh Phú, vùng biên giới Việt-Hoa. Bài viết mới kể
về chuyện người mẹ và tác giả thăm nuôi đúng vào những giờ phút sau cùng
của người cha trong trại tù cải tạo. Tựa đề đầy đủ của bài viết: “Ba
Tôi, Những Giờ Phút Sau Cùng và người bạn tù trên đất My” được rút gọn
theo nội dung.
![]()
Di
ảnh Ông Lê Xuân Điềm, Thiếu Tá Cảnh Sát, Bộ tư lệnh Cảnh Sát Sài Gòn.
Ông sinh năm 1924. “Học tập cải tạo” tại K2 trại cải tạo Tân Lập, Vĩnh
Phú. Mất ngày 10/2/1979 tại trại K2.
***
Vượt
qua bao nhiêu cửa ải khó khăn, thủ tục nhiêu khê cuối cùng chúng tôi
mới cầm được tờ giấy ra thăm ba tại trại cải tạo Tân Lập, Vĩnh Phú.
Tháng
2 năm 1979, hai mẹ con ra Hà nội bằng xe lửa. Sau khi hoàn tất mọi
chuẩn bị sau cùng, chúng tôi cùng người gánh hàng thuê lên tàu chợ tuyến
Cao Bằng Lạng Sơn để về ga Ấm Thượng. Hành lý mang theo là hai bao tải
đồ ăn gồm lương khô, thực phẩm, thuốc men, áo quần…bất kỳ cái gì cũng
cần thiết cho người đang “học tập” cải tạo. Năm 1978, tôi đã thăm được
ba lần đầu tiên, đã biết trước địa điểm, lại háo hức mong gặp ba, chuyến
đi lần này diễn ra suông sẻ nhanh chóng hơn trước rất nhiều.
Xuống
ga Ấm Thượng, vượt qua gần 30 km đường bộ, 2 lần gọi đò qua những dòng
sông nước chảy xiết, cuối cùng chúng tôi cũng đến được nhà khách K2 Tân
Lập Vĩnh Phú vào lúc nửa đêm. Chuyến đi vất vả nhưng mẹ chịu đựng gian
khổ và khoẻ hơn tôi tưởng tượng rất nhiều. Nghĩ đến lúc gặp lại ba vào
ngày mai, hai mẹ con suốt đêm thao thức không ngủ được. Nằm bó gối ở một
góc phòng, trong tiếng ễnh ương rên rĩ, tôi nhìn ra bên ngoài từ khe hở
của vách tre lá của nhà khách ở một vùng đất gần biên giới Việt Hoa xa
xôi, và cảm nhận cái nỗi thê lương của những tháng ngày mà ba tôi, người
sĩ quan tù cải tạo, đã và đang trải qua.
Tiếp
chúng tôi là một tay công an khá lớn tuổi với khuôn mặt rất hình sự.
Tôi đưa giấy tờ, trình bày lý do, và xin phép được gặp ba. Gã cầm giấy
tờ đi vào bên trong. Độ khoảng 15 phút, gã đi ra vẫn với khuôn mặt khó
đăm đăm. Gã nói: Rất tiếc không thể để hai người gặp tù nhân này được.
Ông nhà đang bị kỷ luật vì vi phạm nội quy trại. Hai người có thể để
thức ăn và đồ dùng lại chúng tôi sẽ chuyển cho ông. Mẹ tôi bắt đầu khóc
lóc và năn nỉ. Gã một mực cương quyết lắc đầu. Mẹ tôi càng lúc càng khóc
to hơn.
Càng
bị từ chối, nỗi uất ức càng lớn, bà bắt đầu nằm lăn ra sàn đất. Vừa la
vừa lết, vừa khóc vừa hét. Gã công an lúng túng không biết xử lý cách
nào. Những người đến thăm nuôi và cả những cán bộ của các bàn bên cạnh
đều hướng về phiá chúng tôi. Tình hình căng thẳng đến tai cấp chỉ huy
trại. Một sĩ quan công an bước vào. Hai người thầm thì nhỏ to gì đó.
Cuối cùng viên sĩ quan đến gặp chúng tôi, dịu dọng.
Thật
ra chúng tôi rất muốn giúp bà nhưng quả thật hiện nay ông nhà đang bị
kỹ luật bị giam ở ngoài trại cách đây rất xa. Thôi bà về đi. Tuần sau bà
quay lại. Tôi sẽ cho bà gặp ưu tiên với thời gian gấp đôi bình thường.
Còn bây giờ bà cứ để thức ăn và đồ dùng chúng tôi hứa sẽ đưa tận tay ông
nhà, không thiếu một thứ gì.
Năn
nỉ ỉ ôi cách mấy cùng không lay chuyển tên cán bộ quản giáo, tôi nghĩ
chắc là hết cách. Chắc phải ở lại Hà Nội thêm một tuần. Nhìn khuôn mặt
có vẽ hiền lành của viên sĩ quan công an, tôi nghĩ gã có vẻ thiệt tình.
Tôi nói nhỏ với mẹ, mình vê thôi, ba bị kỷ luật. có xin cũng không được.
Chịu khó về Hà Nội ngủ lây lất. Tuần sau lên lại hy vọng họ giữ lời hứa
cho gặp được ba lâu hơn.
Trong
khi quay lại bàn tiếp tân để làm thủ tục đưa thức ăn và đồ dùng cho ba,
bỗng dưng tôi thấy một ánh mắt hơi khác lạ của một tù nhân làm nhiệm vụ
đem nước chè xanh cho những người đến thăm nuôi. Để ấm nước xuống bàn,
người này đi chầm chậm về phiá chòi vệ sinh sau khi ngoái lại nhìn tôi,
đôi mắt nhấp nháy kỳ lạ. Tôi xin phép gã cán bộ công an đi vệ sinh.
Bước
vội vào phía trong vừa kịp thấy dáng khòm khòm của người tù nhân bước
ra. Tôi bước vào, nhìn quanh cái chòi tiêu, tiểu được xây tạm bợ bằng lá
tranh với cánh cửa tre nửa kín nửa hở. Tôi ngồi xuống và nhìn quanh
vách tre lá. Tôi có linh cảm hình như người tù nhân muốn cho tôi biết
một điều gì đó. Tôi cố nhìn thật kỹ. Quả đúng như linh cảm, trên góc đòn
tre phía trái của cầu tiêu, tôi thấy một mảnh giấy nhỏ, trên đó viết
nguệch ngoạc một dòng chữ: “Ông Điềm bệnh nặng.”
Hoảng
hốt tôi vội chạy ngược vào phòng tiếp tân. Dằn cơn xúc động tôi kéo mẹ
ra góc phòng báo tin. Mẹ bình tĩnh và khôn ngoan hơn tôi tưởng rất
nhiều. Bà quay trở lại bàn tiếp tân và nói: Xin cán bộ cho tôi ở lại đây
đợi chồng tôi về chứ bây giờ vừa đi vừa về Hà Nội cũng mất hai ngày. Gã
cán bộ nói láo trơn tru: Ông bị biệt giam ở nơi rất xa, phải tuần sau
chúng tôi mới đưa ông nhà ra găp bà được.
Đến
lúc này nỗi uất ức trong lòng mẹ tôi bùng nổ, bà khóc và la hét to hơn:
“Mấy ông nói láo, tôi biết chồng tôi đau nặng, đồ sát nhân, sao không
cho chúng tôi gặp. Các ông có còn là con người không?”
Đến
lúc này thì mẹ tôi không còn biết sợ là gì nữa, Tất cả những oán hận
chất chứa trong lòng bao lâu này được dịp thoát ra, không ai có thể ngăn
được. Cả phòng khách của K2 bắt đầu nhốn nháo, ồn ào. Nhiều người bu
quanh mẹ tôi lúc này đang nằm lăn lộn dưới sàn đất cứng ngắt. Gã cán bộ
chạy vào trong và đi ra cùng với viên sĩ quan lúc nãy. Gã dịu giọng nói
với chúng tôi: Xin bà bình tỉnh Mời bà và anh vào trong, chúng tôi sẽ
giải quyết. Nói xong gã ra lệnh cho hai tay công an dìu mẹ tôi vào căn
phòng phiá trong. Có lẽ không muốn những người thăm nuôi khác biết
chuyện.
Căn
phòng sạch sẽ hơn phòng bên ngoài nhiều. Viên sĩ quan công an nói: Bây
giờ tôi xin nói thật về tình trạng của ông nhà. Thật ra ông đang bệnh và
chúng tôi đang tích cực chữa chạy cho ông. Nay bà đã biết, tôi sẽ thu
xếp cho bà vào gặp ông. Ông nhà đang nằm ở bệnh xá, tôi sẽ cho người dẫn
ông bà đi. Xin ông bà đợi một lát. Nói xong gã bước ra, nói nhỏ gì đó
với công an trực.
Gã
công an bước đi thật nhanh. Khoảng 40 hay 50 phút gì đó gã trở về, bước
đi gấp gáp, hấp tấp. Lại thì thầm to nhỏ với viên chỉ huy. Tôi linh cảm
có chuyện không hay. Lần này viên sĩ quan trầm giọng: Thưa bà, chúng
tôi vừa mới nhận được tin, mặc dù chúng tôi đã tận tình chữa trị, nhưng
vì sức yếu, ông nhà vừa mất cách đây 5 phút. Chúng tôi xin chia buồn với
bà. Chúng tôi sẽ đưa bà đi gặp ông lần cuối cùng.
Nghe
tin dữ, mẹ tôi như điên cuồng. Bà nằm lăn ra đất. Vừa khóc vừa la.
Không từ nào mà bà không đem ra. Không nhân vật nào bà không réo tên
chửi. Vừa chửi vừa khóc, khóc đến khan cả giọng. Mồ hôi quyện với đất đỏ
dính đầy áo quần, mặt mũi. Hết khóc rồi bắt đầu cười ngây dại. Tôi ôm
mẹ không nói được nên lời. Nỗi đau quá lớn làm thần kinh tôi như tê
liệt. Ôm mẹ với trái tim nhói đau như kim châm và mẹ ngất đi.
Khoảng
15 phút sau, chúng tôi được dẫn di gặp ba. Nơi ba nằm là một căn nhà
nhỏ đơn sơ gọi là bệnh xá nằm sâu trong K2 cách nhà khách khoảng 30 phút
đi bộ. Ba nằm trên một giường tre, thân hình gầy guộc, khuôn mặt ốm
nhom như bộ xương khô. Hàm râu lổm chổm có lẽ được cắt ngắn một cách vội
vàng không dài thòn như lần đầu tôi gặp.
Hình
như đã hết nước mắt, mẹ không khóc yên lặng ngồi bệt xuống đất vói tay
ôm lấy ba. Tôi ngồi xuống phiá bên kia. Hai mẹ con ôm choàng lấy ba. Vẫn
còn hơi ấm của một cơ thể vừa mới qua đời. Mẹ vuốt mắt ba. Mắt trừng
trừng nhìn ba. Hình như tôi thấy trong mắt mẹ màu đỏ của máu. Sẽ không
bao giờ tôi quên được cái hình ảnh của ba và mẹ tôi trong bệnh xá trại
K2 Tân Lập hôm đó. Mẹ không khóc nhưng lại ngất thêm một lần nữa khi tôi
định kéo mẹ đứng lên.
Sau
này qua một người bạn tù của ba, lúc mẹ con tôi đến thăm trại, đang hấp
hối nhưng ba tôi biết. Lúc đó ba đã rất yếu. Ba nói ba sẽ cố gắng sống
để găp mẹ một lần và ba cố gắng húp được vài muỗng cháo trắng. Những
muổng cháo trắng cuối cùng trước khi ra đi mãi mãi. Giá mà tay cán bộ có
một chút tình người thì có lẽ mẹ cũng được gặp ba một lần sau chót. Chỉ
cần một lần mà thôi, của một cuộc tình ba mươi mấy năm. Tôi biết ba đã
không đành lòng ra đi. Đành lòng sao được hả ba, khi vượt hàng ngàn cây
số từ nam ra bắc, chỉ còn cách một bước chân thôi mà mẹ không thể nói
với ba những lời yêu thương sau chót, để được nghe một lời trăn trối sau
cùng. Tức tưởi và uất hận lắm ba. Mà thôi ba ơi. Cứ yên lòng ra đi rồi
có ngày mẹ, ba và chúng con sẽ lại gặp nhau một nơi nào đó, trên thiên
đàng. Chúng ta sẽ lại có những ngày tháng hạnh phúc bên nhau như thuở
nào.
Để
xoa dịu mẹ con chúng tôi, lần đầu tiên K2 có tổ chức một đám ma tù nhân
tương đối đàng hoàng. Từ trước, đã có rất nhiều tù nhân chết ở đây.
Toàn bộ được bó vào các manh chiếu mây tre rách rưới và được chon vùi sơ
sài trong các mảnh đất trống bên trong trại. Ba có lẽ là người đầu tiên
đưọc ưu tiên có hòm làm bằng gỗ ván thông dù rất mỏng dính. Chôn theo
với ba là mấy bộ đồ rách bươm. Cũng có 4 người tù khiêng quan tài. Phía
trước và phía sau có 4 công an đi cùng. Cũng có ly hương là cái chén ăn
cơm cũ kỹ. Tôi cầm bài vị là một bức ảnh căn cước nhỏ xíu của ba còn sót
lại trong trại. Mẹ đi sau quan tài. Đoàn đưa tang gồm 10 người lặng lẽ
đi về phía một đồi trọc xa xa, phiá ngoài hàng rào trại K2. Trên đường
đi, tôi để ý thấy có những gò đất với rất nhiều ngôi mộ vô danh.
Nơi
chôn ba là một ngọn đồi, chỉ có một cây đa thật to. Những người tù đào
vội một lớp đất không sâu lắm, hòm được đặt xuống và lấp lại. Thế là
xong. Ba tôi, một sĩ quan cảnh sát miền nam thua cuộc, cuối đời nằm ở
đây, một vùng đất gần tận cùng biên giới Việt Hoa. Một mình, cô đơn,
lạnh lẽo. Mẹ không còn nước mắt để khóc. Suốt buổi lễ cứ nhìn trừng
trừng. Một khuôn mặt tưởng như vô hồn, nhưng tràn đầy oán hận. Một nỗi
hận đến vô cùng. Tôi cắn chặt môi đến tươm máu. Thôi ba ơi, hãy yên nghỉ
tạm nơi đây, con sẽ quay trở lại một ngày không xa.
Trước
khi trở về, tôi cẩn thận ghi dấu vị trí ngôi mộ với một chữ thập ghép
bằng hai nhánh tre và khắc tên ba trên gốc cây to trước mộ.
Hai
năm sau, thương ba nằm một mình hiu quạnh, mẹ con tôi trở ra lại trại
Tân Lập cùng với một người đảo mộ thuê từ Hà Nội. Không xin được giấy
phép bốc mộ, nửa đêm chúng tôi đã lén lút đào chui và trải qua những giờ
phút gian truân, nguy hiểm. Cuối cùng chúng tôi cũng đem ba về nằm bên
cạnh ôn mệ trong mảnh đất phía sau nhà, dưới chân núi Ngự Bình Huế.
Từ
khi đem được ba về nằm ấm cúng bên cạnh những người thân yêu, cuộc sống
của gia đình tôi từng bước thay đổi và trở nên tốt đẹp hơn. Có quá
nhiều cái tình cờ, may mắn mà dù không muốn tin, tôi cũng phải tin có sự
che chở của ba, có sự sắp đặt của ơn trên. Và nhờ đó gia đình mẹ và 9
anh em chúng tôi vượt qua được những ngày tháng khó khăn, tủi nhục, đen
tối để đến cuối năm 1998 toàn bộ gia đình đoàn tụ trên miền đất thật xa
quê nhà nhưng tự do này.
Là
những người cuối cùng trong đại gia đình qua Mỹ theo diện đoàn tụ, vợ
chồng chúng tôi cùng 3 con nhỏ về sống tại thành phố nhỏ Tulsa thuộc
tiểu bang Oklahoma. Vào cuối năm 1998, khi chúng tôi mới đến cư ngụ,
Tulsa là một thành phố hiền hoà nhưng cũng thật buồn và trầm lắng. Người
Việt không nhiều, nhưng may mắn cũng có một vài chợ Việt Nam, một vài
quán ăn người Việt, không ngon lắm nhưng cũng làm vơi đi nỗi nhớ nhà của
những đứa con mới vừa lưu lạc.
Lúc
vừa mới đến, thấy gia đình 5 người chưa có công việc làm, mấy người bạn
đề nghị chúng tôi đi xin housing và chế độ trợ giúp cho người low
income. Vào thời đó ở cái thành phố đất rộng người ít này, việc xin trợ
cấp của chính phủ tương đối dể dàng. Ai cũng khuyên vì với tuổi đời gần
50, một vợ và 3 con còn nhỏ, tội gì phải đi làm cho vất vả, ở nhà của
chính phủ, con cái có nhà nước lo, sáng kéo nhau ra quán cafe, chiều tập
trung tại một nơi nào đó cùng với bạn bè, xem đánh cờ và ngồi tám
chuyện ngày xưa. Vừa nhàn, vừa có tiền tội gì phải vất vả mưu sinh. Đâu
phải ai cũng có điều kiện để xin được trợ cấp như gia đình tôi đâu.
Nhưng
đó không phải là con đường của tôi sẽ đi. Đứa con của một sĩ quan tù
cải tạo chết ở biên giới Việt Hoa ngày nào sẽ không thể sống như thế.
Thế là, sau thời gian đầu chuẩn bị cho những việc cần thiết, lấy bằng
lái xe, ở tạm nhà người em gái, chúng tôi bắt đầu cho một cuộc sống mới
trên một miền đất xa lạ này.
Vợ
tôi xin vào làm phụ bếp trong một nhà hàng Việt Nam. Tôi và đứa con đầu
nhờ có bằng TOEFL nên đăng ký đi học đại học trở lại. Ngoài giờ học,
cháu đi làm thêm công việc phục vụ nhà hàng, tôi nhờ có chút tay nghề
sửa máy tính và tivi, xin vào làm technician cho hãng bán máy móc điện
tử COMPUSA. Hai con nhỏ đi học ở trường gần nhà.
Tiền
lương không cao lắm, nhưng với vật giá không đắt đỏ và con người hiền
hoà của một thành phố nơi nhà thờ nhiều hơn nhà dân này, chúng tôi đã có
những bước khởi đầu hội nhập không quá đỗi khó khăn. Và quan trọng là
tôi được đoàn tụ với mẹ, các em, và cùng với gia đình riêng, chúng tôi
đã sống không giàu có, nhưng lương thiện, đầy đủ và tự do.
Có
quá nhiều điều để kể về những ngày tháng trên một miền đất không phải
là nơi tôi sinh ra này, hy vọng sẽ có trong một bài viết khác, ở đây tôi
chỉ muốn nói đến những mối nhân duyên mà ông trời đã sắp đặt liên quan
đến câu chuyện của ba tôi, người sĩ quan tù cải tạo chết tại trại K2 Tân
Lập Vĩnh Phú tháng Hai năm 1979.
Cuộc
sống ở Tulsa phải nói là rất dể chịu và an bình. Với sự tằn tiện và
chịu thương chịu khó, chúng tôi cũng mua trả góp được một căn nhà nhỏ,
tạm đủ cho một gia đình 5 người, những ngày tháng an bình và hạnh phúc.
Nhưng
rồi năm 2000, sau khi lấy lại bằng đại học, tôi xin được việc làm tại
KLA-TENCOR ở San Jose, Ca. Nghe tôi định di chuyển về San Jose, bạn bè,
người thân ai cũng bàn ra. Thứ nhất tôi đang sống an nhàn, mọi việc ồn
định, lên San Jose, tuy lương cao hơn, nhưng nhà cửa, cuộc sống đắt đỏ,
lạ lẫm, chắc chắn sẽ khó khăn vất vả hơn nhiều. Làm lại từ đầu, có trụ
nổi không hay lại khăn gói trở về như một số người ở bên này.
Nhưng,
với tôi, quan trọng không phải là đồng lương cao thấp, đường đi dễ dàng
hay vất vả, bằng phẳng hay gập ghềnh, mà là một công việc phù hợp với
cái kiến thức và cái khả năng được đào tạo của mình, trong một ngành
nghề mình yêu thích. Thế là gia đình nhỏ, 5 người chúng tôi một lần nữa
khăn gói đi về một thành phố xa lạ hơn, một nơi được xem như đắt đỏ vào
bậc nhất nước Mỹ để kiếm sống.
Cho
đến bây giờ trải qua gần 20 năm, với biết bao thăng trầm, thời gian,
với tôi, thời gian ở San Jose vẫn là một quãng đời đáng sống. Có nhiều
điều để nhớ lại, nhưng trong phạm vi bài viết, tôi muốn nhắc đến, chính
là cái duyên, cái tình cờ sắp đặt của thượng đế, của định mệnh khi chính
tại miền đất này, tôi đã gặp lại hình bóng của người cha thương yêu.
Đầu
năm 2001, khi tôi đang làm tại KLA-TENCOR, lúc đó nhà cửa rất là hot.
Tôi tìm mãi mới thuê được căn nhà 4 phòng ngủ. Giá thuê không hề rẻ,
1800USD một tháng. Trả tiền nhà rất vất vả khó khan, mất toi ½ số tiền
lương hàng tháng. Chúng tôi quyết định tìm người cho share lại bớt một
phòng. Đúng lúc có một technician mới vào làm trong dây chuyền của tôi
mới được tuyển vào làm việc, cần nơi ở. Thế là thoả thuận về ở chung.
Vừa tiện đi làm chung xe, vừa sẽ chia tổn phí, tiện lợi đôi bề.
Ở
một thời gian, làm chung với nhau cả năm, trong một dịp tình cờ khi nhờ
ông bạn share phòng cắt tóc giùm, qua cuộc nói chuyện, phát hiện ra ông
bạn cùng nhà mấy lâu nay củng là một sĩ quan từng đi “học tập cải tạo”.
– Anh đi tù ở đâu?
– Tân Lập, Vĩnh Phú
– K mấy?
– K2. Biết ông Điềm không?
– Biết quá đi chứ.
Thế
đó. Quá bất ngờ hơn, khi người share phòng bấy lâu lại chính là người
đã đưa cho tôi mảnh giấy báo tin ba tôi đau nặng tại phòng thăm nuôi K2
trại cải tạo Tân Lập ngày nào.
Không
thể nói hết sự kỳ diệu của định mệnh, khi sau 22 năm ngày mất, một sĩ
quan tù binh cải tạo gặp lại người con của một bạn tù trên một đất nước
quá xa vùng đất biên giới xa xôi. Không diệu kỳ sao được, khi trong hàng
triệu người Việt lưu lạc, có mặt trên hàng chục quốc gia, sống trên hơn
50 tiểu bang của Hoa Kỳ, tôi gặp lại đúng một người duy nhất đã đút cho
ba tôi những muỗng cháo trắng cuối cùng trước lúc lâm chung. Người đã
sống với ba trong những tháng ngày bi thảm đó. Một trong 4 người bạn tù
khiêng cha tôi về miền đất lạnh
Từ xưng anh, từ đó tôi gọi là chú, chú L. Hai chú cháu có những đêm thức trắng để kể chuyện về ba tôi.
Chú
là người báo cho ba tôi biết hai mẹ con chúng tôi đang đợi chờ mỏi mòn
tại phòng thăm nuôi. Duy nhất, chú là người bên ba để chứng kiến những
giọt nước mắt cuối cùng tức tưởi của một người đang hấp hối. Chú là
người duy nhất nhìn thấy cặp mắt mong đợi mỏi mòn của ba. Dù chỉ gần
nhau trong gang tấc, trước khi ra đi vẫn không thể nhìn nhau một lời sau
cuối.
Cám
ơn chú L. Người bạn tù của ba tôi, ân nhân không bao giờ quên được của
tôi. Sau khi nghỉ hưu, chú về ở với con gái nghe đâu ở tiểu bang
Minnesota xa xôi. Chưa một lần chúng tôi gặp lại nhau. Nhưng dù ở bất cứ
nơi đâu, cháu cũng cầu mong chú và những người thân yêu thật nhiều may
mắn và bình an.
Và
tôi tin rằng ở một nơi nào đó thật xa xôi, ba vẫn luôn dõi theo và che
chở cho gia đình chú cũng như cho mẹ con chúng tôi. Nếu có một kiếp sau,
con vẫn sẽ là con của ba, người tù cải tạo chết ở miền đất biên giới
Việt Trung, ngày 10 tháng 2 năm 1979.
Lê Xuân Mỹ
|
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23665 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23665 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23665 |
![]() ![]() ![]() |
|||
![]() |
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23665 |
![]() ![]() ![]() |
|||
|
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23665 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23665 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Chuyện di tản 1975
Giữa cầu thang, một bà già. Máy quay phim
ngay bà nên nhìn thấy rõ : bà mặc quần đen áo túi trắng đầu cột khăn
rằn, không mang bao bị gì hết, bà đang bò nặng nhọc lên từng nấc thang.
Bà không dáo dác nhìn trước ngó sau hay có cử chi tìm kiếm ai, có nghĩa
là bà già đó đi một mình. Phía sau bà thiên hạ dồn lên, bị cản trở nên
la ó ! Thấy vậy, một thanh niên tự động lòn lưng dưới người bà già cõng
bà lên, xóc vài cái cho thăng bằng rồi trèo tiếp. Lên gần đến bong tàu, bỗng bà già vuột tay
làm rơi cái nón lá. Bà chồm người ra, hốt hoảng nhìn theo cái nón đang
lộn qua chao lại trước khi mất hút về phía dưới. Rồi bà bật khóc thảm
thiết… Cũng
trên bến tàu nầy. Trong luồng người đi như chạy, một người đàn bà còn
trẻ mang hai cái xắc trên vai, tay bồng một đứa nhỏ. Chắc đuối sức nên
cô ta quị xuống. Thiên hạ quay đầu nhìn nhưng vẫn hối hả đi qua, còn
tránh xa cô ta như tránh một chướng ngại vật nguy hiểm ! Trong sự ồn ào
hỗn tạp đó, bỗng nghe tiếng được tiếng mất của người đàn bà vừa khóc la
vừa làm cử chỉ cầu cứu. Đứa nhỏ trong tay cô ta ốm nhom, đầu chờ vờ mắt
sâu hõm, đang lả người về một bên, tay chân xụi lơ. Người mẹ – chắc là
người mẹ, bởi vì chỉ có người mẹ mới ôm đứa con quặt quẹo xấu xí như vậy
để cùng đi di tản, và chỉ có người mẹ mới bất chấp cái nhìn bàng quan
của thiên hạ mà khóc than thống thiết như vậy – người mẹ đó quýnh quáng
ngước nhìn lên luồng người, tiếp tục van lạy cầu khẩn.
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 23/Mar/2020 lúc 3:20pm |
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23665 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Anh không chết đâu em - <<<<<Thanh Lan & Nhật Trường![]() Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 24/Mar/2020 lúc 1:57pm |
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
<< phần trước Trang of 108 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |