![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Chuyện Linh Tinh | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 108 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23665 |
![]() ![]() ![]() |
Sài Gòn những ngày cuối tháng Tư 75Thoắt hiện đã 45 năm từ ngày kết thúc cuộc chiến Việt Nam.
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23665 |
![]() ![]() ![]() |
30/4 - NGÀY QUỐC HẬN![]() 30 Tháng 4 – Xóa bàn cờ tướng 30 Tháng 4 - Miền Nam thất thủ 30 Tháng 4 – Cờ máu xuất hiện 30 Tháng 4 - Hải Quân bất mãn 30 Tháng 4 – Vùng 4 còn vững Tướng Ng.Khoa Nam 30 Tháng 4 – buông súng… phi lý! Tướng Lê Nguyên Vỹ 30 Tháng 4 – Đoàn quân thất thủ
Tướng Ph.V,Phú
Tướng Trần V, Hai
Tướng Lê Văn Hưng 30 Tháng 4 – Trước đài Thủy Quân Lục Chiến
Tr.Tá Ng.V.Long 30 Tháng 4 – Người không tự vận
ĐạiTá HồNgọc Cẩn 30 Tháng 4 –Rã ngũ gần hết 30 Tháng 4 – Hai tay hai súng
Người Lính cuối cùng đi giữa Sàigon 30 Tháng 4 – tổng số tuẫn tiết 30 Tháng 4 – Cộng nô tàn bạo 30 Tháng 4 – Hận đau khôn xiết! 30 Tháng 4 – Ước mong chờ đợi ! Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 28/Apr/2020 lúc 1:43pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23665 |
![]() ![]() ![]() |
![]() |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23665 |
![]() ![]() ![]() |
Hành Trình Trên Chiếc Tàu HQ-502![]()
Năm 1975, tôi là một công chức đang làm
việc cho Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa. Vào những ngày cuối
tháng Tư năm đó, Việt Cộng đã chiếm hầu hết các Tỉnh Miền Đông và sắp
tiến vào thành phố Sài Gòn. Tiếng súng và đại pháo nổ khắp nơi, người người lo
sợ Sài Gòn sẽ mất trong nay mai nên người dân tìm cách rời khỏi nước. Trong khi
đó những ngày chờ đợi để được cơ quan di tản nhân viên rời khỏi Nước đã tuyệt
vọng. Hùng và tôi nhất định tìm đường ra đi.
-
28 tháng 4, 1975. Hùng và tôi, hai đứa rủ nhau lặn lội đi tìm những người
bạn thân, quen để rủ nhau kiếm đường di tản, nhưng tất cả đều đã ra đi từ
mấy ngày trước rồi. Trưa hôm đó, chúng tôi ghé ăn bữa cơm cuối cùng tại
nhà hàng Rex, vừa ăn, vừa bồi hồi nhìn thành phố Sài Gòn lần chót, tôi cố
ghi lại trong tim những hình ảnh thân thương của Hòn Ngọc Viễn Đông trước khi
rời xa vĩnh viễn.
-
Chiều 28/4, vào khoảng 5 giờ 30, tôi đưa Hùng vào Sở. Vừa đến nơi thì thấy Tâm
chuẩn bị rời khỏi. Tâm ngừng lại nói với chúng tôi:
- Tụi mày vào trễ quá,
hồi nảy tụi nó tụ tập đông đảo, lấy tiền trong quỹ ra chia cho anh em, mọi
người ai muốn lấy bao nhiêu cũng được. Riêng tao không có lấy đồng nào. Súng,
đạn thì có quá nhiều, đứa nào muốn lấy thêm để phòng thân trong giờ phút cuối
cùng thì lấy.
- Tôi nói đùa với Tâm: Mày còn nhớ cây súng AK47, chiến lợi phẩm của tụi mình đem
về từ Đà Nẵng đâu rồi?
-
Tâm nói: Cây súng còn trên văn phòng đó.
- Hùng hỏi Tâm: Mầy có
nghe lệnh gì về chuyện mình ra đi không?
- Tâm: Tao nghe nói là
Cấp trên không liên lạc được với tòa Đại Sứ Mỹ, các Ông lớn đã ra đi rồi và coi
như bọn mình đă bị bỏ rơi.
- Tôi nói :
Đúng rồi, chắc chắn là bọn mình đă bị bỏ rơi, kỳ này sẽ chết cả đám hết!
- Tôi hỏi Tâm: Như vậy
bây giờ mầy tính sao Tâm?
- Tâm nói: Tao cũng
không biết tính sao. Nhưng nghe có người nói, ngày mai mọi người tụ tập tại số
2 đường Nguyễn Hậu, nửa khuya Trực thăng sẽ đến đón, tao cũng không biết rõ
lắm.
- Tôi quay lại nói với
Hùng: Xưa nay mình chưa bao giờ vào trong chi nhánh của Cơ quan đường Nguyễn
Hậu để làm gì, vả lại chỉ là lời đồn chứ giờ này còn ai đâu nữa mà ra lệnh?
Sau vài giây im lặng,
trong lòng đau sót, và với gương mặt buồn, ba đứa chúng tôi nhìn nhau, xem như
thay cho lời từ biệt. Tâm đi trước. Tôi và Hùng rời khỏi sở ngay sau đó.
- 29 tháng 4, 1975, hai
đứa lái xe Honda chạy ra xa lộ, đến bến tàu thì bến cảng quạnh hiu, không một
bóng người và cũng không còn một chiếc tàu nào cả. Chúng tôi cùng nhau trở lại
Sài Gòn, chạy dọc theo bờ sông rồi thẳng đến Nhà Bè, vẫn không tìm được phương
tiện ra đi. Chúng tôi quay về bến Bạch Đằng vừa đúng 6:00 giờ chiều. Chúng
tôi ngẩn ngơ đứng ngay dưới chân bức tượng Đức Thánh Trần, trong lòng đang
cầu nguyện Đấng Linh Thiêng, mắt nhìn khắp nơi cũng không thấy có tàu đón người
ra khơi. Chúng tôi thất vọng vô cùng, lòng thì bồn chồn, lo cho số phận của
mình không biết rồi đây sẽ ra sao?
Chẳng lẽ cứ phó mặc cho
giòng đời đưa đẩy hay cứ ở lại để cùng nổi trôi theo vận nước điêu linh, chịu cực
khổ dưới ách cai trị độc tài, của Đảng và nhà nước Cộng Sản hay sao? Trong lúc
khốn cùng, buồn bã lẫn thất vọng chẳng biết nói gì hơn, hai đứa chúng tôi chỉ
biết nắm tay nhau tự hứa là sẽ cùng sát cánh, sống chết bên nhau.
Chạy xe vòng quanh một
lúc, tôi thấy cổng vào khu vực Hải Quân đã bị rào lại, chỉ chừa một lối vừa đủ
cho một chiếc xe chạy qua, có hai người lính hải quân ôm súng trên tay, canh gác
rất nghiêm ngặt, họ đang trong tư thế sẵn sàng nhả đạn vào bất cứ ai muốn
xông vào khu vực Hải Quân này. Lúc đó, phía ngoài hàng rào thì đồng bào
đứng cũng khá đông, khoảng hơn trăm người. Họ nhốn nháo, xôn xao mong được
vào trong nhưng lại sợ mũi súng của hai anh lính đang lăm le sẵn sàng nảy cò.
Tôi có ý muốn vào
bên trong, mà cũng không biết vào đó để làm gì, mặc dù Hùng và tôi đã vào
trong sở chiều hôm qua. Hình như trong giây phút tuyệt vọng nầy, tôi chỉ
làm theo bản năng thúc đẩy của sự trốn chạy bằng mọi giá… Sóng lòng tôi như
một giòng nước lũ, cứ cuồn cuộn trào dâng, hối thúc tôi phải tìm đường mà đi.
Lòng tôi nóng như lửa, hồi hộp, dồn dập. Bằng mọi giá tôi nhất định phải
thoát.
Trong thời gian 5
năm làm việc cho đến ngày nay, tôi thường hay ra, vô cổng này, vì tôi có thẻ
được quyền lưu thông trong khu vực Hải Quân. Nhưng lần này thì quả là khó
khăn cho tôi, hai anh lính có quyền ngăn cản và sẽ nổ súng nếu tôi không
tuân lệnh. Tôi quay lại nói với Hùng:
- Ê Hùng, Tao
muốn chạy vào trong xem sao, một tay tao cầm thẻ, một tay tao lái xe,
khi chạy qua chỗ lính gác, tao sẽ trình thẻ, nói là đi công tác, rồi tay
kia tao sang ga chạy thẳng
tới. Mày nhớ nằm sát xuống, ráng coi chừng, nếu tụi nó bắn thì mầy sẽ bị
trúng đạn trước đó. Nói vừa xong thì may mắn thay tôi chạy thẳng vào được
bên trong.
Trước cổng số 3 bến
Bạch Đằng, tôi thấy có ba chiếc tàu đang cặp bến, cạnh bờ sông. Ba
chiếc tàu không lớn lắm, đều giống nhau, tôi không nhìn thấy tên của
tàu. Mừng quá, tôi chạy nhanh lên tàu, không một bóng người. Tôi gọi to:
- Có ai trên tàu
không? Có ai trên tàu không? Không nghe tiếng trả lời, tôi sợ quá bỏ đi.
Tôi đi vào bên trong
khu vực số 3 để tìm một người bạn. Tôi biết bạn bè của tôi không còn
ai bên trong sở này cả, nhưng đây là lý do để tôi có thì giờ suy nghĩ xem tôi
sẽ làm gì sau những giây phút ngắn điên cuồng nầy. Trên đường, tôi thấy hàng
chục cây súng lớn nhỏ, đạn vứt bừa bãi khắp nơi. Chúng tôi cố gắng leo
lên tầng lầu hai hy vọng tìm được người bạn cũ. Phòng vắng tanh, nhưng hình
như có ai vừa đốt giấy tờ gì đó ngay sàn lầu, lửa còn đang cháy, như vậy
là đã có người vừa rời khỏi nơi đây không lâu. Trở ra, chúng tôi chạy đến
cổng Hải Quân Công Xưởng thì thấy có rất đông đồng bào đứng trước cổng
mà cổng vẫn khoá. Khi tôi đến gần thì nhận ra ngay người đứng sau cùng là
Giáo Sư dạy Pháp Văn tại đại học Văn Khoa, đó là Thầy Lê Trung Nhiên. Tôi
hỏi:
- Thưa Thầy, Thầy và
bà con đang chờ để đi đâu vậy?
Thầy Nhiên nói:
- Mình cứ chờ, người ta
đi đâu thì mình đi đó.
Thế là tôi quyết định
đi theo đoàn người này. Để lại chiếc xe Honda bên lề đường, và tôi cũng không quên
bỏ lại chìa khóa trên xe để cho ai đó nếu cần thì có sẵn chìa khoá mà chạy.
Chờ khoảng vài phút
thì cổng mở, tôi theo đoàn người vào bên trong. Lần đầu tôi được vào khu vực nầy.
Khu nầy rất rộng, đi hơn cả cây số mới tới cầu tàu. Mừng cho chúng tôi đã may
mắn đến đúng lúc. Một chiếc tàu thật to đang cập sát bờ, lúc đó vào
khoảng 10:00 giờ tối.
Phía truớc tôi có
khoảng hai trăm người cũng đang đứng sắp hàng chờ để lên tàu.
Nghe nói, phải chờ tàu
sửa xong khoảng nửa giờ thì mọi người mới được lên tàu.
Ôi sung sưóng quá! Thế
là tôi đã thoát rồi, không còn lo sợ phải sống với Cộng Sản nữa.
Lúc này tôi mới cảm
thấy đói bụng và… đói thật nhiều. Thấy người đàn ông đứng bên cạnh tôi đang ăn bánh
mì. Tôi hỏi anh mua ở đâu, anh ta chỉ ra phía sau. Tôi đến đấy thì thấy một
anh lính trong bộ quân phục Hải Quân đang bán bánh mì. Tôi mua hai ổ
bánh mì thịt lớn và hai chai nước ngọt cho tôi và Hùng. Khi trả tiền,
tôi thấy trong túi mình còn nguyên số tiền lương vừa lãnh mấy ngày trước, tôi
tự nghĩ--“Mình sắp sửa
rời khỏi Việt Nam thì đem tiền Việt theo để làm gì?” Tôi bèn đưa hết cho anh lính
Hải Quân. Nhưng anh từ chối, chỉ nhận đủ số tiền bánh mì mà thôi. Tôi
cố giải thích với anh là tôi sắp ra đi nên dù có đem theo tiền Việt Nam
thì cũng không xài được, mong anh lấy dùm cho. Anh ta vẫn nhất định từ
chối, cuối cùng tôi phải năn nỉ xin để lại trên bàn và nhờ anh ta, hễ
thấy ai cần thì anh trao tiền cho họ làm phước. Cám ơn anh xong, tôi quay
trở lại sắp hàng.
Vào hàng chẳng bao lâu
thì mọi người được phép lên tàu. Bỗng có tiếng khóc, la cuả một người đàn
bà:
- Làm ơn cứu con tôi,
làm ơn cứu con tôi
Mọi người xôn xao không
biết chuyện gì? Một lúc sau mới biết là: “có một em bé khoảng 5, 6 tuổi vừa bị
rớt xuống sông”. Thế là việc xuống tàu lại bị đình trệ để một số nhân viên trên
tàu xuống sông tìm kiếm em bé đó, nhưng vô vọng. Bà Mẹ đau thương, gào khóc
nhìn xuống dòng nước chảy xiết đã cuốn theo thân xác vô tội của đứa trẻ thơ…
Ôi! Còn xót xa nào bằng niềm đau ngút ngàn của một người Mẹ mất con…
Loa phóng thanh trên
tàu ra lịnh: Đàn ông thì ở trên boong tàu, đàn bà và trẻ em xuống từng dưới. Tôi
tìm được một chỗ ở giữa tàu nằm tạm nghỉ. Máy tàu vẫn chưa nổ, tàu chưa thể
khởi hành. Tôi nói vói Hùng:
- Tao có mua hai ổ
bánh mì thịt cho hai đứa mình.
Hùng nói:
- Tao đã tìm được bà
Cụ cùng gia đình chị tao trên tàu nên tao đã có thức ăn rồi, mày để dành ăn đi.
Hùng thật may mắn, nó
gặp được gia đình cùng đi chung, riêng tôi, chỉ có một mình… “cô đơn vẫn hoàn
cô đơn”. Đang cơn đói nên tôi nhai ngấu nghiến, ổ bánh mì hết thật mau. Còn
lại một ổ, tôi bèn tặng cho chú em ngồi bên cạnh.
- 1:00 giờ sáng rồi
mà chiếc tàu vẫn chưa ra khơi, nhưng tôi vững tin rằng sớm muộn gì thì tàu cũng sẽ
chuyển bến. Tôi an tâm ngả lưng nằm nghỉ. Lúc này, nằm một mình trên chiếc tàu
cùng với mấy ngàn người chờ đợi tàu nhổ neo. Giữa trời nước mênh mông tôi mới
thấy buồn. Tôi sắp rời xa quê hương, xa mảnh đất thân yêu nơi tôi sinh ra, xa
Cha Mẹ, anh, em, thân bằng quyến thuộc cùng người thương yêu bé nhỏ không
một lời từ giã, và giờ này không biết gia đình tôi ra sao khi không thấy tôi
về? Nghĩ ngợi mông lung, lòng buồn khôn tả và rồi tôi thiếp đi, ngủ quên lúc
nào không hay...
Bỗng nhiên, bên tai tôi
vang động những tiếng đạn đại pháo nổ vang trời làm tôi giựt mình thức giấc.
Lúc ấy là 4:30 sáng, tôi nhận ra được chiếc tàu đang chạy ngang Nhà
Bè, nghe nói tiếng súng đại bác là do Việt Cộng bắn vào kho đạn hay
kho xăng Nhà Bè, và tôi cũng được biết là tàu đã rời bến vào lúc 2:30
sáng ngày 30 tháng 4.
Chiếc tàu chạy rất
chậm, vì chỉ còn có một máy nên nó ỳ ạch mãi đến mờ sáng mới ra đến
biển. Có một toán Người Nhái rất đông, được biết vào khoảng 60 người
đang đi trên chiếc tàu nhỏ, xin được cặp sát để chuyển lên tàu. Chiếc
tàu trực chỉ chạy thẳng ra khơi. Vào khoảng 8:00 giờ sáng, có một
chiếc trực thăng bay vòng quanh tàu, xin được đáp xuống. Các anh lính
Hải quân yêu cầu đồng bào dành một khoảng trống trên boong tàu để
chiếc trực thăng đáp xuống. Từ trong trực thăng bước ra là một người phụ nữ
cùng ba em bé, anh Pilot tươi cười cúi chào và cám ơn tất cả đồng bào.
Sau đó các anh lính cùng nhau đẩy chiếc máy bay cho rơi xuống biển.
Tôi được biết đứa bé
trai 10 tuổi, mặc chiếc quần đùi, chỉ là đứa bé hàng xóm phụ giúp đem đồ lên chiếc
trực thăng cho gia đình anh Pilot, em chưa kịp bước xuống thì máy bay vụt cất
cánh. Thế là em được di tản ngoài ý muốn. Nửa giờ sau lại có thêm một chiếc trực
thăng khác xin đáp xuống, lần nầy chỉ có một viên phi công và anh cũng
được đón nhận. Hạm Trưởng cùng thủy thủ đoàn thật tốt: Cứu đuợc khá
nhiều người.
Đến 10:24 giờ sáng
30-4-1975, khi tàu HQ-502 vừa đến hải phận quốc tế, thì đài phát thanh của tàu
phát lên lời tuyên bố đầu hàng của ông Dương Văn Minh. Tất cả đồng bào
trên tàu đều thở dài, buồn bã, một vài người không cầm được nước mắt cúi đầu
rơi lệ. Thương khóc cho quê hương mình đang rơi vào vòng tay Cộng Sản. Mọi
người ngồi im lặng như dành những giây phút đau lòng cho quê nhà thống khổ
...Trong thâm tâm mọi người không khỏi ngậm ngùi chua xót: “Thôi thế là mình
đã thua và mất tất cả rồi!” Không ai thốt được lời nào, không gian im
lìm như bao trùm một niềm đau thương, tiếc nuối, con tàu một máy cứ vô tình
nhẹ nhàng từ từ chạy, mang theo những con tim tan nát của những “kẻ tha
hương”.
Kể từ giờ phút đó, tôi
là một người vô gia đình, vô gia cư, vô Tổ Quốc, còn tương lai? Tôi cũng
không biết Quốc Tịch của chính tôi sẽ là gì nữa. Buồn sao là buồn!
Trưa hôm đó, tôi may
mắn gặp lại một người bạn cùng học trường Luật Sài Gòn năm xưa. Thật bất ngờ
khiến tôi rất vui. Đây là người bạn duy nhất mà tôi gặp lại trên chiếc tàu
HQ-502—Yến--cô cũng rất mừng khi gặp lại tôi sau vài năm mất liên lạc. Đứng trên
thành tàu, nhìn ra biển, chúng tôi nhắc lại chuyện xưa, chuyện dành
ghế, giữ chỗ cho nhau tại các giảng đường trong những năm học thứ nhất
1967, và thứ hai trường Luật. Yến ra đi cùng với Mẹ, anh chị, và người
em trai. Anh của Yến là Trung Tá Hải Quân làm tại bộ Tư Lệnh. Em của
Yến là Trung Úy Hải Quân. Gia đình của Yến đã chuẩn bị từ hai tuần
trước. Sau hơn một giờ chuyện trò, Yến trở lại hầm tàu cùng với gia
đình. Tôi được biết những vị chỉ huy của chiếc tàu và những sĩ quan cao
cấp đều có phòng riêng ở từng dưới.
Đã hơn 2:00 chiều,
trời bắt đầu nắng gắt, chiếc tàu vẫn ỳ ạch từ từ tiến ra khơi. Tôi
thấy đói bụng. Tôi ao ước, nếu dòng đời cứ bình thản, vận nước không lao
chao, tôi không phải lìa xa gia đình để lênh đênh không biết đi về đâu? Thì
chắc giờ này tôi cũng đang ngồi tại cái quán ăn trên đường Nguyễn Du, nơi
mà hằng ngày tôi đến đây ăn cơm trong suốt 5 năm qua. Tôi nhớ đến cô bé
bưng cơm cho tôi, từ lúc cô chừng 15 tuổi. Cô bé vui tính, dễ thương. Cô quý
mến và xem tôi như anh Hai của cô vậy. Cô biết cả ý tôi thích ăn những món
gì, khi tôi ngồi vào bàn, cô tự đem thức ăn ra cho tôi, cô thường nói,
- Hôm nay có món nầy
ngon lắm, em biết anh Hai thích nên em mang thật nhiều cho anh.
Đó là những buổi cơm
chiều thật vui vẻ, thật hạnh phúc cho một chàng trai trẻ sống xa gia đình
như tôi. Tôi đang nhớ đến cô, nhớ đến nụ cười dễ thương, vui vẻ rất vô tư
của cô bé. Tôi cầu mong cho gia đình cô sẽ gặp được nhiều may mắn trong
giai đoạn khó khăn nầy.
Hùng giờ này chắc đang
vui vẻ với gia đình nên tôi không thấy nó đâu cả. Càng nghĩ, tôi càng xót xa
cho thân phận hẩm hiu của mình: “Đời mình cô đơn nên đi đâu cũng cô đơn”. Bất
chợt có một bàn tay ai chạm nhẹ lên vai, tôi quay lại thì ra là Yến. Trên tay cô
cầm một tô cơm, Yến mời:
- Anh ăn cơm đi
Phản xạ tự nhiên tôi
chợt nói,
- Anh không đói đâu,
cám ơn Yến
Yến tiếp,
- Anh cố ăn một chút cho
vững bụng, nếu không sẽ đói lắm đấy.
Nhìn tô cơm có canh,
có cá, hấp dẫn quá, tôi phát thèm, nhưng cũng vì hai chữ "ta
đây" to lớn xấu xa kia nên tôi cứ nhùng nhằng “tình trong như đã, mặt
ngoài còn e”, miệng thì cứ từ chối lia lịa,
- Anh không đói đâu.
Mãi đến khi Yến hơi
giận nói tiếp,
- Má bảo đem cơm đến
cho anh ăn, em mà đem tô cơm nầy xuống Má la đó.
Thế là tôi nhận lấy tô
cơm, hôm nay tôi có được một bữa ăn thật ngon. Và cứ thế, tôi sống lênh đênh trên
chiếc tàu này cũng khá vui, bên tôi có Yến chuyện trò, còn có cơm nóng để ăn. Khi
no bụng và được nhàn rỗi, tôi thảnh thơi nên ngân nga ca
bài con cá cho vui:
“Đời tôi cô đơn nên đi
đâu cũng gặp hên”.
- 6:00
giờ chiều thì trời bắt đầu tối. Bất ngờ trên không có một chiếc máy bay
L-19 lượn bốn, năm vòng chung quanh tàu. Người phi công của L-19 xin cứu
giúp. Hạm Trưởng đồng ý và chuẩn bị phao cùng các anh người nhái sẵn
sàng cứu vớt. Có hai người trên chiếc phi cơ nhưng lại chỉ có một chiếc
phao và chiếc phao ấy được giao cho anh ngồi bên cạnh anh pilot. Chiếc L-19
bay sát xuống gần chiếc tàu, chúng tôi thấy người đeo phao nhảy xuống. Nhờ
có đeo phao nên khi nhảy xuống thì cả người anh được nổi lên, anh cố sức
bơi đến tàu, nhưng vì khoảng cách quá xa nên anh có vẻ khó khăn lắm. Thấy
anh thấm mệt, một anh người nhái đeo chiếc phao trong người, nhảy xuống
vớt anh lên tàu bình yên. Trời bắt đầu mờ tối, anh phi công bay sát
xuống, nhưng vì sợ chiếc máy bay có thể đụng tàu nên anh phải bay hơi cao
và cách chiếc tàu khá xa. Mọi người hồi hộp nhìn anh nhảy xuống, vì
khoảng cách quá cao lại không có phao nên cả người anh lao thẳng xuống
biển và rồi chìm sâu vào lòng đại dương. Anh phi công đã vĩnh viễn ra đi vào
một ngày tháng Tư năm đó.
Người đàn ông nhảy
xuống trước vì quá mệt nên đã ngủ vùi phía sau boong tàu.
Đến 2:00 giờ sáng thì
anh thức dậy, anh hỏi người nằm kế bên về anh phi công hiện đang ở đâu? Khi
nghe người ấy trả lời là anh phi công không lên được tàu và đã bị chìm sâu xuống
lòng biển rồi. Anh ta thét lên:
- Trời ơi, thế là anh
tôi đã chết!
Thì ra họ chính là hai
anh em ruột. Từ đó người em cứ lặng lẽ âm thầm, không trò chuyện với ai, hình như
chỉ nghe anh khóc. Nửa giờ sau, khi một số người đang đứng trên boong tàu thì
chợt thấy có bóng một vật gì vừa rơi xuống biển và người bạn nằm bên cạnh người
em chạy đi tìm thì không thấy anh ta đâu nữa. Hóa ra, người em sau khi biết
tin anh mình đã chết thì anh ta cũng nhảy xuống biển chết theo. Như vậy là cả hai
anh em đã yên nghỉ giấc nghìn thu dưới lòng biển sâu, vô cùng thương tâm!
Trung Tá Hạm Trưởng
Nguyễn Văn Tánh vừa thông báo cho mọi người biết là:
Mặc dù tàu chỉ có
một máy thôi, nhưng vẫn còn có thể chạy được và sẽ cặp bến cảng Subic Bay
của Phi Luật Tân. Sau hai ngày vượt sóng thì tàu đến hải phận của Phi
Luật Tân.
Trước khi vào vùng
biển thuộc chủ quyền của Phi, Hạm Trưởng ra lịnh cho mọi người tháo gỡ tất cả
súng đạn trên tàu, kể cả vũ khí cá nhân mà những người lính còn đang giữ phải quăng
hết xuống biển. Nếu ai còn cất giữ bất kỳ vũ khí nào, kể cả dao găm thì khi vào
đến lãnh thổ của Phi Luật Tân sẽ phạm vào tội hình sự. Mọi người đều răm rắp tuân
hành theo lịnh của Hạm Trưởng.
Theo luật Quốc Tế thì
giờ phút này cờ VNCH không còn tư cách pháp lý đại diện cho một Quốc Gia để
đuợc phép chạy vào vùng biển của bất kỳ Nước nào. Mười lăm phút sau, Hạm
Trưởng yêu cầu tất cả đồng bào họp lại trên boong tàu để cùng làm lễ
chào Quốc kỳ Việt Nam Cộng Hoà lần cuối cùng. Mọi người cùng nhau tụ
tập đông đảo. Một số các Sĩ Quan Quân Lực VNCH cùng thủy thủ đoàn với
binh phục chỉnh tề đều nghiêm chỉnh đứng chờ làm Lễ Chào Cờ.
Chủ Tọa buổi lễ là Trung
Tá Hạm Trưởng Nguyễn Văn Tánh, và Thiếu Tá kiêm nhà văn Phan Lạc
Tiếp, - người sát cánh cùng Hạm Trưởng lèo lái con thuyền đến nơi an toàn. Bài
Quốc Ca vang rền, Quốc Kỳ VNCH bay phất phới trên nền trời cao từ từ đuợc kéo
xuống. Khi bài Quốc Ca vừa chấm dứt, khi lá Quốc Kỳ được kéo xuống tận
cùng, mọi người đều bật tiếng khóc òa, nhiều người đàn bà cúi đầu, tay
chùi nước mắt, chạy xuống hầm tàu. Riêng tôi, quá ngậm ngùi, nước mắt tôi
tuôn rơi, những giọt lệ đau thương tự trong đáy lòng tôi cứ trào ra mãi. Tôi
khóc vì ai? Tôi khóc cho thân phận tha phương của những người xa quê hương như
tôi, khóc cho những người còn kẹt lại, trong đó có gia đình cha, mẹ, anh chị
em, họ hàng, và thân bằng quyến thuộc của tôi. Tôi hy vọng là những người bạn
làm việc chung với tôi cũng may mắn rời khỏi nước từ mấy ngày trước rồi, nếu
không sẽ gặp nhiều nguy hiểm cho bản thân.
Sáng sớm hôm sau thì
tàu cập bến Subic Bay ở Phi Luật Tân. Đồng bào được chuyển sang tàu lớn
của Mỹ. Năm ngày sau, 9 tháng 5, 1975 họ đưa chúng tôi đến đảo Guam, vùng đất
của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Thấm thoát mà đã 45 năm
trôi qua, 45 năm lưu lạc xứ người. Hôm nay ngồi ghi lại hình ảnh cuộc di tản
của chúng tôi trên con tàu HQ-502 lòng tôi không khỏi bồi hồi, xao xuyến, khi
nghĩ lại những hình ảnh và diễn biến của những ngày buồn đau thương ấy, tôi
tưởng như một giấc mơ chỉ mới xẩy ra ngày hôm qua … Biết bao nhiêu kỷ niệm đau
buồn khó quên …
Nhân đây, tôi xin gửi
lời chân thành, kính cám ơn đến hai Cụ Nguyễn Văn Tánh, Cụ Phan Lạc Tiếp cùng
tất cả Thủy Thủ đoàn của HQ-502 đã đưa hơn năm ngàn người Việt chúng tôi rời
khỏi nước an toàn vào ngày 30 tháng Tư năm 1975, trong đó có cá nhân tôi. Và
tôi cũng không quên, xin gửi lời cảm ơn đến Yến, người bạn thân thương đã giúp
đỡ tôi từ tinh thần đến “ấm bụng” trong những ngày mà cuộc đời tôi đi vào đoạn
đường tăm tối nhất. Nguyễn Văn Hùng và Tôi luôn luôn kính nhớ ơn Trên đã ban
cho chúng tôi phước lành, may mắn ra đi được trong ngày 30/4. Và giờ đây, chúng
tôi là người cao tuổi, đang vui hưởng cảnh thanh nhàn và hạnh phúc của cuối
đời một người. Chúng tôi không còn là hai thằng độc thân chạy lang thang, mà
giờ này số người trong gia đình gia tăng, mỗi gia đình có
thể thành lập một đội bóng đá để đấu với nhau....
Cầu xin ơn Trên ban sức
khỏe tốt đến cho tất cả chúng ta.
(Houston ngày 30 tháng 4
năm 2020)
Đỗ Hữu Phương
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23665 |
![]() ![]() ![]() |
Chờ Mong Tờ Điện Tín
Mọi người đi, nhưng chú Bích không chịu đi. Chú Bích bây giờ như một người điên, chú ngồi khư khư bên xác thằng Báu với đôi mắt vô hồn và miệng thì không ngớt lẩm bẩm một câu duy nhất: – Cứu con tôi! Cứu con tôi! Cứu con tôi! Mọi người xúm vào khuyên giải và năn nỉ chú: – Đằng nào cháu cũng chết rồi, anh hãy đi theo chúng tôi để tìm sự sống… Hai người cháu họ của chú cũng vừa rơi nước mắt vừa vỗ về chú như vỗ về một đứa trẻ con: – Chú ơi, chú để xác thằng Báu ở đây, đi với tụi cháu, chúng ta phải đi khỏi nơi đây may ra sẽ sống sót… Nhưng chú Bích vẫn khăng khăng từ chối, chú lảm nhảm gọi tên con và khóc tu tu thảm thiết. Thật không ngờ một người lính tác chiến từng vào sinh ra tử, chỉ sau những ngày lênh đênh trên biển với bao căng thẳng lo âu, bao suy nhược tinh thần và thể xác cộng thêm cái chết bất ngờ của thằng con thâu yêu mà người đàn ông can trường ấy bỗng hóa thành điên dại. Không thể thuyết phục được chú Bích đoàn người để chú ở lại bên xác con và kéo nhau đi tìm chỗ khác trên đảo. Họ lôi thôi lếch thếch dắt díu nhau, bồng bế nhau, lôi kéo nhau đi trên những tảng đá nhọn gập ghềnh cả nửa buổi trời đến nỗi nhiều người chân chảy máu hay sưng vù lên … Tới một chỗ khá cao, tầm nhìn ra biển rộng hơn thoáng hơn thì họ dừng lại. Khi trông thấy bóng con tàu nhỏ xíu ngoài xa họ đốt áo cho khói lên liên tục nhưng chiếc tàu vẫn vô tâm không hề hay biết. Sáng hôm sau họ tỉnh dậy sớm thì thấy một con tàu đang lù lù đến rất gần, nhiều người mừng vui qúa hét hò lên vang trời vang biển, nhiều người khác thì lo đốt áo làm khói hiệu và cả đám đông kéo nhau đứng trên những tảng đá cao nhất để giơ tay vẫy vẫy cầu cứu. Tất cả những người trên chuyến tàu đã được cứu thoát như một phép nhiệm màu, trừ hai cha con chú Bích. Cùng đi môt chuyến tàu, cùng trải qua những gian nan nguy khốn vậy mà số phận đã nghiệt ngã với hai cha con chú, không được đến bến bờ mơ ước cùng với họ.. Có người thương tâm nói với thủy thủ trên tàu về trường hợp chú Bích, nhưng họ nói nếu không nhớ đích xác ở đâu thì họ không có thì giờ đi tìm được, và có những nơi trên đảo con tàu không thể đến gần vì san hô và đá ngầm. Các thủy thủ cũng cho biết đây là đảo hoang không có con người và các phương tiện sinh hoạt khác. Chuyến tàu của Nam Dương đã đưa đoàn người vượt biển đến đảo Galang xong họ tiếp tục cuộc hành trình. Hai người cháu họ của chú Bích đánh điện tín về cho gia đình, sau đó họ khuyên gia đình dấu kín cái chết thương tâm của cha con chú Bích trong nhiều năm, đợi thời gian như liều thuốc nhiệm màu từ từ chữa lành vết thương của gia đình người bất hạnh, mãi những năm sau này họ mới cho cô Bích biết . Hằng đã liên lạc với hai người cháu họ ấy ở Mỹ và được biết sự thật chuyến đi vượt biên này từ họ.. Hơn 30 mấy năm qua tờ điện tín mà cô Bích mong đợi không hề đến và không bao giờ đến. Không ai biết tin gì về cha con chú Bích, nhưng ai cũng có thể suy đoán đoạn kết vở bị kịch là chú Bích đã chết đói chết khát bên cạnh xác con trai mình trong tình trạng tâm thần điên loạn. Cha con chú Bích đã thoát khỏi Việt Nam , chú Bích đã thoát khỏi cảnh công an quản chế giam lỏng. Nhưng họ chỉ đi được nửa cuộc hành trình, đã bỏ xác nơi đảo hoang. Hai cha con chú Bích vẫn bên nhau như ngày nào nơi mái nhà xưa, nơi hàng xóm cũ. Xung quanh hai cha con chú là biển khơi bao la. Sóng và biển sẽ ru hai linh hồn bơ vơ kia giấc ngủ ngàn đời, ngàn đời…!!. Nguyễn Thị Thanh Dương
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23665 |
![]() ![]() ![]() |
Người Lính Già và Khung Trời Kỷ Niệm![]()
Nghiêng đầu nhìn qua khung cửa sổ màu trắng đục trước cửa nhà, ông
thấy mặt trời lấp ló trên đầu cây Phượng tím, bây giờ bắt đầu mùa Xuân,
lá phượng màu vàng úa, rơi lả tả tan tác đầy sân, để sửa soạn đâm chồi
nảy lộc, ra lá non mơn mởn, trổ hoa tím rực rỡ, đón chào mùa hè ấm áp.
Ở tuổi về hưu, ngày ngày ông làm bạn với cây cam, cây quít sau nhà,
ông không quên bón thêm phân mà ông đã mua tháng trước ở Home Depot, cho
cây hoa lài nằm sát chậu nha đam xanh mướt, giúp nó chóng ra hoa trắng
mượt mà, thơm phưng phức, để bà xã có dịp trỗ tài nấu món thạch chè Hiển
Khánh, nổi tiếng của thập niên 60 ở Dakao, nuốt tới đâu là mát tới đó,
vừa ngọt vừa thơm,làm dịu bớt phần nào cái nóng oi bức của mùa hạ.
Dù có hệ thống nước tự động, nhưng ông vẫn tưới thêm bằng tay với
vòi nước chảy róc rách, cho hai cây cau hoàng hậu trước sân thêm xanh
tươi, mát mắt. Cô ca sĩ dù có giọng hát thiên phú, cũng chọn cho mình
những xiêm y rực rỡ, tô son điểm phấn, tạo thêm phần hào hứng cho kẻ
nghe người nhìn, huống hồ gì hoa thơm cỏ lạ, cũng cần bàn tay chăm sóc
của người làm vườn, dù không chuyên nghiệp như ông.
Những công việc nho nhỏ tưởng như không quan trọng mấy, ấy vậy là
cách giết thì giờ hiệu quả nhất trong thời điểm đại dịch COVID-19 ác ôn
này. Từ khi trời vừa sáng, cho đến khi màn đêm vừa buông xuống, những
Email ,tin nhắn, messenger, gửi qua gửi lại cho nhau, từ lũ bạn thân
thiết Không Quân gần trời xa đất, ân cần nhắc nhở tình trạng cách ly,
nam nữ thọ thọ bất thân, kể cả đàn ông, con nít, ông già bà trẻ, xin hãy
rời xa ít nhất là 2 mét, sớm mai thức dậy, đừng quên nhâm nhi ly nước
ấm pha chanh gừng, nếu không bị bịnh đau bao tử hành hạ! Và còn nhiều
lời nhắn nhủ thân tình nhất để giữ đời cho nhau thật lâu, thật dài,theo
phương châm của người Không Quân “ KHÔNG BỎ ANH EM KHÔNG BỎ BẠN BÈ “
Ngay cả ngày lễ Phục Sinh vừa qua, con gái ông lái xe đến nhà, mang
hai đứa cháu ngoại dễ thương cả tháng trời chưa gặp mặt, được mẹ nó dặn
đứng xa xa, đưa cho ngoại tấm giấy viết nguệch ngoạc “ Cháu nhớ và yêu
ông bà ngoại lắm “ kèm theo 2 cái chocolate cookie từ Starbucks.
Ông muốn ôm hôn chúng nhưng chợt nhớ và dừng lại, mở cửa xe, bỏ hai
giỏ quà Easter có kẹo bánh, sách vở, trứng nhựa đủ màu, xanh xanh đỏ đỏ
vàng vàng, có đồ chơi nho nhỏ, lúc la lúc lắc phía trong, kèm theo con
thỏ bông xanh màu da trời mà bà ngoại nó đã nâng niu, cẩn thận gói ghém
cho hai đứa cháu cưng, con gái phân trần muốn bảo vệ sức khỏe cho ông
bà, vì hệ thống miễn nhiễm của người cao tuổi không được mạnh cho lắm,
nên sợ hai đứa bé có thể rủi ro lây bệnh cho ông bà thì nguy to!
Biết rồi khổ lắm nói mãi, con gái ơi! Đừng nhắc nhở chi cho lòng
thêm đau buồn! Ông biết rằng ở tuổi vàng, tuổi hạc hay gọi nôm na tuổi
xế chiều này, không ít bộ phận trong người cũng mong manh, dễ vỡ, có khi
phải cắt xén, thêm này bớt nọ cho bền bỉ, như chiếc xe hơi chạy hơn
trăm ngàn dặm cũng phải tu bổ, bảo trì để còn ì ạch,tiếp tục chạy trên
con đường đời dài thật dài.
Mới đó mà ông đã sống trên mảnh đất quê hương thứ hai này gần 45
năm, chưa kể những lần đi tu nghiệp thêm tại Hoa Kỳ. Thời gian như bóng
câu qua cửa sổ! Ông nhớ lại ngày xếp áo thư sinh, giã từ mái trường Luật
với hàng cây xanh bóng mát, uống ly chanh đường uống môi em ngọt, gia
nhập binh chủng Không Quân vì ham mê nghề lái phi cơ, với lý tưởng bảo
quốc trấn không, cũng là ngày ông đắp mộ cuộc tình đầy nước mắt của
người yêu mình và người mình yêu, vì ông già vợ tương lai, không muốn
con gái mình thành goá phụ ngây thơ, lúc tuổi vừa chớm đôi mươi, khi kết
duyên với kẻ “đi không ai tìm xác rơi”. Thương cho bà mẹ già, hằng đêm
khấn nguyện cho con trai mình tai qua nạn khỏi, cho con tàu không là
quan tài ôm xác con yêu.
Có những lúc trong khung trời bình yên, không chiến tranh tại Hoa
Kỳ, ông nghe tiếng máy bay trực thăng của đài Tivi địa phương theo đuổi
tên cướp xe, bố láo xì ke nào đó, phóng như bay trên xa lộ theo sau là
đoàn xe cảnh sát hú còi inh ỏi, hay tiếng kêu êm ả của chiếc Boeing trên
không cao tít, đón đưa hành khách đến phương trời xa xôi, hoặc năm thì
mười họa, khi đi xem những Air Show biểu diễn của nhóm phi công Hoa Kỳ
thượng thặng, tinh nhuệ Thunderbirds hay Blue Angels, để nghe âm thanh
gầm thét như xé toạc không gian, đưa ông về khung trời kỷ niệm ngày nào.
Quên sao được những phi vụ hành quân Tết Mậu Thân 1968, khi Cộng
Sản lợi dụng lệnh ngưng bắn để tấn công Huế, Saigon và các đô thị khác
của miền Nam Việt Nam. Ông còn nhớ như in tiếng mẹ khóc nức nở trong
điện thoại, báo tin đã tìm thấy xác ông cậu bị trói tay phía sau và bị
xử tử với hàng trăm thi thể đàn ông, đàn bà, trẻ em trong mồ chôn tập
thể, phía Bắc sông Hương. Ông cậu chỉ là một công chức bình thường ở
Huế.
Quên sao được tháng 5 /1968 trong trận chiến Lăng cha Cả, với sự
yểm trợ của trực thăng võ trang từ KD33 CT và sự quả cảm của lực lượng
KQVN phòng thủ, KQ & Thiết Giáp Hoa Kỳ, đại đội Dù đã đẩy lui VC,
bảo vệ vòng đai căn cứ! Tiếc thay ta đã mất đi một vị anh hùng KQ, đại
tá Lưu Kim Cương đã tử thương vì trái B40 oan nghiệt.
Quên sao được trong mùa Hè đỏ lửa 1972, trong mặt trận Quảng Trị
Đông Hà, ông cùng đồng đội F5, A37, A1, L19 và UH1 đã yểm trợ cho Lục
Quân, chống lại quân Cộng sản vượt sông Bến Hải, mở đầu cuộc chiến xâm
lăng tàn khốc.
Quên sao được một Trần thế Vinh anh hùng của phi đoàn 518/SĐ3KQ đã
hy sinh trong vùng trời lửa khói Quảng Trị sau khi bắn hạ 21 chiến xa
địch. Quên sao được thiếu tá Nguyễn Du, một hoa tiêu khí phách ngang tàn
A37 thuộc phi đoàn 516/KD41 làm khiếp vía Cộng quân, đã gẫy cánh trên
vùng trời Quảng Trị, bị bắt sống và ném đá cho đến chết.
Quên sao được những phi vụ hành quân Tống Lê Chân 1973, VC đã trắng
trợn vi phạm Hiệp định Paris ký ngày 27/1/1973 bằng cuộc tấn công tiền
đồn Tống Lê Chân cách An Lộc 15 cây số về hướng Đông Bắc, những hoa tiêu
và phi hành đoàn Chinook CH-47, C130, Trực thăng đã không ngại hiểm
nguy với những phi vụ cung cấp tiếp liệu vũ khí, lương thực, tải thương
cho các chiến sĩ Biệt Động Quân can trường.
Quên sao được tháng 4/1975 những phi vụ hành quân trong trận chiến
đẫm máu Xuân Lộc, khu vực phòng thủ trọng yếu cho Biên Hoà, nơi căn cứ
của phi đoàn F5 ông đang trú đóng. Xuân Lộc cách Saigon 120km về phía
Đông Bắc, dưới sự chỉ huy của tướng Lê Minh Đảo, cùng tinh thần bất
khuất của các chiến sĩ QLVNCH, đã chống trả mãnh liệt với lực lượng cộng
quân, tổng số gấp 3 gấp 4 lần.
Dòng suy nghĩ bất chợt gián đoạn bởi tiếng điện thoại reo vang trong túi áo trước ngực của ông.
- Tụi tao vẫn khỏe, dậm chân tại chỗ ở nhà, vì tình trạng cách ly, đề phòng con virus Wuhan, còn mày và gia đình ra sao?
- OK, Cali cũng vậy, hàng quán, mọi chỗ đều đóng cửa, nhiều người
Việt Nam mình may khẩu trang giúp bịnh viện, hoặc tiếp tế thức ăn trưa
cho nhân viên y tế.
- Arizona và một số tiểu bang khác cũng vậy, đây là dịp người Việt
mình đóng góp một bàn tay, cho đất nước đã cưu mang tụi mình trong mấy
chục năm qua!
- Mày biết tin T. khoá 64KQ vừa qua đời tháng vừa rồi ở Seattle không?
- Có, tao có gọi điện thoại chia buồn với chị T. tuần trước! Nhớ
lại 2 vợ chồng T. xuống thăm Arizona năm 2015, tao đưa đi chơi vòng vòng
thành phố Phoenix, T. ngạc nhiên và xúc động khi thấy cờ vàng 3 sọc đỏ
bay phất phới ngang hàng, cùng kích thước với cờ tiểu bang Arizona và
quốc kỳ Hoa Kỳ!
-Tao thật vui khi giải thích cho T. biết, kể từ ngày 29 tháng 4 năm
2001 lần đầu tiên trong lịch sử người Việt tỵ nạn trên thế giới, quốc
kỳ Việt Nam Cộng Hoà chính thức 365 ngày, bay phất phới tại Wesley Bolin
Memorial Park, tọa lạc trước dinh thống đốc và quốc hội Arizona. Nhờ
vào sự vận động của hội Cựu Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà Arizona
và hội Cựu Chiến Sĩ Hoa Kỳ, quốc kỳ VNCH được thống đốc Arizona, bà
Jane Dee Hull ký bản tuyên cáo ngày 2 tháng 4 năm 2001 cho sự hiện diện
của lá cờ vàng 3 sọc đỏ,vĩnh viễn tại đài tưởng niệm Cựu chiến binh
Arizona!
- Hôm nào tao qua thăm mày, nhớ đưa tao đến chỗ đó nhe!
- Hứa là phải làm mau mau nhe mày! Tuổi đời tụi mình ở ngưỡng cửa
80, hễ “ Trời kêu ai nấy dạ” mà không dạ, cố gắng dùng dằng Em chả, Em
chả muốn đến với trời, cũng bị lôi đi xoành xoạch!
-OK, OK, tao hứa sẽ qua thăm mày, một ngày đẹp trời gần đây, giữ gìn sức khỏe nhe!
Tiếng cười dòn của thằng bạn thân Cali trước khi cúp máy làm ông
vui hẳn lên, ông với tay bức nhẹ một bông hoa Hong Kong orchid màu tím
nhạt trước sân, rồi mở cửa bước vào nhà, mùi thơm lá dứa của đĩa xôi
trên bàn làm ông thấy đói bụng, ông gắn đóa hoa lên tóc vợ rồi mỉm cười
nói :
- Xôi thơm quá, Anh chưa ăn mà đã thấy ngon!
- Anh dùng đi kẻo nguội! Em mới nấu với nước lá dứa tươi sáng nay!
Ông âu yếm nhìn vợ, người đàn bà đã hơn nửa đời người luôn bên cạnh
ông, săn sóc từ miếng ăn, giấc ngủ, chia vui xẻ buồn, ông thấy hạnh
phúc vỡ oà trong tầm tay, trong nụ cười, trong ánh mắt.
Đâu đó tiếng hát trầm ấm nữ ca sĩ T.T. qua bài “ Một chuyến bay đêm” của nhạc sĩ Song Ngọc và Hoài Linh.
Có người hỏi Phi Công ước mơ gì?
Người ơi nhân thế muôn màu nào biết mơ chi!
Người lính già KQ sẽ khe khẽ trả lời: Ông mơ ước cho đại dịch Vũ
Hán chóng qua đi, cho thế giới trở lại cuộc sống bình thường! Ông mơ ước
chế độ Cộng Sản độc đảng, tàn bạo, phi nhân chẳng chóng thì chầy sẽ sụp
đổ! Và ông mơ ước sẽ cùng bà,nắm tay bên nhau cho đến cuối cuộc đời.
T. Thiên Thu
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23665 |
![]() ![]() ![]() |
Cô gái gốc Việt & viên phi công Anh từng cứu mình
45 năm
trước, Vu Lieberman chào đời trên con tàu chết máy và trôi giạt giữa
biển. Hai trực thăng của Không quân Anh đã lên đường giải cứu cô bé một
ngày tuổi này.
7h18
phút, ngày 2/5/1975, thuyền trưởng Anton Martin Olsen của tàu Clara
Maersk (Đan Mạch), nhận được tín hiệu cầu cứu từ một tàu buôn Việt Nam
mang tên Trường Xuân đang trôi dạt trên biển Đông.
Trên
tàu có khoảng 3.600 người từ Sài Gòn ra đi. Họ đang đói khát, còn động
cơ tàu thì ngừng hoạt động. Ông Olsen lập tức ra lệnh cho con tàu chở
hàng của mình chuyển hướng và đến giữa trưa, bắt đầu cuộc giải cứu.
Không quân hoàng gia Anh giải cứu cô bé sơ sinh.
Sau khi
chuyển người từ Trường Xuân lên tàu mình, thuyền trưởng Olsen đưa
tàu Clara Maersk cập cảng Hong Kong. Hai ngày sau, ông thông báo một
công điện khẩn cấp yêu cầu đón 4 người tị nạn: một đứa trẻ sơ sinh ốm
yếu, anh trai 2 tuổi, người mẹ và một phụ nữ bị vỡ ruột thừa. Không
quân Hoàng gia Anh đã cử hai chiếc trực thăng đến giải cứu.
Cô bé -
với đôi vai cong hình chữ U và xương cổ bị gãy, mắt bịt kín do bị nhiễm
trùng - và ba người đồng hương của cô đã bay đến Bệnh viện quân đội ở
Hong Kong.
"Chúng
tôi được cảnh báo nhưng tại thời điểm đó chúng tôi không biết có bao
nhiêu người trên tàu", ông Jones, 68 tuổi, nói từ Anh.
Ngày ấy
Jones là một trung sĩ trong phi đội 28 của Không quân Hoàng gia Anh,
đóng tại sân bay quốc tế Kai Tak Hong Kong. Đến giờ Jones vẫn còn ký ức
rõ ràng về sự nguy hiểm, khó khăn trong nhiệm vụ không vận bốn người
này. "Không có đủ thời gian để đánh giá về những gì xung quanh", Jones
nói.
Trong khi
trực thăng của anh thả dây đón người phụ nữ Việt bị vỡ ruột thừa thì
đồng nghiệp của anh, Tim Bailey, trên chiếc trực thăng thứ hai đón bé sơ
sinh và hai người thân của bé từ boong tàu Clara Maersk.
Họ không
có thiết bị mang theo cho bé sơ sinh, điều này có nghĩa Bailey phải bế
cô bé trên tay. "Đó chắc chắn là một phút khiến bạn nín thở", Jones nói.
Trong
cuốn nhật ký của Jones đã ghi lại chuyến khứ hồi 2h50 phút từ căn cứ Kai
Tak đến tàu Clara Maersk và trở lại. "Thông thường chúng tôi không đi
ra biển như vậy", ông nói. Chiếc trực thăng có lượng nhiên liệu hoạt
động trong khoảng hai tiếng rưỡi.
Ngay sau
khi trở về Hong Kong, hai chiếc trực thăng này được làm sạch và chuẩn bị
tham gia hộ tống Nữ hoàng Elizabeth cuối ngày hôm đó. "Phi đội 28 của
chúng tôi sau đó được biết đến với tên "28 nick of time" vì chúng tôi
luôn luôn đi về đúng thời gian", Jones nói.
Mới đây,
Duc Nguyen, nhà sản xuất phim tài liệu người Mỹ gốc Việt ở California đã
tổ chức một triển lãm về những thuyền nhân tị nạn. Người lính không
quân Jones đã liên lạc với Duc Nguyen, qua đó nhờ kết nối với đứa trẻ sơ
sinh ốm yếu mà ông đã hỗ trợ giải cứu.
Ngày 2/5
vừa qua, ngày sinh nhật thứ 45 của Chieu Anh Vu Lieberman, cô và Jones
lần đầu tiên nói chuyện qua Zoom. "Tôi đã nhìn thấy bạn 45 năm trước.
Bạn đã không nhìn thấy tôi, nhưng đây là những bức ảnh bạn được chuyển
đến bệnh viện", Jones nói với Vu-Lieberman.
Họ đã
chia sẻ những hình ảnh, thông tin - những thứ được cho là mảnh ghép còn
thiếu để hoàn chỉnh "bức tranh cuộc đời" mình. "Đây là món quà sinh nhật
tuyệt vời nhất. Tôi có một cảm giác ớn lạnh chạy qua trong người",
Vu-Lieberman nói.
Vu-Lieberman sanh ra 2h sáng ngày 2/5 giữa biển Đông trên con tàu tị nạn, giờ là một nhà thiết kế thời trang nổi tiếng.
Hiện là
một nhà thiết kế và điều hành thời trang thành công, Vu-Lieberman sống ở
quận Cam, California. Cô kể, mẹ đã không chia sẻ nhiều về ký ức đó. Khi
rời khỏi Việt Nam bà đang trong những ngày cuối cùng của thai kỳ.
Khoảng 2h sáng ngày 2/5, bà đã hạ sinh Vu-Lieberman ngay trên tàu. Không
sữa, không nước, không cơm cháo, một người dúi vào tay sản phụ miếng
cam thảo. Bà nhai ra rồi lấy nước miếng bôi vào miệng con gái.
Cô bé ấy
về sau đã nỗ lực giành được học bổng để theo ngành sáng tạo thời trang
tại đại học hàng đầu New York. Đến giờ cô có một sự nghiệp rực rỡ với
các hãng thời trang nổi tiếng tại Paris, New York và San Francisco. Cô
cũng viết blog Truong Xuan baby để mãi nhớ mình là một đứa trẻ sanh ra
trên con tàu tị nạn.
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23665 |
![]() ![]() ![]() |
Ổ bánh mì cuối cùng
Cao Nguyên 569
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23665 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23665 |
![]() ![]() ![]() |
Chiến Tranh, Anh Tôi Và Đứa Con Thất Lạc![]()
Bài viết này như một
nén hương để tưởng nhớ những người đã bỏ mình trên đường chạy loạn 1975
nói chung và tại Tỉnh lộ 7 Phú Bổn nói riêng.
Tôi
nghĩ là người Việt Nam thì ai ai cũng có cảm nhận về chiến tranh và
thân phận con người trong thời chiến. Có thể cách cảm nhận và suy nghĩ
khác nhau vì mỗi người một hoàn cảnh và họ sống ở những địa phương mà
tình hình chiến sự không giống nhau.
Những người này
sống ở những thành phố mà họ chỉ biết đến chiến tranh qua báo chí, cáo
phó, hay qua sự ra đi của bạn bè, người quen. Người kia sống ở nơi mà
chiến tranh xảy ra bên cạnh họ, ngay trước mắt họ. Hằng ngày họ quen mắt
với máy bay lên xuống liên tục, tiếng đạn pháo, những chiếc chiến xa
chuyển động, những chiếc GMC chở đầy lính. Những vành tang trắng, những
góa phụ đôi mươi, những người chưa kịp lên xe hoa đã là góa phụ… Tiếng
tre khóc măng và sự cô đơn bơ vơ của những đứa trẻ côi cút.
Người ta sống và
chết vội vã như nhau. Lứa tuổi của chúng tôi là lứa tuổi sống trong
chiến tranh và trưởng thành trong chiến tranh. Chiến tranh như cơn sóng
thần, cuồn cuộn dâng cao, ập tới và nhận chìm tất cả. Cuốn phăng đi,
không còn một dấu vết, mà khoảng khắc trước đó hiện hữu.
Chiến tranh với
tôi như một trận hỏa hoạn, thiêu hủy, đốt cháy một cách tàn bạo. Người
ta chỉ kịp mang theo những gì gần nhất có thể mang. Người ta chạy để
không bị thiêu đốt, người ta nhìn ngọn lửa mà bất lực và tuyệt vọng.
Những gì quí giá và thân thiết cũng chỉ là một đống tro tàn.
Chiến tranh như một
trận cuồng phong hay lốc xoáy, cuốn hết mọi thứ trên mặt đất, cuốn theo
mọi số phận, cuốn lên cao rồi quật xuống. Khi cơn lốc dừng lại thì mọi
thứ đã bầm dập tả tơi.
Chiến tranh như
bóng đêm dày đặc trùm xuống đời chúng tôi, chúng tôi quờ quạng tìm nhau
trong đau đớn. Hệ lụy của chiến tranh là người ta đồng loạt vào tù,
người ta đồng loạt chết ngoài biển khơi, và người ta tức tưởi xa nhau.
Chiến tranh đã làm bố mẹ tôi bao lần chạy loạn, trắng tay rồi xây dựng
và làm lại từ đầu… rồi lại trắng tay và đau xót nhìn tất cả công lao khó
nhọc của mình gầy dựng, chốc lát tan như bọt nước. Hệ lụy của chiến
tranh còn ở mãi trong những cơn mộng dữ, ở những chuyện muốn quên mà
không quên được. Đến khi nhắm mắt còn mang theo những đau đớn khôn
nguôi.
Vì ai? Vì đâu?
Chuyện khó quên đó như mới xảy ra ngày hôm qua.
Trong những ngày
Pleiku lộn xộn, tôi đã và đang theo chồng đóng quân ở một tỉnh duyên hải
Vùng 2. Qua báo chí tôi được tin Pleiku sẽ rút quân, tôi không biết tin
tức gia đình ra sao? Đang lúc lo lắng thì bố mẹ tôi và cô em út 15
tuổi, cùng chị cả tôi và sáu đứa con nhỏ đến được Nha Trang bằng chuyến
bay chót của Air Việt Nam. Vì không còn chuyến bay nào vào Sài Gòn. Các
anh tôi cùng cậu em út và vợ con sẽ theo Thiết Đoàn 21 Kỵ Binh, vì anh
rể tôi là sĩ quan của Thiết Đoàn này. Tôi vui mừng khi gặp được bố mẹ,
nhưng vẫn lo vì không hiểu các anh chị em và các cháu sẽ ra sao về những
chuyện xảy ra ở Tỉnh Lộ 7 Phú Bổn. Mẹ tôi ngậm ngùi: “Lại một lần nữa
phải bỏ hết để giữ lấy thân”. Tôi không biết phải an ủi mẹ như thế nào.
Tưởng là yên, nhưng không ngờ tôi và bố mẹ lại tất tả, tức tưởi chạy
nữa. Bố mẹ tôi, mẹ chồng tôi, cô em út, chị cả tôi và sáu đứa nhỏ, cùng
vợ chồng người con nuôi của bố mẹ tôi và hai cháu, tổng cộng 17 người
lớn nhỏ chất lên chiếc xe đò nhỏ, sẽ đi vào Sài Gòn theo làn sóng người
và xe lũ lượt di tản.
Chồng tôi là đơn vị trưởng không thể bỏ đơn vị, anh nói: “Mạ, em và con phải đi theo gia đình, nếu em ở lại không giúp được gì cho anh mà còn nguy hiểm và vướng bận thêm”. Tôi và chồng ôm nhau khóc vì không biết còn gặp nhau nữa không. Anh ôm hôn con gái, bước vội không nhìn lại vợ con, tôi thẫn thờ bước lên xe mà cõi lòng tan nát. Có thể nào đây là lần gặp cuối cùng của chúng tôi? Tôi không bao giờ quên những ngày chạy loạn năm 1975 từ Phan Rang đến Phan Thiết rồi Bình Tuy. Tôi chỉ kịp sắp một cái giỏ đồ đựng những vật dụng cần thiết cho con gái lúc này cháu khoảng 9 tháng tuổi, cháu thích ngậm núm vú nhựa trước khi ngủ, tôi phải lấy một sợi dây xỏ qua múm vú và đeo vào cổ cho chắc ăn, sợ rớt mất thì tội nghiệp cho con, trên đường đi nó bị tướt vì mọc răng, thật là khổ. Số nước mang theo xe gần hết, đạn pháo kích cứ trút xuống mãi, mọi người lao ra khỏi xe lăn xuống ven đường hoặc có thể nấp theo quán tính chứ chưa chắc chỗ đó đã an toàn, súng đạn vô tình mà. Im tiếng pháo kích moị người lục đục lên xe chạy tiếp, đạn đuổi sau lưng, các xe chạy bất kể, đôi khi cán phải những xác chết ven đường, tôi không dám mở mắt để nhìn những cảnh tượng đau lòng đó. Đã hơn 30 năm qua, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn nằm mơ thấy những cảnh kinh hoàng ngày ấy, tôi chỉ hoàn hồn khi biết mình nằm mơ. Đoàn người và xe đến Bình Tuy, chẳng ai bảo ai, già trẻ, lớn bé, đàn ông đàn bà nhào xuống biển tắm sau một tuần không tắm rửa. Những nhà dân ở xóm chài gần đó thấy gia đình tôi đông con nít nên thương tình cho vào nhà tắm và nấu cơm cho ăn. Tinh thần mọi người phấn chấn hơn vì nghĩ sắp được vào Sài Gòn, hình như đối với mọi người thì Sài Gòn là nơi an toàn. Nhưng rồi, ngay tại một trạm kiểm soát, ,người lính cho hay có lịnh không cho vào Sài Gòn. Moị người nhốn nháo la hét, cự nự cũng không xong, ai nấy đều lo âu, hoang mang. Rồi tất cả quay ra tìm phương tiện khác để đi, đó là đương biển. Gia đình tôi may mắn gặp một ông chủ tàu lớn đồng ý chở người và xe với giá thật kinh khủng, nhưng ai cũng mừng rỡ đồng ý, trên tàu chen chúc, kẻ nằm người ngồi bất bể chỗ nào, tôi và con gái được cho nằm một chỗ trên mui gần cột khói, con gái tôi cứ bò lung tung, tàu chòng chành, tôi bị say sóng cứ sợ con gái đụng ống khói sẽ phỏng tay hay rơi tòm xuống biển. Tôi lấy hai cái tã cột lại, một đầu thì cột quanh bụng con gái, một đầu thì cột vào cổ tay tôi, nếu cháu bò xa hơn thì tôi biết mà kéo nó lại. Như thế mà tôi nằm được một lúc cho qua cơn chóng mặt buồn nôn. Khi chúng tôi đến Vũng Tàu, bước lên bờ trong trạng thái lâng lâng của say sóng, nhưng mừng rỡ vì gần tới Sài Gòn, tôi thấy cả rừng người tay xách nách mang nhốn nháo. Thấy chiếc xe đò của anh nuôi tôi họ đòi quá giang, sơ quá, anh bước vội lên xe và căn dặn mọi người khóa cửa xe lại và rồ ga chạy, nhưng lại bị chặn lại bởi toán kiểm soát hổn hợp, chỉ những người nào có thân nhân, gia đình ở Sài Gòn mới được vào, chúng tôi nói tên ông chú và cơ quan nơi ông làm việc cùng số nhà, thế là họ cho chúng tôi được vào Sài Gòn. Sở dĩ họ không cho vào Sài Gòn vì sợ tình trạng hỗn loạn, chính phủ giữ lại để lập các nơi tạm cư ổn định, nơi chốn cho những người di tản. Người hớn hở thở phào nhẹ nhõm, cuối cùng cũng đến được Sài Gòn, chặng đường bình thường đi chỉ mất hơn một ngày mà chúng tôi phải mất gần mười ngày với nhiều gian nan, nguy hiểm. Trên đoạn đường chạy loạn, hầu hết mọi người bị đau mắt cấp tính, tôi cấn thai mà không hay, cứ chạy nhảy qua hầm hố, té ngã mà chẳng hề hấn chi, vào đến Sài Gòn tôi mới biết mình có thai. ![]()
Người lính Mỹ nhìn hình ảnh người Sài Gòn di tản khi chiến tranh Việt Nam kết thúc ngày 30 Tháng Tư, 1975 (Hình: Getty Images)
Sài Gòn khoảng thời gian này thật nhốn nháo, kẻ đi xuôi, người đi ngược.
Ai ai cũng bàn tán chuyện tìm cách ra nước ngoài, ở ngoài cổng tòa Đại
Sứ Mỹ đầy người. Chồng tôi và anh rể chẳng có tin tức gì cả. Báo chí
loan tin về Tỉnh Lộ 7 Phú Bổn làm mọi nguời càng thêm lo lắng, rồi lại
thêm Phan Rang rút quân. Bố mẹ tôi chẳng ai thiết ăn uống, khóc lóc suốt
ngày, bà chị cả la khóc ầm ĩ như người điên. Vì lo cho chồng, tôi cũng
phát điên vì những chuyện này.
Chúng tôi về được
vài ngày thì anh rể tôi cũng về tới. Anh xuất hiện với một thân hình
tiều tụy, hốc hác, đôi chân sưng vù và rướm
máu, có chỗ làm độc
trông rất dễ sợ, nhưng anh nói: “Mọi người thấy vậy chứ đã khá hơn rất
nhiều”. Bố mẹ tôi rất mừng vì gặp con rể, hy vọng sẽ biết được tin con
cháu.
Anh rể tôi kể là
khi đến Phú Bổn thì bị pháo kích, nhìn quanh không thấy các em đâu, anh
phải vào rừng tìm đường thoát thân, anh thay đồ dân sự và băng rừng.
Trong rừng anh tìm những gì có thể ăn và uống, chân sưng tấy anh lấy giẻ
quấn lại và đi tiếp, ban đêm kiếm chỗ nào tạm gọi an toàn để chợp mắt,
anh nhẩm tính thời gian để tìm về đến Tuy Hoà là chín ngày. Tới đây anh
thấy người ta cũng bỏ chạy, nhà cửa phần đông không có nguời, anh vào
nhà bỏ trống tìm cái gì có thể ăn và nghỉ ngơi rồi đi tiếp. Lúc này thì
anh theo con đường Quốc Lộ, nắng gay gắt, chân sưng tấy, anh cắn răng đi
tiếp thêm ba ngày thì đến Nha Trang tìm đến nhà cô Út tôi. Hy vọng gặp
cô Út thật mỏng manh, anh nghĩ thế. Thật may mắn, gia đình cô tôi không
di tản, cô cháu gặp nhau mừng mừng tủi tủi, cô chú cho biết gia đình đã
di tản với người con nuôi của gia đình. Sau một ngày ăn uống và nghỉ
ngơi, anh rể tôi quyết định đi tiếp, để gặp vợ con.
Đoạn đường này xe cộ tấp nập, anh quá giang đến được Phan Rang, tình cờ gặp chồng tôi trong đoàn quân nhân được lệnh tái phối trí, giữ an ninh trật tự cho địa phương vì tình trạng hỗn loạn nơi đây. Chồng tôi đưa anh rể vào gặp vị chỉ huy cao cấp nơi đây, trình bày hoàn cảnh, nhìn thấy bộ dạng của anh rể, ông liền cấp sự vụ lệnh để anh rể tôi vào phi trường Phan Rang. Đến phi trường anh tôi đưa giấy, họ không cho vào, anh nói cho tôi gặp Trung Tá Phạm, ông này là em rể của anh rể thứ ba của tôi. Ông Phạm liền thu xếp cho anh đi C 130 vào Sài Gòn.
Sau khi kể hết
những cam go, nguy hiểm trong quãng đường đi bộ từ Phú Bổn vào Nha
Trang, anh rể tôi nói không biết gia đình các anh chị em tôi cùng các
cháu nhỏ ra sao, hy vọng mọi người được an bình rất mong manh. Mẹ tôi
mất cả hy vọng, bố tôi thẫn thờ không nói, bố tôi sau cơn bịnh mắc chứng
run tay chân bây giờ lại run hơn.
Tôi không biết mình phải làm gì khi những biến cứ dồn dập đến. Tôi nghĩ chắc họ cắt đến Phan Rang, như vậy vợ chồng tôi phải chia ly như hai miền Bắc Nam hồi 1954. Tôi thật muốn khóc nhưng hoàn cảnh, tâm trạng bố mẹ tôi như thế làm sao tôi dám khóc dù tôi rất muốn khóc, khóc cho vơi đi những đau xót đè nặng tim tôi.
Một buổi chiều
đang ngồi trước hiên, thấy có một chiếc xe Honda ngừng trước cổng nhà,
một người bước xuống xe là ông chồng tôi đen thui như người dân tộc, đi
chân không, tôi nghẹn ngào không nói nên lời, vợ chồng tôi ôm chầm lấy
nhau, quên cả tiền xe cho ông tài xế. Mấy đứa cháu la lên: “Ông bà ngoại
ơi! chú Tám về rồi”. Chồng tôi kể, sau khi những người Cộng Sản tràn
ngập tỉnh lỵ, biết không thể làm gì hơn thì mọi người quyết định mạnh ai
nấy rút. Một số anh em dưới quyền nói với chồng tôi: “Ông thầy phải đi
khỏi nơi đây ngay, tụi em sẽ tìm cách đưa ông thầy ra cửa để tìm đường
biển vào Sài Gòn”. Hai người lính lấy Honda chở chồng tôi ra biển, lấy
thuyền chở chồng tôi ra khơi tìm tầu vào Sài Gòn. Tôi rất cảm kích trước
sự tử tế của những người lính này, trong lúc hỗn quân hỗn quan, chồng
tôi không còn gì mà họ vẫn đối xử với chồng tôi một cách rất huynh đệ
chí binh, đúng quân kỷ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ngày hôm sau,
chồng tôi vào Bộ Tư Lệnh để trình diện, được phát quân phục và được ứng
trước một số tiền, hẹn một tuần sau trở lại nhận nhiệm sở mới.
Nhưng ngày đó không bao giờ đến.
Ngoài đường người
ta đi nườm nượp, xa xa nghe tiếng đạn pháo, người ta cứ như mộng du, mọi
sinh hoạt xáo trộn hẳn lên, chồng tôi ra ngoài xem tình hình bảo ở bến
tầu và trước tòa Đại Sứ Mỹ cơ man nào người, xe máy vất đầy chẳng ai có
tâm mà để ý, bạn bè rủ chồng tôi đi, anh hỏi ý kiến tôi. Tôi không thể
đi trong tình trạng bố mẹ tôi hiện tại. Tôi khuyên anh nên cùng mẹ anh
ra đi, nhưng chồng tôi không đồng ý với lý do nếu đi thì phải đi đủ vợ
chồng, nếu ở lại mà phải chết, thì chết với vợ con.
Ngày 30 tháng 4
Mọi người tập
trung ở phòng khách bên cái radio để nghe thông báo quan trọng. Tình
trạng ở đài phát thanh lúc đó có lẽ lộn xộn lắm vì chúng tôi nghe được
những âm thanh của người ta nói chuyện với nhau… Rồi tiếng ông Dương Văn
Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện… Rồi tiếng Trịnh Công Sơn bắt nhịp
bài hát… Ôi! ông nhạc sĩ mà tôi yêu thích nhạc của ông làm tôi thất vọng
quá. Chồng tôi và anh rể kêu lên một cách tức tối. Bố mẹ tôi rũ người
ra, thẩn thờ. Tôi dìu mẹ vào giường, mẹ tôi rên rỉ: “Con ơi! Mình mất
hết rồi con ơi”. Một lúc sau ra ngoài phòng khách thì thấy chồng tôi và
anh rể lôi chai rượu ra hai anh em uống khan, rồi lăn quay ra vì say.
Bên ngoài đạn vẫn vang rền. Họ say để quên đi những gì đã xảy ra và sẽ
xảy ra. Lúc đi học nghe ông Ngũ Tử Tư vì lo nghĩ quá, chỉ một đêm đến
hôm sau bạc cả đầu, phần tôi, buổi sáng dậy chải đầu, tôi thảng thốt khi
thấy mình trong gương. Một bà già nào đó chứ không phải là tôi, một
thiếu phụ 25 tuổi, khuôn mặt tôi không chút sinh khí giống như khuôn mặt
người chết, phải, tôi chết cả cõi lòng.
Ngày mai sẽ ra sao? Tôi sợ không dám nghĩ đến ngày mai ấy. Ngày mai tôi không trông chờ phải đến. Tôi và gia đình tôi, nhiều người khác phải đối mặt. Cả nước đã được “giải phóng”, đấy là cách nói của người chiến thắng. Tình trạng hỗn độn, sinh hoạt vẫn còn rối tung và người ta hoang mang. Phương tiện giao thông về Pleiku chưa có, tôi chỉ biết cầu nguyện Trời Phật mà thôi để cho tâm hồn mình được an ủi một chút, cùng cầu xin cho tất cả anh chị em và gia đình được bình yên, để chấp nhận những sự thật đau đớn cho số phận của những người thân mình. Những ngày chờ đợi dài lê thê, không khí trong gia đình thật ảm đạm, chẳng ai nói chuyện với ai cả. Cơm nấu ra chẳng ai buồn ăn, có đói thì và sơ vài miếng cầm hơi. Hai ngày sau tôi mới bước ra khỏi đường để xem cảnh tượng ra sao. Đường sá ngổn ngang đồ vật, người ta hè nhau vào những căn nhà vắng chủ khiêng của cải và đồ đạc. Xe cộ chạy chẳng có trật tự gì cả. Những người chiến thắng khi nói chuyện cứ thì, mà, nà, lẫn lộn giữa n và l. Đeo cái “đài”(radio) vào nách hoặc máng vào ghi đông xe, vừa đi vừa nghe. Những ngày sau đó những chiếc máy phóng thanh được gắn ở những chỗ có thể và ra rả nói. Mẹ tôi suốt ngày lẩm bẩm: “Các con cháu tôi bây giờ ra sao? Trời ơi! Tôi chạy trốn mấy ông, vào đến đây cũng gặp nữa”. Tôi thật sự lo âu, nếu sự chờ đợi này kéo dài, không biết mẹ tôi sẽ ra sao?
Chuyện Tỉnh lộ 7 Phú Bổn
Một ngày kia, khi
cả nhà còn đang ngủ, tôi nghe tiếng xe hơi ngừng trước cổng nhà. Tiếng
đập vào cánh cổng sắt và tiếng gọi: “Bố mẹ ơi! Mở cổng cho chúng con”.
Tôi chưa kịp dậy, đã thấy mẹ tôi bổ choàng dậy không kịp xỏ dép ra mở
cổng. Bà bật khóc nức nở khi thấy anh Bốn và anh Sáu tôi cùng cậu em út
chống nạng đi vào nhà, mẹ khụy xuống, và tôi đỡ mẹ dậy. Nhìn chiếc xe
Mazda của gia đình tôi, không tin vào mắt mình, cái xe hoàn toàn không
có ghế ngồi, chiếc xe của tài xế thì thật không thể tưởng tượng được,
trong xe được lót bằng những miếng gỗ và mền gối. Các cháu tôi ùa vào
nhà, mấy bà chị dâu đều hốc hác, nét lo âu, sợ hãi còn hằn trên mặt. Để
tránh sự tò mò của hàng xóm, anh tôi lái xe vào cổng và khoá cổng lại
ngay. Tôi vội đi nấu mì cho mọi người ăn, vì chạy từ Pleiku vào đến Sài
Gòn chắc đói lắm rồi. Sau phút xúc động, bố mẹ tôi thấy thiếu anh Bảy,
người anh kế tôi, thì được biết sau khi từ Phú Bổn về lại Pleiku, vừa
vào nhà thì du kích tới bắt anh tôi ngay. Chị dâu tôi và các cháu ở lại
để chờ tin tức anh Bảy.
Mừng mừng, tủi tủi, bố mẹ tôi ôm các cháu nội vào mà xiết chặt từng đứa rồi chợt nhớ ra, mẹ tôi hỏi cháu Ngọc đâu? Chẳng một ai trả lời, cứ đưa mắt nhìn nhau, một lúc sau anh Bốn tôi mới nghẹn lời: “Cháu bị thất lạc, chưa có tin tức mẹ ạ!” Mẹ tôi bàng hoàng đau đớn, đấm vào ngực mình tức tối: “Tôi có làm gì ác mà tội cho cháu tôi quá vậy trời!”. Cả nhà xúm lại an ủi mẹ tôi, nhưng thực sự lòng người nào cũng như kim đâm, xát muối. Mẹ tôi cầu mong các con còn sống, nhưng khi gặp lại, cháu thất lạc, con đứa tù tội, đứa gãy chân, người mẹ nào không đau đớn. Mẹ tôi là một người mẹ suốt đời lo cho gia đình, sống cho các con, chưa bao giờ thấy mẹ sống cho mẹ, là một phụ nữ rất mạnh mẽ, nghị lực và có bản lãnh, nhưng tình mẫu tử, tình bà cháu, cộng với nỗi đau cuộc chiến đã đánh gục mẹ tôi hoàn toàn. Chúng tôi biết chẳng có ngôn từ nào có thể giúp mẹ tôi trong lúc này. Tất cả anh em chúng tôi ngồi quanh mẹ và yên lặng, nhưng trong lòng chúng tôi cả một trời đau khổ, cả trăm ngàn lo âu, hằng hà sa số những câu hỏi, nhưng chưa có câu trả lời.
Vài ngày sau khi
mọi cảm xúc tạm lắng đọng, các anh chị em tôi mới hoàn hồn và bắt đầu kể
những gì đã xẩy ra trên đường di tản, trong nỗi đau và nghẹn ngào.
Khi các chuyến bay không còn hoạt động, tất cả mọi người thu xếp để đi theo Thiết Đoàn 21 và Thiết Đoàn 3. Đến Phú Bổn mới hiểu chọn con đường này là sai lầm của cấp trên và đã lọt vào hang ổ của cộng quân. Đạn nổ, thấy nguy hiểm mọi người kéo nhau vào tá túc ở nhà thờ Phú Bổn. Đêm hôm đó cộng quân pháo kích xối xả và bên Việt Nam Cộng Hòa quyết định mở đường máu, gia đình các anh tôi bỏ hết xe cộ để lên xe Thiết Giáp. Vì đông người nên chia ra ngồi ở nhiều xe. Phía bên kia bắn vào đoàn xe Thiết Giáp, đợt đầu tiên trúng em út tôi, bị rớt xuống đường, sợ em tôi bị xe cán, người bạn cùng trường Sĩ Quan Đồng Đế mà gia đình tôi coi như người thân nhảy xuống lôi em tôi vào lề đường. Đạn trúng xe mọi người chết hết, ở các xe mọi người bỏ chạy tán loạn tìm đường thoát thân. Một cảnh tượng kinh hoàng, người ta chết la liệt bên đường, xe phải cán lên xác chết để chạy.
Vợ chồng anh Bảy
cùng bốn đứa con nhỏ và đứa con trai của anh Bốn, có thêm người cháu và
đứa con đầu lòng của anh khoảng 8 tuổi, cùng nhảy xuống ven đường, khuất
sau cây cối có một cái hầm được ngụy trang, bên trong rất đầy đủ phương
tiện, có lẽ là phòng chỉ huy của cộng quân. Trong số những người nấp
dưới hầm này có một vị Linh Mục tên Thuận, một ít quân nhân không rõ
binh chủng. Sau này có thêm cô bé giúp việc ẳm đứa bé chưa thôi nôi, con
gái út của anh Bốn. Cháu khát sữa và nhớ hơi mẹ khóc quá đỗi, sợ du
kích biết, mấy người lính bảo phải dỗ cho nó nín hoặc ra khỏi hầm, anh
Bảy tôi lên tiếng, họ hăm bắn cả nhà. Lúc đó mọi người đều nói: “Thôi bế
cháu đi tìm mẹ nó đi, chắc chẳng ai làm khó dễ một cô bé có em nhỏ. Một
lúc sau, họ lại tiếp tục pháo kích, khi im tiếng súng thì du kích phát
hiện ra căn hầm, chỉa súng kêu mọi người bước ra. Anh Bảy thay bộ đồ dân
sự do cha Thuận đưa, những người này lôi anh Bảy ra định bắn thì đứa
con trai lớn 8 tuổi òa lên khóc và ôm chân bố, nó nhìn mấy người du kích
nói: “Mấy chú đừng bắn bố cháu, cháu sợ lắm”. Mấy đứa nhỏ đồng loạt ôm
lấy anh Bảy kêu khóc inh ỏi. Dường như những đứa trẻ lớn lên trong chiến
tranh khôn sớm, linh tính để cảm nhận những điều không hay. Tiếng khóc
của cháu tôi đã làm những người này không giết một mạng người. Anh chị
tôi không hiểu, do số mệnh hay tiếng khóc của trẻ thơ làm thức tỉnh nhân
tính của họ.
Trước khi bỏ đi,
họ kêu mọi người tập trung một chỗ. Anh chị Bảy bồng bế con cháu đi tìm
gia đình anh Sáu và anh Bốn không biết ở phương nào, cùng đi tìm em trai
út bị thương. Rừng mênh mông, biết đâu mà tìm, nhưng đi cầu may thôi.
Anh chị hỏi những người đi ngược chiều có thấy người bị thương ở chân
không và mô tả nét mặt, được mọi người cho biết thấy một thanh niên bị
thương rất nặng ở chân, nằm bên sông Ba, rồi anh Bảy lại gặp người quen
cho biết gặp em trai nằm bên bờ sông, kiến bu đầy người, họ để lại vài
thứ và tiếp tục đi tìm người thân như anh tôi. Khi đến bờ sông không
thấy em đâu, có một người thất lạc cả gia đình, ngẩn ngơ ở đó cho biết
vì nước dâng có mấy người lính mang em qua bên kia cồn. Anh Bảy đội con
trên vai, lội qua sông, và để con chạy lên cồn tìm chú, một lát sau thấy
nó ra hiệu và hét to: “Bố ơi! Chú đây rồi”. Lúc này máu ra nhiều, lũ
kiến bò khắp người, không dám nhúc nhích cái chân vì mỗi khi cử động đau
đớn lắm. Anh chị tôi kêu khóc xin mọi nguời giúp đỡ để cứu em mình. Xin
ai có võng thì làm ơn cho để cáng em, may mắn thay một người lính cho
một cái võng, anh tôi tìm cây làm cáng, hai vợ chồng loay hoay mãi vì
vướng bận năm đứa bé. Trong lúc bối rối thì hai quân nhân đi qua, thấy
vậy giúp anh chị tôi cáng em vào làng dân tộc rồi họ mới đi. Khi vào
làng này lại thêm một may mắn nữa cho em trai tôi, anh Bảy gặp người bạn
cũ và cũng là học trò của anh Bốn. Sau khi xem xét vết thương anh ta
lấy một chai rượu để rửa vết thương cho sạch sẽ, rồi đi hái lá về đắp
chỗ bị thương để không nhiễm trùng và nẹp chân cho thẳng để tránh những
chỗ xương gãy gây đau đớn. Điều này cho thấy lúc cùng cực, nguy khốn mới
hiện ra bản chất con người, nhân tính hay thú tính mới hiện ra.
Anh Bốn tôi là thầy
giáo trường Trung Học Pleiku, động viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức một thời
gian thì được về dạy học lại. Anh có nhiều học trò là người sắc tộc Tây
Nguyên, những người này là viên chức trong chính quyền. Họ là người thật
tử tế, đầy tình người, chúng tôi không bao giờ quên những nghĩa cử họ
dành cho gia đình tôi trong lúc loạn lạc.
Loanh quanh trong
rừng để tìm nhau, rồi anh Bảy gặp anh Bốn và anh Sáu. Anh Sáu cận rất
nặng, ban đêm không thấy đường, đi đâu cũng có vợ con dắt, các cháu tôi
đều còn nhỏ. Mọi người nhặt quần áo vương vãi trên đường để mặc và thức
ăn mà người ta bỏ lại khi thoát thân. Lúc nhìn thấy chiếc xe Mazda của
nhà thì mọi người hỡi ôi! Vì biết xe của tiệm vàng KP nên họ tháo hết
ghế và rạch nát, vặn hết ốc mặt trong để tìm và lấy hết quí kim mà bố mẹ
tôi dấu trong đó. Cũng đỡ là cái xe còn tay lái và máy móc để có thể
lái về Pleiku. Lúc đó không thấy cô bé giúp việc bế cháu Ngọc đâu, mọi
người bảo nhau chắc cháu đã theo đoàn người chạy về Pleiku rồi. Hai ngày
sau cô bé về đến nhà, nhưng không có cháu Ngọc, hỏi em đâu? Cháu nói:
“Bế em đi tìm cô cậu, đói và mệt quá, con bị xỉu. Sau khi tỉnh lại,
không thấy em đâu, tìm quanh quất mà không thấy, con đành về một mình.
Mọi người gặng hỏi có phải em chết rồi không? con cứ nói thật, nhưng nó
cứ cả quyết em chưa chết. Anh chị Bốn không thể nào trở lại Phú Bổn để
tìm con, vì hoàn cảnh lúc đó rất khó khăn trong việc đi lại, muốn ra
khỏi tỉnh phải có giấy phép đi đường.
Sau khi anh Bảy bị
bắt, anh Bốn và anh Sáu quyết định tìm đường vào Sài Gòn, nhưng việc
quan trọng hơn nữa là chữa trị vết thương ở chân của em trai, để lâu quá
có thể bị cưa chân. Em tôi bị từ chối không được chữa trị, vì là chuẩn
úy Việt Nam Cộng Hòa, họ nói thẳng thừng như thế, rồi họ chỉ phát phiếu
cho dân và người của họ, người nào có phiếu mới được chữa trị. Anh Bốn
nhìn ra người phát phiếu là người lính quen, nhằm lúc anh ta sơ ý, anh
Bốn lấy một phiếu để trên bàn, anh ta trông thấy, nhưng không phản ứng
gì. Nhờ đó mà em tôi được bó bột và cấp cho hai cái nạng. Sau đó 12
người lớn nhỏ chất lên xe và 2 giờ sáng chạy trốn vào Sài Gòn tìm gia
đình.
Tất cả gia đình
tôi cũng như nhiều gia đình khác bị cuốn theo vòng xoáy của định mệnh,
của những nghiệt ngã, căn nhà rộng rãi của bố mẹ tôi ở Sài Gòn trở nên
chật chội khi chứa tổng cộng 31 người trong đó có hai bà bầu, cộng thêm
một bà bầu ở Pleiku với một đứa con nhỏ để nuôi anh Bảy ở tù cải tạo tại
trại Plei Bong. Số tài sản bố mẹ tôi mang theo chỉ là một phần nhỏ, rồi
theo thời gian cứ vơi dần. Nhà có ba con rể và hai con trai đi tù cải
tạo. Chồng tôi ra Bắc đợt đầu tiên, năm đó tôi sinh con trai.
Sau ba năm cải
tạo, anh Bốn được cho về sớm do nhu cầu cần giáo viên, trong khi chờ đợi
bổ nhiệm, hai anh em ra chợ trời để kiếm sống. Tôi bán chiếc vòng hột
xoàn mẹ cho ngày cưới, đây là món nữ trang cuối cùng mà tôi còn làm vốn
để hai anh em đi buôn bán cà phê sống. Đi buôn cà phê thôi mà nhiều lúc
tôi muốn đứng tim vì phải tránh công an và quản lý thị trường. Những tên
quản lý thị trường là hung thần của những người buôn bán.
Những khó khăn của
mưu sinh, những thay đổi khó hòa nhập của chế độ mới càng làm cho anh
tôi thêm day dứt đau đớn vì nhớ đứa con thất lạc, càng ngày anh càng
trầm ngâm ít nói hơn. Khoảng thời gian này, hai anh em rất gần gũi nhau,
anh tâm sự với tôi rất nhiều. Nhà đông người, nên ngủ chật cả phòng
khách, nhiều đêm giật mình tỉnh giấc thấy anh Bốn ngồi ở salon hút
thuốc, anh im lặng nhìn qua cửa sổ. Ban đêm Sài Gòn nóng nực vì nhà có
cổng, cửa sổ lại có chấn song nên không bao giờ nhà tôi đóng cửa sổ, tôi
dậy và ngồi nói chuyện với anh. Anh nói: “Cô biết không, nếu con mình
chết mình đau khổ, nhưng mình biết con mình đã chết, rồi thời gian cũng
nguôi ngoai, nhưng cháu cô không biết sống chết ra sao, còn sống thì nó
phiêu bạt nơi đâu, tôi đau lòng lắm cô biết không?” Tôi là cô mà còn
canh cánh bên lòng những suy nghĩ như anh, anh là cha lại càng đau đớn
hơn. Tôi im lặng chẳng biết nói sao.
Bẵng đi một thời
gian vì cuộc sống quá nhiều khó khăn, lao đầu vào công việc, chuyện đứa
con thất lạc của anh Bốn tưởng như chìm vào quá khứ. Nhưng nghe được một
người lính Thiết Giáp tìm gặp đứa con gái thật tình cờ. Gia đình này mở
quá nhậu, người con gái bưng thức ăn cho thực khách thì có một người
dân tộc nhìn cô ta và bảo: “Ở trong buôn tôi có một đứa thất lạc từ năm
1975, nay nó có chồng con rồi, nhưng nó giống cô lắm, cũng có bớt chàm ở
tay và cục thịt dư ở lỗ tai”. Cả gia đình mừng rỡ vì những chi tiết này
mà cả gia đình xum hợp, vì khi gặp lại đứa bé thất lạc này giống người
cô như in.
Sự việc này dấy
lên trong lòng anh Bốn một hy vọng, anh bắt đầu cuộc tìm kiếm sau hơn 20
năm đứa cháu gái tôi thất lạc. Cuối cùng anh tôi chọn một cô gái có
chồng và hai đứa con có những nét mà anh thấy có thể là con mình, để đem
đi thử máu, mọi chuyện đều cần thông dịch. Anh Bốn chụp hình gia đình
cô gái và gởi thư cho tôi báo tin đang chờ kết quả thử máu. Nhưng rồi
niềm hy vọng của anh tôi tiêu tan sau kết quả thử máu. Cho đến khi nhắm
mắt lìa đời cách đây ba năm, anh Bốn tôi lòng nặng mang niềm thương nhớ
đứa con thất lạc ở Tỉnh Lộ 7. Cơn hồng thủy cuốn con anh tôi phiêu bạt
nơi nào? Con bé chưa đầy tuổi, hông có một dấu vết nhận dạng để tìm con.
Một chi tiết để nhớ là chiếc áo ấm cháu mặc được đan tay với màu da bò,
màu len đặc trưng của gia đình tôi rất thích, ít trùng hợp với ai, cháu
có đôi mắt to tròn.
Ngày mới sinh
cháu, một vị dạy cùng trường Trung Học Pleiku có lấy số tử vi và nói với
anh tôi: “Trong lá số của cháu Ngọc, thấy cháu không ở với cha mẹ”. Mọi
người cứ nghĩ có thể khó nuôi, cháu sẽ có thể sống với bên Nội hoặc bên
Ngoại. Chúng ta làm cha mẹ chắc hiểu được niềm day dứt của anh Bốn.
Hôm nay tôi viết
những giòng chữ này như một chia xẻ những suy nghĩ của tôi về cuộc
chiến, về những gì đã xảy ra đến với gia đình tôi. Không những chỉ riêng
cho gia đình tôi mà còn biết bao gia đình khác trên đất nước Việt Nam.
Tất cả là sự thật, chỉ một phần mười sự thật được ghi trên giấy. Có
những chuyện tôi chưa hề kể cho các con tôi nghe vì chuyện đau buồn quá.
Tôi rất mong nếu
những ai đã trải qua những ngày kinh hoàng trên Tỉnh Lộ 7, nhận được một
bé gái về nuôi, xin nhắn cho gia đình chúng tôi một lời nhắn trên Diễn
Đàn Phố Núi Pleiku, chúng tôi chỉ mong tin tức của cháu để biết bây giờ
cháu ra sao. Chúng tôi không dám mong nhận lại cháu, vì hiểu nuôi một
đứa con cực nhọc biết bao nhiêu, mà bây giờ nói sự thật ra, thật khó
khăn, không nỡ gây xáo trộn, gây sốc cho nó. Chỉ mong nếu Trời Phật xót
thương, quí vị đọc được những giòng chữ này xin làm phước nhắn tin:
“Cháu bé gái chưa đầy một tuổi mặc chiếc áo len mầu da bò hiện ra sao”,
như thế là quá đủ cho gia đình chúng tôi, quí vị có thể dấu tên, địa
chỉ. Nhắn dùm cho chúng tôi trên trang mạng của phonuipleiku.org. Để tôi
có thể thắp một nén hương trước hương linh anh Bốn và khấn rằng: “Cháu
vẫn còn sống và được yêu thương”. Như thế anh tôi mới ngậm cười nơi chín
suối.
Quí vị giúp tôi
đạt thành tâm nguyện của anh trai tôi và cũng là người thầy của tôi, đã
38 năm đã qua, có những chuyện muốn quên mà không quên được, nó cứ ám
ảnh mãi. Những điều chôn dấu đến nay mới nói ra, khổ đau là ở điều này.
Bài viết này như
một nén hương để tưởng nhớ những người đã chết tức tưởi trên đường chạy
loạn ở khắp Miền Nam Việt Nam năm 1975 nói chung và Tỉnh Lộ 7 Phú Bổn
nói riêng. Viết để chia sẻ những chuyện khó quên đã xảy ra trong chiến
tranh. Viết để làm một điều gì an ủi hương linh anh tôi, với một hy vọng
rất mong manh. Viết để cảm ơn những người đã giúp đỡ gia đình chúng tôi
trong cơn hoạn nạn và nguy hiểm. Họ đã thể hiện lòng nhân ái, tinh thần
huynh đệ chi binh của con dân Việt Nam Cộng Hòa, của những người lính
Việt Nam Cộng Hòa. Họ là những người chúng tôi biết và không biết. Ngược
lại, chúng tôi cũng là người xa lạ với họ, nhưng chúng ta cùng là người
Việt Nam.
Xin cảm ơn những ân nhân hiện diện trong bài viết này, những người chịu hệ lụy của chiến tranh cả tinh thần lẫn thể xác. Xin đa tạ những người đã đọc đến những giòng chữ cuối cùng này, hãy giúp tôi hoàn thành tâm nguyện của anh tôi trong khả năng có thể làm. Xin cho tất cả chúng ta được bình an trong tâm hồn, trong những ngày còn lại của một đời người. Lê Ngọc Anh |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 108 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |