Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 108 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23678
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Mar/2021 lúc 1:16pm

Người Đi Trên Đống Tro Tàn


4014%201%20NguoiDiTrenDongTroTanCThy%20ST

Anh K thương mến,

     Những năm trước khi nghe anh nói năm nay anh cũng chưa về VN được, em rất buồn. Hơn 20 năm rồi còn gì. Nhưng năm nay thì em lại nghĩ khác. Anh không về hóa ra lại hay. Hãy để VN biến thành tro bụi trong ký ức. Nhưng anh không về mà cứ muốn em kể chuyện VN cho anh nghe. Em sẽ kể nhưng anh đừng khóc đấy nhé.

Em sẽ bắt đầu từ đâu nhỉ?

     À. Huyện lỵ của mình bây giờ được gọi là thị xã. Nếu về anh sẽ không nhận ra đâu là đâu. Ngôi trường bé nhỏ dưới mấy gốc bàng nơi anh và em học lớp vỡ lòng, đã bị đập bỏ để xây một cung thiếu nhi nguy nga. Hai hàng tre bên sông Dinh đã được thay bằng bờ kè bằng đá. Đường sá cũng được mở rộng thay cho những con đường làng nhỏ mà thuở bé anh hay đạp xe chở em về thăm quê nội hay rong chơi đây đó. Xem ra thì đường xá cầu cống, dinh thự, trường học có khang trang hơn xưa nhưng đó là hàng mã.

     Tất cả đều chỉ đẹp đẽ trong ngày khánh thành, còn sau đó nó hư hỏng nhanh chóng là điều bình thường ở xứ sở này. Trên những con đường ở đất nước gọi là thanh bình này, mỗi năm có hàng chục ngàn người chết vì tai nạn xe cộ. Người chết vì tai nạn giao thông mấy mươi năm nay còn hơn số người chết trong cuộc chiến vừa qua. Không có ở nước nào mà người dân phải tự di chuyển bằng xe gắn máy.

     Không có ở đâu mà xe gắn máy chạy chung với xe tải, xe khách, xe chở container. Người mình chết nhiều đã đành. Cứ mỗi lần đọc báo có tin một chuyên viên nước ngoài đến VN làm việc bị xe tông chết thì em vừa xấu hổ vừa thương cho họ. Đáng lẽ họ không nên đến đây, một đất nước mà mạng người chỉ là cỏ rác.

     Trong thư anh thường nói phong cảnh ở VN là đẹp nhất. Núi đẹp, rừng đẹp, những ngôi nhà nho nhỏ giữa những thửa ruộng xinh tươi.

“Chiều ơi, lúc chiều về là lúc yên vui

Trâu bò về dục mõ xa xôi … ơi chiều” (*)

     Anh ơi, làng quê thì vẫn còn màu xanh như cũ, nhưng nó không còn là chốn yên lành. Rượu, phim bạo lực, phim sex, thất nghiệp đã làm dậy lên men say cuồng sát và cảnh chém giết nhau anh cũng đã biết rồi trên các báo online. Anh cũng sẽ không còn tìm ra những nàng thôn nữ:

“gánh gánh, gánh, gánh thóc về gánh về gánh về” (*)

Không còn nữa nụ cười e ấp dưới vành nón che nghiêng.

Tìm đâu thấy chiếc áo bà ba quen thuộc của bà, của mẹ.

4014%202%20NguoiDiTrenDongTroTanCthy%20ST

     Hàng Trung Quốc bây giờ vừa rẻ vừa model đã biến cả các phụ nữ nông thôn thành những con rối hồn nhiên háo hức với “quần bò” hở rún, áo hai dây hoặc không có dây nào.

     Trước đây, người dân được dạy cho biết lao động là vinh quang và mọi người mọi nhà phải tăng gia sản xuất. Lúc đó, cây khoai mì đã trở nên một biểu tượng được tôn sùng của đất nước. Nhưng sau đó, họ sực tỉnh ra rằng những cây gỗ trăm năm, ngàn năm bạt ngàn trên rừng Trường Sơn mới là triệu triệu dollars. Và thế là một cuộc thảm sát long trời lỡ đất chưa từng có đã biến cho đất nước mình thảm hại như một con đại bàng bị vặt trụi lông.

4014%203%20NguoiDiTrenDongTroTanCthy%20ST

     Anh sẽ khóc khi nhìn thấy Dalat mất gần hết rừng thông, anh sẽ thất vọng khi Dalat không còn cái lạnh đáng yêu của một châu Âu giữa lòng một đất nước chỉ có hai mùa mưa nắng. Và anh sẽ phì cười khi thấy đã có tiệm bán quạt máy ở Dalat.

     Người Việt dẫu sao cũng dễ thích nghi với mọi hoàn cảnh. Em thương nhất, đau lòng nhất khi nhìn vào đôi mắt buồn vời vợi của những người thiểu số khi họ bị bứt khỏi núi rừng.

     Núi rừng là quê hương của họ, là ngôi nhà kỳ vỹ của họ. Thật nhẫn tâm khi để chiếm núi rừng, người ta lùa họ ra sống ở những ngôi nhà gạch, mái tôn xây vội. Nhìn họ uể oải nhảy múa, đánh cồng, đánh chiêng phục vụ cho ngành du lịch thấy mà đắng lòng.

4014%204%20NguoiDiTrenDongTroTanCthy%20ST

     Anh đã từng nhìn thấy voi khóc chưa? Mỗi lần nhìn vào mắt của những con voi chở khách du lịch, em chắc chắn rằng chúng đang khóc. Những con voi cuối cùng ở buôn Đôn ấy đã lần lượt ngã gục sau một đời nô lệ, xiềng xích, đói khát.

Dalat không còn hoang sơ, bí ẩn, thơ mộng như thuở nào.

     Rồi đây cáp treo sẽ đưa người lên Phan Xi Pang, lên Langbian. Những rùa, nhím, trút, chồn hương, nai hoẳng sẽ bị tận diệt cho những cái bao tử phàm phu khốn nạn.

     Người ta cũng phát hiện ra rằng ngoài rừng, biển cũng là triệu triệu dollars. Không biết vua Duy Tân có lỗi gì với dân tộc mà sau năm 1975 con đường tuyệt đẹp mang tên ông trải dọc biển Nha Trang đã đổi thành đường Trần Phú. Và cũng từ đó biển Nha Trang dần dần bị biến dạng. Song song với cuộc tàn sát rừng, biển cũng bị xâm lấn nặng nề. Nếu anh về thăm biển Nha Trang, anh sẽ thấy biển không còn gây cho anh cảm giác mênh mông, anh sẽ không còn cái thú được thấy mình như “con ốc bơ vơ nằm trên cát” (*).

     Biển Nha Trang bây giờ bị bao vây bởi một rừng khách sạn khổng lồ ngạo nghễ nhìn ra biển. Nằm dưới chân những gã khổng lồ khách sạn, biển Nha Trang đã biến thành một cái ao làng với rất nhiều bao ny lông nhớt nhát trôi vật vờ. Nha Trang bây giờ không còn thênh thang gió biển.

Còn đâu nữa:

“Phố chiều bao tà áo trắng,

Lượn quanh hè phố nắng

Những cô nàng xinh đang tròn trăng”

(Hoàng Thi Thơ)

4014%205%20NguoiDitrenDongTroTanCthy%20ST

     Nhưng điều đau buồn nhất là một thế hệ con cháu chúng ta đã lớn lên như những con gà công nghiệp trong một chiếc lồng chật chội.

     Làm sao trách chúng được khi chúng lớn lên trong một không gian mù mờ về lịch sử..

     Chúng được dạy dỗ rằng chúng đang sống rất hạnh phúc trong một đất nước đã được giải phóng và chúng phải biết ơn Bác, biết ơn Đảng.

     Mà hạnh phúc thật đấy. Một diễn viên nổi tiếng của Hollywood tổ chức đám cưới chỉ mời không đến vài chục khách trong khi bà Hai bán phở, ông Chín nhân viên thuế vụ, chị Năm y tá làm đám cưới cho con mời bốn, năm trăm khách. Trong đám cưới, thật ngỡ ngàng khi có ông cựu binh sĩ VNCH hào hứng lên sân khấu hát bài “Năm Anh Em Trên Một Chiếc Xe Tăng” !!!

     Nếu anh về đi thăm bà con, anh sẽ chạnh lòng khi nghe thím Hai khoe con thím đi làm ở Bưu Điện được cử đi học lớp cảm tình đảng. Điều đó có nghĩa nó có hy vọng vào đảng và lên chức. Buổi tối về nhà, anh sẽ nghe mấy đứa cháu anh ê a học “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào…

Không thể trách được. Dù là gà công nghiệp, gà cũng thèm mổ gạo, cũng thèm sống.

4014%206%20NguoiDiTrenDongTroTanCthy%20ST

      Làm sao trách được người dân Việt khi trong sân bóng đá họ chỉ có một lựa chọn duy nhất là lá cờ đỏ sao vàng để cuồng nhiệt phất lên mừng đội nhà chiến thắng.

     Sau năm 1955, chúng ta có một cuốn phim với một tên gọi rất hay “Chúng Tôi Muốn Sống”, Sau 1975 em rất thích phim “Phải Sống” của Trương Nghệ Mưu.

Phải sống thôi..

Người dân quê mình không còn hơi sức đâu mà buồn mà lo lắng, suy nghĩ.

Thời gian để sống dường như càng ngày càng vội vã mà gông cùm thì siết quá chặt.

4014%207%20NguoiDiTrenCthy%20ST

     Phải chi có anh vào những ngày cuối năm này, em sẽ dẫn anh đi thăm một nơi mà em rất thích vì nó yên tĩnh, đẹp và buồn.

     Đó là nghĩa trang nơi có mộ ba, má, mộ cậu Sáu, dì Bốn, mộ ông Ba Cà, bà Tám Hương, ông Mười Cảnh… Những người hàng xóm thân thiết của chúng ta đều có mặt ở đây. Đến đây, anh sẽ nhớ lại những ngày thơ ấu tươi vui của chúng mình, những đứa trẻ nghèo, thiếu thốn, nhưng được tự do bay nhảy trong khu rừng nguyên sinh bát ngát tuyệt đẹp của một đất nước tên gọi Việt Nam.

     Em thích nhất là được ngắm nhìn những rặng núi xanh thẳm buồn buồn, được nghe tiếng những hàng cây rủ rỉ trong gió chiều tịch mịch.

“Me có hay chăng con về

Chiều nay thời gian đứng yên để nghe”


Không rõ tên

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23678
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 23/Mar/2021 lúc 9:11am

Thằng Bé Đánh Giầy Người Nghĩa Lộ   <<<<<

Thanh Phương

Thằng%20Bé%20Đánh%20Giày%20Người%20Nghĩa%20Lộ%20–%20Phạm%20Tín%20An%20Ninh




Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 23/Mar/2021 lúc 9:12am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23678
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Mar/2021 lúc 11:34am

Người Hạ Sĩ Nhứt 

Hình minh họa

Mọi chuyện dường như là có sự sắp đặt. Trong cuộc đời tui, bao nhiêu lần vào sanh ra tử, cứ tưởng là sắp đi thăm ông bà ông vải, nhưng lại chưa. Bà xã, thỉnh thoảng vẫn chọc quê, "Nghèo mà ham; anh tưởng muốn đi là đi hả? Tui chưa cho anh đi thì hổng được đi đó. Nghe chưa?". Chuyện tình duyên thì cũng rụp, rụp, rụp - ý tui muốn nói là xuông xẻ đó. Còn chuyện người anh kết nghĩa thì như trên trời rớt xuống. Đúng là người tính hổng bằng Trời tính mà. Tía hay nói như dzậy.

Nói xa nói gần hổng bằng nói thiệt tui là con một trong gia đình nông dân nghèo. Nghe Má kể lại thì lúc được 1 tuổi rưỡi, tui bị bịnh ban gì đó, mà hai thầy thuốc Nam trong miệt cồn Dừa (tỉnh Phong Dinh) này đều bó tay. Tía bằng lòng bán miếng ruộng duy nhất của gia đình để có tiền đưa tui lên Sài Gòn chữa bịnh, nhưng đường đi quá cực khổ, và có thể tui sẽ chết trên đường trước khi tới nhà thương, thành ra lại phải trở về khi đi chưa được một phần năm đường. Hổng lẽ ngồi khoanh tay nhìn con mình chết, Tía nghe người ta mách hái mấy lá gì đó trộn với xả nấu cho tôi uống. Uống xong, nghe Má kể lại, tôi giựt giựt mấy cái rồi nằm xụi lơ, rồi ngủ luôn 2 ngày. Khi tui thức dậy, Má khóc quá trời vì quá mừng. Qua được cơn bịnh này thì tui hơi chậm lớn và cũng hơi chậm nói - nghe Má nói như dậy. Giờ ngồi nghĩ lại thấy thương ổng bả quá trời.

Khi được 5 hay 6 tuổi tui hay theo Tía ra đồng coi dùm Tía mấy cái cần câu trong lúc ổng làm ruộng. Ngồi hổng có gì làm, tui thường lượm gạch hay sỏi để chọi chim, rắn hay chuột đồng. Nhiều hôm tui chọi trúng được vài con chuột hay chim đem về cho Má nướng. Còn cá trê Tía câu Má kho tiêu ngon lắm. Thỉnh thoảng Tía uống rượu đế với mồi cá kho tiêu, và khi uống rượu Tía nói nhiều hơn mọi ngày. Phải nói là cuộc sống khá êm đềm.

Tới 8 tuổi tui mới đi học, nhưng tui học dở lắm, chắc là tại quá ham chơi. Khi rảnh tui làm ná bắn chim (thay vì chọi đá như hồi nhỏ). Tui cũng hay chơi bắn bi với tụi nhỏ hàng xóm. Phải nói là tui dùng ná rất giỏi vì ngày nào tui cũng đem chim, vịt trời hay chuột về cho Má làm đồ ăn. Khi bắn bi cũng vậy, tụi bạn thua tui dài dài, thành ra có tiền mua bánh tráng, xôi với cà lem ăn. Chỉ có học là tui dở thôi. Học đó rồi quên đó. Phải học lớp Năm đến 2 hay 3 lần mới được lên lớp Tư.

Có lần tan học, trên đường về, tui theo bạn bè vào vườn mía đỏ bỏ hoang (thân mía màu ưng đỏ hồng, mềm và ngọt khỏi chê luôn). Muốn được mía lớn tui phải đi tuốt vô trong sâu. Đang kéo chiến lợi phẩm ra, thì tui thấy đau điếng dưới chưn. Nhìn xuống thì trời ơi, một con trăn bự đang cắn chặt vô cái bắp chuối. Tui cố kéo chưn ra nhưng hổng xong vì con trăn mạnh quá. Thân nó trườn tới và quấn luôn chưn kia. Biết là hổng xong nếu tiếp tục cá đà này, tui la cầu cứu nhưng vì ở tuốt trong sâu, hổng ai nghe. Hai chưn bị trăn cột xiết rồi, tui ngã xóng xoài - chuyện đi thăm ông bà là cầm chắc trong tay. Hai chưn đã tê cứng. Chợt nghĩ tới Tía và Má, tui như bừng tỉnh và quơ đại cái cặp táp. Đang dùng cái cặp táp da đập vô đầu con trăn, cây viết văng ra. Tui dùng cây viết đâm túi bụi vào mắt con trăn. Đâm hết mắt này rồi đâm qua mắt kia. Chắc là bị tui đâm khá sâu vào mắt, con trăn tự nhiên nhả chưn ra, lăn lộn, hổng xiết nữa, và bò đi nơi khác. Hôm đó Má khóc nhiều lắm. Má cứ lẩm bẩm cám ơn ông bà che chở. Má nói là cái số tui chưa rụng. Tía tới vườn mía hoang và bắt được con trăn mù cổ bà chảng. Đem ra chợ bán thịt được gần hai chục đồng. Lúc đó 1 lượng vàng chỉ có 65 đồng. Tía nói sẽ dùng tiền này cho tui khi đi học xa, hay lúc cưới vợ. Tía cấm hổng được đi vô rừng mía đó nữa. Nói cho cùng, sau cái vụ trăn quấn thì có cho tiền tui cũng hổng dám vô.

Tui học ạch đụi tới năm 15 tuổi mới học xong lớp Nhứt. Thấy tôi học chậm, Tía cho tui ở nhà phụ làm rẫy. Mùa hè năm sau nhóm trẻ tụi tui đá banh thắng nhóm bên cồn Cát 3-2. Tui đá vô gôn luôn 2 trái trong vài phút chót vì tui chạy lẹ lắm. Được 80 đồng phần thưởng, tui dẫn "đội banh nhà" ra chợ ăn gỏi đu đủ và uống nước mía. Thắm, cô bán nước mía, nhận ra tui, nhưng tui hổng nhận ra cổ. Hỏi ra mới hay là tui học cùng lớp với Thắm 6 năm trước. Cổ khác hẳn con nhỏ ốm nhom, đen thui hồi đó. Thắm giờ có da có thịt, da bánh mật, nói chuyện có duyên, và biết buôn bán. Sau lần đó, tụi tui kết nhau. Đưa Thắm về nhà, Tía và Má mừng lắm. Má nói là Má luôn muốn tui có người anh để giúp đở bảo bọc vì tui chậm chạp và thật thà. Nay có người bạn đời giỏi như Thắm đến với tui, Má vui lắm. Tám tháng sau, tụi tui lập gia đình. Khoảng 1 năm sau khi cưới vợ thì tui phải nhập ngũ. 

Chỉ sau vài tháng trong Quân Trường Quang Trung, vì được nhiều sự chú ý của các huấn luyện viên cao cấp bởi tui chạy đua rất mau (chắc vì muốn thắng đá banh để có tiền mua nước mía), và tui bắn súng hết xẩy (hay là vì chọi đá bắt chuột, dùng ná bắn chim, bắn bi kiếm tiền mua đồ ăn ... hồi nhỏ), tui được huấn luyện đặc biêt để trở thành xạ thủ. Khi mãn khóa ở Quang Trung, tui được chuyển đi Kontum với cấp bực binh nhì trong đội Biệt Kích. Nhiệm vụ của tui là trốn trên những đồi cao có nhiều cây, quan sát, truyền tin và bắn tẻ khi được lịnh. Có khi tui đi chung nhóm 3 hay 5 người, và có khi chỉ có mình ên. Thường được thả trên rặng Trường Sơn vào những đêm sương mù dầy đặc. Những lúc đi xa, tui nhớ Thắm, nhớ Má và Tía lắm. Cái sướng của công việc này là tui dùng sở trường của mình (chạy mau và bắn giỏi) để phục vụ đất nước. Tui cũng khoái vụ trốn trên núi cao vì hồi nhỏ thích chơi Năm Mười. Xếp tui dặn là bất cứ ai hỏi thì tui phải nói tui là lính kiểng gác kho gạo trên Đà Lạt. Mà cũng hay, vì sau khi núp trên núi vài tháng nên da trắng và tóc dài, tui dòm cũng giống lính kiểng lắm chớ bộ. Sau mỗi lần đi công tác vài tháng tui được nghỉ phép cả tháng với rất nhiều tiền (hình như là tiền tử) khi về thăm gia đình. Tiền bạc dồi dào, tui mua đồ cho mọi người mút chỉ. Vì vậy bạn bè, hàng xóm thương, che chở và giúp đỡ tui. 

Lần đó sau khi về thăm nhà chưa được 2 tuần lễ, tui bị gọi về gấp vì có chuyện lớn. Đi lẹ ra Ô Môn, vô sân bay Trà Nóc, bay thẳng về KonTum để nhận lịnh. Trước khi được điều động lên một địa điểm bí mật trên rặng Trường Sơn để thăm dò như các lần trước, tui được dặn là phải cố gắng nhiều vì 2 đồng nghiệp Biệt Kích (BK) đã mất tích trong vùng đó. Điều may mắn lần này là tui tìm được 2 người BK kia không xa nơi đáp xuống. Một người đang bị bịnh. Máy truyền tin bị hư, và đạn dược thiếu thốn tại một số lớn quân nhu bị rớt mất khi thả dù. Tụi tui núp trong 1 hang núi có nhiều cây rậm rạp. Điều không may mắn lần này là tụi Việt Cộng biết được sự có mặt của nhóm BK vì họ tìm ra số quân nhu và dụng cụ bị rớt. Họ lùng kiếm ráo riết. Để được an toàn, tụi tui im hơi lặng tiếng và chỉ bắn khi thiệt cần. Sau cùng cũng phải bắn trả vì tụi nó tới quá gần, nhưng tụi tui bắn thật ít vì thiếu thốn đạn dược. Tụi Việt Cộng dù đông hơn, nhiều đạn hơn, nhưng hổng dám mạnh dạn tiến lên vì họ ở vị trí dưới thấp, trong khi nhóm tụi tui phía trên cao bắn xuống phát nào trúng phát nấy. Cầm cự được hơn 6 tiếng đồng hồ, thì nhóm tui gần như hết đạn. Chỉ còn vài trái lựu đạn để tử thủ. Tui không nghĩ là mình qua được con trăng này. Nghĩ tới Thắm, Tía và Má, tui chạnh lòng. Trong cơn nguy hiểm như chỉ mành treo chuông, bỗng nhiên máy bay trực thăng tiếp cứu tới. Máy bay phải đánh đông phạt tây (điệu hổ ly sơn) và dùng hỏa mù để cứu nhóm tui. Trong phi vụ này, tui bị thương vì té gẫy tay và được đưa về Chẩn Y Viện Cộng Hòa điều trị. Sau thời gian dưỡng thương, tại tay hổng còn khỏe và chính xác như ngày trước, tui được chuyển về 1 quận lỵ nhỏ gần Suối Dây, tỉnh Tây Ninh với cấp bực Hạ Sĩ Nhứt và giã từ cuộc sống BK Đặc Biệt từ đó.

Khoảng 4 tháng sau thì Thiếu Úy Đức (TUĐ) người Bắc tới làm Phó quận trưởng. Tui được lựa làm gạc đờ co (bảo vệ) cho ông Phó. Vài lần đang lái xe jeep chở ông Phó đi quan sát ngoài biên giới quận thì tụi Việt Cộng bên kia rừng Tràm bắn lén. Vừa nghe tiếng nổ là tui phản xạ đẩy TUĐ nằm xuống, che cho ông, và cùng lúc tui nhả hàng loạt đạn về phía tiếng nổ. Sau vài lần như vậy, tui được tin cẩn hơn và trở thành cánh tay trái của ổng. Tui luôn khuyên ổng phải cẩn thận, vì đây là vùng xôi đậu không biết ai là địch, ai là thù. TUĐ là thượng cấp, nhưng ổng cũng xem tui như người nhà. Một lần đưa ổng đi xem nhà cửa của dân làng do nhóm lính sửa chữa, TUĐ gặp cô Hân (con gái bà chủ căn nhà ở cuối quận, kế bên con sông nhỏ ngăn cách khu rừng Tràm âm u bên kia). Theo như tui thấy thì hình như lúc gặp cô Hân, TUĐ bị tiếng sét ái tình hay sao đó vì ổng đứng như trời trồng và nói năng lắp bắp. Thấy kỳ quá, thêm nữa khu này nguy hiểm khi trời sâm sẩm tối, tui nói thay cho ổng:

- Trễ rồi, Thiếu Úy. Mình phải đi dzề. Chào cô.

Cô Hân đẹp, ăn nói khéo léo, ... chắc là người bên kia, gài lại đây. Tía của cô vắng mặt. Hay là ông ta đã tập kết ra Bắc? Thêm nữa, tên Ba Thọt (ở đối diện nhà cô) - một người có tiểu sử và hành động rất khả nghi - thường qua lại nhà cô thăm viếng.
Mỗi sáng khi cô Hân đi làm ngang văn phòng quận, tui thấy cô cố tình đi chậm lại. Hay là cô đang nghe ngóng tin tức? hay là xem cá có cắn câu chưa? hay là đang dò sét tình hình trong văn phòng quận để tường trình cho phe bên kia?... Hàng trăm câu hỏi, nhưng hổng có câu trả lời. Thôi, tốt nhứt là đề phòng thì vẫn hơn.

Vài tháng sau, Kontum, Ban Mê Thuột và nhiều vùng cao nguyên thất thủ. Rồi Bảo Lộc-Madagui vào tay bọn qủy đỏ, ... Một buổi chiều tháng tư, tụi Việt Cộng đem xe tăng, súng lớn tới tấn công quận. Đại Úy Long quận trưởng mất tích. TUĐ và các anh em quân đội tụi tui liều chết bắn chặn quân địch. Trước hỏa lực quá mạnh của địch, lực lượng tiểu đoàn phòng thủ quận tan rã. Kẻ chết, người bị thương, người chạy trốn. Tui và TUĐ đều bị thương nhẹ. Cùng đường, hai thầy trò chạy về phía cuối quận. Đinh ninh là Ba Thọt hay cô Hân sẽ chờ để bắt sống hay thanh toán tụi tui ở đó, tui cầm chắc khẩu tiểu liên sẳn sàng mạng đổi mạng. Khi chạy tới gần con sông cuối quận (gần nhà cô Hân), TUĐ ngã quỵ vì kiệt sức. Đang đỡ TUĐ lên, thì cô Hân chạy ra mở cửa rào ra dấu cho tụi tui vào nhà gấp. Khi vào trong, cô băng bó cánh tay của TUĐ. Cô đưa cho tụi tôi 2 nắm cơm và ít nước lạnh để ăn cầm hơi. Trong lúc tui và TUĐ ăn, cô lấy 2 ruột xe đạp, bơm lên, và đưa cho tụi tui. Cô ta chỉ tay vào con sông sau nhà:

- Hai anh thả nổi chừng 8 hay 9 cây số tới nhà thờ Suối Dây. Nhớ tìm người linh mục gốc Nam Định xin giúp đỡ. Chừng nào khỏe lại thì đi. Nếu tình hình lộn xộn quá, thi trốn qua Kampuchia. Hai anh đi cho lẹ trước khi họ tới đây.
Lúc đó tui mới biết là mình sai. Cô Hân là người ơn, chứ không phải là vẹm như tui nghĩ. Món nợ cứu mạng này lớn lắm. 

Khi tụi tôi xuống sông thì trời đã tối. Nương theo dòng nước hai thầy trò tới nhà thờ Suối Dây khoảng 2 giờ sáng. Người Linh Mục dấu tụi tui ở đó gần 3 tuần lễ dưỡng thương. Khi gần như hồi phục hoàn toàn, TUĐ và tui chia tay. Hôm đó cả hai đều khóc. TUĐ nghẹn ngào:

- Hạ Sĩ Nhất Sơn. Tôi bao giờ cũng xem chú ... như người nhà. Cám ơn chú ... đã làm việc với tôi trong 2 năm qua, và ... đã giúp đỡ tôi trong cơn hoạn nạn này. Nếu còn duyên thì anh em mình sẽ gặp lại.

Sau khi từ giã TUĐ và người Linh Mục, tui về Cần Thơ đoàn tụ với gia đình. Mất mấy ngày mới về tới Sài Gòn. Thành phố giờ có tên mới -cái tên của kẻ sát nhơn. Tui hổng quen dùng cái tên mới đó. Phải mất thêm cả tuần nữa mới quá giang về đến cồn Dừa vì xe cộ bị đình trệ sau ngày đổi đời - cái ngày mà hàng vạn người vui, nhưng hàng triệu người buồn. Khi bước vô nhà, Má bật khóc vì quá mừng. Thắm thấy tui tiều tụy quá cũng khóc. Tía thì nhờ người hàng xóm đi mua ít đồ ăn mừng ngày đoàn tụ.

Hai hôm sau, 3 người Công An tới nhà chỉa súng bắt tui đi lên xã. Xã trưởng là 1 tên Bắc Kỳ răng hô mã tấu với khuôn mặt khắc khổ nhăn nheo như cái mền rách. Hắn đập bàn đánh phủ đầu với giọng Bắc đặc sệt:

- Mày có biết tội phản động làm việc cho CIA cũa Mỹ Ngụy nặng như thế nào không? Tội ác của mày lớn lắm. Mày có nợ máu với nhân dân.
- Thưa đồng chí xã trưởng ...
- Ai là đồng chí với bọn phản động như mày.
- Dạ thưa xã trưởng. Tui chỉ là lính khiểng gác kho ở Đà Lạt. Tui có bắn giết ai đâu?
- Tao có hồ sơ của mày. Đừng chối cãi nữa. Nhận tội đi. May ra được Đảng khoan hồng.
- Thưa Xã Trưởng, chắc là có người trùng tên, chứ tui đâu có làm gì như dậy.
- Giam thằng này lại. Đồ ngoan cố, mất dạy. Tuần tới đưa nó lên phòng Công An tỉnh để giải quyết.

Tui bị nhốt 8 ngày trước khi bị chuyển lên ty Công An tỉnh Cần Thơ. Khi vào gặp Trưởng phòng Công An, tui không dè đó là thằng Huân trong đội đá banh ngày nào. Nó ăn gỏi đu đủ bò khô và uống nước mía với tui sau các trận đá banh vài lần. Thêm nữa mỗi lần tui về thăm nhà, tui đều có mua đồ cho thằng Huân và cho dì Tám má nó. Tui cũng nói là làm lính kiểng trên Đà Lạt, khi nó hỏi. 

Thằng Huân nhận ra tui ngay. Tui chỉ trả lời bằng những gì mà Xếp cũ của tui dặn nói. Tui đổ thừa là có người trùng tên. Nhờ thằng Huân dễ dãi, tui thoát nạn. 

Tui đi cải tạo mấy ngày dành cho Hạ Sĩ Quan. Sau đó được "khoan hồng" về làm rẫy với gia đình ở cồn Dừa. 

Xã hội dưới tay đảng CSVN xuống dốc như xe hổng thắng. Ai cũng nghèo, đói, và khổ cực. Gia đình tui làm rẫy, cũng bữa đói, bữa no, nhưng đỡ hơn nhiều người. Tui lại bắn chim sẻ, vịt trời như hồi nhỏ. Tiếp tục bắt chuột đồng, bắt cá lóc hay cá trê dưới ruộng làm khô lén để dành cho những ngày mưa gió. Hai năm sau Thắm cho gia đình tui 1 tin vui là thằng con trai đầu tiên. Rồi năm sau nữa thì thằng thứ hai. Khi miếng ruộng duy nhất của gia đình bị xung công, Tía rầu rĩ sanh bệnh và ra đi năm sau đó. Mất đất trồng trọt, gia đình dọn về Ô Môn năm 1979. Vợ chồng tui làm công làm mướn bất cứ thứ gì ở chợ Ô Môn để kiếm tiền. 

Đã 8 năm từ ngày rời Suối Dây, tui hổng có tin tức gì về Thiếu Úy Đức (TUĐ). Tình cờ năm 1983 khi đi mua bán đồ ở chợ Cái Răng, tui gặp Đại Úy Long (ĐUL) Quận Trưởng năm nào. ĐUL mới được thả về từ trại cải tạo trước đó 6 tháng, và còn đang bị quản chế. Đi đâu cũng phải xin phép và trình diện mỗi tuần. Thấy tình trạng ĐUL thảm quá, tui cho ổng 1 con khô mực và nửa ký gạo dấu trong sách tay. ĐUL nói là có gặp TUĐ trong tại cải tạo mùa thu năm 1977. Khoảng 2 năm sau, nghe nói là TUĐ vượt ngục rồi bị bắn chết ở gần biên giới Lào làm gương cho kẻ khác. ĐUL cũng cho biết là khi được thả, trên đường về ổng nghỉ 1 đêm tại quận lỵ ngày xưa vì không còn xe về Sài Gòn. Quận tiêu điều lắm. Tui hỏi về mấy người ở cuối quận kế bên con sông nhỏ. ĐUL nói là 2 căn nhà đó đã bỏ hoang, xiêu vẹo, không người ở. Nghe làng xóm nói là bà già (má cô Hân) đã chết và chôn trong ngôi mộ nhỏ sau nhà. Đứa con gái (cô Hân) thì biệt tăm. Hình như đã chết trôi vì người ta tìm thấy dép của cổ và cục xà bông ở bờ sông sau nhà. Tui nghe xong cảm thấy choáng váng như bị trúng gió. Hôm đó tui về nhà khóc. Vợ tui hỏi. Tui kể lại sự tình. Tội nghiệp vợ tui. Thắm làm 1 bàn thờ cho TUĐ trên nóc tủ kế bên bàn thờ của Tía và Má, và tối đó cúng 1 chén cháo trắng.

Làm ăn ở chợ Ô Môn khó khăn, gia đình tui mướn 1 miếng đất cách Ô Môn 20 cây số để trồng khoai mì và khoai lang. Tui dậy 2 đứa nhỏ làm bẫy bắt chuột đồng, làm ná bắn chim, ... Vợ chồng tui thì quen cảnh nghèo rồi. Chỉ tội 2 đứa nhỏ thiếu ăn và tương lai mù mịt. Nhiều đêm nóng nực hổng ngủ được, tui cứ nhớ lại những ngày tui ở Suối Dây. Nhớ TUĐ và nhớ cả người đã cứu hai thầy trò. Chỉ biết chắc lưỡi thở dài cho người vắn số.

Sau nhiều kế hoạch kinh tế đảng CS đưa ra đều thất bại, chính quyền thả lỏng và có ý muốn đi theo kinh tế thị trường tự do. Cuộc sống dân nghèo trở nên dễ thở hơn một chút. Gia đình tui bắt đầu nuôi heo để thanh toán số khoai lang ung thúi khi bán hổng hết.
Làm sao tui quên được buồi chiều hôm ấy. Đó là một buổi chiều đầu tháng Tư năm 1995, khi tui đang làm rẫy, ngăn nước không cho vào đất trồng trọt quá nhiều, thì Thắm ra rẫy gọi về nhà có khách. Khi về nhà thì thấy 2 người ăn mặc sang trọng có vẻ đàng hoàng. Tui không nhận ra người đàn bà, nhưng người đàn ông thì nhìn quen lắm. Sau vài giây ngỡ ngàng, người đàn ông nhìn tui và nói một cách ngậm ngùi trong nước mắt:

- Chú Sơn có nhận ra tôi không? ... anh Đức đây?
- "Hả, ... ôi trời, Thiếu Úy Đức, ... ông Phó!..."; Tui trả lời khi nước mắt bắt đầu ứa ra vì quá mừng.
- Đừng gọi như vậy. Gọi là anh hay anh Đức vì chú là em của tôi mà.
- Dạ, dạ ... ông Phó, à quên, ... anh Đức. Tưởng là anh đã ... Gia đình tui làm bàn thờ cho anh mười mấy năm nay.
- Thắm ơi, đây là anh Đức. Thằng Tân, thằng Hoàng, ra chào Bác Đức.
- Còn đây là bà xã của anh.
- "Dạ, chào chị. Dạ, chị tên gì?"; Tui hỏi.
- "Chú nhìn kỹ xem ai ? Cô Hân ở Suối Dây đó"; TUĐ trả lời.

Tui lặng cả người và đứng chết trân. Người ơn của tui bằng xương bằng thịt ngay trước mặt. Thời gian như dừng lại. Nước mắt bắt đầu chảy tràn trên mặt, và giọng nói lạc đi:

- Tui hổng có dè có ngày này... 20 năm rồi. Cám ơn anh chị ... đã nhớ đến tui... Tui mừng quá. Sao ... tới bây giờ anh chị mới tới ? Tui có nằm mơ hông ?
TUĐ lau nước mắt, rồi chậm rãi nói:
- Chuyện dài lắm. Sẽ kể sau. Bây giờ anh chị mời cả nhà đi ăn mừng. Tốn cả tuần đi kiếm cô chú đó. 

* * *
Nghe anh kể lại chuyện trốn khỏi trại tù năm 1979, và bao nhiêu lần vượt biên hụt, tui nể quá. Chuyện chị giả chết trôi để trốn khỏi Suối Dây và những lần vượt biên bị bắt thì cũng ly kỳ quá trời. Rồi đến khúc hai người gặp lại nhau bên Mỹ, tui mừng như là chuyện của mình. Tui hãnh diện có được ông anh và bà chị dâu giỏi như vậy.

Mấy bữa sau, vợ chồng anh mướn xe đưa gia đình tui đi thăm Suối Dây. Trên đường về, có ghé Vũng Tàu tắm biển. Thấy thương bà xã và 2 đứa con tui quá. Lần đầu tiên vợ con tui được đi xe hơi, được đi ra khỏi Cần Thơ, được lên Sài Gòn, được đi Suối Dây, được ra tắm biển Vũng Tàu, được đi ăn nhà hàng, được uống nước ngọt cô ca cô la, ... 

Trước khi về Mỹ, tui hổng dè vợ chồng anh lại giúp một số tiền lớn để mua một cửa hàng gần chợ Ô Môn buôn bán nông phẩm cho gia đình tui đỡ cực. Anh chị nói sẽ về thăm thường xuyên hơn.

Tối hôm đó tui thắp nhang cho Tía và Má. Tui thì thầm "Má ơi, Má luôn muốn là con có người anh để che chở cho con. Má ơi, điều Má muốn đã xẩy ra. Con cám ơn Tía và Má"

Như tui đã nói, cuôc đời tui như có sự an bài hay sắp xếp. Vào sanh ra tử bao lần, mà hổng sao. Duyên phận củng thẳng tắp. Khúc sau cuộc đời, cực thiệt, nhưng lại có thêm người anh nuôi và chị dâu hổ trợ. Bây giờ tui hổng có kỳ vọng nào hơn là sẽ có một ngày cái nhóm mắc dịch, khốn nạn, vô thần, vô đạo đức này tan rã cho tui nhờ và cho người dân bớt khổ. 

Ngày đó chắc là phẻ re, há?



Nguyễn Vô Danh
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23678
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Mar/2021 lúc 3:28pm

MỘT CHUYỆN TÌNH ĐẪM LỆ THỜI CHINH CHIẾN


(Mời đọc một chuyện tình thời chiến của tác giả từng nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2013. Bác sĩ Vĩnh Chánh, tốt nghiệp Y Khoa Huế năm 1973, thời chiến tranh, là Y Sĩ Trưởng binh chủng Nhảy Dù cấp tiểu đoàn và gắn bó với đơn vị chiến đấu cho tới giờ phút cuối tại vành đai Sàigon ngày 30 tháng Tư. Bác sĩ Vĩnh Chánh hiện là cư dân Mission Viejo, hội viên hội Ái hữu Y Khoa Huế hải ngoại.)

CHUYỆN VỀ CHỊ KIM CHI :

Mùi thơm khăn áo ngây ngất đi vào cổ tích tôi (1)

Chị biết anh vì hai gia đình ở chung xóm gần chợ Gia Định. Chị cũng là bạn cùng lứa với em anh từ trường tiểu học cho đến lúc vào trường Trưng Vương. Anh học Khoa Học Sài Gòn. Thỉnh thoảng anh dừng chân ở quán nhà chị ở đầu ngõ, chào hỏi vu vơ, nói đôi ba câu chuyện. Kêu chị là bé dù anh chỉ hơn chị chừng 5 tuổi. Vậy mà chị lại thích, chị có cảm giác mình thật bé bỏng khi đứng bên cạnh anh thật cao lớn, cần sự che chở của anh.

Năm lên lớp 11, chị thấy anh vắng mặt một thời gian ngắn, qua nhỏ bạn biết anh động viên vào Thủ Đức. Rồi anh lại hiên ngang xuất hiện sau đó với bộ đồ hoa dù và nón Beret đỏ. Cuộc tình bắt đầu, với người yêu là một Thiên Thần Mũ Đỏ.

Ở tuổi 17, chị lớn dần trong tình yêu trầm lặng của anh, trở thành một thiếu nữ chín chắn, trong khi đó đời sống nội tâm cùng sự lo sợ triền miên đôi khi khiến chị cảm thấy lạc lõng giữa chúng bạn ở lứa tuổi ô mai.

Niên học 1974-1975, chị bước vào năm thứ nhất Văn Khoa. Anh vẫn miệt mài với đơn vị ở những chiến trường xa. Những lá thư yêu thương anh gửi chị chỉ ghi cái địa chỉ KBC 4794 lạ hoắc.

Cuối tháng Hai 1975, anh bất ngờ có mấy ngày về phép. Đêm trước ngày trở lại đơn vị, anh đưa chị đi ăn chè góc Bạch Đằng/ Nguyễn Huệ. Ngồi quán chè, cùng nhìn ra sông Saigon, chị bỗng nghe anh nói bằng một giọng nhẹ nhàng, “Ngày mai anh trở ra lại mặt trận. Em ở nhà bình an. Chuyến đi này không biết bao giờ anh về thăm em được. Tình hình rất căng. Đôi khi anh nghĩ may ra anh bị thương thì chúng mình mới có cơ hội để thành vợ chồng!”

Lẫn trong tiếng nói, chị tưởng như bên tai mình có hơi thở của anh. Vị ngọt của muỗng chè bỗng trở thành vô vị nơi cuối lưỡi. Chị quay lại nhìn anh. Hai bàn tay tìm nhau. Không, không thể chờ đến khi anh bị thương… Nhận ra bàn tay mình run rẩy trong tay anh, chị nói “Thôi mình về đi anh”.

Khi lặng lẽ rời quán chè bờ sông, anh không cầm tay chị. Chắc anh không hiểu sao buổi hẹn hò bỗng bị chị cắt ngắn, đòi về. Nhìn vẻ thất vọng một cách tội nghiệp trên khuôn mặt sạm đen của anh, chị thấy thương anh chi lạ. Phải cố gắng lắm chị mới có thể nói với anh bằng giọng bình tĩnh: “Mình về nhà trọ của anh đi, em có chuyện muốn nói.”

Ngay khi cánh cửa phòng riêng của anh trong nhà trọ vừa khép lại, chị đứng trước anh, nhìn anh, rồi nói như sợ không còn cơ hội nào khác “Đêm nay em sẽ ở lại đây. Em muốn chúng mình thuộc về nhau đêm nay. Em không muốn chờ đợi thêm nữa.”

Không chờ cho anh kịp phản ứng, chị rơi mình vào vbòng tay anh, mặt đầm đìa nước mắt. Cả hai xớ rớ ngồi cạnh giường, luống cuống đến tội nghiệp. Bên cho, với tê tái khắc ghi. Bên nhận, trong nghiệt ngã đắn đo. Sau đó, cả hai dựa sát vào nhau; anh trầm tư ôm vai chị, che chở trìu mến, chị ngã đầu trên tay anh, nhìn lên trần nhà, mủi lòng, mặc cho nước mắt tự nhiên tuôn trào.

Thương anh, thương mình, lo sợ cho số kiếp con người mong manh. Chị biết chị vừa đi ngược sự giáo dục gia đình, nhưng chị không cảm thấy nuối tiếc, vì chị nhận rõ một khi tình yêu và hy sinh để trở thành một thì không có gì tuyệt đẹp hơn là giờ phút bên nhau trong hiện tại. Y như câu truyện “Một Thời Để Yêu Một Thời Để Chết.”

“Này em khăn áo vẫn còn nếp nhầu
Lược gương đâu có nỡ nào quên bóng hình
Này em, chăn gối vẫn còn ấm nồng
Chỉ người năm cũ như bóng trăng gầy liệm cuối sông…” (1)

Đêm đầu tiên và cuối cùng có nhau, chị biết đơn vị dù của anh đang hành quân vùng cao nguyên.
Ngày 10 tháng Ba năm 1975, Ban Mê Thuột thất thủ. Sau đó có tin Pleiku, Kontum bị rút bỏ.
Từ vùng hành quân, anh nhờ lính hậu cứ nhắn tin cho chị biết. Và đó là lần cuối cùng chị được tin anh.
Cuối tháng 3, chị được biết TĐ của anh cùng chung số phận với Lữ Đoàn 3 ND, đánh cho đến người cuối cùng ở Khánh Dương, rồi phân tán mỏng. Trên đường rút quân, đơn vị đã không tìm thấy anh. Mất tích? Tử thương? Bị bắt làm tù binh? Quả là tội nghiệp cho một thiếu nữ như chị, với chỉ danh nghĩa người yêu của lính, xuôi ngược chạy tìm tin tức của anh, từ hậu cứ TĐ đến Bộ Tư Lệnh SĐ, hoặc ủ rũ chờ đợi, nghe ngóng tin tức ở nhà anh.
Ngày 29 tháng 4, người anh cả của chị, một sĩ quan HQ, chạy nhanh về nhà, hối thúc cha mẹ, thằng em trai và chị ra bến Bạch Đằng, lên thuyền rời nước. Như một người máy trôi theo dòng đời, chị ra đi mà lòng quặn đau, bất định, biết rằng từ đây mọi người vĩnh viễn mất nước. Và chị, vĩnh viễn xa rời và mất luôn cả anh.
Ngày đến trại Fort Chaffee, tiểu bang Arkansas, chị mới biết mình có thai được trên 2 tháng. Trong khi cả gia đình chị bấn loạn, cá nhân chị vừa lo lắng vừa hân hoan với mầm sống của anh trong người. Qua bao nhiêu gian nan, cam go chịu khổ chịu cực, chịu cảnh gái chưa chồng nhưng có con, chị can đảm vượt thoát mọi thử thách, mọi e dè để cuối cùng định cư ở Fort Polk, tiểu bang Louisiana với một người chồng Mỹ vào năm 1984. Chị cố tạo cho mình một vườn hoa trái nơi chị nhận làm quê hương thứ hai, nhưng đa số là trái ngang trái trắc trở, trái sầu trái đắng, trái chua trái cay, là tiềm ẩn từ bao thôi thúc vương vấn, bao bùi ngùi luyến thương của mất nhau, hoài nhau không thể chối từ mà cũng chẳng thể vứt bỏ vì đó là những bám víu giúp chị can đảm sinh tồn.
Gần cuối thập niên 80, tôi tình cờ gặp chị trong một phiên trực tại phòng cấp cứu của Bệnh Viện Baynes Jones Army Community tại Fort Polk, tiểu bang Louisiana, nơi vốn là bản doanh của sư đoàn 5 cơ giới Hoa Kỳ đã có mặt tại chiến trường VN. Con gái chị, với khuôn mặt Việt Nam, khoảng 13-14 tuổi, té xe đạp, không bị thương tích nặng ngoại trừ vài vết thương trầy trụa ngoài da. Nhìn thấy tôi là một bác sĩ người Việt, chị mừng rỡ bắt chuyện. Kể từ đó, thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau đôi lần, cũng tại bệnh viện quân đội Mỹ, có luôn cả người chồng Mỹ của chị là một thiếu tá hồi hưu từng tham chiến 2 lần tại Việt Nam.
Vài năm sau chồng chị qua đời vì bệnh tim, chị trở thành bệnh nhân của tôi tại phòng mạch tư. Đó cũng là thời gian tôi khám phá chị bị ung thư vú và chuyển chị qua bác sĩ chuyên khoa. Trong một lần nói chuyện dài hơn, chị mở lời tâm sự về chuyện tình của chị trong chiến tranh VN, về người cha của con gái chị. Chị cho biết chị cầu nguyện hàng ngày hầu mong biết tin tức về anh, sống chết như thế nào sau trận đánh ở Khánh Dương, nhưng không mấy hy vọng cũng như đã từng cố gắng tìm kiếm qua các cộng đồng người Việt tỵ nạn trong bao năm qua. Không lâu sau đó, chị rời vùng Fort Polk trở về sinh sống với cha mẹ chị ở Springdale, tiểu bang Arkansas.

Chào bác sĩ. BS. còn nhớ tôi không?? Tôi là Kim Tiên đây…Vâng, đúng rồi đó. Vâng. Cám ơn BS. Bố mẹ tôi bình yên… Con gái tôi vừa vào năm thứ nhất Đại học cộng đồng tại đây. Dạ cám ơn BS. Chắc cháu sẽ vui khi biết BS vẫn còn nhớ đến cháu và gởi lời thăm… Thưa BS. hiện tại ung thư của tôi ở giai đoạn cuối, các bác sĩ bên này cho biết tôi còn sống được khoảng 6 tháng nữa… Dạ. Cám ơn BS… Dạ không sao! Tôi muốn báo một tin rất vui cho BS. biết là tôi vừa tìm được tin tức của cha con gái của tôi rồi… Cám ơn BS chung vui với chúng tôi. Vâng, anh ấy vẫn còn sống tại Việt Nam… Dạ, tôi may mắn tìm ra được em gái của anh, cũng qua Mỹ với chồng theo chương trình H.O cuối năm 1991. Nhờ trời thôi BS ạ…Dạ, qua chương trình Nhịp Cầu Thân Yêu của đài Little Sài Gòn loan báo… Thưa BS., chính tôi cũng không biết được tình trạng của anh ra sao! Em gái của anh nhất định không chịu nói nhiều. Chỉ cho địa chỉ một người trung gian… Nên tôi quyết định về VN một chuyến, trước là để thăm mộ bên nội ngoại của tôi, sau sẽ tìm đến thăm anh… Dạ, tôi cùng đi với một người bạn thân quen trong nhà thờ, tôi không thể chờ con gái tôi cùng đi chung vì cháu rất bận học, mà tôi thì không còn bao nhiêu thì giờ nữa… Dạ có gì tôi sẽ cho BS biết sau… Cám ơn BS. Tôi sẽ cố gắng giữ gìn sức khỏe trong chuyến đi.

Gần một tháng sau, chị gọi điện thoại cho tôi, nói nhanh giữa những cơn thở nặng và xúc động. Câu chuyện nhiều lúc bị ngắt khoảng bởi những im lặng và tiếng sụt sùi.

“Sài Gòn là đây sao em? Đường không còn lối người chen chân.
Sài Gòn là đây sao em? Lạ sao giọng nói người không quen!
Biết mấy tâm sự đành lãng quên. Xôn xao kỷ niệm lạc lối tìm…” (2)
Sau nhiều ngày bận rộn đi thăm bà con gần xa và viếng mộ đại gia đình ở Thủ Đức, chị mệt mỏi trở về Sài Gòn, ngỡ ngàng bước cô đơn giữa lòng phố đầy người.
Ngày rời Sài Gòn với mảnh giấy ghi địa chỉ của anh do một người bà con với em của anh cho, chị đi xe khách đến Ninh Hòa. Từ bến xe, chiếc honda thồ chở chị đi tiếp trên con đường đất đến một làng khá xa thị xã. Đường về lối mới sao chật hẹp thu nhỏ, hoàn toàn xa lạ trong tâm trí, không một hương thơm vương vấn. Không một tiếng gọi quen thuộc. Không một câu hò ạ ơ. Và trời cũng chẳng mưa để làm ướt lòng người trở về. Ngược lại trời đổ nắng đến hoa cả mắt, nóng cháy cả người kèm theo bụi đường đỏ làm chị ngột ngạt giữa bao nhung nhớ chất chứa màu kỷ niệm của thuở tình tự.
Sau vài lần ngưng dọc đường hỏi thêm chi tiết, xe ngừng trước một căn nhà nhỏ xơ xác, tội nghiệp với mái tôn đổi màu theo thời gian, có vài bụi chuối xung quanh cùng hàng cây dâm bụt phía trước. Không chần chờ, chị bước vội vào nhà. Đập ngay vào mắt là một thân hình cao, gầy gò ngồi trên một sạp tre, lưng xoay ngược hướng chị đi vào, bên cạnh là một cặp nạng. Chị ngập ngừng lên tiếng, kêu nhẹ tên anh. Thân hình ấy quay nhanh về hướng chị, cùng lúc quờ quạng chụp tìm đôi nạng gỗ. Trước mắt chị là một hình hài với chân phải cụt lên tận đầu gối, áo quần xốc xếch, tóc tai bung xung. Chị bật khóc chạy đến gần, trong một thoáng kịp nhìn thấy 2 vũng mắt lõm sâu không có tròng mắt. Chị đột nhiên khuỵu người xuống trên sàn đất, như thể toàn sức lực dành cho chuyến đi bỗng cạn kiệt. Cùng lúc ấy, bóng một người đàn bà đi nhanh từ bếp nâng chị dậy.
Anh bị thương nặng ở chân trên đường rút quân, cố gắng lết xa khỏi trận chiến và ẩn núp trong bụi rậm. Ngày hôm sau, địch tìm thấy anh và bắt anh làm tù binh. Anh nghĩ vết thương ở chân phải có thể lành nếu được chữa trị với trụ sinh và đăng bột, nhưng tên y sĩ trại tù chọn cách dễ là tháo khớp gối. Sau đó anh còn bị đạn nổ trong khi nhóm lửa rừng sưởi ấm ở trại tận bên Cao Miên, khiến cả 2 con mắt của anh bị hư nặng tuy vẫn nhìn thấy rất mờ. Vì vậy anh được thả cho rời trại sớm. Trên đường khổ sở, một mình thất thểu về lại làng phố, anh bỗng gặp một người đàn bà chưa một lần quen biết, hiện tại là vợ của anh, đem anh về nhà săn sóc. Chồng trước của bà là một người lính Địa Phương Quân tử trận 2 năm trước ngày mất nước. Trong vài năm sau đó, đôi mắt anh làm độc kinh niên nên bác sĩ đành phải múc bỏ cả hai bên.
Biết tính của anh chỉ muốn nhắc đến những giai đoạn quan trọng của trận cuối và trong thời gian khi còn là tù binh, chị không thắc mắc hỏi thêm, cũng chẳng cắt ngang cuộc độc thoại của anh bằng một giọng nói trầm tĩnh của chấp nhận số phận đã an bài, của một cam chịu không lối thoát. Chị có cảm tưởng anh chỉ thổ lộ lần duy nhất này rồi sẽ không bao giờ nhắc lại, như chôn sâu vĩnh viễn nỗi oan khiên vào bóng tối đời anh. Đời anh là một nỗi buồn khôn nguôi kết trái sầu tủi từ thuở anh trở thành kẻ chiến bại và phế nhân. Anh cố tình làm ra vẻ thản nhiên như không hề muốn chị phải đau đớn, dày vò tự trách số phận quá nghiệt ngã, cùng khốn, lỡ làng!

“Trách chi người ai lỗi ai
Trách chi người mi ướt cay
Trách chi người thôi đã xa nhau kiếp này…
Mùi thơm khăn áo ngây ngất đi vào cổ tích tôi” (1)

Chị yên lặng ngồi nghe, tiếng được tiếng không, tê tái cõi lòng, nhớ lại năm xưa có lần anh thì thầm bên chị, “may ra anh bị thương thì chúng mình mới có thể trở thành vợ chồng.” Thế nhưng tuyệt đối chưa một lần chị nghĩ đến anh có thể bị thương trong cuối cuộc chiến, và cũng chưa hề nghĩ anh đã phải trải qua những giai đoạn khổ sở cùng cực như vậy. Từ một nam nhân oai hùng ngày xưa, nay anh là một phế nhân với những vết thương tàn phá nặng nề trên cơ thể. Đôi mắt ngày xưa, nơi chị thường hay nhìn vào để tìm hình ảnh của tình yêu và sức sống của tuổi trẻ mình, nay chỉ là 2 mí mắt nhíp gần nhau nằm sâu trong một khoảng màu trắng ở giữa. Giờ đây chị mới hiểu vì sao em gái của anh tránh không cho chị biết nhiều về anh. Chị bỗng cảm thấy gần gũi với vợ của anh, thầm cám ơn rằng ơn Trên sắp đặt cho anh tìm được ánh sáng dịu hiền giữa đường qua sự săn sóc, cứu vớt, nuôi nấng, bao bọc, che chở, yêu thương của người vợ này. Như một bà tiên hiện ra nguyên vẹn để dẫn dắt, cưu mang, nâng đỡ chàng Thiên Thần Mũ Đỏ của chị trong sa cơ thất thế, khi cánh dù bị chà đạp, tan tác trong cuộc đổi đời.
Chiều hôm ấy, chị không từ chối khi vợ anh mời chị ở qua đêm tại đây, cả hai cùng nhau tâm sự dưới một ngọn đèn vàng úa duy nhất của nhà, nhất là sau khi nghe chị cho biết anh từng là người yêu đầu đời của chị. Càng về khuya, chuyện trò càng cởi mở hơn, bấy giờ chị mới từ tốn cho vợ chồng anh biết là chị có thai với anh ngay trong đêm trước khi anh rời Sài Gòn về lại đơn vị cuối tháng 2, 1975. Con gái của anh sinh vào cuối tháng 11, 1975; chị đặt tên cho con là Kim Ngân, ghép từ nửa tên của chị và nửa tên của anh, nay con gái được 19 tuổi và đang học đại học gần nhà. Vợ anh liên tục nắm chặt tay chị và kéo chị ngồi sát vào mình, một cử chỉ che chở, chia xẻ, thông cảm và đầy thân thiện trong suốt câu chuyện. Anh hoàn toàn im lặng, hai tay ôm đầu mình. Thỉnh thoảng 2 vai có rung nhẹ. Mãi sau khi chị dứt, anh mới nhẹ nhàng hỏi là con gái có biết câu chuyện giữa anh và chị, và biết anh là cha không. Con gái anh, chị trả lời, chỉ biết cha nó là một sĩ quan Nhảy Dù, tử trận và mất xác khi cuộc chiến VN gần đến hồi kết thúc. Ngay cả mục đích đi tìm anh trong chuyến về VN của chị, chị cũng hoàn toàn giấu con gái.
Chỉ một điều duy nhất chị không tiết lộ cho anh và vợ anh biết là chị đang bị ung thư vào giai đoạn cuối.
Tối hôm đó, sau khi đọc kinh cầu nguyện cám ơn, chị có một giấc ngủ thật an lành dù lạ nhà, một phần có lẽ vì đi đường quá mệt, phần kia vì chị đã đạt được mục tiêu chính của chuyến đi. Sau bao nhiêu cầu xin, bao nhiêu thấp thỏm đợi chờ mong mỏi tin tức, nguyện vọng ấp ủ từ bao năm qua nay được đáp ứng và trở thành sự thật. Trước đây, bao thương nhớ, bao hình ảnh về anh và sự mất anh trong đời, những suy sụp tinh thần của một người đàn bà di tản mang thai, những oan trái mòn mỏi trong xót xa; những gian khó thử thách trong đời sống mới, những gượng cười trong lệ sầu; những năm nuôi dạy con một mình; những cô đơn tinh thần khi sống bên cạnh người chồng Mỹ với bao dị biệt văn hóa, ngôn từ; những mệt mỏi thể xác qua bao lần xạ trị, hóa trị, thuốc cũ thuốc mới, những sợi tóc xanh phai màu rơi rụng; những đau đớn chán nản khi căn bệnh trở nặng; những lo âu suy tính về tương lai con gái rồi đây sẽ mồ côi mẹ… tất cả đã tạo cho chị một tình trạng trầm cảm nặng nề. Nhưng giờ đây, chị vô cùng mãn nguyện tìm thấy anh, nhìn thấy anh bằng xương bằng thịt, biết anh đã sống sót qua chiến tranh, dù bị tàn phế trầm trọng nhưng bù lại anh có một người bạn đường luôn bên cạnh, săn sóc yêu thương anh. Hơn nữa anh còn có đứa con gái và đứa con trai
Sáng hôm sau, đứa con trai của anh, nhỏ hơn con của chị gần 3 tuổi, ở nhà ông bà ngoại cạnh trường trung học huyện, về kịp chào chị trước khi chị lên đường. Chị cũng đã kín đáo trao tặng tất cả số tiền lớn còn lại cho vợ anh đêm qua. Chị có hứa với vợ chồng anh là chị sẽ kể cho con gái của anh tất cả câu chuyện giữa anh và chị, không một giấu diếm, luôn cả thương tật của anh và hoàn cảnh hiện tại của vợ chồng anh. Để trả lời câu hỏi của vợ anh, bằng một giọng mong manh sâu tận đáy lòng, chị run run xúc động cho biết sẽ trở về lại thăm vợ chồng anh nếu sức khỏe cho phép. Sau khi chào tạm biệt vợ chồng anh và chúc nhau an lành, hai người đàn bà ôm xiết chặt nhau, mắt chớm lệ, gần gũi trong cảm thông trân quý. Anh vẫn đứng yên bên khung cửa trước nhà, chan hòa trong ánh sáng ấm ban mai. Chị vội bước nhanh đến chiếc xe thồ đang đợi. Xe rồ máy chở chị đi. Không nhìn lui, bình an trong lòng, chị ngước nhìn trời. Một màu xanh tuyệt đẹp. Không mây.

“Sài Gòn ngày xưa đâu em? Mộng mơ ngày tháng tuổi hoa niên.
Sài Gòn ngày xưa đâu em? Từng con đường phố mình thân quen
Dĩ vãng đâu về, buồn ngẩn ngơ. Bao nhiêu mong đợi lạc bến chờ” (2)

Chị Kim Tiên đã không về lại VN lần thứ hai. Chị chết trong bình an vào giữa tháng 5, 1994. Cháu Kim Ngân điện thoại cho tôi biết, theo lời yêu cầu của Mẹ, cháu đang sửa soạn về thăm cha trong mùa hè này, mang theo chiếc xe lăn cũ của Mẹ cùng một số tiền lớn từ bảo hiểm nhân thọ của mẹ để lại cho cha.

Ước mong cháu Kim Ngân sẽ nuôi nấng và gìn giữ chuyện cổ tích của cha và mẹ mình.


Vĩnh Chánh

(1): “Đã Một Lần”, nhạc của Y Sĩ Nhảy Dù Phạm Gia Cổn. Lời thơ của Th. Tá TQLC Định Nguyên
https://youtu.be/312lnbyEYV8

(2): “Sài Gòn Thủa Đó Làm Sao Quên”, nhạc và lời của Y Sĩ Không Quân Lê Khắc Bình
https://youtu.be/-shwXlcVuNY

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23678
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 26/Mar/2021 lúc 9:58am
Thủ%20Khoa%20Huân%20-%20Thủ%20Khoa%20Huân
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23678
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 27/Mar/2021 lúc 7:22am

Có Những Người Anh - Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa   <<<<<


Thép%20Súng:%20Thiết%20Giáp%20tại%20mặt%20trận%20Tây%20Bắc%20Xuân%20Lộc,%20tháng%204/1975


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 27/Mar/2021 lúc 7:22am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23678
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 27/Mar/2021 lúc 9:18am
Tháng%20Tư%20Đen%20và%20Quân-Cán-Chính%20Việt%20Nam%20Cộng%20Hòa%20qua%20Thơ%20Tranh%20%28Lê%20Ngọc%20%20Châu%29%20|%20Thanh%20Thúy
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23678
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 29/Mar/2021 lúc 9:50am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23678
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 29/Mar/2021 lúc 10:07am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23678
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 30/Mar/2021 lúc 8:39am
SĂN ĐUỔI

Trăng%20thu

Trăng vàng úa trăng treo trên Rừng Sát.
Từng tốp người bám sát mé bờ sông.
Dưới rặng bần con nuớc trải mênh mông.
Chờ “cá lớn” (1) bốc nhanh ra ngoài biển.

Đêm%20Chôn%20Dầu%20Vượt%20Biển%20%28Nhạc%20sĩ%20Châu%20Đình%20An-%20Ca%20sĩ%20Như%20Quỳnh%29%20—%20Bức%20Tranh%20%20Vân%20Cẩu

Đêm kinh dị, đêm chập chờn bí hiểm.
Tiếng thầm thì sợ tắt ngúm đầu môi.
Đàn muỗi rừng tìm hút máu đào tươi.
Từng tiếng vỗ nhách lên như tiếng ếch.

4062%202%20SanDuoiDVB

Bầy con nít mệt phờ không buồn khóc.
Người mẹ quỳ nước sấp tới bờ lưng.
Trời lặng yên, kinh hãi đến vô cùng.
Vẫn gìn giữ đứa con không thấm ướt.

100+%20hình%20ảnh%20đẹp%20về%20bầu%20trời%20đêm%20-%20hinhanhsieudep.net

Sao rơi rụng bầu trời thêm sáng nhạt.
Tia nắng hồng chợt hiện ở phương đông.
Suốt đêm qua con nước chảy ròng ròng.
Chân dẫm đạp lên bãi bủn nhớp nhúa.

Vì%20sao%20bầu%20trời%20ban%20đêm%20lại%20có%20màu%20đen?%20-%20Duy%20Hữu

Người co lạnh run lên như bầy thú.
Mắt phạc phờ kinh hãi hỏi thầm nhau.
Này “taxi” này hướng đạo ở đâu?
Sao vắng bặt không còn nhìn thấy nữa?

The%20Boat%20People:%20Vietnamese%20Refugees%20in%20Houston%20|%20by%20Tiffany%20Wang%20|%20Medium

Bầy con nít ré lên thèm khát sữa.
Rồi lặng im nghe tiếng nổ ầm ầm.
Tiếng thét gào, tiếng đạn réo, tiếng chân.
Người kinh hoảng túa ra tìm lẽ sống.

4062%203%20SanDuoiDVB

Hãy đứng lại bọn vượt biên phản động!
Nếu không thì bọn ông bắn chết tươi!
Bầy công an hô the thé tiếng người.
Nhưng diện mạo hung hăng hơn quỷ dữ!


Thuyền%20nhân%20Miến%20—%20Bài%20Mới%20—%20Bức%20Tranh%20Vân%20Cẩu

Người mẹ té bổ nhào trên vũng nước.
Thằng cu con ngoi ngóp dưới bùn sâu.
Người khóc than, người quỳ gối rập đầu.
Van vái lậy bọn hung thần tha mạng.


Tình%20Yêu,%20Ngục%20Tù,%20Vượt%20Biển%20-%20Bình%20Luận%20-%20Việt%20Báo%20Văn%20Học%20Nghệ%20Thuật

Cuộc săn đuổi diễn ra trong chớp nhoáng.
Người bắt về không biết nhốt ở đâu.
Trại vượt biên hay lao cải rừng sâu?
Hay bắn bỏ làm gương cho kẻ khác?

4062%204%20SanDuoiDVB

Kẻ “chạy thuốc” (2) sống về thân ghẻ lác.
Tay dẫn con xơ xác tựa ăn mày.
Hàng xóm nhìn nào dám hỏi han đâu.
Vượt biên đó, lắc đầu le lưỡi tởn!

Đào Văn Bình
(Trích Thiên Sử Thi Của Người Vượt Biển xb năm 2002)
(1) Cá lớn: Chiếc ghe để vượt biên
(2) Hối lộ tiền, vàng bạc


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 30/Mar/2021 lúc 8:49am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 108 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.344 seconds.