![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Chuyện Linh Tinh | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 110 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
![]()
Hải pháo từ Cát Lỡ bắn liên hồi Thục vào cầu Cỏ May ầm ì chận giặc Ngày hăm chín Vũng Tàu sôi máu sắt Đại bác quân thù ì ỏm bắn ra khơi Trước mũi tàu đạn giặc rót loạn lung Các chiến hạm neo xa, lù lù chờ lệnh ![]() Rối loạn, mọi người đổ xô cửa biển Thuyền bè đáo đôn ngổn ngang đi, ở Ba Mươi Tháng Tư mưa sầu nức nỡ Ai khóc cho mình, hay trời khóc quê hương? Bãi biển tang thương uất hờn héo hắt Bao nhiêu cảnh người, ruột thắt từng cơn ![]() Trên máy phóng thanh Minh Lớn đầu hàng Là tiếng dao bầu cứa ngang tấc cổ Cả trời tin yêu một lòng anh dũng Tuổi trẻ kiêu hùng dâng hiến quê cha Nay quê chẳng còn, con buông chí cả Mai con đi rồi ai giữ quê ta? ![]() Chiều Ba Mươi chìm cơn dông tố Cả một đoàn tầu vĩnh quyết chia ly Hạm Đội chưa hề về đông như thế Không đánh quân thù, lại thãm bại ra đi Khu Trục dẫn đầu súng cao hiễn hách Tuần Dương, Hộ Tống, Dương Vận hải uy Giang Pháo, Trợ Chiến, Tuần Duyên, Tiếp Vận Cả một dũng đoàn sức mạnh ai bì Mấy chục con tàu tiến quân đau xót Quê Mẹ không còn, đuổi kẻ ra đi ![]() Mỗi ngày xa quê là một ngày lạc lỏng Mỗi bóng mặt trời là một kiếp khổ sai Mỗi tối hoàng hôn là âm tỳ tủi nhục Mỗi sóng reo đuà là mũi nhọn chởm gai ![]() Ngày Bảy tháng Năm tàu vào Phi phận Con số chiếc tàu sơn cạo, xoá tên Bao nhiêu uy danh nay thành hư ảo Khối sắt vô hồn, thây xác rỗng tênh Còi chào sĩ quan nghe cay đắng nhức Viên chức Hoa Kỳ trình Ủy Nhiệm Thơ Nhận các con tàu vừa thành vô chủ Áo biển trẻn trơ ngày mất bến bờ ![]() Chiều gió mơ màng hàng người im phắc Đứng thẳng boong tàu cứng ngắt, chào tay Nhìn lá cờ vàng lòng đau quặn thắt Còi thổi: 'Hạ kỳ', mọi mắt đều cay Có kẻ nấc lên người kềm nước mắt Nhìn lại bạn bè hận ức bủa vây ![]() Hăm Chín Tháng Tư khăn tang ban phát Tàu có hai xuồng chung thủy đón đưa Lệnh gom quân vĩnh biệt đến giờ Không kéo thuyền lên, mà đành đoạn cắt Thủy thủ chặt giây, hồn tim se thắt Lià bỏ con thuyền dứt bến bờ thương Mồng Bảy tháng Năm ta mang đời tị nạn Từ đó sâu hằn dấu tích quê hương CÁT BIỂN Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 30/Mar/2021 lúc 1:29pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
Thằng Nhỏ Cầm Cái Lon... Con Thương Phế Binh VNCH Thằng bé lắc đầu lia lịa và nói không uống. Tôi hỏi nó làm gì ngày nào cũng ra đây? và hiện sống với ai? Thằng bé như đoán được rằng: tôi chỉ là người khách ghiền cà phê nặng nên hàng ngày đóng đô ở đây nên nó cũng trả lời nhanh nhẹn rằng: - “Con sống với ba má con, Ba con đi làm xa còn Má con đi phụ buôn bán ở ngoài chợ…” Tôi hỏi tiếp: - “Còn con có đi học không ?” Thằng bé nói: - “Con không có đi học… con ở nhà phụ với má nuôi heo…”… Đó là lý do để nói lên sự hiện diện hằng ngày của nó nơi quán ăn nầy. Nghe thằng bé nói như thế, tôi nói với chị chủ quán ăn giúp cho nó lấy những cơm và thức ăn thừa, và cũng từ đó nó không còn đứng lúp ló ngoài cửa quán nữa. Và nhờ tánh tình hiền hậu thật thà chị chủ quán cho nó vô phụ dọn bàn đề lấy thức ăn dư mang về và cho nó ăn uống để phụ việc. Từ đó tôi và nó gần gũi nhau hơn và thân với nhau lắm. Có lần thằng bé hỏi tôi: - “Chú làm nghề gì vậy hả chú?” Tôi chỉ trả lời ngắn gọn là ” Chú đang làm thinh”. Đúng vậy mới cải tạo về mà, vợ con thì đã theo bên ngoại vượt biển hết rồi, nghe đâu đã định cư bên Úc, nay về ở với mẹ già ngày 1 buổi cà phê hai bữa cơm độn qua ngày. Thời gian ngột ngạt chậm chạp trôi qua, may mắn vợ chồng tôi đã bắt liên lạc được với nhau. Thế là những bữa cơm không còn ăn độn khoai củ hay bo bo nữa nhưng vẫn quen cữ sáng cà phê quán gần nhà. Không biết chị chủ quán có bỏ bùa mê hay tôi ghiền chỗ ngồi mà không bữa nào vắng tôi. Một hôm, tôi đề nghị theo thằng bé về nhà nó chơi cho biết vì nó nói ở cũng gần không xa lắm. Thấy nó do dự và tỏ vẻ sợ sệt, tôi biết ngay nó đang dấu diếm điều gì. Thương nó lắm, tôi dúi tiền cho nó hoài. Mấy hôm sau tôi lẳng lặng đi theo nó khi nó mang cơm và thức ăn dư về nhà buổi trưa. Khi thấy nó lủi vô một cái chòi nhỏ xíu thì tôi thật sự không ngờ. Đứng dưới gốc cây Gòn cách nhà nó không xa tôi thầm nghĩ, nhà chút xíu như vậy gia đình 3 người ở thì chỗ đâu mà nuôi heo. Tôi đang đứng suy nghĩ đốt cũng hết mấy điếu thuốc thì thằng nhỏ lục tục xách lon xách nồi đi ra quán để thu dọn thức ăn buổi chiều. Đợi thằng bé đi khuất tôi lò mò đến nơi mà hồi nẫy nó vào. Đến đó mới nhìn rõ thì thật ra đâu có phải là nhà, một lõm trống được che dựng lên bằng những phế liệu đủ loại muốn chui vào phải khom mọp xuống. Nghe thấy có tiếng chân dừng lại, có tiếng đàn bà vọng ra hỏi. Tôi trả lời là đi kiếm thằng Tuất, thì nghe giọng đàn ông cho biết nó vừa đi khỏi rồi, và hỏi tôi là ai, mời tôi vào…. Vừa khom người chui vào tôi mới thật sự không ngờ những gì hiển hiện trước mắt tôi. Người đàn ông hốc hác cụt hai giò tuổi cũng trạc tôi nhưng trông yếu đuối, lam lũ và khắc khổ lắm. Một người đàn bà bệnh hoạn xác xơ cả hai đang ăn những thức ăn thừa mà thằng bé vừa mới đem về. Vừa bàng hoàng, vừa cảm động vừa xót xa, nước mắt tôi bất chợt tuôn rơi mặc dù tôi cố nén… Từ đó, tôi hiểu rõ về người phế binh sức tàn lực kiệt sống bên người vợ thủy chung tảo tần nuôi chồng bao năm nay giờ mang bịnh ác tính nặng nề thật đau xót. Tôi móc hết tiền trong túi biếu tặng và cáo lui. Về đến nhà tôi vẫn mãi ám ảnh hoàn cảnh bi thương của gia đình thằng bé mà tôi bỏ cơm nguyên cả ngày luôn. Sáng hôm sau ra uống cà phê, thằng bé gặp tôi nó lấm lét không dám nhìn tôi vì nó đã biết trưa hôm qua tôi có tới nhà nó. Nó thì tỏ vẻ sợ tôi, nhưng tôi thực sự vừa thương vừa nể phục nó nhiều lắm. Tôi kêu nó lại và nói nhỏ với nó tại sao không cho tôi biết. Tội nghiệp nó cúi đầu im lặng làm lòng tôi thêm nỗi xót xa. Có khách kêu trả tiền, như có cơ hội né tránh tôi nó chạy đi dọn bàn và tiếp tục công việc thu dọn thức ăn. Hèn gì sau này nó để thức ăn dư phân loại đàng hoàng lắm. Tội nghiệp hoàn cảnh của thằng bé mới mấy tuổi đầu mà vất vả nuôi cha mẹ theo khả năng chỉ tới đó. Cha là một phế binh cũ trước 75 cụt hai chân, mẹ thì bị bệnh gan nặng bụng phình trướng to khủng khiếp và cặp chân sưng vù lên đi đứng thật khó khăn, nước da thì vàng mét như nghệ. Thằng bé là lao động chánh trong gia đình, nó có hiếu lắm. Từ đó tôi thường cho tiền đứa bé mua bánh mì cơm gạo về nuôi cha mẹ. Vợ tôi làm thủ tục bảo lãnh tôi sang Úc. Ngày tôi đi tôi đau xót phải để lại hai nỗi buồn đó là để mẹ và em gái lại quê nhà và không còn cơ hội giúp đỡ thằng bé nữa. Sang Úc định cư, tôi sống tại tiểu bang Victoria mấy năm đầu tôi hết sức cơ cực vì phải vật lộn với cuộc sống mới nơi đất mới và đối với tôi tất cả đều mới mẻ và xa lạ quá. Từ ngôn ngữ đến thời tiết đã làm tôi lao đao không ít. Thỉnh thoảng tôi gởi tiền về nuôi mẹ và em gái không quên dặn em gái tôi chuyển cho thằng bé chút ít gọi là chút tình phương xa. Mấy năm sau tôi về thăm gia đình, tôi có ghé tìm thằng bé thì nó không còn lấy thức ăn trong quán đó nữa. Tôi mới kể rõ hoàn cảnh thằng bé cho chị chủ quán biết. Chị chủ quán đôi mắt đỏ hoe trách tôi sao không cho chị biết sớm để chị tìm cách giúp gia đình nó. Tôi chỉ bào chữa rằng tại thằng bé muốn giấu không cho ai biết! Tôi ghé vội qua nhà thằng bé thì mới hay mẹ nó đã qua đời vì căn bệnh ung thư gan. Chỉ còn chèo queo một mình ba nó ở trần nằm một góc trông hết sức thương tâm. Hỏi thăm thì mới biết nó đã xin được việc làm đi phụ hồ kiếm tiền về nuôi cha. Chúa nhật tôi tới tìm thằng bé, chỉ mới có mấy năm mà nó đã cao lớn thành thanh niên rất đẹp trai duy chỉ đen đúa vì phơi nắng để kiếm đồng tiền. Tôi dẫn nó trở ra quán cà phê cũ, thấy nó hơi ái ngại, tôi trấn an là bà chủ quán tốt lắm tại không biết được hoàn cảnh gia đình nó. Ra đến quán ăn chị chủ quán năn nỉ nó về làm với chị, dọn dẹp và bưng thức ăn cho khách nhẹ nhàng hơn đi phụ hồ và chị sẽ trả lương như đang lãnh bên phụ hồ, tối về thức ăn thường bán không hết chị cho đem về nhà dùng khỏi phải mua hay đi chợ. Lần đầu tiên tôi thấy nó khóc, chị chủ quán cũng khóc theo làm tôi phải đứng dậy bỏ ra ngoài để khỏi phải rơi nước mắt vì chịu không nỗi. Thằng Tuất vừa khóc vừa nói: “Sao ai cũng tốt với gia đình con hết đó, nhưng vì con đang làm phụ hồ cho anh Năm, anh ấy cũng tốt lắm giúp đỡ gia dình con nhiều lắm, sáng nào cũng mua cho ba con gói xôi hay bánh mì trước khi tụi con đi làm. Con cũng mang ơn ảnh nhiều nên con không thể nghỉ được, con xin lỗi”. Không biết thằng Tuất nó nói thật hay nó ái ngại khi quay về chỗ mà ngày nào cũng cầm cái lon chầu chực trút đồ ăn dư về nuôi cha mẹ. Phải thông cảm nó, phải hiểu cho nó, phải cho nó có cái hiện tại và tương lai tốt hơn, đẹp hơn ngày trước. Chị chủ quán vừa gạt nước mắt vừa nói “Bất cứ lúc nào con cần đến cô thì con đừng ngại, cho cô biết nhé “… Đời nầy cũng còn có những hoàn cảnh bi đát ít ai biết đến, và cũng có những đứa con xứng đáng như thằng Tuất. Ngày về lại Úc, tôi đến biếu hai cha con nó hai triệu đồng, thấy nó và ba nó mừng lắm tôi cũng vui lây. Không biết phải giúp gia đình nó như thế nào, tôi chụp hình ba nó, photo giấy tờ ba nó đem về Úc gởi cho Hội cứu trợ thương phế binh bị quên lãng trụ sở ở Sydney. Mấy tháng sau nhận được thư ba thằng Tuất viết qua, ông quá vui mừng khi được Hội bên Úc giúp đỡ gởi tiền về, ông cho biết suốt bao nhiêu năm qua lần đầu tiên ông thấy được niềm hạnh phúc khi cuộc đời phế binh của ông còn có người nhớ đến. Không biết ông ấy vui bao nhiêu mà chính tôi cũng hết sức vui mừng khi thực hiện một việc làm đem niềm vui đến cho những người phế binh sống hết sức đói nghèo bên quê mẹ. Tôi xin cảm ơn cả hai: người chiến sĩ vô danh sống trong hẩm hiu và Hội cứu trợ thương phế binh đã thể hiện tình người trong công việc hết sức cao cả này. Minh Tạo |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
![]() |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
Những người lính cũ Hai người phụ nữ chở nhau trên chiếc xe gắn máy đi vào thành nội Huế, dưới cơn mưa đầu tháng 11. Nước ngập ngang xe, người chở xe là một Ma Xơ trẻ, quay đầu lại nói với người ngồi phía sau: - Cô à, mình xuống dắt xe đi bộ, kẻo nước vô trong máy xe, tắt máy bây giờ thì khổ lắm. Cả hai xuống xe, trời tối, mưa trên đầu, nước lụt ngang bắp chân, hai người đàn bà vừa đi vừa tìm số nhà. Ma Xơ, người địa phương, còn trẻ lắm, và tôi đến (hay về) từ một nơi bên kia địa cầu. Ma Xơ chắc đã quen với mưa lũ, và đường phố nên đi nhanh hơn trong khi tôi vừa lạnh vừa dò dẫm trong nước, bước hụt vào một cái ổ gà hay vấp vào vỉa hè, chao đi suýt ngã mấy lần. Cuối cùng chúng tôi cũng tìm được số nhà muốn tìm. Có người đàn bà đang tát nước ra ngoài lối đi. Tôi hỏi bà: - Thưa có phải nhà của ông Hồng không ạ? - Dạ phải, mời bà vào. Bà mở cổng, chúng tôi vào một lối đi dài, bên phải là mặt chính của nhà, bên trái có năm ba bụi cây cao thấp, trời tối quá không nhìn rõ những chiếc lá, bóng tối làm bụi cây trông như những cái dù to màu đen. Bà chủ nhà như được báo trước sẽ có khách, mời khách đi thẳng vào cuối nhà, chỉ tay lên chiếc gác lửng: - Em tôi ở trên đó, bà cứ leo lên. Bà nói xong đi ra, tiếp tục cúi xuống tát nước từ trong nhà ra ngoài đường. Ma Xơ ở bên ngoài trông xe, tôi đứng tần ngần nhìn chiếc cầu thang, rồi rụt rè leo lên những bực gỗ nhỏ. Một người đàn ông đang ngồi trên đó đón tôi bằng khuôn mặt rạng rỡ: - Em có nhận được phôn từ hai hôm nay ở Sài Gòn, nói là sẽ có người ở bên đó đến thăm. (Anh dùng chữ bên đó để chỉ người ở nước ngoài về). Tôi xin lỗi đến trễ một hôm, tôi đã lỡ chuyến máy bay Sài Gòn-Huế hôm trước vì phi trường Phú Bài ngập nước, máy bay không hạ cánh được và chúng tôi mới đến chiều nay. Sau khi lấy phòng ở khách sạn tôi đã may mắn nhờ ngay được một Ma Xơ còn trẻ, nhanh nhẹn tìm nhà hộ, nếu không thì chắc sáng mai mới tới được. Tôi ngồi xuống sàn gác đối diện với anh, hai chân tôi vướng víu vì dài quá và ống quần bị ướt sũng. Trước mặt tôi là người đàn ông trung niên, khỏe mạnh, tươi tỉnh, cụt cả hai chân sát đến thân, ngồi giữa những đồ dùng cá nhân của anh, tôi không nhìn kỹ và nhớ anh có những gì chung quanh, hình như có mấy cuốn sổ lớn nhỏ, cái bình thủy, bình trà, cái radio, quần áo, chăn gối và cái điện thoại cầm tay. Thế giới của anh thu gọn trên gian gác khoảng ba thước vuông. Người lính Thủy Quân Lục Chiến này, không may mắn bị thương tháng 1 năm 1975. Vì mất cả hai chân nên anh không “được” đi cải tạo, vì không được đi cải tạo nên anh không vào được danh sách H.O. Tôi hỏi thăm gia cảnh, được biết anh ở đây với gia đình người chị, anh bị thương khi còn trẻ quá chưa có cơ hội lập gia đình. Anh cho tôi một danh sách của những người bạn cùng hoàn cảnh như anh, so với danh sách tôi nhận được ở Sài Gòn thì có một vài tên khác nhau. Anh nói, phải cẩn thận vì có thể họ không phải là những người thương phế binh thật. Tôi nói, không sao cả miễn là những người này cần được giúp đỡ. Tôi chia tay anh, hẹn trưa ngày mai sẽ gặp mặt mọi người. Anh cầm điện thoại, mở sổ, liên lạc ngay với các bạn, giọng anh dồn dập, gọi từng người: - Trưa mai, 1 giờ nghe, đến nhận quà, có người bên đó qua thăm. Tôi và Ma Xơ lội nước về khách sạn. Tin tức khí tượng cho biết cơn lũ vẫn tiếp tục dâng. Lũ năm nay là lũ ngâm, có nghĩa là hết cơn nọ, tiếp cơn kia, nên nước không rút kịp, cứ giữ hoài một mực ở những nơi trũng và ở sông Hương. Nước sông Hương đục ngầu vì pha đất bùn. Cả thành phố Huế gầy gò, run rẩy trong mưa lũ, tôi đi ngủ thấy mình bồng bềnh trong câu hát “Quê hương em nghèo lắm ai ơi! Mùa Đông thiếu áo, Hè thời thiếu ăn. Trời hành, Trời làm cơn lụt mỗi năm…” Cả đêm trời mưa, đến sáng đổ xuống một cơn mưa lớn, nước trôi phăng phăng trên đường Đống Đa, trước cửa khách sạn. Tôi mặc áo dài, trùm áo mưa, bối rối lội nước đi lễ ở nhà thờ Dòng Thánh Tâm trên đường Phan Đình Phùng, đi trong nước và gió, tưởng như sắp bị cuốn xuống con nước sông Hương đã dâng mấp mé mặt đường. Nhưng may quá, đến trưa mưa tạnh, nước rút bớt ở một vài con phố. Tôi nhờ Ma Xơ chở lại căn nhà hôm qua. Đến nơi tôi thấy ở gian trước, đã có năm bảy người đàn ông đang ngồi chung quanh chiếc bàn nhỏ chờ tôi tới. Mới thoáng nhìn tất cả mọi người, tôi biết ngay là họ phải có thân nhân chở tới chứ không thể tự di chuyển được. Thấy tôi đến họ bối rối không biết mời tôi ngồi đâu, tôi đề nghị ngồi cả xuống sàn nhà cho rộng, tôi bỏ giày vào ngồi chung với họ. Ngồi trước mặt họ, tôi thấy có điều gì không ổn, hình như đối với những người đang quây quần nơi này, tôi là người dị tật. Tôi dư hai cái chân. Tôi lúng túng không biết để hai cái chân thừa này vào đâu. Bảy người bạn này, không ai có chân cả, có người lại mất thêm một cánh tay, có một người mù. Chúng tôi nói chuyện với nhau. Tôi hỏi han từng người. Các anh cho biết, phần đông bị thương ở Mùa Hè Đỏ Lửa (1972), có người bị thương ngay đầu năm 1975, lúc đó đang nằm ở Quân Y Viện bị đuổi ra đường. Tôi ngập ngừng hỏi: - Làm sao mà các anh sống còn cho đến bây giờ, nhất là trong thời gian những năm ngay sau ngày 30 tháng 4. Các anh cười (đặc biệt lúc nào họ cũng có nụ cười trên miệng). - Khổ lắm chị ơi! Nhưng chúng em nhất định sống, người thì nương vào vợ con, người thì nương vào cha mẹ, anh chị. Thế rồi chúng em cũng qua được hết. Vài năm mới đây, các anh em ở Saigon nhận được quà của các anh chị bên đó gửi về trước, rồi đến chúng em ở Huế. Mỗi lần lễ Tết chúng em có quà cũng có bữa tiệc nhậu nhẹt với nhau, vui lắm, nhưng vẫn phải giữ gìn, kín đáo. Anh cụt một tay, đưa mẫu tay cụt gần đến khuỷu ra khoe với tôi. - Em không có hai chân, cụt một tay em vẫn làm thợ lò rèn được, em cuốn dây thép ngay vào chỗ này, để cái phần thép dư ra trên cái đe, tay còn lại em cầm búa đập cho dẹp ra. Cũng kiếm được hai chén cơm một ngày. Tôi không nói được câu nào, nhìn xuống phần quắt queo của cái tay gẫy, tưởng tượng ra sợi thép to bản quấn nghiến vào đó, ngậm ngùi, thán phục. Đang nói chuyện thì có một anh đi xe lăn đến, anh bị liệt từ lưng trở xuống. Anh không xuống xe, anh ngồi yên trước cửa nhà. Cũng không thấy ai có ý đỡ anh xuống đất ngồi. Anh nói ít, nét mặt buồn buồn, những người bạn khác cho biết. Anh phải nhờ giúp đỡ hoàn toàn về lên, xuống xe, làm vệ sinh, vì anh không thể nào tự đứng lên trên hai chân được. Tụi em tuy cụt cả hai chân, nhưng lê trên hai mông và khỏe hơn anh, nên tự túc vệ sinh cá nhân được. Tôi ngồi ngắm họ, tám người đàn ông này, vào năm 1975 họ còn trẻ lắm (Người lớn tuổi nhất sinh năm 1939, người trẻ nhất sinh 1954) họ mất cả hai chân, có anh còn mất thêm một cánh tay, có anh vừa không chân vừa mù. Làm sao mà họ sống còn được với cơn lốc hậu chiến! Ngay cả người lính còn đủ mắt, mũi, chân tay đã điêu đứng lắm rồi! Vậy mà sau bao nhiêu khổ nhục họ vẫn tìm đến nhau, dựa lưng vào nhau để tồn tại.
Đây là những câu thơ họ viết cho nhau đọc: Tháng Tư gẫy súng hao gầy Vòng tay khói thuốc tháng ngày hư hao (Hồng Trần) Cũng đôi lần đi qua đường cũ Núi rừng xưa loang lỗ chừ đã xanh cây Rừng xanh lá còn đời tôi héo úa Cũng đôi lần đi qua thành phố cũ Vết chiến tranh chừ đã tân trang Phố vươn mình thay da đổi thịt Riêng đời tôi cứ mãi cơ hàn (Nguyễn Nghệ)
Tôi thương cảm và kính phục họ, trong hoàn cảnh khốn cùng nhất, bằng cách nào đó, họ vẫn đứng vững (không cần chân) và duy trì được tinh thần đồng đội, thái độ bất khuất của những người lính. Tôi tặng mỗi người một phong bì, một phần thuốc bổ. Khi tôi trao vào tay từng người món quà nhỏ đó lòng tôi thật rưng rưng, nước mắt ứa ra (mặc dù tôi cố cầm lòng). Tôi không biết mình muốn nói lời gì để cảm ơn những người lính này? Họ là dấu tích, là niềm tự cao của một thời hòa bình bên này; hay là huy chương, là tinh thần anh dũng của một thời chiến tranh bên kia. Người Việt Nam đứng ở hai bên vĩ tuyến 17, xác định bên này, bên kia theo tiêu chuẩn nào? Tôi trao đổi địa chỉ với những người bạn mới này, xin số phôn liên lạc và danh sách của những anh em ở Quảng Trị. Khi ra về, tôi hứa sẽ không quên họ (?). Sáng hôm sau trời vẫn còn mưa tầm tã, tôi liên lạc, hẹn gặp được với anh Sự ở Quảng Trị và thuê xe đi La Vang, Quảng Trị. Trên đường từ Huế ra La Vang nước sông dâng cao, có chỗ mấp mé mặt đường, có chỗ ngập tràn tóe nước trên bánh xe chạy. Nhà cửa ruộng vườn hai bên ở thụt xuống nên nước ngập cao cả thước, thỉnh thoảng có một chiếc thuyền chở mấy đứa nhỏ từ trong nhà lên mặt đường, chúng ướt như mấy con thỏ nhỏ vừa bị tuột lông, trông thương quá! Giữa vùng nước bát ngát tôi đọc được trên một tấm bảng dài, sơn đỏ, kẻ chữ vàng :“Việt Nam Dân Chủ Ấm No Quang Vinh Hạnh Phúc”. Tấm bảng đứng ngơ ngáo như một kịch sĩ ra trình diễn không đúng lúc. Trận Mùa Hè Đỏ Lửa, ngôi giáo đường La Vang bị tàn phá nặng nề, tượng Đức Mẹ thương tích đến xót xa. Tôi đứng trước tượng, bức tượng nhợt nhạt trong mưa, những thương tích còn y nguyên, đôi mắt Mẹ buồn bã cúi nhìn. Tôi biết Đức Mẹ đã hiểu lòng tôi, tôi không cầu nguyện gì riêng cho mình cả, tôi đã dư đến hai cái chân, làm sao dám xin thêm một thứ gì nữa. Tôi cũng ngạc nhiên là mình không bị cảm lần này. Lại đi trong mưa, trong gió, ghé vào Quảng Trị. Vùng đất Quảng Trị nơi người dân Việt có cuộc sống hẩm hiu nhất, vừa nghèo, chó ăn đá gà ăn muối, vừa hứng chịu những trận đánh khốc liệt. Nơi mỗi tấc đất đều thấm máu người trong thời chiến tranh huynh đệ. Anh Sự hẹn tôi ở khúc đường, cách cầu Thạch Hãn 200 thước, anh đứng trong mưa, trùm chiếc áo mưa đỏ cho dễ nhận. Khi xe dừng lại anh cho biết đã hẹn những anh khác đang đến. Trời vẫn đổ mưa, không vào nhà anh Sự ở sâu trong ngõ được, tụ tập ngay ở quán cà phê bên đường, quán này cũng lại vừa là một cái chợ nhỏ, có người mặc chiếc áo mưa vàng, trên lưng in chữ CATP ghé vào. Anh Sự hơi lộ vẻ lo lắng trên mặt, chữ đó có nghĩa Công An Thành Phố, nhưng ông công an này chỉ ghé vào mua một trái mướp nhỏ trong khi đang công tác, rồi đi. Lần lượt những chiếc xe ôm thả tám người vào quán. Tôi theo họ vào, họ không mất hai chân như các anh ở Huế, nhưng mỗi người có một bàn chân gỗ thò ra dưới ống quần nhầu nhĩ. Họ trông thảm hại, thiếu thốn quá! Chắc lúc khô ráo đã thảm hại rồi, mưa ướt còn làm tăng thêm nỗi nghèo khổ. Họ không được lạc quan như các anh ở Huế. Có anh mang theo cả chứng minh thư có số quân của ngày tháng cũ. Tôi thấy đau lòng quá. Tôi cũng chẳng nói gì với họ được lâu, vì còn phải quay lại Huế, trời thì mưa, lạnh, chỗ đứng trong quán chật hẹp, người ra vào mua bán, và hình như họ cũng không dám tụ họp lâu. Trông họ bồn chồn quá! Tôi ghi tên họ xuống (chỉ lấy tên, không lấy họ). Có hai thanh niên trẻ đi nhận quà cho cha mình. Tôi có địa chỉ và điện thoại của anh Sự rồi. Tôi hứa với lòng là sẽ gọi một vài người bạn rất thân ở ngoài nước giúp những người bạn trong nước này có cái quần, cái áo ấm hơn trong những ngày mưa lụt, có miếng thịt miếng cá to hơn trong ngày lễ Tết. Khi quay xe ra về, tôi nói anh tài xế cho tôi ngừng lại ít phút ở cầu Thạch Hãn. Nơi đây Mùa Hè Đỏ Lửa đã là mồ chôn của bao nhiêu người lính của cả hai miền Bắc Nam. Một tượng đài được dựng ngay bên cầu Thạch Hãn có mô hình những giọt máu đỏ đang chảy xuống. Tôi hy vọng khi treo những giọt máu này lên tượng đài, ai đó đã hiểu là những giọt máu này không phân biệt Bắc Nam, và chắc chắn một điều, nước dòng sông Thạch Hãn đã hòa máu, nước mắt của dân, quân cả hai miền. Anh tài xế nói, vụ đánh Mùa Hè 1972, nơi đây không còn gì sót lại. Không nhà, không chó, không mèo, không người, một vùng đất chết. Tôi nhớ đến câu thơ của Giuseppe Ungarette(Thi Sĩ Ý 1888-1970) viết về một ngôi làng bị tàn phá trong chiến tranh. Những bức tường bị cào nát, người thân chết hết. Không còn gì cả ngoài thánh giá trong tim . But in my heart/No cross is missing/ My heart is the most tortured village (Trái tim tôi là một ngôi làng bị tra tấn nặng nhất). Tôi trở về Mỹ mang theo hình ảnh và địa chỉ của những người lính cũ. Trái tim tôi có phải là một ngôi làng đang được chúc phúc hay không?
Trần Mộng Tú Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 02/Apr/2021 lúc 1:26pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
Thân phận!
Mười năm khổ nhục trong tù, nay Chương được thả về nhưng bị cưỡng bức cư trú tại khu kinh tế mới Ðạm-Ri. Những tháng năm bị kiềm tỏa giữa núi rừng cheo leo, giờ được sải đôi chân tự do trên con đường dẫn về phố thị lòng Chương nghe phơi phới lạ thường!
Sau khi làm thủ tục trình diện "chính quyền" sở tại, Chương may mắn xin được một chân công nhân gạch ngói tại vùng Madagui. Chàng có nơi ăn chốn ở tạm thời.
Bảy ngày sau, Chương nhận được lá thư của Ðông:
Mùa cà phê đã đến thời kỳ thu hoạch. Ðồng bào dân tộc đến tấp nập ghi tên
hái cà phê lấy công. Trẻ em cũng tham gia khá đông đảo. Chúng rất rành rẽ
trong kỹ thuật hái cà phê, vừa làm vừa nói chuyện, cười đùa ríu rít. Trong
số nầy có một em bé gái đồng lứa với các em khác nhưng làm việc còn rụt rè
chậm chạp. Bạn bè gọi tên bé là Ca-len và em nói tiếng dân tộc Ra đê. Bé
đeo những chuỗi cườm đủ màu sắc trên tay, trên cổ và một chiếc gùi quá lớn
sau lưng. Thoạt nhìn, bé giống như một nghệ sĩ tí hon đóng vai dân miền
Thượng. Con bé cũng có màu da bánh mật, đầu tóc cháy nắng vàng hoe. Ðặc biệt là mái tóc của nó được chải rẽ đường ngôi giữa đỉnh đầu và lúc nào cũng có kẹp vắt tóc hai bên thái dương. Với chiếc mũi dọc dừa nhỏ nhắn cùng cái miệng mủm mỉm xinh xinh khiến nó nỗi bật trong đám trẻ dân tộc kia. Bé làm việc cặm cụi, ít khi cười đùa. Nó chỉ trả lời mỗi khi bạn hỏi. Gặp lúc những câu chuyện kể vui vui, con bé nở nụ cười trông thật rạng rỡ, phô ra đôi hàm răng trắng ngần. Chương nhìn con bé mà nghe lòng xốn xang. Chàng nhớ đến Vân Chuyên đứa con gái của mình và người vợ đã vượt biên. Nhiều đêm Chương suy nghĩ nếu Vân đã đến được bến bờ tự do thì ít nhất nàng cũng biên thư gởi về nhờ bạn bè chuyển cho chàng. Ðã gần mười năm rồi còn gì! Từ ý nghĩ đó nên Chương hoàn toàn thất vọng. Biết đâu hai mẹ con nàng đã bỏ xác ngoài biển khơi!
Con bé gật đầu.
Bé mang chiếc gùi lớn sau lưng, đôi chân tong teo trong chiếc quần đùi
rộng quá khổ, nhìn từ xa giống như con búp bê đang di động. Cơn gió xoáy
chạy dọc theo con đường băng qua ngọn đồi cuốn hút bụi lá lên cao nom như
một cái phễu. Bước chân con bé xiêu xiêu như rơi vào cuốn phễu đó. Áo quần
và tóc bị cuốn hút ngược lên như muốn vuột khỏi cái thân hình gầy guộc,
đen đủi của nó. Bé vẫn bình thản bước đi khi nắng chiều vụt tắt.
Từ sáng sớm, vườn cà phê đã rộn rịp người. Chương có ý đợi bé Ca- Len mà vẫn không thấy. Chàng muốn đến nhà để tìm hiểu hoàn cảnh gia đình em ra sao, và có thể giúp được gì cho nó. Chương hỏi thăm khá nhiều người nhưng chẳng ai biết chỗ ở của bé. Hai ngày chờ đợi con bé trở lại vườn cà phê là hai ngày lòng chàng như lửa đốt. Chương càng nghĩ đến nó, chàng càng tự trách mình thờ ơ và vô tình.
- Ai đó?
- Thưa bà, tôi là người làm ở nông trường cà phê...Chương trả lời chưa hết câu, bỗng người đàn bà kêu lên:
- Vân ơi ! Em ơi ! Sao lại ra nông nỗi nầy?
Chiếc đèn dầu hỏa cháy leo lét trên chiếc bàn gỗ cũ kỹ xiêu vẹo. Ánh sáng vàng vọt làm cho cảnh tượng trong túp lều càng thêm thê lương.
- Cai quản ba mẫu cà phê của các ông trên Huyện. Bây giờ là mùa thu hoạch, anh lo điều hành và bảo quản sản phẩm trong kho.
Chương bước ra khỏi lều, gió núi về đêm phả vào mặt chàng nghe tê lạnh. Rẫy cà phê um tùm nối tiếp nhau trong màn đêm u uất. Tiếng dế vang vang từ bên bờ cỏ im bặt khi bước chân chàng đến gần. Loài chồn ăn đêm cũng chuyền cành tránh xa khi thấy bóng người đi tới. Tâm hồn Chương trĩu nặng nỗi lo âu phiền muộn. Chàng cảm thấy hụt hẫng trứơc hoàn cảnh tận cùng bi đát của vợ con.
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 03/Apr/2021 lúc 2:03pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
Nhạc CON ĐÒ ĐƯA XÁC -39 NĂM |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
Chớp Tắt Cuối Chân Trời - Thuyền nhânĐể tưởng nhớ đến các đồng bào Việt Nam đã bỏ mình trên bước đường đi tìm tự do. Video: Fall of Saigon 1975 (Sài Gòn thất thủ) http://www.youtube.com/watch?v=IdR2Iktffaw Tri ân vòng tay nhân ái của thế giới tự do
Video 1- Medecins du monde (Tàu Pháp cứu vớt thuyền nhân Việt Nam) (nói tiếng Pháp)****
Video 2- Un bateau pour le Vietnam (Ile de Lumière) http://www.ina.fr/video/CAB7901308001 Video 3- Tàu Cap Anamur Đức Quốc cứu vớt thuyền nhân
VN Boat People aus Vietnam - Cap Anamur - Hamburg/GER-Teil 4b http://www.youtube.com/watch?v=rA9RLnQCLQk Khi miền Nam vừa đổi chủ, tác giả cũng như hàng trăm giáo sư và nhân viên giảng huấn đại học “bị mời” đi học tập cải tạo trong một tuần lễ (?). Nơi học là Đại học Khoa học Sài Gòn, cạnh bên trường Trung Học Pétrus Ký.
Cây cột đèn nếu biết đi cũng bỏ nước ra đi Hắn và vợ, tay bồng tay dắt hai đứa con còn nhỏ, lặng lẽ, bùi ngùi bước ra khỏi
nhà cha mẹ, nơi mà hai vợ chồng hắn tá túc từ hơn một năm nay tại Saigon. Đồ
đạc chỉ vỏn vẹn có hai cái xách tay nhỏ, đựng một vài bộ quần áo cũ và một ít
thức ăn khô. Đó là ngày 23 tháng 3 năm 1980. Hắn vừa tròn được 37 tuổi. Trời còn tối om khoảng ba- bốn giờ sáng. Trong nhà, ngoài một cô
em vợ ra thì không còn ai hay biết gì hết. Hắn dặn cô em nhờ nói lại với Pa Má,
là Anh Chị cần phải về Cần Thơ gấp để xin lại căn nhà bị tịch thâu một năm
trước đó vì đã đi không lọt và bị bắt... Đây là lần thứ ba mà hắn liều mạng lôi vợ con mạo hiểm theo hắn. Chợt một ý
nghĩ loé lên trong đầu hắn, coi chừng “nhứt quá tam” hay “jamais deux sans trois” làm hắn cũng thấy ngài ngại...
Lần đầu, tháng giêng năm 1979, xuống cá nhỏ ngay tại bến Ninh-Kiều Cần Thơ, ngay tại nơi có tượng Bác đưa bàn tay (Có nghĩa là giá 5 cây) chỉ ra hướng vàm Cần Thơ để ra biển.(Đây là lời đồn dại của dân CầnThơ thời đó). Chẳng may chuyến đi bị gài bẫy từ đầu, nên khi vừa leo qua cá lớn đậu ngay vàm Cần Thơ thì công an đã chờ sẵn trong ghe đón tiếp nồng hậu không sót một mống nào, chẳng khác nào cá vào rọ. Hắn và vợ con bị nhốt hết hai ngày ở Chấp Pháp Cần Thơ nằm cạnh bờ sông, xế
khỏi Trại Nhập Ngũ số 4 cũ, một quãng trên đường vô Cái Răng. Qua ngày hôm sau, một diễn biến thật bất ngờ xảy ra như một giấc chiêm bao: hắn
và vợ con được thả ra. Đây là một cái bất ngờ tuyệt điệu chẳng khác nào cá mắc
cạn được đem thả trở lại xuống nước.
Khỏi phải nói hai vợ chồng hắn đều mừng hết lớn. Tưởng đâu là cuộc đời mình đã
bị tiêu tùng rồi, nhưng có lẽ nhờ phước đức ông bà để lại hay nhờ có số may mắn
gì đó mà gia đình hắn được ban lãnh đạo Đại Học vận động với công an thành phố
Cần Thơ để thả gia đình hắn ra thật sớm (2 ngày) và phải về làm tờ…tự
kiểm.
Trí thức 3N Thời điểm đó phong trào vượt biên nở rộ khắp miền Nam. Đặc biệt là đa số
giới trí thức cũ, đều bằng mọi giá tìm cách bỏ đi. Anh nào không đi thì bị
thiên hạ mỉa mai và liệt vào nhóm trí thức 3N tức là hoặc nghèo hoặc nhát hoặc ngu?! Chất xám thất thoát nhiều khiến
nhà nước cộng sản phải cấp bách đề ra chánh sách o bế giới trí thức cũ để
khuyến dụ họ ở lại phục vụ đất nước, v.v... Chòm xóm không ai hay biết gì hết, nhà cửa vẫn còn nguyên vẹn. Hú hồn hú vía!. Rồi hắn được cho đi làm việc trở lại tại nhiệm sở cũ là trường Đại
học Cần Thơ. Vợ hắn, dược sĩ ngụy, thì cũng được...gởi gắm đi làm tại một nhà
thuốc Tây quốc doanh nằm trên đường Nguyễn an Ninh ngay trong thị xã Cần Thơ,
dĩ nhiên là dưới quyền sai bảo của chị thủ trưởng dược tá giải phóng. Nói là đi
làm cho nó ngon vậy đó chớ thật sự ra có làm gì đâu, mà cũng chẳng có ai dám
giao cái gì đâu mà làm. Hắn biết là hai vợ chồng hắn đang bị người ta theo dõi
và canh chừng gắt củ kiệu lắm. Tối ngày cứ lo luây quây học tập chánh trị, họp
tổ, rồi sau đó là lo ba cái vụ chầu chực để mua nhu yếu phẩm theo giá chánh
thức cũng đã hết thời giờ rồi. Hắn rầu thúi ruột và hết còn biết tính sao
nữa. Bế tắc hoàn toàn! Chỉ còn có một con đường duy nhất là phải tìm cách binh nữa.
Bằng cách nào? Hắn cũng chưa biết được. Chỉ còn biết cầu xin Trời Phật và chờ
phép lạ mà thôi.
Ngoan cố đi nữa …lại
kẹt nữa. Rồi một dịp may khác lại xuất hiện vài tháng sau …Xuống bãi tại Phong Điền. Ghe
là một loại tam bản lớn không có mui gì hết, ớn quá chừng nhưng lỡ rồi. Ghe
được thả theo dòng nước sông Hậu, tà tà hướng xuống Cà Mau để tìm đường ra
biển.
Nhưng than ôi! Kỳ nầy lại bị tổ trát một lần nữa, xui xẻo hết cỡ ngoài dự tính.
Đúng là mưu sự tại nhân, nhưng thành sự tại thiên. Một trạm kiểm soát trên sông
Ông Đốc thình lình gọi ghe tấp vào bờ để xét hỏi. Thế là bể! Cả ghe bị tóm. Hắn
và tất cả bạn đồng hành đều bị áp giải vô Rạch Ráng ở Cà Mau.
Trong chuyến đi nầy, ngoài nhóm bạn bè của hắn trong Đại học Cầnthơ như Anh Chị
PL (nay còn ở bên nhà), dược sĩ TĐB (hành nghề tại Bắc Cali), hai vợ chồng dược
sĩ C&D. và mấy đứa con, và vợ chồng Trung tá Bác sĩ HNT cũng có mặt trong
chuyến vượt biên nầy.. Nghe nói mấy năm
trước đây Bs ở Houston,Tx.
Hắn lo cho hắn thì ít nhưng lo cho vợ và hai dứa nhỏ thì nhiều. Tất cả nhóm dàn
bà con nít đều bị nhốt trong vựa lúa phía sau láng của đàn ông chừng trăm
thước. Ăn uống làm sao đây? Lỡ có bệnh hoạn thì lấy thuốc đâu mà chữa trị. Nhưng cũng may, một hai tuần sau, thì gia đình bên vợ hắn ở Saigon
hay được hung tin là chuyến đi bị vướng. Tội nghiệp, Ông bà ngoại các cháu phải
cực khổ tức tốc lặn lội từ Sài Gòn xuống thị xã Cà Mau, rồi từ đó đón đò máy đi
cả buổi mới vô tới Rạch Ráng để xin lãnh hai đứa cháu nhỏ (3tuổi và 5 tuổi) về
nhà...Trời ơi! Nhớ lại thuở đó sao mà trần ai lai khổ vô cùng tận vậy. Sau vài tuần bị nhốt, thì vợ hắn cũng được thả về trước, còn hắn thì bị giam
thêm một thời gian nữa.
Ban ngày, họ bắt bọn hắn đi lội nước nhổ cỏ ngoài ruộng cho bỏ ghét và cũng để
cho biết thế nào là lao động. Tối về láng, hắn và các bạn tù bị xiềng một cẳng
lại với nhau qua một thanh sắt dài khóa lại ở một đầu phía ngoài cửa vào. Tiểu
tiện phải “làm” trong lon ngay tại chỗ, xong thì chuyền cho người nằm sát vách
phía bên trong, vạch tấm phên ra và hất đại xuống mương. Nhớ lại có một hôm
nhân lúc đi lao động, vì đói, ai nấy lúc về cũng ham nhổ theo cả bó rau muống
ruộng để ăn sống. Tối bữa đó thì đa số đều bị tào tháo rượt, phải làm ren rét
tùm lum ngay tại chổ. Cuộc đời tù tội là thế đó. Thê thảm quá.
Nhưng có lẽ là cảnh khổ cực của bọn hắn không nhầm nhò gì so với hoàn cảnh của
các anh em “ngụy quân ngụy quyền” bị CS trả thù và đì về tinh thần lẫn thể xác
trong những trại tù cải tạo.
Muỗi Cà Mau nhiều không thể tưởng tượng được. Mới 4-5 giờ chiều là chúng bay vo
vo đen nghệch thấy mà phát sợ. Vướng lần thứ hai nầy hắn nghĩ rằng chắc phải bị
kẹt lâu lắm chớ không mong gì được thả ra sớm đâu.
Hắn thuộc gia đình ngụy quyền mà. Vợ hắn thuộc loại “tư sản mại bản” vì có nhà
thuốc Tây ở Sài Gòn. Mặc dù đã bị họ kiểm kê ốp hết ráo hết trọi, của thiên trả
địa, nhưng gia đình hắn vẫn nằm trong diện không được thiện cảm của chế độ
đương thời cho lắm!.
Lúc bị nhốt, tin bên ngoài từ Cần Thơ cho biết là có vài người không đồng ý xin
cho hắn ra vì hắn thuộc loại quá ngoan cố hết thuốc chữa. Chắc cũng không mấy
sai đâu. Người ta đã tha cho một lần rồi mà không tởn. Hắn rầu thúi ruột đi.
Tương lai mù mịt. Nhưng rồi hắn thầm nghĩ, đây là một canh bạc, có lúc ăn thì
cũng có lúc phải thua, đó là lẽ thường tình ở đời mà thôi.
Cũng hên, sau khi bị nhốt hết ba tháng thì cả nhóm được Thành Hội Trí Thức Yêu
Nước Cần Thơ cử Anh ba T. xuống lãnh hết ra...(Anh ba T ngày xưa là nhân viên
nằm vùng trong Tòa Án Cần Thơ). Đây là việc nằm trong kế hoạch chánh trị của họ
trong thời điểm đó mà thôi.
Lần nầy thì mất hết tất cả. Te tua. Lỡ leo lên lưng cọp rồi thì không thể xuống
được!.
Nhà cửa của cải bị mất hết, mất luôn cả hộ khẩu, nên gia đình hắn chẳng còn chỗ
nào ở đành phải về tá túc một cách bất hợp pháp tại nhà ông bà già vợ tại Sài
Gòn. Vốn liếng, nữ trang và bao nhiêu cây dành dụm từ bấy lâu nay đều được đem
chụm hết trong hai chuyến đi hụt vừa qua. Căn nhà của hắn ở đường Mậu Thân gần
cầu Rạch Ngỗng Cần Thơ cũng bị mất luôn và nghe đâu được họ biếu cho Năm P
trưởng ty Nông nghiệp Cần Thơ thời đó.
Te tua láng túi sạch sẽ Để kiếm sống qua ngày, vợ hắn phải nấu xôi, pha cà phê bán ngay bên lề đường
cạnh tiệm thuốc Tây cũ của mình tại góc đường BC/HTT Sài Gòn. Còn hoàn cảnh của vợ chồng người bạn là dược sĩ C. và D. cũng bi
đát lắm. Họ cũng mất nhà và mất cả nhà thuốc CD ở đường Tự Đức Cần Thơ nên đành
phải dẫn bầy con (nhiều lắm!) về tá túc nhà bố mẹ ở khu sân vận động Cộng Hòa
Sài Gòn. Để kiếm sống, anh chị C.& D làm bánh cam rồi mỗi ngày Anh C. từ
nhà, cong lưng hì hục đạp xe ra bỏ mối cho vợ chồng hắn bán tại quán cà phê lề
đường. Đây là tình nghĩa bạn bè lúc hoạn nạn...Và đó cũng là hình ảnh thê lương của
hầu hết các dược sĩ ngụy một thời le lói hết sức, nhưng lúc sa cơ thất thế thì
cũng bi thảm không ai bằng!
Lên voi xuống chó là như thế đó!. Từ trên 30 năm qua hắn không thể bắt liên lạc lại được với gia
đình anh chị C & D. Năm 2011 có một thân nhân của duợc sĩ C cho biết trên
trang mạng Người Việt Boston là cả gia đình người em của họ đã không có cái may
mắn đến được bến bờ tự do. Tội nghiệp quá. Còn hắn thì chạy tới chạy lui phụ giúp ba cái chuyện lặt vặt cho bà xã. Hắn
xuống tinh thần mất moral, chán chường thấy rõ, nhất là mỗi khi nghe tin có một
người bạn nào đó đã tới nơi yên ổn sướng quá. Hắn cảm thấy mình là kẻ thua
cuộc, bất lực, lẻ loi và cô độc hết sức!.
Có nhiều người khi xưa là bạn, nay thấy hắn thì lại lơ lơ là là, có lẽ họ sợ bị
liên lụy đến bản thân chăng? Đời là thế!
Sa cơ thất thế là hoàn cảnh chung của phe thua cuộc. Thôi thì cứ nghĩ đó là một
sự cộng nghiệp chung của dân miền Nam phải đồng phải gánh chịu. Hy vọng có ngày
rồi trời sẽ sáng trở lại...
Và cũng vào thuở đó, người ta hô hào lao động là vinh quang, lang thang là chết
đói, hay nói thì ở tù nên phong trào tăng gia sản xuất bằng cách nuôi heo bùng
lên khắp nơi trong các thành phố miền Nam. Bất cứ chỗ nào người ta cũng có thể
nuôi heo được hết.
Heo và nguời ở chung với nhau. Người ta nuôi heo ngay tại Sài Gòn trong những căn nhà lầu, trong
một số villa sang trọng mà lúc đó đã đổi chủ, trong nhà bếp, trong nhà tắm, nơi
sàn nước, ngoài sân và thậm chí còn có người nuôi heo cả…trên sân thượng
nữa. Hắn chụp thời cơ nhảy ra làm nghề chích dạo và chữa bệnh cho heo. Phần đông
thân chủ của hắn là những cán bộ quyền thế của chế độ mới. Họ cho xe lại đón
hắn về nhà khám bệnh cho heo, tiền bạc sòng phẳng!
Hắn sống lây lất qua ngày để chờ thời. Hắn cảm thấy tuyệt vọng trước một viễn
ảnh quá đen tối, bế tắt không còn lối thoát.
Mỗi khi nhìn thấy ghe tàu đậu dưới sông là hắn thầm mơ tưởng viễn vong và ước
ao…phải chi thế nầy, phải chi thế nọ, v.v…Hắn mơ, hắn ước, hắn cầu nguyện làm
sao có thể đưa được gia đình đến một miền đất nào đó. Hắn sẵn sàng làm bất cứ
công việc gì, miễn sao nơi đó hắn có thể hít thở được không khí thật sự tự do mà
thôi... Tia hy vọng Rồi một hôm, có một anh bạn đến móc nối hắn vì biết hắn đã từng du học nhiều
năm tại Bangkok và nói được chút ít tiếng Thái, để làm thông dịch khi
cần.
…Ra đến bến xe xa cảng Miền Tây, hắn lấy vé chợ đen đi Cần thơ, nơi chôn nhau cắt
rún và cũng là nơi mà hắn có rất nhiều kỷ niệm trong suốt 10 năm dạy học tại
đó.
Ngủ nhờ qua đêm tại nhà của một em học trò cũ trong một tâm trạng hết sức phập
phòng lo sợ bị phường khóm xét hỏi bất tử. Trời vừa hừng sáng thì gia đình hắn
lật đật ra Bến Xe Mới ở lộ 19 Cần thơ thật sớm để lấy vé đi SócTrăng. Hắn rất
sợ phải chạm mặt bất ngờ với mấy em sinh viên hay người quen thì coi như bể
hết.
Tại Sóc Trăng, gia đình hắn đổi xe dong tuốt xuống Cà Mau. Tới thị xã Cà Mau
khoảng 4-5 giờ chiều. Còn đang đứng lớ ngớ ở bến xe chưa định hồn không biết
phải làm gì bây giờ, vừa hồi hợp lo sợ tụi cách mạng 30 và công an xét giấy đi
đường và cũng vừa lo lắng không biết người liên lạc có đến đúng hẹn hay không,
thì may thay hắn gặp được một hai người quen ở Đại học Cần Thơ. Họ cũng đồng
một cảnh ngộ như gia đình hắn vậy. Trong chuyến đi nầy còn có cả nhạc sĩ PMC
dẫn theo hai đứa con (anh PMC và các cháu hiện đang sống tại Montréal). Hắn cảm
thấy hơi bớt lo đôi chút.
Mướn chiếu ngủ đỡ giữa trời ngay tại bến xe. Nằm trằn trọc, lăn qua lăn lại
suốt đêm, đầu óc thật căng thẳng, mãi đến 4 giờ sáng thì có người đến ra dấu
cho từng tốp nhỏ đi theo họ xuống bãi một cách thật là lặng lẽ. Xuống cá lớn Nối gót theo người dẫn đường đi một khoảng xa ở phía trước, hắn lôi vợ con hấp
tấp bước theo, xuyên qua những con hẻm quanh co giữa các xóm nhà bình dân còn
chìm đắm trong đêm khuya
Trống ngực hắn đánh thình thịch liên hồi. Hắn sợ tất cả: sợ gặp phải tổ dân
phố, sợ công an, sợ người lạ, sợ con nít và sợ luôn cả mấy con chó trong
xóm.
Tâm trạng hắn lúc đó thật là phức tạp. Hắn vừa hồi hộp, vừa lo lắng, vừa bùi
ngùi đứt ruột vì phải xa lìa đất mẹ, nhưng đồng thời hắn cũng cảm thấy vô cùng
phấn khởi náo nức khi nghĩ đến mỗi bước đi tới sẽ là những bước đưa gia đình
hắn đến gần một chân trời mới đầy tự do và hy vọng… Hắn niệm Phật thầm trong bụng. Rồi kìa, “Cá lớn” đậu chình ìn ngay tại bờ sông
trước mắt. Đây là loại ghe bầu để chở hàng trên sông, dài cỡ 12 mét là cùng, có
mui bịt kín khoang và ở phía đàng sau là cabine nhô cao lên để tài công lái.
Hắn không nói ra nhưng trong bụng hơi lo vì không biết loại ghe này đi biển có
được không?
Thôi thì đành chịu vậy, vả lại đài radio tiên đoán tình hình thời tiết ở biển
Đông và vịnh Thái Lan khá tốt. Có người còn nói tháng ba bà già đi biển vì biển
rất êm vào mùa này. Mấy người tổ chức cho biết là họ đã chuẩn bị kỹ lắm đừng có
lo. Máy ghe là máy Yanmar loại mới, 6 hay 7 blocs gì đó?
Nói vậy thì nghe vậy chớ hắn nào có biết ất giáp gì đâu.
Tất cả mọi người đều bị ếm hết trong khoang ghe, không được gây tiếng động. Mấy
cháu bé đều bị cho uống thuốc ngủ trước đó hết. Trong khoang ghe, tất cả được
chia nhau ngồi chen chút dọc theo hai bên vách. Mọi người đều im lặng. Sợ lắm.
Trên cabine thì chỉ có tài công và Ba P.“người
hướng dẫn” địa phương mà thôi (nghe đâu anh ta là đại úy công an địa phương
gì đó ?) Tất cả có 69 người khách vừa lớn vừa nhỏ. Ghe mở máy chạy bình bịch một cách
thong thả xuôi theo giòng nước Sông Ông Đốc đổ ra biển để vào vịnh Thái
Lan.
Vĩnh biệt đất mẹ yêu dấu Hai bên sông, xóm làng khi ẩn khi hiện sau những rặng cây bần xanh tươi. Dưới
nước, ghe xuồng và tắc ráng xuôi ngược không ngơi. Càng ra gần cửa biển lòng
sông càng mở rộng ra.
Bà con trong ghe thì không ai nói với ai lời nào cả, tinh thần mọi người đều
rất ư là căng thẳng vì chưa ra tới biển. Trời đã bắt đầu tối. Đến khoảng 11 giờ
khuya, thình lình từ trong màn đêm lóe lên tia sáng chớp tắt của ánh đèn Pile
nào đó, rồi chẳng bao lâu không biết từ đâu đến, một chiếc xuồng nhỏ cặp sát
vào ghe một cách nhẹ nhàng. Sau khi nhận một cái túi do người tổ chức giao,
“người hướng dẫn” từ cabine tuột xuống xuồng và biến mất trong đêm tối.
Sắp tới trạm biên phòng rồi, mọi người đều im lặng, ghe tắt máy tắt hết đèn và
thả trôi theo giòng nước. Mọi người đều nín thở im lặng và cầu nguyện thầm
trong bụng. Thật là đứng tim trong 25 phút dài bất tận trong đời hắn.
Qua khỏi trạm kiểm soát một đổi khá xa, máy ghe được mở trở lại xả hết tốc lực
về hướng cửa biển. Nhưng không bao lâu thình lình ghe bị khựng lại, hình như
đụng phải vật gì ở dưới nước. Mọi người đều xanh mặt hồn vía lên mây. Có 1-2
anh em khỏe mạnh nhảy xuống nước để xem tình hình thế nào. Trời ơi ghe bị vướng
đáy rồi, xui ơi là xui. Biết làm sao bây giờ?.
Nhưng Trời cũng còn thương, lối một tiếng đồng hồ sau, nhờ con nước lớn chiếc
ghe tự nhiên xút ra khỏi đáy và tiếp tục vọt ra biển với hy vọng có thể ra tới
hải phận quốc tế trước khi trời sáng tỏ. Láng cháng dám gặp đám tàu đánh cá
quốc doanh thì phiền phức lắm.
Biển đây rồi, gió ào ào, trời nước mênh mông vô
tận. Ghe nhảy sóng một cách chòng chành, lắc lư làm nhiều người bắt đầu
bị say sóng ói mửa tùm lum. Chạy theo hướng nào đây? Nhiệm vụ này đã được phân công cho anh T. trung úy hải quân, nhưng ra tới biển
là anh ta bị say sóng như chết rồi nên không giúp ích gì được hết. Té ra anh ta
chỉ làm việc trong văn phòng mà thôi chớ không có kinh nghiệm về hải hành gì
hết. Có bạn nóng mũi, văng tục Đ.M. đòi quăng anh ta xuống biển cho đỡ tức.
Nhưng rồi cũng bỏ qua thôi.
Cái la bàn nhỏ xíu được lôi ra để định hướng. Người bàn thế nầy, người nói thế
kia, cãi cọ om sòm. Cuối cùng thì nhắm hướng mặt trời lặng mà chạy cầu
may.
Đến quá trưa, thình lình tiếng máy nổ khác thường, lạch cạch lạch cạch rồi êm
ru bà rù. Anh thợ máy bất đắc dĩ nhảy xuống tháo các bộ phận máy ra, xem cái
nầy, mò mẫm cái kia, mở ra lấp vào cả tiếng đồng hồ, mồ hôi nhuể nhại, rồi thử
quay máy cho chạy. Mọi người đều nín thở. Một lần, hai lần, ba lần, bốn lần…Tất
cả đều im lặng chỉ có tiếng gió thổi ào ào bên ngoài ghe mà thôi. Vô ích: máy hư rồi! Mọi người đều vô cùng thất vọng ra mặt. Trời ơi! Làm sao
đây Trời? Gió càng lúc càng thổi mạnh, trời bắt đầu kéo mây đen kịt. Những con
sóng to nối tiếp nhau đợt này đến đợt khác, nhồi chiếc ghe lên xuống, lắc qua
lắc lại như một cái hột vịt vậy. Ai nấy cũng đều điếng hồn hết. Thế này thì cái
chết cầm chắc trong tay thôi.
Cũng may là trên ghe có một chị đã từng đi sông đi biển rồi nên có một chút
kinh nghiệm. Chị ta hướng dẫn các anh tài công bất đắc dĩ về cách bẻ càng lái
để chặt sóng.
Trước tình thế thập tử nhứt sanh, hắn và một số anh em trên ghe phải thay phiên
nhau ra phía sau ghe ráng sức kềm cái càng lái. Đó là một cái cán gỗ rất dài để
điều khiển bánh lái. Kềm nó cho đúng hướng rất nặng nề và rất khó khăn, vì sóng
to và gió quá mạnh.
Những lúc ghe nghiêng thì rất nguy hiểm, không khéo là bị cái càng lái gạt té
xuống biển như chơi. Nhiều lúc hắn cũng xém bị hất xuống biển. Trời kéo mây đen
thêm nữa. Gió bắt đầu nổi lên ào ào càng lúc càng mạnh hơn đẩy chiếc ghe đi rất
nhanh, nhồi lên hụp xuống, thật kinh hãi vô cùng.
Đàng xa hiện rõ dần dần bóng dáng lờ mờ của một hòn núi mà có người cho biết đó
là đảo Thổ Châu, cách đảo Phú Quốc 100km về hướng nam. Tâm trạng của anh em lúc
đó thật phức tạp, mừng lo lẫn lộn vì nếu ghe tấp vào đảo thì khỏi phải chết,
nhưng lại phải bị đi tù mút chỉ cà tha.
Nhưng tự nhiên lối một giờ sau thì gió lại đổi hướng thổi bạt chiếc ghe trở ra,
đi mãi và đi mãi ra khơi...
Thỉnh thoảng có những con cá nược phóng theo hai bên ghe như muốn lội đua cùng
chiếc ghe khốn khổ.
Nam mô Đại Từ Đại Bi cứu khổ cứu nạn Hắn cảm thấy mình bất lực hoàn toàn trước hoàn cảnh bi đát nầy. Chỉ nằm chờ
chết. Ôm vợ con vào lòng mà đầu óc thật ngổn ngang trăm ngàn ý tưởng không mạch
lạc.
Hắn lâm râm niệm chú…Nam mô Đại từ Đại bi cứu khổ cứu nạn, quảng đại linh cảm
Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tát...
Trước cái chết gần kề mình mới cảm nhận được giá trị của cái sống. Hắn nghĩ đến
lúc ghe bị lật úp chắc hãi hùng lắm. Hắn cảm thấy thật ân hận khi nhìn vợ và
hai đứa con còn quá nhỏ tuổi. Không lẽ nghiệp quả của mình nặng nề như thế nầy
sao? Không lẽ số mình là số con rệp hay sao?
Rồi hắn nhớ lại lá số tử vi do một thầy tử vi lập cho hắn hơn 15 năm về trước,
lúc hắn vừa mới ra trường chưa có vợ con gì hết. Lá số đâu có nói là hắn sẽ
phải chết thảm như vầy đâu. Hắn nhớ ông thầy có nói hắn sau nầy phải ở xa nơi
chôn nhau cắt rún gì đó, ngoài ra cung mạng và cung phúc đức của hắn cũng khá
tốt. Trước khi đi một ngày, vợ chồng hắn cũng có lên chùa ở miệt Phú Nhuận để
trước lễ Phật sau là nhờ Thầy trụ trì xem coi có đi được hay không. Sau khi bấm
độn, Thầy nói: được! Nhớ tới đây, hắn lại lên tinh thần. Hắn nghĩ chết sống đều
do số mạng cả, lo làm chi cho mệt mất công...
Mọi người trên ghe đều kiệt sức, đói khát, ngủ gà ngủ gật, chỉ chờ một phép lạ
đến cứu mình mà thôi. Bao nhiêu tàu bè nhấp nhô ở chân trời để rồi cũng rẽ sang
hướng khác. Tối đến, mỗi khi thấy ánh đèn đàng xa, thì bọn hắn đốt đuốc lên làm
hiệu, nhưng cũng chỉ toi công vô ích, thất vọng hoàn toàn.
Đối mặt với cướp biển Thái Lan Rồi thì chuyện gì sẽ đến thì nó phải đến. Qua ngày thứ ba, có một
chiếc tàu đánh cá Thái Lan xăm xăm tiến tới. Đây là loại tàu khá lớn và có cả
radar. Mọi người đều kinh hoàng và hồi hộp. Đàn bà con gái lo tìm dầu mỡ bôi lên
mặt lên mày cho nó thúi tha ghê tởm. Tàu Thái xáp gần,trên bong lố nhố 5-7 tên
có vẻ dữ dằn, rồi thì tàu cặp vào sát ghe kêu một cái rầm. Ghe bị chòng chành
dữ dội và nứt một bên hông. Thật khiếp đảm không lường. Mọi người trên ghe đều
ngồi yên thinh thích và hồi hộp, im lặng chờ đợi. Bọn Thái nhảy qua ghe,
4-5 tên cầm mã tấu, còn một tên thì cầm súng lục. Nhờ biết chút ít tiếng Thái lúc đi du học mấy năm ở Bangkok, nên hắn lãnh nhiệm
vụ làm thông dịch và thương thuyết với bọn hải tặc.
Lúc đầu, tụi nó hơi giật mình không hiểu tại sao trên ghe có người lại biết nói
tiếng Thái. Hắn cắt nghĩa, hắn tả oán hoàn cảnh bi đát và xin tụi nó giúp đỡ.
Thằng cầm súng, có lẽ là tên đầu đảng, chĩa con chó lửa vào đầu hắn và bắt buộc
hắn nói lại với tất cả là phải nộp hết vòng vàng tiền bạc, bằng không thì tụi
nó sẽ bụp một phát là đời hắn tiêu tùng luôn. Hắn rất lạnh xương sống. Hắn năn
nỉ hụt hơi thiếu điều lạy lục tất cả mọi người trên ghe nên đưa hết tiền bạc ra
để đổi lấy mạng sống. Tụi nó lục lạo, tung bới tất cả đồ đạt, mò xét khắp nơi, đổ
bỏ cả thùng nước ngọt để tìm kiếm nữ trang cất dấu trong đó. Cũng may là tụi nó
không có làm hỗn với ai hết. Xong rồi thì rút đi rất nhanh. Ghe bị vô nước, tuy
chưa nhiều nhưng cũng phải lo tát ra.
Không bao lâu sau thì có một chiếc tàu đánh cá khác lại đến để...ăn mót. Có lẽ
là bọn hải tặc dùng máy radio thông báo với nhau. Trước khi đi tụi sau nầy còn
oái oăm bắt theo một cháu bé 2-3 tuổi gì đó, không biết để làm gì khiến cha mẹ
đứa trẻ quá khiếp đảm kêu gào khóc la thảm thiết. Nhưng may thay, độ một giờ
sau thì tụi nó quày trở lại trả đứa nhỏ.
Giữa trưa hôm đó thì lại có một chiếc tàu đánh cá thứ ba đến, nhưng lạ thay,
tụi nó không xáp vô mà chỉ đậu ở ngoài xa cách ghe vài chục thước và ra hiệu
biểu mình qua.
Một lần nữa, hắn lại xung phong lãnh nhiệm vụ nầy. Nhảy xuống biển lội thiếu
điều hụt hơi hắn mới qua được bên tàu Thái. Tụi nầy có vẻ hiền hơn mấy đám kia.
Hắn trổ tài ngoại giao, quọt quẹt lỏm bỏm ba mớ tiếng Thái, nhờ họ giúp kéo ghe
vào bờ. Tụi nó chịu nhưng đòi ăn tiền. Hắn lại trở về ghe, bàn với mọi người và
năn nỉ người nào còn dấu được tiền bạc thì xin làm ơn làm phước bỏ ra chớ không
thì chết hết cả đám. Cuối cùng thì cũng gom góp được thêm một số ít tiền đem
nạp cho tụi cướp. Bọn chúng suy nghĩ sao đó không biết, nhưng cuối cùng cũng
chịu. Chúng nhảy qua ghe quan sát tình hình một lúc, xong cha con chúng hè nhau
hì hục tháo cái máy ghe đem về tàu đánh cá và ra lệnh cho tất cả mọi người phải
leo qua tàu của chúng, chỉ chừa lại hai người ở lại để điều khiển chiếc ghe.
Sau đó thì chúng thả dây cột chặt chiếc ghe để tàu đánh cá kéo đi. Đến đây thì mọi người đều
thở phào, phấn khởi lên tinh thần thấy rõ. Chúng nấu cơm cho ăn. Thức ăn chính là món cá chiên, ăn ngon ơi là ngon. Nước
đá uống thả giàn, vì có cả hầm lận. Chúng nói chưa vô bờ liền được vì còn phải
đi kéo lưới thêm một ngày nữa. Muốn sao thì mình đành phải chịu vậy. Tối đến,
mưa trút xuống dữ dội như thác nước, ai nấy đều ước loi ngoi như chuột và lạnh
cóng run cầm cập. Thằng nhỏ con trai ba tuổi của hắn bắt đầu sốt nóng và ho nhiều.
Chắc là nó bị cảm nặng hay bị sưng phổi gì đó. Vợ hắn đè nó ra lấy dầu cù là
cạo gió, rồi sau đó hắn mò được trong túi xách một hũ ampicilline, đem ra lụi cho thằng nhỏ mấy phát nó mới bớt sốt...
Giữa đêm có tiếng la thất thanh từ chiếc ghe ở phía sau: Anh S. té dưới biển
rồi. Mọi người đều hốt hoảng. Hắn báo động cho bọn Thái hay liền. Tàu bớt máy
và quay ngược trở lại, rọi đèn pha rà tới rà lui khắp mặt biển. Sau một hồi tìm
kiếm thì thấy nạn nhân đang ngụp lặn dưới nước. Chúng thả phao xuống và kéo anh
ta lên. Khỏi phải nói người mừng nhất là vợ con của anh ta.
Ánh đèn chớp tắt cuối chân trời Qua đêm hôm sau, khoảng 1-2 giờ khuya, thình lình chúng ngưng tàu lại. Ai nấy
đều nhốn nháo lên. Có chuyện gì đây? Chúng kêu hắn lại và chỉ ở chân trời phía
trước có một đốm đỏ cỡ lớn hơn đầu điếu thuốc một chút, chớp tắt đều đặn từng
chập. Chúng bảo đó là ánh đèn của ngọn hải đăng nằm trên một hòn đảo nhỏ không
mấy xa bờ Thái Lan cho lắm. Chúng bảo là không thể kéo mình vô đất liền được vì
sợ cảnh sát Thái bắt, nên ra lệnh bắt buộc tất cả phải trở về ghe ngay lập
tức.
Ai nấy đều nhao nhao lên quá sợ vì ghe đã bị bể rồi, lại nữa đất liền còn xa
quá, làm sao đây? Mọi người xúm nhau năn nỉ bọn chúng bằng đủ các thứ ngôn ngữ
để xin chúng kéo tiếp vào bờ. Vô ích. Có hai ba chị dằn co khóc la dữ quá khiến
chúng nổi dóa phải đè khiêng thải qua ghe. Khi mọi người trở về hết bên ghe,
bọn Thái liền chặt dây và rồ máy vọt mất trong đêm tối...
Ghe tiếp tục trôi chầm chậm theo sóng nước. Biển rất yên. Trời dần dần sáng tỏ.
Đàng xa, bóng dáng của một trái núi bắt đầu xuất hiện lờ mờ ở chân trời phía
trước và càng lúc càng rõ nét thêm hơn. Hầu như tất cả bọn đàn ông con trai đều
kéo róc nhau lên ngồi trên mui ghe, hồi hộp chờ đợi…
Chầm chậm và chầm chậm chiếc ghe định mệnh từ từ trôi về hướng núi... 10 giờ,
rồi 11 giờ, trái núi lần lần hiện ra rõ nét thêm, có thể nhìn thấy những đám
rừng trên cao chen lẫn những tảng đá to tướng xám xì xám xịt,...11 giờ ruỡi mọi
người hết sức hồi hộp. Tưởng chừng như chết đi
sống lại Còn khoảng 200 mét thì tới bờ. Rồi 100 mét… Rồi 50 mét… thình lình
lườn ghe chạm đá ngầm kêu rồn rột, chòng chành lắc qua lắc lại, nghiêng qua một
bên và rồi dừng hẳn lại. Hắn và các bạn cùng phóng xuống nước chỉ tới ngang ngực mà thôi. Chân hắn vừa
chạm đất thì…nước mắt hắn cũng tuôn trào ra vì quá vui mừng và quá xúc
động.
Khi tất cả mọi người trên ghe đều vô được trong bãi cát, hắn và vài người bạn
mới đi vòng qua các đồi nhỏ, len lõi giữa đám cây rừng hoang dã, theo đường mòn
vòng qua phía bên kia núi. Thình lình, ngước lên vách núi ở đàng xa bọn hắn
thấy có bóng dáng một người đang đi lơn tơn. Hắn và mấy người bạn đều đồng loạt
la lên, ra dấu bằng cách quơ tay quơ chân tới tấp.
Người đó đã nhận thấy và đi chầm chậm về hướng của bọn hắn. Đó là một anh lính
Thái có nhiệm vụ gát trạm đèn pha trên đảo hoang nầy.
Ngoài ra không có nhà cửa của dân cư nào khác tại đây hết. Hắn bèn trình bày sơ
sơ hoàn cảnh cho anh ta biết. Anh ta lập tức trở về đồn và điện vô đất liền.
Anh cho biết đây là một đảo nhỏ của Thái Lan nằm ngoài khơi, không mấy xa thành
phố duyên hải Rayong, 150km về phiá nam Bangkok
Thế là kể như thoát nạn rồi, nhưng để cho chắc ăn, tối hôm đó hắn và vài người
bạn lẻn xuống chiếc ghe và dùng búa đập phá cho nước vào thêm trong hầm khoang
để khỏi bị cưỡng bách kéo ra khơi trở lại. Lan Chau Nguyen [http://%20nguoiphuongnam52.blogspot.com/2021/03/boat-people-lan-chau-nguyen.html]http:// nguoiphuongnam52.blogspot.com/2021/03/boat-people-lan-chau-nguyen.html
Nhập cảnh Thái Lan Sáng ra, một tàu cảnh sát Thái ra đón tất cả 69 người về sở cảnh sát Rayong để
lấy lời khai và làm thủ tục nhập cảnh. Chấm dứt một cuộc vượt sóng kinh hoàng!
Cái giá phải trả cho sự Tự Do!...
Ngủ tại đây một đêm, hôm sau thì tất cả mọi người đều được đưa về trại tỵ nạn
Laem Sing. Đó là ngày 31 tháng 3 năm 1980. Ngày 22 tháng 6 năm 1980, hắn cùng vợ và hai đứa con được bốc đi
định cư tại Canada, xứ lạnh tình nồng, đất lành chim đậu. Cuộc đời trước mặt đổi thay và hắn vẫn tiếp tục đi…/. Tự Do là vô giá! Xin cám ơn TRỜI PHẬT. Thank you CANADA Lời bạt Chuyến bay charter Wardair ngày 22/6/1980 cất cánh từ Bangkok đã đưa trên 300 người dân tị nạn Việt Nam qua định cư tại Canada. Sau khi ghé Nhật Bản (căn cứ Guam hay Okinawa?) để lấy thêm nhiên liệu, phi cơ tiếp tục bay đến Canada. Đáp xuống phi trường Edmonton (Alberta) một giờ, xong bay tiếp đến phi trường Mirabel, phía Bắc Tp Montreal. Một cảm giác mừng vui, lo âu, bồi hồi, hoang mang, xúc động không
thể nào tả hết cho được. Đây là đất tự do, là tương lai của con của cháu
mình. Trên mười chiếc xe bus quân sự loại lớn đón tất cả người tị nạn về tạm trú tại
căn cứ quân sự Longue Pointe nằm ngay trên đường Hochelaga, Montreal. Đây là một
Immigration processing center hay nơi làm thủ tục định cư. Gia đình người gõ thuộc diện “mồ côi” nên được hội nhà
thờ bảo trợ. Một tuàn sau tất cả được đưa ra phi trường Dorval (nay là phi trường Trudeau) để đi
định cư tại Montague. Đây là một thành phố 2000 dân cư thuộc tỉnh bang PEI
(Prince Edward Island) nằm về phía Đông Canada. Nhà thờ Công giáo St Marys Parish và nhà thờ Tin Lành United Hillcrest Church tại
Montague đã đứng ra bảo trợ trong một năm. Họ là những ân nhân đã dang rộng
vòng tay nhân ái đón tiếp gia đình mình trong buổi ban đầu tại miền đất hứa.
Người gõ xin mượn lời suy tư của nhà văn Phạm Tín An
Ninh (định cư tại Na Uy)đã nói lên lòng biết ơn sâu xa của người tị nạn Việt
Nam đối với thế giới tự do: “Họ là nhừng kẻ xa lạ, không cùng màu da,
màu tóc, không cùng ngôn ngữ, mà lòng thông cảm yêu thương họ đã dành cho chúng
tôi lớn lao biết đến dường nào. Trong lúc những "người anh em" cùng một
nhà thì lại hành hạ đuổi xô chúng tôi đến bước đường cùng để phải đành lòng bỏ
nước mà đi”.
(Ngưng trích:Cô con gái quá giang đêm mồng một Tết-
Phạm Tín An Ninh) Montague là một thành phố nhỏ nên buồn lắm. Tại nơi đây, người gõ đi làm
lặt vặt như hái thuốc lá, hái dâu Tây và làm công nhân lao động trong nhà máy
biến chế thủy sản GeorgeTown Seafoods, nhưng chỉ được 2 tháng thì bị cho nghỉ
việc vì mùa Đông nhà máy đóng cửa. Tháng 3 năm 1981, gia đình quyết định dọn về Montreal để lập
nghiệp. Trong một hai năm đầu, hai vợ chồng đều đi làm trong hãng xưởng với lương tối thiểu
3.75$/giờ. Chồng làm cho một hãng dụng cụ, phụ tùng điện và plastic tại Ville
Mont Royal, Montreal. Vợ thì đi làm cho một xưởng sản xuất nử trang rẻ tiền tại
Ville Saint Laurent, gần phi trường Montreal. Sau đó thì hai vợ chồng tìm cách đi học lại. Cuộc đời trước mặt và hắn vẫn tiếp tục đi./.
Nguyễn Thượng Chánh |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 110 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |