Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 110 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23828
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 30/Mar/2021 lúc 11:39am


Bí%20ẩn%20những%20ngọn%20đèn%20ngàn%20năm%20không%20tắt%20-%20DKN.News
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23828
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 30/Mar/2021 lúc 1:14pm





Hải pháo từ Cát Lỡ bắn liên hồi
Thục vào cầu Cỏ May ầm ì chận giặc
Ngày hăm chín Vũng Tàu sôi máu sắt
Đại bác quân thù ì ỏm bắn ra khơi
Trước mũi tàu đạn giặc rót loạn lung
Các chiến hạm neo xa, lù lù chờ lệnh

Pháp%20Luật%20Plus%20-%2048%20giờ%20cuối%20cùng%20trước%20ngày%2030/4/1975

Rối loạn, mọi người đổ xô cửa biển
Thuyền bè đáo đôn ngổn ngang đi, ở
Ba Mươi Tháng Tư mưa sầu nức nỡ
Ai khóc cho mình, hay trời khóc quê hương?
Bãi biển tang thương uất hờn héo hắt
Bao nhiêu cảnh người, ruột thắt từng cơn

06/11/1963:%20Dương%20Văn%20Minh%20lên%20lãnh%20đạo%20Nam%20Việt%20Nam

Trên máy phóng thanh Minh Lớn đầu hàng
Là tiếng dao bầu cứa ngang tấc cổ
Cả trời tin yêu một lòng anh dũng
Tuổi trẻ kiêu hùng dâng hiến quê cha
Nay quê chẳng còn, con buông chí cả
Mai con đi rồi ai giữ quê ta?
Diễn%20tiến%20&%20lý%20do%20đầu%20hàng%2030/4%20|%20Vũ%20Thất

Chiều Ba Mươi chìm cơn dông tố
Cả một đoàn tầu vĩnh quyết chia ly
Hạm Đội chưa hề về đông như thế
Không đánh quân thù, lại thãm bại ra đi
Khu Trục dẫn đầu súng cao hiễn hách
Tuần Dương, Hộ Tống, Dương Vận hải uy
Giang Pháo, Trợ Chiến, Tuần Duyên, Tiếp Vận
Cả một dũng đoàn sức mạnh ai bì
Mấy chục con tàu tiến quân đau xót
Quê Mẹ không còn, đuổi kẻ ra đi

A%20lonely%20sad%20old%20man%20relaxes%20on%20a%20bench%20...%20|%20Stock%20Video%20|%20Pond5

Mỗi ngày xa quê là một ngày lạc lỏng
Mỗi bóng mặt trời là một kiếp khổ sai
Mỗi tối hoàng hôn là âm tỳ tủi nhục
Mỗi sóng reo đuà là mũi nhọn chởm gai
USS%20Tuscaloosa%20%28CA-37%29%20–%20Wikipedie

Ngày Bảy tháng Năm tàu vào Phi phận
Con số chiếc tàu sơn cạo, xoá tên
Bao nhiêu uy danh nay thành hư ảo
Khối sắt vô hồn, thây xác rỗng tênh
Còi chào sĩ quan nghe cay đắng nhức
Viên chức Hoa Kỳ trình Ủy Nhiệm Thơ
Nhận các con tàu vừa thành vô chủ
Áo biển trẻn trơ ngày mất bến bờ
Lịch%20Sử%20Lá%20Cờ%20Vàng%20–%20Trần%20Gia%20Phụng%20–%20tvvn.org

Chiều gió mơ màng hàng người im phắc
Đứng thẳng boong tàu cứng ngắt, chào tay
Nhìn lá cờ vàng lòng đau quặn thắt
Còi thổi: 'Hạ kỳ', mọi mắt đều cay
Có kẻ nấc lên người kềm nước mắt
Nhìn lại bạn bè hận ức bủa vây
Sự%20Tích%20Khăn%20Tang%20-%20Điển%20Tích%20-%20Hoavouu.com

Hăm Chín Tháng Tư khăn tang ban phát
Tàu có hai xuồng chung thủy đón đưa
Lệnh gom quân vĩnh biệt đến giờ
Không kéo thuyền lên, mà đành đoạn cắt
Thủy thủ chặt giây, hồn tim se thắt
Lià bỏ con thuyền dứt bến bờ thương
Mồng Bảy tháng Năm ta mang đời tị nạn
Từ đó sâu hằn dấu tích quê hương


CÁT BIỂN


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 30/Mar/2021 lúc 1:29pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23828
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 31/Mar/2021 lúc 8:02am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23828
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/Apr/2021 lúc 10:03am

Thằng Nhỏ Cầm Cái Lon... Con Thương Phế Binh VNCH


      Thằng bé lắc đầu lia lịa và nói không uống. Tôi hỏi nó làm gì ngày nào cũng ra đây? và hiện sống với ai? Thằng bé như đoán được rằng: tôi chỉ là người khách ghiền cà phê nặng nên hàng ngày đóng đô ở đây nên nó cũng trả lời nhanh nhẹn rằng:

- “Con sống với ba má con, Ba con đi làm xa còn Má con đi phụ buôn bán ở ngoài chợ…”     

Tôi hỏi tiếp:

- “Còn con có đi học không ?”

Thằng bé nói:

- “Con không có đi học… con ở nhà phụ với má nuôi heo…”…

      Đó là lý do để nói lên sự hiện diện hằng ngày của nó nơi quán ăn nầy. Nghe thằng bé nói như thế, tôi nói với chị chủ quán ăn giúp cho nó lấy những cơm và thức ăn thừa, và cũng từ đó nó không còn đứng lúp ló ngoài cửa quán nữa. Và nhờ tánh tình hiền hậu thật thà chị chủ quán cho nó vô phụ dọn bàn đề lấy thức ăn dư mang về và cho nó ăn uống để phụ việc. Từ đó tôi và nó gần gũi nhau hơn và thân với nhau lắm.

3564%201%20ThangBeCamCaiLonMTao%20HH%20ST

Có lần thằng bé hỏi tôi:

- “Chú làm nghề gì vậy hả chú?”

Tôi chỉ trả lời ngắn gọn là ” Chú đang làm thinh”.

      Đúng vậy mới cải tạo về mà, vợ con thì đã theo bên ngoại vượt biển hết rồi, nghe đâu đã định cư bên Úc, nay về ở với mẹ già ngày 1 buổi cà phê hai bữa cơm độn qua ngày. Thời gian ngột ngạt chậm chạp trôi qua, may mắn vợ chồng tôi đã bắt liên lạc được với nhau. Thế là những bữa cơm không còn ăn độn khoai củ hay bo bo nữa nhưng vẫn quen cữ sáng cà phê quán gần nhà. Không biết chị chủ quán có bỏ bùa mê hay tôi ghiền chỗ ngồi mà không bữa nào vắng tôi. Một hôm, tôi đề nghị theo thằng bé về nhà nó chơi cho biết vì nó nói ở cũng gần không xa lắm. Thấy nó do dự và tỏ vẻ sợ sệt, tôi biết ngay nó đang dấu diếm điều gì. Thương nó lắm, tôi dúi tiền cho nó hoài. Mấy hôm sau tôi lẳng lặng đi theo nó khi nó mang cơm và thức ăn dư về nhà buổi trưa. Khi thấy nó lủi vô một cái chòi nhỏ xíu thì tôi thật sự không ngờ.

      Đứng dưới gốc cây Gòn cách nhà nó không xa tôi thầm nghĩ, nhà chút xíu như vậy gia đình 3 người ở thì chỗ đâu mà nuôi heo. Tôi đang đứng suy nghĩ đốt cũng hết mấy điếu thuốc thì thằng nhỏ lục tục xách lon xách nồi đi ra quán để thu dọn thức ăn buổi chiều. Đợi thằng bé đi khuất tôi lò mò đến nơi mà hồi nẫy nó vào. Đến đó mới nhìn rõ thì thật ra đâu có phải là nhà, một lõm trống được che dựng lên bằng những phế liệu đủ loại muốn chui vào phải khom mọp xuống. Nghe thấy có tiếng chân dừng lại, có tiếng đàn bà vọng ra hỏi. Tôi trả lời là đi kiếm thằng Tuất, thì nghe giọng đàn ông cho biết nó vừa đi khỏi rồi, và hỏi tôi là ai, mời tôi vào…. Vừa khom người chui vào tôi mới thật sự không ngờ những gì hiển hiện trước mắt tôi.

      Người đàn ông hốc hác cụt hai giò tuổi cũng trạc tôi nhưng trông yếu đuối, lam lũ và khắc khổ lắm. Một người đàn bà bệnh hoạn xác xơ cả hai đang ăn những thức ăn thừa mà thằng bé vừa mới đem về. Vừa bàng hoàng, vừa cảm động vừa xót xa, nước mắt tôi bất chợt tuôn rơi mặc dù tôi cố nén…

     Từ đó, tôi hiểu rõ về người phế binh sức tàn lực kiệt sống bên người vợ thủy chung tảo tần nuôi chồng bao năm nay giờ mang bịnh ác tính nặng nề thật đau xót. Tôi móc hết tiền trong túi biếu tặng và cáo lui. Về đến nhà tôi vẫn mãi ám ảnh hoàn cảnh bi thương của gia đình thằng bé mà tôi bỏ cơm nguyên cả ngày luôn. Sáng hôm sau ra uống cà phê, thằng bé gặp tôi nó lấm lét không dám nhìn tôi vì nó đã biết trưa hôm qua tôi có tới nhà nó. Nó thì tỏ vẻ sợ tôi, nhưng tôi thực sự vừa thương vừa nể phục nó nhiều lắm. Tôi kêu nó lại và nói nhỏ với nó tại sao không cho tôi biết. Tội nghiệp nó cúi đầu im lặng làm lòng tôi thêm nỗi xót xa. Có khách kêu trả tiền, như có cơ hội né tránh tôi nó chạy đi dọn bàn và tiếp tục công việc thu dọn thức ăn. Hèn gì sau này nó để thức ăn dư phân loại đàng hoàng lắm. Tội nghiệp hoàn cảnh của thằng bé mới mấy tuổi đầu mà vất vả nuôi cha mẹ theo khả năng chỉ tới đó.

       Cha là một phế binh cũ trước 75 cụt hai chân, mẹ thì bị bệnh gan nặng bụng phình trướng to khủng khiếp và cặp chân sưng vù lên đi đứng thật khó khăn, nước da thì vàng mét như nghệ. Thằng bé là lao động chánh trong gia đình, nó có hiếu lắm. Từ đó tôi thường cho tiền đứa bé mua bánh mì cơm gạo về nuôi cha mẹ.

3564%202%20ThangBeHH%20ST

      Vợ tôi làm thủ tục bảo lãnh tôi sang Úc. Ngày tôi đi tôi đau xót phải để lại hai nỗi buồn đó là để mẹ và em gái lại quê nhà và không còn cơ hội giúp đỡ thằng bé nữa. Sang Úc định cư, tôi sống tại tiểu bang Victoria mấy năm đầu tôi hết sức cơ cực vì phải vật lộn với cuộc sống mới nơi đất mới và đối với tôi tất cả đều mới mẻ và xa lạ quá. Từ ngôn ngữ đến thời tiết đã làm tôi lao đao không ít. Thỉnh thoảng tôi gởi tiền về nuôi mẹ và em gái không quên dặn em gái tôi chuyển cho thằng bé chút ít gọi là chút tình phương xa.

      Mấy năm sau tôi về thăm gia đình, tôi có ghé tìm thằng bé thì nó không còn lấy thức ăn trong quán đó nữa. Tôi mới kể rõ hoàn cảnh thằng bé cho chị chủ quán biết. Chị chủ quán đôi mắt đỏ hoe trách tôi sao không cho chị biết sớm để chị tìm cách giúp gia đình nó. Tôi chỉ bào chữa rằng tại thằng bé muốn giấu không cho ai biết! Tôi ghé vội qua nhà thằng bé thì mới hay mẹ nó đã qua đời vì căn bệnh ung thư gan. Chỉ còn chèo queo một mình ba nó ở trần nằm một góc trông hết sức thương tâm. Hỏi thăm thì mới biết nó đã xin được việc làm đi phụ hồ kiếm tiền về nuôi cha.

      Chúa nhật tôi tới tìm thằng bé, chỉ mới có mấy năm mà nó đã cao lớn thành thanh niên rất đẹp trai duy chỉ đen đúa vì phơi nắng để kiếm đồng tiền. Tôi dẫn nó trở ra quán cà phê cũ, thấy nó hơi ái ngại, tôi trấn an là bà chủ quán tốt lắm tại không biết được hoàn cảnh gia đình nó. Ra đến quán ăn chị chủ quán năn nỉ nó về làm với chị, dọn dẹp và bưng thức ăn cho khách nhẹ nhàng hơn đi phụ hồ và chị sẽ trả lương như đang lãnh bên phụ hồ, tối về thức ăn thường bán không hết chị cho đem về nhà dùng khỏi phải mua hay đi chợ. Lần đầu tiên tôi thấy nó khóc, chị chủ quán cũng khóc theo làm tôi phải đứng dậy bỏ ra ngoài để khỏi phải rơi nước mắt vì chịu không nỗi.

      Thằng Tuất vừa khóc vừa nói: “Sao ai cũng tốt với gia đình con hết đó, nhưng vì con đang làm phụ hồ cho anh Năm, anh ấy cũng tốt lắm giúp đỡ gia dình con nhiều lắm, sáng nào cũng mua cho ba con gói xôi hay bánh mì trước khi tụi con đi làm. Con cũng mang ơn ảnh nhiều nên con không thể nghỉ được, con xin lỗi”. Không biết thằng Tuất nó nói thật hay nó ái ngại khi quay về chỗ mà ngày nào cũng cầm cái lon chầu chực trút đồ ăn dư về nuôi cha mẹ. Phải thông cảm nó, phải hiểu cho nó, phải cho nó có cái hiện tại và tương lai tốt hơn, đẹp hơn ngày trước. Chị chủ quán vừa gạt nước mắt vừa nói “Bất cứ lúc nào con cần đến cô thì con đừng ngại, cho cô biết nhé “…

      Đời nầy cũng còn có những hoàn cảnh bi đát ít ai biết đến, và cũng có những đứa con xứng đáng như thằng Tuất. Ngày về lại Úc, tôi đến biếu hai cha con nó hai triệu đồng, thấy nó và ba nó mừng lắm tôi cũng vui lây. Không biết phải giúp gia đình nó như thế nào, tôi chụp hình ba nó, photo giấy tờ ba nó đem về Úc gởi cho Hội cứu trợ thương phế binh bị quên lãng trụ sở ở Sydney. Mấy tháng sau nhận được thư ba thằng Tuất viết qua, ông quá vui mừng khi được Hội bên Úc giúp đỡ gởi tiền về, ông cho biết suốt bao nhiêu năm qua lần đầu tiên ông thấy được niềm hạnh phúc khi cuộc đời phế binh của ông còn có người nhớ đến.

3564%203%20ThangBeHH%20ST

      Không biết ông ấy vui bao nhiêu mà chính tôi cũng hết sức vui mừng khi thực hiện một việc làm đem niềm vui đến cho những người phế binh sống hết sức đói nghèo bên quê mẹ. Tôi xin cảm ơn cả hai: người chiến sĩ vô danh sống trong hẩm hiu và Hội cứu trợ thương phế binh đã thể hiện tình người trong công việc hết sức cao cả này.

Minh Tạo

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23828
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 02/Apr/2021 lúc 7:56am
Tháng%20Tư%20Đen%20và%20Quân-Cán-Chính%20Việt%20Nam%20Cộng%20Hòa%20qua%20Thơ%20Tranh%20%28Lê%20Ngọc%20%20Châu%29%20|%20Thanh%20Thúy
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23828
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 02/Apr/2021 lúc 1:07pm

ImageProxy.gif

Những người lính cũ


 

Hình%20minh%20họa











Hai người phụ nữ chở nhau trên chiếc xe gắn máy đi vào thành nội Huế, dưới cơn mưa đầu tháng 11. Nước ngập ngang xe, người chở xe là một Ma Xơ trẻ, quay đầu lại nói với người ngồi phía sau:

- Cô à, mình xuống dắt xe đi bộ, kẻo nước vô trong máy xe, tắt máy bây giờ thì khổ lắm.

Cả hai xuống xe, trời tối, mưa trên đầu, nước lụt ngang bắp chân, hai người đàn bà vừa đi vừa tìm số nhà. Ma Xơ, người địa phương, còn trẻ lắm, và tôi đến (hay về) từ một nơi bên kia địa cầu. Ma Xơ chắc đã quen với mưa lũ, và đường phố nên đi nhanh hơn trong khi tôi vừa lạnh vừa dò dẫm trong nước, bước hụt vào một cái ổ gà hay vấp vào vỉa hè, chao đi suýt ngã mấy lần. Cuối cùng chúng tôi cũng tìm được số nhà muốn tìm. Có người đàn bà đang tát nước ra ngoài lối đi. Tôi hỏi bà:

- Thưa có phải nhà của ông Hồng không ạ?

- Dạ phải, mời bà vào.

Bà mở cổng, chúng tôi vào một lối đi dài, bên phải là mặt chính của nhà, bên trái có năm ba bụi cây cao thấp, trời tối quá không nhìn rõ những chiếc lá, bóng tối làm bụi cây trông như những cái dù to màu đen. Bà chủ nhà như được báo trước sẽ có khách, mời khách đi thẳng vào cuối nhà, chỉ tay lên chiếc gác lửng:

- Em tôi ở trên đó, bà cứ leo lên.

Bà nói xong đi ra, tiếp tục cúi xuống tát nước từ trong nhà ra ngoài đường. Ma Xơ ở bên ngoài trông xe, tôi đứng tần ngần nhìn chiếc cầu thang, rồi rụt rè leo lên những bực gỗ nhỏ. Một người đàn ông đang ngồi trên đó đón tôi bằng khuôn mặt rạng rỡ:

- Em có nhận được phôn từ hai hôm nay ở Sài Gòn, nói là sẽ có người ở bên đó đến thăm.

(Anh dùng chữ bên đó để chỉ người ở nước ngoài về).

Tôi xin lỗi đến trễ một hôm, tôi đã lỡ chuyến máy bay Sài Gòn-Huế hôm trước vì phi trường Phú Bài ngập nước, máy bay không hạ cánh được và chúng tôi mới đến chiều nay. Sau khi lấy phòng ở khách sạn tôi đã may mắn nhờ ngay được một Ma Xơ còn trẻ, nhanh nhẹn tìm nhà hộ, nếu không thì chắc sáng mai mới tới được.

Tôi ngồi xuống sàn gác đối diện với anh, hai chân tôi vướng víu vì dài quá và ống quần bị ướt sũng. Trước mặt tôi là người đàn ông trung niên, khỏe mạnh, tươi tỉnh, cụt cả hai chân sát đến thân, ngồi giữa những đồ dùng cá nhân của anh, tôi không nhìn kỹ và nhớ anh có những gì chung quanh, hình như có mấy cuốn sổ lớn nhỏ, cái bình thủy, bình trà, cái radio, quần áo, chăn gối và cái điện thoại cầm tay.

Thế giới của anh thu gọn trên gian gác khoảng ba thước vuông. Người lính Thủy Quân Lục Chiến này, không may mắn bị thương tháng 1 năm 1975. Vì mất cả hai chân nên anh không “được” đi cải tạo, vì không được đi cải tạo nên anh không vào được danh sách H.O. Tôi hỏi thăm gia cảnh, được biết anh ở đây với gia đình người chị, anh bị thương khi còn trẻ quá chưa có cơ hội lập gia đình. Anh cho tôi một danh sách của những người bạn cùng hoàn cảnh như anh, so với danh sách tôi nhận được ở Sài Gòn thì có một vài tên khác nhau. Anh nói, phải cẩn thận vì có thể họ không phải là những người thương phế binh thật. Tôi nói, không sao cả miễn là những người này cần được giúp đỡ.

Tôi chia tay anh, hẹn trưa ngày mai sẽ gặp mặt mọi người. Anh cầm điện thoại, mở sổ, liên lạc ngay với các bạn, giọng anh dồn dập, gọi từng người:

- Trưa mai, 1 giờ nghe, đến nhận quà, có người bên đó qua thăm.

Tôi và Ma Xơ lội nước về khách sạn. Tin tức khí tượng cho biết cơn lũ vẫn tiếp tục dâng. Lũ năm nay là lũ ngâm, có nghĩa là hết cơn nọ, tiếp cơn kia, nên nước không rút kịp, cứ giữ hoài một mực ở những nơi trũng và ở sông Hương. Nước sông Hương đục ngầu vì pha đất bùn. Cả thành phố Huế gầy gò, run rẩy trong mưa lũ, tôi đi ngủ thấy mình bồng bềnh trong câu hát “Quê hương em nghèo lắm ai ơi! Mùa Đông thiếu áo, Hè thời thiếu ăn. Trời hành, Trời làm cơn lụt mỗi năm…”

Cả đêm trời mưa, đến sáng đổ xuống một cơn mưa lớn, nước trôi phăng phăng trên đường Đống Đa, trước cửa khách sạn. Tôi mặc áo dài, trùm áo mưa, bối rối lội nước đi lễ ở nhà thờ Dòng Thánh Tâm trên đường Phan Đình Phùng, đi trong nước và gió, tưởng như sắp bị cuốn xuống con nước sông Hương đã dâng mấp mé mặt đường. Nhưng may quá, đến trưa mưa tạnh, nước rút bớt ở một vài con phố. Tôi nhờ Ma Xơ chở lại căn nhà hôm qua.

Đến nơi tôi thấy ở gian trước, đã có năm bảy người đàn ông đang ngồi chung quanh chiếc bàn nhỏ chờ tôi tới. Mới thoáng nhìn tất cả mọi người, tôi biết ngay là họ phải có thân nhân chở tới chứ không thể tự di chuyển được. Thấy tôi đến họ bối rối không biết mời tôi ngồi đâu, tôi đề nghị ngồi cả xuống sàn nhà cho rộng, tôi bỏ giày vào ngồi chung với họ. Ngồi trước mặt họ, tôi thấy có điều gì không ổn, hình như đối với những người đang quây quần nơi này, tôi là người dị tật. Tôi dư hai cái chân. Tôi lúng túng không biết để hai cái chân thừa này vào đâu. Bảy người bạn này, không ai có chân cả, có người lại mất thêm một cánh tay, có một người mù.

Chúng tôi nói chuyện với nhau.

Tôi hỏi han từng người. Các anh cho biết, phần đông bị thương ở Mùa Hè Đỏ Lửa (1972), có người bị thương ngay đầu năm 1975, lúc đó đang nằm ở Quân Y Viện bị đuổi ra đường. Tôi ngập ngừng hỏi:

- Làm sao mà các anh sống còn cho đến bây giờ, nhất là trong thời gian những năm ngay sau ngày 30 tháng 4.

Các anh cười (đặc biệt lúc nào họ cũng có nụ cười trên miệng).

- Khổ lắm chị ơi! Nhưng chúng em nhất định sống, người thì nương vào vợ con, người thì nương vào cha mẹ, anh chị. Thế rồi chúng em cũng qua được hết. Vài năm mới đây, các anh em ở Saigon nhận được quà của các anh chị bên đó gửi về trước, rồi đến chúng em ở Huế. Mỗi lần lễ Tết chúng em có quà cũng có bữa tiệc nhậu nhẹt với nhau, vui lắm, nhưng vẫn phải giữ gìn, kín đáo.

Anh cụt một tay, đưa mẫu tay cụt gần đến khuỷu ra khoe với tôi.

- Em không có hai chân, cụt một tay em vẫn làm thợ lò rèn được, em cuốn dây thép ngay vào chỗ này, để cái phần thép dư ra trên cái đe, tay còn lại em cầm búa đập cho dẹp ra. Cũng kiếm được hai chén cơm một ngày.

Tôi không nói được câu nào, nhìn xuống phần quắt queo của cái tay gẫy, tưởng tượng ra sợi thép to bản quấn nghiến vào đó, ngậm ngùi, thán phục.

Đang nói chuyện thì có một anh đi xe lăn đến, anh bị liệt từ lưng trở xuống. Anh không xuống xe, anh ngồi yên trước cửa nhà. Cũng không thấy ai có ý đỡ anh xuống đất ngồi. Anh nói ít, nét mặt buồn buồn, những người bạn khác cho biết. Anh phải nhờ giúp đỡ hoàn toàn về lên, xuống xe, làm vệ sinh, vì anh không thể nào tự đứng lên trên hai chân được. Tụi em tuy cụt cả hai chân, nhưng lê trên hai mông và khỏe hơn anh, nên tự túc vệ sinh cá nhân được.

Tôi ngồi ngắm họ, tám người đàn ông này, vào năm 1975 họ còn trẻ lắm (Người lớn tuổi nhất sinh năm 1939, người trẻ nhất sinh 1954) họ mất cả hai chân, có anh còn mất thêm một cánh tay, có anh vừa không chân vừa mù. Làm sao mà họ sống còn được với cơn lốc hậu chiến! Ngay cả người lính còn đủ mắt, mũi, chân tay đã điêu đứng lắm rồi! Vậy mà sau bao nhiêu khổ nhục họ vẫn tìm đến nhau, dựa lưng vào nhau để tồn tại.

 

Đây là những câu thơ họ viết cho nhau đọc:

Tháng Tư gẫy súng hao gầy

Vòng tay khói thuốc tháng ngày hư hao

(Hồng Trần)

Cũng đôi lần đi qua đường cũ

Núi rừng xưa loang lỗ chừ đã xanh cây

Rừng xanh lá còn đời tôi héo úa

Cũng đôi lần đi qua thành phố cũ

Vết chiến tranh chừ đã tân trang

Phố vươn mình thay da đổi thịt

Riêng đời tôi cứ mãi cơ hàn

(Nguyễn Nghệ)

 

Tôi thương cảm và kính phục họ, trong hoàn cảnh khốn cùng nhất, bằng cách nào đó, họ vẫn đứng vững (không cần chân) và duy trì được tinh thần đồng đội, thái độ bất khuất của những người lính.

Tôi tặng mỗi người một phong bì, một phần thuốc bổ. Khi tôi trao vào tay từng người món quà nhỏ đó lòng tôi thật rưng rưng, nước mắt ứa ra (mặc dù tôi cố cầm lòng).

Tôi không biết mình muốn nói lời gì để cảm ơn những người lính này? Họ là dấu tích, là niềm tự cao của một thời hòa bình bên này; hay là huy chương, là tinh thần anh dũng của một thời chiến tranh bên kia. Người Việt Nam đứng ở hai bên vĩ tuyến 17, xác định bên này, bên kia theo tiêu chuẩn nào?

Tôi trao đổi địa chỉ với những người bạn mới này, xin số phôn liên lạc và danh sách của những anh em ở Quảng Trị. Khi ra về, tôi hứa sẽ không quên họ (?).

Sáng hôm sau trời vẫn còn mưa tầm tã, tôi liên lạc, hẹn gặp được với anh Sự ở Quảng Trị và thuê xe đi La Vang, Quảng Trị. Trên đường từ Huế ra La Vang nước sông dâng cao, có chỗ mấp mé mặt đường, có chỗ ngập tràn tóe nước trên bánh xe chạy. Nhà cửa ruộng vườn hai bên ở thụt xuống nên nước ngập cao cả thước, thỉnh thoảng có một chiếc thuyền chở mấy đứa nhỏ từ trong nhà lên mặt đường, chúng ướt như mấy con thỏ nhỏ vừa bị tuột lông, trông thương quá! Giữa vùng nước bát ngát tôi đọc được trên một tấm bảng dài, sơn đỏ, kẻ chữ vàng :“Việt Nam Dân Chủ Ấm No Quang Vinh Hạnh Phúc”. Tấm bảng đứng ngơ ngáo như một kịch sĩ ra trình diễn không đúng lúc.

Trận Mùa Hè Đỏ Lửa, ngôi giáo đường La Vang bị tàn phá nặng nề, tượng Đức Mẹ thương tích đến xót xa. Tôi đứng trước tượng, bức tượng nhợt nhạt trong mưa, những thương tích còn y nguyên, đôi mắt Mẹ buồn bã cúi nhìn. Tôi biết Đức Mẹ đã hiểu lòng tôi, tôi không cầu nguyện gì riêng cho mình cả, tôi đã dư đến hai cái chân, làm sao dám xin thêm một thứ gì nữa.

Tôi cũng ngạc nhiên là mình không bị cảm lần này. Lại đi trong mưa, trong gió, ghé vào Quảng Trị. Vùng đất Quảng Trị nơi người dân Việt có cuộc sống hẩm hiu nhất, vừa nghèo, chó ăn đá gà ăn muối, vừa hứng chịu những trận đánh khốc liệt. Nơi mỗi tấc đất đều thấm máu người trong thời chiến tranh huynh đệ.

Anh Sự hẹn tôi ở khúc đường, cách cầu Thạch Hãn 200 thước, anh đứng trong mưa, trùm chiếc áo mưa đỏ cho dễ nhận. Khi xe dừng lại anh cho biết đã hẹn những anh khác đang đến. Trời vẫn đổ mưa, không vào nhà anh Sự ở sâu trong ngõ được, tụ tập ngay ở quán cà phê bên đường, quán này cũng lại vừa là một cái chợ nhỏ, có người mặc chiếc áo mưa vàng, trên lưng in chữ CATP ghé vào. Anh Sự hơi lộ vẻ lo lắng trên mặt, chữ đó có nghĩa Công An Thành Phố, nhưng ông công an này chỉ ghé vào mua một trái mướp nhỏ trong khi đang công tác, rồi đi.

Lần lượt những chiếc xe ôm thả tám người vào quán. Tôi theo họ vào, họ không mất hai chân như các anh ở Huế, nhưng mỗi người có một bàn chân gỗ thò ra dưới ống quần nhầu nhĩ. Họ trông thảm hại, thiếu thốn quá! Chắc lúc khô ráo đã thảm hại rồi, mưa ướt còn làm tăng thêm nỗi nghèo khổ. Họ không được lạc quan như các anh ở Huế. Có anh mang theo cả chứng minh thư có số quân của ngày tháng cũ. Tôi thấy đau lòng quá. Tôi cũng chẳng nói gì với họ được lâu, vì còn phải quay lại Huế, trời thì mưa, lạnh, chỗ đứng trong quán chật hẹp, người ra vào mua bán, và hình như họ cũng không dám tụ họp lâu. Trông họ bồn chồn quá! Tôi ghi tên họ xuống (chỉ lấy tên, không lấy họ).

Có hai thanh niên trẻ đi nhận quà cho cha mình. Tôi có địa chỉ và điện thoại của anh Sự rồi. Tôi hứa với lòng là sẽ gọi một vài người bạn rất thân ở ngoài nước giúp những người bạn trong nước này có cái quần, cái áo ấm hơn trong những ngày mưa lụt, có miếng thịt miếng cá to hơn trong ngày lễ Tết.

Khi quay xe ra về, tôi nói anh tài xế cho tôi ngừng lại ít phút ở cầu Thạch Hãn. Nơi đây Mùa Hè Đỏ Lửa đã là mồ chôn của bao nhiêu người lính của cả hai miền Bắc Nam. Một tượng đài được dựng ngay bên cầu Thạch Hãn có mô hình những giọt máu đỏ đang chảy xuống. Tôi hy vọng khi treo những giọt máu này lên tượng đài, ai đó đã hiểu là những giọt máu này không phân biệt Bắc Nam, và chắc chắn một điều, nước dòng sông Thạch Hãn đã hòa máu, nước mắt của dân, quân cả hai miền.

Anh tài xế nói, vụ đánh Mùa Hè 1972, nơi đây không còn gì sót lại. Không nhà, không chó, không mèo, không người, một vùng đất chết. Tôi nhớ đến câu thơ của Giuseppe Ungarette(Thi Sĩ Ý 1888-1970) viết về một ngôi làng bị tàn phá trong chiến tranh. Những bức tường bị cào nát, người thân chết hết. Không còn gì cả ngoài thánh giá trong tim . But in my heart/No cross is missing/ My heart is the most tortured village (Trái tim tôi là một ngôi làng bị tra tấn nặng nhất).

Tôi trở về Mỹ mang theo hình ảnh và địa chỉ của những người lính cũ. Trái tim tôi có phải là một ngôi làng đang được chúc phúc hay không?

 

Trần Mộng Tú



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 02/Apr/2021 lúc 1:26pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23828
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 03/Apr/2021 lúc 11:47am

Thân phận!

 


  title

 

Mười năm khổ nhục trong tù, nay Chương được thả về nhưng bị cưỡng bức cư trú tại khu kinh tế mới Ðạm-Ri. Những tháng năm bị kiềm tỏa giữa núi rừng cheo leo, giờ được sải đôi chân tự do trên con đường dẫn về phố thị lòng Chương nghe phơi phới lạ thường!


Những bạn tù cùng trên đường về, người nào cũng nôn nao mong được gặp mặt người thân. Riêng Chương thì vô tư, chẳng bận tâm vì không còn ai để đoàn tụ. Chàng bây giờ sống đơn độc của một kẻ không nhà.


Cha mẹ Chương đã mãn phần từ lâu. Vân, vợ chàng và đứa con gái lên hai đã biệt tích từ năm 1976 khi ông Trương Thanh cha nàng ở Hà Nội về buộc Vân phải làm đơn ly dị chồng để lấy tên "cán bộ" thân cận của ông từ Bắc vào. Nàng chống cự quyết liệt rồi ôm con bỏ nhà ra đi. Ông Trương Thanh gởi đơn lên" chính quyền" tố cáo Hoàng Thuý Vân đã mang con vượt biên, vợ chồng ông không chịu trách nhiệm trước hành "động phản" quốc đó.


Hà%20Nội%20sản%20xuất%20gạch%20ngói%20theo%20công%20nghệ%20tiên%20tiến%20-%20KhoaHoc.tv

Sau khi làm thủ tục trình diện "chính quyền" sở tại, Chương may mắn xin được một chân công nhân gạch ngói tại vùng Madagui. Chàng có nơi ăn chốn ở tạm thời.


Ngay buổi đầu, anh em công nhân trong đội gạch ngói đã mở rộng vòng tay đón nhận Chương. Họ tận tình hướng dẫn, tập luyện cho chàng học nghề theo từng khâu một. Dù phải làm việc nặng nhọc liên tục dưới ánh nắng thiêu người, Chương vẫn cảm thấy hạnh phúc. Một niềm hạnh phúc đơn thuần của đời sống tự do ngoài vòng kềm kẹp. Giá trị mồ hôi đổ ra được trả công và nhân cách của chàng dù sao cũng không bị xúc phạm từng giờ từng phút như trong lao tù.


Đoàn%20xe%20tải%20cơi%20nới%20thành%20thùng%20tung%20hoành%20ở%20Thanh%20Hóa%20khiến%20dân%20sợ%20hãi


Sáng nay, một đoàn xe tải lần lượt nối đuôi nhau đậu trước sân lò ngói. Loa phóng thanh từ Ban Quản Trị yêu cầu công nhân tập họp chuyển ngói lên xe. Chương theo chân mọi người sắp thành hai hàng dọc. Mỗi hàng là một dây chuyền. Mỗi chồng ngói năm viên được chuyền tay nhau đưa vào tận lòng xe. Mọi người đang chăm chú làm việc, bỗng có tiếng gọi: “Ðại bàng, Ðại bàng !” Anh em công nhân đưa mắt hỏi nhau ai là đại bàng, rồi tất cả nhìn vào Chương khiến cho dây chuyền ngói khựng lại.


Một người đàn ông đầy đặn, tầm thước từ trong phòng lái bước xuống xe rồi tiến thẳng tới nơi Chương đứng. Anh ta kéo Chương ra khỏi hàng, ôm chặt lấy tấm thân gầy gò của chàng reo lên:


- “Ðại bàng ơi! em không ngờ thầy trò mình lại được gặp nhau đây. Cám ơn Trời Phật! Em đã hai lần ghé vào nhà cũ để hỏi thăm đại bàng về chưa nhưng căn nhà thì đổi chủ, chị Vân và cháu Vân Chuyên, nghe nói đã vượt rồi.”

“Ðường đạn may mắn” đã cắt đứt hàng lông mày bên trái để lại vết sẹo trên khuôn mặt Ðông đã giúp cho Chương nhận ra người tài xế năm nào. Chuyến đi công tác qua vùng Mỏ Cày thuộc tỉnh Quảng Ngãi cuối năm 1973, một viên đạn bắn sẻ của địch lướt qua trước mặt Chương rồi chạm sát vào da trán của Ðông lấy luôn hàng lông mày của anh ta. Nếu tốc độ xe lúc ấy nhanh hơn một tích tắc là chàng nhận đủ viên đạn vào đầu. Chương từ chối sự trợ giúp tài chánh của Ðông, viện lý do là lương công nhân đủ sống và cám ơn Ðông vẫn còn quí mến chàng.


Cuối%20năm,%20xúc%20động%20khi%20nhận%20những%20lá%20thư%20tay%20|%20Giới%20trẻ%20|%20Thanh%20Niên


Bảy ngày sau, Chương nhận được lá thư của Ðông:


“Anh Chương kính mến, Trước hết, em xin anh tha lỗi vì hôm gặp anh , em quá đường đột đã làm mất đi phép tắc của người thuộc cấp và đã khiến cho anh khá ngại ngùng vơí tiếng gọi “Ðại Bàng”. Nỗi vui mừng được gặp lại anh đã làm cho em quên giữ gìn ý tứ. Ôi, sung sướng biết chừng nào khi thấy anh còn lành lặn cho dù lao tù đã vùi dập anh suốt mười năm. Từ khi còn trong quân ngũ, cái nhóm từ huynh-đệ-chi-binh đối với em chưa đủ nói lên tình mặn nồng ruột thịt, chết sống có nhau như anh với đồng đội. Em rất kính trọng và thương quý anh, bởi anh là vị chỉ huy đã thể hiện tấm lòng nhân ái đối với binh sĩ dưới quyền. Chắc anh còn nhớ nhóm lưu linh của bọn em: Ðoàn, Hồng, Hiệp, Hàn và Ðông. Bọn em đã “tái kết nghĩa đào viên” trong năm vừa rồi. Chúng em hứa với nhau: “Ðứa nào gặp đại bàng Lê Hồng Chương trước là phải cấp báo ngay cho anh em. Ðồng thời, cùng nhau chăm sóc giúp đỡ ông Thầy”. Như vậy, em là người được diễm phúc gặp huynh, người anh cả đã một thời tận tụy với đàn em.


Ngày Mười Lăm tháng tới đây, nhóm lưu linh hẹn gặp nhau tại nhà em để được chúc sức khỏe ông thầy. Em sẽ đích thân xuống Madagui chở anh. Chúng em cũng có bàn thảo tìm một việc làm mới thích hợp với sức khỏe và năng lực của anh hiện giờ. Rất mong ông Thầy chấp thuận cho cuộc họp mặt tình nghĩa nầy. Ðại diện nhóm lưu linh.


Em Ðông.”


Ðọc xong bức thư, Chương bồi hồi xúc động. Thì ra trong cuộc biển dâu vẫn còn đọng lại một chút tình.


Cuộc gặp gỡ với những chiến hữu cũ đầy thân tình và cảm động. Họ xem Chương như một người anh và thật sự quan tâm tới chàng. Cái nhóm lưu linh ấy chẳng có người nào khá giả cả, hầu hết là công nhân và xã viên hợp tác xã. Riêng Ðông, đời sống có phần thoải mái hơn nhờ những gói cà phê quốc cấm giấu trong xe hàng hợp pháp. Họ tích cực vận động và qua trung gian của người đồng hương với Ðông, hiện là thủ trưởng một cơ quan ở huyện xin cho Chương một chân trong Tập đoàn Sản xuất Cà phê ở khu đất mới Tân Hội. Chàng có hộ khẩu thường trú và được phục hồi quyền công dân sớm sủa.


Độc%20đáo%20cách%20pha%20chế%20cà%20phê%20của%20người%20Êđê%20-%20Báo%20Đắk%20Lắk%20điện%20tử


Mùa cà phê đã đến thời kỳ thu hoạch. Ðồng bào dân tộc đến tấp nập ghi tên hái cà phê lấy công. Trẻ em cũng tham gia khá đông đảo. Chúng rất rành rẽ trong kỹ thuật hái cà phê, vừa làm vừa nói chuyện, cười đùa ríu rít. Trong số nầy có một em bé gái đồng lứa với các em khác nhưng làm việc còn rụt rè chậm chạp. Bạn bè gọi tên bé là Ca-len và em nói tiếng dân tộc Ra đê. Bé đeo những chuỗi cườm đủ màu sắc trên tay, trên cổ và một chiếc gùi quá lớn sau lưng. Thoạt nhìn, bé giống như một nghệ sĩ tí hon đóng vai dân miền Thượng.

THU%20HOẠCH%20CÀ%20PHÊ%20THỜI%20ĐIỂM%20NÀO%20LÀ%20HỢP%20LÝ%20–%20CAFÉ%20FIN


Con bé cũng có màu da bánh mật, đầu tóc cháy nắng vàng hoe. Ðặc biệt là mái tóc của nó được chải rẽ đường ngôi giữa đỉnh đầu và lúc nào cũng có kẹp vắt tóc hai bên thái dương. Với chiếc mũi dọc dừa nhỏ nhắn cùng cái miệng mủm mỉm xinh xinh khiến nó nỗi bật trong đám trẻ dân tộc kia. Bé làm việc cặm cụi, ít khi cười đùa. Nó chỉ trả lời mỗi khi bạn hỏi. Gặp lúc những câu chuyện kể vui vui, con bé nở nụ cười trông thật rạng rỡ, phô ra đôi hàm răng trắng ngần. Chương nhìn con bé mà nghe lòng xốn xang. Chàng nhớ đến Vân Chuyên đứa con gái của mình và người vợ đã vượt biên. Nhiều đêm Chương suy nghĩ nếu Vân đã đến được bến bờ tự do thì ít nhất nàng cũng biên thư gởi về nhờ bạn bè chuyển cho chàng. Ðã gần mười năm rồi còn gì! Từ ý nghĩ đó nên Chương hoàn toàn thất vọng. Biết đâu hai mẹ con nàng đã bỏ xác ngoài biển khơi!


Ngày mới quen nhau, Chương chỉ hiểu lờ mờ Vân mồ côi cha. Mẹ Vân, bà Hương quê Thừa Thiên đến lập nghiệp tại thị trấn Sông Vàng. Một khu thị tứ sầm uất nên nghề buôn bán vải của bà mỗi ngày mỗi phát đạt. Trong vòng có mấy năm mà mẹ Vân đã tạo dựng được một cơ nghiệp thuộc loại nhất nhì tại thị trấn. Tình của Chương và Vân ngày càng đậm đà khắn khít. Lễ thành hôn của hai người tuy đơn sơ nhưng thật thơ mộng: Chồng lính chiến, vợ nữ sinh. Họ hàng tham dự là đám áo màu tray-di cùng với đám nữ sinh, bạn học của Vân. Lễ cưới tựa như buổi tiệc khao quân có các em gái hậu phương chiêu đãi. Ngày vào tù, Chương được Vân báo cho biết cha nàng từ Hà Nội đã trở về gặp lại mẹ. Thì ra bà Hương đã dấu kín lý lịch có chồng tập kết ra Bắc. Lòng Chương cũng cảm thấy vui vui bởi từ nay bé Vân Chuyên có đầy đủ ông bà ngoại.


Các%20tỉnh%20Tây%20Nguyên%20đảm%20bảo%20các%20điều%20kiện%20thu%20hoạch%20cà%20phê



Ðến mùa thu hoạch cà phê, vùng đất mới Tân Hội rộn rịp hẳn lên. Xe tải, xe con của cán bộ thương nghiệp từ các nơi đổ về tấp nập. Tất cả thành phẩm cà phê trong vùng nầy khi xuất đi đều phải có giấy phép của chính quyền huyện. Nhiều trạm kiểm soát hỗn hợp được bố trí trên các tuyến đường vào ra khu vực. Cà phê của cá thể do ngành thương nghiệp thu mua theo giá ấn định, không được mang ra ngoài bán. Tuy vậy, vẫn có một số con buôn lén lút mua giá cao gấp bội. Họ thu góp rồi gởi trong nhà dân. Cà phê là sản phẩm do nhà nước độc quyền quản lý cũng như tiêu hạt trầm hương và quế ống. Ai chứa trong nhà là mang mối họa vào thân.


Nỗi oái ăm của một dân tộc là mọi sản phẩm của mình làm ra đều dồn vào tay nhà nước. Những con tôm hùm, mực nang, sò huyết... là hải sản dồi dào trên vùng biển nước ta, thế mà chúng biến mất trong đời sống dân chúng. Ðồng bằng Cửu Long là vựa lúa của miền Nam giờ đây đã trở thành vựa lúa xuất khẩu của nhà nước để người dân không đủ gạo ăn giáp hạt.


Hai ngày qua bé Ca-len không đến nông trường. Sáng nay, bé lại xuất hiện trong đám trẻ con dân tộc. Khuôn mặt u buồn của bé hôm nay lại càng buồn hơn. Cuối ngày, bé là người giao sản phẩm trễ nhất. Phần công của em chỉ bằng một nửa của mấy ngày trước. Chương động lòng cho công em bằng lượng cà phê của bạn bè. Nó nhìn chàng rồi trịnh trọng:


- Cám ơn ông.


Con bé phát âm tiếng Việt rất chuẩn. Khác hẳn giọng nói lơ lớ của những đứa bé dân tộc kia. Chương ngạc nhiên hỏi:


- Cháu là người Kinh?

 

Con bé gật đầu.


- Hai ngày qua sao cháu không đến?


Bé ngước nhìn Chương với đôi mắt ướm lệ:


- Mẹ cháu bịnh.


Chương tò mò:


- Thế bố cháu đâu ?


Con bé lắc đầu.


Chương định hỏi thăm thêm gia cảnh của nó, nhưng bé vội vã ra về. Chương nghĩ con bé Ca-len nầy được đặt tên theo âm ngữ dân tộc Ra đê, như vậy cha mẹ của nó, một trong hai người phải là giống dân thiểu số sống tại vùng Ka-long bên dưới chân đèo Prein.


Chiếc%20gùi%20vật%20dụng%20độc%20đáo%20mang%20những%20nét%20đặc%20trưng%20của%20cô%20sơn%20nữ%20Tây%20Nguyên


Bé mang chiếc gùi lớn sau lưng, đôi chân tong teo trong chiếc quần đùi rộng quá khổ, nhìn từ xa giống như con búp bê đang di động. Cơn gió xoáy chạy dọc theo con đường băng qua ngọn đồi cuốn hút bụi lá lên cao nom như một cái phễu. Bước chân con bé xiêu xiêu như rơi vào cuốn phễu đó. Áo quần và tóc bị cuốn hút ngược lên như muốn vuột khỏi cái thân hình gầy guộc, đen đủi của nó. Bé vẫn bình thản bước đi khi nắng chiều vụt tắt.


13%20lý%20do%20bất%20ngờ%20khiến%20bạn%20trằn%20trọc%20khó%20ngủ%20-%20KhoeManh.vn



Ðêm về, Chương trằn trọc mãi, lòng cứ xót thương cho hoàn cảnh bất hạnh nầy. Giấc ngủ nặng nề đến với Chương trong lúc nửa đêm về sáng. Chàng mơ thấy bé Ca-len rớt xuống vực sâu bên dưới dòng thác. Nó hụt chân, trồi đầu lên gọi chàng: “Bố ơi cứu con với” rồi cả thân mình nó chìm lỉm xuống dòng sâu. Chương giật mình bừng tỉnh, lồng ngực vẫn còn nghe nặng trĩu.


Giá%20cà%20phê%20hôm%20nay%202/11/2019:%20Tăng%20nhẹ%20100%20đồng/kg%20tại%20Kon%20Tum


Từ sáng sớm, vườn cà phê đã rộn rịp người. Chương có ý đợi bé Ca- Len mà vẫn không thấy. Chàng muốn đến nhà để tìm hiểu hoàn cảnh gia đình em ra sao, và có thể giúp được gì cho nó. Chương hỏi thăm khá nhiều người nhưng chẳng ai biết chỗ ở của bé. Hai ngày chờ đợi con bé trở lại vườn cà phê là hai ngày lòng chàng như lửa đốt. Chương càng nghĩ đến nó, chàng càng tự trách mình thờ ơ và vô tình.


Cuối cùng rồi bé Ca-Len cũng đến. Nó lặng lẽ làm việc giữa tiếng cười vui của đám trẻ. Ðôi mắt bé trũng sâu như người thiếu ngủ. Mái tóc hoe vàng cháy nắng không còn ngôi rẽ ngay ngắn giữa đỉnh đầu, cây kẹp vắt hững hờ trên mái tóc lưa thưa rối bời.


Cuối ngày, Chương cố giữ con bé ở lại đến khi mọi người đã ra về. Chàng bày tỏ ý định đến nhà để xem căn bịnh của mẹ nó ra sao và chàng có thể giúp đỡ được gì không.


Sunset%20Forest%20Photograph%20by%20Barkhan%20Bicakcioglu



Mặt trời mệt mỏi ngã mình trên đỉnh rừng già, phớt chút nắng vàng nhợt nhạt trên các ngọn đồi cà phê. Chương hăm hở theo chân bé Ca-Len đến nhà. Một túp lều mái tranh vách nứa nằm khuất giữa đám bắp đang độ ra hoa. Con bé nhè nhẹ đẩy cánh cửa liếp bằng nứa đơn sơ. Chương bước vào túp lều lờ mờ ánh sáng. Từ nơi góc nhà, tiếng yếu ớt của một người đàn bà vẳng lên:

- Ai đó?


Chương cố vận dụng sự điều tiết của đôi mắt để nhìn cho rõ khuôn mặt người đang nằm trên chiếc giường tre ọp ẹp:


 

- Thưa bà, tôi là người làm ở nông trường cà phê...Chương trả lời chưa hết câu, bỗng người đàn bà kêu lên:


- Ôi ! Anh Chương ! rồi lịm đi... Chương sững sờ!


Tiếng nói của Vân, vợ chàng. Giọng nói thân yêu đã ngự trị trong tim chàng, mọc mầm trong ký ức chàng. Giọng nói đã quần tụ trong nỗi nhớ quay quắt suốt mười năm trong tù, làm sao chàng lầm lẫn được. Chương nhào tới. Khuôn mặt xanh xao của Vân hiện ra. Trong một giây khựng lại, rồi chàng ôm chầm lấy vợ, kêu lên:

- Vân ơi ! Em ơi ! Sao lại ra nông nỗi nầy?


Vân ngất xỉu trước cơn xúc động tận cùng. Trái tim nàng nhỏ nhoi quá, yếu đuối quá, làm sao kham nổi trước niềm vui to lớn quá, bất ngờ quá ! Làm sao kham nổi cơn đau đớn vượt ngoài sức chịu đựng của nàng.


Chương vùi mặt vào ngực vợ. Nhịp đập của trái tim nàng nhẹ nhàng, chầm chậm, từng khoảng nhỏ cách rời. Nó mất cả rồi cơn rộn ràng tới tấp trong căn ngực no tròn của thuở hai người yêu nhau. Bộ ngực bây giờ trải bằng theo lớp xương sườn khô đét làm nổi bật chiếc bụng nàng trương cao.


Vân tỉnh lại. Nàng đưa đôi tay ốm yếu ôm lấy đầu chồng. Vân muốn ghì Chương vào ngực nàng nhưng đôi tay không còn sinh lực chỉ đủ sức áp nhẹ bàn tay lên cổ chàng. Chương ngẩn đầu nhìn Vân. Chàng đặt môi hôn trên má trên mắt và môi nàng. Vân giữ đầu Chương cho hai người úp mặt vào nhau. Nàng muốn nghe lại hơi hướng của chồng. Nàng muốn nhìn vào đôi mắt chàng, đôi mắt tình tứ và đầy cương nghị mà nàng đã yêu đắm đuối trong buổi gặp gỡ đầu tiên, nhưng nàng chẳng còn thấy gì ngoài nước mắt chảy đầm đìa trên khuôn mặt.


Con bé tự nãy giờ yên lặng, ngơ ngác. Nó đứng nơi góc nhà nhìn cảnh tượng lạ lẫm của mẹ và người đàn ông tên Chương, người mà trong bức hình phóng lớn, mẹ thường hay đem ra ngắm và bảo là bố của bé, rồi mẹ âm thầm lau nước mắt.


Vân sực nhớ đến con gái, nàng gắng gượng đẩy đầu chồng qua một bên rồi lên tiếng gọi:


- Vân Chuyên đến đây với bố. Bố đã về với mẹ con mình rồi. Nàng thì thầm bên tai Chương:


- Con gái của chúng mình đó. Tội nghiệp. Nó đã chịu đựng cùng em bao nỗi nhọc nhằn, đắng cay suốt mười năm nay.


Bé Vân Chuyên ngập ngừng từng bước, từng bước một đến bên giường của mẹ. Chương vụt đứng lên ôm con gái vào lòng với muôn vàn nỗi xót xa. Chàng âu yếm nói với con:


- Ba xin lỗi. Ba vô tình và Ba chẳng ngờ... Tạ ơn Thượng đế, Người đã dẫn dắt con về đây để có cuộc trùng phùng nầy. Con bé gục đầu trên vai Chương nhủ thầm: “Bố trong bức hình thì vặm vỡ, ôm vai mẹ cười rạng rỡ, còn Bố bây giờ sao lạ quá như hai người đàn ông khác biệt”. Nó nào biết mười năm khốn khổ trong tù đã hủy hoại cơ thể chàng thanh niên đầy sinh lực kia, còn lại tấm thân gầy gò tàn tạ của người bố ngày hôm nay.


Vân nhìn chồng và con mà nước mắt cứ trào ra, dù nàng gắng gượng để không khóc nữa. Dường như nước mắt trong mười năm tích tụ, đã đến lúc tràn bờ, nàng không còn đủ sức ngăn chặn.


Ba người yên lặng trong màn đêm bao phủ. Chương một tay cầm tay vợ, tay kia ôm chặt bé Vân Chuyên vào lòng. Họ đang tận hưởng những phút giây sum họp đã đợi chờ suốt mười năm. Vân đau đớn thầm nghĩ: “Trong giây phút đoàn viên đã có ánh chớp chia lìa, tàn nhẫn quá, bẽ bàng quá!” Bỗng cơn đau nổi lên như những mũi dao cắt vào ruột gan Vân, nàng kêu lên: “Chương ơi ! con ơi!” rồi cơn tê dại úp chụp lên toàn thân khiến cho tay chân nàng run lẩy bẩy. Chương vội buông con, ôm lấy vợ.


Bảng%20giá%20ĐÈN%20DẦU%20THỦY%20TINH%20LÙN%20BÓNG%20HỘT%20VỊT%20CỔ%20ĐIỂN%20TRANG%20TRÍ

Chiếc đèn dầu hỏa cháy leo lét trên chiếc bàn gỗ cũ kỹ xiêu vẹo. Ánh sáng vàng vọt làm cho cảnh tượng trong túp lều càng thêm thê lương.


Qua cơn đau, Vân mỉm cười trong nước mắt, nàng thì thào:


- Em hạnh phúc và thỏa nguyện vô cùng. Bé Vân Chuyên không còn cô quạnh và cả em , trời đã cho thấy mặt anh lần nầy. Em rất yên lòng khi... con bé còn cha.


Chương ngậm ngùi nhưng quả quyết nói:


- Ngày mai anh sẽ đưa em đi thành phố; nơi đó có bạn bè anh giúp đỡ để chữa bệnh cho em. Vân vội ôm đầu Chương vào ngực để chàng không kịp thấy dòng nước mắt của nàng đang tuôn ra trên đôi mắt trũng sâu. Vân không muốn cho chồng con biết căn bệnh viêm gan của nàng đã chuyển sang giai đoạn ung thư. Bỗng dưng nàng hỏi Chương:


- Họ mướn anh làm công việc gì ở khu cà phê ấy?


Chương cầm tay vợ ân cần:

- Cai quản ba mẫu cà phê của các ông trên Huyện. Bây giờ là mùa thu hoạch, anh lo điều hành và bảo quản sản phẩm trong kho.


Vân hối thúc:


- Vậy anh phải về ngay bây giờ. Nếu có việc gì xảy ra không chừng anh bị mất việc.


- Ðành chịu vậy. Chàng cả quyết:


- Anh phải ở lại đây đêm nay để chăm sóc em thay con.


- Anh à, số cà phê hột bị mất trộm thì mẹ con em sẽ cùng chung số phận ngồi tù với anh.


Vân nằn nì:


- Thương em, thương con xin anh nghe lời em. Anh chưa thấu hiểu bằng em cái xã hội “bần cùng sinh đạo tặc” nầy đâu. Ngày mai, anh sắp xếp công việc đâu vào đó rồi đến với em và con. Một thực tế phũ phàng mà Chương không thể tránh né được. Chàng phải gượng ép nghe theo lời vợ. Trước khi rời túp lều, Chương đắp lại tấm chăn bông đã nhàu nát lên mình vợ , hôn nàng và con gái. Vân lấy dưới gối một bì thư lớn đã niêm phong trao cho chàng.


Forest%20trees%20creepy%20nature%20landscape%20misty%20lonely%20old%20man%20road%20mood%20%20wallpaper%20|%202880x1800%20|%20172203%20|%20WallpaperUP


Chương bước ra khỏi lều, gió núi về đêm phả vào mặt chàng nghe tê lạnh. Rẫy cà phê um tùm nối tiếp nhau trong màn đêm u uất. Tiếng dế vang vang từ bên bờ cỏ im bặt khi bước chân chàng đến gần. Loài chồn ăn đêm cũng chuyền cành tránh xa khi thấy bóng người đi tới. Tâm hồn Chương trĩu nặng nỗi lo âu phiền muộn. Chàng cảm thấy hụt hẫng trứơc hoàn cảnh tận cùng bi đát của vợ con.


Bên trong chiếc phong bì là một tập vở học trò, loại giấy tái tạo xậm màu và nhàu nát. Màu mực tím có nơi đã hoen ố và mờ nhạt. Chương chậm rãi, cẩn trọng giở từng trang đọc dưới ánh đèn dầu vàng vọt:


Năm 1976. Anh yêu.


Em không thể viết thư cho anh, bởi em sợ anh đau buồn vì những bất hạnh đã xảy ra.. Em viết những dòng nầy với cõi lòng tan nát! Chương ơi, em đã bỏ nhà ra đi vì ông Trương Thanh đã gây áp lực với má buộc em phải ly dị anh. Ngay từ ngày đầu nhìn thấy ông đến nhà là linh cảm em báo trước nỗi bất an. Tội nghiệp cho má, bà đã hiến trọn tình yêu và niềm tin vào ông ấy, nhưng vì bản chất đa nghi, ông xem em như là đứa con hoang, đứa con ngoại hôn. Ông không chấp nhận em cùng dòng máu với ông ta. Có lần ông ấy nói thẳng với "cấp bộ đảng" là ông không tin vợ ông hoài thai trong thời gian chỉ sống chung có ba tuần lễ sau khi cưới và trước khi ông tập kết ra Bắc. Em ra đi chưa đầy hai tuần lễ là ông ta báo cáo lên" chính quyền" rằng em thuộc diện "phản quốc trốn ra nước ngoài…"


Em đã khóc mấy ngày liền khi hay tin, quá đau buồn mà quyên sinh. Bây giờ, mọi nẻo đều bít lối về của em và con. Căn nhà đã bị tịch thu, tài sản của má hoàn toàn mất sạch. Em đang tìm một nơi ẩn náu lo bươn chải qua ngày, nuôi con, chờ chồng...


Ngày... 1977


Em và con đang ở Tân Hội, một vùng đất hoang mới được khai khẩn thuộc tỉnh Lâm Ðồng. Tên em hiện giờ trong hộ khẩu là Hoàng Thị Vấn. Cái tên Hoàng Thúy Vân của anh ngày xưa đã mất rồi. Có lẽ định mệnh đã an bài cho em sống chết nơi đây.


Ngày… 1980…


Ngày... 1981


Triệu chứng bệnh gan của em mỗi ngày mỗi nặng. Nếu có mệnh hệ nào, em sẽ gởi bé Vân Chuyên đến nhà Thái Tụy, bạn học của em tại Thị trấn Sông Vàng..

Ngày…1982...

Ðọc nửa chừng phần nhật ký, Chương thiếp đi tự lúc nào không hay. Tiếng chim kêu lanh lảnh ngoài vườn cây đánh thức chàng tỉnh giấc. Chương vội vã sắp xếp dụng cụ thu hoạch cà phê trong ngày, viết đơn xin phép nghỉ một tuần lễ và yêu cầu Ban lãnh đạo Tập đoàn cho người thay thế chàng trong ngày hôm nay. Chương đang xếp vài bộ đồ vào túi xách, chợt bé Vân Chuyên đột ngột chạy vào nhà mếu máo khóc:


- Mẹ chết rồi!


Chương ngẩn người, tựa sét đánh trúng ngay tim. Chương vất quần áo xuống đất chạy ra ngoài. Chàng cắm đầu cắm cổ băng đồi. Chàng chạy thục mạng bất kể gai cây đá sạn, bất kể những cành cà phê quất vào mặt, vào đầu. Chàng chạy theo con đường nào gần nhất. Ðôi chân trần rỉ máu nhưng Chương hoàn toàn mất cảm giác. Chàng quên tất cả, bỏ mặc công việc hàng ngày, ngay cả bản thân chàng cũng quên tất! Chương tông cửa vào nhà, vợ chàng nằm đó, hai tay buông xuôi, đôi mắt không hồn nhìn trân trân về hướng khung cửa. Tấm hình lớn của hai vợ chồng chụp trong ngày cưới nằm bên cạnh nàng. Chương ôm chầm lấy xác vợ. Chàng lay, chàng gọi, chàng gào thét trong nỗi đau đớn tận cùng. Chàng đấm vào trái tim đang rỉ máu. Chàng đấm vào lồng ngực cho nỗi uất ức vỡ trào. Máu căng đầy đôi tròng mắt đỏ ngầu, máu chảy rần rật trong đôi tay chàng run rẩy. Cơn uất nghẹn không lối thoát.


Crying:%20A%20female%20thing



Con bé đứng bên giường mẹ ôm mặt khóc thút thít tự lúc nào, Chương quay nhìn thấy con cô đơn và lạnh lẽo, chàng chợt tỉnh. Giọt máu của chàng còn đó, núm ruột của chàng còn đây, Chương đứng dậy ôm con vào lòng và nước mắt bỗng dưng tuôn trào. Nước mắt chàng chảy thành dòng rơi xuống mặt bé Vân Chuyên. Nước mắt của hai cha con hòa chung một làm ướt đẫm cả ngực áo con gái chàng.


Ánh nắng xuyên qua mái lá rọi xuống khung hình phản chiếu ánh sáng lung linh trên bức tường nứa. Mắt Vân bây giờ đã khép. Khuôn mặt nàng vẫn còn vương nét khổ lụy chất chồng, duy hai khóe miệng nàng dường như còn giữ lại nụ cười mãn nguyện.


Chương chôn vợ nơi nghĩa địa của vùng đất mới Tân Hội. Trên bia mộ chàng ghi: “Nơi an nghỉ cuối cùng của bà Lê Hồng Chương, nhũ danh Hoàng Thúy Vân. Mất ngày 18 tháng 8 năm 1985”. Chồng và con gái Lê Vân Chuyên phụng lập”.


Từ hôm ấy, khi mặt trời chiều đổ sập sau đỉnh núi cao, người ta thường thấy hai cha con, một già một trẻ đi viếng mộ trở về. Mái tóc bạc màu làm nổi bật gương mặt khắc khổ của người cha. Bé gái trầm ngâm nắm tay cha bước đi giữa bóng hoàng hôn đang chìm vào đêm tối…

 

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 03/Apr/2021 lúc 2:03pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23828
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 03/Apr/2021 lúc 2:31pm

Nhạc CON ĐÒ ĐƯA XÁC -39 NĂM QUỐC HẬN-Nhớ về THUYỀN NHÂN  <<<<<


Nhạc%20CON%20ĐÒ%20ĐƯA%20XÁC%20-39%20NĂM%20QUỐC%20HẬN-Nhớ%20về%20THUYỀN%20NHÂN%20-%20Tháng%20Tư%20Đen%202014%20%20-%20YouTube


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 03/Apr/2021 lúc 2:31pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23828
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Apr/2021 lúc 8:01am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23828
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/Apr/2021 lúc 7:44am

Chớp Tắt Cuối Chân Trời - Thuyền nhân 

 

Để tưởng nhớ đến các đồng bào Việt Nam đã bỏ mình trên bước đường đi tìm tự do. 

Video: Fall of Saigon 1975 (Sài Gòn thất thủ)

http://www.youtube.com/watch?v=IdR2Iktffaw

Tri ân vòng tay nhân ái của thế giới tự do

Video 1- Medecins du monde (Tàu Pháp cứu vớt thuyền nhân Việt Nam) (nói tiếng Pháp)****

Video 2- Un bateau pour le Vietnam (Ile de Lumière)

http://www.ina.fr/video/CAB7901308001

Video 3- Tàu Cap Anamur Đức Quốc cứu vớt thuyền nhân VN 
Boat People aus Vietnam - Cap Anamur - Hamburg/GER-Teil 4b http://www.youtube.com/watch?v=rA9RLnQCLQk 


Khi miền Nam vừa đổi chủ, tác giả cũng như hàng trăm giáo sư và nhân viên giảng huấn đại học “bị mời” đi học tập cải tạo trong một tuần lễ (?). Nơi học là  Đại học Khoa học Sài Gòn, cạnh bên trường Trung Học Pétrus Ký. 

 

Cây cột đèn nếu biết đi cũng bỏ nước ra đi 

Hắn và vợ, tay bồng tay dắt hai đứa con còn nhỏ, lặng lẽ, bùi ngùi bước ra khỏi nhà cha mẹ, nơi mà hai vợ chồng hắn tá túc từ hơn một năm nay tại Saigon. Đồ đạc chỉ vỏn vẹn có hai cái xách tay nhỏ, đựng một vài bộ quần áo cũ và một ít thức ăn khô. Đó là ngày 23 tháng 3 năm 1980. Hắn vừa tròn được 37 tuổi.
Trời còn tối om khoảng ba- bốn giờ sáng. Trong nhà, ngoài một cô em vợ ra thì không còn ai hay biết gì hết. Hắn dặn cô em nhờ nói lại với Pa Má, là Anh Chị cần phải về Cần Thơ gấp để xin lại căn nhà bị tịch thâu một năm trước đó vì đã đi không lọt và bị bắt... 

Đây là lần thứ ba mà hắn liều mạng lôi vợ con mạo hiểm theo hắn. Chợt một ý nghĩ loé lên trong đầu hắn, coi chừng “nhứt quá tam” hay “jamais deux sans trois” làm hắn cũng thấy ngài ngại...

Lần đầu, tháng giêng năm 1979, xuống cá nhỏ ngay tại bến Ninh-Kiều Cần Thơ, ngay tại nơi có tượng Bác đưa bàn tay (Có nghĩa là giá 5 cây) chỉ ra hướng vàm  Cần Thơ để ra biển.(Đây là lời đồn dại của dân CầnThơ thời đó).

Chẳng may chuyến đi bị gài bẫy từ đầu, nên khi vừa leo qua cá lớn đậu ngay vàm Cần Thơ thì công an đã chờ sẵn trong ghe đón tiếp nồng hậu không sót một mống nào, chẳng khác nào cá vào rọ. 


Hắn và vợ con bị nhốt hết hai ngày ở Chấp Pháp Cần Thơ nằm cạnh bờ sông, xế khỏi Trại Nhập Ngũ số 4 cũ, một quãng trên đường vô Cái Răng. 
Qua ngày hôm sau, một diễn biến thật bất ngờ xảy ra như một giấc chiêm bao: hắn và vợ con được thả ra. Đây là một cái bất ngờ tuyệt điệu chẳng khác nào cá mắc cạn được đem thả trở lại xuống nước. 

Khỏi phải nói hai vợ chồng hắn đều mừng hết lớn. Tưởng đâu là cuộc đời mình đã bị tiêu tùng rồi, nhưng có lẽ nhờ phước đức ông bà để lại hay nhờ có số may mắn gì đó mà gia đình hắn được ban lãnh đạo Đại Học vận động với công an thành phố Cần Thơ để thả gia đình hắn ra thật sớm (2 ngày) và phải về làm tờ…tự kiểm.                                                 

Trí thức 3N

Thời điểm đó phong trào vượt biên nở rộ khắp miền Nam. Đặc biệt là đa số giới trí thức cũ, đều bằng mọi giá tìm cách bỏ đi. Anh nào không đi thì bị thiên hạ mỉa mai và liệt vào nhóm trí thức 3N tức là hoặc nghèo hoặc nhát hoặc ngu?! Chất xám thất thoát nhiều khiến nhà nước cộng sản phải cấp bách đề ra chánh sách o bế giới trí thức cũ để khuyến dụ họ ở lại phục vụ đất nước, v.v...

Chòm xóm không ai hay biết gì hết, nhà cửa vẫn còn nguyên vẹn. Hú hồn hú vía!. 

Rồi hắn được cho đi làm việc trở lại tại nhiệm sở cũ là trường Đại học Cần Thơ. Vợ hắn, dược sĩ ngụy, thì cũng được...gởi gắm đi làm tại một nhà thuốc Tây quốc doanh nằm trên đường Nguyễn an Ninh ngay trong thị xã Cần Thơ, dĩ nhiên là dưới quyền sai bảo của chị thủ trưởng dược tá giải phóng. Nói là đi làm cho nó ngon vậy đó chớ thật sự ra có làm gì đâu, mà cũng chẳng có ai dám giao cái gì đâu mà làm. Hắn biết là hai vợ chồng hắn đang bị người ta theo dõi và canh chừng gắt củ kiệu lắm. Tối ngày cứ lo luây quây học tập chánh trị, họp tổ, rồi sau đó là lo ba cái vụ chầu chực để mua nhu yếu phẩm theo giá chánh thức cũng đã hết thời giờ rồi. Hắn rầu thúi ruột và hết còn biết tính sao nữa. 

Bế tắc hoàn toàn! Chỉ còn có một con đường duy nhất là phải tìm cách binh nữa. Bằng cách nào? Hắn cũng chưa biết được. Chỉ còn biết cầu xin Trời Phật và chờ phép lạ mà thôi. 

 

Ngoan cố đi nữa …lại kẹt nữa.
Rồi một dịp may khác lại xuất hiện vài tháng sau …Xuống bãi tại Phong Điền. Ghe là một loại tam bản lớn không có mui gì hết, ớn quá chừng nhưng lỡ rồi. Ghe được thả theo dòng nước sông Hậu, tà tà hướng xuống Cà Mau để tìm đường ra biển. 

Nhưng than ôi! Kỳ nầy lại bị tổ trát một lần nữa, xui xẻo hết cỡ ngoài dự tính. Đúng là mưu sự tại nhân, nhưng thành sự tại thiên. Một trạm kiểm soát trên sông Ông Đốc thình lình gọi ghe tấp vào bờ để xét hỏi. Thế là bể! Cả ghe bị tóm. Hắn và tất cả bạn đồng hành đều bị áp giải vô Rạch Ráng ở Cà Mau. 

Trong chuyến đi nầy, ngoài nhóm bạn bè của hắn trong Đại học Cầnthơ như Anh Chị PL (nay còn ở bên nhà), dược sĩ TĐB (hành nghề tại Bắc Cali), hai vợ chồng dược sĩ C&D. và mấy đứa con, và vợ chồng Trung tá Bác sĩ HNT cũng có mặt trong chuyến vượt biên nầy..  Nghe nói mấy năm trước đây Bs ở Houston,Tx. 

Hắn lo cho hắn thì ít nhưng lo cho vợ và hai dứa nhỏ thì nhiều. Tất cả nhóm dàn bà con nít đều bị nhốt trong vựa lúa phía sau láng của đàn ông chừng trăm thước. Ăn uống làm sao đây? Lỡ có bệnh hoạn thì lấy thuốc đâu mà chữa trị. 
Nhưng cũng may, một hai tuần sau, thì gia đình bên vợ hắn ở Saigon hay được hung tin là chuyến đi bị vướng. Tội nghiệp, Ông bà ngoại các cháu phải cực khổ tức tốc lặn lội từ Sài Gòn xuống thị xã Cà Mau, rồi từ đó đón đò máy đi cả buổi mới vô tới Rạch Ráng để xin lãnh hai đứa cháu nhỏ (3tuổi và 5 tuổi) về nhà...Trời ơi! Nhớ lại thuở đó sao mà trần ai lai khổ vô cùng tận vậy. 

Sau vài tuần bị nhốt, thì vợ hắn cũng được thả về trước, còn hắn thì bị giam thêm một thời gian nữa. 

Ban ngày, họ bắt bọn hắn đi lội nước nhổ cỏ ngoài ruộng cho bỏ ghét và cũng để cho biết thế nào là lao động. Tối về láng, hắn và các bạn tù bị xiềng một cẳng lại với nhau qua một thanh sắt dài khóa lại ở một đầu phía ngoài cửa vào. Tiểu tiện phải “làm” trong lon ngay tại chỗ, xong thì chuyền cho người nằm sát vách phía bên trong, vạch tấm phên ra và hất đại xuống mương. Nhớ lại có một hôm nhân lúc đi lao động, vì đói, ai nấy lúc về cũng ham nhổ theo cả bó rau muống ruộng để ăn sống. Tối bữa đó thì đa số đều bị tào tháo rượt, phải làm ren rét tùm lum ngay tại chổ. Cuộc đời tù tội là thế đó. Thê thảm quá.

Nhưng có lẽ là cảnh khổ cực của bọn hắn không nhầm nhò gì so với hoàn cảnh của các anh em “ngụy quân ngụy quyền” bị CS trả thù và đì về tinh thần lẫn thể xác trong những trại tù cải tạo. 

Muỗi Cà Mau nhiều không thể tưởng tượng được. Mới 4-5 giờ chiều là chúng bay vo vo đen nghệch thấy mà phát sợ. Vướng lần thứ hai nầy hắn nghĩ rằng chắc phải bị kẹt lâu lắm chớ không mong gì được thả ra sớm đâu. 

Hắn thuộc gia đình ngụy quyền mà. Vợ hắn thuộc loại “tư sản mại bản” vì có nhà thuốc Tây ở Sài Gòn. Mặc dù đã bị họ kiểm kê ốp hết ráo hết trọi, của thiên trả địa, nhưng gia đình hắn vẫn nằm trong diện không được thiện cảm của chế độ đương thời cho lắm!. 

Lúc bị nhốt, tin bên ngoài từ Cần Thơ cho biết là có vài người không đồng ý xin cho hắn ra vì hắn thuộc loại quá ngoan cố hết thuốc chữa. Chắc cũng không mấy sai đâu. Người ta đã tha cho một lần rồi mà không tởn. Hắn rầu thúi ruột đi. Tương lai mù mịt. Nhưng rồi hắn thầm nghĩ, đây là một canh bạc, có lúc ăn thì cũng có lúc phải thua, đó là lẽ thường tình ở đời mà thôi. 

Cũng hên, sau khi bị nhốt hết ba tháng thì cả nhóm được Thành Hội Trí Thức Yêu Nước Cần Thơ cử Anh ba T. xuống lãnh hết ra...(Anh ba T ngày xưa là nhân viên nằm vùng trong Tòa Án Cần Thơ). Đây là việc nằm trong kế hoạch chánh trị của họ trong thời điểm đó mà thôi. 

Lần nầy thì mất hết tất cả. Te tua. Lỡ leo lên lưng cọp rồi thì không thể xuống được!. 

Nhà cửa của cải bị mất hết, mất luôn cả hộ khẩu, nên gia đình hắn chẳng còn chỗ nào ở đành phải về tá túc một cách bất hợp pháp tại nhà ông bà già vợ tại Sài Gòn. Vốn liếng, nữ trang và bao nhiêu cây dành dụm từ bấy lâu nay đều được đem chụm hết trong hai chuyến đi hụt vừa qua. Căn nhà của hắn ở đường Mậu Thân gần cầu Rạch Ngỗng Cần Thơ cũng bị mất luôn và nghe đâu được họ biếu cho Năm P trưởng ty Nông nghiệp Cần Thơ thời đó. 

Te tua láng túi sạch sẽ

Để kiếm sống qua ngày, vợ hắn phải nấu xôi, pha cà phê bán ngay bên lề đường cạnh tiệm thuốc Tây cũ của mình tại góc đường BC/HTT Sài Gòn. 
Còn hoàn cảnh của vợ chồng người bạn là dược sĩ C. và D. cũng bi đát lắm. Họ cũng mất nhà và mất cả nhà thuốc CD ở đường Tự Đức Cần Thơ nên đành phải dẫn bầy con (nhiều lắm!) về tá túc nhà bố mẹ ở khu sân vận động Cộng Hòa Sài Gòn. Để kiếm sống, anh chị C.& D làm bánh cam rồi mỗi ngày Anh C. từ nhà, cong lưng hì hục đạp xe ra bỏ mối cho vợ chồng hắn bán tại quán cà phê lề đường. 

Đây là tình nghĩa bạn bè lúc hoạn nạn...Và đó cũng là hình ảnh thê lương của hầu hết các dược sĩ ngụy một thời le lói hết sức, nhưng lúc sa cơ thất thế thì cũng bi thảm không ai bằng! 

Lên voi xuống chó là như thế đó!. 
Từ trên 30 năm qua hắn không thể bắt liên lạc lại được với gia đình anh chị C & D. Năm 2011 có một thân nhân của duợc sĩ C cho biết trên trang mạng Người Việt Boston là cả gia đình người em của họ đã không có cái may mắn đến được bến bờ tự do. Tội nghiệp quá. 

Còn hắn thì chạy tới chạy lui phụ giúp ba cái chuyện lặt vặt cho bà xã. Hắn xuống tinh thần mất moral, chán chường thấy rõ, nhất là mỗi khi nghe tin có một người bạn nào đó đã tới nơi yên ổn sướng quá. Hắn cảm thấy mình là kẻ thua cuộc, bất lực, lẻ loi và cô độc hết sức!. 

Có nhiều người khi xưa là bạn, nay thấy hắn thì lại lơ lơ là là, có lẽ họ sợ bị liên lụy đến bản thân chăng? Đời là thế! 

Sa cơ thất thế là hoàn cảnh chung của phe thua cuộc. Thôi thì cứ nghĩ đó là một sự cộng nghiệp chung của dân miền Nam phải đồng phải gánh chịu. Hy vọng có ngày rồi trời sẽ sáng trở lại... 

Và cũng vào thuở đó, người ta hô hào lao động là vinh quang, lang thang là chết đói, hay nói thì ở tù nên phong trào tăng gia sản xuất bằng cách nuôi heo bùng lên khắp nơi trong các thành phố miền Nam. Bất cứ chỗ nào người ta cũng có thể nuôi heo được hết. 

Heo và nguời ở chung với nhau.
Người ta nuôi heo ngay tại Sài Gòn trong những căn nhà lầu, trong một số villa sang trọng mà lúc đó đã đổi chủ, trong nhà bếp, trong nhà tắm, nơi sàn nước, ngoài sân và thậm chí còn có người nuôi heo cả…trên sân thượng nữa. 

Hắn chụp thời cơ nhảy ra làm nghề chích dạo và chữa bệnh cho heo. Phần đông thân chủ của hắn là những cán bộ quyền thế của chế độ mới. Họ cho xe lại đón hắn về nhà khám bệnh cho heo, tiền bạc sòng phẳng! 

Hắn sống lây lất qua ngày để chờ thời. Hắn cảm thấy tuyệt vọng trước một viễn ảnh quá đen tối, bế tắt không còn lối thoát. 

Mỗi khi nhìn thấy ghe tàu đậu dưới sông là hắn thầm mơ tưởng viễn vong và ước ao…phải chi thế nầy, phải chi thế nọ, v.v…Hắn mơ, hắn ước, hắn cầu nguyện làm sao có thể đưa được gia đình đến một miền đất nào đó. Hắn sẵn sàng làm bất cứ công việc gì, miễn sao nơi đó hắn có thể hít thở được không khí thật sự tự do mà thôi...
 
Tia hy vọng 

Rồi một hôm, có một anh bạn đến móc nối hắn vì biết hắn đã từng du học nhiều năm tại Bangkok và nói được chút ít tiếng Thái, để làm thông dịch khi cần. 

…Ra đến bến xe xa cảng Miền Tây, hắn lấy vé chợ đen đi Cần thơ, nơi chôn nhau cắt rún và cũng là nơi mà hắn có rất nhiều kỷ niệm trong suốt 10 năm dạy học tại đó. 

Ngủ nhờ qua đêm tại nhà của một em học trò cũ trong một tâm trạng hết sức phập phòng lo sợ bị phường khóm xét hỏi bất tử. Trời vừa hừng sáng thì gia đình hắn lật đật ra Bến Xe Mới ở lộ 19 Cần thơ thật sớm để lấy vé đi SócTrăng. Hắn rất sợ phải chạm mặt bất ngờ với mấy em sinh viên hay người quen thì coi như bể hết. 

Tại Sóc Trăng, gia đình hắn đổi xe dong tuốt xuống Cà Mau. Tới thị xã Cà Mau khoảng 4-5 giờ chiều. Còn đang đứng lớ ngớ ở bến xe chưa định hồn không biết phải làm gì bây giờ, vừa hồi hợp lo sợ tụi cách mạng 30 và công an xét giấy đi đường và cũng vừa lo lắng không biết người liên lạc có đến đúng hẹn hay không, thì may thay hắn gặp được một hai người quen ở Đại học Cần Thơ. Họ cũng đồng một cảnh ngộ như gia đình hắn vậy. Trong chuyến đi nầy còn có cả nhạc sĩ PMC dẫn theo hai đứa con (anh PMC và các cháu hiện đang sống tại Montréal). Hắn cảm thấy hơi bớt lo đôi chút. 

Mướn chiếu ngủ đỡ giữa trời ngay tại bến xe. Nằm trằn trọc, lăn qua lăn lại suốt đêm, đầu óc thật căng thẳng, mãi đến 4 giờ sáng thì có người đến ra dấu cho từng tốp nhỏ đi theo họ xuống bãi một cách thật là lặng lẽ. 
Xuống cá lớn
Nối gót theo người dẫn đường đi một khoảng xa ở phía trước, hắn lôi vợ con hấp tấp bước theo, xuyên qua những con hẻm quanh co giữa các xóm nhà bình dân còn chìm đắm trong đêm khuya 

Trống ngực hắn đánh thình thịch liên hồi. Hắn sợ tất cả: sợ gặp phải tổ dân phố, sợ công an, sợ người lạ, sợ con nít và sợ luôn cả mấy con chó trong xóm. 

Tâm trạng hắn lúc đó thật là phức tạp. Hắn vừa hồi hộp, vừa lo lắng, vừa bùi ngùi đứt ruột vì phải xa lìa đất mẹ, nhưng đồng thời hắn cũng cảm thấy vô cùng phấn khởi náo nức khi nghĩ đến mỗi bước đi tới sẽ là những bước đưa gia đình hắn đến gần một chân trời mới đầy tự do và hy vọng… 
Hắn niệm Phật thầm trong bụng. Rồi kìa, “Cá lớn” đậu chình ìn ngay tại bờ sông trước mắt. Đây là loại ghe bầu để chở hàng trên sông, dài cỡ 12 mét là cùng, có mui bịt kín khoang và ở phía đàng sau là cabine nhô cao lên để tài công lái. Hắn không nói ra nhưng trong bụng hơi lo vì không biết loại ghe này đi biển có được không? 

Thôi thì đành chịu vậy, vả lại đài radio tiên đoán tình hình thời tiết ở biển Đông và vịnh Thái Lan khá tốt. Có người còn nói tháng ba bà già đi biển vì biển rất êm vào mùa này. Mấy người tổ chức cho biết là họ đã chuẩn bị kỹ lắm đừng có lo. Máy ghe là máy Yanmar loại mới, 6 hay 7 blocs gì đó? 

Nói vậy thì nghe vậy chớ hắn nào có biết ất giáp gì đâu. 

Tất cả mọi người đều bị ếm hết trong khoang ghe, không được gây tiếng động. Mấy cháu bé đều bị cho uống thuốc ngủ trước đó hết. Trong khoang ghe, tất cả được chia nhau ngồi chen chút dọc theo hai bên vách. Mọi người đều im lặng. Sợ lắm. Trên cabine thì chỉ có tài công và Ba P.“người hướng dẫn” địa phương mà thôi (nghe đâu anh ta là đại úy công an địa phương gì đó ?) 
Tất cả có 69 người khách vừa lớn vừa nhỏ. Ghe mở máy chạy bình bịch một cách thong thả xuôi theo giòng nước Sông Ông Đốc đổ ra biển để vào vịnh Thái Lan. 

Vĩnh biệt đất mẹ yêu dấu 

Hai bên sông, xóm làng khi ẩn khi hiện sau những rặng cây bần xanh tươi. Dưới nước, ghe xuồng và tắc ráng xuôi ngược không ngơi. Càng ra gần cửa biển lòng sông càng mở rộng ra. 

Bà con trong ghe thì không ai nói với ai lời nào cả, tinh thần mọi người đều rất ư là căng thẳng vì chưa ra tới biển. Trời đã bắt đầu tối. Đến khoảng 11 giờ khuya, thình lình từ trong màn đêm lóe lên tia sáng chớp tắt của ánh đèn Pile nào đó, rồi chẳng bao lâu không biết từ đâu đến, một chiếc xuồng nhỏ cặp sát vào ghe một cách nhẹ nhàng. Sau khi nhận một cái túi do người tổ chức giao, “người hướng dẫn” từ cabine tuột xuống xuồng và biến mất trong đêm tối. 

Sắp tới trạm biên phòng rồi, mọi người đều im lặng, ghe tắt máy tắt hết đèn và thả trôi theo giòng nước. Mọi người đều nín thở im lặng và cầu nguyện thầm trong bụng. Thật là đứng tim trong 25 phút dài bất tận trong đời hắn. 

Qua khỏi trạm kiểm soát một đổi khá xa, máy ghe được mở trở lại xả hết tốc lực về hướng cửa biển. Nhưng không bao lâu thình lình ghe bị khựng lại, hình như đụng phải vật gì ở dưới nước. Mọi người đều xanh mặt hồn vía lên mây. Có 1-2 anh em khỏe mạnh nhảy xuống nước để xem tình hình thế nào. Trời ơi ghe bị vướng đáy rồi, xui ơi là xui. Biết làm sao bây giờ?. 

Nhưng Trời cũng còn thương, lối một tiếng đồng hồ sau, nhờ con nước lớn chiếc ghe tự nhiên xút ra khỏi đáy và tiếp tục vọt ra biển với hy vọng có thể ra tới hải phận quốc tế trước khi trời sáng tỏ. Láng cháng dám gặp đám tàu đánh cá quốc doanh thì phiền phức lắm. 

Biển đây rồi, gió ào ào, trời nước mênh mông vô tận.
Ghe nhảy sóng một cách chòng chành, lắc lư làm nhiều người bắt đầu bị say sóng ói mửa tùm lum. Chạy theo hướng nào đây? 

Nhiệm vụ này đã được phân công cho anh T. trung úy hải quân, nhưng ra tới biển là anh ta bị say sóng như chết rồi nên không giúp ích gì được hết. Té ra anh ta chỉ làm việc trong văn phòng mà thôi chớ không có kinh nghiệm về hải hành gì hết. Có bạn nóng mũi, văng tục Đ.M. đòi quăng anh ta xuống biển cho đỡ tức. Nhưng rồi cũng bỏ qua thôi. 

Cái la bàn nhỏ xíu được lôi ra để định hướng. Người bàn thế nầy, người nói thế kia, cãi cọ om sòm. Cuối cùng thì nhắm hướng mặt trời lặng mà chạy cầu may. 

Đến quá trưa, thình lình tiếng máy nổ khác thường, lạch cạch lạch cạch rồi êm ru bà rù. Anh thợ máy bất đắc dĩ nhảy xuống tháo các bộ phận máy ra, xem cái nầy, mò mẫm cái kia, mở ra lấp vào cả tiếng đồng hồ, mồ hôi nhuể nhại, rồi thử quay máy cho chạy. Mọi người đều nín thở. Một lần, hai lần, ba lần, bốn lần…Tất cả đều im lặng chỉ có tiếng gió thổi ào ào bên ngoài ghe mà thôi. 
Vô ích: máy hư rồi! Mọi người đều vô cùng thất vọng ra mặt. Trời ơi! Làm sao đây Trời? Gió càng lúc càng thổi mạnh, trời bắt đầu kéo mây đen kịt. Những con sóng to nối tiếp nhau đợt này đến đợt khác, nhồi chiếc ghe lên xuống, lắc qua lắc lại như một cái hột vịt vậy. Ai nấy cũng đều điếng hồn hết. Thế này thì cái chết cầm chắc trong tay thôi. 

Cũng may là trên ghe có một chị đã từng đi sông đi biển rồi nên có một chút kinh nghiệm. Chị ta hướng dẫn các anh tài công bất đắc dĩ về cách bẻ càng lái để chặt sóng. 

Trước tình thế thập tử nhứt sanh, hắn và một số anh em trên ghe phải thay phiên nhau ra phía sau ghe ráng sức kềm cái càng lái. Đó là một cái cán gỗ rất dài để điều khiển bánh lái. Kềm nó cho đúng hướng rất nặng nề và rất khó khăn, vì sóng to và gió quá mạnh. 

Những lúc ghe nghiêng thì rất nguy hiểm, không khéo là bị cái càng lái gạt té xuống biển như chơi. Nhiều lúc hắn cũng xém bị hất xuống biển. Trời kéo mây đen thêm nữa. Gió bắt đầu nổi lên ào ào càng lúc càng mạnh hơn đẩy chiếc ghe đi rất nhanh, nhồi lên hụp xuống, thật kinh hãi vô cùng. 

Đàng xa hiện rõ dần dần bóng dáng lờ mờ của một hòn núi mà có người cho biết đó là đảo Thổ Châu, cách đảo Phú Quốc 100km về hướng nam. Tâm trạng của anh em lúc đó thật phức tạp, mừng lo lẫn lộn vì nếu ghe tấp vào đảo thì khỏi phải chết, nhưng lại phải bị đi tù mút chỉ cà tha. 

Nhưng tự nhiên lối một giờ sau thì gió lại đổi hướng thổi bạt chiếc ghe trở ra, đi mãi và đi mãi ra khơi... 

Thỉnh thoảng có những con cá nược phóng theo hai bên ghe như muốn lội đua cùng chiếc ghe khốn khổ. 

Nam mô Đại Từ Đại Bi cứu khổ cứu nạn 

Hắn cảm thấy mình bất lực hoàn toàn trước hoàn cảnh bi đát nầy. Chỉ nằm chờ chết. Ôm vợ con vào lòng mà đầu óc thật ngổn ngang trăm ngàn ý tưởng không mạch lạc. 

Hắn lâm râm niệm chú…Nam mô Đại từ Đại bi cứu khổ cứu nạn, quảng đại linh cảm Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tát... 

Trước cái chết gần kề mình mới cảm nhận được giá trị của cái sống. Hắn nghĩ đến lúc ghe bị lật úp chắc hãi hùng lắm. Hắn cảm thấy thật ân hận khi nhìn vợ và hai đứa con còn quá nhỏ tuổi. Không lẽ nghiệp quả của mình nặng nề như thế nầy sao? Không lẽ số mình là số con rệp hay sao? 

Rồi hắn nhớ lại lá số tử vi do một thầy tử vi lập cho hắn hơn 15 năm về trước, lúc hắn vừa mới ra trường chưa có vợ con gì hết. Lá số đâu có nói là hắn sẽ phải chết thảm như vầy đâu. Hắn nhớ ông thầy có nói hắn sau nầy phải ở xa nơi chôn nhau cắt rún gì đó, ngoài ra cung mạng và cung phúc đức của hắn cũng khá tốt. Trước khi đi một ngày, vợ chồng hắn cũng có lên chùa ở miệt Phú Nhuận để trước lễ Phật sau là nhờ Thầy trụ trì xem coi có đi được hay không. Sau khi bấm độn, Thầy nói: được! Nhớ tới đây, hắn lại lên tinh thần. Hắn nghĩ chết sống đều do số mạng cả, lo làm chi cho mệt mất công... 

Mọi người trên ghe đều kiệt sức, đói khát, ngủ gà ngủ gật, chỉ chờ một phép lạ đến cứu mình mà thôi. Bao nhiêu tàu bè nhấp nhô ở chân trời để rồi cũng rẽ sang hướng khác. Tối đến, mỗi khi thấy ánh đèn đàng xa, thì bọn hắn đốt đuốc lên làm hiệu, nhưng cũng chỉ toi công vô ích, thất vọng hoàn toàn. 

Đối mặt với cướp biển Thái Lan 
Rồi thì chuyện gì sẽ đến thì nó phải đến. Qua ngày thứ ba, có một chiếc tàu đánh cá Thái Lan xăm xăm tiến tới. Đây là loại tàu khá lớn và có cả radar. Mọi người đều kinh hoàng và hồi hộp. Đàn bà con gái lo tìm dầu mỡ bôi lên mặt lên mày cho nó thúi tha ghê tởm. Tàu Thái xáp gần,trên bong lố nhố 5-7 tên có vẻ dữ dằn, rồi thì tàu cặp vào sát ghe kêu một cái rầm. Ghe bị chòng chành dữ dội và nứt một bên hông. Thật khiếp đảm không lường. Mọi người trên ghe đều ngồi yên thinh thích và hồi hộp, im lặng chờ đợi. Bọn Thái nhảy qua ghe, 4-5 tên cầm mã tấu, còn một tên thì cầm súng lục. 

Nhờ biết chút ít tiếng Thái lúc đi du học mấy năm ở Bangkok, nên hắn lãnh nhiệm vụ làm thông dịch và thương thuyết với bọn hải tặc. 

Lúc đầu, tụi nó hơi giật mình không hiểu tại sao trên ghe có người lại biết nói tiếng Thái. Hắn cắt nghĩa, hắn tả oán hoàn cảnh bi đát và xin tụi nó giúp đỡ. Thằng cầm súng, có lẽ là tên đầu đảng, chĩa con chó lửa vào đầu hắn và bắt buộc hắn nói lại với tất cả là phải nộp hết vòng vàng tiền bạc, bằng không thì tụi nó sẽ bụp một phát là đời hắn tiêu tùng luôn. Hắn rất lạnh xương sống. Hắn năn nỉ hụt hơi thiếu điều lạy lục tất cả mọi người trên ghe nên đưa hết tiền bạc ra để đổi lấy mạng sống. Tụi nó lục lạo, tung bới tất cả đồ đạt, mò xét khắp nơi, đổ bỏ cả thùng nước ngọt để tìm kiếm nữ trang cất dấu trong đó. Cũng may là tụi nó không có làm hỗn với ai hết. Xong rồi thì rút đi rất nhanh. Ghe bị vô nước, tuy chưa nhiều nhưng cũng phải lo tát ra. 

Không bao lâu sau thì có một chiếc tàu đánh cá khác lại đến để...ăn mót. Có lẽ là bọn hải tặc dùng máy radio thông báo với nhau. Trước khi đi tụi sau nầy còn oái oăm bắt theo một cháu bé 2-3 tuổi gì đó, không biết để làm gì khiến cha mẹ đứa trẻ quá khiếp đảm kêu gào khóc la thảm thiết. Nhưng may thay, độ một giờ sau thì tụi nó quày trở lại trả đứa nhỏ. 

Giữa trưa hôm đó thì lại có một chiếc tàu đánh cá thứ ba đến, nhưng lạ thay, tụi nó không xáp vô mà chỉ đậu ở ngoài xa cách ghe vài chục thước và ra hiệu biểu mình qua. 

Một lần nữa, hắn lại xung phong lãnh nhiệm vụ nầy. Nhảy xuống biển lội thiếu điều hụt hơi hắn mới qua được bên tàu Thái. Tụi nầy có vẻ hiền hơn mấy đám kia. Hắn trổ tài ngoại giao, quọt quẹt lỏm bỏm ba mớ tiếng Thái, nhờ họ giúp kéo ghe vào bờ. Tụi nó chịu nhưng đòi ăn tiền. Hắn lại trở về ghe, bàn với mọi người và năn nỉ người nào còn dấu được tiền bạc thì xin làm ơn làm phước bỏ ra chớ không thì chết hết cả đám. Cuối cùng thì cũng gom góp được thêm một số ít tiền đem nạp cho tụi cướp. Bọn chúng suy nghĩ sao đó không biết, nhưng cuối cùng cũng chịu. Chúng nhảy qua ghe quan sát tình hình một lúc, xong cha con chúng hè nhau hì hục tháo cái máy ghe đem về tàu đánh cá và ra lệnh cho tất cả mọi người phải leo qua tàu của chúng, chỉ chừa lại hai người ở lại để điều khiển chiếc ghe. Sau đó thì chúng thả dây cột chặt chiếc ghe để tàu đánh cá kéo đi.
 Đến đây thì mọi người đều thở phào, phấn khởi lên tinh thần thấy rõ. 

Chúng nấu cơm cho ăn. Thức ăn chính là món cá chiên, ăn ngon ơi là ngon. Nước đá uống thả giàn, vì có cả hầm lận. Chúng nói chưa vô bờ liền được vì còn phải đi kéo lưới thêm một ngày nữa. Muốn sao thì mình đành phải chịu vậy. Tối đến, mưa trút xuống dữ dội như thác nước, ai nấy đều ước loi ngoi như chuột và lạnh cóng run cầm cập. Thằng nhỏ con trai ba tuổi của hắn bắt đầu sốt nóng và ho nhiều. Chắc là nó bị cảm nặng hay bị sưng phổi gì đó. Vợ hắn đè nó ra lấy dầu cù là cạo gió, rồi sau đó hắn mò được trong túi xách một hũ ampicilline, đem ra lụi cho thằng nhỏ mấy phát nó mới bớt sốt...

Giữa đêm có tiếng la thất thanh từ chiếc ghe ở phía sau: Anh S. té dưới biển rồi. Mọi người đều hốt hoảng. Hắn báo động cho bọn Thái hay liền. Tàu bớt máy và quay ngược trở lại, rọi đèn pha rà tới rà lui khắp mặt biển. Sau một hồi tìm kiếm thì thấy nạn nhân đang ngụp lặn dưới nước. Chúng thả phao xuống và kéo anh ta lên. Khỏi phải nói người mừng nhất là vợ con của anh ta.

 

Ánh đèn chớp tắt cuối chân trời
Qua đêm hôm sau, khoảng 1-2 giờ khuya, thình lình chúng ngưng tàu lại. Ai nấy đều nhốn nháo lên. Có chuyện gì đây? Chúng kêu hắn lại và chỉ ở chân trời phía trước có một đốm đỏ cỡ lớn hơn đầu điếu thuốc một chút, chớp tắt đều đặn từng chập. Chúng bảo đó là ánh đèn của ngọn hải đăng nằm trên một hòn đảo nhỏ không mấy xa bờ Thái Lan cho lắm. Chúng bảo là không thể kéo mình vô đất liền được vì sợ cảnh sát Thái bắt, nên ra lệnh bắt buộc tất cả phải trở về ghe ngay lập tức. 

Ai nấy đều nhao nhao lên quá sợ vì ghe đã bị bể rồi, lại nữa đất liền còn xa quá, làm sao đây? Mọi người xúm nhau năn nỉ bọn chúng bằng đủ các thứ ngôn ngữ để xin chúng kéo tiếp vào bờ. Vô ích. Có hai ba chị dằn co khóc la dữ quá khiến chúng nổi dóa phải đè khiêng thải qua ghe. Khi mọi người trở về hết bên ghe, bọn Thái liền chặt dây và rồ máy vọt mất trong đêm tối... 

Ghe tiếp tục trôi chầm chậm theo sóng nước. Biển rất yên. Trời dần dần sáng tỏ. Đàng xa, bóng dáng của một trái núi bắt đầu xuất hiện lờ mờ ở chân trời phía trước và càng lúc càng rõ nét thêm hơn. Hầu như tất cả bọn đàn ông con trai đều kéo róc nhau lên ngồi trên mui ghe, hồi hộp chờ đợi… 

Chầm chậm và chầm chậm chiếc ghe định mệnh từ từ trôi về hướng núi... 10 giờ, rồi 11 giờ, trái núi lần lần hiện ra rõ nét thêm, có thể nhìn thấy những đám rừng trên cao chen lẫn những tảng đá to tướng xám xì xám xịt,...11 giờ ruỡi mọi người hết sức hồi hộp.

Tưởng chừng như chết đi sống lại 
Còn khoảng 200 mét thì tới bờ. Rồi 100 mét… Rồi 50 mét… thình lình lườn ghe chạm đá ngầm kêu rồn rột, chòng chành lắc qua lắc lại, nghiêng qua một bên và rồi dừng hẳn lại. 

Hắn và các bạn cùng phóng xuống nước chỉ tới ngang ngực mà thôi. Chân hắn vừa chạm đất thì…nước mắt hắn cũng tuôn trào ra vì quá vui mừng và quá xúc động. 

Khi tất cả mọi người trên ghe đều vô được trong bãi cát, hắn và vài người bạn mới đi vòng qua các đồi nhỏ, len lõi giữa đám cây rừng hoang dã, theo đường mòn vòng qua phía bên kia núi. Thình lình, ngước lên vách núi ở đàng xa bọn hắn thấy có bóng dáng một người đang đi lơn tơn. Hắn và mấy người bạn đều đồng loạt la lên, ra dấu bằng cách quơ tay quơ chân tới tấp. 

Người đó đã nhận thấy và đi chầm chậm về hướng của bọn hắn. Đó là một anh lính Thái có nhiệm vụ gát trạm đèn pha trên đảo hoang nầy. 

Ngoài ra không có nhà cửa của dân cư nào khác tại đây hết. Hắn bèn trình bày sơ sơ hoàn cảnh cho anh ta biết. Anh ta lập tức trở về đồn và điện vô đất liền. Anh cho biết đây là một đảo nhỏ của Thái Lan nằm ngoài khơi, không mấy xa thành phố duyên hải Rayong, 150km về phiá nam Bangkok

Thế là kể như thoát nạn rồi, nhưng để cho chắc ăn, tối hôm đó hắn và vài người bạn lẻn xuống chiếc ghe và dùng búa đập phá cho nước vào thêm trong hầm khoang để khỏi bị cưỡng bách kéo ra khơi trở lại.

 Lan Chau Nguyen 

[http://%20nguoiphuongnam52.blogspot.com/2021/03/boat-people-lan-chau-nguyen.html]http:// nguoiphuongnam52.blogspot.com/2021/03/boat-people-lan-chau-nguyen.html 

 

Nhập cảnh Thái Lan 

Sáng ra, một tàu cảnh sát Thái ra đón tất cả 69 người về sở cảnh sát Rayong để lấy lời khai và làm thủ tục nhập cảnh. Chấm dứt một cuộc vượt sóng kinh hoàng! Cái giá phải trả cho sự Tự Do!... 

Ngủ tại đây một đêm, hôm sau thì tất cả mọi người đều được đưa về trại tỵ nạn Laem Sing. Đó là ngày 31 tháng 3 năm 1980.

Ngày 22 tháng 6 năm 1980, hắn cùng vợ và hai đứa con được bốc đi định cư tại Canada, xứ lạnh tình nồng, đất lành chim đậu.

Cuộc đời trước mặt đổi thay và hắn vẫn tiếp tục đi…/.

Tự Do là vô giá!

Xin cám ơn TRỜI PHẬT. Thank you CANADA


Lời bạt 

Chuyến bay charter Wardair ngày 22/6/1980 cất cánh từ Bangkok đã đưa trên 300 người dân tị nạn Việt Nam qua định cư tại Canada. Sau khi ghé Nhật Bản (căn cứ Guam hay Okinawa?) để lấy thêm nhiên liệu, phi cơ tiếp tục bay đến Canada. Đáp xuống phi trường Edmonton (Alberta) một giờ, xong bay tiếp đến phi trường Mirabel, phía Bắc Tp Montreal. 


Một cảm giác mừng vui, lo âu, bồi hồi, hoang mang, xúc động không thể nào tả hết cho được. Đây là đất tự do, là tương lai của con của cháu mình. 
Trên mười chiếc xe bus quân sự loại lớn đón tất cả người tị nạn về tạm trú tại căn cứ quân sự Longue Pointe nằm ngay trên đường Hochelaga, Montreal. Đây là một Immigration processing center hay nơi làm thủ tục định cư.

Gia đình người gõ thuộc diện “mồ côi” nên được hội nhà thờ bảo trợ. Một tuàn sau tất cả được đưa ra phi trường Dorval (nay là phi trường Trudeau) để đi định cư tại Montague. Đây là một thành phố 2000 dân cư thuộc tỉnh bang PEI (Prince Edward Island) nằm về phía Đông Canada. 


Nhà thờ Công giáo St Marys Parish và nhà thờ Tin Lành United Hillcrest Church tại Montague đã đứng ra bảo trợ trong một năm. Họ là những ân nhân đã dang rộng vòng tay nhân ái đón tiếp gia đình mình trong buổi ban đầu tại miền đất hứa. 
Người gõ xin mượn lời suy tư của nhà văn Phạm Tín An Ninh (định cư tại Na Uy)đã nói lên lòng biết ơn sâu xa của người tị nạn Việt Nam đối với thế giới tự do: 

“Họ là nhừng kẻ xa lạ, không cùng màu da, màu tóc, không cùng ngôn ngữ, mà lòng thông cảm yêu thương họ đã dành cho chúng tôi lớn lao biết đến dường nào. Trong lúc những "người anh em" cùng một nhà thì lại hành hạ đuổi xô chúng tôi đến bước đường cùng để phải đành lòng bỏ nước mà đi”.
(Ngưng trích:Cô con gái quá giang đêm mồng một Tết- Phạm Tín An Ninh) 

Montague là một thành phố nhỏ nên buồn lắm. Tại nơi đây, người gõ đi làm lặt vặt như hái thuốc lá, hái dâu Tây và làm công nhân lao động trong nhà máy biến chế thủy sản GeorgeTown Seafoods, nhưng chỉ được 2 tháng thì bị cho nghỉ việc vì mùa Đông nhà máy đóng cửa. 
Tháng 3 năm 1981, gia đình quyết định dọn về Montreal để lập nghiệp. Trong một hai năm đầu, hai vợ chồng đều đi làm  trong hãng xưởng với lương tối thiểu 3.75$/giờ. Chồng làm cho một hãng dụng cụ, phụ tùng điện và plastic tại Ville Mont Royal, Montreal. Vợ thì đi làm cho một xưởng sản xuất nử trang rẻ tiền tại Ville Saint Laurent, gần phi trường Montreal. 

Sau đó thì hai vợ chồng tìm cách đi học lại.
Cuộc đời trước mặt và hắn vẫn tiếp tục đi./.

   

Nguyễn Thượng Chánh

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 110 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.344 seconds.