![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Chuyện Linh Tinh | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 109 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23686 |
![]() ![]() ![]() |
Người Đàn Bà trong đêm 29 tháng Tư năm 1975Tôi, ngày xưa vẫn không bao giờ tin vào tôn giáo, Phật hay Chúa. Nhưng rồi có một chuyện xảy ra trong đời làm thay đổi cả ý đó. Chuyện xảy ra vào đêm 29 tháng Tư năm 1975 và sau đó năm nào đến những ngày tháng Tư, tôi và Minh Hà vẫn nhắc lại cho nhau.
Năm 1974, ra trường Y Khoa Sài Gòn và khóa 21 Quân Y Hiện dịch sau khi học khóa huấn luyện sau cùng ở Tổng Y Viện Cộng Hòa, đến lúc chọn đơn vị. Tháng Ba năm 1975, tôi ra miền Trung làm y sĩ cho Sư Đoàn 3 Bộ Binh, đơn vị đầu tiên và cũng là cuối cùng trong đời quân đội. Chỉ khoảng hai tuần sau, ngày 29 tháng Ba 1975 Đà Nẵng mất và may mắn tôi thoát được bằng đường biển. Về đến Sài Gòn, tình hình căng thẳng, thành phố rối loạn, dân chúng tìm đường đi. Tôi bàn với Minh Hà và xin phép bố mẹ hai bên làm một đám cưới, để khi cần, có thể cùng chạy với nhau.
Sau đám cưới, thật nhỏ và thật đơn giản, tôi trở ra Bà Rịa để theo lệnh "tái phối trí" Sư Đoàn 3 Bộ Binh, nhưng không gặp một quân y dược hay nha sĩ nào trong Tiểu Đoàn Quân Y. Đành quay về lại Sài Gòn và trên đường về, tôi gặp một số quân lính của Sư Đoàn 18, từ Xuân Lộc cũng đang thoái lưu về hướng Sài Gòn. Niềm hy vọng cuối cùng coi như sắp chấm dứt.
Chiều ngày 29 tháng Tư năm 1975, không có phương tiện và cũng chẳng có quen ai, tôi dẫn Minh Hà ra bến sông Bạch Đằng ở Sài Gòn. Không ai trong gia đình hai bên có can đảm đi theo. Căn cứ Hải Quân đóng kín bằng hàng rào kẽm gai. Chẳng mấy chốc đêm tối đổ xuống, vài tiếng súng nổ đâu đó và dân chúng hỗn loạn, không có đường thoát.
Trong đêm lúc tôi và Minh Hà vẫn đi loay hoay quanh bến tàu, có một người đàn bà không hiểu ở đâu ra, gọi với tôi cho biết cổng vào của Hải Quân đã mở. Cả ba chúng tôi cố đi thật nhanh như chạy và len thoát qua được cổng, vào trong căn cứ Hải Quân. Tàu đầu tiên gặp là HQ-1 nhưng hàng ngàn người đã đứng xếp hàng đợi lên tàu ở chỗ thang lên tàu và chúng tôi những người ở hàng cuối cùng, đứng đợi không có hy vọng đến lượt. Tự nhiên người đàn bà đã dẫn dắt chúng tôi nói với Minh Hà, cho biết đằng sau tàu có người đang leo dây lên tàu.
Thế là cả ba người đi ra phía sau của tàu. Nhưng khi đến chỗ có người leo dây lên tàu thì tôi và Minh Hà không còn thấy người đàn bà đó nữa.
Tôi nắm dây, từ dưới đẩy Minh Hà, nhờ người ở trên kéo lên trước và chính mình leo dây theo sau. Lên được tàu thì chỉ độ hai phút đồng hồ sau lính Hải Quân chặt dây ở thang lên tàu để tàu ra khơi. Ngày 30 tháng Tư năm 1975, lênh đênh trên biển chúng tôi được tin Sài Gòn đã mất.
Đến bây giờ tôi vẫn không biết người đàn bà dẫn dắt chúng tôi là ai. Minh Hà tin và tôi đồng ý, chắc chắn là Phật Bà Quan Âm hay Đức Mẹ, đã đến với chúng tôi trong lúc tuyệt vọng.
Phạm Anh Dũng Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 26/May/2021 lúc 10:10am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23686 |
![]() ![]() ![]() |
Nỗi Đau Âm ThầmĐang đọc bảng tin ngày 27 tháng 05/2021 của Eric Shawn trên Fox News về US Marine Christopher Ahn – thành viên của nhóm Free Joseon (Free North Korea) – bị Bắc Hàn bắt từ năm 2019, chợt điện thoại của tôi reng. Tôi vội copy link để tý nữa đọc tiếp: https://www.foxnews.com/us/christopher-ahn-kim-jong-un Nhất ống điện thoại, tôi “Allo”. Giọng nam từ đầu giây bên kia, nói tiếng Bắc: -Cho tôi được tiếp chuyện với bà Điệp Mỹ Linh. -Xin lỗi, ông cho biết quý danh? -Tôi là Phan Trần Tuấn Châu. -Làm thế nào ông biết số điện thoại của tôi? Ông cần liên lạc với tôi có chuyện gì? -Tìm điện thoại của một người tạo được nhiều “dấu ấn” trong sinh hoạt văn học như bà thì không khó chút nào cả! -Cảm ơn ông. Ông cần liên lạc với tôi về vấn đề gì vậy? -Tôi muốn liên lạc để mời bà yểm trợ, thành lập Hội Giúp Đỡ du học sinh. -Ông là du học sinh à? -Vâng. -Vậy thì tôi gọi ông bằng anh, được không? -Vâng. Bà cho phép tôi được gọi bà bằng chị, cho thân mật, nhé! -Dạ, vâng. Anh học về ngành nào? -Tôi sắp xong bằng tiến sĩ kinh tế đấy ạ! -Theo tôi hiểu, du học sinh từ Việt Nam sang đây đều xuất thân từ những gia đình quyền thế hoặc giàu có. Anh cũng vậy, đúng không? -Vâng. Bố Mẹ tôi là đại gia đấy ạ! -Thế thì thành lập Hội Giúp Đỡ du học sinh để làm gì? -Du học sinh rất cần sự giúp đỡ của những người Việt sang Mỹ từ lâu để hướng dẫn du học sinh về cách thức xin học bổng hoặc mượn tiền trả học phí và chỉ bảo giùm về nhiều phúc lộc khác của chính phủ Hoa Kỳ. -Thế thì anh đã xin được học bổng hoặc mượn được “student loan” rồi, phải không? -Vâng. Tôi được học bổng toàn phần. Tôi còn xin được “housing” nữa kia! Không nén giận được nữa, tôi gằn giọng: -What did you say? -Ơ, sao bỗng dưng chị nổi giận? -Bố Mẹ anh ngày xưa khắc vào người “sinh Bắc tử Nam”, rồi xẻ Trường Sơn vào Nam, dùng vũ khí của Nga Tàu và chiêu bài “đánh Mỹ ‘kíu’ nước” để giết hại chúng tôi; tại sao bây giờ anh không sang Nga, Tàu du học mà lại sang Mỹ? Đã vậy, anh còn bảo Bố Mẹ anh là đại gia, thế mà sang Mỹ du học anh lại xin tiền học và “housing” là nghĩa gì? -Ơ, chuyện đánh Mỹ là chuyện “thế thời thế, thế thời phải thế”(1), có “dính dáng” gì đến chuyện học bổng đâu! -Có chứ sao không. -Thế con của chị học đại học ai trả học phí? -Vợ chồng tôi chứ ai. -Ôi Giời! Thế chị không biết rằng chính phủ Mỹ cho sinh viên tiền hoặc cho sinh viên vay tiền để đi học à? -Chúng tôi biết rõ các điều đó. Nhưng các điều đó chỉ dành cho những sinh viên thuộc vào những gia đình có lợi tức thấp. -Thế sao chị không bảo con của chị mượn địa chỉ của bạn bè để chính phủ Mỹ khỏi biết con của chị thuộc vào gia đình có lợi tức cao? Ôi, Giời! Mỹ nó giàu như thế, mình không hưởng thì người khác hưởng, chị biết chứ? -Luận điệu của anh sao giống y chủ trương của cộng sản Việt Nam (csVN) vậy? -Giống như thế nào ạ? -CsVN biết miền Nam chúng tôi giàu có và văn minh hơn miền Bắc nhiều, cho nên, bằng mọi giá, csVN phải chiếm cho được miền Nam. Nếu miền Nam nghèo và dân tình dốt như miền Bắc thì tội gì csVN phải thí cả triệu quân để chiếm miền Nam! -Ơ, hay nhỉ! Tôi có ý giúp chị để chị tìm được lợi nhuận cho gia đình chị mà sao chị lại giận tôi? -Tôi không giận anh. Tôi chỉ muốn nhắc để anh nhớ rằng Mỹ không dại đâu; “nó” biết hết nhưng “nó” im lặng. Khi đủ bằng cớ rồi thì FBI hoặc CIA sẽ trưng ra và kẻ gian sẽ “chạy Trời không khỏi nắng”. -Thế thì Mỹ thâm thật! Tôi chuyển đề tài: -Tôi chịu khó nghe anh nói từ nãy giờ; bây giờ anh nghe tôi nói, được không? -Vâng, tôi nghe. -Anh biết chuyện cậu học trò Dương Đức Thịnh xúc phạm Quốc Kỳ của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) xảy ra bên Úc, hôm 30-04-2021, hay không? -Ấy, VNCH đâu còn nữa mà gọi là Quốc Kỳ! Phải gọi là cờ Vàng chứ. -Anh đang học tiến sĩ mà suy nghĩ của anh còn rất hạn hẹp! Anh nên nhớ, dù lãnh thổ của VNCH – miền Nam Việt Nam – đã bị csVN cưỡng chiếm, nhưng miền đất thân yêu ấy và chính thể VNCH vẫn sống mãi trong lòng chúng tôi; cũng như áo dài là Quốc phục thì chúng tôi vẫn mặc áo dài và vẫn gọi áo dài là Quốc phục và nước Việt Nam vẫn trong lòng chúng tôi. Chế độ csVN chỉ là giai đoạn của bạo lực. Im lặng. Tôi tiếp: -Tôi nghĩ, anh và Dương Đức Thịnh là sản phẩm tiêu biểu nhất của nền giáo dục “một trăm năm trồng người” do ông ************ đề xướng và đảng csVN thực hiện, đúng như câu Ông Bà mình thường nói: “Rau nào thì sâu đó”. Tôi sẽ đổi số điện thoại của tôi. Bye! Sau những ngày buồn, giận và tiếc cho hành động vô giáo dục, vô văn hóa, vô đạo đức của du học sinh Dương Đức Thịnh và sau khi nói chuyện với Phan Trần Tuấn Châu, tôi chợt nhớ một câu trong bảng tin về anh Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ – Christopher Ahn – mà tôi đang đọc trước khi Phan Trần Tuấn Châu gọi tôi. Câu ấy như thế này: “…Ahn could not go into detail about what unfolded inside the emb***y for legal reasons but told Fox News he went there because ‘people wanted to be helped. People wanted to choose a better life. They didn't want to live under the regime of North Korea. They wanted something better for their children.’" US Marine Christopher Ahn là một người Mỹ lai Đại Hàn – tôi nhìn hình và đoán như thế – mà Ahn còn tìm mọi phương cách giúp người dân Bắc Hàn tìm đời sống Tự Do; trong khi Phan Trần Tuấn Châu và Dương Đức Thịnh sang được nước Tự Do thì lại cố tình đạp đổ những giá trị tinh thần cao quý của đất nước Tự Do; cố len lõi/lợi dụng những kẻ hở của Hoa Kỳ để thủ lợi cho riêng mình! Tôi trách Dương Đức Thịnh và Phan Trần Tuấn Châu thì ít mà trách nền giáo dục của đảng và người csVN thì nhiều. Vì dốt nát, không có văn hóa, không có giáo dục và đức dục, cho nên, sau 30-04-1975, người csVN có những hành động ngây ngô, khờ khạo khiến người miền Nam chúng tôi được dịp cười “bể bụng” khi thấy cán bộ csVN và các anh bộ đội cụ Hồ nuôi cá trong…bồn cầu tiêu! Khi bất cẩn hoặc tò mò, đụng nhầm nút nhấn nước, nước rút, cuốn cá theo, thế là anh cán bộ csVN hoặc bộ đội cụ Hồ chửi ầm lên là “Mỹ Ngụy tráo trở, đã tháo chạy mà còn bí mật đặt máy để cướp thức ăn của ‘anh hùng giải phóng’ và ‘bộ đội nhân dân’”! Khi được người dân miền Nam hỏi ngoài Bắc có “Refrigerator” – tủ lạnh – hay không? Anh cán bộ hoặc anh bộ đội cụ Hồ “hồ hởi” đáp: “Thiếu gì! Nó… chạy đầy đường!” Cũng vì dốt nát, không có văn hóa mà thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đọc “made in Viet Nam” thành ra “ma ze in Viet Nam”. Người csVN bị “quê xệ”, vội bào chữa cho sự dốt nát của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc như thế này: “Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc muốn đùa cho vui.” Nếu thật sự ông Nguyễn Xuân Phúc đùa như thế trước cử tọa thì ông Nguyễn Xuân Phúc cũng phạm lỗi thiếu giáo dục và thiếu đức dục – vì đã xem thường cử tọa! Sau 46 năm không còn chiến tranh, người csVN cũng vẫn chưa đưa môn Công Dân Giáo Dục và Đức Dục vào học đường. Vì thế, lúc nào người csVN cũng có những hành động rất ngây ngô để che dấu bản tính tự ty mặc cảm của chính họ. Tỷ như trong các lễ hội, hễ thấy điều gì vui là thanh niên và thiếu nữ “nhảy cởn” lên, cùng hô vang “tự hào quá Việt Nam”. Còn Dương Đức Thịnh – sau khi xúc phạm Quốc Kỳ VNCH – thì lộng ngôn, tự cho là cậu ta đại diện cho hơn 90 triệu dân Việt Nam để thực hiện hành vi côn đồ đối với Quốc Kỳ VNCH! Chống đối Quốc Kỳ VNCH chỉ có người csVN và một phần người dân miền Bắc; số người Việt Nam còn lại, không biết bao nhiêu người từng hát Quốc Ca và mắt hướng về lá Quốc Kỳ vào mỗi sáng thứ Hai, tại các trường học; số người này không thương quý Quốc Kỳ VNCH thì thôi chứ số người này không thù hận Quốc Kỳ VNCH. Từ ngày đủ hiểu biết cho đến nay, tôi không thể nhớ được bao nhiêu học sinh miền Nam được du học ngoại quốc. Tôi chỉ nhớ hai người bạn cùng học lớp B4 với tôi tại trường Trung Học Võ Tánh Nha Trang được du học Bỉ và Nhật. Theo các bạn B4 cho biết, người bạn sang Nhật du học thiên cộng từ khi còn học lớp B4 tại trường Võ Tánh với chúng tôi. Sau khi sang Nhật, chàng cựu học sinh lớp B4 này sinh hoạt với nhóm sinh viên csVN. Và trong số sinh viên miền Nam du học tại Nhật cũng có một số là sinh viên thiên cộng. Thế mà anh bạn cựu học sinh lớp B4 với chúng tôi, cũng như không biết bao nhiêu sinh viên miền Nam du học, có thiện cảm với csVN, chưa sinh viên nào có hành động nông nổi, mất dạy như hành động của cậu học trò Dương Đức Thịnh – dù đối với Quốc Kỳ VNCH hay là đối với cờ đỏ sao vàng của csVN. Tại sao? Tại vì nền giáo dục miền Nam Việt Nam đã đặt nặng vấn đề Đức Dục và Công Dân Giáo Dục trong học đường ngay từ các lớp tiểu học. Chính chương trình Công Dân Giáo Dục và Đức Dục trong học đường tại miền Nam Việt Nam đã tạo nên người công dân lễ độ, biết liêm sĩ, biết khiêm tốn và biết tự trọng; tạo nên nhân cách oai phong và quân kỹ của người Lính VNCH – một nhân cách vượt trội, hơn hẳn hành động lén lút, rụt rè, lẫn trốn và đôi mắt láu liên của anh bộ đội cụ Hồ. Mỗi khi đề cập đến người Lính VNCH không thể nào tôi không nghĩ đến Thương Binh VNCH. Trong lần phát biểu cảm tưởng tại đại hội Cựu Quân Nhân Quân Lực VNCH, tôi đã nói: “…Ngày xưa, Pháp đô hộ Việt Nam, nhưng hình ảnh anh Thương Binh lại nên thơ như trong ca khúc Ngày Trở Về của Phạm Duy: ‘… Ngày
trở về có anh thương binh Chống nạn cày bừa, Vì thương yêu anh nên ngày trở về Có con trâu xanh hết lòng giúp đỡ…’
Bây giờ, anh Thương Binh VNCH không thể ‘chống nạn cày bừa’, vì đất do Bố Mẹ của Anh để lại đã bị csVN chiếm đoạt. Anh Thương Binh phải lê lết tấm thân tàn trên hè phố, trong nhà lồng chợ, trước các tiệm ăn hoặc bên những đống rác đầy ruồi bọ để kiếm ăn! Miếng cơm của anh Thương Binh bây giờ không phải là ‘nắm cơm ngon’ mà là nắm cơm thừa! Anh Thương Binh đã ăn cơm thừa, uống nước vũng thì làm thế nào Anh có được ‘con trâu xanh’ để nó ‘hết lòng giúp đỡ’? Bố Mẹ của anh Thương Binh cũng không thể ‘lần mò ra trước ao nắm áo người xưa ngỡ trong giấc mơ, tiếc rằng ta đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ’; vì Bố Mẹ của anh Thương Binh đã chết tại một vùng kinh tế mới khô cằn nào đó!...” Giữa lúc lòng tôi xót xa vô bờ vì nghĩ đến những mảnh đời cùng thời đại với tôi đã bị “rách nát” vì chiến tranh, nay vẫn còn bị người csVN trả thù một cách tàn độc, tôi thấy email vừa vào Inbox của tôi. Vào Inbox, mở email, thấy dòng chữ “Cứu Trợ Thương Binh VNCH”, tôi vui hẳn lên. Từ từ đọc tên từng vị mạnh thường quân và số tiền các vị này góp lại để giúp một số Thương Binh VNCH, tôi thầm phục những người giàu lòng bác ái này. Kéo “con chuột” xuống để đọc tiếp, thấy hình của từng anh Thương Binh VNCH – với nhiều thương tật khác nhau trên những tấm thân già yếu – tôi không thể nén được tiếng thở dài! Giữa khi tâm hồn tôi tràn ngập niềm thương cảm dành cho những mảnh đời bất hạnh này, mắt tôi bỗng mở lớn, đầy ngạc nhiên và tức giận khi thấy hai tay của mỗi anh Thương Binh VNCH phải cầm một tờ giấy lớn, để ngang ngực. Trên tờ giấy lớn, tôi thấy: Hàng trên ghi rõ tên họ của mạnh thường quân, từ Mỹ, được viết lớn và đậm; tiếp đến là tên của anh Thương Binh và số tiền anh Thương Binh nhận – $500.000 tiền Việt Nam và một bao gạo 15 ký. Gương mặt của anh Thương Binh nào cầm tờ giấy để ngang ngực trông cũng đau đớn như đang gánh chịu cực hình! Đối với tôi, tặng một số tiền và hiện vật – không cần biết giá trị là bao nhiêu – cho bất cứ một người nào rồi buộc người đó phải cầm tờ giấy đề cao cá nhân của mạnh thường quân, rồi chụp hình, là một hành động sĩ nhục chứ không phải là hành động từ thiện! Tôi không nghĩ rằng quý vị cố tình công khai phổ biến trên các diễn đàn những tấm ảnh có vẻ như sĩ nhục Thương Binh VNCH. Nhưng tôi vẫn phải viết ra những điều làm xót lòng tôi, để mong rằng, từ nay, sẽ không ai “rơi” vào “vết xe đổ” do quý vị tạo nên đối với Thương Binh VNCH – những người đã đích thực góp một phần cơ thể để giữ vững miền Nam trong suốt 21 năm!
ĐIỆP MỸ LINH |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23686 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23686 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23686 |
![]() ![]() ![]() |
NGHĨ VỀ NGƯỜI VỢ LÍNH
Đêm xứ người, trời bỗng nhiên trở lạnh. Chập chờn qua khói thuốc còn đọng lại trong căn phòng âm u, tôi nghe tiếng nấc của bà quả phụ Thiếu Tướng Lê Văn Hưng thoát ra từ cuộn băng ghi âm : “Xin mình cho em chứng kiến giây phút cuối cùng của mình...”. Một tiếng đạn nổ, khô khan vang lên từ ống loa hay từ một thuở nào trong cơn biến loạn. Có lẽ cũng từ lòng tôi. Ngậm ngùi, tôi đứng dậy tắt máy. Nhìn ra khung cửa mù sương, trí tưởng nhạt nhòa lại đưa tôi về một vùng trời hẻo lánh Tiền Giang với khu đồn Giồng Riềng bó rọ trong mấy vòng kẽm gai hoen rỉ và mười sáu quả lựu đạn cuối cùng. Nghĩa Quân Lê Văn Hùng và người vợ lính Phạm Thị Thàng. Hơn mấy chục năm về trước, thuở tóc tôi chưa đau từng sợi bạc. Quân ta tăng viện, chiếm lại khu đồn sau trận tiến công biển người của địch. Trong khói lửa ngập vùng, hỏa châu bừng sáng, tiếng nấc của thương binh và tiếng vặn mình của gỗ sắt hòa lẫn với tiếng nổ rời rạc của vài viên đạn gặp lửa bùng lên. Tôi nghe anh Phó Đồn cụt chân kể lại : - sau khi chồng bị tử thương, chị Thàng ôm hai con nhỏ sắp chết vì đạn địch, núp sau ụ đất với một thùng lựu đạn 16 quả. Cánh tay của người vợ lính vung lên, từng tiếng nổ ầm, át cả tiếng khóc cuối cùng của con thơ. Mười lăm quả lựu đạn vút đi, ngăn chân biển địch. Thùng lựu đạn chỉ còn đây một quả Xin theo nhau cho vẹn Nghĩa chung Tình. Chị Thàng đã tự sát, tay ôm xác hai con trẻ đã chết, để đi theo chồng là Nghĩa Quân Lê Văn Hùng vào cõi vĩnh hằng, cô đơn, côi cút và âm thầm trong cuộc chiến. Người vợ lính đã nuôi con bằng gạo Quân Tiếp Vụ, hạnh phúc bình thường qua bữa cơm với cua đồng cá nội. Ảnh của chị đã được treo lên tại góc đường Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt ở Saigon một thuở nào giữa dòng người thờ ơ qua lại. Người phụ nữ miến Nam với nụ cười đơn sơ chất phác, e ấp qua mảnh khăn rằn. Từ Bến Hải đến Cà Mau, bước chân của người vợ lính ẳm con đi theo chống khắp bốn vùng chiến thuật. Không có những móng chân đỏ hồng nhưng đã tạo nên những vần Thơ dường như huyền sử. Tôi quay lại bấm máy. Tiếng nói của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn vang lên qua từng loạt đạn nổ ... “Thiếu Tướng biểu y lệnh hả Chị ? Dạ, tôi sẵn sàng...” Tôi lại tắt máy, không dám nghe nữa, có lẽ vì mặc cảm tự ti, hay thấy mình quá nhỏ bé trước những tiếng vọng anh hùng. Lại châm thêm điếu thuốc, ngọn đồi Chu Prao hiện về. Người nữ sinh sắc tộc Thái Trắng sinh tại Đơn Dương, hoa khôi Đà Lạt một thời với tên Đèo-Nàng-Hoa. Lấy chồng là Trung Sĩ Biệt Kích Trường Sơn, tên Neo Krông, da sạm đen với bắp tay cuồn cuộn như một nhánh cây rừng. Trong một lần đi toán, Neo Kkrông đã không về lại. Tặng tiền tử của chồng cho một viện mồ côi, Đèo-Nàng-Hoa đã đi tu và xin chuyển ra làm việc trong trại cùi ở Qui Nhơn. Có một lần tôi gặp lại nàng khi tôi đến thăm mộ Hàn Mặc Tử. Người nữ sinh vợ lính thuở nào như bóng của huyền thoại đã trở thành Dì Phuớc. Nhìn cặp mắt đen mà nghe cả tiếng thông reo. Bàn tay của Dì Phước Đèo-Nàng-Hoa đã bắt đầu ửng đỏ bệnh phong, sự thật hay do tôi tưởng tượng ? Khi ra khỏi trại cùi, tôi không dám quay nhìn lại, tâm hồn của người vợ lính bình thản đã nạm vàng trong khi bóng tôi bên đường chỉ là cát bụi. Tiếng thơ của Hàn Mặc Tử lại vọng qua gió thổi rì rào : “Run như run hơi thở chạm tơ vàng”. Tiếng của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam trầm buồn nhưng cương quyết : “Làm tướng mà không giữ được nước được thành thì phải chết theo thành theo nước...”. Tôi nghe mủi lòng rưng rưng. Hình ảnh của người vợ lính ven sông Thu Bồn dắt con qua bao chuyến tàu chợ từ Quảng Nam ra miền Bắc tìm chồng trong tù gọi là “cải tạo”. Nước mắt âm thầm chảy xuống dặm đường oan nghiệt, chân giẫm lên sỏi đá chia lìa. Một gói đường phèn, một lon muối ớt, với tất cả tình thương mộc mạc, đơn sơ như thửa ruộng bờ đê, chắt chiu từng đồng, lặn lội gần một tháng trường gian khổ để chỉ được vài ba tiếng đồng hồ im lặng nhìn con, nhìn chồng tả tơi trong manh áo tù không án. oan khiên, tù của một chế độ bạo tàn, mà người mẹ và vợ lính không bao giờ hiểu nghĩa. Gần suốt đời cam phận bóng mờ di chuyển theo chồng qua bao trại gia binh, sinh con trong những khu đồn hẻo lánh, để rồi hôm nay bên cạnh tên cúng cơm lại bị ghi thêm hai chữ “Vợ Ngụy” ! Từ ngữ sao mà cay nghiệt, nặng trĩu hận thù! Người vợ lính chẳng hiểu vì sao ? Có người cầm tấm thiệp mời dự Ngày Quân Lực, mấy chục năm rồi xa Tổ Quốc, nhếch môi phán rằng : Quân với Lực làm gì nữa, phí một ngày đi chơi cuối tuần ! – Tôi cũng cầm tấm thiệp, vặn máy tăng âm cho tiếng vang từ cuộn băng bừng lên, căn phòng dồn dập tiếng đạn xa xưa ... Tôi ôm đầu, quặn đau cả lòng. Từ trong tâm tưởng, tôi nghe có tiếng bước chân âm thầm của những người mẹ và vợ lính. Phạm thị Thàng, Đèo-Nàng-Hoa... và hàng triệu bóng dáng phụ nữ Việt Nam một thời khói lửa, son sắt thủy chung, đang nhìn tôi qua màn sương lạnh. Tôi cũng nao lòng nghĩ đến những người Mẹ và vợ của các chiến sĩ kháng chiến phục quốc hải ngoại/quốc nội sau ngày mất Miến Nam, sống âm thầm cô đơn trong bóng đêm lưu vong xứ người hoặc bị đọa đày ngay trên quê hương. Nỡ nào quên tình đồng đội, quên những người mẹ và vợ lính đạm bạc, không cần lịch sử ghi danh, đã và đang khóc, thương con thương chồng cùng thương Nước với tấm lòng biển rộng trời cao ! Hình ảnh của người mẹ và vợ lính sống mãi trong Hồn Dân Tộc với niềm hãnh diện cô đơn. Rồi một ngày không xa, tôi cầu mong sẽ được vô vàn diễm phúc đứng bên cạnh đường lịch sử vinh quang rợp bóng Cờ Vàng trên quê hương để ngắm nhìn các mẹ, các chị, các em, mỉm cười trong ân nghĩa Tình Người : Gặp nhau biết nói gì hơn Cười vui trong gió tóc vờn cờ bay ! Tù của một giai đoạn lịch sử Võ Đại Tôn ***** 2- Thơ : LỜI NGƯỜI VỢ THƯƠNG BINH VNCH (VĐT) Bao năm trời chiến chinh Võ Đại Tôn |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23686 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23686 |
![]() ![]() ![]() |
Hồn Ca Trên Biển Đông
(Kính dâng lên hương hồn hơn nửa triệu đồng bào đã tử nạn trên biển Đông, mong vượt thoát chế độ cộng sản VN, mưu tìm Tự Do sau cơn Quốc Nạn 30 tháng Tư Đen 1975.)
Hồn ai đó ?
(Pulau Pidong với cảnh mồ xiêu mã lạc)
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 29/Jun/2021 lúc 1:24pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23686 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23686 |
![]() ![]() ![]() |
545 -LK- Anh ở đây <<<<<NS Thục Vũ +Vũ đức Nghiêm -ca sĩ Đoàn Chính - HD![]() Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 10/Jul/2021 lúc 1:34pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23686 |
![]() ![]() ![]() |
Sao tôi để mẹ nằm lại nơi đảo vắng?
Ông Nguyễn Gia Mạnh bên mộ người mẹ ở đảo Kuku
Tôi
biết là mình sẽ khó quên được cảnh ông Nguyễn Gia Mạnh ngồi trơ trọi
giữa những ngôi mộ, tảng đá không lưu danh người trên ngọn đồi nơi đảo
vắng của xứ người.
"Bán
đảo Kuku" theo cách gọi của người Việt là nơi từng có trại tị nạn Kuku,
nằm trong quần đảo Anambas của Indonesia, phía đông bắc Singapore, nên
đường đến đó thì đi từ đảo quốc Sư tử có vẻ thuận tiện hơn là từ
Jakarta.
Được
biết từ năm 1979 đến giữa thập niên 1980, có lần lượt khoảng 40.000
thuyền nhân Việt Nam đã đặt chân lên Kuku, trước khi được chuyển sang
các trại chuyển tiếp chờ đi tị nạn ở nước thứ ba.
Và nếu tính cả Indonesia thì con số này lên đến 180.000 thuyền nhân Việt Nam.
Đảo Kuku vào thượng tuần tháng Tư năm 2018
Ông
Gaylord Barr, một giáo viên người Mỹ từng đến giúp người tị nạn Việt
Nam tại trại Galang vào đầu thập niên 1980 và có dịp ghé trại Kuku năm
1981, mô tả Kuku "vừa xinh đẹp vừa tàn bạo."
"Chỉ
một tháng trước chuyến thăm Kuku của chúng tôi, một tàu chở người tị
nạn Việt Nam đã bị đắm khi gần tới đảo, khiến tất cả những người trên
tàu bị chết đuối," ông Barr viết trên website cá nhân.
Ông Gaylord Barr
"Đêm
hôm đó, một đại diện của tổ chức World Vision (Tầm nhìn Thế giới) nhờ
một thông dịch viên tiếng Việt, trò chuyện cùng những người tị nạn trên
đảo. Ông nói với những người này rằng họ sẽ không bao giờ nhìn thấy Việt
Nam nữa và mô tả với họ về những khó khăn, sự cô đơn và vô vọng của họ
khi đến sống ở những nước khác. Ông giải thích rằng hy vọng duy nhất của
họ là chấp nhận Chúa Jesus làm vị cứu rỗi. Những người nghe im lặng,
một số người đã khóc và một số người bước ra ngoài."
Tôi
lướt qua những tấm ảnh chụp người Việt trên website của Barr và thấy
gương mặt đàn ông, đàn bà trầm tư, ánh mắt không che giấu vẻ lo âu, bên
cạnh những đứa trẻ vô tư lự đang cười đùa bên các dãy lán trại tạm bợ.
Bây
giờ thì người ta không thể tìm ra dấu vết của những dãy lán trại, chùa
hay nhà thờ nhỏ của thuyền nhân từ thời các thập kỷ trước.
Tất
cả mọi thứ liên quan đến thuyền nhân đã bị chính quyền địa phương tháo
gỡ sau thời điểm các trại tị nạn trong khu vực đóng cửa và bắt đầu chính
sách thanh lọc.
Và
Kuku như tôi thấy trong những ngày tháng Tư năm 2018 là một đảo vắng
bóng người, nước xanh, cát vàng yên ả như bất kỳ hòn đảo nhiệt đới nào.
Trại tị nạn trên đảo Kuku hồi năm 1981
Nếu
có gì nhắc nhớ về nơi từng có cả vạn người Việt Nam trú ngụ ở đảo này
thì đó là tấm bia tưởng niệm thuyền nhân hình chiếc tàu trên bãi.
Và
những khu mộ thuyền nhân nằm rải rác trên đồi mà để đến viếng, người ta
phải băng qua con suối hoặc trảng cỏ và những con dốc cheo leo.
Tuy gọi là khu mộ nhưng tại đó chỉ có một số ngôi mộ về sau này được thân nhân tìm đường quay trở lại xây cất.
Còn
phần nhiều trong số đó chỉ là những tảng đá vô tri vô giác, có tảng
được khắc ký hiệu nào đấy, có tảng hoàn toàn không lưu danh tính người
đã khuất.
Năm 37 tuổi của con và của mẹ
Tôi
gia nhập đoàn mười người đi chuyến này, hầu hết trong số họ đến từ Mỹ
và Úc. Người dẫn đoàn là Carina Hoàng, nhân vật trong 20 năm qua đã tổ
chức những chuyến đưa người tìm mộ thân nhân ở đảo Kuku.
Câu
chuyện của Nguyễn Gia Mạnh, một người trong đoàn, cũng có thể là câu
chuyện của nhiều thân phận người dân nước Việt, sau biến cố 1975 bỗng
chốc gặp cảnh sinh ly tử biệt.
Người
đàn ông 46 tuổi này có nụ cười sảng khoái nhưng kiệm lời, hiện đang có
cơ sở kinh doanh riêng ở Adelaide, miền Nam nước Úc.
Đây
là lần thứ hai, Mạnh quay lại đây viếng mộ mẹ, người qua đời do bị bệnh
khi con tàu đưa bà cùng nhiều người khác vượt biên sắp sửa cập vào đảo
Kuku hồi năm 1989 sau những ngày lênh đênh trên biển.
Mẹ ông năm đó 37 tuổi.
Ông Mạnh tìm được mộ của mẹ mình cũng năm ông 37 tuổi.
Đảo Kuku bây giờ là nơi vắng dấu chân người
Giữa
buổi trưa nắng như đổ lửa, tôi theo chân ông băng qua một trảng cỏ,
vượt qua một sườn dốc, cây cối rậm rạp để lên viếng mộ mẹ ông, trong khu
mộ nằm cạnh một bãi đáp trực thăng, nơi từng đón phái viên Cao ủy Tị
nạn Liên Hiệp Quốc đến phỏng vấn những người tị nạn trên đảo.
"Một ngày của năm 1987, lúc đó tôi mới 15 tuổi, mẹ bảo tôi: "Con đi với bố đi!", ông Mạnh bắt đầu chuyện của mình.
"Tôi đâu có ngờ đó là lần cuối tôi thấy mặt mẹ."
"Bố con tôi ra đi trên một chuyến tàu vượt biên chở theo 114 người."
"Ngoài khơi, tàu bị vô nước nhưng may mắn là được thuyền Tây Đức vớt và đưa cả đoàn vào thẳng trại chuyển tiếp ở Hong Kong."
"Năm
1988, bố con tôi qua tới Úc. Thời điểm đó, thư từ liên lạc khó khăn,
gửi một lá thư vài tháng thì người ở nhà mới nhận được."
"Lúc giấy tờ bảo lãnh mẹ do bố tôi làm gửi về đến Việt Nam thì bà ở nhà nóng ruột nên đã đi tự đi vượt biên một mình."
"Mẹ
tôi mất khi tàu đã gần tấp vô đảo. Khi người ta thương tình, đem thi
thể mẹ tôi nằm trên tàu vào chôn cất trên đảo Kuku, một người dượng của
tôi cũng đang ở đó nên báo tin cho bố tôi."
"Trong
nhiều năm liền, tôi vẫn thấy mẹ tôi trong giấc mơ. Mẹ nói: "Bố con cứ
đi trước đi, rồi nhà mình sẽ được gặp lại nhau ở đâu đó."
"Nếu biết đi lần ấy là chia ly thì tôi đã không đi rồi."
Trong cái nắng cháy da của ngày hè, ông Mạnh ngồi cặm cụi phết sơn trắng lại ngôi mộ của mẹ mình trước khi thắp hương.
Và rồi ông ngồi lặng lẽ, trơ trọi giữa những ngôi mộ, tảng đá không lưu danh người trên ngọn đồi.
Chỉ có tiếng gió xào xạc và vài tiếng chim lẻ loi.
Tôi nhìn quanh và thấy ngọn đồi, hòn đảo này sao giữa ban ngày mà u tịch quá.
Không có lấy một bông hoa, dù chỉ là hoa dại, cho cảnh vật bớt tiêu điều.
Im lặng một hồi lâu, ông tiếp tục câu chuyện đang bỏ dở.
"Trong
những năm khi trưởng thành ở Úc, tôi vẫn đau đáu muốn một ngày đến tìm
mộ mẹ nhưng thật sự là tôi không biết cách nào tìm đến đảo này."
"Cách
đây khoảng tám năm, người dì sống bên Nhật báo cho tôi biết là bà thấy
hình chụp một cột đá ghi tên mẹ tôi trên website của Carina Hoàng."
"Lần đó, do giờ chót bận việc đột xuất nên tôi không đi được đến Kuku, mà chỉ nhờ người xây mộ cho mẹ."
"Bốn năm trước, tôi viếng mộ mẹ lần đầu và nay là lần hai."
"Mỗi lần đi là một lần đường xa vạn dặm, mất hai ngày rưỡi chỉ để đi-về."
Dấu tích của những người đã vĩnh viễn nằm lại đảo Kuku có khi chỉ là các hòn đá chơ vơ không ghi danh tính
"Mỗi lần đặt chân đến đây, cảm xúc trong tôi thật lẫn lộn."
"Tôi cảm thấy bớt áy náy, dằn vặt khi cuối cùng thì mẹ tôi đã có ngôi mộ được xây cất tươm tất."
"Nhưng
rồi tôi nặng lòng, tự hỏi sao mình có thể để mẹ nằm lại nơi đảo vắng,
mỗi lần giỗ chạp, con cháu muốn đến thắp nén hương cũng khó?"
"Mấy dì, cậu muốn mang cốt của mẹ tôi về gửi ở chùa."
"Nhưng
cũng có người trong gia đình nói thôi, mẹ tôi dù sao cũng đã mất, mọi
chuyện âu cũng tại số phận, nên để bà nằm yên lại nơi này."
Tiếng gió vẫn xào xạc nhưng cái nắng nóng giữa trưa hè vẫn chưa hết oi bức.
Tôi bất giác hỏi: "Sao ngày đó cả gia đình ông có ba người mà không đi chung một chuyến tàu?"
Ông
Mạnh đáp: "Tôi cũng có hỏi bố tôi câu hỏi ấy. Ông nói, một người phải ở
lại Việt Nam, nếu có bất trắc, hai bố con đi không lọt thì còn người
bên ngoài để lo liệu, thăm nuôi."
Ông Nguyễn Gia Mạnh bên bia tưởng niệm thuyền nhân trên đảo Kuku
Tôi hỏi tiếp: "Tại sao cả nhà ông quyết định ra đi?"
"Bố tôi làm đại úy cảnh sát thời Sài Gòn," ông Mạnh đáp.
"Sau biến cố 1975, ông phải đi cải tạo 10 năm."
"Bố chưa bao giờ kể cho tôi nghe ông trải qua thời khắc khó khăn đó thế nào."
"Và tôi cũng không hỏi do không muốn gợi lại chuyện đau lòng."
Tôi lại hỏi: "Có bao giờ ông nghĩ nếu mình đang còn ở Việt Nam thì thế nào, có tốt hơn bây giờ không?"
"Ngoại trừ chuyện của mẹ mình, tôi không có gì phải tiếc nuối về chuyện ra đi và cuộc sống trong hiện tại cả."
"Tôi tin vào sự sắp đặt của số phận cũng như tin mẹ luôn phù hộ và luôn dõi theo mỗi bước của tôi trên đường đời…" ông Mạnh nói.
Khi
ánh nắng cuối ngày sắp tắt, trước lúc rời đảo về lại đất liền, ông Mạnh
đi một vòng thắp những nén nhang cho những người không may nằm lại ở
đây.
Giữa
một số mộ phần có danh tính người Việt và người gốc Hoa, vẫn còn đó
những phận người mãi mãi nằm lại nơi đảo xa mà không ai có thể biết danh
tính và câu chuyện đời run rủi đưa họ đến kết cục này...
Ben Ngô
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 109 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |