Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: NHÓM 12 YÊU THƯƠNG Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 159 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23786
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/Feb/2015 lúc 8:24am

Ruột Thịt Tình Thâm



Tin chị Thơm bị chồng bỏ lan ra nhanh chóng đầu trên xóm dưới .
Có người nói tội nghiệp chị đẹp người đẹp nết , con nhà ăn học mà số long đong .
Nhưng có người lại mừng dùm và họ coi đó như giải pháp mà ông trời giải thoát cho chị khỏi cảnh khổ .
Chị Thơm là con gái duy nhất trong ba người con của thầy giáo Thức ở xứ này .
Thời sinh tiền lúc còn sống thầy và ông chủ tiệm vàng Kim Vinh là bạn tâm giao nối khố có nhau dù một người làm buôn bán một người theo nghiệp chử nghĩa thánh hiền .
Ngay khi chị Thơm chỉ là trẻ thơ lúc nghe ông Vinh muốn kết thông gia cho hai gia đình càng thân hơn, thầy giáo Thức đã đồng ý ngay.
Thơm từ nhỏ đã sáng dạ học đâu nhớ đó , thương con nên lớn lên ba chị cho chị lên ở nhờ nhà người cô ruột trên Sài Gòn để tiếp tục việc học .

Năm đó tự nhiên ông Vinh bị một căn bệnh lạ, chạy chữa nhiều thầy thuốc mà bệnh có vẻ không thuyên giảm. 

Khi thầy giáo Thức sang thăm ông bèn nhắc chuyện xưa và muốn tiến tới hôn nhân cho con trai mình. Trước là được yên lòng nhắm mắt vì con nên bề gia thất do ông Vinh biết rất rõ Thơm là cô gái rất tốt. Thêm vào cái hy vọng là biết đâu hôn lễ xua đi được cái vận hạn xui xẻo đang đè ám gia đình ông. 

Năm 19 tuổi Thơm được ba mình gọi về quê và lấy chồng trong cái không khí gấp rút của đám cưới đang chuẩn bị. Lúc đầu Thơm phản đối bằng cách bỏ ăn và khóc lóc không ngừng. Nhưng đến khi ba chị dọa thắt cổ tự vận nếu chị dám từ hôn làm trái ngược lại lời hứa mà ông coi trọng như núi. Đến nước đó thì Thơm hết cách đành theo ý ba mình về làm vợ Huấn. 

Cứ tưởng Huấn chồng chị Thơm lấy được người vợ như chị, anh ta hẳn vui mừng mới đúng. Nhưng vốn tính nhỏ nhen thêm vào chất gia trưởng Huấn thấy chướng mắt vì sự học vấn của vợ. Trong khi chị vận dụng cái giỏi giang của mình để gánh vác việc nhà chồng thì Huấn sau khi tỏ rỏ đường đi lối về với cô vợ trẻ anh ta lại miệt mài với những thú vui tình ái bên ngoài. Từ khi sinh Thu con gái đầu lòng chị Thơm nhiều lần khuyên chồng nên để đức cho con đừng đi gạt gẫm những cô gái khác nhưng Huấn gạt bỏ ngoài tai. Thậm chí nhiều lần còn hạ cẳng tay, thượng cẳng chân với chị khi say. Nhất là sau khi ba chồng chị là ông Vinh qua đời thì Huấn không còn phải e dè, kiêng kỵ̣ ̣một ai. 

Một lần đoàn gánh hát của ông bầu Tám Ít về đây hát, Huân đi xem và đâm ra mê mệt Hai Như cô đào nhì của gánh. 
Khác với những lần trước lần này Huấn trong mắt Hai Như là con mồi lớn nên Hai Như quyết không buông, cô xõ mũi Huân một cách nhanh chóng. Vốn xuất thân lang bạt nên Hai Như không dể dàng gì trở thành trò chơi của Huân cô buộc Huân phải cho cô danh chính ngôn thuận khi cô có mang. 

Thế là sau 9 năm, chị Thơm đành chịu tiếng bị chồng bỏ bởi không chịu nổi sự cay nghiệt cũng như những trận đòn thừa sống thiếu chết của Huân gần đây. Thầy giáo Thức ba của chị cũng qua đời vài năm trước đó nên chị cũng không muốn níu kéo. 

Chị đồng ý ra đi với hai bàn tay trắng không làm phiền Huân cưới vợ mới nhưng bù lại Huân phải để chị dẩn bé Thu lúc này được 5 tuổi đi theo mình . 
Buồn cho phần số dang dở của mình và cũng không muốn ở lại quê nơi có nhiều kỷ niệm gợi chuyện phiền lòng chị Thơm dẫn con gái lên lại Sài Gòn. 
Ban đầu chị tá túc ở nhà cô ruột như trước. Sau đó chị mang số tiền cha mẹ ruột cho phòng thân khi xuất giá lấy chồng làm vốn mua bán. 
Chị mở một sạp bán trái cây và thuê căn nhà nhỏ gần đấy cho tiện việc đi về mẹ con chị sống yên ả vui vẻ với nhau. 

Dạo gần đây có một anh chàng người Mỹ thường ghé mua trái cây chổ chị. Anh ta gây sự chú ý cho Thơm bởi anh ta nói được tiếng Việt rất rành khác với những anh chàng Mỹ lớ ngớ thỉnh thoảng vẩn ghé chổ chị mua hàng. 
Anh chàng người Mỹ John Smith ấy cũng thật bất ngờ khi thấy cô chủ hàng nói rất chuẩn thứ ngôn ngữ mẹ đẻ của mình và là một người có ăn học. 
Lúc đầu chỉ là trò chuyện xã giao lâu dần họ thành bạn. Dù hai người cách xa nhau về hình thức lẩn nơi sinh trưởng nhưng họ lại khá hợp nhau trong nhiều cách nghĩ. Hơn một năm sau John ngỏ lời với muốn cưới Thơm làm vợ. 
Phần Thơm thật sự chị dành rất nhiều cảm tình cho John nhưng chị cũng e ngại sự cách biệt và tiếng đời thường mĩa mai những người phụ nữ lấy Mỹ thời đấy nên chị còn lưỡng lự chần chừ. Nhưng tấm chân tình của Louis khiến chị cảm động. Hai năm từ ngày họ quen biết chị dẹp cửa hàng về làm bà Smith. 

Mười mấy năm trôi qua gia đình chị Thơm có thêm một trai hai gái. Peter được 13 tuổi , Mary 11 tuổi và Ann 9 tuổi. 
Ngoài xã hội John là người khá thành công về kinh doanh nhưng khi về nhà John là người chồng có trách nhiệm. Anh ta đối xử với Thu cũng như những đứa con khác của mình hết mực yêu thương không hề có sự phân biệt. Gia đình họ sống đầm ấm hạnh phúc ngoài những lúc đến trường ở nhà chị Thơm vẩn gọi con bằng những cái tên tiếng Việt là Phú , My và Ái . 
Khác biệt nhau về mái tóc và cả màu da nhưng bốn chị em Thu lại quấn quít hòa thuận, luôn gắn bó bên nhau không rời . 

Năm 1975 lúc này Thu đã 21 tuổi đang theo học một trường Dược ở Sài Gòn. 
Một ngày chị Thơm nhận được tin Huấn chồng cũ của chị tức là ba ruột của Thu ở quê qua đời đột ngột vì một cơn đột qụy. Đúng ra chị Thơm không muốn về bởi tình hình lúc đó có nhiều thay đổi và Huấn từ lâu không hề nhắc nhở hay đá động gì tới đứa con gái của mình là Thu. Nhưng cuối cùng chị cũng dẫn Thu về chịu tang cho đúng phép tắc dù gì họ cũng là cha con. Phần chị thì xem như nghĩa tử nghĩa tận đến thắp một nén hương cho phải đạo làm người, hơn nữa chị không an tâm để Thu về một mình. 

Sau đám tang ngay lúc chị chuẩn bị trở về Sài Gòn thì thời thế thay đổi trong một đêm phải chờ đến cả tuần sau và bằng nhiều cách mẹ con chị mới lặn lội trở về được Sài Gòn. Nhưng khi chị Thơm và Thu lên tới Sài Gòn thì mọi chuyện đã khác lạ hoàn toàn . 
Dâu bể đổi dời chỉ trong khoảng thời gian ngắn, chị không thể vào được nhà cũ bởi chúng bị tịch thu nên chị không lấy được thông tin hay địa chỉ liên quan gì tới chồng mình ở Mỹ . 
Cũng không thể hỏi thăm ai giữa cái lúc hỗn loạn ấy chị dành dẫn Thu nương náu, mưu sinh ở một quận gần đó và cố gắng hết khả năng để nghe ngóng liên lạc với chồng và con của mình trong vô vọng. 

Ngày xưa vì người ở quê hay kỳ thị, dè bĩu và lo cho sự an toàn của chồng vào thời còn chiến tranh. Chị Thơm chỉ dẫn duy nhất Peter về quê ngoại chơi hai lần mà thôi. Không cho John cùng hai con gái nhỏ về thăm quê lần nào. Bởi má chị vẫn lên thăm gia đình chị ở Sài Gòn thường xuyên. Do chị cũng ỷ y đâu có dè cuộc đời có những thay đổi như vậy. 
Thời gian dần trôi không một tin tức nào về họ dù là sống chết. Phần lo lắng thương nhớ con nên sức khoẻ chị Thơm mỗi ngày một kém. Rồi chị qua đời vào một đêm mưa sau cơn bệnh trong tay vẩn còn nắm chặt tấm ảnh gia đình của mình. 
Lúc lâm chung không biết có phải còn tiếc nuối hay ấm ức mắt chị mở trừng trừng khiến Thu khóc than tức tưởi khấn nguyện rằng sẽ cố gắng tìm được những đứa em và mang chúng về. 

Phần John Smith vào lúc mọi người nhốn nháo rồng rắn di tản dù không muốn bỏ vợ mình lại nhưng John không còn cách nào khác hơn đành dẫn ba người con của mình lên máy bay về Mỹ trong nổi đau đáu lo lắng. Khi về đến xứ sở anh ta cũng cố gắng liên lạc với vợ mình nhưng ngoài tên họ của vợ và con gái. John chỉ biết thêm địa danh quê vợ là Xào Bân chứ không hề có thông tin gì khác. Đường phố còn thay đổi tên thì nói chi muốn tìm một con người giữa cái đất Sài Gòn mênh mông ấy. 
Ba năm sau trên đường đi làm về John qua đời trong một tai nạn giao thông thảm khốc. Những đứa con của anh được chuyển về sống với ông bà nội ở bang Texas. 
Gia đình họ lạc nhau từ đó... 

***** 
Ba mươi lăm năm sau 
Thu bây giờ tóc đã bạc hơn phân nửa và lên chức bà Ngoại chị lấy chồng có được ba người con. Chồng chị là người đàn ông tốt và hiền lành
Các con chị vẫn sống và làm việc ở Sài Gòn. Còn chị và chồng về sống ở quê vào 5 năm trước trên mảnh đất hương hỏa của bà Ngoại chia cho mẹ chị ngày xưa, vui thú cùng vườn cây ao cá, như bao người có tuổi khác . 
Cuộc sống chị êm đềm, hạnh phúc như bao gia đình an phận bình thường nhưng dù bao năm trôi qua trong lòng Thu vẫn không quên được nỗi nhớ về những người em của mình . 
Thỉnh thoảng nhìn những tấm ảnh cũ đã úa vàng mà chị lưu giữ như một báu vật, chị lại chảy nước mắt. 

Chị khóc khi hồi tưởng cái khoảng khắc ngày xưa đút cơm cho những đứa em của mình. Chị nhớ rõ đứa nào thích ăn gì, tính nết ra sao. 
Nhớ lúc chạy giỡn trong khoảng sân nhỏ cùng nhau giờ không biết họ lưu lạc phương trời nào và có bình an không ?. 
Hiểu nỗi khổ tâm bao năm của chị Thu các con chị cũng giúp mẹ bằng mọi cách họ có thể . 
Từ những phương tiện thông tin hiện đại đến nhờ cả đại sứ quán giúp đỡ, nhưng thông tin qúa ít ỏi và trôi qua nhiều năm nên sự tìm kiếm của họ cũng rơi vào im lặng. 

Peter, Mary và Ann hiện tại cũng đã có gia đình và con cái họ khác xưa hoàn toàn. Vốn Việt Ngữ của họ gần như là mất hết, ngoại trừ Mary do làm quản lý ở một hãng có nhiều người Việt nên cô còn nói được chút ít. 
Nhưng ba người họ vẫn không quên người mẹ và chị của mình. Họ về Việt Nam rất nhiều lần nhờ sự giúp đỡ của nhiều nơi . 
Nhắn tin trên báo để tìm kiếm nhưng tất cả vẫn không có tin tức gì, họ cũng không có nhiều manh mối để mở rộng việc tìm kiếm… 

Năm 2010 Peter lúc này đã 48 tuổi nhân dịp nghỉ thường năm anh ta dẫn theo cô vợ người Mỹ của mình là Jessica về Sài Gòn du lịch. 
Lần đó khi đang ngồi trên chuyến xe tham quan của một đoàn du lịch chuẩn bị đi đến điểm vui chơi theo lịch trình . 
Là người vui tính Peter trò chuyện cùng anh hướng dẫn viên là ngày xưa mình được sinh ra ở Sài Gòn . 
Nhắc về kỷ niệm vô tình Peter nói rằng quê ngoại ở Xào Bân bằng một thứ tiếng Việt lơ lớ. Có một vị khách lớn tuổi trong đoàn nghe được. Ông ta nói là ông ta biết một nơi trước kia gọi là Xẻo Bần chứ không phải là Xào Bân. 
Đó là một làng nhỏ do dân địa phương tự đặt tên ấy vì có cái rạch nhỏ chảy cắt ngang qua. Mà bây giờ không còn ai gọi là Xẻo Bần nữa họ gọi bằng tên một thị trấn khác. 

Không biết có cái gì xui khiến Peter vội lấy giấy bút ra và nhờ ông ta ghi lại chính xác nơi đó bằng cái tên hiện hành ngày nay. 
Bỏ dở chuyến đi chơi Peter cùng vợ ngược về Sài Gòn tìm đến trung tâm lữ hành du lịch và ngỏ ý muốn thuê một hướng dẫn viên thông thuộc miền Tây để đi đến địa danh mà vị khách lạ cho. 

Khi họ đến nơi thì gần như không còn vết tích nào giống trong ký ức của Peter. Anh ta nhớ ngày xưa phải đi bằng thuyền nhỏ và cây cỏ hoang dại. Còn nơi anh ta đến ngày nay là thị trấn sầm uất đông đúc xe cộ chạy xuôi ngược . 
Thấy vẻ thất vọng của Peter anh hướng dẫn viên cũng không biết làm sao hơn đành cùng người tài xế chở hai vợ chồng ông khách người Mỹ đi loanh quanh cho đúng theo trình tự một chuyến tham quan . 
Xe chạy dọc những con lộ nhỏ và anh hướng dẫn viên giảng giải đây là một vùng chuyên về trồng trái cây . 

Chợt lúc đó chuông nhà thờ đổ hồi chuông ban trưa thông lệ. Như có một thứ giác quan mách bảo Peter đòi được đến nơi đó . 
Cả nhóm họ rời xe đi bộ trên con đường làng khi đứng trước căn nhà thờ có tuổi thọ gần cả trăm năm được xây từ thời Pháp đô hộ. 
Peter gần như là không kèm được sự xúc động bởi anh ta nhận ra đây đúng là quê ngoại mình mà ngày xưa anh được mẹ dẫn về . 
Qua bao nhiêu năm nhưng cũng may là cái nhà thờ ấy vẫn không thay đổi hình dáng kiến trúc cũ. Nhất là cái vị trí nằm ngay ngã ba sông rất đặc biệt . 

Peter nhớ một cách rõ ràng như vậy do có một lần khi về quê chị lớn là Thu dẫn em trai mình đến đây chơi. Đang vui đùa chợt Peter tự nhiên bị chảy máu cam không rõ nguyên nhân khiến Thu hốt hoảng cầu cứu. Chính một vị ma-soeur hiền lành đã kêu Peter nằm ngay xuống trước sảnh nhà thờ và ngước mặt lên ngay cho máu ngừng chảy. Trong khi bà đặt chiếc khăn lạnh trên trán của Peter để hạ nhiệt độ. 
Theo trong trí nhớ của Peter nhà bà ngoại đi bộ cách đó một đoạn nhưng hướng nào thì anh ta mơ hồ không nhớ nổi . 

Vốn nhạy bén sau một hồi suy tính Peter nhờ anh hướng dẩn viên hỏi thăm những ai nhiều tuổi từng sống nơi đó về người đàn bà có tên Ba Thơm có con gái tên Thu . 
Nhưng già trẻ không một ai biết bởi ngày trước chị ba Thơm chỉ thỉnh thoảng về thăm quê rồi đi. Số người còn lại họ đến ở nơi đây mới độ hai , ba chục năm thì làm sau biết chuyện ngày xưa cũ
Thêm nữa ở quê người ta thường gọi theo thứ ít ai gọi tên nên chẳng ai biết người đàn bà mà Peter muốn kiếm là ai. 

Cuối cùng Peter chỉ còn cách ghi lại địa chỉ khách sạn ở Sài Gòn nơi mình trú ngụ cùng số điện thoại cá nhân đang tạm dùng trong thời gian ở Việt Nam. Peter hứa sẽ hậu tạ cho bất cứ ai có tin tức về hai người mình đang cần tìm . 
Đúng lúc kẻ ghi người viết thì có một người đàn bà đứng tuổi đi chợ về ngang do tò mò bà ta rẽ đám đông vào xem . 
Khi biết rõ câu chuyện bà ta chậm rãi nói: 
-Tui biết có chị kia ở cạnh nhà bà sui gái của tui
Nghe đâu tên của chỉ là Hai Thu mà tui không nghe chỉ có anh chị em chi hết . 
Chị mới về đây sống độ mấy năm thôi không biết có phải chị Thu gì mà ông ấy muốn kiếm không ? 
Nhà chị ấy tuốt dưới xóm dưới đường hơi khó đi một chút. 

Sau khi nghe anh thông dịch nói lại , không bỏ sót một tia hy vọng vào , Peter vội khẩn khoản bà ấy giúp mình. 
Họ chọn ra giải pháp cả nhóm sẽ ngồi ở quán cafe đầu chợ. Trước là chờ gặp người tên Thu mà người đàn bà ấy vừa nói . 
Sau là uống ít nước và nghĩ ngơi tạm bởi vì nhóm họ điều thấm mệt sau hàng nữa ngày trời đi tới đi lui. 
Người đàn bà kia thì lên một chiếc xe honda ôm đã được Peter trả tiền tới nhà chị Thu và nhắn chị ấy có người cần gặp ngồi chờ nơi quán nước trước cổng chợ. 

Buổi xế trưa, sau bữa cơm chị Thu đang cho mấy con gà ăn trước sân như thường nhật chợt có tiếng xe honda dừng trước cửa. 
Khi nghe nói có ông tóc vàng mắt xanh cần gặp một người tên Thu trước sống ở Sài Gòn và cở bằng độ tuổi của chị vì có chuyện cần, chị hai Thu đã luống cuống tay chân, buông luôn cái thau đựng cơm nguội xuống sân nhà. 
Chị không kịp cám ơn người đàn bà tốt bụng mà vội chạy vào lấy cái nón lá và lên tiếng gọi ông chồng mình đang lui cui sau vườn. 
Tay chị run rẩy đến nổi không thay nổi cái áo bà ba nên chị mặc nó tròng đôi vào cái áo đang bận. 
Chị lập cập không giấu được vẻ hồi hộp của mình khi ngồi lên chiếc xe do chồng mình nổ máy chờ sẳn chạy vội ra chợ. 

Ở quán cafe mọi người không dấu được ánh mắt tò mò trước hai vị khách ngoại quốc đang ngồi chờ như ngóng trông ai đó. 
Xe ngừng trước quán chị Thu bươn bả đi vào, đám đông khẽ nhích ra nhường lối cho chị . 
Nãy giờ đi ngoài trời chói nắng nên chị lột vội cái nón lá quẳng vô góc để nhìn cho rõ, Peter cũng vội vã đứng lên . 
Không cần phải nói hay hỏi han điều gì chỉ cần nhìn mặt Peter chị Thu đã biết đó chính là em trai của mình bởi Peter giống cha anh ta John Simth thuở xưa như tạc . 
Chị Thu khóc ngất nói trong tiếng nấc: 
-Em ơi ....Phú ơi .... 
Cơn xúc động dâng lên cao độ khiến chị Thu loạng choạng như muốn ngất. 
Peter vội đỡ lấy chị mình dìu chị ngồi xuống ghế anh ta cũng khóc khi nhìn gương mặt của chị Thu với những đường nét của mẹ mình ngày xưa. 
Nhoài người tới ôm lấy người chị của mình Peter lắp bắp bằng một thứ tiếng Việt ngọng nghịu : 
-Chị ... chị Hai ... Phú nè ...chị chị Hai … 
Tiếng chị Thu miếu máo ngắt quãng từng chập : 
-Mẹ mong chờ mấy em biết bao nhiêu... hu..hu ...mẹ mất rồi em ơi. 
Trong khi Jessica vợ của Peter nhẹ đưa cánh tay vỗ vỗ lên lưng chồng mình như sẻ chia dù cô không hiểu chuyện gì đang xảy ra cũng như người đàn bà kia nói gì . 
Thì chồng chị hai Thu biết rõ câu chuyện hơn do vợ mình thường kể nên anh cố giấu đi vẻ xúc động bằng cách nói như phân bua: 
-Em của vợ tui, chị em ruột ấy thất lạc mấy chục năm rồi không tin tức chi hết. 

Nhìn thấy một ông ngoại quốc cao lớn nắm chặt tay một người đàn bà Việt Nam mãnh mai miệng chỉ lắp bắp được vài chữ 
''chị ơi..''. 
Một số người trong quán hôm ấy khẽ lén lau đi giọt nước mắt vừa ứa ra. 
***** 

Một buổi tối của hai tháng sau. 
Nhà chị Thu đèn đuốt mở sáng choang nhiều người đi tới đi lui. Mấy bà chị thì nhỏ to dưới bếp bên cạnh nồi cháo gà và vài món ăn nhẹ . 
Họ lo không biết những ông bà người Mỹ ở nhà trên có ăn được những món ăn Việt Nam không và nêm niếm như vậy có vừa khẩu vị của họ chưa. 
Vài người trẻ trong xóm ngồi ngoài mấy cái ghế tre trước hiên của nhà chị Thu. 
Đôi ba ông cụ bà cụ lớn tuổi một chút ngồi trong phòng khách cùng chị hai Thu, Peter, Mary và Ann. 
Họ tới mừng cho chị khi nghe được tin chị em trùng phùng sau bao năm và tò mò chờ nghe câu truyện có phần hơi ly kỳ của họ. 

Bốn chị em của chị Thu ngồi trên bộ di văng nói chuyện với nhau. 
Mary còn nói được chút ít tiếng Việt, Peter và thì nhớ được một vài câu xã giao ngọng nghịu. 
Riêng Ann thì không nhớ một câu nào, cả ba người họ phải nói qua người phiên dịch đang ngồi trên cái ghế nhỏ cạnh đó. 
Chị Hai Thu đưa khăn lên lau nước mắt khi nghe Peter kể sau khi ba chết họ về sống cùng ông bà ở nơi mới. 
Đi học Peter hay bị bọn trẻ chọc ghẹo kỳ thị vì là con lai. 
Khiến cậu ta đánh nhau đến nổi chút nữa thì bị đuổi học. 
Chị lại cười khi Mary nói lúc về Mỹ muốn ăn trứng ấp thảo với cháo trắng như ngày xưa mẹ nấu ở Việt Nam nhưng đành chịu vì không biết cái trứng đó tên là gì. 
Bao nhiêu năm Mary luôn cảm thấy tủi thân và không vui khi ai đó hỏi về nguồn cội bởi Mary không biết trả lời họ ra sau. 

Ra vẻ ái ngại Ann nhìn họ rồi khẽ nói, qua người thông dịch rằng : 
''Lúc đầu khi nhìn những tấm ảnh cũ ố vàng ngày xưa và nghe anh Peter thông báo tìm được chị và nhắn thu xếp về gặp nhau . 
Cô được một vài người khuyên nên cẩn thận để tránh sự nhầm lẩn thậm chí biết đâu chừng đó là sự giả trá, lường gạt. 
Vì khi đi cô là người nhỏ tuổi nhất rồi sống ở môi trường không có người Việt nên ký ức về chị trong cô không còn được rõ nét như hai anh chị mình. 
Nên cô thật sự có phần dè dặt, không tin lắm nhưng trên đường về đây khi ghé qua quán ăn tạm ở dọc đường, chị hai Thu đã ngăn cô lại khi cô định ăn một bát súp. 
Chị ấy nói rằng súp đó được nấu bằng tôm mà chị biết rõ Ann từ nhỏ đã dị ứng với đồ biển. Rồi chị nhờ người thông dịch hỏi giúp chị vết sẹo trên đùi Ann có biến mất theo thời gian không hay là to hơn. 
Ann cố ý hỏi vặn lại vết sẹo gì ? 
Chị Hai Thu nói ngày trước Ann từng bị té vào chậu hoa sau vườn nhà nên đùi có một vết thẹo khá dài , chính chị đã băng lại giúp cô. 
Ann đưa khăn giấy chậm nước mắt bằng vẻ bối rối, xúc động cô ngỏ lời xin lỗi chị mình vì những nghi ngờ trước đó. 
Bởi bây giờ cô đã tin chị thật sự là chị Hai của cô ngày xưa. 
Ann hứa với chị khi về Mỹ sẽ cố gắng học thêm ít tiếng Việt để có thể trực tiếp nói chuyện với chị mà không cần phiên dịch.'' 

***** 
Sáng hôm sau khi tia nắng bình minh vừa hiện ra ở chân trời , gió dìu dịu mùi sương sớm. 
Trước ngôi mộ của dì Ba Thơm nơi phần đất hương hỏa giữa đồng. 
Bốn mái đầu rấm rức khóc và cuối lặng thật lâu
Trong mùi hương trầm và những bó hoa thơm lan tỏa lãng bãng, tiếng chị hai Thu nghèn nghẹn khấn : 
-Má ...con dẫn mấy em đến thăm má. Xin má linh thiêng phù hộ độ trị cho chị em con và xin má an lòng yên nghỉ. 

Một ngày cuối chiều ở sân bay, khi tiếng loa thông báo nhắc nhở tên ba vị khách còn lại của chuyến bay về Mỹ nhanh chóng ra cửa khởi hành. 
Vòng tay của chị em họ lại vội vã ôm lấy nhau giữa khóc - cười họ hứa sẽ quay lại sớm vào một ngày nào đó cùng gia đình của mình. 
Mary vội nói cùng chị bằng cái âm chưa chuẩn và quơ tay như minh họa cho lời nói: 
-Em biết Việt Nam gọi ngày chết là đám giỗ rồi. 
Đám giỗ má vào mùng 9 sau tết Việt Nam. 
Tụi em sẽ về vào ngày đó hằng năm . 
Chị Hai yên tâm giữ sức khoẻ . 

Mắt chị Hai Thu vẫn còn đỏ và đầy nước nhưng miệng chị cười tươi . 
Chị đưa cánh tay lên lưu luyến vẩy theo dáng những đứa em của mình đang khuất dần sau cánh cửa kiếng . 

Có một dịp tình cờ nào đó sau tết âm lịch trong cái không khí hãy còn Xuân . 
Bạn chợt ngang qua một thị trấn nhỏ xinh đẹp thuộc một tỉnh miền Tây đồng bằng sông Cửu Long . 
Đi tới cái xóm nhỏ mà địa danh ngày xưa gọi là Xẻo Bần vô tình bạn nhìn thấy một nhóm người trên đường làng hay trong cái quán Phở ở chợ . 
Nhóm người đó trung niên có, trẻ có, tây ta lẫn lộn . 
Đôi khi cô gái trẻ tóc vàng mắt xanh cao lớn đang cố trọ trẹ học câu tiếng việt từ một cô Việt Nam cũng còn khá trẻ . 
Rồi cũng có lắm lúc cô gái Việt Nam nói những câu Anh Ngữ để giải thích sự việc gì đó cho cô gái kia . 
Thỉnh thoảng hai người trung niên lại nói tiếng Việt bằng một âm điệu chưa chuẩn lắm làm bà chị của họ bật cười. 
Bạn đừng lấy làm ngạc nhiên bởi đó chính là đại gia đình của chị em họ và con cái thuộc thế hệ kế . 

Những người họ khác biệt nhau về ngôn ngữ, chủng tộc, tập quán và ở cách xa nhau nửa quả địa cầu, hàng chục giờ bay . 
Nhưng họ có chung một thứ, đó chính là dòng máu chảy trong huyết quản của họ có sự hiện diện của cái gọi là Ruột Thịt Tình Thâm . 
Cuối cùng thì tất cả các dòng sông đều trở về biển như một quy luật muôn đời .... 

Song Nhi


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 14/Feb/2015 lúc 8:54am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23786
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 17/Feb/2015 lúc 4:21am

Đá Mòn Nhưng Dạ Chẳng Mòn


Vợ chồng tôi dọn về ở trong cái làng nhỏ này đã hơn ba tháng. Mấy đứa con của chúng tôi nói : Ba má già rồi mà ở trong Paris đâu có tốt. Nội cái không khí ô nhiễm cũng đủ làm cho ba má bịnh lên bịnh xuống hoài. Vậy là chúng nó kiếm mua một cái nhà ở xa Paris . . .

Nhà có đất chung quanh, có mấy cây pomme, mấy cây cerise. Hồi dọn về là đầu mùa xuân , mấy cây đó trổ bông màu hường màu trắng đầy cành. Ở mấy nhà hàng xóm cũng vậy, hoa nở rộ hầu như cùng một lúc, nên trông thật là đẹp mắt.

Biết là mùa xuân nhờ hoa nở và chồi non, chớ thật ra thời tiết ở Pháp mấy năm gần đây đi . . . trật lất. Mùa xuân mà cứ tưởng như mùa thu, cứ mưa lất phất rồi hết mưa là trời đổ sương mù. Cứ như vậy kéo dài đến bây giờ, theo trong lịch, là đã đầu mùa hè mà vẫn còn nghe lành lạnh!
Hôm nay tự nhiên trời bỗng trở nắng. Nắng thật ấm, thật trong. Người ta vội vã mang đồ ra phơi đầy sân : quần áo, drap, mền . . . Đủ màu sắc, đủ cỡ, coi vui nhộn như một ngày lễ!

Tôi cũng thấy phấn khởi, bèn rủ nhà tôi đi chơi một vòng. Bởi vì từ ngày dọn về đây, ngoại trừ những lúc phải “xẹt” ra tiệm thịt, lò bánh mì, hàng rau cải v.v. . . chúng tôi cứ ru rú ở trong nhà vì thời tiết xấu. Nhà tôi không chịu đi, nên tôi đi mình ên . . .
Làng này tuy nhỏ nhưng ngăn nắp, sạch sẽ. Ở đâu cũng thấy trồng bông : dọc theo vỉa hè, ở các ngã ba ngã tư, mặt tiền nhà phố . . . Giữa làng là một nhà thờ nho nhỏ nằm trên một vuông đất cao hơn mặt đường gần một mét, cũng trồng đầy bông.

Chảy ngang qua làng là một con suối nhỏ, rộng độ mươi thước, chui dưới cây cầu đá rối uốn khúc quanh quanh trước khi rời làng xuôi về phía dưới. Hai bên bờ suối là hai con đường tráng xi-măng chạy dọc theo hai hàng cây. Rải rác, có mấy băng gỗ đóng thô sơ, nhưng vẫn nằm giữa những lùm bông đầy màu sắc. Có nơi, không hiểu sao người ta đặt băng gỗ nằm cạnh bờ nước giống như làm chỗ ngồi cho người đi câu!

Tôi ngồi xuống một cái băng cạnh bờ nước. Vì không nằm dưới tàn cây nên ở đó đầy nắng. Tôi đốt điếu thuốc rồi nhìn quanh : chẳng có ai hết. Nhớ lại, dân trong làng chỉ đổ ra đường vào ngày chủ nhựt, bởi vì ngày đó nhóm chợ lộ thiên và lại là ngày phải đi Lễ nhà thờ. Còn ngày thường thì chỉ có mấy ông già bà già đi khệnh khạng trên hè phố hay dọc bờ suối khi nào trời tốt. Hôm nay, trời tốt đó chớ, nhưng sao chẳng thấy ai đi. Tự nhiên, tôi cảm thấy bơ vơ lạc lõng . . . Lại nhìn quanh, chỉ thấy xa dưới kia là gác chuông nhà thờ một mình đứng cao lêu nghêu!
Con suối không sâu, nước trong nhìn thấy đáy. Dòng nước chảy nhanh nhanh. Khi gặp mấy tảng đá lớn, nước bắn lên trắng xóa coi thật sinh động, nhìn không chán.

Lòng suối đầy đá cuội tròn tròn. Cũng có những cục đá to nhưng chẳng có viên đá nào còn góc cạnh. Viên nào cũng nhẵn thín.
Nhìn nước chảy, nhìn đá mòn, tôi bỗng nhớ đến hai câu chót của bài học thuộc lòng thuở nhỏ :

“Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,
Tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ. . .”
Hai câu thơ đó không có gì hết, vậy mà nó làm tôi ứa nước mắt ! Không phải nó chỉ nhắc tôi thời thơ ấu, thuở học vui học buồn bằng quyển “Quốc Văn Giáo Khoa Thư”, mà nó còn nhắc tôi một cái gì sâu đậm hơn là kỷ niệm, một cái gì to rộng mênh mông hơn là không gian thời gian, một cái gì mà trong cuộc đời lưu vong này tôi vẫn mang mểnh trong tâm tư, giống như một chất ma túy: nó nhắc tôi quê hương, cái quê hương xa cách ngàn trùng!

Tính ra, tôi bỏ xứ ra đi đã hơn hai mươi bốn năm. Một phần tư thế kỷ! Trôi nổi đó đây với nhiều âu lo dằn vật, thêm tuổi đời cứ chồng chất mãi lên. . . nên ký ức bị xói mòn theo năm tháng. Đến nỗi chuyện gì xảy ra hôm tuần rồi, hôm tháng trước. . . có khi không nhớ! Vậy mà hình ảnh của quê hương vẫn còn nằm nguyên đâu đó ở trong lòng, với những kỷ niệm vụn vặt của năm sáu chục năm về trước! Chỉ cần một chất xúc tác là nó bật lên rõ rệt, không thiếu một chi tiết, làm như mình đang sống trong đó mới hôm qua hôm kia. . . Tình yêu quê hương sao mà kỳ diệu như vậy được?

Nơi tôi sanh trưởng cũng là một cái làng nho nhỏ. Nó không ngăn nắp sạch sẽ, không được trang hoàng bằng những bông hoa đầy màu sắc như ở đây. Cũng không có con suối nhỏ chảy ngang để hai bờ được nối với nhau bằng cây cầu đá. . .

Làng tôi nằm bên tả ngạn một con sông lớn, quá lớn nên thấy cái làng như nhỏ xíu ! Con sông đó có cái tên chẳng chút gì ‘văn chương’ : sông Vàm Cỏ. Trong làng chỉ có một con đường tráng nhựa : đó là đường liên tỉnh, cũng còn được gọi là “con lộ cái” nối xóm trên xóm dưới. Ngoài ra, toàn là đường đất mà tiền thân của chúng nó là những con đường mòn, nối xóm Nhà Máy, xóm Lò Heo qua xóm Lò Gạch, xóm Chùa … Cho nên những con đường trong làng đều chạy cong cong quanh quanh!

Làng tôi cũng có chợ nhà lồng, ngày nào cũng nhóm, nhưng chỉ nhóm có buổi sáng. Nằm cạnh chợ là “Nhà Việc”, nơi . . . làm việc của những “nhà chức trách” trong làng. Xế xế về phía con lộ cái là trường tiểu học với hàng rào cây bông bụp, lá xanh um láng mướt.
Làng tôi không có nhà thờ nhưng có một ‘kiểng’ chùa nằm trên một khu đất cao, có rào tre xanh chung quanh. Hồi tôi còn nhỏ, thấy cũng nằm xa dân chúng, vắng vẻ u tịch (hồi đó, tôi ít dám đi ngang qua đó một mình vì . . . sợ ma!) Về sau, dân chúng càng ngày càng đông, nhà cửa cứ xây cất tiếp nối nhau kéo dài ra hướng chùa, rồi “đi” xa hơn về phía con lộ cái. Vì vậy, chùa bị lọt trũm giữa khu nhà dân, không còn biệt lập như trước.

Nhà cửa trong làng nhỏ lớn gì cũng có hàng rào. Phần nhiều là hàng rào cây xương rồng và cây bông bụp (cũng gọi là bông lồng đèn) Xương rồng cũng trổ bông lai rai, hoa trắng nõn nà mỏng manh như lụa, khác hẵn với thân cây mang đầy gai góc! Còn bông bụp thì cứ nở thè lè đỏ cây. . .
Đó! Làng tôi đó! Quê trân! Chẳng chút màu mè. Vậy mà sao tôi vẫn thương.
. . .Thương những con đường đất mà hai bên là bờ cỏ may. Đến mùa, cọng cỏ may đưa bông lên tua tủa tím ngắt, chỉ chực bám đầy ống quần nào bất chợt đi ngang.

. . .Thương những đoạn đường quằn, mùa mưa nước ngập phải xăn quần tém áo để đi qua, trong lúc trẻ con một lũ ở truồng nằm lăn chập chũm, tóe nước nhau cười vui như hội.

. . .Thương bờ sông Vàm Cỏ với những cây dừa trồng không thẳng hàng, cũng không chia đều khoảng cách, giống như “mạnh ai nấy trồng”! Mấy cây dừa đó, nằm quá gần bờ nước nên rất nhiều cây thiếu đất để giữ gốc, chúng nằm dài ra phía sông cách mặt nước độ một đôi thước rồi uốn mình đưa ngọn đứng thẳng lên cao. Vậy mà cũng đơm bông kết trái! Trẻ con thường trèo lên đó để phóng xuống nước nô đùa lặng hụp, và dân ở dọc bờ sông hay đem mền chiếu ra vắt lên đó để phơi.

. . .Thương con đường lên chùa có hai bờ tre xanh lả ngọn giao nhau làm cho con đường giống như một cái hang mát rượi. Ở đó, mỗi trưa đứng bóng, những người dọn hàng từ chợ về nhà thường dừng chân núp nắng, và chiều chiều đường vắng cũng thấy thẫn thơ một cặp gái trai . . .
. . .Thương cả cây phượng nằm bên bờ đường trước nhà ông Cả. Thân nó to bằng ba người ôm, gốc rễ lấn luôn ra mặt đường. Ai đi qua cũng phải bước vòng để tránh! Đó là cây phượng độc nhứt ở trong làng. Không biết ai trồng và tại sao lại trồng ở đó? Chỉ biết hằng năm vào mùa thi là cây trổ hoa đỏ trời. Sau đó là hoa rụng đỏ đất.

. . .Và còn thương nhiều thứ nữa, kể biết bao giờ cho hết!
Nhà tôi ở trong Xóm Mới. Gia đình tôi nghèo. Cha tôi trồng rau cải, mẹ tôi hằng ngày gánh xôi ra ngồi bán ngoài chợ. Cha mẹ tôi chỉ có hai đứa con trai : tôi và thằng Cu, nhỏ hơn tôi sáu tuổi. Cha tôi chết bịnh hồi mẹ tôi sanh thằng Cu . . .

. . .Nhớ hoài, thời tôi học tiểu học. Sáng nào, sau khi húp tô cháo với miếng đường thẻ, tôi ôm cặp đựng sách vở mà ông nội tôi làm bằng giấy dầu để khỏi bị ướt nước mưa, đi theo mẹ tôi ra chợ. Vì phải đem thằng Cu theo – lúc đó nó được hơn hai tuổi – mẹ để nó ngồi trong một cái thúng, gióng ở đầu đòn gánh phía trước, còn lá chuối, xôi, nhưn, dừa nạo v.v… dồn trong một thúng gióng ở đầu sau. Mẹ gánh như vậy mà bước chân đi sai sải. Đòn gánh nhún lên nhún xuống làm thằng Cu khoái lắm. Lâu lâu, mẹ đổi vai, đầu đòn gánh nhún xuống hơi sâu và tưng lên hơi cao làm anh ta cười hắc hắc để lòi bốn cái răng cửa nhỏ xíu. Những lúc đó, anh ta thuờng gọi tôi để khoe : “Hai ! Hai ! Coi nhè ! Coi nhè!”.

Tôi học chỉ có buổi sáng. Mẹ tôi bán ở chợ cũng vậy. Trưa, chợ tan sớm hơn trường học, mẹ gánh thằng Cu đến ngồi đợi tôi dưới cây trứng cá gần cổng trường. Thấy tôi ra, thằng Cu đứng lên, vừa nhảy tưng tưng trong cái thúng vừa la : “Hai! Hai!”. Anh ta ở truồng – lúc nào cũng ở truồng – bên trên bận áo bà ba vải đen của bà nội may cho, đầu đội cái nón hình chóp bằng lá chuối mẹ xếp rồi ghim bằng cọng chân nhang . . . Mẹ đưa tôi gói xôi (đã thành lệ, ngày nào mẹ cũng chừa cho tôi một gói) tôi ngồi xổm cạnh mẹ, vừa ăn vừa đút cho thằng Cu. Ăn xong, tôi chạy qua bên kia đường xin một gáo nước ở nhà thầy giáo Hiển, rồi mang cho ba mẹ con uống (vì trong trường chỉ có một lu nước, không đủ cho đám học trò nên thầy Hiển đặt trước nhà thêm một lu. Vào giờ ra chơi, học trò bu qua đó đông như kiến.) Uống xong, mẹ gánh thằng Cu bước đi thong thả, tôi lon ton chạy theo song song . . .

Hồi đó, vì phải chạy lúp xúp nên có lần tôi nhìn xuống bước chân của mẹ, coi mẹ đi cách nào mà mình cứ phải chạy theo lúp xúp! Mẹ đâu có bước lẹ, mẹ bước đều. Mẹ đi chân không, mỗi bước chân của mẹ giậm xuống làm tung lên một chút bụi đường. Tôi nhìn chỉ thấy có như vậy. Bây giờ, hơn sáu chục năm sau, ngồi ở trời Tây này, tôi đâu cần nhìn mà sao vẫn thấy được – thấy rõ – hai bàn chân của mẹ. Hai bàn chân to bề ngang, mấy ngón chân chè bè không bao giờ xếp lại được. Hai bàn chân xấu xí đó chưa từng đụng tới đôi giày đôi dép. Hai bàn chân chỉ biết có đôi guốc dong khi rửa chân đi ngủ, hay khi đi dự dám giổ, đám tang . . . Hai bàn chân đó đã bám lấy đất để đứng vững một mình nuôi hai thằng con, hỏi sao không chè bè cục mịch cho được?

Tôi bồi hồi nhớ lại lần tôi lau rửa đôi bàn chân của mẹ. Đó là hồi mẹ tôi mất sau một thời gian dài nằm bịnh ở nhà thương (Mẹ ngã bịnh từ ngày hay tin thằng Cu chết trận ở Đắc Lắc…) Tôi lau chân mẹ lần đó là lần đầu và dĩ nhiên cũng là lần cuối cùng. Tôi lau gót chân nứt nẻ. Tôi lau lòng bàn chân chai mòn. Tôi lau những ngón chân tròn cứng như những hòn sỏi. Tôi lau chân mẹ bằng suối nước mắt và bằng tất cả sự thận trọng như khi lau một món đồ thật là trân quí…

Tôi đốt điếu thuốc, thở một hơi khói dài. Lại nhớ hồi học lớp nhứt, có hôm tôi bắt chước bạn bè lén hút thuốc. Mẹ tôi thấy được, lôi tôi vào nhà bắt đứng khoanh tay để “hỏi tội”: “Hai ! Ai cho mầy hút thuốc, hả? Ai dạy mầy hút thuốc, hả? Mầy bắt chước ai, nói tao nghe coi? Mới có bây lớn đó mà bày đặt hút thuốc!”. Rồi mẹ chụp cây chổi chà dựng gần đó: “Tao phải đánh mầy cho mầy chừa.” Mẹ vừa nói “Chừa nè!” vừa đập cây chổi lên đít tôi thật mạnh. Cứ mỗi một câu “Chừa nè!” là một phát chổi. Mẹ đánh một lúc rồi liệng cây chổi, trèo lên bộ ván, ngồi co chân, rút cái khăn rằn đấp lên mặt khóc. Tôi đứng chết điếng, nghe mồ hôi chảy dài theo xương sống, không thấy đau ở đít mà đau ở đâu trong lòng. Bởi vì đó là lần đầu tiên tôi làm cho mẹ tôi khóc. Tôi mếu máo, rặn ra mấy tiếng : “Dạ . . . con xin chừa . . . “

Vậy mà lớn lên, khi ra đời, tôi đã . . . không chừa! Tôi tập tành hút thuốc hồi tôi đi lính, bởi vì “ở tiền đồn trời khuya đêm lạnh, ta chia nhau điếu thuốc ấm lòng”. . . Mỗi lần về phép, chẳng bao giờ tôi dám hút ở nhà vì trận đòn chổi chà thuở nhỏ vẫn còn đeo theo ám ảnh! Tôi hút ngoài đường . . .

Một hôm, đang đứng hút thuốc với mấy thằng bạn cùng xóm, bất thần mẹ tôi đi qua. Tôi vội vã liệng điếu thuốc xuống đất. Mẹ tôi dừng lại, mỉm cười : “Mầy làm cái gì vậy, Hai? Mầy lớn rồi chớ bộ còn con nít sao. Bây giờ, mầy có hút thuốc, tao cũng đâu có bắt mầy chừa!” Rồi bỏ đi một nước!

Mẹ tôi như vậy đó. Quê mùa mộc mạc như làng của tôi, vậy mà tôi vẫn thương. Tôi thương, đâu cần mẹ tôi phải đẹp, quê hương tôi phải sang. Tôi thương, vì tất cả đều gắn liền với tôi từ thuở tôi ra chào đời. Tôi đã quen thở, quen sống trong vòng tay của mẹ, giữa lòng quê hương; đã lớn lên trong cái thật thà chân chất đó. Cho nên hình ảnh của mẹ, của quê hương đã ghi sâu vào lòng tôi đến độ khi thiếu vắng, tôi thương tôi nhớ. Và tình thương đó vẫn chưa thấy mòn, mặc dầu bây giờ tôi đã ngoài bảy mươi . . .
* * *
Mặt trời đã lên cao. Thấy có vài người hứng nắng bên bờ suối. Tôi đứng lên đi về nhà mà miên man nghĩ: “Những hình ảnh mà mình vừa gợi lại khi nãy sao mà dễ thương như vậy. Mình phải viết ra để cho nó có chỗ đứng bên ngoài ký ức, cho các con các cháu của mình thấy và hiểu tại sao hơn hai mươi bốn năm sống trên đất Pháp, cha và ông của chúng nó không nói ‘thương nước Pháp’ mà cứ nhắc hoài người mẹ đi chân đất và cái làng quê mùa không có đến hai con đường tráng nhựa!”

Vào nhà, tôi đi thẳng lại bàn viết. Vợ tôi chắc đang nấu bếp nên nghe phất ra thơm phức mùi thịt kho tiêu. Tôi lấy xấp giấy trắng, không cần đốt điếu thuốc, không cần hớp mấy ngụm nước trà để trợ hứng. Bởi vì cái hứng đang ở ngay trong tôi, căng đầy . . .


Tôi cầm bút nắn nót viết cái tựa bằng chữ hoa: “ĐÁ MÒN NHƯNG DẠ CHẲNG MÒN”...

Tiểu Tử
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 18/Feb/2015 lúc 11:35am

Người Chiến Sĩ Vô Danh



Cụ%20ăn%20mày%20Thương%20phế%20binh%20Việt%20Nam%20Cộng%20Hòa%20Bùi%20Văn%20Thiệt%20

Files photos




Người chiến sĩ vô danh sống trong hẩm hiu

Sáng nào cũng thấy thằng nhỏ cầm cái lon đứng chầu chực trước quán ăn.





Tôi để mắt theo dõi thì hễ thấy thực khách vừa kêu tính tiền thì thằng bé chạy vào nhìn vào những cái tô, nếu còn thức ăn dư mứa thì nó vội vã trút vào cái lon rồi chạy ra ngoài đứng ngóng tiếp.
Khi cái lon gần đầy thì nó biến mất, chập sau thấy nó lại có mặt thập thò trước quán tiếp tục. Bàn tôi ngồi thì đứa bé không bao giờ quan tâm tới, vì mỗi sáng tôi chỉ đủ tiền uống 1 ly xây chừng vì tôi cũng nghèo cải tạo mới về sáng nhịn đói ngồi uống cà phê đen như một cái thú hay một cái tật không bỏ được.

Cứ thế, mà hơn một năm tôi mới quen được và tìm hiểu chút ít về hoàn cảnh gia đình của đứa bé. Tôi cố tình làm quen với thằng bé nhờ hôm ấy trời mưa, thằng bé đứng nép vào trong quán. Thằng bé đứng nép vào ngày càng sâu hơn trong quán vì mưa ngày càng lớn chỉ cách tôi chừng độ nửa thước. Tôi vói tay kéo nó ngồi xuống bàn và hỏi nó có thích uống cà phê không ?
Thằng bé lắc đầu lia lịa và nói không uống. Tôi hỏi nó làm gì ngày nào cũng ra đây? và hiện sống với ai? Thằng bé như đoán được rằng: tôi chỉ là người khách ghiền cà phê nặng nên hàng ngày đóng đô ở đây nên nó cũng trả lời nhanh nhẹn rằng:
- “Con sống với ba má con, Ba con đi làm xa còn Má con đi phụ buôn bán ở ngoài chợ…”
Tôi hỏi tiếp:
- “Còn con có đi học không ?”
Thằng bé nói:
- “Con không có đi học… con ở nhà phụ với má nuôi heo…”.
Đó là lý do để nói lên sự hiện diện hằng ngày của nó nơi quán ăn nầy. Nghe thằng bé nói như thế, tôi nói với chị chủ quán ăn giúp cho nó lấy những cơm và thức ăn thừa, và cũng từ đó nó không còn đứng lúp ló ngoài cửa quán nửa. Và nhờ tánh tình hiền hậu thật thà chị chủ quán cho nó vô phụ dọn bàn đề lấy thức ăn dư mang về và cho nó ăn uống để phụ việc. Từ đó tôi và nó gần gũi nhau hơn và thân với nhau lắm.
Có lần thằng bé hỏi tôi:
- “Chú làm nghề gì vậy hả chú?”
Tôi chỉ trả lời ngắn gọn là ” Chú đang làm thinh”.
Đúng vậy mới cải tạo về mà, vợ con thì đã theo bên ngoại vượt biển hết rồi, nghe đâu đã định cư bên Úc, nay về ở với mẹ già ngày 1 buổi cà phê hai bửa cơm độn qua ngày. Thời gian ngột ngạt chậm chạp trôi qua, may mắn vợ chồng tôi đã bắt liên lạc được với nhau. Thế là những bữa cơm không còn ăn độn khoai củ hay bo bo nữa nhưng vẫn quen cử sáng cà phê quán gần nhà. Không biết chị chủ quán có bỏ bùa mê hay tôi ghiền chổ ngồi mà không bữa nào vắng tôi. Một hôm, tôi đề nghị theo thằng bé về nhà nó chơi cho biết vì nó nói ở cũng gần không xa lắm. Thấy nó do dự và tỏ vẻ sợ sệt, tôi biết ngay nó đang dấu diếm điều gì. Thương nó lắm, tôi dúi tiền cho nó hoài. Mấy hôm sau tôi lẳng lặng đi theo nó khi nó mang cơm và thức ăn dư về nhà buổi trưa. Khi thấy nó lủi vô một cái chòi nhỏ xíu thì tôi thật sự không ngờ.

Đứng dưới gốc cây Gòn cách nhà nó không xa tôi thầm nghĩ, nhà chút xíu như vậy gia đình 3 người ở thì chổ đâu mà nuôi heo. Tôi đang đứng suy nghĩ đốt cũng hết mấy điếu thuốc thì thằng nhỏ lục tục xách lon xách nồi đi ra quán để thu dọn thức ăn buổi chiều. Đợi thằng bé đi khuất tôi lò mò đến nơi mà hồi nãy nó vào. Đến đó mới nhìn rõ thì thật ra đâu có phải là nhà, một lõm trống được che dựng lên bằng những phế liệu đủ loại muốn chui vào phải khom mọp xuống. Nghe thấy có tiếng chân dừng lại, có tiếng đàn bà vọng ra hỏi. Tôi trả lời là đi kiếm thằng Tuất, thì nghe giọng đàn ông cho biết nó vừa đi khỏi rồi, và hỏi tôi là ai, mời tôi vào…. Vừa khom người chui vào tôi mới thật sự không ngờ những gì hiển hiện trước mắt tôi.
Người đàn ông hốc hác cụt hai giò tuổi cũng trạc tôi nhưng trông yếu đuối, lam lũ và khắc khổ lắm. Một người đàn bà bệnh hoạn xác xơ cả hai đang ăn những thức ăn thừa mà thằng bé vừa mới đem về. Vừa bàng hoàng, vừa cảm động vừa xót xa, nước mắt tôi bất chợt tuôn rơi mặc dù tôi cố nén…

Từ đó, tôi hiểu rõ về người phế binh sức tàn lực kiệt sống bên người vợ thủy chung tảo tần nuôi chồng bao năm nay giờ mang bịnh ác tính nặng nề thật đau xót. Tôi móc hết tiền trong túi biếu tặng và cáo lui. Về đến nhà tôi vẫn mãi ám ảnh hoàn cảnh bi thương của gia đình thằng bé mà tôi bỏ cơm nguyên cả ngày luôn. Sáng hôm sau ra uống cà phê, thằng bé gặp tôi nó lấm lét không dám nhìn tôi vì nó đã biết trưa hôm qua tôi có tới nhà nó. Nó thì tỏ vẻ sợ tôi, nhưng tôi thực sự vừa thương vừa nể phục nó nhiều lắm. Tôi kêu nó lại và nói nhỏ với nó tại sao không cho tôi biết. Tội nghiệp nó cúi đầu im lặng làm lòng tôi thêm nỗi xót xa. Có khách kêu trả tiền, như có cơ hội né tránh tôi nó chạy đi dọn bàn và tiếp tục công việc thu dọn thức ăn. Hèn gì sau nầy nó để thức ăn dư phân loại đàng hoàng lắm. Tội nghiệp hoàn cảnh của thằng bé mới mấy tuổi đầu mà vất vả nuôi cha mẹ theo khả năng chỉ tới đó. Cha là một phế binh cũ trước 75 cụt hai chân, mẹ thì bị bệnh gan nặng bụng phình trướng to khủng khiếp và cặp chân sưng vù lên đi đứng thật khó khăn, nước da thì vàng mét như nghệ. Thằng bé là lao động chánh trong gia đình, nó có hiếu lắm. Từ đó tôi thường cho tiền đứa bé mua bánh mì cơm gạo về nuôi cha mẹ.

Vợ tôi làm thủ tục bảo lãnh tôi sang Úc. Ngày tôi đi tôi đau xót phải để lại hai nỗi buồn đó là để mẹ và em gái lại quê nhà và không còn cơ hội giúp đỡ thằng bé nữa. Sang Úc định cư, tôi sống tại tiểu bang Victoria mấy năm đầu tôi hết sức cơ cực vì phải vật lộn với cuộc sống mới nơi đất mới và đối với tôi tất cả đều mới mẻ và xa lạ quá. Từ ngôn ngữ đến thời tiết đã làm tôi lao đao không ít. Thỉnh thoảng tôi gởi tiền về nuôi mẹ và em gái không quên dặn em gái tôi chuyển cho thằng bé chút ít gọi là chút tình phương xa.

Mấy năm sau tôi về thăm gia đình, tôi có ghé tìm thằng bé thì nó không còn lấy thức ăn trong quán đó nữa. Tôi mới kể rõ hoàn cảnh thằng bé cho chị chủ quán biết. Chị chủ quán đôi mắt đỏ hoe trách tôi sao không cho chị biết sớm để chị tìm cách giúp gia đình nó. Tôi chỉ bào chữa rằng tại thằng bé muốn giấu không cho ai biết! Tôi ghé vội qua nhà thằng bé thì mới hay mẹ nó đã qua đời vì căn bệnh ung thư gan. Chỉ còn chèo queo một mình ba nó ở trần nằm một góc trông hết sức thương tâm. Hỏi thăm thì mới biết nó đã xin được việc làm đi phụ hồ kiếm tiền về nuôi cha.
Chúa nhật tôi tới tìm thằng bé, chỉ mới có mấy năm mà nó đã cao lớn thành thanh niên rất đẹp trai duy chỉ đen đúa vì phơi nắng để kiếm đồng tiền. Tôi dẫn nó trở ra quán cà phê cũ, thấy nó hơi ái ngại, tôi trấn an là bà chủ quán tốt lắm tại không biết được hoàn cảnh gia đình nó. Ra đến quán ăn chị chủ quán năn nỉ nó về làm với chị, dọn dẹp và bưng thức ăn cho khách nhẹ nhàng hơn đi phụ hồ và chị sẽ trả lương như đang lãnh bên phụ hồ, tối về thức ăn thường bán không hết chị cho đem về nhà dùng khỏi phải mua hay đi chợ. Lần đầu tiên tôi thấy nó khóc, chị chủ quán cũng khóc theo làm tôi phải đứng dậy bỏ ra ngoài để khỏi phải rơi nước mắt vì chịu không nỗi.

Thằng Tuất vừa khóc vừa nói: “Sao ai cũng tốt với gia đình con hết đó, nhưng vì con đang làm phụ hồ cho anh Năm, anh ấy cũng tốt lắm giúp đỡ gia dình con nhiều lắm, sáng nào cũng mua cho ba con gói xôi hay bánh mì trước khi tụi con đi làm. Con cũng mang ơn ảnh nhiều nên con không thể nghỉ được, con xin lổi”. Không biết thằng Tuất nó nói thật hay nó ái ngại khi quay về chỗ mà ngày nào cũng cầm cái lon chầu chực trút đồ ăn dư về nuôi cha mẹ. Phải thông cảm nó, phải hiểu cho nó, phải cho nó có cái hiện tại và tương lai tốt hơn, đẹp hơn ngày trước. Chị chủ quán vừa gạt nước mắt vừa nói “Bất cứ lúc nào con cần đến cô thì con đừng ngại, cho cô biết nhé “…

Đời nầy cũng còn có những hoàn cảnh bi đát ít ai biết đến, và cũng có những đứa con xứng đáng như thằng Tuất. Ngày về lại Úc, tôi đến biếu hai cha con nó hai triệu đồng, thấy nó và ba nó mừng lắm tôi cũng vui lây. Không biết phải giúp gia đình nó như thế nào, tôi chụp hình ba nó, photo giấy tờ ba nó đem về Úc gởi cho Hội cứu trợ thương phế binh bị quên lãng trụ sở ở Sydney. Mấy tháng sau nhận được thư ba thằng Tuất viết qua, ông quá vui mừng khi được Hội bên Úc giúp đở gởi tiền về, ông cho biết suốt bao nhiêu năm qua lần đầu tiên ông thấy được niềm hạnh phúc khi cuộc đời phế binh của ông còn có người nhớ đến.

Không biết ông ấy vui bao nhiêu mà chính tôi cũng hết sức vui mừng khi thực hiện một việc làm đem niềm vui đến cho những người phế binh sống hết sức đói nghèo bên quê mẹ. Tôi xin cảm ơn cả hai: người chiến sĩ vô danh sống trong hẩm hiu và Hội cứu trợ thương phế binh đã thể hiện tình người trong công việc hết sức cao cả này.

Minh Tạo 


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 18/Feb/2015 lúc 11:45am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23786
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 24/Feb/2015 lúc 3:13am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 25/Feb/2015 lúc 1:23pm

Tô Cháo Huyết



Xe cháo huyết của bà xẩm đó nằm trên vỉa hè phía đối diện với rạp hát Casino Đakao, gần trụ đèn xanh đèn đỏ. Thành ra khi đi về hướng Gia Định, gặp đèn đỏ, ngừng xe lại là thấy nó ngay ở bên tay mặt.

Hồi mới “giải phóng”, còn chút đỉnh tiền, chiều đi làm về tôi hay tấp vô đó “làm” một tô cháo huyết có kèm theo một dĩa giò-cháo-quẩy cắt khoanh. Không biết có phải tại vì buổi trưa ăn không đủ no thành ra chiều nghe đói sớm hay sao, mà lúc nào tôi cũng thấy cháo huyết của bà xẩm đó thật là ngon ! Cháo nấu nhừ, huyết cắt vuông thành từng miếng vừa vặn nhỏ để được nằm gọn trong lòng cái muỗng sành. Múc một muỗng vừa có cháo vừa có huyết đưa lên môi thổi cho bớt nóng trước khi cho vào miệng, mà nghe thơm phức làm chảy nước miếng. Còn giò-cháo-quẩy cho vào cháo, dù đã được cắt khoanh, nhưng vẫn giử nguyên cái giòn của nó. Cái “béo” của giò-cháo-quẩy làm cho cái “bùi” của cháo càng thêm đậm đà, và cái “giòn” của giò-cháo-quẩy thì thật “ăn rơ” với cái mềm mềm cứng cứng của huyết. Ngon không chê được !

Bà xẩm gọi tôi bằng “thầy Hai”. Sau “giải phóng”, từ ngữ cũng đã được đổi thay – cho nó hạp với... tác phong cách mạng – không còn gọi “ông A, bà B” gì nữa. Không còn xưng hô “thầy X, cô Y” gì nữa. Mọi giai tầng xã hội đều được xóa bỏ, mọi chênh lệch tuổi tác hầu như được sang bằng. Trong... “xã giao thường thức”, để gọi nhau, người ta chỉ còn dùng có hai từ “anh” và “chị”, vừa ngắn gọn lại vừa... bình đẳng nữa ! Thành ra thấy được xử dụng rất thoải mái và... xả láng ! (Một hôm, một thằng bé cỡ tuổi cháu tôi đã gọi tôi bằng “anh”... ngon lành ! Có lẽ trong lòng nó cũng khoái được trịch thượng như vậy. Bởi vì nó biết “thằng chả không làm gì mình được” ! Đổi đời... sướng ở chỗ đó !).

Vậy mà bà xẩm vẫn gọi tôi bằng “thầy Hai”, thản nhiên không ngượng nghịu gì hết ! Có lẽ tại thói quen. Cũng như tôi vẫn gọi bả bằng “thím xẩm” chớ không là... “chị xẩm” với tiếng “chị” rất... thời trang từ ngữ !

Mặc dù bây giờ người ta hay nghi ngờ, dè dặt, bà xẩm, đối với tôi, vẫn nói chuyện một cách thật tình cởi mở:
- Tôi nhớ hồi trước thím đâu có cái xe cháo huyết này.
- Thầy Hai nói đúng đó. Hồi trước là cái tiệm. Nó nằm sau lưng tôi nè. Hồi đó buôn bán khá lắm, thầy Hai à. Tiệm có bốn năm cái bàn lận.
- Tôi biết mà. Hồi đó, lâu lâu tôi có chở vợ con lại đây ăn. Tôi ở bên Gia Định, gần xịt hè.
- Ủa ! Mà hồi đó thầy làm việc ở đâu vậy ?
- Tôi làm trong ngân hàng ở Chợ Cũ. Lái xe đi về trên đường này nên mới biết tiệm của thím đó chớ.
- Giải phóng rồi thầy cũng còn làm việc ở sở cũ hả ?
- Đâu có ! Mấy ổng đổi tôi xuống làm việc ở nhà máy ve chai Khánh Hội.
- Cha... Xa quá há ! Đạp xe chắc mệt hả thầy Hai ? Bây giờ ai cũng đi xe đạp hết trọi.
- Rồi cũng quen hà. Ủa ? Mà tại sao thím dẹp tiệm đi ?
- Thời buổi khó khăn mà thầy Hai. Giữ chi cái tiệm cho họ để ý. Làm ăn nhỏ nhỏ thôi. Như thiên hạ vậy mà.
- Rồi mấy đứa con thím đâu ? Tôi nhớ hồi đó trong tiệm có mấy đứa...
- Đi hết rồi. Đi trước giải phóng.
- Sao thím không đi ?
- Thầy Hai nghĩ coi. Tôi già rồi. Không biết tiếng, không biết chữ.Đi đâu ? Còn mồ mả chồng tôi, mồ mả ông già bà già ở đây mà đi đâu ? Còn thầy ? Sao thầy không đi ?
- Tôi kẹt !
Lâu lâu ăn cháo huyết của bà xẩm được một thời gian thì Nhà Nước đổi tiền. Tôi... trở tay không kịp. Vậy là kẹt cứng. Có khi cả tháng không dư được một đồng. Lấy gì ăn cháo huyết ?
Để tránh... thấy hàng cháo huyết, mới đầu tôi thay đổi lộ trình. Tôi đi ngã cầu sắt, vòng qua chợ Bà Chiểu, xa hơn, hôi hơn (vì đi ngang chợ) và mệt hơn. Được mấy tuần, tôi bỗng nảy ra một sáng kiến (Nhà Nước đã chẳng dạy: “Ta phải luôn luôn phát huy sáng kiến” à ?). Đó là vẫn đạp xe theo lộ trình cũ. Nhưng khi đến cách đèn xanh đèn đỏ độ vài chục thước, tôi rà thắng, mắt nhìn đèn ở đằng xa. Nếu là đèn đỏ, tôi bóp thắng ngừng ngay, đợi. Nếu là đèn xanh, tôi cắm đầu phóng nhanh đi tuốt. Thật là... thích thú. Tôi phục... tôi quá chừng !

Chiều hôm đó, đi làm về, mặc dù bụng đói meo, tôi vẫn áp dụng sáng kiến “canh đèn để vọt” kể trên. Nhưng không hiểu sao đèn đang xang bỗng bật đỏ ngang không qua đèn vàng, khi tôi chỉ còn cách nó có vài thước. Nếu tôi... nhắm mắt chạy luôn, chắc cũng không sao. Đằng này, “bản năng” của một người công dân tốt trong tôi... bóp thắng. Xe đạp lết bánh một khúc rồi ngừng ngay trước xe cháo huyết !

Tôi chống chân chờ, mắt nhìn đèn đâm đâm. Bỗng tôi nghe tiếng bà xẩm, giọng niềm nỡ :
- Thầy Hai ! Thầy Hai à ! Trời ơi sao đâu mất vậy ? Vô ăn cháo đi !
Tôi làm bộ giật mình rồi nhìn về phía bả, mỉm cười cho... lấy có:
- Thím mạnh hả ?
Giọng của bà xẩm trở nên ân cần:
- Vô ăn cháo đi thầy Hai. Lâu quá mà...
- Tôi không có tiền ! (Tôi đã nói như vậy – dám nói như vậy – một cách thẳng thừng và không chút ngượng nghịu !).
- Không có sao ! Vô ăn đi ! Chừng nào trả cũng được. Mình quen mà... Thầy Hai !
Tôi lại nhìn đèn đỏ. Sao nó không xanh cho rồi, để tôi có cớ mà hối hả đạp đi, tránh được cái mùi thơm hấp dẫn của cháo huyết và tránh được lời mời rất thân tình của bà xẩm. Đèn vẫn đỏ ! Như... cố tình đỏ lâu để tôi có thời gian “đấu tranh tư tưởng”: một bên là “cái đói”, kéo thêm “cái thèm”, còn một bên là “cái xấu hổ” của một người chưa quen ăn chịu.

Tiếng bà xẩm vang lên:
- Thầy Hai đừng ngại mà... Vô ăn đi rồi mai mốt trả. Không có sao !
Lần này, “cái đói” cộng thêm “cái thèm” đã thắng. Tôi nuốt nước miếng bước xuống xe đạp thì đèn bật xanh. Nhưng trễ rồi. Thằng người hạ cấp trong tôi không còn đếm xỉa gì đến đèn xanh đèn đỏ. Nó chỉ còn thấy có tô cháo huyết ! Nó dẫn xe đạp lên lề khóa xe cẩn thận rồi nó bước lại ngồi lên ghế đẩu trước mặt bà xẩm. Nó còn mỉm cười chào bả một cách rất tự nhiên, không có vẻ gì của một người sắp sửa ăn chịu. Bà xẩm hỏi:
- Sao lâu quá không thấy thầy Hai vậy ?
Nó trả lời... gọn ơ:
- Tôi mắc về dưới tỉnh.
- Bà con ở dưới cũng mạnh hết hả ?
- Dạ, mạnh.
Bà xẩm múc cháo, rắc tiêu, rồi đẩy tô cháo đến trước mặt nó:
- Thầy Hai cứ ăn đi. Chừng nào có tiền trả cũng được, đừng lo !
Nó nuốt nước miếng, cầm muỗng múc cháo lên đổ cháo xuống cho mau nguội mà mắt sáng rỡ, mũi hít từng hơi mùi thơm mời mọc.
Giọng bà xẩm ôn tồn:
- Thời buổi bây giờ, đâu phải ai cũng còn tiền đâu thầy Hai. Hồi trước, làm ăn dễ, có đồng ra đồng vô. Bây giờ, càng ngày càng khó khăn, ai cũng chăm bẵm hết.
Ngừng một chút rồi tiếp:
- Chỗ quen biết, tôi nói thiệt. Thầy Hai cứ tới ăn tự nhiên, đừng ngại. Chừng nào thầy Hai trả cũng được hết. Mình với nhau mà... Phải thông cảm với nhau chớ ! Thầy Hai hiểu tôi không ?

Đến đây, bỗng thằng người hạ cấp trong tôi biến đâu mất ! Để lại tôi ngượng nghịu cúi đầu nhìn tô cháo, chỉ nói lí-nhí được có mấy tiếng “Cám ơn thím. Dạ...”, rồi nín thinh. Tô cháo trước mắt tôi bỗng như to hơn, đầy hơn, đậm đà hơn... Bởi vì tôi thấy nó phải như vậy mới tương xứng với lòng tốt của bà xẩm. Và lần này, tôi có cảm tưởng như tôi ăn tô cháo đó chẳng bao giờ cho hết !
Tôi cúi đầu húp được vài muỗng thì bà xẩm đẩy tới một dĩa giò-cháo-quẩy. Tôi vội xua tay:
- Không ! Không ! Tôi không ăn giò-cháo-quẩy đâu thím !
- Không phải đâu. Đây là tôi cho thầy Hai mà ! Không tính tiền !

Tôi ngước lên nhìn bà xẩm, dò xét. Bả nhìn tôi, hiền hòa, gật đầu nhè nhẹ như để nói “Thiệt mà ! Ăn đi !”. Miếng cháo tôi đang nuốt bỗng nghe như bị nghẹn ngang ở cổ họng, làm tôi ứa nước mắt... Tôi không dám nhìn bà xẩm nữa. Tôi nhìn tôi đang cúi đầu húp từng muỗng cháo, trịnh trọng như trong đời tôi lần đầu tiên tôi được ăn món này, món cháo huyết đậm tình người của bà xẩm Đakao...


Tiểu Tử
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23786
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 04/Mar/2015 lúc 12:21pm
XUÂN ĐẤT KHÁCH

Sea%20Eagle%20Royalty%20Free%20Stock%20Photo


Ai có về bên kia đất nước
Thở dùm tôi hơi ấm quê hương
Tôi, con én lạc mùa xuân trước
Vẫn khóc âm thầm nơi viễn phương 

Small%20town%20at%20night%20-%20lovely,%20darkness,%20reflections,%20beautiful,%20people,%20peaceful,%20umbrellas,%20town,%20rain,%20lights,%20evening,%20shops,%20pnice,%20nature,%20street,%20sky,%20dusk,%20summer,%20small,%20countryside,%20painting,%20night,%20autumn


Vẫn đếm xuân về trên đất khách
Nghe buồn nhỏ giọt xuống vai tôi
Ðèn ai thắp sáng bên kia phố
Nhớ quá, chao ôi, tiếng mẹ cười


Bên%20bếp%20lửa%20hồng

 
Bếp lửa than hồng sao chẳng ấm
Tôi thèm một chiếc bánh chưng xanh
Thèm nghe ai nói lời tha thiết
Một lời chúc tụng bước sang năm
%20air,%20aircraft,%20airliner,%20airplane,%20aviation,%20blue,%20boeing,%20cargo,%20cl***,%20clear,%20cloud,%20cloudy,%20day,%20descend,%20elevate,%20energy,%20engine,%20engineer,%20far,%20fast,%20flight,%20fly,%20fuselage,%20gear,%20high,%20huge,%20jet,%20land,%20leave,%20luxury,%20machine,%20p***enger,%20plane,%20pleasure,%20power,%20rapid,%20sky,%20speed,%20sun,%20sunny,%20supplier,%20supply,%20transport,%20transportation,%20travel,%20trip,%20turbine,%20turbulence,%20vacation,%20wing

Ai có về bên kia đất nước
Chở dùm tôi nỗi nhớ qua sông
Hỡi em, cô gái mùa xuân trước
Còn đứng hong khô áo lụa hồng

tet-phao.gif

 

Lòng tôi cũng bạc theo màu áo
Chiếc pháo giao thừa đã tả tơi
Chén rượu mừng xuân tôi chẳng uống
Chỉ uống đêm nay những ngậm ngùi. 

Trần Trung Ðạo



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 05/Mar/2015 lúc 3:43am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23786
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Mar/2015 lúc 7:31am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23786
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 11/Mar/2015 lúc 11:57am
Cố Hương - <<<<<
VNHN - NamAnh_KiềuLoan_Chân Như diễn đọc.mp3
Photobucket



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 11/Mar/2015 lúc 11:59am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
giodocgocong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 12/Jan/2011
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 132
Quote giodocgocong Replybullet Gởi ngày: 15/Mar/2015 lúc 6:48pm

Đôi Bờ Sông Nhớ



    
ìm bịp kêu chiều, cô Tư lại ra bến nước như thường khi. Con nước tháng chín ngầu đỏ phù sa, bập bềnh những đám lục bình khoe hoa tím ngắt. Trên khúc sông quanh co khúc khuỷu, màu lục bình tím lịm cả hai bờ. Màu hoa tim tím, điểm trắng tô vàng trên cánh và nhị, trông đẹp và buồn trên bến sông già cỗi với hai con nước ngược xuôi...
Hai ngày nữa là con Cúc lấy chồng. Cô ra đây giặt đồ cho con bé lần cuối trước lúc nó đi xa. Không phải con nhỏ lười nhác, hay làm nũng mẹ, mà chính cô Tư muốn làm thay một lần như hành động âu yếm cuối cùng dành cho đứa con yêu. Tội nghiệp con nhỏ, sanh ra đã không cha, ngày theo chồng lại thui thủi chỉ một mẹ đưa tiễn... Nghĩ đến đây cô Tư lại âm thầm rơi lệ. Nhớ ngày nào cưu mang con nhỏ quả là đắng cay. Tình chi mà cay nghiệt, sớm thì trắc trở, muộn lại đeo mang. Đến thời con Cúc cũng chẳng êm đẹp gì... Tình đầu, thương ai lại không thương, thương nhằm con trai của thằng cha Út ở bên sông... Mà nghĩ chi cũng lạ, ngày cô mang bầu cả họ đều thi nhau quở trách cái tính nhẹ dạ cả tin mới ra nông nỗi. Lúc ấy cô cắn răng chịu đựng, nhất định không nói ra ai là cha của đứa bé... Không chồng mà chửa gái ngoan ư? Có họa điên mới tin điều ấy. Lấy cô mà ngẫm thì đã biết! Hai mươi năm buồn tủi với bao điều sĩ nhục. Cày cọc nuôi con với sự lạnh nhạt của người thân... Tất cả là sự cấm đoán của người trên mới ra sự thể. Nếu không thì cha con đã có thể nhận nhau. Ấy vậy mà tới con Cúc, cô lại cản ngăn. Trời đất! Cái xứ này hết người hay sao mà nó thương thằng Tuấn con chú Út. Ngồi sui với ai cũng được, nhưng với ông ấy thì không xong. “Người gì lỏng khỏng, da tái bủng beo, ánh mắt như người mất hồn thế kia thì sui gia nỗi gì?”
Nỗi buồn xa xưa bỗng nhiên gặm nhấm trái tim người đàn bà trung tuổi khi nhớ đến gã đàn ông mình đã trót lỡ lầm. Cạn tình ngoài mặt nhưng tâm tư lại xót xa. Ngôn từ có chua cay cách nào đi nữa thì mấy ai hiểu được sự việc... Ngày xưa, không vì lời hứa hôn với nhà khác, có lẽ hai người đã thành vợ thành chồng như bao kẻ, đâu ra cảnh gái lành bỗng nhiên thân mang dạ chửa...
Trên bến sông này ai ai cũng quen mặt. Cứ chiều chiều cô Tư ra sông giặt giũ cũng là lúc chú Út bên kia ra tắm. Hai người tuy khác bến nhưng lại chung một dòng. Và con nước nào cũng quen bóng dáng hai người như tiếng bìm bịp gọi con nước lớn. Trời sui đất khiến chi mà con Cúc lại đi thương thằng Tuấn bên sông. Hai đứa chúng nó cứ thập thò ngoài bến, thấy mặt nhau thì ríu rít chuyện trò. Trai gái có tình ý thì giấu giếm được ai, chỉ khoảng đôi tuần là hai nhà đều biết. Lúc đầu thì cô Tư la mắng con Cúc đến đỗi cả xóm đến khuyên ngăn. Sau đến chú Út rầy la thằng Tuấn, bên đây sông cũng nghe thấy tiếng. Rồi như thấy khó bề ngăn cản hai đứa trẻ, hai người lớn bắt đầu trở mặt to tiếng với nhau. Mới đầu chỉ là lời trách cứ không dạy dỗ con cho phải phép, rồi tăng dần lên bằng những lời rủa sả không tiếc lời. Ngôn từ nặng nhẹ đã hết, hai người bắt đầu lăng mạ và tổn thương nhau bằng lời lẽ thô tục đến độ hai đứa nhỏ chỉ còn biết khóc. Khi nước mắt của chúng bắt đầu cạn kiệt lại nhường chỗ cho sự giận dữ bởi lòng tự trọng. Và... cuối cùng tụi nhỏ cũng giận nhau theo cách của người lớn...
Rồi chiều chiều trên bến sông lại chứng kiến một cảnh nực cười. Lúc tình cờ chạm mặt Tuấn thì Cúc ngoe nguẩy bỏ đi. Rồi đôi lúc thằng Tuấn lại hầm hầm tránh mặt con Cúc. Từ những tình cảm chớm nở, giờ nhường lại cho sự thờ ơ, ghẻ lạnh, và cuối cùng cũng tắt ngóm như ngọn đèn dầu khô cạn... Và chuyện này lại xảy ra giữa hai bờ, với hoa lục bình tím lịm cả dòng sông...
Duyên nợ ngàn năm mới nên chồng vợ... Câu ngạn ngữ vùng quê trở nên đúng đắn khi người hai bên chứng kiến sự thay đổi của hai đứa nhỏ. Tụi nó hết duyên rồi nên mới thế, chứ như nặng nợ với nhau, sá chi những lời qua tiếng lại...
Có hôm chú Út ra sông tắm, phát hiện ra thằng Tuấn thập thò sau hàng chuối, với đôi mắt hiêng hiếng ngó qua sông. Đôi mắt già lập tức quắc lên giận dữ. Thế là thằng con trai lập tức lảng đi mất...
Bên đây sông chuyện đâu có khác, hễ con Cúc lảng vảng ra bờ sông cô Tư lại cấm tiệt, với những câu rủa sả thật nặng nề...
Bây giờ dù có muốn, nhưng với sức ép của hai bên, hai đứa nhỏ cũng không còn cơ hội hàn gắn tình cảm ban đầu. Nếu như trong suy nghĩ chúng còn chút quyến luyến thì với những người già dặn vẫn còn nhiều cách để cấm đoán, cản ngăn...
Hoa tím lục bình nở rộ vào mùa hè thu. Còn tình yêu thì mùa nào để nở?
Tình yêu nào có mùa... nên chú Út và cô Tư theo sát hai đứa nhỏ từng bước một. Họ nhất quyết phá hoại cho kỳ được tình cảm hai đứa trẻ nhằm thỏa mãn tự ái bản thân... *****
Cúc lấy chồng là chuyện hỷ sự, cô Tư dĩ nhiên là vui rồi! Nhưng bên kia sông chú Út cũng hỉ hả nhìn vào đôi mắt khắc khoải của đứa con trai mà mừng lây... Nỗi vui mừng ích kỷ, nhỏ mọn dưới nhiều cách nhìn mà chú vui vẻ nhận lấy như một phần thưởng, khi đã bỏ công sức và nhiều nhiều... thứ nữa... để đạt được!
Ngày xưa, lúc cưới vợ, chú Út nào có thương gì. Chỉ tại hai họ kết ước tự lúc nào không biết, đến lúc trưởng thành thì đám cưới đã chờ sẵn. Cô dâu, chú rể ngỡ ngàng trong ngày cưới, còn bên ngoài lại có người âm thầm khóc thương. Chú Út biết vậy, nhưng không dám cưỡng lại gia đình và cứ thế cuốn vào cuộc sống vợ chồng với người con gái mà mình không yêu... Tình cũ ray rứt, duyên mới bén dần, và thằng Tuấn ra đời như sợi dây ràng buộc tình cảm vợ chồng không sao chối bỏ được. Chính lúc này chú Út đã phạm một sai lầm không sao tha thứ được... Và chuyện ấy đã kéo dài hơn hai mươi năm với bao buồn nhớ, đau thương...
Sai lầm trong quá khứ là bài học đắng cay chú Út không sao quên được. Đời cha dại thì con phải tránh. Để sai lầm cũ không phải lập lại, lúc thằng Tuấn mười sáu tuổi chú đã đính ước với một nhà gái chung làng. Vậy là thằng Tuấn lại có số phận giống như chú ngày xưa, nhưng khác đi một chút là trắng trong, thơ dại. Dĩ nhiên xét thân thế thì nhà gái tốt quá đi rồi. Trai hiền, gái ngoan... hai đằng đều vui vẻ... Rồi mọi sự bỗng nhiên thay đổi đến dị kỳ. Cái điều chú nơm nớp lo sợ lại xảy ra khi con Cúc xinh xắn hớp hồn cậu trai cưng. Nỗi sợ hãi trong quá khứ, thất bại trong hiện tại, khiến chú phẫn nộ và giận dữ với thằng con, cứ thế trút ra mãi... Dù sao cũng phải ngăn chúng, ngăn đến cùng với thái độ quyết liệt không ngần ngại... Cô Tư bên kia nặng lời thì chú cần chi phải ngần ngại... Thế là hai bên thi nhau dung tục với những lời bình thường chú chưa bao giờ nghĩ đến. Chửi rủa nhau là thế nhưng bụng dạ lại xót xa. Ngày ngày chung một dòng nước, cớ chi cư xử cách ấy. Chỉ tại hai đứa trẻ phá vỡ toan tính của người lớn mới ra cớ sự...
Cái tin con Cúc lấy chồng quả là hỷ sự. Nếu được... phép, chú đem quà mừng không hết nữa là... Như vậy mọi chuyện lại theo đúng quỹ đạo đã định sẵn. Thằng Tuấn lấy vợ, con Cúc gả chồng. Duyên nào phận nấy, còn gì vui bằng. Nếu chúng nó có buồn cũng chỉ trông chốc lát, rồi sau này đâu lại vào đó như chú... ngày nay...
Ngày trước, những lúc gặp con Cúc ra sông giặt giũ, chú Út cũng phải tấm tắc khen thầm. Con nhỏ càng lớn, đẹp ra trông thấy, nếu ai là cha mẹ cũng cảm thấy tự hào. Là cấm đoán tụi trẻ, chú phải làm thế, chứ ghét bỏ chi nó. Bây giờ mọi việc lại khác, tuy chú không ghét, nhưng nó lại thù hằn ra mặt. Điều này chú cũng sớm tha thứ, bởi có ai ưa kẻ vừa phá bĩnh, vừa chửi bới mẹ của mình...
Bây giờ nhìn ánh mắt thằng Tuấn chú lại xót xa. Cái nhìn khắc khoải, chờ mong, như tiếng gọi buồn của giống Đỗ Quyên một đời thương nhớ. Nhìn ánh mắt nó như in bóng hình kẻ khác, với nỗi buồn vời vợi, xa xăm, của con chim lẻ loi, cô độc, lạc bóng bạn tình. Chú thấy mình ác với tụi nhỏ, nhưng tự thân lại bảo thủ chính kiến của mình. Có ai vun trồng một hy vọng rồi dễ dàng buông xuôi... Đó chính là số phận của những kẻ đi trước, và cũng là sự nghiệt ngã dành cho thế hệ tiếp sau...
Rồi đây thằng Tuấn cũng phải lấy vợ. Chú đã gửi nó lên thành thị, sống với người chú ruột học lấy một cái nghề. Nói thì như vậy chứ thật ra là giữ nó cách xa con Cúc. Đã cắt thì phải cho dứt, chứ đừng có dung dưỡng, nhùng nhằng nhũng nhẵng lại sinh ra chuyện nọ, chuyện kia. Mà cô Tư bên sông cũng hay! Không biết bà ta xoay sở cách nào mà con Cúc cũng được mối gả chồng. Điều này làm chú bớt thức khuya, bởi chuyện của hai đứa nhỏ cứ như cái gai trong tim, châm chọc vào giấc ngủ lúc tiếng gà báo canh...
Chửi rủa nhau thế kia, con cái ai cũng tự ái, giận hờn. Tụi nhỏ thù ghét và tránh mặt nhau thì trước sau hai người lớn cũng thỏa nguyện. Tuy nhiên, những lúc thằng Tuấn về thăm nhà, chú len lén nhìn xem thái độ của nó vẫn thấy lo lo. Thằng nhỏ tuy không nhìn mặt con Cúc, nhưng khi bìm bịp kêu chiều nó lại ra sông, trông vào đám lục bình lững lờ trôi như kẻ mất hồn. Màu tím lục bình mộc mạc, giản đơn, đầy vẻ u hoài, nhưng khiến người ta nhớ mãi. Hoa thương thì nhớ, thử hỏi người thương có lẽ nào lại quyên... Chuyện đã như vậy, chú cấm luôn nó ra bến sông nhìn con nước lớn...
Hàng xóm hiểu chuyện, trách hai người lớn ác, khi tìm cách rẽ chia hai đứa nhỏ. Nhưng nếu không như vậy... lại tổn thương những điều khác lớn hơn...
Hằng ngày, chú Út vẫn ra sông tắm và trông qua giang ngạn, nơi ấy cô Tư đang giặt giũ như thường khi. Động thái hai người tuy không thay đổi nhưng trong dạ lại có sóng cồn, bởi những việc cố ý gây ra nhằm bảo vệ cho mình. Dù sao, cả hai bây giờ đã có thể thở phào với cái tin con Cúc lấy chồng. Lấy chồng là đường về đã dứt, thằng Tuấn có thể yên lòng nay mai đi cưới vợ. Tình cảm đổ vỡ có thể thay vào một hạnh phúc mới, rồi năm tháng sẽ tìm quên... Chú muốn như vậy lắm... và cứ mãi nghĩ... *****
Cô Tư vừa xả thau đồ cho con, vừa ngó sang bên sông bằng ánh mắt hậm hực, dỗi hờn. Con Cúc lấy chồng là cô ra tay trước, chứ không phải trông chờ “lời hứa hôn trời đánh” của thằng cha Út ấy đâu. Con nhỏ đẹp người lại tốt nết thì thiếu chi mai mối, chỉ đôi ba tháng cô đã sắp xếp được ngay. Nghĩ đến chuyện ngồi sui với ông ấy đã thấy lạnh cả mình, chuyện chi cũng có thể, chuyện ấy nhất định là không. Có chết, cô cũng nói vậy, cho dù con Cúc đáng thương lắm...
Từ ngày xảy ra chuyện, con nhỏ mắt cứ đỏ hoen. Cô Tư biết vậy, vẫn dửng dưng với nét mặt lạ lùng... Qua khung cửa sổ, con Cúc cứ trông xuống bờ sông, nơi tím màu hoa dại lặng lờ, người như hóa đá. Cô Tư bỗng nhiên nổi giận đóng ngay đôi cánh cửa... “Đồ khỉ gió đó, nhớ đến làm gì...!”
Rồi không hiểu sao, cô quay đi với đôi mắt chợt đỏ, nhìn ra bờ sông với bạt ngàn sắc tím đương trôi...
Trai trẻ đang chung vai dựng trại cho ngày vu quy. Nhìn sự nhộn nhịp bỗng nhiên cô Tư ghét cay ghét đắng. Ngày vui của người, ngày buồn của ta... Và biết đâu, xa bên kia lại có người lặng yên để khóc...
Cúc lấy chồng là chuyện hỷ sự. Chuyện vui như vậy nhưng trong sâu thẫm cô Tư lại buồn vời vợi. Buồn vì nỗi chia xa... *****
Nhìn người đàn bà đang lúi húi bên sông, chú Út chợt thấy thỏa mãn. Thỏa mãn nhiều thứ lắm, nhưng nói sao bây giờ... Con Cúc lấy chồng trong khách dự dĩ nhiên không có chú, nhưng trong thâm tâm chú muốn là kẻ được mời. Đơn giản, vì đó là ngày vui của hàng xóm bên sông, và cũng là ngày vui cho những toan tính mong cầu. Rồi đây sẽ có nhiều oán hận cho một lão già trái tính trái nết, ích kỷ, chỉ lo cho bản thân mà chia loan rẽ phụng. Nhưng... ai biết đâu đó là hỷ sự...
Thằng Tuấn tất nhiên sẽ buồn và buồn nhiều lắm. Nhưng nỗi đau nào mà chẳng qua khi còn có thể...
Chú Út nhìn những bông lục bình đang tím thẫm trước buổi hoàng hôn, ngước mắt nhìn trời như một lời tạ tội. Biết đâu, ngày nào đó chú có thể kể cho đứa con trai một câu chuyện. Câu chuyện được bắt đầu rằng: “Một buổi chiều trên con sông lặng lờ màu hoa tím, chú đã từng dùng mắt tiễn đưa đứa con gái “mồ côi cha” xuất giá theo chồng. Ngày ấy có nhiều người buồn lắm, nhưng vẫn là hỷ sự... Bởi chú và người đàn bà bên sông đã ngầm thỏa thuận, phá vỡ một mối tình son trẻ cho một toan tính cá nhân đầy trắc ẩn. Vì đôi trái gái đó không biết rằng: chúng chính là... chính là...”
Những giọt nước mắt đã có thể rơi và đã rơi trên đôi tay chùng thấp, trượt xuống dòng sông già cỗi, tím màu hoa dại. Một loài hoa sắc tím, tự ngàn đời vẫn thế, một đời chảy xuôi...

 MacDung


Chỉnh sửa lại bởi giodocgocong - 15/Mar/2015 lúc 7:01pm
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23786
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Mar/2015 lúc 2:45pm

Đàn Ông Nên Đọc

Phụ Nữ Nên Ghi Nhớ Điều Này...


Đàn ông dù có giàu có đến đâu, thành đạt tới cỡ nào, ăn chơi ra sao, đã từng đốn đổ và qua đêm với bao nhiêu người phụ nữ, thì cũng nên chọn cho mình một người đàn bà vì yêu thương mà ở lại bên cạnh lúc khó khăn.


Bởi vì đời thì nhiều thứ phù du, hôm nay thành đạt đó, hôm nay giàu có đó, bạn bè đó, gái gú đó, nhưng ngày mai lỡ 2 bàn tay trắng, thì còn lại được gì? Đời, chẳng ai học được chữ ngờ đâu.
Khi bạn có tiền, bạn có thể mua được tất cả. Mua được bạn bè, mua được những mối quan hệ, mua được một con đàn bà đẹp đẽ đi bên cạnh mình, mua được cả những đêm giường chiếu thăng hoa. Nhưng bạn chẳng thể mua nỗi một người phụ nữ vì yêu thương mà hy sinh cả cuộc đời bên bạn, an ủi bạn lúc khó khăn, mỗi chiều chờ bạn về bên mâm cơm nóng hổi.

Con người ta, cần nhất trong cuộc đời là một người có thể nắm tay và đi đến cuối con đường, dù con đường đó gập ghềnh và lắm sỏi đá gian nan.
Đàn bà dù bao người đón đưa, bao người cung phụng. Nhưng nửa đêm gà gáy nếu bệnh hoạn nhấc điện thoại lên và gọi, ai chạy đến đầu tiên, thì nên gửi gắm cả đời cho người đó. Đàn ông bên bạn có thể giàu có, có thể phong lưu, có thể mua cho bạn những thứ hàng hiệu sa sỉ. Nhưng được gì khi đằng sau đó là sự cô đơn khi trái gió trở trời, không có người bên cạnh.

Vật chất vừa đủ thôi, vì tiền thì có thể làm ra, chứ người thật lòng yêu thương bạn thì có tiền cũng không mua được. Vật chất mà làm gì khi đêm về mình bạn cô đơn tủi thân rồi khóc rưng rức? Chỉ cần 1 người luôn đi bên cạnh, yêu thương và lo lắng, như vậy đủ rồi. Đàn bà có mạnh mẽ tới đâu, đến cuối cùng vẫn là đàn bà. Như những ngày đầu tạo hóa sinh ra, mong manh và yếu đuối. Vì vậy, họ vẫn cần đến 1 người đàn ông, để mỗi đêm về đưa cánh tay cho họ gối và ôm họ vào lòng.

Đàn ông nhiều, đàn bà cũng nhiều. Những người đến bên đời bạn cũng nhiều, nhưng được mấy người là yêu thương thật sự? Đàn ông thì tán tỉnh đàn bà cốt cũng chỉ có 1 mục đích cuối cùng là đến cái nơi gọi là giường ngủ.

Đàn bà thì ngọt ngào xởi lởi bên đàn ông chung quy lại là cũng vì phục vụ cho bản thân mình được ăn sung mặc sướng mà không cần vất vả. Vì vậy trong rất nhiều người, chỉ nên chọn 1 người. Người thật sự tốt với bạn, yêu thương bạn.

Nếu có người yêu bạn thật sự, bạn nên trân trọng.
Cuộc sống càng ngày càng có nhiều thứ làm tình yêu chao đảo, ừ đồng tiền, nó có sức mạnh rất lớn. Nhưng cuối cùng, nên trả tình yêu về với đúng ý nghĩa của nó.
Nếu có người yêu bạn thật sự, bạn nên trân trọng. Đừng vội buông bỏ, vì biết đâu trên đường sau này, bạn sẽ chẳng tìm được ai đó tốt hơn. Hạnh phúc, ở ngay bên bạn.
st.






Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Mar/2015 lúc 2:47pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 159 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.453 seconds.