![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Tâm Tình | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 159 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | ||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23786 |
![]() ![]() ![]() |
||||
Ruột Thịt Tình Thâm
![]()
Tin chị Thơm bị chồng bỏ
lan ra nhanh chóng đầu trên xóm dưới .
Có người nói tội
nghiệp chị đẹp người đẹp nết , con nhà ăn học mà số long đong .
Nhưng có người lại
mừng dùm và họ coi đó như giải pháp mà ông trời giải thoát cho chị khỏi cảnh
khổ .
Chị Thơm là con gái
duy nhất trong ba người con của thầy giáo Thức ở xứ này .
Thời sinh tiền lúc còn sống thầy và ông chủ tiệm vàng Kim Vinh là bạn tâm giao nối khố có nhau dù một người làm buôn bán một người theo nghiệp chử nghĩa thánh hiền .
Ngay khi chị
Thơm chỉ là trẻ thơ lúc nghe ông Vinh muốn kết thông gia cho hai gia đình càng
thân hơn, thầy giáo Thức đã đồng ý ngay.
Thơm từ nhỏ đã
sáng dạ học đâu nhớ đó , thương con nên lớn lên ba chị cho chị lên ở nhờ nhà
người cô ruột trên Sài Gòn để tiếp tục việc học .
Năm đó tự nhiên ông Vinh bị một căn bệnh lạ, chạy chữa nhiều thầy thuốc mà bệnh có vẻ không thuyên giảm.
Khi
thầy giáo Thức sang thăm ông bèn nhắc chuyện xưa và muốn tiến tới hôn
nhân cho con trai mình. Trước là được yên lòng nhắm mắt vì con nên bề
gia thất do ông Vinh biết rất rõ Thơm là cô gái rất tốt. Thêm vào cái hy
vọng là biết đâu hôn lễ xua đi được cái vận hạn xui xẻo đang đè ám gia
đình ông.
Năm
19 tuổi Thơm được ba mình gọi về quê và lấy chồng trong cái không khí
gấp rút của đám cưới đang chuẩn bị. Lúc đầu Thơm phản đối bằng cách bỏ
ăn và khóc lóc không ngừng. Nhưng đến khi ba chị dọa thắt cổ tự vận nếu
chị dám từ hôn làm trái ngược lại lời hứa mà ông coi trọng như núi. Đến
nước đó thì Thơm hết cách đành theo ý ba mình về làm vợ Huấn.
Cứ
tưởng Huấn chồng chị Thơm lấy được người vợ như chị, anh ta hẳn vui
mừng mới đúng. Nhưng vốn tính nhỏ nhen thêm vào chất gia trưởng Huấn
thấy chướng mắt vì sự học vấn của vợ. Trong khi chị vận dụng cái giỏi
giang của mình để gánh vác việc nhà chồng thì Huấn sau khi tỏ rỏ đường
đi lối về với cô vợ trẻ anh ta lại miệt mài với những thú vui tình ái
bên ngoài. Từ khi sinh Thu con gái đầu lòng chị Thơm nhiều lần khuyên
chồng nên để đức cho con đừng đi gạt gẫm những cô gái khác nhưng Huấn
gạt bỏ ngoài tai. Thậm chí nhiều lần còn hạ cẳng tay, thượng cẳng chân
với chị khi say. Nhất là sau khi ba chồng chị là ông Vinh qua đời thì
Huấn không còn phải e dè, kiêng kỵ̣ ̣một ai.
Một lần đoàn gánh hát của ông bầu Tám Ít về đây hát, Huân đi xem và đâm ra mê mệt Hai Như cô đào nhì của gánh.
Khác với những lần trước lần này Huấn trong mắt Hai Như là con mồi lớn
nên Hai Như quyết không buông, cô xõ mũi Huân một cách nhanh chóng. Vốn
xuất thân lang bạt nên Hai Như không dể dàng gì trở thành trò chơi của
Huân cô buộc Huân phải cho cô danh chính ngôn thuận khi cô có mang.
Thế là sau 9 năm, chị Thơm đành chịu tiếng bị chồng bỏ bởi không chịu
nổi sự cay nghiệt cũng như những trận đòn thừa sống thiếu chết của Huân
gần đây. Thầy giáo Thức ba của chị cũng qua đời vài năm trước đó nên chị
cũng không muốn níu kéo.
Chị đồng ý ra đi với hai bàn tay trắng không làm phiền Huân cưới vợ mới
nhưng bù lại Huân phải để chị dẩn bé Thu lúc này được 5 tuổi đi theo
mình .
Buồn cho phần số dang dở của mình và cũng không muốn ở lại quê nơi có
nhiều kỷ niệm gợi chuyện phiền lòng chị Thơm dẫn con gái lên lại Sài
Gòn.
Ban đầu chị tá túc ở nhà cô ruột như trước. Sau đó chị mang số tiền cha
mẹ ruột cho phòng thân khi xuất giá lấy chồng làm vốn mua bán.
Chị mở một sạp bán trái cây và thuê căn nhà nhỏ gần đấy cho tiện việc đi về mẹ con chị sống yên ả vui vẻ với nhau.
Dạo gần đây có một anh chàng người Mỹ thường ghé mua trái cây chổ chị.
Anh ta gây sự chú ý cho Thơm bởi anh ta nói được tiếng Việt rất rành
khác với những anh chàng Mỹ lớ ngớ thỉnh thoảng vẩn ghé chổ chị mua
hàng.
Anh chàng người Mỹ John Smith ấy cũng thật bất ngờ khi thấy cô chủ hàng
nói rất chuẩn thứ ngôn ngữ mẹ đẻ của mình và là một người có ăn học.
Lúc đầu chỉ là trò chuyện xã giao lâu dần họ thành bạn. Dù hai người
cách xa nhau về hình thức lẩn nơi sinh trưởng nhưng họ lại khá hợp nhau
trong nhiều cách nghĩ. Hơn một năm sau John ngỏ lời với muốn cưới Thơm
làm vợ.
Phần Thơm thật sự chị dành rất nhiều cảm tình cho John nhưng chị cũng e
ngại sự cách biệt và tiếng đời thường mĩa mai những người phụ nữ lấy Mỹ
thời đấy nên chị còn lưỡng lự chần chừ. Nhưng tấm chân tình của Louis
khiến chị cảm động. Hai năm từ ngày họ quen biết chị dẹp cửa hàng về làm
bà Smith.
Mười mấy năm trôi qua gia đình chị Thơm có thêm một trai hai gái. Peter được 13 tuổi , Mary 11 tuổi và Ann 9 tuổi.
Ngoài xã hội John là người khá thành công về kinh doanh nhưng khi về nhà
John là người chồng có trách nhiệm. Anh ta đối xử với Thu cũng như
những đứa con khác của mình hết mực yêu thương không hề có sự phân biệt.
Gia đình họ sống đầm ấm hạnh phúc ngoài những lúc đến trường ở nhà chị
Thơm vẩn gọi con bằng những cái tên tiếng Việt là Phú , My và Ái .
Khác biệt nhau về mái tóc và cả màu da nhưng bốn chị em Thu lại quấn quít hòa thuận, luôn gắn bó bên nhau không rời .
Năm 1975 lúc này Thu đã 21 tuổi đang theo học một trường Dược ở Sài Gòn.
Một ngày chị Thơm nhận được tin Huấn chồng cũ của chị tức là ba ruột của
Thu ở quê qua đời đột ngột vì một cơn đột qụy. Đúng ra chị Thơm không
muốn về bởi tình hình lúc đó có nhiều thay đổi và Huấn từ lâu không hề
nhắc nhở hay đá động gì tới đứa con gái của mình là Thu. Nhưng cuối cùng
chị cũng dẫn Thu về chịu tang cho đúng phép tắc dù gì họ cũng là cha
con. Phần chị thì xem như nghĩa tử nghĩa tận đến thắp một nén hương cho
phải đạo làm người, hơn nữa chị không an tâm để Thu về một mình.
Sau đám tang ngay lúc chị chuẩn bị trở về Sài Gòn thì thời thế thay đổi
trong một đêm phải chờ đến cả tuần sau và bằng nhiều cách mẹ con chị mới
lặn lội trở về được Sài Gòn. Nhưng khi chị Thơm và Thu lên tới Sài Gòn
thì mọi chuyện đã khác lạ hoàn toàn .
Dâu bể đổi dời chỉ trong khoảng thời gian ngắn, chị không thể vào được
nhà cũ bởi chúng bị tịch thu nên chị không lấy được thông tin hay địa
chỉ liên quan gì tới chồng mình ở Mỹ .
Cũng không thể hỏi thăm ai giữa cái lúc hỗn loạn ấy chị dành dẫn Thu
nương náu, mưu sinh ở một quận gần đó và cố gắng hết khả năng để nghe
ngóng liên lạc với chồng và con của mình trong vô vọng.
Ngày xưa vì người ở quê hay kỳ thị, dè bĩu và lo cho sự an toàn của
chồng vào thời còn chiến tranh. Chị Thơm chỉ dẫn duy nhất Peter về quê
ngoại chơi hai lần mà thôi. Không cho John cùng hai con gái nhỏ về thăm
quê lần nào. Bởi má chị vẫn lên thăm gia đình chị ở Sài Gòn thường
xuyên. Do chị cũng ỷ y đâu có dè cuộc đời có những thay đổi như vậy.
Thời gian dần trôi không một tin tức nào về họ dù là sống chết. Phần lo
lắng thương nhớ con nên sức khoẻ chị Thơm mỗi ngày một kém. Rồi chị qua
đời vào một đêm mưa sau cơn bệnh trong tay vẩn còn nắm chặt tấm ảnh gia
đình của mình.
Lúc lâm chung không biết có phải còn tiếc nuối hay ấm ức mắt chị mở
trừng trừng khiến Thu khóc than tức tưởi khấn nguyện rằng sẽ cố gắng tìm
được những đứa em và mang chúng về.
Phần John Smith vào lúc mọi người nhốn nháo rồng rắn di tản dù không
muốn bỏ vợ mình lại nhưng John không còn cách nào khác hơn đành dẫn ba
người con của mình lên máy bay về Mỹ trong nổi đau đáu lo lắng. Khi về
đến xứ sở anh ta cũng cố gắng liên lạc với vợ mình nhưng ngoài tên họ
của vợ và con gái. John chỉ biết thêm địa danh quê vợ là Xào Bân chứ
không hề có thông tin gì khác. Đường phố còn thay đổi tên thì nói chi
muốn tìm một con người giữa cái đất Sài Gòn mênh mông ấy.
Ba năm sau trên đường đi làm về John qua đời trong một tai nạn giao
thông thảm khốc. Những đứa con của anh được chuyển về sống với ông bà
nội ở bang Texas.
Gia đình họ lạc nhau từ đó...
*****
Ba mươi lăm năm sau
Thu bây giờ tóc đã bạc hơn phân nửa và lên chức bà Ngoại chị lấy chồng
có được ba người con. Chồng chị là người đàn ông tốt và hiền lành .
Các con chị vẫn sống và làm việc ở Sài Gòn. Còn chị và chồng về sống ở
quê vào 5 năm trước trên mảnh đất hương hỏa của bà Ngoại chia cho mẹ chị
ngày xưa, vui thú cùng vườn cây ao cá, như bao người có tuổi khác .
Cuộc sống chị êm đềm, hạnh phúc như bao gia đình an phận bình thường
nhưng dù bao năm trôi qua trong lòng Thu vẫn không quên được nỗi nhớ về
những người em của mình .
Thỉnh thoảng nhìn những tấm ảnh cũ đã úa vàng mà chị lưu giữ như một báu vật, chị lại chảy nước mắt.
Chị khóc khi hồi tưởng cái khoảng khắc ngày xưa đút cơm cho những đứa em
của mình. Chị nhớ rõ đứa nào thích ăn gì, tính nết ra sao.
Nhớ lúc chạy giỡn trong khoảng sân nhỏ cùng nhau giờ không biết họ lưu lạc phương trời nào và có bình an không ?.
Hiểu nỗi khổ tâm bao năm của chị Thu các con chị cũng giúp mẹ bằng mọi cách họ có thể .
Từ những phương tiện thông tin hiện đại đến nhờ cả đại sứ quán giúp đỡ,
nhưng thông tin qúa ít ỏi và trôi qua nhiều năm nên sự tìm kiếm của họ
cũng rơi vào im lặng.
Peter, Mary và Ann hiện tại cũng đã có gia đình và con cái họ khác xưa
hoàn toàn. Vốn Việt Ngữ của họ gần như là mất hết, ngoại trừ Mary do làm
quản lý ở một hãng có nhiều người Việt nên cô còn nói được chút ít.
Nhưng ba người họ vẫn không quên người mẹ và chị của mình. Họ về Việt Nam rất nhiều lần nhờ sự giúp đỡ của nhiều nơi .
Nhắn tin trên báo để tìm kiếm nhưng tất cả vẫn không có tin tức gì, họ cũng không có nhiều manh mối để mở rộng việc tìm kiếm…
Năm 2010 Peter lúc này đã 48 tuổi nhân dịp nghỉ thường năm anh ta dẫn
theo cô vợ người Mỹ của mình là Jessica về Sài Gòn du lịch.
Lần đó khi đang ngồi trên chuyến xe tham quan của một đoàn du lịch chuẩn bị đi đến điểm vui chơi theo lịch trình .
Là người vui tính Peter trò chuyện cùng anh hướng dẫn viên là ngày xưa mình được sinh ra ở Sài Gòn .
Nhắc về kỷ niệm vô tình Peter nói rằng quê ngoại ở Xào Bân bằng một thứ
tiếng Việt lơ lớ. Có một vị khách lớn tuổi trong đoàn nghe được. Ông ta
nói là ông ta biết một nơi trước kia gọi là Xẻo Bần chứ không phải là
Xào Bân.
Đó là một làng nhỏ do dân địa phương tự đặt tên ấy vì có cái rạch nhỏ
chảy cắt ngang qua. Mà bây giờ không còn ai gọi là Xẻo Bần nữa họ gọi
bằng tên một thị trấn khác.
Không biết có cái gì xui khiến Peter vội lấy giấy bút ra và nhờ ông ta
ghi lại chính xác nơi đó bằng cái tên hiện hành ngày nay.
Bỏ dở chuyến đi chơi Peter cùng vợ ngược về Sài Gòn tìm đến trung tâm lữ
hành du lịch và ngỏ ý muốn thuê một hướng dẫn viên thông thuộc miền Tây
để đi đến địa danh mà vị khách lạ cho.
Khi họ đến nơi thì gần như không còn vết tích nào giống trong ký ức của
Peter. Anh ta nhớ ngày xưa phải đi bằng thuyền nhỏ và cây cỏ hoang dại.
Còn nơi anh ta đến ngày nay là thị trấn sầm uất đông đúc xe cộ chạy xuôi
ngược .
Thấy vẻ thất vọng của Peter anh hướng dẫn viên cũng không biết làm sao
hơn đành cùng người tài xế chở hai vợ chồng ông khách người Mỹ đi loanh
quanh cho đúng theo trình tự một chuyến tham quan .
Xe chạy dọc những con lộ nhỏ và anh hướng dẫn viên giảng giải đây là một vùng chuyên về trồng trái cây .
Chợt lúc đó chuông nhà thờ đổ hồi chuông ban trưa thông lệ. Như có một thứ giác quan mách bảo Peter đòi được đến nơi đó .
Cả nhóm họ rời xe đi bộ trên con đường làng khi đứng trước căn nhà thờ có tuổi thọ gần cả trăm năm được xây từ thời Pháp đô hộ.
Peter gần như là không kèm được sự xúc động bởi anh ta nhận ra đây đúng là quê ngoại mình mà ngày xưa anh được mẹ dẫn về .
Qua bao nhiêu năm nhưng cũng may là cái nhà thờ ấy vẫn không thay đổi
hình dáng kiến trúc cũ. Nhất là cái vị trí nằm ngay ngã ba sông rất đặc
biệt .
Peter nhớ một cách rõ ràng như vậy do có một lần khi về quê chị lớn là
Thu dẫn em trai mình đến đây chơi. Đang vui đùa chợt Peter tự nhiên bị
chảy máu cam không rõ nguyên nhân khiến Thu hốt hoảng cầu cứu. Chính một
vị ma-soeur hiền lành đã kêu Peter nằm ngay xuống trước sảnh nhà thờ và
ngước mặt lên ngay cho máu ngừng chảy. Trong khi bà đặt chiếc khăn lạnh
trên trán của Peter để hạ nhiệt độ.
Theo trong trí nhớ của Peter nhà bà ngoại đi bộ cách đó một đoạn nhưng hướng nào thì anh ta mơ hồ không nhớ nổi .
Vốn nhạy bén sau một hồi suy tính Peter nhờ anh hướng dẩn viên hỏi thăm
những ai nhiều tuổi từng sống nơi đó về người đàn bà có tên Ba Thơm có
con gái tên Thu .
Nhưng già trẻ không một ai biết bởi ngày trước chị ba Thơm chỉ thỉnh
thoảng về thăm quê rồi đi. Số người còn lại họ đến ở nơi đây mới độ hai ,
ba chục năm thì làm sau biết chuyện ngày xưa cũ .
Thêm nữa ở quê người ta thường gọi theo thứ ít ai gọi tên nên chẳng ai biết người đàn bà mà Peter muốn kiếm là ai.
Cuối cùng Peter chỉ còn cách ghi lại địa chỉ khách sạn ở Sài Gòn nơi
mình trú ngụ cùng số điện thoại cá nhân đang tạm dùng trong thời gian ở
Việt Nam. Peter hứa sẽ hậu tạ cho bất cứ ai có tin tức về hai người mình
đang cần tìm .
Đúng lúc kẻ ghi người viết thì có một người đàn bà đứng tuổi đi chợ về ngang do tò mò bà ta rẽ đám đông vào xem .
Khi biết rõ câu chuyện bà ta chậm rãi nói:
-Tui biết có chị kia ở cạnh nhà bà sui gái của tui .
Nghe đâu tên của chỉ là Hai Thu mà tui không nghe chỉ có anh chị em chi hết .
Chị mới về đây sống độ mấy năm thôi không biết có phải chị Thu gì mà ông ấy muốn kiếm không ?
Nhà chị ấy tuốt dưới xóm dưới đường hơi khó đi một chút.
Sau khi nghe anh thông dịch nói lại , không bỏ sót một tia hy vọng vào , Peter vội khẩn khoản bà ấy giúp mình.
Họ chọn ra giải pháp cả nhóm sẽ ngồi ở quán cafe đầu chợ. Trước là chờ gặp người tên Thu mà người đàn bà ấy vừa nói .
Sau là uống ít nước và nghĩ ngơi tạm bởi vì nhóm họ điều thấm mệt sau hàng nữa ngày trời đi tới đi lui.
Người đàn bà kia thì lên một chiếc xe honda ôm đã được Peter trả tiền
tới nhà chị Thu và nhắn chị ấy có người cần gặp ngồi chờ nơi quán nước
trước cổng chợ.
Buổi xế trưa, sau bữa cơm chị Thu đang cho mấy con gà ăn trước sân như thường nhật chợt có tiếng xe honda dừng trước cửa.
Khi nghe nói có ông tóc vàng mắt xanh cần gặp một người tên Thu trước
sống ở Sài Gòn và cở bằng độ tuổi của chị vì có chuyện cần, chị hai Thu
đã luống cuống tay chân, buông luôn cái thau đựng cơm nguội xuống sân
nhà.
Chị không kịp cám ơn người đàn bà tốt bụng mà vội chạy vào lấy cái nón
lá và lên tiếng gọi ông chồng mình đang lui cui sau vườn.
Tay chị run rẩy đến nổi không thay nổi cái áo bà ba nên chị mặc nó tròng đôi vào cái áo đang bận.
Chị lập cập không giấu được vẻ hồi hộp của mình khi ngồi lên chiếc xe do chồng mình nổ máy chờ sẳn chạy vội ra chợ.
Ở quán cafe mọi người không dấu được ánh mắt tò mò trước hai vị khách ngoại quốc đang ngồi chờ như ngóng trông ai đó.
Xe ngừng trước quán chị Thu bươn bả đi vào, đám đông khẽ nhích ra nhường lối cho chị .
Nãy giờ đi ngoài trời chói nắng nên chị lột vội cái nón lá quẳng vô góc để nhìn cho rõ, Peter cũng vội vã đứng lên .
Không cần phải nói hay hỏi han điều gì chỉ cần nhìn mặt Peter chị Thu đã
biết đó chính là em trai của mình bởi Peter giống cha anh ta John Simth
thuở xưa như tạc .
Chị Thu khóc ngất nói trong tiếng nấc:
-Em ơi ....Phú ơi ....
Cơn xúc động dâng lên cao độ khiến chị Thu loạng choạng như muốn ngất.
Peter vội đỡ lấy chị mình dìu chị ngồi xuống ghế anh ta cũng khóc khi
nhìn gương mặt của chị Thu với những đường nét của mẹ mình ngày xưa.
Nhoài người tới ôm lấy người chị của mình Peter lắp bắp bằng một thứ tiếng Việt ngọng nghịu :
-Chị ... chị Hai ... Phú nè ...chị chị Hai …
Tiếng chị Thu miếu máo ngắt quãng từng chập :
-Mẹ mong chờ mấy em biết bao nhiêu... hu..hu ...mẹ mất rồi em ơi.
Trong khi Jessica vợ của Peter nhẹ đưa cánh tay vỗ vỗ lên lưng chồng
mình như sẻ chia dù cô không hiểu chuyện gì đang xảy ra cũng như người
đàn bà kia nói gì .
Thì chồng chị hai Thu biết rõ câu chuyện hơn do vợ mình thường kể nên anh cố giấu đi vẻ xúc động bằng cách nói như phân bua:
-Em của vợ tui, chị em ruột ấy thất lạc mấy chục năm rồi không tin tức chi hết.
Nhìn thấy một ông ngoại quốc cao lớn nắm chặt tay một người đàn bà Việt Nam mãnh mai miệng chỉ lắp bắp được vài chữ
''chị ơi..''.
Một số người trong quán hôm ấy khẽ lén lau đi giọt nước mắt vừa ứa ra.
*****
Một buổi tối của hai tháng sau.
Nhà chị Thu đèn đuốt mở sáng choang nhiều người đi tới đi lui. Mấy bà
chị thì nhỏ to dưới bếp bên cạnh nồi cháo gà và vài món ăn nhẹ .
Họ lo không biết những ông bà người Mỹ ở nhà trên có ăn được những món
ăn Việt Nam không và nêm niếm như vậy có vừa khẩu vị của họ chưa.
Vài người trẻ trong xóm ngồi ngoài mấy cái ghế tre trước hiên của nhà chị Thu.
Đôi ba ông cụ bà cụ lớn tuổi một chút ngồi trong phòng khách cùng chị hai Thu, Peter, Mary và Ann.
Họ tới mừng cho chị khi nghe được tin chị em trùng phùng sau bao năm và tò mò chờ nghe câu truyện có phần hơi ly kỳ của họ.
Bốn chị em của chị Thu ngồi trên bộ di văng nói chuyện với nhau.
Mary còn nói được chút ít tiếng Việt, Peter và thì nhớ được một vài câu xã giao ngọng nghịu.
Riêng Ann thì không nhớ một câu nào, cả ba người họ phải nói qua người phiên dịch đang ngồi trên cái ghế nhỏ cạnh đó.
Chị Hai Thu đưa khăn lên lau nước mắt khi nghe Peter kể sau khi ba chết họ về sống cùng ông bà ở nơi mới.
Đi học Peter hay bị bọn trẻ chọc ghẹo kỳ thị vì là con lai.
Khiến cậu ta đánh nhau đến nổi chút nữa thì bị đuổi học.
Chị lại cười khi Mary nói lúc về Mỹ muốn ăn trứng ấp thảo với cháo trắng
như ngày xưa mẹ nấu ở Việt Nam nhưng đành chịu vì không biết cái trứng
đó tên là gì.
Bao nhiêu năm Mary luôn cảm thấy tủi thân và không vui khi ai đó hỏi về nguồn cội bởi Mary không biết trả lời họ ra sau.
Ra vẻ ái ngại Ann nhìn họ rồi khẽ nói, qua người thông dịch rằng :
''Lúc đầu khi nhìn những tấm ảnh cũ ố vàng ngày xưa và nghe anh Peter thông báo tìm được chị và nhắn thu xếp về gặp nhau .
Cô được một vài người khuyên nên cẩn thận để tránh sự nhầm lẩn thậm chí biết đâu chừng đó là sự giả trá, lường gạt.
Vì khi đi cô là người nhỏ tuổi nhất rồi sống ở môi trường không có người
Việt nên ký ức về chị trong cô không còn được rõ nét như hai anh chị
mình.
Nên cô thật sự có phần dè dặt, không tin lắm nhưng trên đường về đây khi
ghé qua quán ăn tạm ở dọc đường, chị hai Thu đã ngăn cô lại khi cô định
ăn một bát súp.
Chị ấy nói rằng súp đó được nấu bằng tôm mà chị biết rõ Ann từ nhỏ đã dị
ứng với đồ biển. Rồi chị nhờ người thông dịch hỏi giúp chị vết sẹo trên
đùi Ann có biến mất theo thời gian không hay là to hơn.
Ann cố ý hỏi vặn lại vết sẹo gì ?
Chị Hai Thu nói ngày trước Ann từng bị té vào chậu hoa sau vườn nhà nên
đùi có một vết thẹo khá dài , chính chị đã băng lại giúp cô.
Ann đưa khăn giấy chậm nước mắt bằng vẻ bối rối, xúc động cô ngỏ lời xin lỗi chị mình vì những nghi ngờ trước đó.
Bởi bây giờ cô đã tin chị thật sự là chị Hai của cô ngày xưa.
Ann hứa với chị khi về Mỹ sẽ cố gắng học thêm ít tiếng Việt để có thể trực tiếp nói chuyện với chị mà không cần phiên dịch.''
*****
Sáng hôm sau khi tia nắng bình minh vừa hiện ra ở chân trời , gió dìu dịu mùi sương sớm.
Trước ngôi mộ của dì Ba Thơm nơi phần đất hương hỏa giữa đồng.
Bốn mái đầu rấm rức khóc và cuối lặng thật lâu .
Trong mùi hương trầm và những bó hoa thơm lan tỏa lãng bãng, tiếng chị hai Thu nghèn nghẹn khấn :
-Má ...con dẫn mấy em đến thăm má. Xin má linh thiêng phù hộ độ trị cho chị em con và xin má an lòng yên nghỉ.
Một ngày cuối chiều ở sân bay, khi tiếng loa thông báo nhắc nhở tên ba
vị khách còn lại của chuyến bay về Mỹ nhanh chóng ra cửa khởi hành.
Vòng tay của chị em họ lại vội vã ôm lấy nhau giữa khóc - cười họ hứa sẽ
quay lại sớm vào một ngày nào đó cùng gia đình của mình.
Mary vội nói cùng chị bằng cái âm chưa chuẩn và quơ tay như minh họa cho lời nói:
-Em biết Việt Nam gọi ngày chết là đám giỗ rồi.
Đám giỗ má vào mùng 9 sau tết Việt Nam.
Tụi em sẽ về vào ngày đó hằng năm .
Chị Hai yên tâm giữ sức khoẻ .
Mắt chị Hai Thu vẫn còn đỏ và đầy nước nhưng miệng chị cười tươi .
Chị đưa cánh tay lên lưu luyến vẩy theo dáng những đứa em của mình đang khuất dần sau cánh cửa kiếng .
Có một dịp tình cờ nào đó sau tết âm lịch trong cái không khí hãy còn Xuân .
Bạn chợt ngang qua một thị trấn nhỏ xinh đẹp thuộc một tỉnh miền Tây đồng bằng sông Cửu Long .
Đi tới cái xóm nhỏ mà địa danh ngày xưa gọi là Xẻo Bần vô tình bạn nhìn
thấy một nhóm người trên đường làng hay trong cái quán Phở ở chợ .
Nhóm người đó trung niên có, trẻ có, tây ta lẫn lộn .
Đôi khi cô gái trẻ tóc vàng mắt xanh cao lớn đang cố trọ trẹ học câu tiếng việt từ một cô Việt Nam cũng còn khá trẻ .
Rồi cũng có lắm lúc cô gái Việt Nam nói những câu Anh Ngữ để giải thích sự việc gì đó cho cô gái kia .
Thỉnh thoảng hai người trung niên lại nói tiếng Việt bằng một âm điệu chưa chuẩn lắm làm bà chị của họ bật cười.
Bạn đừng lấy làm ngạc nhiên bởi đó chính là đại gia đình của chị em họ và con cái thuộc thế hệ kế .
Những người họ khác biệt nhau về ngôn ngữ, chủng tộc, tập quán và ở cách xa nhau nửa quả địa cầu, hàng chục giờ bay .
Nhưng họ có chung một thứ, đó chính là dòng máu chảy trong huyết quản
của họ có sự hiện diện của cái gọi là Ruột Thịt Tình Thâm .
Cuối cùng thì tất cả các dòng sông đều trở về biển như một quy luật muôn đời ....
Song Nhi Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 14/Feb/2015 lúc 8:54am |
|||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||||
![]() |
|||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23786 |
![]() ![]() ![]() |
||||
Đá Mòn Nhưng Dạ Chẳng Mòn![]()
Vợ chồng tôi dọn về ở trong cái làng nhỏ này đã hơn ba tháng. Mấy đứa con của chúng tôi nói : Ba má già rồi mà ở trong Paris đâu có tốt. Nội cái không khí ô nhiễm cũng đủ làm cho ba má bịnh lên bịnh xuống hoài. Vậy là chúng nó kiếm mua một cái nhà ở xa Paris . . .
Nhà
có đất chung quanh, có mấy cây pomme, mấy cây cerise. Hồi dọn về là đầu
mùa xuân , mấy cây đó trổ bông màu hường màu trắng đầy cành. Ở mấy nhà
hàng xóm cũng vậy, hoa nở rộ hầu như cùng một lúc, nên trông thật là đẹp
mắt.
Biết
là mùa xuân nhờ hoa nở và chồi non, chớ thật ra thời tiết ở Pháp mấy
năm gần đây đi . . . trật lất. Mùa xuân mà cứ tưởng như mùa thu, cứ mưa
lất phất rồi hết mưa là trời đổ sương mù. Cứ như vậy kéo dài đến bây
giờ, theo trong lịch, là đã đầu mùa hè mà vẫn còn nghe lành lạnh!
Hôm
nay tự nhiên trời bỗng trở nắng. Nắng thật ấm, thật trong. Người ta vội
vã mang đồ ra phơi đầy sân : quần áo, drap, mền . . . Đủ màu sắc, đủ
cỡ, coi vui nhộn như một ngày lễ!
Tôi
cũng thấy phấn khởi, bèn rủ nhà tôi đi chơi một vòng. Bởi vì từ ngày
dọn về đây, ngoại trừ những lúc phải “xẹt” ra tiệm thịt, lò bánh mì,
hàng rau cải v.v. . . chúng tôi cứ ru rú ở trong nhà vì thời tiết xấu.
Nhà tôi không chịu đi, nên tôi đi mình ên . . .
Làng
này tuy nhỏ nhưng ngăn nắp, sạch sẽ. Ở đâu cũng thấy trồng bông : dọc
theo vỉa hè, ở các ngã ba ngã tư, mặt tiền nhà phố . . . Giữa làng là
một nhà thờ nho nhỏ nằm trên một vuông đất cao hơn mặt đường gần một
mét, cũng trồng đầy bông.
Chảy
ngang qua làng là một con suối nhỏ, rộng độ mươi thước, chui dưới cây
cầu đá rối uốn khúc quanh quanh trước khi rời làng xuôi về phía dưới.
Hai bên bờ suối là hai con đường tráng xi-măng chạy dọc theo hai hàng
cây. Rải rác, có mấy băng gỗ đóng thô sơ, nhưng vẫn nằm giữa những lùm
bông đầy màu sắc. Có nơi, không hiểu sao người ta đặt băng gỗ nằm cạnh
bờ nước giống như làm chỗ ngồi cho người đi câu!
Tôi
ngồi xuống một cái băng cạnh bờ nước. Vì không nằm dưới tàn cây nên ở
đó đầy nắng. Tôi đốt điếu thuốc rồi nhìn quanh : chẳng có ai hết. Nhớ
lại, dân trong làng chỉ đổ ra đường vào ngày chủ nhựt, bởi vì ngày đó
nhóm chợ lộ thiên và lại là ngày phải đi Lễ nhà thờ. Còn ngày thường thì
chỉ có mấy ông già bà già đi khệnh khạng trên hè phố hay dọc bờ suối
khi nào trời tốt. Hôm nay, trời tốt đó chớ, nhưng sao chẳng thấy ai đi.
Tự nhiên, tôi cảm thấy bơ vơ lạc lõng . . . Lại nhìn quanh, chỉ thấy xa
dưới kia là gác chuông nhà thờ một mình đứng cao lêu nghêu!
Con
suối không sâu, nước trong nhìn thấy đáy. Dòng nước chảy nhanh nhanh.
Khi gặp mấy tảng đá lớn, nước bắn lên trắng xóa coi thật sinh động, nhìn
không chán.
Lòng suối đầy đá cuội tròn tròn. Cũng có những cục đá to nhưng chẳng có viên đá nào còn góc cạnh. Viên nào cũng nhẵn thín.
Nhìn nước chảy, nhìn đá mòn, tôi bỗng nhớ đến hai câu chót của bài học thuộc lòng thuở nhỏ :
“Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,
Tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ. . .”
Hai
câu thơ đó không có gì hết, vậy mà nó làm tôi ứa nước mắt ! Không phải
nó chỉ nhắc tôi thời thơ ấu, thuở học vui học buồn bằng quyển “Quốc Văn
Giáo Khoa Thư”, mà nó còn nhắc tôi một cái gì sâu đậm hơn là kỷ niệm,
một cái gì to rộng mênh mông hơn là không gian thời gian, một cái gì mà
trong cuộc đời lưu vong này tôi vẫn mang mểnh trong tâm tư, giống như
một chất ma túy: nó nhắc tôi quê hương, cái quê hương xa cách ngàn
trùng!
Tính
ra, tôi bỏ xứ ra đi đã hơn hai mươi bốn năm. Một phần tư thế kỷ! Trôi
nổi đó đây với nhiều âu lo dằn vật, thêm tuổi đời cứ chồng chất mãi lên.
. . nên ký ức bị xói mòn theo năm tháng. Đến nỗi chuyện gì xảy ra hôm
tuần rồi, hôm tháng trước. . . có khi không nhớ! Vậy mà hình ảnh của quê
hương vẫn còn nằm nguyên đâu đó ở trong lòng, với những kỷ niệm vụn vặt
của năm sáu chục năm về trước! Chỉ cần một chất xúc tác là nó bật lên
rõ rệt, không thiếu một chi tiết, làm như mình đang sống trong đó mới
hôm qua hôm kia. . . Tình yêu quê hương sao mà kỳ diệu như vậy được?
Nơi
tôi sanh trưởng cũng là một cái làng nho nhỏ. Nó không ngăn nắp sạch
sẽ, không được trang hoàng bằng những bông hoa đầy màu sắc như ở đây.
Cũng không có con suối nhỏ chảy ngang để hai bờ được nối với nhau bằng
cây cầu đá. . .
Làng
tôi nằm bên tả ngạn một con sông lớn, quá lớn nên thấy cái làng như nhỏ
xíu ! Con sông đó có cái tên chẳng chút gì ‘văn chương’ : sông Vàm Cỏ.
Trong làng chỉ có một con đường tráng nhựa : đó là đường liên tỉnh, cũng
còn được gọi là “con lộ cái” nối xóm trên xóm dưới. Ngoài ra, toàn là
đường đất mà tiền thân của chúng nó là những con đường mòn, nối xóm Nhà
Máy, xóm Lò Heo qua xóm Lò Gạch, xóm Chùa … Cho nên những con đường
trong làng đều chạy cong cong quanh quanh!
Làng
tôi cũng có chợ nhà lồng, ngày nào cũng nhóm, nhưng chỉ nhóm có buổi
sáng. Nằm cạnh chợ là “Nhà Việc”, nơi . . . làm việc của những “nhà chức
trách” trong làng. Xế xế về phía con lộ cái là trường tiểu học với hàng
rào cây bông bụp, lá xanh um láng mướt.
Làng
tôi không có nhà thờ nhưng có một ‘kiểng’ chùa nằm trên một khu đất
cao, có rào tre xanh chung quanh. Hồi tôi còn nhỏ, thấy cũng nằm xa dân
chúng, vắng vẻ u tịch (hồi đó, tôi ít dám đi ngang qua đó một mình vì . .
. sợ ma!) Về sau, dân chúng càng ngày càng đông, nhà cửa cứ xây cất
tiếp nối nhau kéo dài ra hướng chùa, rồi “đi” xa hơn về phía con lộ cái.
Vì vậy, chùa bị lọt trũm giữa khu nhà dân, không còn biệt lập như
trước.
Nhà
cửa trong làng nhỏ lớn gì cũng có hàng rào. Phần nhiều là hàng rào cây
xương rồng và cây bông bụp (cũng gọi là bông lồng đèn) Xương rồng cũng
trổ bông lai rai, hoa trắng nõn nà mỏng manh như lụa, khác hẵn với thân
cây mang đầy gai góc! Còn bông bụp thì cứ nở thè lè đỏ cây. . .
Đó! Làng tôi đó! Quê trân! Chẳng chút màu mè. Vậy mà sao tôi vẫn thương.
.
. .Thương những con đường đất mà hai bên là bờ cỏ may. Đến mùa, cọng cỏ
may đưa bông lên tua tủa tím ngắt, chỉ chực bám đầy ống quần nào bất
chợt đi ngang.
.
. .Thương những đoạn đường quằn, mùa mưa nước ngập phải xăn quần tém áo
để đi qua, trong lúc trẻ con một lũ ở truồng nằm lăn chập chũm, tóe
nước nhau cười vui như hội.
.
. .Thương bờ sông Vàm Cỏ với những cây dừa trồng không thẳng hàng, cũng
không chia đều khoảng cách, giống như “mạnh ai nấy trồng”! Mấy cây dừa
đó, nằm quá gần bờ nước nên rất nhiều cây thiếu đất để giữ gốc, chúng
nằm dài ra phía sông cách mặt nước độ một đôi thước rồi uốn mình đưa
ngọn đứng thẳng lên cao. Vậy mà cũng đơm bông kết trái! Trẻ con thường
trèo lên đó để phóng xuống nước nô đùa lặng hụp, và dân ở dọc bờ sông
hay đem mền chiếu ra vắt lên đó để phơi.
.
. .Thương con đường lên chùa có hai bờ tre xanh lả ngọn giao nhau làm
cho con đường giống như một cái hang mát rượi. Ở đó, mỗi trưa đứng bóng,
những người dọn hàng từ chợ về nhà thường dừng chân núp nắng, và chiều
chiều đường vắng cũng thấy thẫn thơ một cặp gái trai . . .
.
. .Thương cả cây phượng nằm bên bờ đường trước nhà ông Cả. Thân nó to
bằng ba người ôm, gốc rễ lấn luôn ra mặt đường. Ai đi qua cũng phải bước
vòng để tránh! Đó là cây phượng độc nhứt ở trong làng. Không biết ai
trồng và tại sao lại trồng ở đó? Chỉ biết hằng năm vào mùa thi là cây
trổ hoa đỏ trời. Sau đó là hoa rụng đỏ đất.
. . .Và còn thương nhiều thứ nữa, kể biết bao giờ cho hết!
Nhà
tôi ở trong Xóm Mới. Gia đình tôi nghèo. Cha tôi trồng rau cải, mẹ tôi
hằng ngày gánh xôi ra ngồi bán ngoài chợ. Cha mẹ tôi chỉ có hai đứa con
trai : tôi và thằng Cu, nhỏ hơn tôi sáu tuổi. Cha tôi chết bịnh hồi mẹ
tôi sanh thằng Cu . . .
.
. .Nhớ hoài, thời tôi học tiểu học. Sáng nào, sau khi húp tô cháo với
miếng đường thẻ, tôi ôm cặp đựng sách vở mà ông nội tôi làm bằng giấy
dầu để khỏi bị ướt nước mưa, đi theo mẹ tôi ra chợ. Vì phải đem thằng Cu
theo – lúc đó nó được hơn hai tuổi – mẹ để nó ngồi trong một cái thúng,
gióng ở đầu đòn gánh phía trước, còn lá chuối, xôi, nhưn, dừa nạo v.v…
dồn trong một thúng gióng ở đầu sau. Mẹ gánh như vậy mà bước chân đi sai
sải. Đòn gánh nhún lên nhún xuống làm thằng Cu khoái lắm. Lâu lâu, mẹ
đổi vai, đầu đòn gánh nhún xuống hơi sâu và tưng lên hơi cao làm anh ta
cười hắc hắc để lòi bốn cái răng cửa nhỏ xíu. Những lúc đó, anh ta
thuờng gọi tôi để khoe : “Hai ! Hai ! Coi nhè ! Coi nhè!”.
Tôi
học chỉ có buổi sáng. Mẹ tôi bán ở chợ cũng vậy. Trưa, chợ tan sớm hơn
trường học, mẹ gánh thằng Cu đến ngồi đợi tôi dưới cây trứng cá gần cổng
trường. Thấy tôi ra, thằng Cu đứng lên, vừa nhảy tưng tưng trong cái
thúng vừa la : “Hai! Hai!”. Anh ta ở truồng – lúc nào cũng ở truồng –
bên trên bận áo bà ba vải đen của bà nội may cho, đầu đội cái nón hình
chóp bằng lá chuối mẹ xếp rồi ghim bằng cọng chân nhang . . . Mẹ đưa tôi
gói xôi (đã thành lệ, ngày nào mẹ cũng chừa cho tôi một gói) tôi ngồi
xổm cạnh mẹ, vừa ăn vừa đút cho thằng Cu. Ăn xong, tôi chạy qua bên kia
đường xin một gáo nước ở nhà thầy giáo Hiển, rồi mang cho ba mẹ con uống
(vì trong trường chỉ có một lu nước, không đủ cho đám học trò nên thầy
Hiển đặt trước nhà thêm một lu. Vào giờ ra chơi, học trò bu qua đó đông
như kiến.) Uống xong, mẹ gánh thằng Cu bước đi thong thả, tôi lon ton
chạy theo song song . . .
Hồi
đó, vì phải chạy lúp xúp nên có lần tôi nhìn xuống bước chân của mẹ,
coi mẹ đi cách nào mà mình cứ phải chạy theo lúp xúp! Mẹ đâu có bước lẹ,
mẹ bước đều. Mẹ đi chân không, mỗi bước chân của mẹ giậm xuống làm tung
lên một chút bụi đường. Tôi nhìn chỉ thấy có như vậy. Bây giờ, hơn sáu
chục năm sau, ngồi ở trời Tây này, tôi đâu cần nhìn mà sao vẫn thấy được
– thấy rõ – hai bàn chân của mẹ. Hai bàn chân to bề ngang, mấy ngón
chân chè bè không bao giờ xếp lại được. Hai bàn chân xấu xí đó chưa từng
đụng tới đôi giày đôi dép. Hai bàn chân chỉ biết có đôi guốc dong khi
rửa chân đi ngủ, hay khi đi dự dám giổ, đám tang . . . Hai bàn chân đó
đã bám lấy đất để đứng vững một mình nuôi hai thằng con, hỏi sao không
chè bè cục mịch cho được?
Tôi
bồi hồi nhớ lại lần tôi lau rửa đôi bàn chân của mẹ. Đó là hồi mẹ tôi
mất sau một thời gian dài nằm bịnh ở nhà thương (Mẹ ngã bịnh từ ngày hay
tin thằng Cu chết trận ở Đắc Lắc…) Tôi lau chân mẹ lần đó là lần đầu và
dĩ nhiên cũng là lần cuối cùng. Tôi lau gót chân nứt nẻ. Tôi lau lòng
bàn chân chai mòn. Tôi lau những ngón chân tròn cứng như những hòn sỏi.
Tôi lau chân mẹ bằng suối nước mắt và bằng tất cả sự thận trọng như khi
lau một món đồ thật là trân quí…
Tôi
đốt điếu thuốc, thở một hơi khói dài. Lại nhớ hồi học lớp nhứt, có hôm
tôi bắt chước bạn bè lén hút thuốc. Mẹ tôi thấy được, lôi tôi vào nhà
bắt đứng khoanh tay để “hỏi tội”: “Hai ! Ai cho mầy hút thuốc, hả? Ai
dạy mầy hút thuốc, hả? Mầy bắt chước ai, nói tao nghe coi? Mới có bây
lớn đó mà bày đặt hút thuốc!”. Rồi mẹ chụp cây chổi chà dựng gần đó:
“Tao phải đánh mầy cho mầy chừa.” Mẹ vừa nói “Chừa nè!” vừa đập cây chổi
lên đít tôi thật mạnh. Cứ mỗi một câu “Chừa nè!” là một phát chổi. Mẹ
đánh một lúc rồi liệng cây chổi, trèo lên bộ ván, ngồi co chân, rút cái
khăn rằn đấp lên mặt khóc. Tôi đứng chết điếng, nghe mồ hôi chảy dài
theo xương sống, không thấy đau ở đít mà đau ở đâu trong lòng. Bởi vì đó
là lần đầu tiên tôi làm cho mẹ tôi khóc. Tôi mếu máo, rặn ra mấy tiếng :
“Dạ . . . con xin chừa . . . “
Vậy
mà lớn lên, khi ra đời, tôi đã . . . không chừa! Tôi tập tành hút thuốc
hồi tôi đi lính, bởi vì “ở tiền đồn trời khuya đêm lạnh, ta chia nhau
điếu thuốc ấm lòng”. . . Mỗi lần về phép, chẳng bao giờ tôi dám hút ở
nhà vì trận đòn chổi chà thuở nhỏ vẫn còn đeo theo ám ảnh! Tôi hút ngoài
đường . . .
Một
hôm, đang đứng hút thuốc với mấy thằng bạn cùng xóm, bất thần mẹ tôi đi
qua. Tôi vội vã liệng điếu thuốc xuống đất. Mẹ tôi dừng lại, mỉm cười :
“Mầy làm cái gì vậy, Hai? Mầy lớn rồi chớ bộ còn con nít sao. Bây giờ,
mầy có hút thuốc, tao cũng đâu có bắt mầy chừa!” Rồi bỏ đi một nước!
Mẹ
tôi như vậy đó. Quê mùa mộc mạc như làng của tôi, vậy mà tôi vẫn
thương. Tôi thương, đâu cần mẹ tôi phải đẹp, quê hương tôi phải sang.
Tôi thương, vì tất cả đều gắn liền với tôi từ thuở tôi ra chào đời. Tôi
đã quen thở, quen sống trong vòng tay của mẹ, giữa lòng quê hương; đã
lớn lên trong cái thật thà chân chất đó. Cho nên hình ảnh của mẹ, của
quê hương đã ghi sâu vào lòng tôi đến độ khi thiếu vắng, tôi thương tôi
nhớ. Và tình thương đó vẫn chưa thấy mòn, mặc dầu bây giờ tôi đã ngoài
bảy mươi . . .
* * *
Mặt
trời đã lên cao. Thấy có vài người hứng nắng bên bờ suối. Tôi đứng lên
đi về nhà mà miên man nghĩ: “Những hình ảnh mà mình vừa gợi lại khi nãy
sao mà dễ thương như vậy. Mình phải viết ra để cho nó có chỗ đứng bên
ngoài ký ức, cho các con các cháu của mình thấy và hiểu tại sao hơn hai
mươi bốn năm sống trên đất Pháp, cha và ông của chúng nó không nói
‘thương nước Pháp’ mà cứ nhắc hoài người mẹ đi chân đất và cái làng quê
mùa không có đến hai con đường tráng nhựa!”
Vào
nhà, tôi đi thẳng lại bàn viết. Vợ tôi chắc đang nấu bếp nên nghe phất
ra thơm phức mùi thịt kho tiêu. Tôi lấy xấp giấy trắng, không cần đốt
điếu thuốc, không cần hớp mấy ngụm nước trà để trợ hứng. Bởi vì cái hứng
đang ở ngay trong tôi, căng đầy . . .
Tôi cầm bút nắn nót viết cái tựa bằng chữ hoa: “ĐÁ MÒN NHƯNG DẠ CHẲNG MÒN”...
Tiểu Tử
|
|||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||||
![]() |
|||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
||||
Người Chiến Sĩ Vô Danh |
Đôi Bờ Sông Nhớ
<< phần trước Trang of 159 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |