Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình
Message Icon Chủ đề: NHÓM 12 YÊU THƯƠNG Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 158 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23734
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Mar/2015 lúc 12:30pm
Một Chuyện Tình




1/- Chiếc Boing của Hãng Hàng không Pháp nhẹ nhàng hạ dần cao độ, bên khung cửa kính trong khoang giữa một người đàn ông khoảng 30 tuổi đang dõi mắt nhìn xuống bên dưới, Thành phố gần trưa dưới ánh nắng chói chang của mùa hè, cũng vẫn những cao ốc như xưa nhưng dáng vẻ thật là cũ kỹ và lọt thỏm bên dưới là những khu lao động với những mái nhà nhấp nhô cao thấp, những mái nhà loang lổ rỉ sét trông thật nhếch nhác hầu như bao năm rồi không được tu bổ làm lòng chàng trũng xuống cùng những nỗi lo âu, khắc khoải càng lúc càng hiện về đầy ắp trong tâm hồn chàng.


image

Biến động mùa xuân 75 đã xo đẩy hàng vạn người trong đó có gia đình chàng vào cuộc viễn du bất đắc dĩ, ngày ấy chàng đang theo học lớp cuối của bậc Trung học; Trong lớp 12 A ấy có một người con gái mà sau nhiều năm cùng học chung lớp, chung trường hai người đã yêu nhau và những câu hẹn hò thề non hẹn biển đã theo chàng suốt 12 năm nay cho dù người góc bể, kẻ chân mây nhưng trong lòng chàng vẫn là hình bóng người con gái ấy.

Tan%20Son%20Nhat%20International%20Airport%203


Sau 12 năm kể từ ngày ấy, chàng đã viết biết bao nhiêu lá thư nhưng chẳng có hồi âm, bóng nàng vẫn biệt vô tăm tích; Sau 12 năm ấy thế gian này cũng có nhiều thay đổi, lác đác cũng đã có người về thăm lại quê hương, và sau nhiều đêm trăn trở chàng cũng quyết định trở về tìm lại người xưa, cho dù có xảy ra chuyện gì chăng nữa, ngày tiễn chàng ra phi trường người mẹ già đã dặn đi dặn lại chàng :

seatbelt%20airplane








- Con về phải cẩn thận, mẹ đã biết ý con cương quyết về tìm nó, mẹ cũng không ngăn cản, con phải cố gắng tìm, theo mẹ nghĩ chắc gia đình nó có chuyện gì đó chứ nó mẹ rất tin tưởng, ngay ngày đầu tiên gặp nó mẹ đã đem lòng yêu thương nó rồi..... Đang miên man suy nghĩ, chàng bỗng giật mình vì có một bàn tay đang vỗ nhẹ lên vai chàng, quay nhìn lại thì ra người nữ tiếp viên hàng không đang nhăc chàng thắt lại dây an toàn vì phi cơ đang hạ cánh.


xXx


Lao%20đao%20vì%20Sài%20Gòn%20sáng%20nắng,%20chiều%20mưa

2/- Lối vào con hẻm nhỏ sau cơn mưa đường rất lầy lội, chàng chậm rãi đi sâu vào con hẻm, cảnh vật vẫn như xưa nhưng tất cả đều như ảm đạm tiêu điều, lác đác mới có vài đứa trẻ nghịch nước bên hàng hiên nhà nhìn chàng bằng ánh mắt lơ đễnh, đang đi chợt chàng nhìn thấy một người đàn ông chạy một chiêc xe Honda từ trong hẻm phóng ra, đã 12 năm trôi qua nên chàng ngờ ngợ nhưng chàng vẫn vội gọi :


- Anh Khánh có phải không?
Người đàn ông nghe tiếng gọi vội dừng xe và quay trở lại, ông nhìn chàng từ đầu đến chân
- Anh Khánh, em là Dũng đây, Dũng "gầy" ngày xưa đó, chàng vội lên tiếng
Người đàn ông chống vội chiếc xe ào đến ôm lấy chàng :
- Dũng đó ư, 12 năm rồi anh không còn nhận ra em, em bây giờ ở đâu, làm gì?
- Thôi về nhà anh nói chuyện Ông leo lên yên chiếc xe đạp máy nói vọng lại
- Em lên đây anh chở về


xXx

3/- Lời kể của anh Khánh :
Từ ngày đó biệt tin em, qua năm sau gia đình Lệ đi vùng kinh tế mới, anh nghe nói đâu vùng Sông Bé nhưng không biết ở chỗ nào, gia đình anh quyết định bám trụ không đi, bây giờ anh làm nghề lái xe ôm cũng sống qua ngày

xXx






4/- Đã ba tuấn qua, nhờ anh Khánh lái xe đưa đi, Dũng đã đi tìm Lệ khắp nơi từ Bù Đăng, Bù Đốp, Bù Gia Mập với các khu kinh tế mới Tân Long, Tân Minh, Tân Hạ v.v... nhưng bóng nàng vẫn biền biệt, ngày trở lại Hoa Kỳ cũng sắp đến, lòng chàng rối bời nhưng được sự đồng cảm của anh Khánh nên chàng cũng tạm khuây khoả và biết ơn anh rất nhiều vì anh không quản ngại đón đưa chàng, hôm nay anh cho chàng biết trong vùng này còn một khu kinh tế nữa nhưng nó nằm rất sâu trong rừng, đang buồn nghe nói tới đó lòng chàng lại dâng lên niềm hy vọng, Đường vào rừng càng sâu càng khó đi, những còn đường bị những chiếc xe vận tải cày nát nên chiếc xe gắn máy phải chạy rất chậm và khi đến nơi bầu trời cũng đã về chiều, anh Khánh lái xe ôm cho xe chạy đến những nhà gần đó hỏi thăm sau cùng có một người dân cho biết :

- Tui cũng không chắc lắm, hai người cứ đi hết con đường này đến một ngã tư xe be quẹo trái khoảng nửa cây số là tới.


xXx



%5b​IMG%5d

5/- Một mái nhà tranh bạc thếch ẩn hiện sau dàn bầu, bí, khi anh Khánh và chàng đến nơi thi trời cũng sâm sẩm tối, anh Khánh dừng xe trước cổng để chàng bước vào
- Có ai ở nhà không? cho tôi hỏi thăm
- Ai đó, có tiếng một người đàn bà trong nhà hỏi vọng ra
- Thưa bác cho cháu hỏi thăm, có phải nhà cô Lệ ở đây phải không thưa bác?
Trong nhà bước ra một người đàn bà ăn mặc lam lũ, bà ngước nhìn chàng trong thoáng chốc, bà nhíu trán cố nhớ xem là ai nhung chưa thể nhớ ra
Chàng vội lên tiếng
- Thưa bác cháu là Dũng, ngày xưa cùng học với Lệ, có phải bác là Bà Đức Thành không?
Người đàn bà đưa hai tay ra phía trước chụp lấy đôi vai của chàng miệng reo lên :
- Bác nhớ ra rồi, Dũng, Lạy trời! bây giờ mới gặp lại con, 12 năm rồi còn gì, Lệ ơi!


xXx

Hình%20ảnh%20Thú%20vị%20đi%20“săn”%20chim%20trời%20ở%20Pháp%20số%2011

Phần cuối :

Trên chiếc băng ghế đan bằng những cây tre được đập dập kê dưới dàn mướp có hai mái đầu đang chụm vào nhau, không ai biết họ đang nói những gì sau 12 năm xa cách, chỉ nghe tiếng gió thổi xôn xao và ánh sáng lấp lánh của ánh trăng soi len qua những kẽ lá rọi đến chỗ hai người với những tia sáng vàng trông giống như con suối mùa xuân đang êm đềm trôi trong màn đêm hạnh phúc .


bienchet


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 21/Mar/2015 lúc 2:17pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23734
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 26/Mar/2015 lúc 9:52pm

ANH LÀ ÁNG MÂY TRÔI

Tại%20sao%20người%20Việt%20thích%20trưng%20Mai,%20Đào%20dịp%20Tết?

Những cây đào trong vườn nhà tôi bắt đầu nở hoa, rung rinh trong nắng ấm. Màu trắng, hồng, đỏ làm cho khu vườn trở nên rực rỡ, tươi thắm hơn, nhưng cảnh sắc đó không làm tâm tư tôi thoải mái, vui vẻ. Tôi thơ thẩn dưới hàng đào ngắm từng cây, từng nhánh, hồn dâng lên một niềm bâng khuâng cảm xúc. Mùa xuân đã về rồi, xuân nầy nữa là đúng 47 năm (1968 - 2015) khoảng thời gian dài hơn nửa đời người mà sao tôi cứ ngỡ như một thoáng qua, kỷ niệm ngày ấy như vẫn còn hiện rõ trong vùng ký ức. Tôi thở dài, ngước nhìn lên bầu trời xanh thẳm, những đám mây trắng lờ lững trôi về một phương nào xa xôi vô định. Tôi chợt thấy buồn, chợt nhớ về anh, nghĩ về anh… tôi muốn quay về khoảng thời gian đó, về nơi chốn đó, về lứa tuổi đó. Ôi! Một thuở nào để thương, để yêu và một đời nhung nhớ…
* * *




Mùa Xuân năm Mậu Thân 1968 gia đình tôi về quê ngoại ở Vĩnh Long để ăn Tết, và ngày 28 Tết là chúng tôi đã có mặt tại nhà của ngoại rồi.



Có%20những%20bến%20đò%20phải%20nằm%20nghỉ%20vì%20nước%20rút%20sâu%20không%20có%20bãi%20lên

Nhà ngoại tôi nằm trong khu phố chợ của một quân lỵ, một phía của chợ sát mặt Quốc lộ 4, ba mặt kia toàn là sông nước. Đêm 30 Tết gia đình chúng tôi quây quần ăn uống và đón giao thừa với nhau thật vui vẻ.Trong khoảnh khắc nầy, giữa giờ trừ tịch tôi cảm thấy thời gian như ngừng lại, không thấy có dấu hiệu gì của chiến tranh cả.


Pháo%20BM21%20khai%20hỏa.

Rạng sáng mùng 1 Tết trong lúc mọi người chưa tỉnh giấc thì bỗng đâu từ tứ phía súng đạn nổ vang rền và nhiều tiếng la hét rợn người, hỗn loạn. Tiếng súng lớn, súng nhỏ nổ liên hồi và miểng đạn rớt rào rào trên mái nhà, trước sân nhà… mọi người kinh hoàng tỉnh ngủ kéo nhau vào hầm trú ẩn. Tôi không biết phân biệt được tiếng súng nào là của quân đội ta, tiếng súng nào của bên kia.


Trong%20thời%20gian%20ngắn%20các%20xe%20tăng%20tiêu%20diệt%203%20lô%20cốt%20đầu%20cầu%20và%20một%20mục%20tiêu%20xe%20thiết%20giáp.

Khoảng 4-5 tiếng đồng hồ sau trời đã sáng tỏ, khi nghe tiếng nổ ít hơn một chút ông ngoại tôi mở hé cửa nhìn ra thì thấy từ ba phía mặt sông, cờ của VC treo rải rác đó đây và nhiều toán người mặc đồ đen, đồ xanh lố nhố bên kia sông. Phía bên nầy chiến sĩ của ta cũng trang bị súng ống đầy đủ sẵn sàng chiến đấu, bên kia bắn qua, bên nầy trả lại. Lần đầu tiên trong đời tôi sống kề cận với mặt trận, nghe đạn réo súng nổ và chứng kiến tận mắt nỗi kinh hoàng của chiến tranh qua những xác người lính của hai phía, trên hai bờ sông. Trận chiến cứ kéo dài như thế. VC mở nhiều đợt tấn công hòng chiếm Chi Khu. Quân đội ta quyết tâm giữ vững tuyến phòng thủ, bảo vệ vòng đai Chi Khu và khu chợ. Rải rác đó đây xác của lính bên kia bỏ lại sau những đợt tấn công bị thất bại. Khoảng giữa trưa tôi nghe có tiếng xe lạ, lén nhìn ra thấy mấy chiếc xe Thiết Giáp đang chạy tới, lui trên Quốc lộ và hình như quân đội ta có vẻ đông đảo hơn. Ông ngoại tôi vui mừng loan tin cho cả nhà hay là có lực lượng tăng viện của ta đến rồi. Thật đúng lúc, nếu không, với số binh lính ít ỏi của Chi Khu làm sao chống cự được một lực lượng địch quân đông đảo như thế.


Buổi chiều mùng 2 Tết, súng từ bên kia sông bắn sang ít hơn, ngoại tôi gan dạ mở cửa bước ra ngoài và gặp được một anh sĩ quan trẻ mặc áo giáp, mang súng ngắn bước tới chào ngoại tôi. Ngoại mời anh vào nhà uống cà phê, ngoại còn bảo tôi pha một bình cà phê lớn và đưa vài cái ly ra mời mấy anh lính đang đóng ngoài kia uống vì suốt đêm các anh đã không được ngủ, phải cố thủ, canh gác ngăn ngừa đối phương vượt sông qua. Anh sĩ quan trẻ đó nói cho ngoại tôi biết là sáng ngày hôm qua VC đã làm một cuộc tổng tấn công trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà chớ không riêng gì nơi đây. Theo anh chắc sẽ không được tiếp viện hay yểm trợ gì nữa vì những lực lượng quân đội nồng cốt của ta phải về bảo vệ hoặc giải vây cho Sàigòn và các thành phố lớn. Do đó những cứ điểm nhỏ như nơi đây chắc phải tự lo liệu lấy, cũng còn may mắn một chút vì đơn vị của anh được điều động đến đây kịp lúc.

Tôi được biết anh sĩ quan đó tên Nguyên vì bảng tên trên áo, anh cho biết, theo tin tức vừa được báo cáo là hiện giờ chỗ nầy đã bị cô lập, hai ngã đường một về tỉnh Vĩnh Long, một về tỉnh Cần Thơ đã bị gián đoạn vì VC đã chiếm đóng, ba mặt sông kia cũng đều là người của họ.


Ngày mùng 4 Tết anh Nguyên đến cho ngoại tôi biết, anh em binh sĩ không còn lương thực, phía bên Chi Khu cũng không có khả năng cung cấp lương thực cho lính của anh nên anh nhờ ngoại tôi xin dân chúng giúp đỡ. Rất may mắn, dù thức ăn của ngày Tết đã hết nhưng ở đây là vùng quê của miền Nam nên nhà nào cũng có sẵn 1 hoặc 2 bao gạo trong nhà. Khi tin tức nầy được truyền ra, dân chúng trong các khu phố chợ kẻ nấu cơm, người nấu cháo, mang bánh, nước ra ủng hộ, chia xẻ với các chiến sĩ, chính lúc nầy mới thấy được tình quân dân cá nước, thật thắm thiết và cảm động.Và cũng có một chuyện thật khó quên trong đời tôi được chứng kiến, đó là ông chủ lò “ấp vịt con” ở đối diện với nhà ngoại tôi đã đem cả lò trứng vịt ra phân phát cho bà con và ủy lạo các anh chiến sĩ. Ông cho biết, trước Tết ông đã mua vào năm mươi ngàn ( 50.000) trứng vịt tươi để cho vào lò ấp thành vịt con bán cho nông dân sau Tết, nhưng trước tình thế quân dân thiếu lương thực ông mang ra cho tất cả, gia đình tôi cũng có phần. Tôi không thể nào quên hoàn cảnh lúc đó, ngày nào cũng ăn trứng vịt, nhà nào cũng ăn trứng vịt, ai ai cũng ăn trứng vịt. Lúc đầu còn được ăn trứng vịt tươi, từ từ trứng đổi màu rồi thành trứng có con ( trứng vịt lộn), ban đầu con nhỏ sau thì con lớn hơn nhưng cũng phải ăn vì đâu có chợ. Mấy năm sau đó mỗi lần thấy trứng vịt là tôi ngán vô cùng.

Những ngày quân dân chúng tôi bị bao vây ở cái quận lỵ xa xôi đó, anh Nguyên thường ghé qua nhà tôi, có khi uống cà phê với ngoại, khi thì ăn cơm với gia đình tôi. Tôi dần dần quen anh, anh cứ gọi tôi là cô bé, tôi đã18 tuổi rồi, bé gì mà bé chứ! Anh nói anh đã 25 tuổi, thì ra anh lớn hơn tôi tới 7 tuổi, hèn nào cứ chê mình là bé con.

Tôi rất nể phục anh từ phong cách chỉ huy lính tráng, từ sự lo lắng quan tâm cho đồng đội, từ bổn phận và trách nhiệm của anh đối với dân chúng trong giai đoạn sống còn nầy, có lẽ quân trường đã rèn luyện cho anh thành một người chỉ huy giỏi, xuất sắc. Anh nói với ngoại tôi rằng anh xuất thân từ trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, tôi cũng có hai người anh họ học ở trường đó nên ngoại tôi càng mến anh hơn và coi anh như con cháu trong nhà. Bên cạnh sự cứng rắn, nghiêm chỉnh anh cũng có nhiều tình cảm, thân thiết, dễ mến. Tôi đã từng nhìn thấy anh rơi nước mắt, trông thật đau đớn xót xa trước thi thể người lính bị tử thương. Tôi rất cảm kích anh và xem anh như người thân thiết trong gia đình.
Có một ngày anh đã hỏi tôi:

-Cô bé học tới đâu rồi?

Tôi tức giận vì câu hỏi ra vẻ kẻ cả của anh nên trả lời:

-Mới học lớp Ba trường Tiểu Học, vừa mới biết đọc, biết viết…thư tình thôi.

Anh thản nhiên trước thái độ của tôi:

-Giận rồi phải không? Anh hỏi vậy có xúc phạm gì tới cô bé đâu mà giận dữ thế?

Tôi sừng sộ trả lời:

-Tết nầy tôi đã 18 tuổi rồi, anh nghĩ tôi đang học lớp mấy? Không thông minh chút nào cả.

Anh mỉm cười:

-Thôi huề nhé! Không ngờ cô bé cũng chanh chua gớm.

Tôi đâu chịu thua:

- Chanh chua như vậy mới xứng với anh chứ.

Anh lắc đầu:

- Anh chịu thua cô rồi, cô Thảo Chi ạ!

Tôi ngạc nhiên vì trong nhà có ai kêu tên tôi đâu, ở nhà tên tôi là “Mít Ướt” vì tôi rất dễ khóc:

- Anh biết tên tôi từ lúc nào vậy?

- Biết lâu rồi, anh hỏi ngoại em vì anh biết “ Mít Ướt” đâu phải là tên thật của em.

Tôi cười:

- Coi như anh cũng thông minh.

- Giờ chịu cười rồi phải không? Không giận nữa chứ?

Tôi nhún vai nhìn anh, không trả lời.
Liên tiếp mấy ngày sau đó không thấy anh ghé qua nhà, nghe nói anh dẫn lính đi tấn công với một toán VC vừa đột nhập qua sông, rồi không biết anh đã đi đâu mất dạng. Tôi chợt nhớ ra anh chưa từng hỏi địa chỉ nhà tôi cũng như tôi không biết địa chỉ KBC của anh, nếu không còn gặp mặt hoặc mất liên lạc với anh thì buồn biết mấy! Tôi thấy mình thật vô duyên, đáng ghét, người ta là cái gì, đã hứa hẹn gì với mình đâu mà quan tâm đến người ta nhiều như vậy? Mình chẳng qua là cô bé trong mắt anh ta thôi, chắc chắn anh ta đã có người yêu rồi, 25 tuổi lại là một sĩ quan can trường, oai dũng làm gì trái tim còn trống vắng? Nhưng tôi đã thầm thích anh, thầm cảm mến anh, mỗi ngày tôi đều pha cà phê cho anh uống, nấu cơm cho anh ăn, đôi khi cãi cọ, móc mỏ nhau như chỗ thân tình. Hình ảnh người chiến sĩ kiêu dũng, hào hùng đó ẩn hiện trong tâm hồn tôi, tôi không thể nào phủ nhận được.

Hai ngày sau, qua các đài phát thanh tôi được biết quân đội ta đã đẩy lui địch quân và làm chủ tình hình trên toàn lãnh thổ trở lại. Dân chúng vui mừng, hò reo vì đất nước vừa thoát qua đại nạn. Quốc lộ trước nhà ngoại tôi đã được khai thông, xe cộ chạy qua lại bình thường như cũ.

Chiều hôm ấy tôi mừng rỡ khi thấy anh quay về một mình với chiếc xe Honda mượn của ai đó. Anh hấp tấp bước vào nhà từ giã ngoại tôi và gia đình. Tôi muốn nói chuyện và hỏi thăm anh vài điều nhưng anh không có thì giờ, anh nhìn tôi bằng ánh mắt dịu dàng, lưu luyến:

- Anh được lệnh phải chuyển quân đi gấp, không có thì giờ trò chuyện cùng Chi, anh có nhiều điều muốn nói với em lắm. Chi cho anh địa chỉ nhà em để anh viết thư hoặc có dịp sẽ ghé thăm em.

Tôi viết vội địa chỉ trao cho anh:

-Anh đi gấp lắm sao?

-Ừ, anh phải đi liền đây, sẽ có dịp gặp lại em mà.

Anh đưa tay tát nhẹ vào má tôi rồi vội vàng ra cửa leo lên xe phóng thật nhanh. Tôi đứng nhìn theo đến khi mất hút bóng xe, lòng buồn man mác. Biết có còn gặp anh nữa không? Biết mình có duyên số gì với nhau không? Những người trai nầy, những người chiến binh ngoài trận tuyến như anh, ai biết được ngày mai? “ Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”.

Tôi đi bộ ra bờ sông, buổi chiều nước dâng cao, loang loáng ánh tà dương, hai bên bờ những cây mai vẫn còn khoe sắc vàng rực rỡ. Tôi ngước nhìn lên bầu trời mênh mông có nhiều mây trắng. Anh cũng như những áng mây kia, cứ đi, đi mãi, sẽ về đâu, dừng lại ở đâu trên suốt dặm đường dài? Có phút giây nào anh muốn quay về chốn cũ, tìm lại dấu giày saut trên lối nhỏ không? Có bao giờ anh nghĩ đến một thứ tình cảm chợt thoáng qua nhẹ nhàng, êm ả và bay theo mây trời vương vấn bước chinh nhân? Có bao giờ anh hiểu được nỗi buồn của một người con gái vừa chợt biết nhớ thương không? Nhưng thôi, em chỉ cầu mong anh luôn khỏe mạnh và hy vọng một ngày nào được gặp lại anh.

Thế rồi một tháng sau tôi nhận được lá thư đầu tiên anh viết giữa vườn cây sơ-ri của xứ Gò Công bên bờ biển Tân Thành dạt dào sóng vỗ.

KBC ngày…tháng…năm…

Thảo Chi thân mến,
Anh không biết dùng danh từ nào để gọi em vì thời gian chúng ta gặp nhau quá ít chưa đủ để tâm tình, dù cả hai, anh và em, đều biết lòng mình nghĩ gì, muốn gì. Nếu em cho phép lần sau anh sẽ gọi là…Thảo Chi thương mến nhé!

Anh viết thư nầy cho Chi khi đang đóng quân ở tỉnh Gò Công, bên bờ biển Tân Thành, giữa một vườn cây sơ- ri sai trái. Những trái sơ- ri tuy chua chua nhưng hương vị đậm đà khiến người ăn vào nhớ mãi khó quên, cũng như Thảo Chi của anh vậy, có hơi “ chua chua” nhưng vị chua đó làm anh luôn nhớ tới em, không thể nào quên được. Đừng nổi giận lên nghe cô bé chanh chua, anh đùa một chút thôi.

Ngoài kia mặt biển mênh mông bát ngát, chạy xa tít tận chân trời, sóng đuổi bắt nhau từng đợt, âm hưởng thật êm tai. Anh ngây ngất với hơi biển ngây ngây mùi muối mặn, nồng nàn, dễ chịu. Xa kia, dọc theo bờ biển là vườn na đầy sức sống, trái trĩu đầy cành, thơm tho, khiến anh cảm nhận được hương vị ngọt ngào của bầu sửa Mẹ Việt Nam. Ôi! Nếu không có chiến tranh thì quê hương mình đẹp làm sao!

Anh nhớ về em, mường tượng đến khuôn mặt, mái tóc, nụ cười thơ ngây trong sáng của em, anh chợt ấm lòng. Ước gì một ngày nào đó anh sẽ đưa em đến đây cho em tha hồ hái trái …( Nhớ phải trả tiền đó nghe)

Anh biết giờ nầy em đang cặm cụi bên quyển Vạn Vật dày cộm, nặng trĩu, cố gắng thật nhiều cho kỳ thi tới, mong em được nhiều may mắn nhưng cũng phải giữ gìn sức khỏe. Anh sẽ đến thăm em một ngày rất gần đây, trong kỳ phép tới, dù chưa biết bao giờ. Anh chưa dám hứa gì với em vì anh là lính, là áng mây trời trôi đi, trôi mãi theo chiều gió bạt. Anh cứ trôi theo cơn lốc xoáy của chiến chinh, không biết bao giờ mới được dừng lại, anh sợ sẽ làm cho em thất vọng.

Thôi anh ngừng ở đây, nói nhiều sẽ làm em buồn, xao lãng học hành.

Chúc em ngủ ngon.
Khôi Nguyên.


Tôi ấp thư Nguyên vào ngực nghe niềm rung cảm dâng ngập tâm hồn vì anh là ước mơ, là hy vọng của em.
Rồi tôi liên tiếp nhận được lá thư thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm… của Nguyên, thư nào anh cũng buồn bã nhớ nhung cô gái nhỏ mới quen mà bỗng nghe nặng lòng lưu luyến. Có lẽ định mệnh đã ràng buộc chúng tôi từ những ngày cùng chung hoạn nạn ở quê ngoại tôi.
Khoảng bốn tháng sau, vào buổi trưa, một anh lính ngập ngừng hỏi thăm từng nhà trong xóm tôi về cô bé tên Thảo Chi. Tôi mừng rỡ khi nhận ra anh từ xa, tôi chạy ra đường gọi lớn:

- Anh Nguyên, Chi ở đây nè!

Anh quay lại thấy tôi mắt sáng lên:

- Ồ, Chi đó à?Anh sợ tìm không gặp em.

Tôi hân hoan mời anh về nhà, mẹ tôi vẫn còn nhớ anh sau khi anh chào hỏi, bà rất cảm kích anh:

- Hôm Tết rồi nếu không có sự can đảm, kiêu hùng của các cậu dân chúng trong cả khu chợ đó đã chết hết rồi. Nhớ lại còn thấy hãi hùng quá, cám ơn các cậu rất nhiều.

Buổi chiều hôm đó mẹ cho phép tôi và anh ra phố vì bà rất quý mến anh, hơn nữa tôi cũng đã lớn rồi sẽ biết chừng mức trong sự giao tiếp với bạn trai.

Chúng tôi không dùng xe, hai đứa thả bộ lang thang vừa đi vừa tâm sự. Trời bắt đầu vào hè, những hàng phượng vĩ bên đường nở rộ, màu đỏ thắm thiết nhưng gợi đầy nỗi nhớ thương lưu luyến vì có những cuộc chia ly, tiễn biệt buồn. Có bao nhiêu người con trai sẽ rời bỏ trường yêu bạn mến để tòng quân? Có bao nhiêu người con gái sẽ xếp trang thư cũ để theo chồng về một phía trời xa? Bao nhiêu người ra đi, bao nhiêu kẻ ở lại đều mang tâm trạng u buồn, nuối tiếc như nhau, dù ai cũng biết rằng không có buổi tiệc nào mãi mãi không tan!

Nguyên chợt nắm tay tôi:

-Em sắp sửa thi rồi phải không? Ráng lên nghe cô bé. Lần tới anh về sẽ khao thưởng cho cô Tú của anh.

Tôi cảm động:

-Anh hứa chắc không? Như vậy em sẽ không dám để bị rớt đâu. Em học không những chỉ vì mình mà vì anh nữa đó.

Nguyên đưa tay gõ vào đầu tôi:

-Xạo hoài cô bé, không dám đâu. Khi anh quen em thì em đã học lớp Đệ Nhất rồi mà dám nói là vì anh nữa.

Tôi giận dỗi phát cho anh một phát vào vai:

-Ai cho anh nói chuyện với em như thế? Không tôn trọng em chút nào hết.

Anh quay qua, hai tay ôm lấy mặt tôi:

-Anh xin lỗi, anh cố ý chọc em thôi. Giờ không đùa nữa nhé!

-Buông em ra, người ta cười kìa.

Thật ra không có ai cười, chỉ có hai đứa tôi cười vang thôi. Chúng tôi đi qua những con đường dài hun hút. Nắng chiều nhuộm vàng cả lối đi, gió mơn man luồn qua kẻ lá tạo nên những âm điệu mơ hồ như hơi thở nhẹ của loài chim câu, bóng chúng tôi đổ dài bên nhau, những bước chân bắt đầu rời rã. Nguyên nói:

-Mình tìm chỗ nào nghỉ chân đi em. Anh lặn lội quen rồi nhưng trông em đã mỏi mệt rồi đó.

-Dạ, cũng được.

Chàng đưa tôi đến một quán cà phê ca nhạc nhỏ nằm giữa một khu vườn đầy cây kiểng và hoa thơm. Đây đúng hơn là một căn biệt thư xưa được sửa sang lại làm nơi thương mại, có lẽ chủ nhân là người có kiến thức rộng nên cách trang trí rất thanh lịch, trang nhã, nhưng không kém phần lãng mạn, dễ thu hút khách hàng.

Ngồi ở một bàn nằm bên ngoài quán, nơi một góc của khu vườn, dưới cây ngọc lan thoang thoảng hương thơm. Nguyên nhìn chung quanh rồi thở dài:

- Ở đây bình yên quá, cuộc sống đẹp như mơ. Ngoài kia tụi anh đánh đấm hằng ngày, giành giựt từng ngọn cây, từng tấc đất với quân thù, sống chết trong đường tơ kẻ tóc, nhiều lúc không có giờ ăn, giờ ngủ nữa.

Tôi nhìn anh, tôi thấy thương mến và xúc động biết bao! Tôi tự nguyện với lòng sẽ vì anh tất cả, chỉ biết có anh mà thôi. Nguyên bỗng hỏi tôi:

- Em có thích nghe anh hát không? Để anh lên hát tặng em một bản nhé!

- Vậy thì thích quá, chắc anh hát hay lắm.

- Không hay đâu nhưng vì em, cho em thôi.

Tôi cảm động cầm tay anh:

- Vậy anh lên hát đi, em sẽ lắng nghe thật kỹ.

Anh bước lên bục sân khấu với màu áo lính chưa sạch bụi sa trường, với đôi mắt đăm chiêu xa vắng, với mái tóc héo buồn vì chinh chiến. Anh nhìn về phía tôi, giọng buồn như tâm tình anh đang u ẩn:

“…. Đêm chia ly buồn gì sao chẳng nói, chỉ nghe em nói nhỏ trở về thôi. Ngày buồn tênh tiễn đưa chiều vào tối, mỉm môi cười mà nhớ thương không nguôi.
Xa nhau chưa mà lòng nghe quạnh vắng? đường thênh thang gió lộng một mình ta…”

Tôi nghe tiếng của hai cô gái ngồi gần đó xầm xì với nhau:

- Không ngờ anh Trung Úy nầy hát hay đến thế, không thua gì ca sĩ.

- Có người đẹp ngồi kế bên mà sao giọng ca nghe u buồn ray rứt như tan vỡ tình yêu vậy?

Thật sự anh hát rất hay, giọng trầm ấm, ray rứt, truyền cảm, như xót xa, như thương mến, xen lẫn một chút ngậm ngùi. Anh làm nước mắt tôi đã rơi ướt má tự lúc nào mà không hay biết cho đến khi anh về ngồi gần bên tôi.

Nguyên nhìn thấy những giọt nước mắt của tôi, anh nói:

- Có gì mà em xúc động như vậy? Chỉ là một bài ca buồn thôi. Mai đây nếu em chấp nhận anh, chấp nhận người lính trận như anh em sẽ phải gặp những chuyện buồn bã, bi ai hơn. Anh không dọa em đâu, thật đó.

Tôi quay sang anh giọng còn sũng nước mắt:

- Em không ngại đâu, dù buồn bã, dù bi ai em vẫn chấp nhận và xin được chia xẻ cùng anh, vì với em, anh thật dũng cảm, thật cao cả, thật xứng đáng để cho em buồn thương, đau khổ, nhớ nhung.

Nguyên choàng tay ôm vai tôi và ghé môi hôn nhẹ lên tóc tôi. Tôi sung sướng nghẹn ngào và cảm thấy hình như mùa hè chưa đến, còn mãi là mùa xuân, mùa xuân trong tiếng đạn bay súng nổ, mùa xuân của hôm nào em được lo lắng, chăm sóc cho anh từng ly cà phê, từng buổi cơm đạm bạc…

Tôi chợt hỏi Nguyên:

- Anh Nguyên nầy, hồi Tết ở nhà ngoại em đó, anh chú ý tới “ cô bé”từ khi nào?

-Từ khi anh nhìn thấy em lúc nào cũng ôm quyển Vạn Vật Học trong tay kể cả lúc đạn bắn ầm ầm ngoài sân. Anh thấy em hiếu học, thật ngoan nhìn em ngây thơ, vô tư anh cảm mến ngay. Anh đã phải bỏ học nửa chừng vì bổn phận làm trai nên anh rất hâm mộ những người còn được may mắn đến trường.

Tôi nhìn anh lòng xót xa như chính tâm trạng của mình đang luyến tiếc tuổi học trò hoa mộng. Tôi an ủi anh:
- Anh biết không, màu áo trận của anh cũng làm cho đám học trò tụi em ngưỡng mộ, kính phục, quý mến biết bao.

Anh chỉ cười nhẹ rồi đưa tay xoa đầu tôi:

- Em cố nói cho vui lòng anh đó sao?

- Trong mỗi cuộc đời của chúng ta đều có những điều đáng trân quý, đáng yêu, đáng sống. Không nên so sánh anh ạ!

Anh gật đầu:

- Em nói đúng. Thôi đừng bàn về chuyện đó nữa, giờ nói chuyện của em đi.

- Chuyện gì của em?

- Chuyện…em có nhớ, có thương, có mơ mộng anh chàng nào không?

Tôi trả lời ngay:

-Dĩ nhiên là có chớ, anh ấy luôn luôn ở trong tim em. Anh có biết là ai không?

Nguyên cười cười:

- Anh ấy là ai vậy?

- Em không cho anh biết đâu, mai nầy khi tụi em đám cưới mới nói với anh.

Mặt anh hơi thất sắc, anh nắm chặt tay tôi:

- Chi, em nói chơi hay thật?

Tôi mở to mắt nhìn anh:

- Anh nghĩ sao?

- Anh không đùa đâu, anh hỏi em đó có phải là thật không? Vậy thì em coi anh là cái gì?

Thấy anh có vẻ tức giận, tôi nghiêm chỉnh lại:

- Em chọc anh thôi, có ai thèm cô bé chanh chua của anh đâu mà anh lo quá vậy. Người mà em nhớ mong ngày đêm là anh đó, anh Nguyên. Tuy chúng ta quen nhau trong khoảng thời gian ngắn ngủi nhưng em cảm thấy như chúng ta đã quen thân từ lâu lắm vậy. Và tình cảm của em cũng đã dành trọn cho người trai sương gió rồi.

Anh thở ra nhẹ nhỏm, mỉm cười đưa tay kéo tôi sát vào lòng. Tôi hình như nghe được tiếng tim anh đang reo vui trong lồng ngực và tôi thấy ấm áp một bên má. Chúng tôi miên man trong niềm hạnh phúc vừa chợt đến thật êm đềm, thật tha thiết…

Bỗng Nguyên đưa tay nhìn đồng hồ rồi kéo tôi đứng lên:

-Thôi mình về đi em. Đi lâu quá mẹ em sẽ trách anh, lần sau bà cấm cửa không cho anh đến là nguy.

Tôi theo anh ra về, đêm xuống rồi, thành phố hắt hiu buồn vì ngoài kia cuộc chiến còn tiếp diễn cũng ảnh hưởng đến đây không ít. Người ta cố cười để quên nỗi buồn vì người thân xa vắng, người ta cố ồn ào để lấn át tiếng súng đạn xa xa.

Rồi Nguyên trở về đơn vị nối tiếp đời chinh nhân hiểm nguy gian khổ, nối tiếp những ngày dài với máu lửa đao binh. Tôi miệt mài học hành để đạt được kết quả tốt như ý muốn của anh, và tôi đã đỗ kỳ thi năm đó. Tôi mừng rỡ viết thư báo tin cho Nguyên, mong anh về để khao thưởng cho tôi, để cùng nhau chia xẻ niềm vui và những mong chờ nhung nhớ. Nhưng thư đã gửi đi ba lá mà thư hồi âm thì không thấy, tôi buồn bã và lo lắng vô cùng, anh bận hành quân hay chuyện gì đã xảy ra? Ngày nào ông phát thư đi ngang nhà tôi cũng lắc đầu:

- Xin lỗi nghe cô Chi, lại làm cô thất vọng nữa rồi.

Tôi cười héo hắt:

- Cám ơn bác, không sao đâu.

Những buổi chiều tôi thường thơ thẩn nhìn lên bầu trời bao la mênh mông mà nhớ anh thật nhiều. Anh hay ví mình như áng mây trôi, anh trôi đi, trôi mãi theo giòng binh biến. Không, em không muốn anh là áng mây, vì mây thì sẽ trôi đi mãi mãi không bao giờ quay trở lại.

Anh là cánh chim trời, chim bay khắp ngàn phương, chim tung lướt ngoài muôn trùng xa thẳm, chim phiêu bạt qua mấy nẻo sông hồ…Nhưng có một ngày nào đó chim sẽ mỏi cánh, rã rời, muốn tìm một tổ ấm, tìm một nơi trú ẩn êm ái cho tâm hồn để quên đi gió bụi ngoài xa, quên đi bầu trời giông bão. Ngày đó em và anh sẽ cùng nhau xây một mái gia đình thật ấm, thật êm cho toại niềm mơ ước. Ngày ngày chúng ta sẽ ngồi bên nhau cùng ngắm bình minh đỏ rực chân trời, ngắm hoàng hôn nhuộm vàng xác lá, ngắm trăng lên giữa đỉnh trời cao, chúng ta sẽ được gần bên nhau mãi trong cảnh thanh bình của đất nước.

Nhưng… dù anh là cánh chim trời như tôi hằng mong ước hay là áng mây trôi anh nghĩ, anh cũng không bao giờ quay trở lại. Vì lá thư kế tiếp tôi nhận được không phải là thư anh mà là thư của người bạn anh báo tin cho biết, anh đã nằm xuống bên bờ biển Tân Thành vĩnh viễn. Anh sẽ được nghe những điệu sóng biển triền miên ru ngủ, anh sẽ được nghe gió biển rì rào tỉ tê than thở, anh sẽ được nghe từ trong gió, trong mây tiếng nức nở nghẹn ngào của người tình bơ vơ, lạc lỏng.

“…Xa nhau chưa mà lòng nghe quạnh vắng? Đường thênh thang gió lộng một mình ta…”

Bây giờ mình đã thật sự xa nhau rồi đó anh, và anh đã bỏ lại em một mình giữa con đường thênh thang lộng gió… Nguyên ơi, Nguyên ơi, anh đã lỗi hẹn với em rồi!

VI VÂN.
Cali Xuân 2015.


ảnh minh họa

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23734
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 28/Mar/2015 lúc 3:40pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 31/Mar/2015 lúc 12:59pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23734
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/Apr/2015 lúc 11:37am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23734
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 02/Apr/2015 lúc 7:58am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 07/Apr/2015 lúc 9:35am
Con chó VệnNgười Tù "cải tạo"  <<<<<
Nguyễn Vĩnh Long Hồ

german%20shepherd%20police%20dog%20for%20sale%20Ji0Scol4




Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 07/Apr/2015 lúc 9:49am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23734
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 09/Apr/2015 lúc 10:10am

Bé Biển 

 

Ảnh con thuyền vượt biển do vị thuyền trưởng một tàu buôn của Ý chụp trước khi đón mọi người lên tàu. Bs. Vinh đứng ở mũi thuyền, tay cầm một thùng rỗng để xin nước từ con tàu gặp giữa Thái Bình Dương JUN 1979. 

Trên tường, lẫn trong nhiều bức hình rất đẹp được chụp từ một ống kính chuyên nghiệp là tấm hình của chiếc ghe mong manh, nhỏ bé, bồng bềnh trên đại dương. Trên khoang ghe, các thuyền nhân Việt Nam (những boat people đã đánh động lương tâm thế giới vào những năm 70s và 80s) mặt mày ngơ ngác mệt mỏi nhưng mắt sáng lên hy vọng. Đó là món quà tặng cho BS HQM từ một thuyền nhân cùng tàu vượt biển năm xưa.
Mọi người trên ghe gọi em là "công dân của đại dương" vì em sinh ra giữa biển trời mênh mông, không thuộc hải phận của quốc gia nào, vào một đêm trời chuyển mưa, trời không trăng sao, lâu lâu có những tia chớp lóe lên soi sáng đêm đen.

Chiếc ghe rời cửa biển Long Hải lúc nửa đêm về sáng để tránh công an biên phòng, đưa gần bảy mươi thuyền nhân trốn khỏi quê cha đất tổ, đem sinh mạng mình đánh cuộc với định mệnh để tìm tự do và tương lai. Trong số đó có hai vợ chồng trẻ, người vợ ốm yếu mảnh mai, lại mang thai lần đầu, mặc hai ba lớp áo quần nên hinh như không ai biết chị có thai đã bảy tháng, ngoài anh chồng trẻ cũng mảnh khảnh như chị.

Mà nếu có biết cũng chẳng ai còn tâm trí nào để nghĩ đến chuyện người khác khi trong lòng mình cũng "ngổn ngang trăm mối". mà mối lo lớn nhất là có thể bị bắt lại, bị nhục hình, bị tù tội trong khi mình không có tội gì hết, chỉ bỏ xứ ra đi, bỏ ông bà cha mẹ, bỏ tất cả ra đi vì muốn có tự do.

Vừa đặt chân lên sàn ghe, tất cả mọi người đều được đưa xuống lòng ghe để bảo đảm an toàn. Nếu có bất cứ ghe tàu nào đi ngang, nhìn vào người ta chỉ thấy trên khoang ghe có vài ngư phủ đi thả lưới ban đêm để có được một ít cá tôm tươi cho vợ hoặc mẹ mang ra bán ở buổi chợ sáng ngày mai. Nhất là vào ban đêm, ánh đèn bão tù mù, vàng úa giúp những người đang trốn chạy khỏi quê hương che được nét ưu tư lo lắng.

Phía dưới lòng tàu, thông thường chỉ để lưới, xăng dầu, thức ăn của ngư phủ, mấy thùng nước ngọt, và mấy thùng đựng cá tôm lưới được vào những hôm ra khơi nhiều may mắn. Vậy mà bây giờ gần bảy mươi con người ngồi chen chúc, không khí đã thiếu lại càng ngột ngạt hơn khi rất nhiều người bị say sóng ói mửa ngay trên sàn tàu, trên áo quần của mình hay của người ngồi bên cạnh. Không ai nói với ai tiếng nào. Khi ghe chưa ra đến hải phận quốc tế, người ta chưa sợ chết vì đại dương bao la, vì thiếu nước ngọt, thiếu thức ăn, mà đích đến thì còn ở xa mù tít tắp, nhưng nỗi sợ bị công an biên phòng bắt được thì tù tội, nhục hình cũng kinh hoàng như nỗi chết. Nỗi sợ đó lớn quá, bao trùm lên mọi thứ, át đi sự ngột ngạt trong một hầm ghe quá tải, át đi mùi của mọi thứ trong bụng chưa kịp tiêu hóa chạy ngược lên miệng chạy ra ngoài. Khi thức ăn đã ra hết, cả đến mật xanh cũng chạy ra, người ta mệt nhoài, không còn sức để sợ bị bắt lại, không còn sức để cảm nhận được không khí ngột ngạt, nặng mùi chung quanh mình. Ở một góc ghe, người đàn bà trẻ đang mang thai lại tỉnh táo hơn mọi người, hơn cả ông chồng cũng vật vờ say sóng, nôn mửa như hầu hết mọi người trên ghe. Lòng ghe tối đen, không ánh sáng, không cả tiếng động, thời gian tưởng như ngưng lại. Lâu lâu có một chút ánh sáng xanh yếu ớt từ cái đồng hồ đeo tay có dạ quang của ai đó. Đêm dài và sâu hơn với những người đang trốn chạy khỏi quê hương.

Vào đêm thứ nhì của cuộc trốn chạy bằng đường biển, người đàn bà đang mang thai chợt thấy đau nhói ở bụng. Đây là con đầu lòng, chị không có kinh nghiệm về chuyện sinh đẻ. Trong bóng tối đặc quánh trong lòng chiếc ghe mong manh chật như nêm, một tay nắm tay chồng, một tay chị chị nhẩm tính trên những ngón tay xem mình đã có thai bao nhiêu tháng.

****

Họ lấy nhau tháng chín năm ngoái, sau mười lăm tháng quen nhau ở vùng kinh tế mới Đồng Bò, ngoại ô Nha Trang. Chị cố quay lại khúc phim tình yêu lãng mạn của anh chị để quên đi nỗi đau âm ỉ trong bụng. Tình yêu trên vùng đất khô cằn, -ngay cả hoa dại cũng không mọc nổi, không trồng được gì hết ngoài khoai mì, - nhưng rất chân thành, sâu đậm vì đó là tình đầu của cả anh và chị. Họ lấy nhau, không có đám cưới bình thường, chỉ có một lễ ra mắt hai bên họ hàng (cũng chỉ lưa thưa mấy người đàn bà vì đàn ông dạo đó hầu hết đã ở trong lao tù cải tạo vì "tội ngụy quân ngụy quyền") bằng một mâm cơm... trắng (không bị độn khoai sắn như bữa ăn thuờng ngày của người dân kinh tế mới) và vài món ngon như nem, chả được gởi mua từ chợ Đầm ở Nha Trang. Hôn thú cũng chưa làm vì "ủy ban nhân dân xã kinh tế mới" vừa thành hình, chưa có con dấu. Về nơi ở cũ thì bị từ chối vì "hộ khầu đã bị cắt". Nhưng gia đình vẫn cho họ lấy nhau, vì “phải nương nhau mà sống, không phải ở cái vùng kinh tế mới hoang vu này, mà sau này, đi đâu cũng nương tựa vào nhau….”. Mẹ chị đã căn dặn anh chị như vậy ở một lễ cưới dã chiến, không có khăn áo, không có make up, và không có cả họ hàng, quan khách. Mấy miếng chả heo màu trắng - chắc là tỉ lệ thịt và bột ngang nhau -, mấy miếng nem hồng nhạt dành cho hai đứa em chưa đến tuổi đi học, lần đầu tiên trong đời được nếm mùi nem chả. Anh chị nhường nem chả cho các em, ăn cơm với canh rau muống, sau khi đã ăn mấy lát gừng mỏng chấm muối như phong tục ngàn xưa "gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau”.

Hơn nửa năm sau ngày cưới, một lần về Nha Trang mua hạt giống, anh gặp một người lính hải quân làm dưới quyền ba anh ngày xưa. Thương anh cựu sinh viên Khoa học thư sinh kính trắng phải cày sâu cuốc bẩm nuôi mẹ, nuôi em khi ba ở trong tù cải tạo, người lính hải quân sắp lái một chuyến tàu vượt biển, được chủ ghe cho mang theo cả gia đình, cho anh và chị đi theo.

****

Bụng chị vẫn đau, chị ước gì mình bị say sóng ngủ vùi, hoặc lã đi vì mệt như anh, như tất cả mọi người trong lòng ghe. Nhưng cơn đau vẫn chẳng chịu đi, lúc âm ỉ, lúc nhói lên, chị xanh mặt, vả mồ hôi chịu đựng, tự nhủ trong đầu:

- Không sao, đau một chút rồi sẽ hết. Mình chưa đẻ đâu, đến hôm nay nhiều lắm là 29 tuần, ít nhất cũng cả tháng nữa mới sinh.

Hết tự bảo mình, chị cúi xuống rờ tay lên bụng, thì thầm trong bóng tối:

- Con ơi, nằm yên nha, để đến trại tỵ nạn rồi hãy ra nghe con, an toàn hơn cho cả con và mẹ.

Cơn đau chỉ lắng xuống một vài giây, rồi lại nhói lên quặn đau mỗi lúc một nhiều hơn. Chịu không nổi, chị đành lay vai anh:

- Anh ơi anh, chắc em đang chuyển bụng đẻ.

Đang vật vờ say sóng, nghe vợ sắp sinh, anh tỉnh hẳn, mở mắt nhìn quanh, rồi hỏi chung quanh:

- Có ai biết đở đẻ không? Xin giúp vợ tôi.

Câu hỏi làm mọi người trong cái khoang ghe tối đen, ngột ngạt tỉnh hẳn lên. Giữa lúc mọi người đang vượt đại dương, có một phụ nữ trẻ sắp "vượt cạn". Có ai đó thò đầu lên khỏi hầm ghe, hỏi xin một ánh đèn cho sản phụ.

May là ông chủ ghe cũng thuộc loại người nhân từ, và ghe đã ra đến hải phận quốc tế, nên chị được đưa lên khoang ghe. Anh cũng được đi theo cùng chị. Họ tỉnh hẳn ra khi ra khỏi hầm ghe, được hít thở không khí trong lành của đại dương, cũng là không khí của tự do mặc dù đích đến còn ở xa, xa lắm. Chị thấy khỏe hơn mặc dù cơn đau vẫn không dứt, quặn lên từng cơn.

****

Vinh cũng được rời khỏi hầm ghe, lên sàn tàu cùng với anh chị vì Vinh là bác sĩ duy nhất trên chuyến ghe vượt biển đêm đó. Trời tối đen, Vinh cũng không biết lúc đó là mấy giờ, cái đồng hồ đeo tay đã rớt mất từ lúc nào. Dù đã từng làm việc đở đẻ từ cuối năm thứ tư y khoa trong ca thực tập đầu tiên ở bệnh viện Từ Dũ. Và từ đó đến giờ, dù không chuyên về sản khoa, Vinh cũng đã có dịp trực tiếp hoặc gián tiếp làm việc trong những trường hợp sinh thường, cũng như sinh khó, phải xoay đầu hài nhi từ lúc còn nằm trong bụng mẹ, phải mổ để đem con ra khỏi bụng mẹ. Nhưng lần này giữa đại dương, trời tối đen, trên sàn tàu bằng ván lồi lõm còn mùi tanh của tôm cá, chỉ có một ngọn đèn bão tù mù mà người tài công tốt bụng đã cho mượn, không có thuốc khử trùng, không có alcohols, cũng chẳng có bông băng, hay bất kỳ một dụng cụ y khoa nào. Sản phụ lại sinh lần đầu, và Vinh không có một chi tiết nào về hồ sơ bệnh lý của chị. Chưa bao giờ Vinh tưởng tượng mình phải làm công việc tưởng như đơn giản nhưng cả hai sinh mạng đều đặt trong tay Vinh trong một đêm trời tối đen trên sàn một chiếc ghe vượt biển. Mọi thứ đều làm bằng tay, không có cả găng tay, phương tiện còn hạn chế hơn dụng cụ thô sơ của một cô mụ đỡ đẻ ở nhà quê từ nhiều thập niên trước Dưới ánh đèn bão tù mù, phải mất gần một tiếng, từ việc xoay đầu em bé đến việc cắt cuốn rốn, em bé sinh ra đỏ hỏn, sớm hơn kỳ hạn bình thường một tháng nhưng khỏe mạnh. May mắn là sản phụ dù xanh xao, yếu ớt nhưng rất can trường, đã dùng hết sức bình sinh để đẩy được em bé ra ngoài từ cửa tử cung hẹp của một người sinh con lần đầu. Gió của đại dương nhanh chóng làm khô những giọt mồ hôi đầm đìa trên mặt của Vinh, của anh, và nhất là của chị, sản phụ can đảm nhất nhì thế giới, đã vừa vượt biển, vừa "vượt cạn" lần đầu, không có thuốc tê, không có thuốc mê, không có cả bông băng, nhưng chị không hề rên la, chỉ cắn chặt môi đến rướm máu chịu đựng. Nếu chị không tự đẩy em bé ra được, Vinh cũng không biết mình phải làm gì trong tình trạng không thuốc men, không dụng cụ. Mãi về sau, sau này, sau nhiều năm hành nghề Y khoa ở Mỹ, có dịp chẩn đoán, điều trị cho rất nhiều bịnh nhân thuộc nhiều chủng tộc, nhiều lứa tuổi khác nhau, chị vẫn là bệnh nhân can đảm nhất của Vinh.


Anh đứng bên cạnh là một chỗ dựa tinh thần cho chị, và một phụ tá đắc lực cho Vinh. Người chồng sắp được làm cha, lại vô tình trở thành y tá bất đắc dĩ phụ việc cho Vinh trong một ca đỡ đẻ rất khác thường trên một chuyến tàu vượt biển. Em bé gái mới ra đời được tắm bằng nước biển Đông, được cắt nhau bằng đầu móng tay cái và móng tay trỏ của Vinh. Những đầu móng tay Vinh bắt đầu để dài từ lúc bắt đầu chơi guitar với sự hướng dẫn của một ông thầy dạy môn Nhạc từ những năm đầu Trung học, không ngờ lại được dùng rất có hiệu quả trong trường hợp hy hữu giữa biển khơi. Không có alcohol để tẩy trùng, Vinh đến bên mạn thuyền, múc nước biển lên rửa tay. Muối của đại dương cũng ít nhiều sát trùng những đầu ngón tay của Vinh trước khi Vinh cắt cuốn rún của em bé sơ sinh.

Em được bọc bằng hai lớp áo, lớp trong là cái áo thun của cha, lớp ngoài là cái áo khoác của mẹ. Tiếng khóc đầu tiên của em, của mầm sống mới đem lại nụ cười cho Vinh, cho anh và chị, và hy vọng cho một đời sống mới tự do, tốt đẹp hơn cho mọi người trên ghe. Em ra đời an lành giữa biển Đông, sớm hơn thời hạn bình thường (9 tháng 10 ngày) gần một tháng trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Và dĩ nhiên không có cân, không có thước để biết trọng lượng, và chiều cao của em.

Trong niềm vui vừa hoàn thành một ca đở đẻ có một không hai trong đời, Vinh trao em bé cho sản phụ, dùng nước biển để rửa tay. Giữa biển trời mênh mông, không có xà bông, không có alcohol sát trùng, không có cả nước thường để rửa tay. Vinh đến bên thành ghe, một tay bám chặt vào thành ghe, tay kia múc nước biền bằng một cái thùng nylon để rửa tay, và rửa em bé cùng sàn ghe. Sau vài phút vui mừng cạnh vợ con với niềm vui của một người lần đầu làm cha, người chồng trẻ vừa rối rít cảm ơn, vừa giúp Vinh dọn rửa sàn ghe, nơi một con người bé bỏng vừa chào đời trong đêm tối giữa biển trời bao la. Cũng như cha mẹ không được làm hôn thú ở một vùng kinh tế mới, em cũng không được làm khai sinh giữa biển trời, trên một chiếc ghe tỵ nạn. Em được cha mẹ gọi là "bé Biển".

Trời sáng dần, mọi người tỉnh táo hơn, lạc quan hơn vì ánh sáng mặt trời luôn là người bạn tốt của những con tàu đang lênh đênh trên đại dương. Họ còn vui mừng hơn vì có thêm một mầm sống mới vừa chào đời bằng sự can đảm của người mẹ, bằng sự tận tình của một ông bác sĩ trẻ cùng là đồng hành trên chuyến vượt biển tìm tự do của họ.

Những ngày sau đó, dù vẫn phải ăn uống dè chừng vì không biết khi nào mới đến được đất liền, Vinh vẫn được đối xử tử tế hơn, được ông bà chủ ghe mời lên ngồi trên khoan tàu, được hít thở không khí trong lành của đại dương. Vinh cũng được phân phát thức ăn theo tiêu chuẩn đặc biệt, nhưng Vinh cũng chỉ ăn như khẩu phần của mọi người trên ghe, nhường phần đặc biệt đó cho người mẹ mới sinh ốm yếu mảnh mai, cần ăn nhiều để còn có sữa nuôi con sơ sinh.

Những chuyện bình thường đó được rỉ tai bởi những người còn tỉnh táo, khỏe mạnh trên ghe, và như một vết dầu loang, người ta đối xử tốt đẹp với nhau hơn. Một vài người lớn tuổi được những người trẻ hơn nhường phần nước uống hiếm hoi được phát hai lần mỗi ngày. Các em bé được ăn thêm vài muỗng cơm từ những người lớn trên tàu. Chuyện tưởng như đơn giản trên đất liền trong hoàn cảnh bình thường, nhưng là cả một niềm an ủi, một niềm tin khi con người đang trốn chạy khỏi quê hương, đang lênh đênh trên đại dương, không biết lúc nào mới đến bờ, đến bến.

****

Bốn ngày sau, chiếc thuyền mong manh của những thuyền nhân Việt Nam chạy trốn chế độ Cộng sản may mắn được một con tàu buôn của Ý trông thấy. Họ đến gần và cho tất cả người tỵ nạn lên tàu của họ, cho ăn uống. Họ đặc biệt cho bé Biển nhiều món quà quý, trong đó có một cái mỏ neo nhỏ như một lóng tay, - làm bằng vàng, biểu tượng của chiếc thương thuyền -, sau khi nghe kể em được sỉnh ra vài ngày trước đó trên sàn con thuyền mong manh không có một dụng cụ thuốc men nào, ngoài sự can đảm của mẹ em, và sự tận tình của một bác sĩ trẻ được đào tạo ở Đại học Y khoa Saigon trước năm 1975. Như luật hàng hải quốc tế vì sinh ra ở hải phận quốc tế nên bé Biển có quốc tịch Ý, chiếc tàu đầu tiên có mang cờ một quốc gia em được mang lên.

Trước khi đưa từng thuyền nhân lên tàu lớn, họ có ghi lại hình ảnh của chiếc ghe mong manh và những thuyền nhân mặt mày hốc hác nhưng ánh mắt rạng rỡ vì biết chắc chắn mình sẽ đến được bến bờ tự do. Ông thuyền trưởng đích thân ra trước mũi tàu chụp hình. Bên kia, bác sĩ Vinh được những người trong ghe cử ra nói chuyện với đại diện của tàu Ý. Vinh cũng đứng trước mũi của chiếc ghe tỵ nạn, bên cạnh chiếc tàu buôn như một em bé gầy yếu đứng trước một người khổng lồ. Tấm hình đó không một người tỵ nạn nào có dịp trông thấy. Ngoài một số người muốn được định cư ờ Ý, tất cả thuyền nhân còn lại được đưa đến trại tỵ nạn và được đi định cư ở nhiều nước khác nhau.

Ông thuyền trưởng nghe Vinh kể chuyện đỡ đẻ rất hiếm hoi đã giơ cả hai tay lên trời:

- Tôi cảm phục lòng can đảm của sản phụ, tôi cảm phục sự bình tĩnh và tận tình của bác sĩ. Tôi cảm phục lòng quả cảm của tất cả các bạn. Thượng Đế đã phù hộ các bạn.

Ông ta còn nói nhiều điều nữa, nhưng Vinh chỉ nhớ câu đó, và nhớ nụ cười hiền từ nhân hậu của người thuyền trưởng người Ý da trắng. tóc đen.

Vinh đến Mỹ vào cuối năm 1979, đi học lại một số lớp để có thể thi lấy bằng Medical Doctor ở Mỹ và thi lấy giấy phép hành nghề. Kiến thức của những năm Y khoa Saigon giúp Vinh rút ngắn được hơn nửa đường học trình của một Bác sĩ chuyên khoa ở Mỹ. Cứ lấy các "equivalent test" của từng giai đoạn, đậu được mỗi bài test là khỏi phải học ít nhất là hai học kỳ (tương đương một năm). Cứ từ dễ đến khó, Vinh lần lượt đậu từng bài thi và không phải học lại, chỉ phải đi thực tập nội trú (Internship) trong một bệnh viện ở New York trước khi được cấp bằng hành nghề. Lúc đó còn trẻ, chưa lập gia đình, dù không phải học lại 5 năm đầu của chương trình Y khoa ở Mỹ, Vinh vẫn chăm chỉ đọc sách và học thêm một lớp căn bản về "Business Law".

Mỗi tuần làm việc từ bốn đến năm mươi giờ ở bệnh viện từ phòng cấp cứu đến các phòng bệnh nội trú, Vinh gặp bệnh nhân đủ mọi lứa tuổi, mọi màu da. Có người suốt ngày rên rỉ, có người chỉ nhăn mặt khi thiếu thuốc giảm đau, có người luôn cố giữ nụ cười lạc quan để thêm tinh thấn chiến đấu với bệnh tật. Không có ai can đảm như người sản phụ thuyền nhân giữa đại dương năm nào, kể cả những người sinh con giữa một bệnh viện đầy đủ thuốc men, dụng cụ, y tá, bác sĩ, đã được chích thuốc giảm đau mà vẫn rên la.

Xong một năm nội trú ở New York, những ngày đầu chính thức hành nghề y khoa trong một bệnh viện ở Chicago, những khuôn mặt bệnh nhân đủ mọi cá tính đến rồi đi trong từng ngày làm việc của Vinh, vẫn chưa có ai vượt qua được sự can đảm chịu đựng của người sản phụ trên chiếc ghe mong manh vượt biển ngày trước. Giữa những tiện nghi dành cho một bác sĩ ở Mỹ, thỉnh thoảng Vinh vẫn nhớ đến nước Thái bình dương đã rửa tay cho mình và tắm cho em bé sinh giữa đại dương. Vị mặn của nước biển có thể sát trùng một cách tương đối, đã giúp một em bé thuyền nhân chào đời an toàn, khỏe mạnh trên sàn ghe giữa biển trời mênh mông.


Họp mặt truyền thống chs Ngô Quyền lần thứ XIII - JUL 2014 ở Milpitas, California. Nhân vật chính: BS Huỳnh Quan Minh– cựu học sinh NQ K6- trước micro. Tác giả NTDH áo dài trắng, đứng giữa hai đàn anh Ngô Quyền.

Rồi Vinh lập gia đình, dọn về San Jose ở California với khí hậu ven biển ấm hơn giống Việt Nam hơn, và để một lúc nào đó những đứa con chào đời sẽ có nhiều cơ hội học tiếng Việt hơn. Lúc đó là đầu thập niên 80s, cộng đồng Việt Nam ở Mỹ chưa lớn mạnh, những lần hiếm hoi gặp bệnh nhân người Việt ở bệnh viện Kaiser, họ cứ hỏi Vinh có khám thêm ở nhà ngoài giờ làm việc để họ đến nhờ giúp khi bệnh hoạn. Một, hai, năm, bảy rồi cả chục lần được yêu cầu như vậy, Vinh quyết định xin thôi việc ở bệnh viện, mở phòng khám tư, tự do hơn.

Lần đầu tiên mở phòng khám tư, lại là phòng khám ở Mỹ, một nơi mà nguyên tắc, và luật pháp rất nghiêm nhặt,Vinh phải mò mẩm từng bước để xây dựng phòng khám bệnh của mình. Thời đó, đầu thập niên 80s, cộng đổng tỵ nạn của người Việt còn non trẻ, bệnh nhân của Vinh thuộc đủ mọi chủng tộc, từ những người bản xứ hay đến phòng mạch của ông bác sĩ trẻ còn giữ nguyên tính kính trọng người lớn tuổi của người Việt Nam, đến những người di dân gốc Nga, gốc Tàu, gốc Ý, gốc Mễ... Và dĩ nhiên cũng có những bệnh nhân Việt Nam chịu khó lái xe vài chục dặm để được một bác sĩ đồng hương chăm sóc.

Cũng chính nơi đây, Vinh gặp lại nhiều bạn học đã mất liên lạc từ ngày xong tú tài, mỗi người mỗi ngả.

Phúc và Lan di tản từ tháng 4 năm 1975, vẫn không thay đổi nhiều so với ngày còn ở Trung học, tương đối thành công, vẫn mang theo cả một thời mới lớn ở Việt Nam có những lý tưởng màu hồng dù lâu lâu vẫn nghe tiếng súng vọng về từ một chiến trường nào đó rất gần thành phố.

Xuân đi từ trường Ngô Quyền vào trường Võ bị, vừa cởi áo trắng học trò, khoác ngay áo treillis của lính, không có thì giờ mặc áo dân sự giữa một đất nước chiến tranh. Nước mất, Xuân phải vào "trại cải tạo", mặc áo màu sậm, xám xịt như đời “tù... không có tội”. Ra khỏi nhà tù nhỏ, Xuân về nhà tù lớn chỉ vài tháng rồi vượt biển, và chịu khó cắp sách đi học lại đến ngày thành kỹ sư ở thung lũng điện tử của miền Bắc California.

Tuấn rời Việt Nam qua Nhật du học từ năm mười tám. Học vừa xong, thì nước mất, không còn nhà, không còn quê hương để quay về. Một sáng đầu tháng 5 năm 1975, mở mắt dậy, bỗng dưng thành một người "vô gia đình, vô tổ quốc”, Tuấn quyết định đi xa hơn nữa khi Mỹ cấp free p*** vào Hoa Kỳ cho các sinh viên VN đang du học ở các nước tự do trên thế giới vào thời điểm tháng 4 năm 1975. Tuấn ổn định đời sống ở Mỹ từ năm 1976. Phiêu bạt từ Việt Nam qua Nhật, rồi Mỹ, ở đâu người bạn thân của Vinh cũng mang theo hình ảnh hiền hòa, thâm trầm như nhân vật cùng tên trong "Tuấn chàng trai nước Việt".

Tấn đậu tú tài, vào Không quân, được đi tu nghiệp ở Mỹ, về nước chưa kịp đóng góp nhiều cho đất nước thì "chim gãy cánh mây ngừng trôi ", Tấn vô tù vì vận nước, rồi trở về làm đủ mọi nghề để sống đến khi được qua Mỹ theo diện HO, là người đến đất nước tự do muộn màng nhất trong lớp.

Cả một cái lớp tứ hai ở Ngô Quyền xưa lưu lạc khắp nơi trên thế giới, gần một phần tư lớp hội tụ ở San Jose, mỗi lần gặp nhau vui hơn Tết, chuyện trò râm ran, tiếng cười vang lên như ngày xưa còn ở tuổi ăn chưa no, lo chưa tới ở quê nhà.

Nhưng vui nhất là lần Vinh gặp thầy Hợp, thầy dạy Toán năm đệ tam ở quê nhà. Thầy định cư ở Mỹ vảo thập niên 90s, lúc đó cộng đồng Việt Nam ở vùng thung lũng điện tử San Jose đã quần tụ khá đông. Chân ướt chân ráo ở quê người, chưa có xe, từ nhà, Thầy đi hai chuyến xe bus đến khu vực thuơng mại đông đúc nhất của người Việt ờ San Jose, lấy một tờ báo quảng cáo để tìm một ông bác sĩ đồng hương ở quê người. Và thầy tìm ra cậu học trò thông minh, hiền lành năm xưa đang hành nghề "lương y" ở một con đường yên tĩnh gần downtown. Trong mục quảng cáo của một tờ báo VN, trong danh sách các Bác sĩ Việt Nam ở San Jose, thầy Hợp tìm thấy tên của cậu học trò thông minh, hiền lành ở cù lao Phố, Biên Hòa ngày xưa. Bao nhiêu năm đứng trên bục giảng ở nhiều trường Trung học lớn ngày xưa, như một người lái đò đưa hàng ngàn người khách qua sông; có một vài khuôn mặt, vài cái tên Thầy không hề quên.

Gần như chắc chắn đó lả học trò cũ của mình ngày xưa, nhưng muốn dành cho cho Vinh một bất ngờ, thầy Hợp vẫn gọi điện thoại lấy hẹn, đến văn phòng đúng giờ, lảm việc với mấy cô thư ký, điền hồ sơ cho một bệnh nhân mới, rồi kiên nhẫn ngồi đợi như bao nhiêu người khác.

Gần cuối buổi làm việc, Vinh được cô thư ký chuyển vào hồ sơ của bệnh nhân kế tiếp. Nhìn cái folder màu vàng nhạt còn mới toanh của một bệnh nhân mới, Vinh liếc qua tên bệnh nhân, và độ tuổi, cùng giới tính. Tên viết theo lối Mỹ, first name, last name, initial middle name, nên Vinh không hề nghĩ đó là thầy dạy Toán của mình thời trung học.

Vinh rời phỏng làm việc của mình, đẩy cửa vào phòng có bệnh nhân, và thả rơi cái folder xuống nền nhà, không tin vào mắt mình. Cứ như một giấc mơ, thẩy dạy Toán Nguyễn Thất Hợp của năm đệ tam đang ngồi cạnh bàn khám bệnh ở San Jose, California, chứ không phải cạnh bàn giáo sư của trường Ngô Quyền Biên Hòa như hai mươi năm trước. Thầy vẫn vậy, chỉ già đi theo năm tháng (như người Mỹ vẫn gọi là aging process) chứ không thay đổi. Ánh mắt nghiêm nghị vẫn còn, lấp lánh sau tròng kính trắng. Vinh quên hết nhiệm vụ của mình, quên hết mình đang khám bệnh, quên là mình đã ở xa quê nhà cả một đại dương, mừng rỡ chào Thầy, vẫn cung kính như ngày xưa còn là học trò trung học.

Từ đó, thầy Hợp được học trò chăm sóc sức khỏe rất chu đáo. Không biết vì bản chất Thầy vốn khỏe mạnh, vì Vinh chăm sóc cho Thầy không chỉ bằng kiến thức chuyên môn của một bác sĩ, mả còn bằng tấm lòng của một người học trò cũ, hay vì cả hai lý do, thầy Hợp trông khỏe mạnh và trẻ hơn so với những người cùng độ tuổi.

****

Tưởng đó là lần hạnh ngộ vui nhất trong đời ở phòng khám bệnh, nhưng có một lần khác, ngạc nhiên òa vỡ lớn hơn, đưa Vinh về với vị mặn của gió biển, với lần duy nhất hành nghề y khoa dã chiến giữa trời nước mênh mông.

Đó là một ngày mùa hè, ngày dài đến hơn 14 tiếng, bóng nắng vẫn còn lung linh trên hàng cây cổ thụ ven đường, Vinh đã cởi áo blouse trắng, chuẩn bị về thì cô thư ký gọi vào cho biết có người quen cũ, đến từ Châu Âu kiên nhẫn đợi đến lúc bệnh nhân cuối cùng rời phòng mạch để được gặp bác sĩ Vinh.

Vinh đặt chìa khóa xe vào lại ngăn kéo, nhờ cô thư ký mời khách vào phòng làm việc. Đó không phải là một người khách, mà là một gia đình gồm ba người. Hai vợ chồng đã qua tuổi trung niên, và một cô thiếu nữ chắc vẫn cỏn trong độ tuổi hai mươi. Vinh cố lục lạo trí nhớ của mình để nhớ ra người quen nhưng vẫn không nhận ra được khách là ai?

Vinh mời khách ngồi, nhã nhặn:

- Xin lỗi, tôi có thể giúp gì được cho quý vị?

Người đàn ông mở lời, giọng Saigon rất thân quen:

- Thưa bác sĩ, chúng tôi từ Ý đưa bé Biển đến thăm bác sĩ, và để cảm ơn bác sĩ đã lo cho mẹ con cháu chu đáo trên biển đông năm xưa.

Vinh tròn mắt ngạc nhiên:

- Ô, anh chị ngày xưa trên con thuyền vượt biển tháng 6 năm 1979 từ Long Hải, Vũng Tàu.

Ngưởi đàn bà cười tươi tiếp lời bằng giọng Huế nhẹ nhàng:

- Thưa đúng rồi, bác sĩ còn nhớ chúng tôi?

- Không những chỉ nhớ mà còn phục sự can đảm chịu đựng của chị năm xưa khi sanh con đầu lòng trên sàn tàu vượt biển không có ánh sáng, không có thuốc men, không có cả dụng cụ.

Đó là lần hội ngộ với một bệnh nhân cũ bất ngờ, cảm động nhất của Vinh.

****

Từ chiếc tàu buôn của Ý năm xưa, 68 thuyền nhân, cộng với "công dân của đại dương", bé Biển, được đưa về trại tỵ nạn Pulau Bidong của Malaysia. Từ đó, họ đi định cư ở nhiều nước khác nhau. Vinh định cư ở Mỹ. Gia đình nhỏ ba người của bé Biển đi Ý vì cảm kích lòng tử tế của thủy thủy đoàn trên thương thuyền của Ý, và vì bé Biển mang quốc tịch Ý.

Từ đó, bận rộn với cuộc sống mới với một khởi đầu mới ở quê người, Vinh không còn dịp liên lạc với bất cứ một thuyền nhân nào trên chuyến tàu vượt biển năm xưa.

Gia đình bé Biển đến Ý, ổn định cuộc sống. Họ làm hôn thú cho mình và khai sinh cho con ở Ý. Trên khai sinh, tên của bé Biển là Nguyễn Thị Đại Dương. Và như một kỷ niệm suốt đời mang theo, sợi dây chuyền với chiếc mỏ neo bằng vàng luôn nằm trên cổ em từ lúc chỉ mới vài ngày tuổi. Vài năm sau, họ có thêm một cậu con trai sinh ở Rome, vẫn có cái tên Việt Nam là Nguyễn Thái Bình, tên Ý là Grato (nghĩa là cảm ơn). Đó là cách để họ nhớ đến Thái bình dương với ân tình từ rất nhiều người cả Việt Nam lẫn Ý.

Cho đến một ngày nọ, tin tức địa phương từ một tờ báo về chuyện một ngưởi thuyền trưởng tài ba, nhân từ về hưu sau hơn 30 năm lênh đênh trên các đại dương, giúp họ tìm ra vị thuyền trưởng đã cứu vớt con tàu nhỏ bé năm xưa của những người Việt Nam tỵ nạn. Họ tìm đến gặp ông, và lần này đã có thể nghe ông kể lại câu chuyện và tâm trạng của ông năm xưa bằng tiếng Ý. Sau đó, họ được ông tặng tấm hình chụp con tàu tỵ nạn dạo nào, trên đó có họ gầy yếu xanh xao, có đứa con đầu lòng, bé Biển hãy còn đỏ hỏn, không có sữa uống, được nuôi bằng nước cháo.

Tấm hình được họ mang đến tiệm, nhờ chuyển qua dạng một cái plaque treo tường. Họ làm cho mình một, và một plaque thứ hai để dành tặng cho ông bác sĩ trẻ năm xưa giúp bé Biển chào đời an toàn trên sàn tàu vượt biên.

Bước vào thế kỷ 21, khoa học phát triển, google search giúp họ tìm ra bác sĩ Vinh. Vì ngày xưa trước lúc rời trại tỵ nạn, họ có hỏi thăm tên họ của Vinh. Nhờ một người bạn ở San Jose giúp đỡ thêm, họ đưa bé Biển, đã là một Bác sĩ sản khoa ở Ý, qua Mỹ thăm Vinh.

Cô bác sĩ trẻ người Ý gốc Việt nói với ông bác sĩ đã qua tuổi trung niên người Mỹ gốc Việt, bằng tiếng Việt rõ ràng, khúc chiết với giọng Huế pha Saigon:

- Thưa bác, con cảm ơn bác đã giúp cho con chào đời an toàn trên biển. Nghe ba mẹ con kể lại, và nhớ ơn bác năm xưa, con đã học sản khoa. Có lẽ suốt đời con không có cơ duyên đặc biệt như bác đã làm ngày con ra đời. Nhưng con nhớ hoài chuyện đó và vẫn kể cho bệnh nhân của con nghe khi họ sắp chuyển dạ để giúp họ thêm can đảm.. Con cảm ơn bác rất nhiều.

****

Thay cho lời kết:
Năm 2011, trong một lần đến họp và tập hát chuẩn bị cho hội ngộ cựu học sinh Ngô Quyền toàn thế giới lần thứ 2, ở phòng mạch của bác sĩ HQM, một đàn anh Ngô Quyền, chúng tôi thấy một plaque hình thuyền vượt biển khá đẹp, và được nghe kể lại một chuyện cảm động trên tàu thời đó.

Tấm plaque treo tường với chiếc ghe nhỏ bé chơ vơ giữa biển xanh đã thu hút sự chú ý của chúng tôi, một cựu thuyền nhân. Có những tình cờ trong cuộc sống để lại một dấu ấn suốt đời mang theo. Xin được ghi lại vài nét của một trong những chuyện không bao giờ quên trong lịch sử thuyền nhân. Hy vọng đời sống luôn có những người trọng tình nghĩa như những nhân vật trong chuyện, và những hạnh ngộ bất ngờ luôn luôn làm cho đời sống đẹp hơn.

(Viết từ một bức hình ở phòng mạch của BS Huỳnh Quan Minh. Thung lũng hoa vàng- đầu mùa xuân 2015)

Nguyễn Trần Diệu Hương
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23734
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/Apr/2015 lúc 4:27am
Con Bần 1  <<<<<

Con Bần 2  <<<<<

Nhã Ca

Duyên diễn đọc






Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 14/Apr/2015 lúc 4:40am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23734
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 18/Apr/2015 lúc 7:33am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 158 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 1.710 seconds.